Nhất Linh 1906-1963
Nhất Linh, tên thật là Nguyễn Tường Tam (1), sinh ngày
25 tháng 7 năm 1906, tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương, trong một
gia đình sáu trai, một gái. Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy, là
công chức không dính líu đến văn nghệ và chính trị, từ người anh thứ
hai Nguyễn Tường Cẩm, mất tích ở gần Hà Nội, đến Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam,
Tứ Ly Hoàng Ðạo - Nguyễn Tường Long, Nguyễn Thị Thế, Thạch Lam - Nguyễn Tường
Lân và bác sĩ Nguyễn Tường Bách, đều là những người tham dự
vào văn chương. Nguyễn Thị Thế và Nguyễn Tường Bách viết hồi ký về
gia đình Nguyễn Tường; và năm anh em Nhất Linh có những đóng góp tích
cực trong việc quản trị các cơ sở báo chí và nhà in của Tự Lực Văn Ðoàn.
Thích văn chương từ nhỏ, năm 16 tuổi Nhất
Linh làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi, có bài Bình
Luận Văn Chương Về Truyện Kiều trong Nam Phong Tạp Chí.
Cuối năm 1923 đậu bằng Cao Tiểu. Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng,
nên làm thư ký sở tài chính Hà Nội, kết duyên văn nghệ với Tú Mỡ Hồ
Trọng Hiếu, viết Nho Phong. Lấy vợ và theo ban cao đẳng. Lúc đầu, năm 1924
học thuốc được một năm thì bỏ, chuyển sang học Mỹ Thuật, được một năm cũng bỏ.
1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu, Vũ Ðình Di định cùng
làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh, hai người này bị bắt, Nguyễn
Tường Tam phải trốn sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học.
1927 du học Pháp. Ðậu cử nhân khoa học. Ở
Pháp ông nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản.
1930 trở về nước. Nhất Linh cùng hai em là Hoàng Ðạo và Thạch Lam xin ra
tờ báo trào phúng Tiếng Cười, nhưng thiếu tiền, chưa ra được báo thì giấy
phép quá hạn, bị rút.
Từ 30 đến 32, Nguyễn Tường Tam dạy tư ở các trường Thăng Long và Gia
Long. Ở đây ông quen với Trần Khánh Giư - Khái Hưng. Sẵn có tờ Phong Hóa của
giáo sư Phạm Hữu Ninh vừa đình bản, Nhất Linh mua lại và tục bản tờ Phong
Hóa.
Kể từ ngày 22 tháng 9 năm 1932, báo Phong Hóa ra 8 trang lớn,
chú trọng về văn chương và trào phúng, tạo ra ba nhân vật
điển hình: Xã Xệ, Lý Toét và Bang Bạnh.
Tự Lực Văn Ðoàn được thành lập năm 1933 với 7 người: Nhất Linh,
Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Ðạo, Tú Mỡ, Nguyễn Gia Trí và Thế Lữ. Về vai trò
lãnh đạo của Nhất Linh, Tú Mỡ kể lại:
"Anh Tam thuê một cái nhà nhỏ ở ấp Thái Hà để mấy
anh em làm việc. Tôi đi làm thì chớ, về đến đấy bàn bạc về cái tôn chỉ của nhà
báo và soạn bài vở dự bị cho đủ in trong sáu tháng. Anh Tam vừa viết, vừa vẽ.
Anh đặt ra mục này, mục nọ, giao cho mọi người. Anh có lối làm việc rất khoa học.
Anh đã giao cho ai việc gì thì chỉ có chuyên việc ấy. Nhiều lúc tôi muốn viết
những bài thuộc về loại khác, anh khuyên chỉ nên chuyên về một lối. Có lẽ là một
điều rất hay cho chúng ta. Tôi có thể nói, anh Tam là người đã tạo ra Tú Mỡ vậy.2"
Năm 1936, Phong Hóa bị đóng cửa vì Hoàng Ðạo
viết bài châm biếm Hoàng Trọng Phu.
Tờ Ngày Nay -trước đã ra kèm với Phong Hóa- tiếp tục và kế tiếp Phong
Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nhất Linh phát động phong trào
Ánh Sáng cùng nhóm Tự Lực, chống lại các nhà ổ chuột ở các khu lao động.
Năm 1939 Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Ðại Việt Dân
Chính. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.
Năm 1940, Hoàng Ðạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt, bị đầy lên
Sơn La, đến 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường
Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay.
Cuối năm 1941, Ngày Nay bị đóng cửa.
1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu, Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh
lao.
Tại Quảng Châu, Liễu Châu, gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ
Chí Minh mới ở tù ra, Nguyễn Tường Tam cũng bị giam 4 tháng. Trong thời gian từ
42 đến 44, ông học Anh văn và Hán văn, hoạt động trong Cách Mạng
Ðồng Minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
Sự tranh chấp, bắt bớ và thủ tiêu giữa hai đảng Việt Minh và Việt Quốc càng
ngày càng gia tăng. Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang với quân đội,
nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã
được phản ánh trong Giòng Sông Thanh Thủy.
Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay lại
tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt
Nam Quốc Dân Ðảng, với Hoàng Ðạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường
Bách.
Biến cố 19 tháng 8 năm 1945 bùng nổ. Việt Minh lên nắm chính quyền. Ngày
Nay bị đóng cửa và phân tán.
Sau chiến tranh Việt Pháp ngày 19 tháng 12 năm 1946, Khái Hưng rời Hà Nội,
tản cư về quê vợ ở Nam Ðịnh. Tại đây, bị công an Việt Minh bắt, ông bị thủ tiêu
năm 1947.
Hoàng Ðạo và Nguyễn Tường Bách sang Trung Quốc. Hoàng Ðạo mất ở Quảng
Châu tháng 8 năm 1948.
Thời điểm năm 1946, Việt Minh và Quốc Gia chủ trương hòa hoãn và hợp tác.
Ðầu tháng 6 năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội. Hợp tác với chính phủ
liên hiệp kháng chiến, giữ ghế bộ trưởng ngoại giao, cầm đầu phái đoàn Việt Nam
dự hội nghị trù bị Ðà Lạt. Ðược cử làm trưởng phái đoàn đi dự hội nghị
Fontainebleau, nhưng ông từ chối và bỏ sang Tầu, gặp cựu hoàng Bảo Ðại, và ở lại
Trung Hoa 4 năm.
Năm 1951, ông trở về Hà Nội và tuyên bố không thuộc đảng phái nào, không
hoạt động chính trị.
Vài tháng sau, vào Nam, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản những sách
Tự Lực Văn Ðoàn.
Năm 1953 lên Ðà Lạt ở ẩn, sống với hoa lan ven suối Ða Mê.
1958 rời Ðà Lạt về Sài Gòn, chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay,
phát hành được 11 số thì bị đình bản.
Dính líu đến vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960, ông bị chính quyền
Ngô Ðình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Nhất Linh uống thuốc độc
tự tử ngày mùng 7 tháng 7 năm 1963.
*
* *
Trong 40 năm hoạt động văn học và chính trị,
Nhất Linh đã hoàn thành trên 20 tác phẩm, và những sách sau đây đã được xuất
bản:
Nho phong, viết năm 1924
Người quay tơ, 1926
Anh phải sống, viết chung với Khái Hưng 1932-1933
Gánh hàng hoa, viết chung với Khái Hưng 1934
Ðời mưa gió, viết chung với Khái Hưng 1934
Nắng thu, 1934
Ðoạn tuyệt, 1934-1935
Ði Tây, 1935
Lạnh lùng, 1935-1936
Hai buổi chiều vàng, 1934-1937
Thế rồi một buổi chiều, 1934-1937
Ðôi bạn, 1936-1937
Bướm trắng, 1938-1939
Xóm Cầu Mới, 1949-1957
Viết và đọc tiểu thuyết, 1952-1961
Giòng sông Thanh Thủy, 1960-1961
Thụy Khuê
Paris 1996
Chú thích:
1 Theo tiểu sử Nhất Linh, Nguyễn Ngu Í, Sống Và Viết Với ..., Sàigòn 1966,
Xuân Thư in lại, không đề rõ xuất xứ và năm tái bản. Trong phần chú thích, Nguyễn
Ngu Í viết: "Tiểu sử này, do chính Nhất Linh đọc cho tôi viết và đã xem lại
trước khi in, tôi xin giữ trọn vẹn và không thêm đoạn đời từ thu 1954 đến thu
1963, để giữ chút kỉ niệm về anh. Khi tái bản sẽ in bổ túc." Và Nguyễn Ngu
Í mất tháng 8 năm 1977 tại Sài Gòn. Hình như sách chưa tái bản khi còn sinh thời
Nguyễn Ngu Í, cho nên chúng ta không có được phần tiểu sử Nhất Linh từ 54 đến
63, do chính Nhất Linh biên soạn.
2 Trích Chân Dung Nhất Linh của Nhật Thịnh, trang
128-129, Ðại Nam tái bản, không đề rõ xuất xứ và năm tái bản, Tú Mỡ trả lời Lê
Thanh trong bài "Phỏng vấn các nhà văn".
Nhất Linh (1906-1963)
Tìm hiểu Nhất Linh dưới góc cạnh phê bình hiện đại là
điều tất yếu. Việc in lại các tác phẩm của Tự Lực Văn Ðoàn,
ở ngoài nước, từ trước đến nay chưa bao giờ ngừng, nhưng đối với trong nước bây
giờ trở thành một phong trào: Nhất Linh, Khái Hưng và Tự Lực Văn Ðoàn
đã được đánh giá lại. Có những tuyển tập Khái Hưng, Nhất Linh, thu thập những
bài viết của nhiều tác giả khác nhau, trong Nam, ngoài Bắc, trước và sau 75, tựu
trung hầu như tất cả đều đồng ý công nhận giá trị của Nhất Linh-Khái Hưng và Tự
Lực Văn Ðoàn trong công việc cải tạo xã hội, giải phóng phụ nữ, đặt
móng cho một nền văn học quốc ngữ mà trước và sau họ chưa có một văn đàn
nào đạt được ảnh hưởng sâu xa trong văn học và xã hội như vậy.
Nhưng còn một khía cạnh khác ít được chú ý, và có lẽ
quan trọng hơn, đó là tư tưởng của Nhất Linh, dòng ý thức sâu sắc về sự thoát
ly của con người, về những nét tiêu cực trong lý tưởng cách mạng, về tính ngắn
hạn của hạnh phúc, về sự trường tồn của văn hóa, văn nghệ... Những
yếu tố có thể là chủ yếu ấy, vừa lặn sâu dưới đáy các tác phẩm, vừa bao
trùm toàn bộ những sáng tác của Nhất Linh, kể từ tập truyện ngắn Người
Quay Tơ viết năm 1926 đến những tác phẩm cuối cùng như bộ trường
thiên Giòng Sông Thanh Thủy, viết năm 60-61. Như vậy tìm hiểu Nhất
Linh là thử đào xới những ẩn tưởng chìm sâu trong lòng tác phẩm, mà một
"đọc đi" chưa thể thấu, cần có thêm một "đọc lại".
*
Sự nghiệp văn học của Nhất Linh có thể chia
làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu từ 1932 đến 1936 với các
tác phẩm chủ yếu mang nhiều tính cách luận đề: Anh Phải Sống, Gánh
Hàng Hoa, Ðoạn Tuyệt, Lạnh Lùng ... Và giai đoạn sau, từ Ðôi Bạn,
Bướm Trắng đến Xóm Cầu Mới, Dòng Sông Thanh Thủy Nhất Linh đã ra
khỏi giới hạn luận đề xã hội để viết về những khắc khoải nội tâm trong con người.
Có một nghịch lý là đối với phần đông độc giả, dường như tên tuổi Nhất
Linh chỉ gắn liền với các tác phẩm luận đề như Ðoạn Tuyệt, Lạnh Lùng,
... Khi Nhất Linh từ bỏ tiểu thuyết luận đề, đấu tranh xã hội để bước vào tiểu
thuyết nghệ thuật và tư tưởng, thì Ðôi Bạn, Bướm Trắng đã ít người đọc
hơn. Sau 54, Nhất Linh cho ra đời những tác phẩm không kém phần quan
trọng, nhưng ít được dư luận biết đến, hoặc nếu đề cập, cũng không được đánh
giá đúng mức, đó là tập tiểu luận Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết và hai cuốn
trường giang tiểu thuyết Dòng Sông Thanh Thủy và Xóm Cầu Mới (1).
Ở Ðoạn Tuyệt, Lạnh Lùng Nhất Linh vẽ nên cảnh
xung đột trực tiếp giữa lối sống cũ và mới. Ðể bênh vực người phụ nữ, Nhất Linh
đã không ngần ngại đẩy hoàn cảnh đến những mức độ cực đoan nhất, và lấy phần
quyết thắng về phe Loan, người phụ nữ tân thời, tranh đấu cho quyền làm người
trong xã hội Khổng Mạnh.
Ở Ðôi Bạn, Nhất Linh đi xa hơn. Ông không dựa trên
tình tiết, không dựa trên cốt truyện để xây dựng tiểu thuyết nữa. Nhất Linh đi
sâu vào địa hạt phân tích nội tâm, xây dựng nghệ thuật trên sự tinh vi của nhận
thức. Cảm giác, xúc giác, khứu giác là những yếu tố chính trong cơ lực
con người, giao thoa giữa nội tâm và ngoại giới. Nhất Linh cho người đọc thưởng
lãm những mùi hương, những say sưa của hạnh phúc, của ánh nắng chiều, của mầu
thời gian thoáng nhạt. Dũng với Loan trong Ðôi Bạn đã khác xa Dũng với
Loan trong Ðoạn Tuyệt. Dũng Loan trong Ðôi Bạn "cao"
hơn, giúp ta nhớ lại, duyệt lại, học lại những cảm giác đã mất, đi vào những thời
gian và không gian liên tưởng, và cho chúng ta những rung động mới, những ấn tượng
mới.
Với Bướm Trắng, Nhất Linh đi sâu vào khía cạnh triết
lý. Trương, trong Bướm Trắng, biết mình bị lao, chỉ còn sống được có một
năm, bập bềnh giữa sống và chết. Qua Trương, Nhất Linh phân tâm con người trước
cái chết. Bằng một lối nhìn trầm lặng, ngọn bút Nhất Linh bình thản đi vào các
cửa ngõ nội tâm biến dạng và bối rối của Trương, không phải để tìm kiếm một lối
thoát cho Trương, mà để cùng nhập cuộc phiêu lưu không định hướng của dòng đời.
Thanh Thủy là một dòng sông nhỏ, chảy qua biên giới Việt
Nam - Trung Hoa, gần Hà Giang. Dòng Sông Thanh Thủy là cuốn tiểu thuyết
duy nhất của Nhất Linh viết về chính trị. Dòng Sông Thanh Thủy được viết
khá vội vàng, trong thời điểm 60-61. Thời kỳ Nhất Linh đã bị chính quyền Ngô
Ðình Diệm truy lùng và bắt bớ. Về phương diện kỹ thuật tiểu thuyết, Dòng
Sông Thanh Thủy hơi loãng, thua Ðôi Bạn, Bướm Trắng và Xóm
Cầu Mới, nhưng có giá trị lịch sử và nhân văn. Ðây là câu truyện về giai đoạn
kinh hoàng của cách mệnh, hai đảng Việt Nam Quốc Dân Ðảng, gọi tắt là Việt Quốc,
và Việt Minh thanh toán nhau trong bắt bớ và thủ tiêu. Thế mèo chuột của hai đảng
đã được Nhất Linh mô tả trong Dòng Sông Thanh Thủy một cách lạnh lùng
và tường tận.
Xóm Cầu Mới là tác phẩm dang dở của Nhất
Linh. Dang dở nhưng không sao. Bởi đây là cuốn tiểu thuyết không có cốt truyện,
được Phượng Giang in thành hai tập, trên 700 trang. Bản thảo bị thất lạc nhiều
năm -theo nhà xuất bản Phượng Giang- đã được tìm thấy tình cờ vào ngày giỗ thứ
mười của Nhất Linh. Ðây là tác phẩm quan trọng mang những kỳ vọng của
Nhất Linh về một bộ tiểu thuyết trường giang trên mười ngàn trang, diễn tả những
phức tạp muôn mặt của cuộc đời. Tác phẩm đã được viết đi viết lại tất
cả 5 lần. Lần đầu năm 40 tại Hà Nội. Lần thứ hai năm 43 tại Quảng Châu. Lần thứ
ba năm 49 tại Hương Cảng. Về nước năm 51, Nhất Linh viết lại lần thứ tư tại Hà
Nội. Và trước khi in một số chương trên Văn Hóa Ngày Nay, Nhất Linh sửa
lại lần chót bên dòng suối Ða Mê, tại Fim Nôm Ðà Lạt vào năm 57.
Xóm Cầu Mới viết về cuộc sống của một xóm nhỏ, với năm
gia đình ở trong các địa vị xã hội khác nhau, vào thời điểm nửa đầu
thế kỷ XX. Khác với những tiểu thuyết trước của Nhất Linh -tác phẩm thường
giới hạn trong một loại hạng người, thường thường là trí thức tiểu tư sản
như trường hợp Gánh Hàng Hoa, Ðoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Ðôi Bạn, Bướm Trắng-.
Ở Xóm Cầu Mới Nhất Linh khảo sát nhiều hạng người. Ông tạo ra một xã
hội nhỏ, trong đó mỗi nhân cách giàu nghèo đều có tương quan mật thiết
với nhau. Mỗi chân dung nhân vật đều linh hoạt và sâu sắc về dung mạo
cũng như về đời sống tâm linh.
Thụy Khuê
Chú thích:
1 Các cháu của Nhất Linh như Duy Lam, Thế Uyên, đều có ý chê những
tác phẩm của ông xuất bản sau 54. Và cả em ruột Nhất Linh, Nguyễn Tường
Bách cũng viết trong hồi ký: "Sau này, ở miền Nam, anh lại viết thêm vài
cuốn như Xóm Cầu Mới, Giòng Sông Thanh Thủy ... Những tác phẩm này
kém xa ngày trước vì anh không còn những cảm thụ độc đáo như ngày còn trẻ và
cũng mất cả vẻ hồn nhiên trong tâm linh, sau khi đã trải qua những ngày vật lộn
chính trị kinh hồn."
(Việt Nam, Những Ngày Lịch Sử, trang 50, Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðiạ xuất bản,
Montréal, 1981)
Ý thức thoát ly trong Ðôi Bạn
Gió lên! Gió nữa lên!, Gió lên! Lạy trời gió lên! Những
lời cầu nguyện của hai chị em đứa bé nhặt lá bàng trong đêm khuya vang lên như
một nguyện cầu giải thoát, báo hiệu ý thức thoát ly trong Ðôi Bạn. Gió
lên! Gió nữa lên! cho lá lìa cành, cho chị đầy thúng, cho em đầy rổ, để chị
bó lá đem bán, rồi lá khô sẽ hóa thân trong lửa đỏ, sưởi ấm lòng người, nuôi sống
những đứa trẻ nhặt lá vàng trong những đêm gió lộng. Gió lên! Gió nữa lên! trên
bến đò gió và bến đò đời.
Nhất Linh mở đầu Ðôi Bạn (1) bằng bài Nhặt
lá bàng thay lời tựa, với hai bối cảnh: Một tôi, nhà văn Nhất
Linh bất động trước tờ giấy trắng sao trắng thế. Chữ cứ bặt vắng. Bỗng một
tiếng bật ra: "Trời muốn trở rét" và ngòi bút chạy... trong khi bên
ngoài có tiếng khác cất lên: Gió lên! Gió nữa lên! hai đứa trẻ cầu trời
cho gió lên, chúng chạy lăng quăng, nhặt, bó, nhặt, bó, con chị mắng thằng em,
tiếng chúng vang trong đêm khuya cùng tiếng lá rơi, chạm vào tường, lăn xuống đất.
Chuyện thật ngoài đời, chuyện đời trên giấy, cả hai không liên hệ gì với nhau
nhưng cùng gặp nhau trong đêm nay. Những đứa bé ấy có thật không? Hay chỉ là tưởng
tượng của Nhất Linh? Cả Dũng nữa? Dũng, người bạn đã có lá thư tha thiết yêu cầu
Nhất Linh viết về đời mình, một đời mà Dũng cho là "những nỗi đau khổ, băn
khoăn của tôi, hẳn cũng là những nỗi băn khoăn của anh, của các bạn chúng ta"
(Nhặt lá bàng). Dũng có thật không ? Hay cũng là tưởng tượng? Nhưng có một điều
chắc chắn phải thật: đó là động cơ nào đã thúc đẩy cuộc đời và tưởng tượng xích
lại gần nhau? Ðộng cơ nào đã gọi những tiếng vang trong tiềm thức Nhất Linh, tiếng
đứa bé, tiếng Dũng, tiếng Loan, tiếng đôi bạn, tiếng các bạn cùng cất lên trong
tác phẩm như một hợp âm những hình ảnh, những cảm xúc, khổ đau, hạnh
phúc của cuộc đời? Ðộng cơ ấy phải là gió. Gió như một yếu tố ngẫu nhiên,
bất ngờ và rét đến như một trợ lực: Trời muốn trở rét. Gió, rét
đã nhiều lần đến, rồi đi, nhưng chỉ có hôm nay, lúc này, chúng tạo thành một
giao hưởng của hiện tại và dĩ vãng: cả hai cùng cầu gió, bởi không có gió thì
lá không rụng mà có gió trời lại rét lắm, gió đem đến chia ly, gió tạo ý thức
thoát ly, gió cuốn nơi này đến nơi kia, gió làm vật đổi sao rời, gió gây nghịch
cảnh; tiểu thuyết và cuộc đời xoay quanh cái trục nghịch cảnh ấy: vừa mong gió,
vừa ngại gió bởi gió đem rét mướt, gió sẽ chia lìa, nhưng nếu không có gió thì
buồm chẳng đi xa, chẳng có thoát ly, chẳng có gì báo hiệu cho hành trình
... đôi bạn.
*
"Anh phải sống vượt ra ngoài xã hội bình thường"
câu nói và cũng là lời tự nhủ này của Dũng, trong Ðôi Bạn như thể từ miệng Khái
Hưng nói ra; Dũng, con một ông tuần phủ và đời Dũng hình như có cái gì rất giống
đời Khái Hưng "Tôi sinh ra đã phải chọn một sự bất công là sống trong cảnh
giàu sang không đích đáng, tôi không có quyền hưởng, tôi không muốn hưởng".
Những người bạn Dũng cũng có những nét giống Khái Hưng, và con đường họ đi, cái
chết của họ cũng bí mật không khác gì cái chết của những Khái Hưng, Hoàng Ðạo,
... cuộc đời họ hình như chỉ là "một sự tìm kiếm không bao giờ ngừng".
Dũng là một mẩu Khái Hưng hay cả Khái Hưng? Dũng là một mẩu Nhất Linh hay cả Nhất
Linh? Ðôi bạn Dũng Trúc phải chăng là "đôi bạn" Nhất Linh-Khái Hưng?
Rồi Dũng/Loan có phải là Trương/Thu trong Bướm Trắng, Triết/Thoa
trong Hai Buổi Chiều Vàng, Thanh/Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy,
Nghĩa/Nhung trong Lạnh Lùng, Siêu/Mùi trong Xóm Cầu Mới? ... Những nhân vật
tiểu thuyết của Nhất Linh, nói theo ngôn ngữ bây giờ, có một quan hệ
"liên văn bản" với nhau, với thời cuộc và với chính tác giả.
Họ cùng có một ý chí "muốn vượt ra ngoài hoàn cảnh sống của mình". Muốn
thoát ly. Thoát ly gia đình. Thoát ly xã hội. Thoát ly cuộc đời. Những nhân vật
của Nhất Linh dù là bạn thân hay bạn tình, đều chỉ gặp nhau trong một thời
gian, không sống trọn đời với nhau, không là bạn đời, bởi Nhất Linh cũng như
Khái Hưng, không tin có một thứ hạnh phúc kéo dài trọn kiếp. Lan và Ngọc của
Khái Hưng trong Hồn Bướm Mơ Tiên đã "khai trương" thế giới
"đôi bạn" và tất cả những "đôi bạn" của đôi bạn Nhất
Linh-Khái Hưng đã tạo nên một thế giới sống ngoài cuộc sống, trong tiểu thuyết
Tự Lực Văn Ðoàn. Thế giới này vừa phản ảnh những suy tư, trăn trở của
thế hệ thanh niên những năm 30-40, vừa phản ảnh những chao đảo xã hội thời Pháp
thuộc, những đụng chạm cũ-mới, những nỗi đau của lựa chọn làm quan hay làm cách
mạng? Ở hay đi? Ðó là những đoạn trường cô đơn và hạnh phúc. Ðời họ, Nhất Linh
tóm gọn: "Ðời bọn ta, một bọn sống ở trong một xã hội đương thay đổi có những
nỗi đau khổ chung, mà oái oăm thật những nỗi đau khổ lại là những nỗi vui độc
nhất của chúng ta bấy lâu" (Nhặt lá bàng).
*
Dũng muốn thoát ly gia đình vì chàng không thể
sống mãi trong cảnh giàu sang của gia đình mà chàng biết là không
chính đáng và "hễ cứ lúc nào chàng dịu lòng để cố tìm cách yêu cha thì
chàng lại đau xót thấy những hành vi tàn ác của ông tuần mà chàng tưởng đã quên
hẳn rồi, hiện ra như bức rào ngăn cản" (trang 188). Thấy những bộ mặt khốn
khó của dân làng, những người túng quẫn, cùng khổ, bị ông tuần đánh, chửi, Dũng
khó chịu vì những người bị đánh không kháng cự, mà trái lại, còn nói nịnh:
"Bẩm, cụ lớn đánh là cụ lớn thương, hôm thượng thọ cụ cố, cụ lớn cầm đầu
con rập vào tường [...] Thế mới biết cụ lớn còn khỏe." (trang 98). Dũng muốn
bênh vực họ nhưng rồi cuối cùng "chàng nhận thấy ông tuần và những người
dân trong làng có liên lạc mật thiết với nhau [...] chàng thấy chàng trơ vơ đứng
riêng hẳn ra ngoài" (trang 186). Cái thế giới phản kháng, chống lại mọi áp
bức mà Dũng mong muốn, không có trong đầu óc dân làng. Họ yên phận chịu nhận số
kiếp yếu kém "từ đời kiếp nào rồi". Mối tương quan đàn áp và chịu đàn
áp giữa ông tuần và họ là một tương quan mà Dũng không cắt nghĩa được. Dũng thấy
mình ngoại cuộc, ở đây không ai cần Dũng, bởi cuộc đời không cần những Don
Quichotte. Những nhận thức ấy đã dẫn đến quyết định: "Chàng cầm dao cắt mạnh
quả hồng làm đôi ...(trang 189), "giản dị như không ... phải đoạn tuyệt hẳn
mới gọi là đi ... Chàng muốn được như con bướm thoát khỏi cái kén tối tăm"
(trang 190). Nhưng thoát ly không có nghĩa là tìm ra một lý tưởng. Bởi Dũng biết
chắc là không có lý tưởng, khi Thái đi, Dũng đã tự hỏi: "Anh Thái đi như vậy
để làm gì? Chẳng qua không biết làm gì nữa thì liều lĩnh" (trang 31) và
"Dũng có cái cảm tưởng rằng Thái đi như là đi thay cho mình, hình như tất
cả những nỗi chán chường, đau khổ của một đời mình, Thái đã đem theo hết"
(trang 32). Và chính trong những giây phút băn khoăn, chưa dứt khoát lựa chọn,
Dũng biết là mình "phải sống một đời ngang trái nhưng chàng không có đủ
can đảm để thoát ly; mà thoát ly rồi, cái đời tương lai của chàng sẽ đại khái
như đời của Thái và Tạo, hai cảnh đời mà trước kia mới nghĩ đến chàng đã thấy
buồn nản vô cùng" (trang 158).
Dường như cuộc đời "quằn quại" của Thái, cũng
là cuộc đời Nhất Linh, Khái Hưng và những người bạn của họ: Chống Pháp? Không
chống Pháp? Theo Việt Quốc? Việt Cách? hay Việt Minh? tất cả rồi cũng chỉ là để
"Thỉnh thoảng lại nghe tin một người trong bọn chết đi hay bị tù tội, rồi
ai nấy, trước số mệnh, chỉ việc cúi đầu, yên lặng, nơm nớp đợi đến lượt mình"
(trang 106).
"Cái chết của Thái đối với Dũng chỉ là một sự
thoát ly" (trang 105). Hoặc như Tạo chấp nhận cái chết một cách vui vẻ
"Tôi không sợ chết đâu [...] đất mát lắm" (trang 149). Cả những người
bạn của Tạo cũng nghĩ "kể như anh ấy thì chết là thoát" (trang 167).
Tóm lại, ra đi không phải để tìm đến một lý tưởng cách
mạng mà Dũng biết chắc là ra đi rồi sẽ chết như Phương, như Thái, như Tạo ...
"như biết bao người bạn của Dũng [...] vụt biến đi không để lại một vết
tích gì." (Nhặt lá bàng). Ở thời điểm 1936, khi Nhất Linh viết Ðôi Bạn,
mọi người chưa kịp lên đường và sau đó thì mọi lên đường được
tôn thờ như một lý tưởng cao quý nhất, Nhất Linh đã xác định không có lý tưởng
và mọi ra đi, thoát ly, chỉ là "đi tìm kiếm, sự tìm kiếm không bao giờ ngừng
ấy, có lẽ là sự an ủi độc nhất" (Nhặt lá bàng).
Và cái việc tìm kiếm ấy, Nhất Linh đã đi hết cuộc đời
mà chưa tìm thấy, những trăn trở lựa chọn giữa cách mạng và văn học,
giữa xuất thế và nhập thế... dùng dằng nhau trong Nhất Linh đến giây phút cuối
và bây giờ chúng vẫn còn dầy vò thế hệ sau Nhất Linh.
Thoát ly còn do một trăn trở khác, đó là sự từ chối một thứ hạnh phúc
"trường cửu" trong tình nghĩa vợ chồng, với người không yêu như
Khánh, hoặc với người yêu, như Loan.
Ở lại, trước hết là sẽ phải cưới cô Khánh, con cụ Thượng
Ðặng, người vợ môn đăng hộ đối mà cha đã chọn và sẽ phải chấp nhận đời sống
"thừa" như Trường và Ðính, hai anh và như "tất cả mọi người
trong nhà, trong họ, thảy đều sống bám vào một mình ông tuần và cho thế là một
sự tự nhiên, một cái phúc" (trang 87).
Nhưng ở lại còn có thể có một con đường khác là làm
trái lời cha, cưới Loan làm vợ. Làm trái lời cha không khó vì xưa nay Dũng vẫn
làm, cái khó là làm trái lòng mình, bởi đã bao lần khi nghĩ đến "chàng sẽ
cưới Loan làm vợ ... rồi suốt đời hai người gần nhau, yêu nhau mãi mãi ... Thế
rồi sau làm sao? Lại ngày nọ tiếp ngày kia ... không chờ đợi." (trang
48-49). Chính "ý nghĩ chán nản này", xuất phát từ nội tâm của Dũng
"làm bận trí Dũng một cách ác nghiệt" (trang 63), đã gián tiếp chỉ đạo
sự thoát ly của Dũng.
*
Ở buổi mà mọi "hoài nghi" về cuộc sống chưa
có chỗ đứng vững chắc trong văn chương Việt Nam, Nhất Linh, Khái Hưng
lại "đem lòng" hoài nghi hạnh phúc, thứ hạnh phúc vợ chồng trọn đời
được "công nhận" như một "giá trị phổ quát của nhân loại",
cũng như đã hoài nghi lý tưởng đấu tranh khi mọi người chưa kịp lên đường. Nghi
ngờ hạnh phúc "trăm năm" nhưng không chối bỏ hạnh phúc mà tin vào một
thứ hạnh phúc khác, ra ngoài thông lệ: đó là những giây phút hạnh phúc và
những giây phút sống lại những giây phút hạnh phúc ấy. Những giây phút hạnh
phúc sẽ qua đi, nhưng sự sống lại chúng trong con người là trường cửu, là mãi
mãi, là vượt ra ngoài ý muốn của con người; chúng bất tử và không có sức mạnh
nào diệt nổi. Và đó là điều mà Nhất Linh đã ghi lại trong tiểu thuyết như một
quan niệm độc đáo về hạnh phúc và là cơ nguyên của sáng tạo.
Cái hạnh phúc ấy có sẵn ở trong mỗi người, kể cả những
người không có hạnh phúc: đó là những giây phút ngắn ngủi của cảm xúc, của những
linh cảm hạnh phúc, của đợi, của chờ, của nhớ, của nghĩ đến người mình nhớ,
mong người ấy nhớ mình hơn là mình nhớ người ấy ... Những linh cảm ấy thường đến
trong yên lặng, cho nên những trang đẹp nhất mà Nhất Linh viết về tình yêu, về
sự tỏ tình là ... yên lặng. Tình yêu không diễn tả bằng lời mà bằng mắt,
bằng tim: Nhất Linh thao túng "yên lặng" trong một thế giới mới, thế
giới của cảm xúc, thế giới thần bí mà mọi sự đều khả thể.
"Dũng vòng hai tay ra phía sau làm gối ngửa mặt
nhìn lên. Ánh nắng trên lá thông lóe ra thành những ngôi sao; tiếng thông reo
nghe như tiếng vọng ra, đều đều không ngớt; Dũng có cảm tưởng rằng cái tiếng ấy
đã có từ đời kiếp nào rồi nhưng đến nay còn vương lại âm thầm trong lá thông.
Không nghe tiếng Loan và Thảo nói chuyện nữa, Dũng nghiêng mặt quay về
phía hai người. Chàng thấp thoáng thấy hai con mắt đen của Loan. Thấy Dũng bắt
gặp mình đương nhìn trộm, Loan vội nhắm mắt lại làm như ngủ; song biết là Dũng
đã trông thấy rồi, nàng lại vội mở mắt ra, rồi qua những ngọn lá cỏ rung động
trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau." (trang 209-210)
Nhất Linh đã "vớt" từ yên lặng ra những âm
thanh và màu sắc. Âm thanh và màu sắc của ánh nắng chiếu trên lá thông
"lóe" ra thành những ngôi sao. Nhạc của tiếng thông reo từ đời kiếp
nào còn vương lại âm thầm trong lá thông; nhạc và tranh hòa hợp cùng
những trao đổi giữa hai người qua ánh mắt. Và đó là hạnh phúc. Hạnh phúc ở những
giây phút mình yên lặng nghe mình: "Chàng cố ngồi thật yên lặng để hoàn
toàn nghĩ đến cái vui sướng của lòng mình" (trang 63).
Nhưng hạnh phúc không chỉ là những giây phút vui sướng,
hạnh phúc còn có thể ở cả những nỗi buồn, ví dụ như nỗi buồn của nhận thức về bản
chất cuộc đời:
"Dũng châm một điếu thuốc lá hút rồi đưa mắt ngắm
nghía đám người nhà quê thảm đạm, quấn áo xơ xác trước gió, đương đứng đợi bên
bờ sông. Họ đứng yên, không nói, vẻ mặt bình tĩnh, không nghĩ ngợi gì; chuyến
đò mà họ đợi sang, Dũng thấy là hình ảnh của cả cuộc đời; họ sinh ra, sống thản
nhiên ít lâu, không hiểu vì cớ gì rồi lại khuất đi như những người bộ hành, một
buổi chiều đông, qua bến đò, in bóng trong chốc lát trên dòng nước trắng của cuộc
đời chảy mãi không ngừng.
Dũng ngẫm nghĩ:
- Buồn có lẽ vì tại trông thấy bến đò, mình như thấy rõ hình ảnh cuộc đời.
Sống mà nghĩ đến mình sống thì bao giờ cũng buồn [...] Bến đò không buồn lắm,
buồn nhất là những cái quán xơ xác của các bến đò. Mình là những cái quán ấy, đứng
yên trong gió lạnh nhìn cuộc đời trôi qua trước mắt." (trang 71)
Sống mà nghĩ đến mình sống thì bao giờ cũng buồn, mình
là những cái quán đứng yên trong gió lạnh, nhìn cuộc đời trôi qua trước mắt, những
nhận thức này có thể chỉ qua một lần rồi mất đi, nhưng nó không chết hẳn, nó có
khả năng sống lại, và sự hồi sinh ấy thường xẩy ra ở những lúc bất ngờ nhất: một
ngọn gió, một mùi hương, một bến đò ...
Do đó, hạnh phúc ở đây vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Trực tiếp là những
giây phút sống trong thực tại: nhìn (một người) yêu, ngắm (một
đóa) hoa, đợi (một ngọn) gió, đón (một mùi) hương ... Và
gián tiếp là những lúc nhớ lại những giây phút kỷ niệm của những nhìn, ngắm,
đợi, đón, ... đó, những giây phút ngắn ngủi mà nhà văn muốn giữ lại
mãi mãi:
"Mùi hoa khế đưa thoảng qua, thơm nhẹ quá nên Dũng
tưởng như không phải là hương thơm của một thứ hoa nữa. Ðó là một thứ hương lạ
để đánh dấu một quãng thời khắc qua trong đời: Dũng thấy trước rằng độ mười năm
sau, thứ hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến phút chàng đương đứng với
Loan ở đây. Cái phút không có gì lạ ấy, chàng thấy nó sẽ ghi mãi ở trong lòng
chàng cũng như hương thơm hoa khế hết mùa này sang mùa khác thơm mãi trong vườn
cũ." (trang 26)
Có thể nói rằng Nhất Linh đã tìm ra một thứ "định
thức" của hạnh phúc, ở đây là mùi hương+trí nhớ=hạnh phúc, nhưng những yếu
tố của vế đầu tiên có thể thay đổi không ngừng, một chỗ khác, Nhất Linh viết:
"Nền trời lúc đó, Dũng thấy như một tấm lụa trong;
một con bướm trắng ở vườn sau bay vụt lên cao rồi lẫn vào màu trời. Dũng tự
nhiên nghĩ đến một bãi cỏ rộng trên đó có Loan và chàng, hai người cùng đi ngược
chiều gió; nàng mặc một tấm áo lụa trắng và gió mát thơm những mùi cỏ đưa tà áo
nàng phơ phất chạm vào tay chàng êm như cánh bướm." (trang 45)
Lại một định thức khác của hạnh phúc: thiên nhiên+tưởng
tượng=hạnh phúc. Như vậy hạnh phúc là một định thức biến thiên không ngừng, từ
những dư âm hoàn toàn khác nhau, khi biết hòa âm phối khí thì ta có ... hạnh
phúc. Hạnh phúc, như thế, là sự hòa hợp của âm thanh trong âm nhạc, là sự điều
phối của màu sắc trong hội họa, là sự ngẫu hợp của chữ nghĩa trong thi ca.
Nhưng điều thiết yếu là những định thức biến thiên ấy cần những chất xúc tác
như mùi hương, ngọn gió ...
Nhất Linh tinh tế bao nhiêu trong nhận thức thì ông
cũng lại càng thực tế bấy nhiêu trong cái biết của mình: Biết "hạnh
phúc" cũng như "nghệ thuật" chỉ là những hợp âm dễ vỡ, dễ tan,
không thể nắm bắt được, tựa như: "Những con đom đóm bay qua ao bèo, lúc tắt
lúc sáng như những ngôi sao lạc biết thổn thức" (trang125).
Hạnh phúc phải chăng là những con đom đóm trong đêm?
Hay là tà áo của Loan, chạm vào tay Dũng như những cánh bướm? Có lẽ cả hai. Một
điều chắc chắn là hạnh phúc nằm trong khoảnh khắc và cái khoảnh khắc bí mật ấy,
luôn luôn, Nhất Linh muốn níu nó lại: "Dũng có cái cảm tưởng rằng thời khắc
ngừng hẳn lại; ánh nắng lấp lánh trên lá cây cũng thôi không lấp lánh nữa ...
Chàng và cảnh vật chung quanh như không có nữa, chỉ là một sự yên tĩnh mông
mênh, trong đó tiếng Loan vang lên." (trang 61), "không còn phút sau
nữa: thời gian ngay lúc đó sẽ ngừng lại mãi mãi" (trang 63). Thời
gian sẽ ngừng lại. Ðó là ước vọng của Dũng. Nhưng thời gian chưa bao giờ ngừng
lại và đó là bất hạnh của hạnh phúc. Khiến mọi sự liên tục trường cửu đều trở
nên đáng sợ và vô nghĩa: đóa hoa không trường cửu, cánh bướm không trường cửu,
đến cả thân phận con người cũng phù du ... Như vậy có gì trường cửu trên cuộc sống
này? Hẳn là sự trường cửu của những phút giây hạnh phúc, chết đi và sống lại
trong ký ức. Mỗi lần hồi sinh chúng lại là những cánh bướm đã thoát xác, đã đổi
dạng thay hình ... Cho nên nếu muốn có những luân hồi của kỷ niệm thì phải sống
xa người tình, sống ngoài kỷ niệm, phải xa bến đò Gió thì mỗi lần đến một bến
đò, mới hồi tưởng lại và gió và đò ... phải sống xa Loan mới có thể hồi tưởng
những phút giây hạnh phúc được nhìn Loan và được Loan nhìn lại ... Thoát ly khỏi
Loan để được yêu Loan mãi mãi ... để khỏi rơi vào cảnh vợ chồng ngày ngày bị những
tính toán vụn vặt của đồng tiền, mảnh cơm, manh áo bào mòn thể xác, bị những giờ
giấc quen thuộc đi, về, cơm, nước, con cái ... giết chết kỷ niệm, giết chết
tình yêu ... Tình yêu, cũng giống như nghệ thuật, là những bóng đom đóm chụm đầu
vào nhau như một chùm ảo ảnh mà con người càng tìm cách sở hữu, lại càng thấy bất
lực. Tình yêu cũng như nghệ thuật, không thể sở hữu được mà chỉ có thể cảm thức
từ yên lặng, trong yên lặng, như Nhất Linh, để từ cõi yên lặng ấy, vớt ra những
xúc động, những nhục cảm say sưa nhất của con người. Yên lặng nghe "một
cơn gió lạnh lùa vào đượm mùi thơm hắc của hoa cau" (trang196), yên lặng
ngắm nắng trong vườn cùng với Loan và Dũng "thỉnh thoảng một sợi tơ trời từ
trên cao là là xuống, lấp lánh, hai người sợ tơ trời vương vào mình cùng
giơ tay đón lấy rồi nhìn nhau mỉm cười khi thấy trong tay không có gì cả, hình
như sợi tơ vừa tan đi cùng ánh sáng." (trang 195).
Những giây phút ấy là tình yêu, là hạnh phúc, là nghệ thuật mà trong cuộc
đời chạy ruổi để bắt kịp xe bus, bắt kịp métro, chen chúc trong đám kẹt xe đô
thị, trong chớp loạn của truyền hình, ciné với những chiến tranh hành tinh giả
tưởng, trong cuộc đời bão táp kinh tế, tranh chấp những phát minh khoa học tân
kỳ ..., con người rất ít thì giờ dành cho những giây phút "yên lặng nghe
lòng mình sung sướng", những giây phút hạnh phúc Nhất Linh.
Thụy Khuê
Chú thích:
1 Nhà xuất bản Ðời Nay, hải ngoại in lại, không đề năm.
Nỗi đau hiện sinh trong Bướm Trắng
"Nếu chỉ có một năm để sống" bạn sẽ làm gì?
Ðây có thể là đề tài một cuốn phim hồi hộp, một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn hay một
tác phẩm văn học phân tâm. Nhất Linh chọn giải pháp thứ
ba: Bướm Trắng là một ăng-kết của Trương về bản ngã mình. Trương bị
lao và bác sĩ cho biết chàng chỉ có thể sống được một năm nữa là cùng. Nhất
Linh đem máy ghi âm đặt vào óc Trương để ghi lại những ý nghĩ, những phản ứng của
Trương từ khi biết mình chỉ còn một thời gian sống nhất định.
Phản ứng đầu tiên của Trương là sẽ ghi vào sổ nhật ký,
ngày 21/2: Hôm nay mình chết (Bướm Trắng, NXB Ðời Nay tái bản, 1970,
trang 34). Ðó là cái chết đầu tiên, sau khi biết mình sắp chết, cái chết
này biểu hiện tính cách hóa thân của hai từ Bướm Trắng và đưa Trương
vào đoạn đời thứ nhì, đoạn đời mà Trương quyết định rằng từ nay "chàng sẽ
nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống cho hết để không
còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường. Trương thấy mình nô nức hồi hộp mà lại
sung sướng nữa. Chàng sung sướng vì chàng thấy mình như con chim thoát khỏi lồng,
nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến. Những cái ràng buộc, đè nén của cuộc
sống thường không có nữa, chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè được hoàn toàn sống
như ý mình.
- Chết thì còn cần gì nữa?" (trang 38)
Ðặt ngược lại vấn đề, Albert Camus bắt đầu cuốn tiểu luận Le
Mythe de Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) bằng câu: "Chỉ có một vấn đề
triết lý thật sự nghiêm túc: đó là tự tử, xét rằng đời đáng sống hay không đáng
sống là trả lời câu hỏi cơ bản của triết học". Cả hai tác giả Nhất Linh và
Camus, đi từ hai con đường khác nhau nhưng dường như đều cùng muốn điều tra ý
nghĩa của cuộc sống từ cái chết. Rồi Nhất Linh và Camus đều chết bất đắc kỳ tử.
Camus, tai nạn xe hơi ở tuổi 47, Nhất Linh tự tử ở tuổi 57, một trùng hợp phi
lý.
Cái chết, trước tiên, đối với Trương là một giải thoát,
khi giao hẹn "hôm nay mình chết" là Trương đã tự hóa, từ một người bị
ràng buộc, trở thành người tự do, hồi sinh trong cuộc sống mới, với hai lớp
lang: biết mình sắp chết và quên rằng mình đang sống.
Ở lớp thứ nhất, Trương quyết định tìm vui trong trụy lạc:
trụy lạc thể xác và tinh thần. Về thể xác, hưởng thụ hết những thú vui nhục dục
trước khi chết và về tinh thần, chiếm hữu tình yêu của Thu, người con gái tình
cờ gặp mà ngay sau đó Trương đã muốn yêu như một trò chơi: yêu cũng được
mà không yêu cũng được.
Ở từng thứ nhì, Trương sợ sống: không dám về nhà, muốn
quên rằng mình đang sống, lẩn tránh những ý nghĩ của mình, sợ đối diện với
chính mình. "Trương ở vào tình trạng một người không cần gì nữa, chỉ mong
xảy đến cho mình một việc, bất cứ việc gì, miễn là khác thường để cho mình quên
được sự sống" (trang 55). Hai trạng thái, hai lớp lang tâm thần ấy giao
nhau trong một môi trường không có lối thoát: Sự trụy lạc mà Trương tìm đến như
một ao ước hưởng thụ hết trước khi chết, không đem lại cho Trương tị ti thỏa
mãn nào, và cuộc tình đối với Thu, mới đầu chỉ là một trò chơi, sau đã lấn át
tâm hồn Trương, chi phối tư tưởng Trương như một lớp sống, một định mệnh thứ
ba: Cái định mệnh quái ác, tưởng (yêu) đùa lại hóa (yêu) thật, tưởng chết lại
không chết, lại sống, cứ sống, rồi chính cái sống thừa, sống ra ngoài mọi
ước vọng ấy, đã chơi khăm Trương, vì mọi toan tính về định mệnh đều vô nghĩa:
không ai có thể biết trước được định mệnh, kể cả những thầy thuốc giỏi nhất và
cũng không ai dự đoán được kết quả một cuộc tình. Trương như con bướm trắng lượn
trong các nẻo tâm tư của chính mình, Trương bay hết nơi này đến nơi khác, từ những
phăng-tát cực đoan của một người bệnh bị cái chết ám ảnh trong mỗi phút sống, đến
những giây phút hạnh phúc cũng như bi đát của một người bình thường, nhảy từ những
ý nghĩ trong sáng, dịu dàng nhất đến những toan tính đen tối, đồi tệ, đê hèn nhất.
Trương là bướm trắng bay trong não trạng của chính mình, Trương hành động, nhận
xét mình hành động, mà không hiểu những gì đã xẩy ra quanh mình, cho mình.
*
Cuộc phiêu lưu của Trương, sau khi đã hóa thân, mở đầu
bằng một chinh phục: Trương vừa nhìn thấy Thu, thấy Thu giống Liên, người yêu của
chàng đã chết vì bệnh lao ba năm trước, "chàng có cái ý oái oăm muốn Thu sẽ
yêu chàng (trang 16). Cuộc tình này là một thứ cú-đờ-phút, vừa lãng mạn lại
ráo hoảnh, trâng tráo đúng như ý nghĩ của Trương "muốn yêu thì sẽ yêu"
(trang 17), một cuộc đánh đố, muốn là làm được và Trương đã làm được thật.
Nhưng trò chơi nào cũng có thể dẫn đến một thực tại không chơi, đầy bí ẩn không
thể giải quyết, như thân phận Trương chỉ là một cánh bướm không biết mình sẽ đi
đến đâu, như mỗi con người đều là những cánh bướm bay trong định mệnh phi lý của
chính mình. Ngòi bút Nhất Linh cũng là bướm trắng di chuyển theo mạch nghĩ
của Trương, theo hành động của Trương, theo những ghềnh thác của suy tư và hành
động, sống mà như chết, chết mà như sống, không biết những suy tư và hành động ấy
sẽ dẫn mình đến đâu. Nhất Linh vừa tạo ra Trương, vừa bị Trương dẫn vào cái chốn không
biết ấy.
Trước đây, khi còn chăm chỉ đi học, Trương có một thể
xác và tâm hồn có thể gọi là "lành mạnh"; nhưng cái tôi "lành mạnh"
này đã chết bởi vì nó không thật, bởi vì nó chỉ là một nửa Trương, nửa
thánh thiện. Bướm trắng là hồn Trương, nhưng mảnh hồn này không
"siêu thoát" theo nghĩa nhà Phật mà nó là cái thực, nó là người, nó
là Trương toàn diện theo đúng nghĩa con người. Chính cái hồn bướm trắng này đã
đưa Trương vào khám nghiệm tử thi của chính mình, đào ra những ngõ ngách sâu
kín trong tâm hồn đích thực của mình. Trương trong Bướm Trắng, đời hơn
Dũng, người hơn Dũng trong Ðôi Bạn, bởi trong Trương những va chạm của xấu
tốt là thường trực, những ám ảnh của ham muốn, dục tình, tính toán, lừa lọc ...
là hàng ngày. Nếu trong Ðôi Bạn, Nhất Linh vẫn còn là một
nhà văn lãng mạn chỉ nhìn thấy cái đẹp, thì ở Bướm Trắng, Nhất
Linh đã đoạn tuyệt với lãng mạn, Nhất Linh lạnh lùng hơn, tự do hơn, từng trải
hơn, ông đã tìm cách thoát tục, đứng xa cuộc đời, đứng ngoài cuộc đời để nhìn
con người cho rõ.
Những ngõ ngách tâm linh phức tạp và mâu thuẫn của
Trương không thể dùng ngọn đuốc tình cảm lãng mạn để soi tỏ mà phải bay lượn bằng
đôi mắt đã hóa thành bướm trắng thoát tục, mới có thể trung dung chiếu vào đó
những ánh sáng neutre, không thiên vị: Trương sống tự do buông thả như một kẻ muốn
quên mình đang sống, như một gã kiệt lực muốn leo Hy Mã Lạp Sơn, đi từ mâu thuẫn
này đến mâu thuẫn khác, đôi khi hai mâu thuẫn chung sống với nhau như hình ảnh
kiêu kỳ của tình yêu "siêu việt" với Thu nằm chung màn với những cô
gái đêm hôi hám trong những nhà săm tồi tàn nhất; rồi những ý nghĩ đen tối như
mua dao để giết Thu, những ám ảnh kỳ dị bị Thu giết, cùng chung sống trong đầu
với những giây phút thần tiên thơ mộng: "Trương ngủ thiếp đi, chàng thấy
mình cứ cố nhoi lên để tránh mũi dao mà Thu đưa vào cổ mình, nhưng có một sức mạnh
ghê gớm giữ chặt lấy chàng, đè nặng lên hai bên ngực. Mũi dao đã chạm vào cổ,
nhưng chàng không đau đớn gì cả: một dòng máu chảy ngang cổ xuống gáy lạnh như
một dòng nước đá mới tan, Trương kêu thét lên: "Em giết anh" và giật
mình tỉnh dậy. [...] Chuông đồng hồ buông năm tiếng ngắn. Qua khe cửa, trời hãy
còn tối [...] Ngoài đường cái có tiếng lăn lạch cạch của một chiếc xe bò đi
qua. Trương đoán là một xe rau ở ngoại ô lên chợ sớm. Lòng chàng lắng xuống và
từ thời quá vãng xa xăm nổi lên một hình ảnh yêu quý của tuổi thơ trong sáng:
Khu vườn rau của mẹ chàng với những luống rau diếp xanh thắm, những luống
thìa là lá nhỏ như sương mù và hôm nào trời nắng, những mầm đậu hòa lan tươi
non nhú lên qua lần rơm ủ. Rồi đến khi luống đậu nở hoa trắng có những con bướm
rất xinh ở đâu bay về ...". (trang 141)
Như vậy không chỉ có tâm hồn Trương là cánh bướm mà cảnh
vật xung quanh cũng là những cánh bướm biến ảo không ngừng, Nhất Linh ở đây đã
tìm thấy một giao thoa vô cùng tế nhị giữa Ðông và Tây, giữa thiện và ác, giữa
mơ mộng và ác mộng; tất cả những đối cực ấy xẩy ra trong tiềm thức của Trương,
trong cái vùng u tối bí mật của bản ngã mà trước Bướm Trắng, chưa có tiểu
thuyết gia Việt Nam nào thật sự đi vào, thật sự thám hiểm.
*
Nhất Linh viết Bướm Trắng năm 38-39. Bốn năm
sau, 1942 ở Pháp, Albert Camus cho in tập tiểu luận Le mythe de Sisyphe (Huyền
Thoại Sisyphe), rồi tiểu thuyết L'étranger (Người Xa Lạ), tiếp theo là kịch
bản Le malentendu (Ngộ Nhận) và sau cùng là tiểu thuyết La chute (Sa
Ðọa).
Tất nhiên là hai nhà văn này không đọc nhau,
ít nhất là Nhất Linh không đọc Camus trước khi viết Bướm Trắng, nhưng có một
ngẫu nhiên trùng hợp lạ lùng là những chủ đề ẩn trong Bướm Trắng về
tính chất phi lý của cuộc đời, về vấn đề tự tử, về sự ngộ nhận, về tính sa đọa
của con người -những đề tài chủ yếu của Camus- đều có mặt trong tác phẩm của
Nhất Linh. Tại sao lại có một sự gặp gỡ kỳ lạ như vậy? Nhất là khi triết học hiện
sinh bắt đầu phát triển ở Pháp thì Tự Lực Văn Ðoàn đã hầu như hoàn tất
nhiệm vụ khai phá của mình, những tác phẩm chính của Tự Lực Văn Ðoàn
đã viết xong. Vậy chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng một câu hỏi khác: Phải
chăng Nhất Linh đã tạo ra một hình thức tra vấn bản ngã rất Ðông phương, rất
Trang Tử?
Trước tiên, đối với Nhất Linh, ngộ nhận và phi
lý là điều kiện sống của con người. Nếu ở Camus, phi lý có thể đưa đến giết
người (Meursault trong L'étranger giết người vì ánh nắng mặt trời chiếu
vào mắt) và trong "nghề" giết người, ngộ nhận có thể đưa đến mẹ giết
con, chị giết em mà không biết (Le malentendu), thì ở Nhất Linh, tình yêu tuyệt
đối giữa Trương và Thu là ngộ nhận và phi lý, Thu yêu Trương
trên căn bản ngộ nhận do phi lý đưa đẩy:
"Trương nhìn theo Thu. Khi nàng đi khuất sau cái
thành bể xây, Trương gấp vội bức thư bỏ vào túi. Chàng nhìn cửa buồng bên lưỡng
lự một lúc rồi đi vào buồng. Chàng đến gần bên giường. Nhìn qua khung cửa sổ ra
ngoài không thấy bóng ai, Trương với chiếc áo cánh của Thu rồi úp mặt vào chiếc
áo mà chàng âu yếm vò nát trong hai bàn tay. Lụa áo Trương thấy mềm như da người
và mùi thơm cay cay, không giống hẳn mùi thơm của nước hoa, xông lên ngây ngất.
Trương cảm thấy mình khổ sở vô cùng; chàng lấy làm lạ sao mình lại đau khổ đến
thế, đau khổ như một người sắp chết, cảm tưởng lúc ấy giống hệt cảm tưởng đêm
qua khi chàng nhìn trộm bàn tay của Thu trên tấm chăn.
Trong lúc ấy Thu đã đi gần đến nhà khách bỗng quay trở lại. Nàng mang
máng thấy có vẻ gì bất thường trong cử chỉ của Trương vừa rồi. Như cái máy,
nàng quay trở lại, nàng cũng không biết tại sao và quay trở lại để làm gì. Ði
khỏi cái bể xây, Thu dừng lại vì thoáng thấy Trương trong buồng. Nàng chăm chú
nhìn và khi đã hiểu: nàng đứng yên lặng, khắp người rờn rợn như có ai sờ vào da
thịt mình. Thấy Trương bỏ chiếc áo vắt vào chỗ cũ, nàng giật mình, đứng lùi khuất
sau thành bể." (trang 59).
Ở đây, Nhất Linh đã viết những dòng vô cùng gợi cảm về
sự tiếp xúc thể xác ra ngoài thể xác mà sau này nhiều nhà văn, đạo diễn điện
ảnh Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc. Cuộc tình của Trương và Thu thật sự bắt
đầu từ giây phút ấy, giây phút mà phi lý và ngộ nhận trùng
hợp: Nếu Thu không quay lại, không nhìn thấy cảnh này thì có lẽ Thu đã không bị
Trương chinh phục hoàn toàn. Tại sao Thu quay lại? Thu cũng không biết tại
sao và quay trở lại để làm gì? Việc Thu quay lại là một việc hết sức phi
lý, không giải thích được: phi lý và bất khả tri, là những điều
kiện của hiện sinh con người. Vì quay lại, nhìn thấy "cảnh ấy" cho
nên Thu đã tin rằng "Trương yêu nàng và tôn trọng nàng một cách siêu việt" (trang
11). Ðành rằng tất cả những khía cạnh ấy trong tình yêu của Trương đều có thật,
nhưng mới chỉ là một nửa sự thật. Thu ngộ nhận vì chỉ biết nửa sự thật, Trương
còn một nửûa khác mà Thu không biết: Viết thư tình giả dối, lấy nước rỏ lên làm
giả nước mắt, cho nhòe chữ đi, Trương thụt két, đánh bạc, hút thuốc phiện, chơi
gái, ... Trương biết mình bị ho lao mà vẫn muốn chiếm đoạt Thu, đánh lừa Thu,
cho Thu tưởng là mình cao thượng, tình thật Trương biết rõ: "căn bản của
tâm hồn mình, một căn bản vô luân, khốn nạn". (trang 138)
Trương gặïp Thu là một chuyện tình cờ, yêu Thu một cách
vô lý: "Hay có lẽ Thu cũng yêu chàng tự nhiên, yêu một cách vô lý như
chàng yêu Thu vô lý bấy lâu." (trang 199)
*
Tính chất phi lý của cuộc đời được Nhất Linh trình bầy
ngay từ những trang đầu: là một sinh viên trường Luật, đang chăm chỉ học hành,
thấy mình chớm lao, Trương đi khám bệnh, bác sĩ tuyên bố một câu xanh rờn:
"Phổi và tim ấy cũng còn được một năm nữa là ít" (trang 32). Câu nói
cỏn con của Chuyên, người thầy thuốc, đã hóa kiếp đời Trương: Trương bỏ học,
bán nhà bán đất của cha mẹ để lại để tiêu xài xả láng, sống cho hết mình trong
một năm trước khi chết. Ðời Trương hoàn toàn đảo lộn, từ lành mạnh xuống sa đọa
một cách phi lý, chỉ vì một câu nói. Mà không chỉ có đời Trương, những đời
khác, cũng quay gót chuyển hướng ít nhiều sang sa đọa một cách phi lý như thế:
Mùi, cô hàng xóm ngây thơ ngày xưa trở thành cô gái điếm què bây giờ, Quang yêu
đời trở thành ăn chơi, chết vì bệnh, Nhan sẵn sàng rơi vào tay "người anh
họ" hào phóng, "có lương tâm" là Trương, cả Thu, một cách nào đó
Thu cũng sa đọa, nhắm mắt chiều chuộng những đòi hỏi điên rồ của Trương. Trương
đang ở dưới đáy của tuyệt vọng, lại được Mùi cầu khẩn Trương kéo nàng ra khỏi
con đường tội lỗi: phi lý hết sức. Tất cả mọi giăng mắc của cuộc đời là một mớ
bòng bong phi lý, ngộ nhận và bất khả tri. Trong sa đọa,
Trương tiêu xài cuộc đời mình như một trò cá ngựa, đem dồn hết tiền (vừa thụt
két) đánh vào con ngựa Risque-tout (trang 165) và thua hết canh bạc đời. Trương
thua, bởi người ta không thể nào sống gấp được (trang 155) cũng như
không ai có thể ăn hết một lúc tất cả những thức ngon trong đời, những thứ mình
cứ tưởng là ngon, khi đã nhét đầy miệng, chúng không còn hấp dẫn nữa, mà lại buồn
nôn. Do đó, "chàng không bao giờ thấy được sung sướng trong chơi bời, trái
hẳn với ý chàng lúc mới ốm" (trang 126). Vô lý. Quanh Trương là vô
lý và không biết. Trương thụt két sắp bị bắt vào tù. Thu hỏi: Sao
anh làm việc ấy? Trương trả lời: Không biết (trang 178). Trương
tự hỏi: Thực tình chàng có yêu Nhan không? Chàng cũng không hiểu rõ (trang
189). Mùi đòi theo Trương. Theo anh à? Không thể được. Vô lý hết sức (trang
186). Ði bên Mùi, Trương tự nhủ: Ði với một con đĩ què. Vô lý (trang
182). Người đọc có cảm tưởng như nhân vật Meurseult trong Người
Xa Lạ của Camus là hậu thân của Trương: một sự ngẫu nhiên trùng hợp phi lý
hết sức.
Ngay cả đến những ước muốn của tình yêu: được Thu yêu
dù là "điều mà trước kia chàng không dám ước tới nay đã thành sự thực, sao
chàng vẫn không thấy lòng mình thỏa mãn.
- Chỉ có thế thôi à? (trang 123) Trương tự hỏi. Có lúc Trương "mong
được thỏa nguyện về vật dục để thôi không nghĩ đến Thu nữa" (trang 252).
Thậm chí Trương còn nhận thấy đưa thư cho Thu và thụt két đều cho Trương những
cảm tưởng giống hệt nhau, "chàng không muốn thụt két, nhưng biết trước là
thế nào cũng thụt két, cũng như khi trước biết là không nên đưa thư mà vẫn cứ
phải đưa thư" (trang 160). Tâm sự của Trương, không khác gì tâm sự của
Meurseult. Họ là những người xa lạ với mình, với người xung quanh, một niềm cô
đơn tuyệt đối trong cuộc hiện sinh tàn nhẫn.
Tất cả những nhận thức ấy đẩy Trương đến chán chường.
Chán sống. Tại sao không tìm một giải pháp? Tại sao không tự tử và
Trương nghĩ "cách tốt hơn hết là nhồi một viên đạn nhỏ vào trong sọ. Tạch
một cái, thế là hết. Ngọt như mía lùi." (trang 155).
Nhưng tự tử được không phải là dễ, "hèn nhát thì
không bao giờ tự tử được, mà có can đảm như trời cũng không thể tự tử được. Tự
tử được hay không là ở cảnh chứ không ở người." (trang 140)
Ở đây, Nhất Linh đã nói đến cảnh, tức là hoàn
cảnh, làm ta liên tưởng tới situation của Sartre, và tất nhiên là
Trương không thể tự tử được vì chàng chưa bị hoàn cảnh đẩy đến cùng. Nhưng
Nhất Linh, hơn 20 năm sau, đã bị hoàn cảnh đẩy đến cùng.
Nhất Linh, khi viết Bướm Trắng, đã tiên đoán số phận
mình đồng thời cũng đã tra vấn những tranh chấp vật lộn giữa sống và chết, giữa
cao cả và sa đọa, những quằn quại của con người trước những phi lý, bất khả tri
của định mệnh. Sự biết mình không sống lâu cho phép Trương để lộ mặt trái của
chính mình. Và càng để cho cái bộ mặt này hành động, Trương càng ngại nhìn thấy
nó, càng không muốn về nhà, sợ sự đối diện với chính mình, cái đối diện cay
nghiệt nhất và cũng tàn ác nhất, đó là sự đối diện với chính mình, đối diện với
cái xấu, cái chết.
Sự tự hủy của Trương chỉ là sự rút ngắn "cái
tôi", muốn dìm nó đi, cho nó chết trước thời hạn, để những "bầy nhầy"
của nó khỏi làm bợn tư tưởng của mình. Nhưng không ai vượt được định mệnh. Cái
chết không do sự quyết định của con người -kể cả những người tự tử- mà phải có
sự tập hợp của nhiều yếu tố, nhiều hoàn cảnh, tóm lại là phải có sự quần hợp của
những hoàn cảnh đẩy đến cùng, đến hố sâu nhất của tuyệt vọng. Tựu
trung, cái chết vẫn là chuyện của ngẫu nhiên, chuyện bí mật của định mệnh.
Nhất Linh, với Bướm Trắng, đã tìm ra một con đường
tiểu thuyết hoàn toàn khác trước và bỏ xa những bạn đồng hành. Trong khi những
người cùng thời với ông vẫn còn miệt mài trong tiểu thuyết hiện thực xã hội,
ông đã bước ra ngoài hiện thực và đi vào địa hạt nội tâm. Khi mọi người vẫn còn
là bác sĩ toàn khoa, ông đã trở thành bác sĩ chuyên môn, dùng phương pháp nội
soi để chiếu vào những ngõ ngách sâu xa nhất của tâm hồn con người, đối diện với
sống và chết, với tình yêu và cái chết, với cao cả và tội ác, với định mệnh và
hư vô. Những câu hỏi về thực chất của tình yêu, của lòng nhân ái, của
cao cả, của sa đọa được Nhất Linh tìm kiếm và rọi chiếu bằng một thứ ánh
sáng vô minh, bằng những hình ảnh phũ phàng thơ mộng, bằng một văn phong
nhẹ nhàng thoát tục: Bướm Trắng mở ra bối cảnh một Trang Tử bàn về cốt lõi của
vấn đề hiện sinh con người. Nhưng ở đây không có ngôn ngữ nặng chất duy lý của
triết học, ở đây là triết học đã hóa thân thành bướm trắng. Ðó là nghệ thuật Nhất
Linh. Nghệ thuật dùng cái đẹp chuyên chở tư tưởng. Và ở đó, Nhất Linh gần Trang
Tử hơn những nhà lập thuyết triết học hiện sinh, hiện đại.
Nhất Linh, Giòng Sông Thanh Thủy
Nhất Linh bắt đầu viết Dòng Sông Thanh Thủy ngày
28/11/1960. Cuốn đầu, Ba Người Bộ Hành, 248 trang, viết trong vòng một
tháng. Hai tập sau chắc cũng viết rất nhanh bởi toàn bộ ba cuốn, hơn 600 trang,
được nhà Ðời Nay in năm 1961, hai năm trước khi Nhất Linh quyết định tự chấm dứt
đời mình.
Tại sao lại có Dòng Sông Thanh Thủy? Một bộ tiểu
thuyết thoát ra ngoài cõi viết của Nhất Linh, một người mà cho đến năm 1960 vẫn
đặt vấn đề chính trị ra ngoài văn học? Phải chăng Nhất Linh muốn để lại
một tự phán của nhà văn Nhất Linh về nhà chính trị Nguyễn Tường Tam,
và qua đó là bản án của văn học đối với cách mạng?
Dòng Sông Thanh Thủy là một trường giang tiểu thuyết, gồm: Ba
Người Bộ Hành, Chi Bộ Hai Người và Vọng Quốc. Dòng Sông
Thanh Thủy viết về một thời kỳ cách mạng Việt Nam tại Trung Hoa, thời kỳ
44-45, trên trục Côn Minh, Khai Viễn, Mông Tự, Hà Giang mà hoạt động chính trị
của Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Ðảng thời đó, ở vào thế phải diệt lẫn nhau bằng
những phương tiện ám sát, thủ tiêu tàn bạo nhất. Hai nhân vật chính
trong truyện: Ngọc, cán bộ Việt Quốc, Thanh, cán bộ Việt Minh, đều biết họ có
nhiệm vụ phải giết người kia nhưng đồng thời họ cũng yêu nhau bằng một tình yêu
tuyệt đối: tình yêu đến chết.
Về văn phong và nghệ thuật, Dòng Sông
Thanh Thủy không phải là tác phẩm nổi bật nhưng là cuốn sách mạnh
nhất về tư tưởng và chính trị của Nhất Linh, ông điều tra về con người, về các
guồng máy chỉ đạo con người, về tội ác, về các sự nhân danh lý tưởng,
tổ quốc dẫn đến tội ác, về chỗ đứng của tình yêu, bên cạnh tội ác. Tóm lại là sự
sa đọa của con người trong các guồng máy cách mệnh, Việt Quốc và Việt Minh nói
riêng, và qua đó là sự sa đọa của con người trong các guồng máy cách mạng nói
chung.
Dòng Sông Thanh Thủy không phải là cuốn tiểu thuyết
chống Cộng sản, bênh Việt Nam Quốc Dân Ðảng, ở đây Nhất Linh đứng ngoài địa vị
đảng trưởng, ông dùng địa vị nhà văn để xét về những hành động tàn bạo
của những con người bẩm sinh hiền lành, có lòng nhân ái, nhưng khi đã
bị rơi vào guồng máy cách mạng (như những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng hay
Việt Minh), có thể trở thành những kẻ sát nhân lạnh lùng, không một
chút rùn tay, chùn bước. Dòng Sông Thanh Thủy là tác phẩm phản
đề, phản lại những mẫu người cách mệnh trước, như Dũng, như Trúc v.v..., những nhân vật
lãng mạn đi làm cách mạng mà không nhúng tay vào tội ác. Với Dòng Sông
Thanh Thủy, Nhất Linh xác định: cách mạng và tội ác đi đôi với nhau, không thể
khác. Và trong Dòng Sông Thanh Thủy, Nhất Linh nhà văn, kết án Nguyễn
Tường Tam nhà cách mạng, để đưa ra một thực tại thứ nhì: cái đẹp
trong văn chương và ý nghĩa nhân bản của văn học
sẽ còn tồn tại lâu dài, như những câu thơ của Tô Ðông Pha vẫn sống mãi mãi
trong lòng người, trong khi những Chu Du, Tào Tháo ... đều đã trôi vào quên
lãng. Chứng cớ là 40 năm trôi qua, Nhất Linh nhà văn vẫn còn tồn tại,
trong khi nhà cách mệnh Nguyễn Tường Tam đã đi vào dĩ vãng của lịch sử. Ðó là ý
nghĩa sâu xa của tác phẩm.
*
Dòng Sông Thanh Thủy được cấu trúc như một tiểu
thuyết trinh thám mà các đối thủ rình tìm chỗ hở của nhau để ra tay, lồng trong
không khí toàn thể là sự nghi ngờ, một nỗi nghi ngờ bệnh hoạn: không biết đối
phương là ai? Là gián điệp một chiều hay hai chiều? Kẻ mình sắp giết có phải là
nội giám của phe địch hay oan? Hay chính mình là kẻ sẽ bị phe địch giết trước? Ba
Người Bộ Hành là sự rình rập tay ba giữa Ngọc, Tứ và Nghệ. Chi Bộ Hai
Người đối chất, dò thám giữa Thanh và Ngọc, và Vọng Quốc theo
dõi đường về cõi chết của hai người.
Những nhân vật chính (cán bộ Việt Quốc và Việt
Minh) xuất thân ở những môi trường khác nhau, làm cách mệnh vì tình cờ hơn là
vì lý tưởng.
Ngọc (Việt Quốc) đang đi học, vì nhà sa sút nên phải bỏ dở để học nghề
đan ren ở làng bên cạnh. Ngọc yêu Thúy, con ông chủ. Thúy mất vì ho lao. Ðang
bàng hoàng vì cái chết của Thúy, Ngọc được Lê, anh ruột Thúy dẫn vào cách mạng,
trở nên một cán bộ chuyên nghiệp, giữ việc giao liên và thủ tiêu những phần tử
Việt Minh. Thanh (Việt Minh) được lệnh quyến rũ Ngọc, trà trộn vào hàng ngũ Việt
Quốc ở Vân Nam và Hà Giang để triệt hạ toàn bộ. Thanh thuộc lớp người trưởng giả,
con nhà giàu, có học, lấy chồng nhưng người chồng chơi bời, tiêu hết tiền hồi
môn của vợ, hai người ly dị, Thanh gặp người tình thứ nhì, lại bị lừa lần nữa,
chán nản sự đời, gia nhập Việt Minh.
Những nhân vật khác cũng theo cách mệnh vì những
lý do cá nhân hơn là vì lý tưởng, như Nam, trước làm y tá, vì nhà sa
sút nên phải lấy một người chồng Tàu, rồi theo chồng
sang Văn Sơn; chồng chết, ở hẳn lại Vân Nam, hành nghề thầy thuốc, đỡ
đẻ giúp người, gia nhập Việt Quốc, thi hành các vụ thủ tiêu. Nam, dưới mắt Ngọc,
"nàng là người rất hiền lành thế mà bây giờ nàng cũng giết người không
khác gì chàng" (Ba Người Bộ Hành, trang 110). Về việc Nam thủ tiêu Vương Ðức,
một cán bộ Việt Minh, Ngọc nghĩ: "chàng chưa hiểu được tại sao một
người đàn bà nhu mì như Nam lại có thể giết người, mà lại tự ý giết một cách độc
ác như thế, chàng thốt nhớ lại câu Thanh nói: "Bị cái guồng máy nó lôi
kéo." [...] Ý nghĩ về cái tốt, cái xấu ở đời lại lảng vảng trong đầu óc
chàng, [...] cũng như Tứ và Nghệ, đều là những người tốt, có lòng nhân đạo
[...] Ngay lúc Nam kể cho chàng nghe về việc giết (Vương) Ðức, chàng không khỏi
ghê tởm vì lòng độc ác của con người; chàng thấy thương hại cho Ðức khi bị Nam
bóp cổ; đôi mắt mờ ấy biết đâu đã không đau khổ vì không hiểu và biết đâu Ðức
không có cha mẹ, vợ con hay một người yêu và trước khi chết đã không nghĩ tới
những người thân yêu đó" (Ba Người Bộ Hành, trang 115)
Ngọc không hiểu hành động của Nam, một người phụ nữ hiền
lành, một bà đỡ, một thầy thuốc chữa bệnh cho người nghèo, một người cứu nhân độ
thế mà lại có thể giết người không gớm tay, cũng như Ngọc không hiểu được chính
mình, chỉ ít lâu sau sẽ nhúng tay vào việc thủ tiêu hai cán bộ Việt Minh, Tứ và
Nghệ, một cách tàn ác và lạnh lùng không kém.
*
Ba Người Bộ Hành, viết về hành trình rình rập giữa Ngọc,
Tứ và Nghệ. Cả ba đều đã dùng những thủ đoạn "dối trá, gian giảo, độc
ác để hạ thủ nhau": "Họ rình nhau như những con thú dữ mà người nào
cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp" (Ba Người Bộ Hành, trang
207). Ở đây, Nhất Linh đã viết những trang thản nhiên và rùng rợn nhất về tội
ác của con người, nhân danh cách mạng. Ngọc dẫn Tứ và Nghệ đến một chỗ
được gọi là "chỗ ấy", tức là nơi Ngọc sẽ thi hành bản án; trên đường
đi xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát "Chàng cất
tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố
hát thật mau:
Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!
Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,
Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
Chàng chuyển sang điệp khúc:
Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
Tuốt gươm, thề với núi sông ... Hồn nước muôn năm sống cùng
...
Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc
trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra." (Ba Người Bộ Hành,
trang 214)
Trong suốt cuộc hành trình, Ngọc sung sướng thưởng thức
cảnh đẹp, say sưa với những nhịp bước hùng ca như thế, và sau khi đã bỏ thuốc độc
trong cà phê cho Tứ và Nghệ rồi, "chàng nhấc thây của Nghệ và Tứ đem
ra đặt sát gần bức vách núi rồi đẩy mạnh một cái. Hai cái xác rơi từ trên cao
xuống, lọt vào khe mấy tảng đá. Ðứng ở trên còn thấy hở ba cái chân, Ngọc bẻ một
cành cây rậm lá quăng xuống, chàng phải quăng xuống bốn năm cành mới có một
cành trúng và che phủ mấy cái chân hở. [...]
Ngọc ngẩng lên: trời cao và xanh, lơ lửng một vài đám mây trắng. Các ngọn
núi bao bọc chung quanh dưới ánh sáng mùa thu trong có một vẻ đẹp rực rỡ mà vẻ
đẹp của trời thu như còn xa hơn nữa; nắng đẹp ở vườn sau nhà Thanh, nắng làm
rám da mấy quả lựu và làm hồng đôi gò má Thanh đương đứng ngắm những cánh hoa lựu
trắng, nắng còn đẹp ở những nơi xa xa nữa; lúc này Nga đương ra vườn cất quần
áo đã khô, lòng chợt nhớ đến chồng, mong ngày chồng về; nắng đẹp ở trong vườn
người chị thân yêu của chàng giờ này có lẽ đương cau mũi và mắng chàng:
- Thằng Ngọc chết tiệt, đi đâu biệt tích không một lá thư gửi thăm
nhà." (Ba Người Bộ Hành, trang 237-238)
Phải có một bản lĩnh cao cường như Nhất Linh mới có thể
hòa trộn tội ác trong một bối cảnh trời cao, mây rộng, yêu nước và yêu người
như thế. Trong con người, không thể phân biệt được đường ranh thiện ác như Nhất
Linh đã dẫn đầu tiểu thuyết bằng hai câu thơ của Nguyễn Du: Trời kia đã bắt
làm người có nhân, đã mang lấy nghiệp vào thân, và lời của Pascal: Vérité
en deça des Pyrénées, erreur au delà, bên này dãy núi Pyrénées là sự thực, bên
kia là sai lầm.
Nhất Linh đã thay rặng Pyrénées của Pascal bằêng dòng
sông Thanh Thủy. Ở Nhất Linh, trong con người không có rặng Pyrénées, cũng
không có dòng sông Thanh Thủy, hoặc nếu có thì cả núi lẫn sông đều chìm lấp
trong cái vực chung thiện ác là trái tim.
Ngọc và Thanh là tên của loài lan quý, lan Thanh Ngọc
mà Nhất Linh đã nâng niu bên dòng suối Ða Mê. Dòng Sông Thanh Thủy in
10 bản trên giấy Thanh Ngọc và trong 17 phụ trang do chính Nhất Linh vẽ, lan
Thanh Ngọc được minh họa ở trang đầu với hai câu thơ:
Sắc trong Thanh Ngọc hương thơm mộng Một
thoáng mơ tiên thoảng xuống trần.
Bài thơ và bức họa mở đầu cho tiểu thuyết Dòng
Sông Thanh Thủy như để giới thiệu chân dung hai người, vừa trong như Ngọc,
vừa Thanh như lan, nhưng cũng lại là những kẻ giết người không gớm tay, khi họ
bị guồng máy cách mệnh cuốn về hai phe đối đầu: quốc gia và cộng sản.
Tác phẩm của Nhất Linh, do đó không chỉ viết
về một thời tranh chấp giữa Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Ðảng những năm 45,
mà còn bao trùm những tranh chấp Quốc-Cộng, sau khi Nhất Linh mất. Những tranh
chấp ấy không phải thời này mới có, mà có tự ngàn xưa: "Thanh nói với
Ngọc:
- Cái guồng máy ấy vẫn còn, còn mãi. anh đã xem Ðông Chu Liệt Quốc và Tây Hán
chứ?
- Có, tôi có đọc nhiều lần.
- Ðấy, anh xem cái guồng máy đã có từ mấy nghìn năm trước. Anh chắc còn nhớ Vệ
Ưởng nước Tần, Phạm Lãi với Văn Chủng nước Việt, Hàn Tín với Trương
Lương đời Tây Hán. Vệ Ưởng, Văn Chủng, Hàn Tín đều bị cái guồng máy
nó nghiền nát nhừ cũng như nó sẽ nghiến anh Ninh và cả anh nữa. [...] Anh bị
lôi cuốn vào đó và tôi cũng vậy." (Chi Bộ Hai Người, trang 86)
Thanh, trong truyện, gần gũi với Nhất Linh, tâm hồn nghệ
sĩ, yêu cái đẹp, có tư tưởng. Ðã bao lần Thanh muốn bỏ tất cả để tìm đến thiên
thai với Ngọc. Họ đã sống những giây phút thần tiên, lãng mạn với nhau, đã đi
thuyền trong trăng, đã dạo vườn đào Côn Minh như Lưu Nguyễn. Thanh đã muốn bỏ tất
cả tục lụy, tranh chấp, chém giết, nhưng guồng máy không tha cho Thanh, không
tha cho Thanh-Ngọc. Như Thanh, Nhất Linh cũng đã bỏ tất cả, lên Ðà Lạt tu tiên,
tìm một cõi đam mê, vượt khỏi bậm bụi cuộc trần, nhưng rồi rút cục Nguyễn Tường
Tam cũng không thoát khỏi guồng máy, lại trở về trần, trở về với đấu tranh
chính trị, để rồi bị cái guồng máy chính trị ấy nghiền nát. Nhất Linh gánh cái
nghiệp của nhà văn và nhà cách mạng: cả hai đều biết rất rõ về nhau
nhưng không buông tha nhau và đeo đuổi nhau đến hơi thở cuối
cùng. Văn chương và cách mạng đối với Nguyễn Tường Tam Nhất Linh như
Ngọc và Thanh, như lan Thanh Ngọc, là một thứ tình yêu lạ lùng, tình yêu đến chết.
Khi Ngọc và Thanh biết đích xác nhiệm vụ của nhau, họ
cùng đi với nhau đoạn đường cuối tên là Vọng Quốc. Họ cùng vọng quốc như nhau,
cùng rời Côn Minh đi về biên giới, vượt cầu sang sông Thanh Thủy, về Hà Giang để
phụng sự đất nước.
Ðất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của
đảng họ lại khác. Cho nên phải giết nhau. Ðoạn đường cuối ấy được Ngọc cảm nhận
như sau: "Ngọc cho cuộc đi với Thanh về Hà Giang như một cuộc tìm kiếm
thiên thai; thân chàng dù có bị guồng máy nghiến nát nhưng linh hồn chàng theo
lời Thanh vẫn thường nói, sẽ tan đi như hạt muối trong nước hay biến thành một
niềm vui hòa loãng trong cái mênh mông của hư vô. Phạm Lãi, Tây Thi chết đã mấy
nghìn năm nhưng tâm hồn hai người vẫn tồn tại trong tâm hồn nhân loại." (Vọng
Quốc, trang 92)
Trong hành trình này, có lúc tâm sự, hai người đã đồng
ý với nhau rằng trước khi chết, nếu được nhìn một hình ảnh đẹp, nghe một điệu
nhạc hay, thì cái chết chắc sẽ bớt đau hơn. Và rồi họ cũng đạt đến giây phút thần
tiên ấy:
"Thanh để hết cả tâm hồn khe khẽ ngâm, tiếng thoảng nhẹ như hơi gió
trong đêm trăng sương mù:
Ðêm sương thoảng tiếng ai trong gió,
Lòng hỏi lòng biết có hay không?
Hay chăng tiếng vọng mơ mòng
Của lòng mình nói cho lòng mình nghe...
Tiếng ngâm rứt đã từ lâu nhưng dư âm còn vang mãi trong hồn Ngọc. Tự
nhiên chàng nghĩ đến hôm đi chơi hồ, Thanh ngâm bài phú Xích Bích và nói bây giờ
còn đâu Tào Tháo, Chu Du nhưng câu thơ hay của Tô Ðông Pha và ánh trăng trong
trên dòng Xích Bích thì còn mãi mãi. Chàng nghĩ Thanh và chàng có thể lát nữa sẽ
chết, Việt Quốc, Việt Minh ám hại lẫn nhau cũng không còn nữa. Nhưng tiếng ngâm
của người yêu thì như mãi mãi bàng bạc trong không gian của những đêm sương lạnh." (Vọng
Quốc, trang 208)
Có phải đó là chúc thư văn học của Nhất Linh?
Phải chăng Nhất Linh muốn nhắn lại rằng những con người tranh giành nhau vì quyền
lực, vì lý tưởng, rồi sẽ chết. Nhưng tiếng thơ không chết. Tô Ðông Pha không chết.
Cho nên nhà chính trị Nguyễn Tường Tam có thể chìm trong quên lãng nhưng
nhà văn Nhất Linh sẽ sống mãi với Ðôi Bạn, Bướm Trắng, Xóm Cầu Mới,
Dòng Sông Thanh Thủy... trong lòng người.
Nhất Linh, Xóm Cầu Mới
Ở Nhất Linh, mỗi tiểu thuyết là một chặng đường, với Xóm
Cầu Mới Nhất Linh tổng kết những chặng đường nghệ thuật và tư tưởng, đem hết
kinh nghiệm sống và viết của đời mình để tạo nên tác phẩm. Ở đây không còn
chủ đề, không còn đấu tranh xã hội, cũng không phơi bầy một triết lý sống nữa,
mà chỉ có đời trần trụi. Ðời sống. Trong Xóm Cầu Mới, Nhất Linh đã đạt đến cái
đích của tiểu thuyết mà ông mong muốn "không phải là sự diễn tả đời sống
nữa, nó chính là đời sống, đời sống rung động và hồi hộp, mà không chỉ là đời sống
bên ngoài mà còn là đời sống bên trong, đời sống bí ẩn của tâm hồn"(1) Nhất
Linh tạo không gian nội tâm và ngoại giới của mỗi nhân vật và đi sâu
vào không gian ấy như thể ông bị nhân vật lôi cuốn đi, từ Mùi, Siêu,
đến những người xung quanh như Tý, Bé, Triết, Mạch, ông Lang Hàn, U già, vợ
chồng bác Lê, Nhỡ, Ðỗi, Bà Chủ Nhật Trình, ông Năm Bụng, cậu Ấm, cụ Án v.v...
Nhất Linh không xây dựng nên nhân vật nữa mà
chính những nhân vật dựng nên cõi viết Nhất Linh. Xóm Cầu Mới bắt
đầu bằng những hàng:
Mùi sực thức giấc nhưng còn mơ màng chưa tỉnh hẳn. Tiếng
gió trong lá cây, ở xa xa, không biết nàng nghe thấy thực hay chỉ là tiếng
trong giấc mơ; tiếng lá loạt soạt làm nàng cảm như đâu đây có ai vừa kéo chăn đắp
cho khỏi lạnh, tay nàng bất giác kéo một góc chăn phủ lên chỗ ngực để hở. Một nỗi
vui lành mạnh thấm nhuần khắp thân thể và hình như người nàng vẫn vui suốt cả
đêm qua, bây giờ hơi tỉnh nàng mới nhận thấy: "Ban đêm mình nằm mê thấy một
chuyện gì chắc vui lắm." (Xóm Cầu Mới, Phượng Giang, 1973, in lại ở
Hoa Kỳ, không đề năm, không đề nhà xuất bản, trang 13)
Nhận xét đầu tiên là tất cả những động tác của Mùi ở
đây chỉ làm nổi bật phần cốt yếu là sinh hoạt tâm linh của Mùi. Hành động đáng
chú ý nhất là "kéo chăn" lên đắp trên ngực, cũng không phải do chủ
đích của Mùi mà là vì Mùi cảm thấy như đâu đây có ai kéo chăn đắp cho khỏi lạnh,
cho nên tay nàng bèn "bất giác" kéo một góc chăn lên để đắp chỗ ngực
để hở. Vậy ngay đến hành động kéo chăn lên đắp ngực của Mùi cũng là một hành động
mơ hồ, như trong vô thức. Và trong 50 trang tiếp theo là hồi ức của Mùi về những
việc xẩy ra hôm qua, từ khi nhận được thư Siêu báo tin sẽ về Xóm Cầu Mới,
xa hơn nữa đến thời tuổi thơ của Siêu và Mùi, những giận dữ, những trò chơi và
cái hôn đầu của tuổi mười ba. Rồi khi Siêu đi xa, Mùi vả tay vào dậu găng cho
chẩy máu để ăn vạ v.v...
Tất cả những động tác, những ký ức và hồi tưởng chạy
dài trong đầu khi Mùi nằm trên giường còn ngái ngủ. Trước Xóm Cầu Mới dường
như chưa có tiểu thuyết gia Việt Nam nào sử dụng "hồi tưởng" lâu như
vậy. Ở đây có một sự êm ả rất Ðông phương và một táo bạo rất Tây phương.
Tưởng tượng thêm một chút nữa, người đọc có thể thấy một
mối tương quan nào đó giữa chương đầu Xóm Cầu Mới và chương đầu của A
la recherche du temps perdu Ði Tìm Thời Gian Ðã Mất của Marcel Proust. Ðoạn "Một
Buổi Sáng" trong Xóm Cầu Mới có gì giống như đoạn Combray của
Proust, cậu bé Proust thao thức trên giường với tiếng gọi của kỷ niệm, của suy
tưởng. Tất nhiên không có gì chứng minh Nhất Linh chịu ảnh hưởng Proust. Trong
tập tiểu luận Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết cũng không thấy Nhất Linh nhắc
đến Proust mà ông khâm phục Tolstoi. Nhưng cách xây dựng tiểu thuyết của Nhất
Linh không giống cái "không khí" Tolstoi nữa, tức là đã ra khỏi thế kỷ
XIX để bước vào thế kỷ XX mà hồi tưởng, mơ mộng và ký ức được tận dụng triệt để
với Marcel Proust. Nhất Linh trong Xóm Cầu Mới sử dụng hồi tưởng và
ký ức như một lợi khí mới của văn học. Và nếu có mối tương quan nào
giữa Nhất Linh và Marcel Proust thì chỉ ở chỗ sử dụng những yếu tố đó và chỉ ở
chỗ đó mà thôi vì sự khác biệt của họ rất rõ ràng: văn phong của
Proust dồn dập, nhiều dòng, nhiều trang, như một hơi thở tràn đầy âm điệu, hình
ảnh, mầu sắc v.v..., Proust là người "dụng văn" trong khi Nhất
Linh ngắn, gọn, đơn giản, ông chủ trương không làm văn (nữa), tức là
bỏ lối viết văn chương của thời lãng mạn để trở về với lối viết
nguyên thủy "có lời là vì ý, được ý hãy quên lời" rất Nam Hoa
Kinh mà những nhà văn lớp sau như Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Võ
Hồng đã ít nhiều chịu ảnh hưởng. Riêng Võ Phiến, trong lối mô tả chi tiết và
hay nhắc đến lời Nhất Linh khuyên những ai muốn viết tiểu thuyết hay đừng quan
tâm tới câu văn hay (trong Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết). Ở đây chúng
ta nên để ý: lời khuyên của Nhất Linh chỉ có tính cách tương đối vì một người
không theo "trường phái" Nhất Linh như Vũ Khắc Khoan vẫn được Nhất
Linh cảm mến. Trở lại với cái chung giữa Proust và Nhất Linh, chúng ta thấy cả
hai đều cho người đọc cái ấn tượng an lạc, hạnh phúc trong những giây phút sống
lại kỷ niệm. Ở Proust là chiếc bánh madeleine chấm nước trà bất hủ. Ở Nhất Linh
là dậu găng, là những cánh hoa mộc, là những chiếc bánh gai, những ngày lụt lội,
những con ma ở gốc đa, ở lăng cụ Quận, những con lợn của bác Lê và những cái cốc
đầu con của bác ấy. Là thằng Tý thông minh, là U già lẩm cẩm hay nói ngang phè
mà có lý, là bà ký Ân Chủ Nhật Trình hay nõ mồm, mở mồm ra là "người
trần mắt thịt ơi!", là ông giáo Ðông Công Ích Tin Lành vừa buôn đạo vừa
buôn công phiếu. Là ông Năm Bụng giắt năm chai rượu lậu trong bụng, cụ Án bắt
ruồi, cậu Ấm nói dối vợ đi bắn vịt trời để hút thuốc phiện v.v... Cái thế giới ấy
đã qua như một thời vang bóng, được Nhất Linh dựng lại như một thế giới đang
còn sống bây giờ, một xã hội bắt đầu nghiêng xuống, một xã hội về chiều. Tính
chất nghiêng xuống ấy là nòng cốt tác phẩm. Nghiêng xuống mà không bi quan,
vẫn hóm hỉnh và có hạnh phúc. Chúng ta thử đọc trích đoạn cụ Án kho cá và bắt
ruồi sau đây:
Cụ Án nghiêng người nhấc cái vung nồi cá kho dứa đặt
trên cái hỏa lò con nhìn vào trong nồi và hít mũi mấy cái. Lứa cá kho này cụ thấy
ngon hơn mọi lần. Trong đời cụ, cụ chỉ thích nhất ăn cá kho dứa, mùa nào không
có dứa tươi thì cụ nấu cá với dứa hộp và Hải đi Hà Nội mua đạn bao giờ cũng nhớ
mua mấy hộp dứa biếu cụ. Ðộ trước khi cụ Án ông còn sống bắt cụ rời nhà quê lên
ở trên tỉnh, cụ được nếm đủ các thứ sơn hào hải vị nhưng cá kho dứa cụ vẫn thấy
ngon nhất. Cá kho ăn lại đỡ tốn, mỗi miếng cá bé tý cũng ăn được bao nhiêu là
cơm. Biết tính cụ nên có ai biếu cụ là biếu cá và phải là cá còn tươi nguyên. Cụ
tự tay kho lấy và kho xong thì cụ treo ngay trên giường cụ ngồi, vừa tầm tay với.
Cụ đậy vung nồi và tay lại cầm lấy cái que đập ruồi. Chỉ trừ lúc giã trầu
ở cối, còn thì lúc nào tay cụ cũng cầm que đập ruồi. Cụ ghét và sợ ruồi lắm.
Nhưng ở chung quanh chỗ cụ ngồi thì lại có đủ các thứ để nhử ruồi đến thật nhiều;
ngoài nồi cá, lại có những xâu cá mắm, những chai mật ong và những quả chuối
bao giờ cũng chín đen chín nát. Vì cụ bại một chân đi phải chống nạng nên ít
khi cụ đi lại. Giang sơn cụ và cả đời cụ vì thế thu hẹp trong phạm vi cái giường
cụ ngồi. Tất cả những thứ gì cụ cần dùng đều để ở trên giường và ở cái tủ chè cạnh
giường. Chỉ trừ có số tiền cụ để dành được là cụ dấu ở chỗ khác.
Vì cụ không đi lại được nên chỉ đánh được những con ruồi ở trên giường. Ðể
bắt ruồi chung quanh giường cụ nuôi cò ruồi, nhưng con cò không được bắt ruồi
trên giường. Có con ruồi nào vừa bay đến đậu trên chiếu mà con cò định mổ thì cụ
đã nhanh tay đập trước; đập xong cụ hất ruồi xuống đất cho cò ăn. Lần nào con
cò nhanh hơn mổ cướp của cụ một con ruồi trên chiếu là cụ lấy cán que đập ruồi
đập vào đầu con cò một cái để phạt nó hỗn. Có một con cò lâu dần hiểu được chỗ
đó nên không bao giờ mổ tranh ruồi của cụ; cụ thích lắm và khoe với tất cả mọi
người, nhưng sau con ấy bị chó cắn chết mất. (trang 288, 289, sđd)
Qua những hàng trên đây, Nhất Linh đã viết nên những nét bi hài của một cụ
Án về già, của một thời đã mất, từ một cụ Án bà quyền quý, có thể đã có thời dựa
vào uy thế cụ ông, hét ra lửa, vậy mà bây giờ giang sơn cụ thu hẹp lại còn có
cái giường, mà cũng không phải cả cái giường, các thứ lủng củng chiếm đến nửa,
phần còn lại cụ ngồi chung với ruồi, cụ đập ruồi, tranh với cò, bên cạnh nồi cá
kho, xâu cá mắm ... Hoàn cảnh cụ không khác gì lắm với gia đình bác
Lê, những ngày nước lên phải ngủ chung với lợn. Nhưng cảnh cụ còn đau thương
hơn, vì cụ có con cò tâm đắc nhất thì nó lại bị chó cắn chết.
Không thể biết rõ Xóm Cầu Mới ở vào thời nào,
chỉ biết mang máng như là khoảng nửa đầu thế kỷ XX, mang máng bản đồ Xóm Cầu
Mới giống bản đồ huyện Cẩm Giàng, Nhất Linh cố ý làm bàng bạc thời gian, tạo
nên tính chất vô định của tất cả những thời đại đang suy tàn. Mà thời đại nào rồi
cũng phải suy tàn, như câu thơ của Vũ Ðình Liên những người muôn năm cũ, hồn
ở đâu bây giờ. Ðó là lý do tồn tại của những kẻ như Proust, như Nhất Linh mải
đi tìm thời gian đã mất.
Viết Xóm Cầu Mới, Nhất Linh đã sử dụng tất cả những kinh
nghiệm viết của mình, những kinh nghiệm mà ông đã ghi lại trong cuốn tiểu luận Viết
Và Ðọc Tiểu Thuyết. Nhưng đó không phải là cốt yếu. Ðiều cốt yếu là Nhất Linh
đã tạo dựng lại một thời đã mất và làm chúng bất tử với những nhân vật
đang sống, đang suy nghĩ, với những thèm muốn, những tính toán, những hồn nhiên
của họ, tạo ra mối tương quan giữa con người với nhau cũng như những tương quan
giữa những cô đơn với nhau. Xóm Cầu Mới là một xã hội
có giai cấp mà lại như không còn giai cấp,
các giai cấp đã lộn tùng phèo, chỉ có tương quan giữa người và người:
giữa hai bác Lê và thằng Tý, tương quan giữa cụ Án và những con ruồi, con cò, nếu
có thể nói ruồi, cò cũng là người, so với một cụ Án đã hoàn toàn mất địa vị. Giữa
Mùi và U già, U già luôn luôn ở thế mạnh hơn Mùi, tương quan giữa Bé và Ðỗi,
tương quan giữa bác Lê gái và bác Lê trai, v.v... và trong những tương quan ấy,
phái mạnh, hay phái khỏe, thường có vẻ kém thế trước phái yếu ... Nhất Linh tạo
ra những cái tên, những khuôn mặt như bà Chủ Nhật Trình, ông Năm Bụng, ông giáo
Ðông Công Ích Tin Lành ... như một khởi thủy, vì trước ông, chưa thấy ai đưa ra
một "hệ thống" đặt tên như thế và sau ông, có những ông Ba Thê Ðồng
Thời, anh Bốn Thôi, ông Bốn Tản, chị Bốn Chìa Vôi ... của Võ Phiến, đó là một nối
tiếp "truyền thống" Nhất Linh, hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Có
điều rằng trong những tác phẩm đầu của Võ Phiến, chưa thấy xuất hiện
cách đặt tên như vậy. Nếu có một sợi dây liên hệ giữa Nhất Linh và các tác giả
đến sau thì không chỉ dừng ở mức đặt tên mà còn ở cả lối mô tả nhân vật,
như bà Chủ Nhật Trình luôn luôn mở miệng ra là "người trần mắt thịt
ơi". Cách xác định cá tính nhân vật bằng một nét cố hữu này Nhất
Linh đã chịu ảnh hưởng của Tolstoi và có lẽ từ Nhất Linh, Nhật Tiến đã tìm được
cách mô tả nhân vật cực kỳ sống động trong Thềm Hoang với
những cô Huệ mở mồm ra là "khỉ gió đùng lăn!", cô Ðào mở mồm là
"khắm chửa!".
Nhất Linh không chỉ ảnh hưởng đến những người đến sau bằng
cách đặt tên, hoặc sống động hóa nhân vật mà còn ở cả lối nhận xét
chi li, và nhất là cách mô tả toàn cảnh bằng một chi tiết mà sau này người đọc
cũng tìm thấy lại trong các tác phẩm của Võ Phiến, Võ Ðình. Biện pháp
hoán dụ này chỉ dùng một chi tiết va chạm thể xác như đụng chạm ngón tay, bàn
chân hoặc đôi khi không đụng chạm mà chỉ nhìn trộm hoặc dùng khứu giác để miêu
tả những mãnh liệt của nhục cảm trong đầu các nhân vật. Nhất Linh đã
dùng thủ pháp này từ Bướm Trắng trong hai xen độc đáo: Trương nhìn trộm
bàn tay của Thu trên tấm chăn và Trương với chiếc áo cánh của Thu úp vào mặt.
Trong cả hai xen đều không có "công-tắc" thể xác trực tiếp, nhưng Nhất
Linh đã diễn tả một cách tuyệt vời lòng ham muốn và động lực tính dục trong con
người. Ở Xóm Cầu Mới, biện pháp này còn đa dạng hơn nữa, Nhất Linh đưa ra
rất nhiều xen để mô tả cái tính "đĩ ngầm" của Mùi: Mùi
"ngủ" với lá thư của anh Siêu, Mùi quất tay vào dậu găng cho chẩy
máu, hai lần Mùi rửa chân với anh Siêu ở hai "nồng độ" khác nhau, mưa
lụt, Mùi bắt anh Siêu bế, Mùi nằm đắp chăn trên giường của anh Siêu, .... Hoặc
Ðỗi dẫm lên chân Bé (để tỏ tình), ông Giáo Ðông "cầm nhầm" cái
khăn che mắt của Bé lại hí hửng tưởng là khăn mùi-xoa của Mùi, chỉ có Nhỡ là
yêu Mùi thầm kín nhất ... Ở Xóm Cầu Mới Nhất Linh đã trình bầy những
dạng thức biểu lộ tính dục của con người, tùy theo giai cấp, một cách
nhuần nhuyễn và đa dạng và chắc chắn là những người tinh tế viết sau ông đã tìm
được những ảnh hưởng đích đáng.
Nhục cảm (sensualité) là một đề tài khó viết, khó nói,
viết dở sẽ trở thành thô, viết hay, xưa nay chưa có nhiều nhà văn đạt
được. Nhất Linh đã vượt được giới tuyến này bằng những thủ pháp nguyên thủy.
Chuyện đôi con dì yêu nhau là một sự loạn luân cấm kỵ.
Vậy mà Nhất Linh đã phiêu lưu vào thế giới cấm kỵ ấy một cách thản nhiên, bình
dị trong Xóm Cầu Mới. Một Nhất Linh hoàn toàn tự do, biết mình nắm trọn mọi nhu
yếu cần thiết của kỹ thuật và nghệ thuật viết văn, biết mình có thể vững
vàng ở những khoảng trời bão táp. Nhất Linh đưa hết sở trường của mình vào
tác phẩm. Xóm Cầu Mới đi từ chân dung người con gái tên Mùi,
chân dung ấy phát xuất từ điểm: Mùi tỉnh dậy, sau một đêm hạnh phúc ngủ chung với
lá thư của Siêu, người anh họ, Siêu vừa gửi thư báo cho nàng biết sẽ về ở chung
với gia đình Mùi. Nhất Linh, trong những trang đầu, đã đưa ra táo bạo
thứ nhất: "Mùi nằm ngủ một đêm với bức thư của anh Siêu". Ðó là
nhục cảm đầu đời của Mùi như một Eva ăn trái cấm. Và từ đó phát xuất cá tính của
Mùi, một cô gái quê, con một cụ Lang, sống hồi đầu thế kỷ. Mùi có quán bán nước,
bán thuốc, bán bánh cuốn, bán gạo. Mùi là hình ảnh cô gái quê tần tảo, một bà
Tú Xương tương lai, một cô hàng xén trong truyện của Thạch Lam hay cô hàng xóm
trong thơ Nguyễn Bính. Ðó là phần hình thức. Về mặt tư tưởng, Mùi táo bạo hơn
nhiều. Mùi mới hơn cả Loan trong Ðôi Bạn, Ðoạn Tuyệt, khác hẳn Nhung
trong Lạnh Lùng, và có lẽ còn mới hơn nhiều cô gái tỉnh thành thời nay.
Nàng dám để cho nhục cảm dẫn dắt, không lúc nào Mùi thấy có mặc cảm hoặc tự kiềm
chế. Mùi biết tình yêu của nàng với Siêu là cấm kỵ:
"Mặc dầu Siêu với nàng là đôi con dì không lấy được
nhau nhưng cái mãnh liệt của tình yêu ấy không mảy may làm nàng sợ hãi; nàng lại
thấy mừng không ngờ mình yêu đến thế. Nàng đón lấy nó như hiện giờ này nàng đón
lấy cơn gió lạnh sắc đương quất vào hai bên má. (trang 19, sđd)
Trong Văn Học Việt Nam ít có cô gái quê nào tự do như Mùi. Có
thể có cô Huệ trong Thềm Hoang của Nhật Tiến. Nhưng cô Huệ nửa tỉnh nửa
quê. Mùi tự do và biết mình tự do vì Mùi tạo nên hoàn cảnh mà không phải chạy
theo hoàn cảnh. Tình yêu của Mùi và Siêu đậm dấu ấn thể xác nhưng lại là thứ thể
xác não thùy, phát xuất từ tình yêu nguyên thủy, xẩy ra ở trong óc nên không thể
phạm tội. Không riêng về tình yêu nhục dục mà tất cả những nhân vật
hay những bối cảnh mà nhân vật tạo ra trong Xóm Cầu Mới, đều ít
nhiều nằm trong trạng thái nguyên thủy. Ví dụ về trí thông minh của thằng
Tý, Nhất Linh cũng đi từ những nhận xét nguyên thủy: tại sao lại biết nó thông
minh mà mẹ nó lại cho nó là ngớ ngẩn? Tại vì mới chín tuổi nó đoán được ý bố
nó, nó đoán được ý con lợn, nó tìm những giải pháp lô-gích đo quần áo mà mẹ nó
không nghĩ ra v.v... Tình yêu của Ðỗi và Bé cũng là một tình yêu nguyên thủy: Cặp
trai gái làng này tỏ tình bằng cách dẫm chân lên nhau, rồi những ngón chân ấn
lên một tý, mỗi lần ấn là một lần tăng nồng độ tình yêu. Nỗi buồn của Triết, em
trai Mùi, cũng là nỗi buồn nguyên thủy, Mùi không biết tại sao em mình hay ngồi
buồn, cả đến việc chơi bươm bướm của Triết, Triết chơi với những con "bươm
bướm ma", và đó lại là một lối chơi buồn mà chính Triết cũng không biết là
mình buồn. Tính lẩm cẩm của U già cũng là một thứ lẩm cẩm nguyên thủy: Thật ra
U già không lẩm cẩm, u còn lô-gích nữa là khác, nhưng nhà vắng quá, thỉnh thoảng
Mùi phải tìm cách cãi nhau với U già cho có tiếng nói, và U già mỗi lần thấy
Mùi gắt là u lại nói ngang phè. Bác Lê mỗi lần say rượu đánh vợ, đánh con, cũng
là những cơn say nguyên thủy, bởi bác biết trước là uống rượu vào sẽ đánh vợ
đánh con, nhưng bác không thể tránh được, bác cố nhịn, nhưng đến phút chót cái
thèm vẫn ăn đứt bác và bác lại chịu thua cái thèm...
Trong Xóm Cầu Mới, Nhất Linh đã đưa ra những con
người trong trạng thái nguyên thủy. Nhất Linh tìm đạt đến cối rễ của cá tính, của
bản ngã, như thể ngòi bút của ông đã là nhân vật; rồi lại
chính nhân vật đã đưa ngòi bút đi để tạo nên những cuộc đời chưa
thành hình. Xóm Cầu Mới là tác phẩm dang dở, hình như Nhất
Linh mới viết được có một phần ba, cũng là một tác phẩm chưa thành
hình. Ngòi bút vừa xây nên nhân vật vừa từ nhân vật đi ra,
tự nhiên như không phải tả gì cả. Có thể là Nhất Linh đã tìm được nguồn cội của
hành vi và cảm giác của mỗi con người và có lẽ đó là sự thành công sâu sắc nhất
của Nhất Linh.
9/5/2002
Thụy Khuê
Theo http://quyetnguyenblog.blogspot.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét