Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023

Dòng tộc Ernest Hemingway

Dòng tộc Ernest Hemingway

Trong bài "Cái chết bi thảm" người ta thấy sự nghiệp văn chương của Ernest Hemingway thật bát ngát, tỏa sáng nhiều ngã rẽ, nhưng trong cuộc sống tình cảm, riêng tư của nhà văn từng đoạt giải nổi tiếng Pulitzer và Nobel trong hai năm liên tiếp 1953 và 1954, cũng có nhiều sắc nét bao trùm mọi mặt mà khó một ai có được. Có đào sâu vào từng góc cạnh một mới khám phá thấy sự toàn diện của một con người có một cuộc sống thật lãy lừng nhưng chứa chan không thiếu đớn đau. Thử trở lại vấn đề để tìm hiểu.(Nhật Thịnh, Cái chết bi thảm, Đất Đứng số 445, ngày 18.2.2011)
Thì như ai nấy đều thấy sự sống bay nhảy của Ernest Hemingway, như không chịu dừng chân ở bất cứ đâu lâu, đã tự tạo cho mình một cuộc sống đa dạng ở khắp mọi ngã rẽ, vì thế những tác phẩm của Ernest Hemingway đã phong tỏa mọi mặt của đời người. Là con một bác sĩ, theo học xong bậc trung học, đã không theo học tiếp đại học mặc dù khả năng và phương tiện đều dồi dào, không thiếu thốn, Ernest Hemingway thích sống nay đây mai đó, bắt đầu làm phóng viên báo chí.
Tự nguyện tham gia Thế chiến 1, nhưng bất lực vì tình trạng sức khỏe, thị lực yếu kém vì bị thương do chơi thể thao khi còn theo học bậc trung học, được chuyển sang lái xe cấp cứu các thương binh trên đất Ý. Chiến tranh tàn lụi, Ernest Hemingway tiếp tục làm phóng viên cho báo chí Mỹ ở Âu Châu, sống ở Paris cho đến năm 1938. Việc tham gia cuộc nội chiến Tây Ban Nha và Thế chiến 2 để lại dấu ấn sâu đậm trong các sáng tác của Ernest Hemingway, đam mê săn bắn, câu cá, đấu bò rừng ở Tây Ban Nha. Năm 1936, khi Ernest Hemingway làm phóng viên săn tin về cuộc nội chiến Tây Ban Nha cho tờ North American Newspaper Alliance (Liên Minh Báo Chí Bắc Mỹ), tình bạn giữa Ernest Hemingway và John Dos Passos bị đổ vỡ, bởi bất chấp các sự cảnh báo, John Dos Passos tiếp tục đưa tin về các hành động tàn bạo của những người theo chủ nghĩa dân tộc phát xít mà Ernest Hemingway căm thù, và cả các nhà cầm quyền cánh tả của Đảng Cộng Hòa được Ernest Hemingway ủng hộ, đã vậy, Ernest Hemingway còn cho phổ biến rộng rãi câu chuyện trốn chạy sang Tây Ban Nha của John Dos Passos, coi như một hành động hèn nhát.
Lúc này, có một đồng nghiệp cộng tác với Ernest Hemingway là Herbert Matthews, sau trở nên nổi tiếng qua những phóng sự viết về Fidel Castro, đã bầy tỏ sự ủng hộ của mình đối với phe Cộng Hòa tương tự Ernest Hemingway hành động. Đầu năm 1939, Francisco Franco và những người Đảng Dân Tộc đánh bại những người Đảng Cộng Hòa, kết thúc nội chiến Tây Ban Nha. Ernest Hemingway mất đi mảnh đất quê hương được thừa kế vào tay bè đảng phát-xít của Francisco Franco.
Đến khi chung sống với người vợ thứ hai Pauline Pfeiffer, Ernest Hemingway đã chuyển sang theo Thiên Chúa giáo và tôn giáo trở thành một vấn đề đối với Ernest Hemingway trong thời gian này, thậm chí Ernest Hemingway muốn rời bỏ Giáo Hội, tuy nhiên những người bạn của Ernest Hemingway nhận thấy Ernest Hemingway có những ràng buộc khá khôi hài (funny ties) với Thiên Chúa giáo trong nửa phần sau của cuộc đời. Chiến tranh tạo căng thẳng đối với cuộc sống lứa đôi của Ernest Hemingway. Pauline Pfeffer là một Ky-Tô hữu, nghiêng về phe phát-xít, chính quyền Francisco Franco lại thân Thiên Chúa giáo, trong khi thông qua các lời bình phẩm của Ernest Hemingway, tỏ ra ủng hộ tích cực chính phủ Cộng Hòa. Trong thời kỳ này, Ernest Hemingway đã viết một bài bình luận dù cho ít được biết đến mang nhan đề "The Denunciation" (Sự Tố Cáo), phải chờ mãi đến năm 1969 mới được in trong tuyển tập "Fifth Column and Four Stories of the Spanish Civil War" (Đội Quân Thứ Năm Và Bốn Truyện Ngắn Về Nội Chiến Tây Ban Nha). Câu chuyện mang tính cách tự truyện bộc lộ cho thấy Ernest Hemingway được đánh giá như người đào tạo vũ khí (weapons instructor) trong chiến tranh. Thời kỳ này cuộc sống của Ernest Hemingway ảnh hưởng nhiều bởi một số những vấn đề về sức khỏe: nhiễm bệnh thán thư (anthrax), giải phẫu mắt, thương tật ở trán, cúm (flu), đau răng, trĩ, thận bị rắc rối khi đi đánh cá, rách cơ vùng bẹn, gãy ngón tay từ ngày tập quyền anh, rách tay, chân, mặt khi phi ngựa qua rừng Wyoming và gãy tay trong một tai nạn xe hơi.  
    
Những năm gần đất xa trời, Ernest Hemingway dừng chân phiêu lãng, sống ở Cuba. Sau cái chết bằng súng săn tại nhà riêng ở Ketchum, Idaho, trong chuyến trở về Hoa Kỳ chữa trị bệnh, dư luận cho rằng Ernest Hemingway mua khẩu súng săn của Boss & Co, khẩu súng được sử dụng tự sát, tại Abercrombie & Fitch, sau trở thành một cửa hàng bán lẻ các đồ dùng phục vụ dã ngoại và cung cấp các loại súng cầm tay. Đó là vụ tự sát khủng khiếp, Ernest Hemingway đặt báng của khẩu súng săn hai nòng trên sàn nhà, tựa trán mình lên họng súng và kéo cò. Nhân viên điều tra theo yêu cầu của gia đình không tiến hành khám nghiệm tử thi.
Ernest Hemingway an nghỉ tại một nghĩa trang phía bắc thị trấn Ketchum, Idaho. Một bia tưởng niệm dựng năm 1966, tại một địa điểm khác, nhìn ra Trại Creek, phía bắc Ketchum, trên khắc bài thơ của Gene Van Guilder viết tặng Ernest Hemingway:
Best of all he loved the fall
The leaves yellow on the cottonwoods
Leaves floating on the trout streams
And above  the hills
The high blue windless skies
Now he will be a part of them forever
Ernest Hemingway - Idaho - 1939
(Phỏng dịch: Trên tất cả anh yêu mùa Thu - Những chiếc lá nhuộm vàng những cây bông vải - Những chiếc lá trôi theo những dòng cá hồi -  Và ở phía trên những ngọn đồi - Những khỏang trời cao xanh lặng gió - Giờ đây anh sẽ mãi mãi là một phần của chúng)
Và để tưởng nhớ tình yêu Ernest Hemingway dành cho Idaho và vùng ngoại vi  nơi đây, hàng năm Lễ Ernest Hemingway được tổ chức tại Ketchum và Sun Valley vào cuối tháng 9 với sự có mặt của những nhà nghiên cứu văn học, một buổi diễn thuyết dành cho người được trao giải PEN - Hemingway và nhiều tiết mục khác như du lịch thăm viếng di tích lịch sử, những đêm gặp gỡ và buổi liên hoan tại nhà Ernest Hemingway ở Warm Springs, nay do Ủy ban Bảo vệ Tự nhiên tại Ketchum điều động.
Sau khi Ernest Hemingway tự sát, những người gần gũi nhất trong gia đình của Ernest Hemingway cũng quyết định tự sát, trong số đó có thân sinh của Ernest Hemingway - Clarence Hemingway (1871-1928 - chị và em gái Ursula Hemingway, Leicester Hemingway, cháu gái Margaux Hemingway. Người ta tin rằng một vài người trong dòng họ nhiễm bệnh di truyền haemochromatosis (một dạng của bệnh tiểu đường - bronzediabetes) trong đó sự dư thừa tập trung sắt trong máu gây tổn thương tuyến tụy tạng, gây ra sự suy nhược hay bất ổn định trong não bộ. Clarence Hemingway phát bệnh haemochromatosis trong thời gian trước khi tự sát ở tuổi năm mươi chín. Trong suốt cuộc đời Ernest Hemingway luôn uống nhiều rượu, những năm cuối đời bị bệnh nghiện rượu nặng (alcoholism), không thể kháng cự trong những năm tiếp theo, do đó rơi vào tình trạng rối loạn tâm lý.
Nhà văn thường cô đơn, âu đây là nguyên nhân khiến họ tìm đến các quán rượu từ lịch sự, sang trọng đến tồi tàn để đàm đạo, say sưa túy lúy. Quán The Ritz xem như quán rượu yêu thích của Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald, ngày nay nổi tiếng là nơi xa hoa, đắt đỏ. Nội thất bằng gỗ, ghế bọc da và những loại cocktail độc nhất vô nhị. Tại đây chủ quán còn lưu giữ rất nhiều hình ảnh của Ernest Hemingway như muốn chứng minh sự có mặt thường xuyên của Ernest Hemingway ở nơi đây. Không những vậy The Ritz bây giờ đã được đặt bằng cái tên mới thích hợp hơn là The Hemingway Bar và vẫn là điểm hẹn lý tưởng của các đệ tử lưu linh. Mặc dù vậy, ngày nay, nếu túi tiền của Ernest Hemingway có xông xênh như thập niên 20 của thế kỷ trước, khi sống ở Paris - thời kỳ đã được kể lại trong thiên hồi ký "A Moveable  Feast" (Hội Hè Miên Man) - thì Ernest Hemingway khó có đủ tiền để trang trải cho những ly cocktail đặc biệt tại The Ritz nếu không có sự hỗ trợ của F. Scott Fitzgerald giàu tiền hơn.
Sau nhiều tháng năm khi rời Paris, Ernest Hemingway chọn El Floridita ở Havana làm nơi say sưa túy lúy, thường xuyên đến độ trở thành khách hàng đặc biệt của quán này, Ernest Hemingway được dành riêng một ghế ngồi cho đến bây giờ - hơn nửa thế kỷ sau khi qua đời. Đã vậy một bức tượng Ernest Hemingway kích thước lớn như người thật được đem dựng tại quán. El Floridita phục vụ khách hàng coctail và nhiều thực đơn hải sản, đặc biệt có thứ daiquiri, hỗn hợp của rượu rhum, nước chanh và đường ướp lạnh.
Trong khi Ernest Hemingway chìm trong daiquiris thì những đồng nghiệp của Ernest Hemingway lại say sưa với whisky tại quán The White Horse ở Manhattan. Đây được xem như một trong các quán cổ nhất tại địa phương được nhiều thế hệ các nhà văn lui tới trong số đó có Anais Nin, Norman Mailer và nhiều nhà văn khác say sưa giết thời gian với whisky. Sôi nổi nhất phải nhắc tới trường hợp nhà thơ Dylan Thomas đã dùng rượu để chấm dứt cuộc đời mình sau khi đã uống hết 18 ly whisky. Ernest Hemimgway luôn có mặt tại đây, trong khi F. Scott Fitzgerald được xếp đứng theo sau. Họ nổi tiếng say khướt trong quá trình sáng tác. The White Horse tiếp tục là một quán thân thuộc của dân địa phương, sinh viên và các độc giả yêu thích văn học. Eric Chase, giám đốc Greenwich Village Literary Pub Crawl cho rằng những người chịu bỏ ra 15 mỹ kim để lui tới những nơi như The White Horse thường là những kẻ rình rập để thu lượm những scandal nhơ nhóp. Eric Chase cho biết thêm vào đầu thế kỷ 20 là thời kỳ độc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ không bao giờ lặp xét lại các hoạt động xã hội và điều kiện kinh tế. Đây có lẽ là khoảng thời gian cuối cùng giới nghệ sĩ có thể sống khiêm tốn mà không cần lao lực bằng nghề tay trái. Tất nhiên người ta thích các nơi xa hoa hơn các nơi bình dân như quán Algonquin, vẫn tụ tập thường xuyên Dorothy Parker, Robert Benchley, Robert E. Sherwood...hay quán Eagle & Child với C.S. Lewis, J.R.R. Tolkien...Hoặc quán nhỏ bé Davy Byrnes ở Dublin có mặt thường trực những nhà văn lớn như James Joyce, Samuel Beckett ghé thăm.
Trong tác phẩm "A Drinking Companion: Alcohol and Writers' Lives" (Bầu bạn với rượu: Ma men và cuộc sống của những nhà văn) Kelly Boler cho biết có nhiều nhà văn tìm đến rượu khi họ đang ở đỉnh cao chót vót của danh vọng. Tuy nhiên so với những ngôi sao đang lên hiện nay thì sự nổi danh đó chưa thực sự thỏa mãn được cái tôi của họ. Kelly Boler cho rằng trong thế giới văn chương, nơi trường văn trận bút họ thuộc loại thiên tài, nhưng do bản chất thầm lặng của hoạt động sáng tác, họ ít được nghe thấy tiếng vỗ tay, những lời tán dương, điều đó đã khiến cái tôi tự đại của họ không được vỗ về.
Ernest Hemingway (1899-1961) là người viết tiểu thuyết, nhà văn viết truyện ngắn, nhà báo xông xáo từng đoạt giải Pulitzer năm 1953 và giải Nobel Văn Học năm 1954 với tiểu thuyết mang nhan đề"The Old Man and The Sea" (Ông Già và Biển Cả). Văn phong Ernest Hemingway nổi bật với cách viết cô đọng, chứa đựng nhiều ẩn dụ và ảnh hưởng sâu sa đến sự phát triển lối viết tiểu thuyết của thế kỷ 20. Nhân vật chính trong truyện của Ernest Hemingway thường bao gồm các anh hùng có khả năng khắc kỷ cao, coi như hình ảnh của chính Ernest Hemingway đã từng bôn ba khắp mọi vùng đất trên thế giới từ đỉnh núi Kilimanjaro quanh năm tuyết phủ, biển Thái Bình Dương sóng to gió lớn đến các khu rừng nhiệt đới Nam Mỹ đầy bí hiểm. Ernest Hemingway người đề xướng nguyên lý"tảng băng trôi", một phong cách văn học độc đáo. Cuộc đời, số phận, tình yêu của Ernest Hemingway như một thiên tiểu thuyết gồm nhiều chương hồi hấp dẫn, bí ẩn và ly kỳ. Mỗi giai đoạn sáng tác của Ernest Hemingway dường như gắn liền với hình bóng một người đàn bà được coi như một chất xúc tác tạo dựng nên những cuốn tiểu thuyết có đầy sức lôi cuốn, thuyết phục. Đó có thể là hình ảnh cô y tá nơi chiến trường khét lẹt mùi thuốc súng, chát chúa tiếng súng đạn, nàng phóng viên xinh tươi, năng động hay đơn giản chỉ là người bạn tâm thư.
Câu chuyện tình đầu của Ernest Hemingway diễn ra hấp dẫn trong bối cảnh của Thế chiến 1, Ernest Hemingway bị thương nặng ở chiến trường, được một nữ y tá gốc Anh Agnes Von Kurowsky lớn hơn tới sáu tuổi chăm sóc tận tình. Ernest Hemingway yêu say đắm Agnes Von Kurowsky, ngược lại Agnes Von Kurowsky cũng tỏ ra quyến người lính trẻ dũng cảm có khiếu hài hước đó. Nhưng quan hệ của họ bị tan vỡ bởi Ernest Hemingway phải quay trở về Hoa Kỳ. Thay vì về nước cùng với Ernest Hemingway như dự định lúc ban đầu, thề non hẹn biển, Agnes Von Kurowsky trót yêu một sỹ quan người Ý. Dấu ấn đó đã tạo cảm hứng cho Ernest Hemingway cấu tạo nên cuốn tiểu thuyết đầu tay "A Farewell to Arms"  (Giã Từ Vũ Khí)
Câu chuyện tình thứ hai thể hiện qua thư giữa Ernest Hemingway và cô ca sĩ, diễn viên Marlene Dietrick, tình cờ gặp nhau trên một chuyến tàu biển năm 1934, và trong thời gian quen biết nhau đó họ trao đổi hơn 30 bức thư lời lẽ nồng nàn thương yêu. Ngoài đời họ chưa vượt quá giới hạn của sự quen biết, giữ mối quan hệ bằng niềm tin đẹp.
Câu chuyện tình thứ ba cho đến bây giờ còn trong vòng bí ẩn, họa chăng có Ernest Hemingway mới giải đáp được. Thuở ấu thơ, Grace Hall Hemingway (1872-1951) rất mong muốn có con gái, nên thường gọi Ernest Hemingway là Ernestine và cho Ernest Hemingway vận y phục con gái. Vì thế sau này người ta thấy một số trong các tác phẩm của Ernest Hemingway có mang dấu ấn của sự rối loạn giới tính và khủng hoảng quan hệ nam nữ. Tháng 4.1925, Ernest Hemingway gặp nhà văn danh tiếng F. Scott Fitzgerald tại một quán rượu, quen biết nhau và trở nên tâm đầu ý hợp. Họ thường xuyên đối ẩm, trao đổi bản thảo và F. Scott Fitzgerald đã cố gắng giúp Ernest Hemingway trong sự nghiệp văn chương. Từ sự thân mật không có gì vẩn đục này, hoàn toàn trong trắng, dư luận bên ngoài đã ác ý đồn đãi ầm ỹ rằng Ernest Hemingway có những vấn đề giới tính, và còn xuyên tạc những sự công kích thường xuyên những đối tượng đồng tình luyến ái như Jean Cocteau của Ernest Hemingway chỉ là bức bình phong che đậy bản năng đồng tình luyến ái sâu thẳm trong bản thân Ernest Hemingway.
Ernest Hemingway sở hữu tính cách độc đáo, đời sống nội tâm phức tạp, đôi khi còn tỏ ra khó hiểu với quan điểm sống hết mình với đời, với người, chẳng hạn khi tuyên bố: "Sống để yêu, yêu để sống". Ernest Hemingway kết hôn cả thẩy bốn lần, ngoại trừ người vợ cuối cùng đã ở trọn đời với Ernest Hemingway: 1-Elizabeth Hadley Richardson sinh một trai John Hadley Nicanor (1923-2000), ba cháu Joan, Margaux (1954-1996), Mariel  (1961), 2-Pauline Pfeiffer sinh hai trai Patrick Hemingway, Gregory Hemingway (1931-2001), chín cháu, Mina  (con của Patrick), Patrick, Edward, Sean, Bresson, Manessa, Maria, John, Lorian (con của Gregory) 3-Martha Gelhorn, không sinh con, 4-Mary Welsh, sảy thai do thụ thai ngoài dạ con (estopic pregnancy) nhưng đều là các mối tình lãng mạn, giàu cảm xúc, khiến cho các nhà báo không ngớt điên đầu. Ernest Hemingway đa tình nhưng tình cảm dành cho các bà vợ đều chân thành, sâu đậm, thương yêu hết mực.

Những tác phẩm đầu tay xuất bản ở Paris "Three Stories and Ten Poems" (Ba Truyện Ngắn và Mười Bài Thơ) 1923, "In Our Time" (Trong Thời Đại Chúng Ta) 1924 cho thấy tài năng và phong cách độc đáo của Ernest Hemingway, thực sự chỉ nổi tiếng với những tiểu thuyết "The Sun Also Rises" (Mặt Trời Vẫn Mọc) 1926, "A Farewell to Arms"  (Giã Từ Vũ Khí) 1929 diễn tả cuộc sống và tâm trạng của lớp thanh niên trong và sau chiến tranh, tiêu biểu cho loại văn chương mà những nhà phê bình thường mệnh danh văn chương của"thế hệ lạc lõng" (lost generation), có ý nghĩa phản kháng đối với chiến tranh đế quốc, đem lợi nhuận cho các trùm tư bản và tạo đau khổ cho tầng lớp dân chúng khác. Những tập truyện đầu trong các năm 1930 như :"Death in The Afternoon" (Chết Lúc Hoàng Hôn) 1932,"The Greens Hills of Africa" (Những Đồi Xanh Châu Phi) 1935 viết về truyện đấu bò rừng và các cuộc đi săn  của Ernest Hemingway nhưng chưa được coi là xuất sắc lắm, trong khi đó có nhiều truyện ngắn của thời kỳ này được đánh giá như các kiệt tác như "The Short and Happy Life of Francis Macomber" (Cuộc Đời Ngắn Ngủi và Hạnh Phúc của Francis Macomber) 1930, "The Snow of the Kilimanjaro" (Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro) 1936.
Tình hình thế giới nửa sau các năm 1930 và sự tham gia của Ernest Hemingway vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít đã tạo một bước ngoặc trong sáng tác của Ernest Hemingway. Tiểu thuyết "To Have and Have Not" (Có và Không Có) 1937 mạnh mẽ lên án xã hội tư bản Mỹ. Vở kịch dài duy nhất "The Fifth Column" (Đội Quân Thứ Năm) 1938, có bốn mươi chín tựa truyện được xuất bản trong tuyển tập "The Fifth Column and the First Forty-Nine Stories" (Đội Quân Thứ Năm và Bốn Chín Truyện Đầu), nhiều truyện trong tuyển tập này thấy rải rác trong các tuyển tập "In Our Time" (Trong Thời Đại Chúng Ta) 1925, "Men Without Women" (Đàn Ông Không Đàn Bà) 1927, "Winner Take Nothing" (Kẻ Thắng Chẳng Được Gì) 1933, "The Snows of Kilimanjaro" (Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro) 1936 Một số truyện đặc sắc của tuyển tập là"Old Man at the Bridge" (Ông Già Trên Cây Cầu), "On The Quai at Smyrna" (Trên cảng ở Smyma),"Hills Like White Elephants" (Những Ngọn Đồi Như Những Con Voi), "One Reader Writers" (Một Độc Giả Viết), "The Killers" (Những Kẻ Sát Nhân), "A Clean, Well-Lighted Place" (Một Nơi Sạch Sẽ, Sáng Sủa). Bên cạnh những truyện ngắn này, tác phẩm còn gồm một số truyện dài hơn, trong số đó có những tập được in ra sau khi mất, hồi ký về cuộc sống ở Paris, "A Moveable Feast" (Ngày Lễ Đổi Ngày) 1964; tuyển tập những bài báo "By-Line" (Giữa Hàng) 1967, tiểu thuyết dang dở "Islands in the Stream" (Những Hòn Đảo Giữa Hải Lưu), 1970, khẳng định vị trí hàng đầu của Ernest Hemingway coi như một nhà văn xuất sắc của văn học hiện đại Hoa Kỳ. Ernest Hemingway tiếp tục sáng tác cho tới khi mất, hầu hết các tác phẩm đơn lẻ đã được xuất bản sau khi qua đời gồm có "A Moveable Feast" (Ngày Lễ Đổi Ngày) 1964, "Islands in the Stream" (Những Hòn Đảo Giữa Hải Lưu) 1970, "The Nick Adams Stories" (Những Truyện của Nick Adams) 1972, "The Dangerous Summer" (Mùa Hè Nguy Hiểm) 1960, "The Garden of Eden" (Vườn Địa Đàng), "True at First Light" (Sự Thật Lúc Bình Minh) 1999...
Trong lời tựa của tác phẩm"Islands in the Stream" (Những Hòn Đảo Giữa Hải Lưu), bà vợ thứ tư Mary Welsh Hemingway tiết lộ đã cùng Charles Scribner Jr. "chuẩn bị xuất bản những tác phẩm từ bản thảo gốc của Ernest Hemingway", còn cho biết"Ngoài việc vẫn thường làm là sửa lỗi chính tả và dấu câu, chúng tôi cũng cắt một số chỗ trong bản thảo mà chúng tôi cảm thấy chắc chắn rằng nếu còn sống ông ấy cũng sẽ làm vậy. Tất cả nội dung cuốn sách vẫn là của Ernest Hemingway. Chúng tôi không hề thêm thắt gì hết."  Còn có một số tranh cãi xảy ra chung quanh việc xuất bản những tác phẩm này, cho rằng không cần thiết có sự quyết định của người thân Ernest Hemingway hay các nhà xuất bản đối với việc có hay không đưa trình làng những tác phẩm này ra công chúng. Chẳng hạn, một số học giả phản đối việc tác phẩm "The Garden of Eden" (Vườn Địa Đàng) được Charles Scribner's Sons xuất bản năm 1986, mặc dù chắc chắn nguyên bản của Ernest Hemingway, nhưng bị cắt xén mất hai phần ba so với bản thảo.
Ảnh hưởng văn phong của Ernest Hemingway tới văn học Hoa Kỳ thực rất to lớn, thậm chí cho đến bây giờ James Joyce gọi tập "A Clean, Well Lighted Place" ( Một Nơi Sạch Sẽ Sáng Sủa) là "một trong số những truyện hay nhất từng được viết". Truyện này ảnh hưởng nhiều đến Edward Hopper. Hunter S. Thompson thường đem bản thân mình ra để so sánh với Ernest Hemingway, tìm thấy câu văn ngắn gọn kiểu Ernest Hemingway (terse Hemingway-esque sentence) trong tập "The Rum Diary" của Hunter Thompson. Bởi vậy, không một ai thấy ngạc nhiên trong suốt cuộc đời, Ernest Hemingway đoạt được nhiều giải thưởng vinh danh về mọi lãnh vực: 1-Silver Medal Of Military Valor (Huân chương tặng cho sự dũng cảm=Medaglia d'Argento) Thế chiến 1; 2-Bronze Star Medal (Huân chương Sao đồng dành cho phóng viên chiến trường trong Thế chiến 2; 3-Giải Cống Hiến của Học viện Văn học Nghệ thuật Hoa Kỳ 1954; 4-Giải Pulitzer đoạt năm 1953; 5-Giải Nobel Văn Học năm 1954; 5-Hai huy chương cho đấu sĩ bò tót. Năm 1978, một tiểu hành tinh tìm thấy tại Liên hiệp Xô-Viết do nhà thiên văn học Nikolai Stepanovich Chernykh, đã được đặt theo tên Ernest Hemingway - 3656 Hemingway.  Ngày 17.7.1989, Sở Bưu Chính Hoa Kỳ phát hành loại tem 25 cent để vinh danh Ernest Hemingway.
Về gia đình, ngoài cha (Clarence Hemingway (1871-1928), mẹ (Grace Hall Hemingway (1872-1951), anh chị em tổng cộng năm người: Marcelline Hemingway (1898-1928), Ursula Hemingway ( -1966), Madelaine Hemingway (1904-1995), Carol Hemingway (  -2002) và Leicester Hemingway (  -1982). Nói đến vợ, Ernest Heningway có bốn bà, người thứ nhất và thứ hai có 3 trai, người thứ ba và thứ tư không con, 12 cháu trai, gái. Đặc biệt Ernest Hemingway có thiên hướng muốn thuần phục mọi phụ nữ có sắc đẹp bắt gặp trong đời, đã như không chịu đựng nổi cảnh sống êm đềm đến tẻ nhạt.
Năm 1926, dù có trân trọng Elizabeth Hadley Richardson, nhưng Ernest Hemingway đã bước vào cuộc phiêu lưu tình cảm mới. Đối tượng của Ernest Hemingway là Pauline Pfeiffer, một người đàn bà Hoa Kỳ trẻ trung, giàu có, ái nữ của một nhà nông nghiệp, chủ hãng bia ở Arkansas. Pauline Pfeffer cùng người em gái sống ở Paris, Pháp, làm biên tập viên cho tạp chí thời trang. Hai chị em thường lui tới nhà Ernest Hemingway và Pauline Pfeffer đã tỏ ra sắc sảo trước một Elizabeth Hadley Richardson khiêm nhường bởi luôn bận bịu các mối lo gia đình. Ernest Hemingway không tự chủ được mình trước sự quyến rũ của một người đàn bà đẹp lộng lẫy như Pauline Pfeffer.
Đầu năm 1930, Ernest Hemingway trở về Hoa Kỳ, định cư tại Key West, tiểu bang Florida. Tháng 12.1931, sau khi thay đổi nhiều địa chỉ khác nhau, Ernest Hemingway khi bấy giờ có thêm một con trai Gregory Hemingway sinh ra trước đó một tháng, tậu được một biệt thự khang trang ở Key West. Pauline Pfeffer cố tạo một tổ ấm cho ông chồng đào hoa, danh tiếng bằng cách chịu chi tiền để tạo dựng một nội thất đỉnh cao. Năm 1938, Pauline Pfeffer cho xây dựng một bể bơi chứa nước biển ở ngay trong biệt thự này.
Nhưng con người Ernest Hemingway luôn khát vọng sự cố. Tháng 9.1931, trong chuyến đi New York, Ernest Hemingway làm quen đôi vợ chồng Jeane và Grant Mayson trẻ trung và giàu có. Khi đó Jeane 22 tuổi đang rực rỡ với một nhan sắc in đậm nét cổ điển. Lúc đó Tổng thống Hoa Kỳ Calvin  Coolidge gọi Jeane là người đàn bà hấp dẫn trong số những mỹ nhân đặt chân viếng Tòa Bạch Ốc. Jeane cũng như không ít phụ nữ khác đã lập tức mê đắm Ernest Hemingway, khiến Pauline Pfeffer không tránh khỏi lo lắng theo dõi sự phát triển của mối tình trái cẳng ngỗng này. Nhưng người làm Pauline Pfeffer và Ernest Hemingway ly dị nhau năm 1940 không phải Jeane mà là Martha Gelhorn,  hai người sống bên nhau vỏn vẹn có năm năm, kể từ ngày 21.1.1940 đến hết ngày 21.2.1945.
Người vợ thứ tư cũng là người vợ cuối cùng cưới ngày 14.3.1945, Ernest Hemingway quen biết từ lâu, nhưng khi dời sang Cuba sinh sống mới chính thức kết hôn. Căn phòng Ernest Hemingway sống ở khách sạn Ambos Mundos nay đã trở thành bảo tàng. Sau Ernest Hemingway rời đến sống tại một trang trại gần Havana, nơi này cũng biến thành nhà bảo tàng. Ernest Hemingway rất thích đi bộ ở Cojimar, thành phố nằm ven bờ thuộc phía Tây Havana. Nơi đây ngôi biệt thự Finca Vigia nằm cách Havana 16 cây số là nơi Ernest Hemingway sống hơn 20 năm cuối đời mình, và hơn một năm sau trở lại Hoa Kỳ, góa phụ Mary Welsh đã tặng cho Cuba theo ý nguyện của Ernest Hemingway, nay trở thành nhà bảo tàng. Trải qua 40 năm biệt thư Finca Vigia xuống cấp trầm trọng, cần tu sửa. Mái nhà bị võng khiến một phần trần nhà có nguy cơ sập, người ta phải thu dọn đồ đạc vào nhà kho. Năm 2001, nhiều người hâm mộ Hoa Kỳ - trong đó có nhiều nhà kinh doanh, diễn viên và chính khách - sẵn sàng đóng góp tiền bạc để tu bổ và bảo quản di sản của Ernest Hemingway. Tuy nhiên Hoa Kỳ đã ngăn cản việc làm này, lý do Hoa Kỳ đang áp dụng lệnh trừng phạt kinh tế với Cuba nên không thể rót tiền vào một nơi đem lại nguồn lợi du lịch lớn cho Cuba. Hồi bấy giờ có nghị sĩ đảng Dân Chủ tại Massachusetts cũng phê phán đây là một hành động "ngu ngốc". Bất chấp những điều đó, trong những năm qua nhiều chuyên gia Hoa Kỳ vẫn sang Cuba để khảo sát tình trạng của biệt thự Finca Vigia, và giúp Cuba có biện pháp bảo quản bản thảo tư liệu của Ernest Hemingway. Có những công việc của họ gặp không ít khó khăn vì Hoa Kỳ cản trở không cho họ mang sang Cuba.
Nay quỹ Finca Vigia của Hoa Kỳ và Hội đồng Di sản Văn hóa Cuba đã ký thỏa thuận hợp tác trong việc bảo quản hàng nghìn tư liệu, tác phẩm và hình ảnh của Ernest Hemingway, người đã sống tại đây 21 năm và để lại nhiều bản thảo, tư liệu các tác phẩm yêu thích, đồ dùng, huy chương giành được trong các cuộc đi săn ở Châu Phi, trong ngôi nhà Finca Vigia nằm trên một khu đồi rộng lớn, phong cảnh tuyệt đẹp, nơi Ernest Hemingway đã viết tiểu thuyết"The Old Man and The Sea", ngày nay trở thành Bảo Tàng Ernest Hemingway. Nữ Giám đốc Quỹ Finca Vìgia, Mary Jo Adams, cho biết với thỏa thuận hợp tác kéo dài ba năm, các đồ vật của Ernest Hemingway sẽ được bảo quản tốt hơn để phục vụ các nhà nghiên cứu và khách du lịch có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn đời sống và các tác phẩm của Ernest Hemingway. Trước đó Cuba và Hoa Kỳ đã hợp tác trong việc khôi phục các tác phẩm của Ernest Hemingway trong 8 năm, cho phép các nhà nghiên cứu và các chuyên gia được gần gũi với hơn 3.000 tư liệu quý của Ernest Hemingway trong đó có cả các bức thư.
Ernest Hemingway viết nhiều thư, năm 1981, đa số được Scribner cho xuất bản thành sách nhan đề "Ernest Hemingway Selected Letters" (Tuyển Tập Thư Ernest Hemingway). Việc làm này đã gặp phản ứng trái ngược, bởi trước đó Ernest Hemingway không muốn cho in những bức thư của mình. Những bức thư khác tập trung in trong một tác phẩm gồm các bức thư mà Ernest Hemingway từng trao đổi quan điểm với biên tập viên Max Perkins, tựa đề "The Only Thing that Counts" (Điều Duy Nhất Được Quan Tâm), 1996. Nay một dự án nhằm phổ biến hàng nghìn bức thư của Ernest Hemingway viết khi còn sống đang được xúc tiến xuất bản với sự phối hợp của trường Đại học tiểu bang Pennsylvania, Quỹ Ernest Hemingway. Biên tập viên là nữ giáo sư Sandra Spanier, vợ của khoa trưởng trường Đại học tiểu bang Pennylvania, Graham Spanier.
Mary Welsh lặng lẽ sống bên Ernest Hemingway cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời Ernest Hemingway, tự vận ngày 2.7.1961 bằng phát súng tự bắn từ khẩu súng yêu thích nhất của mình tại Ketchum, Idaho, khi rời Cuba trở về đây năm 1960. Đó là một ngày chủ nhật đẹp trời như mọi ngày chủ nhật khác, Ernest Hemingway dậy sớm, vào phòng làm việc, khóa cửa và tự vận, rơi vào tình trạng rối loạn tâm lý, chỉ 19 ngày trước khi tròn 62 tuổi, tìm thấy trong cái chết tình nguyện đó sự bất tử đáng khao khát nhất của kiếp nhân sinh.
Không chỉ chiến tranh, từng người đàn bà lần lượt bước vào đời Ernest Hemingway, đều gợi lên những cảm hứng sáng tạo phong phú, viết nên những tác phẩm bất tử vượt không gian và thời gian. Agnes Von Kurowsky tạo cho Ernest Hemingway niềm say mê dựng nên tiểu thuyết"A Farewell to Arms" (Giã Từ Vũ Khí) 1929, bản Việt ngữ của Nguyễn Lương Sắc do Gió Bốn Phương in năm 1964, bản của Hoàng Lê do Văn Học in năm 1993, bản của Hồ Nguyên do Nhị Hà in năm 1974, bản của Giang Hà Vị do Mũi Cà Mâu in năm 1977 và Văn Hóa Thông Tin tái bản năm 1987.
Người vợ thứ ba Martha Gelhorn gây hứng cảm cho Ernest Hemingway tạo dựng tiểu thuyết "For Whom The Bell Tolls" (Chuông Nguyện Hồn Ai) 1940, bản Việt ngữ của Huỳnh Phan Anh được Gió xuất bản năm 1972, Văn Học tái bản năm 1995, bản của Nguyễn Vĩnh - Hồ Thể Tần do Văn Học, Long An in năm 1987, 2001, 2004.
Và người tình xinh tươi, trẻ trung gốc Ý Andriana Ivancich, được Ernest Hemingway đề tặng truyện "The Old Man and The Sea" (Ông Già và Biển Cả) 1999, đem lại cho Ernest Hemingway giải Pulitzer  năm 1953, và giải Nobel Văn Học năm 1954. Tiểu thuyết này được nhiều tác giả dịch sang Việt ngữ, sơ sơ thấy bản của Huy Phương do nhà xuất bản Văn Học, Văn Nghệ in trong năm 1999, 2000, 2002;  bản của Mặc Đỗ do nhà xuất bản Quan Điểm, Cảo Thơm, Đất Sống xuất bản năm 1955, 1956, 1966, 1973; bản của Bảo Sơn do nhà xuất bản Gió Bốn Phương in năm 1974; bản của Lê Huy Bắc do nhà xuất bản Kim Đồng, Đại Học, Trung Tâm Văn Hóa Đông Tây, Văn Học xuất bản năm 2000, 2001, 2002, 2006; và bản của Vương Đăng do nhà xuất bản Văn Hóa in năm 2005.   
Một gia đình nhân số đông đảo vậy của Ernest Hemingway, tất nhiên dòng họ sinh sôi nảy nở nhiều, và không tránh khỏi có nhiều phức tạp trong cuộc đời. Dree Hemingway sinh trong gia đình sản sinh nhiều huyền thoại của Hoa Kỳ, ông ngoại là Ernest Hemingway, một nhà văn nổi tiếng, cô ruột Margaux Hemingway là người mẫu tiếng tăm, mẹ là diễn viên của kinh đô chiếu bóng Hollywood, Mariel Hemingway, đạt nhiều thành công trong sự nghiệp điện ảnh. Năm 1976, Mariel Hemingway nổi tiếng trong vai diễn phim Manhattan của đạo diễn Woody Allen, mang lại giải thưởng Oscar danh giá cho nữ diễn viên phụ xuất sắc. Ngoài ra, Mariel Hemingway từng xuất hiện trên bìa tờ Playboy, và đã đóng vai người mẫu playboy nổi tiếng Dorothy Stratten trong phim Star 80 năm 1983, còn xuất hiện trong nhiều phim khác của đạo diễn Woody Allen.
Dree Hemingway con nhà nòi, học múa ballet từ nhỏ, đã quyết tâm đi theo con đường người mẫu chuyên nghiệp, không muốn lợi dụng tiếng tăm của gia đình để tiến thân: "Tôi cho rằng nhiều người nghĩ những việc tôi làm là bởi vì tôi mang họ Hemingway nhưng tôi không nghĩ tôi chọn con đường này vì tôi yêu thích nó. Tôi đã làm việc hăng say, chăm chỉ và muốn tiếp tục làm việc trong lĩnh vực này". Dree Hemingway có được mọi thứ một người mẫu chuyên nghiệp mong muốn, xuất hiện trên những tạp chí hàng đầu về thời trang, xuất hiện trong các màn trình diễn của các nhà thiết kế tên tuổi, và là gương mặt đại diện cho những thương hiệu nổi tiếng. Vào nghề năm 17 tuổi, tháng 3.2009 Dree Hemingway trình diễn chính thức trong chương trình Thu Đông của Givenchy ở Paris, trở thành  gương mặt độc quyền trong màn trình diễn. Dree Hemingway gần đây đã gây bất ngờ với những tấm hình gợi cảm trong bộ ảnh mới nhất trên tạp chí Harper's Bazaar của Hoa Kỳ, hóa thân một cô gái lãng mạn giữa thành Rome với sắc đỏ rực rỡ, nồng nàn và vô cùng quyến rũ, khiến người ta nhớ tới người mẹ tuyệt sắc của mình. Dree Hemingway phát biểu:"Mặc dù ông ngoại Ernest Hemingway tôi là người đã viết ra những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất Hoa Kỳ như "For Whom The Bell Tolls" (Chuông Nguyện Hồn Ai) và "The Old Man and The Sea" (Ông Già Và Biển Cả), những tác phẩm đã đem lại cho ông giải thưởng Pulitzer và Nobel cao quý, nhưng tôi ít khi nghĩ về ông. Thực tế tôi thích bạn của ông tôi, ông F. Scott Fitzgerald hơn. Lúc này tôi mê truyện Gatsby nhất."Dree Hemingway còn chia sẻ là người hâm mộ tác giả bộ truyện cậu bé phù thủy Harry Potter. Dree Hemingway hiện đứng thứ 19 trong số 50 người mẫu xếp hàng đầu do trang mạng Models bình chọn. Ngoài việc đứng mẫu, Dree Hemingway còn diễn xuất, trong đó hai bộ phim "Privileged" và "The Truth About Angels" mới hoàn thành. Sự thành công của Dree Hemingway trên bước đường phục vụ nghệ thuật, tất nhiên gồm nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể tới bộ ảnh mới nhất trên tạp chí Harper's Bazaar, nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Alexi Lubomirski đã thu vào ống kính nhiều hình ảnh sắc nét, Dree Hemingway đi xe gắn máy, nhâm nhi ly cà-phê hay thu hút mọi ánh nhìn trong buổi tiệc khiêu vũ cùng sắc độ quen thuộc, màu đỏ rực rỡ, nồng nàn, quyến rũ hiện lên sống động và cá tính.   Nhìn trở ngược thân thế và sự nghiệp của Ernest Hemingway, một thiên tài văn học Hoa Kỳ nói riêng, thế giới nói chung, có thể coi như một nhà văn cuộc đời, sự nghiệp văn chương mang đầy dấu ấn. Năm 1917, khi vừa tròn mười tám tuổi, một tuổi trăng tròn thật đẹp, đẹp bát ngát, có nhiều hứa hẹn rực rỡ, đã tình nguyện tham gia phục vụ ở Kansas (Mỹ). Năm 1918, khi thế chiến 1 bước vào giai đoạn tàn lụi, tắt lịm mùi thuốc súng khét lẹt, cũng là năm Ernest Hemingway tình nguyện phục vụ trong một đơn vị quân y ở Ý, bị thương khá trầm trọng khi liều mình cứu một chiến binh người Ý ngoài chiến trận tàn khốc. Thật may mắn, Ernest Hemingway đã thoát chết, cơ thể chằng chịt hơn 200 vết thương. Tại nơi đây trái tim nồng nàn và đa cảm của Ernest Hemingway đã rung động trước cô y tá xinh đẹp người Hoa Kỳ Agnes Von Kurowsky, đã làm dịu bớt nỗi đau bằng các câu chuyện vui, những kỷ niệm thời thơ ấu và những điều thầm kín riêng tư của mình. Ernest Hemingway vui mừng tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ mười chín ngày sinh của mình với sự có mặt của Agnes Von Kurowsky. Sau đó, Ernest Hemingway xuất viện trông chờ, nhưng Agnes Von Kurowsky đã để lại vết thương lòng cho Ernest Hemingway. Kết thúc cuộc chiến tàn khốc Ernest Hemingway bắt đầu những bước đi đầu tiên trên con đường văn chương của mình bằng nghề báo tại Toronto (Canada)  và Chicago, thử viết vài truyện ngắn không thành công. Ernest Hemingway không chán nản, tiếp tục đi sâu vào mọi ngã rẽ của đời, sống cuộc sống thật phong phú, và đó đã là những chất liệu quí báu hình thành nên nhiều tác phẩm xuất sắc để đời sau này. Ernest Hemingway sử dụng một thể văn trong sáng, rõ ràng, đa số các câu văn gồm danh từ, động từ, ít dùng tĩnh từ và trạng từ, dựa trên sự lặp lại và nhịp điệu hầu tạo nên ấn tượng tác dụng. Ernest Hemingway diễn tả một loạt các hành động bằng những câu văn ngắn, đơn giản, không sử dụng các lời phê bình theo tình cảm hay mang tính tu từ, tránh diễn tả trực tiếp những cảm giác và tư tưởng của những nhân vật trong truyện, mục đích cung cấp cho con người thấy những sơ liệu của kinh nghiệm, chứ không trình bầy quan điểm của mình. Con người được cung cấp những sự tiếp xúc sát thực tế. Đó chẳng qua Ernerst Hemingway quan niệm nhà văn có nhiệm vụ trình bày đề tài một cách chân thật do chính mình tham dự, quan sát các đề tài gần gũi, như vậy mới biểu hiện được những kiến thức chuyên môn của mình. Ngoài ra Ernest Hemingway còn dùng thể văn đối thoại đơn giản, tự nhiên và thể văn đặc sắc của riêng mình đã được nhiều người bắt chức trong thế kỷ 20.
6/6/2012
Nhật Thịnh
Theo http://quyetnguyenblog.blogspot.com/
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...