Vua Lê Thái Tông
Vua tên húy là Nguyên Long, con thứ của vua Thái Tổ, ở ngôi 9 năm, băng khi đi tuần miền Đông, thọ 20 tuổi, táng ở Hựu Lăng. Mẹ vua là Cung Từ hoàng thái hậu Phạm thị, tên húy là Trần, người hương Quần Lai, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa. Vào ngày 20 tháng 11 năm Quí Mão [22/12/1423], sinh ra vua; tháng 3 năm Thuận Thiên thứ 1 [4/1428], phong làm Lương quận công; ngày mồng 6 tháng giêng năm Thuận Thiên thứ 2, [9/2/1429], được lập làm Hoàng thái tử. Ngày mồng 8 tháng 9 năm Thuận Thiên thứ 6 [20/10/1433], lên ngôi, lấy năm sau làm năm Thiệu Bình thứ 1. Bấy giờ, vua mới 11 tuổi, nhưng không phải nhờ mẫu hậu buông rèm coi việc nước; mọi việc trong thiên hạ do nhà Vua tham khảo với bầy tôi quyết định.
Ngày mồng 1 tháng giêng năm
Thiệu Bình thứ nhất, nhân tết Nguyên Đán Vua dẫn các quan bái yết
thái miếu; lại cùng với bọn sứ thần nhà Minh, Từ Kỳ, mới đến nước
ta, làm lễ bái vọng kinh khuyết phương Bắc. Sau đó sai 2 sứ bộ theo
Từ Kỳ sang Trung Quốc; một sứ bộ giải thích việc cống vàng; một sứ
bộ xin cầu phong:
“Giáp Dần, Thiệu Bình năm thứ 1, (Minh
Tuyên Đức năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1 [9/2/1434], vua dẫn các quan đến bái yết Thái
miếu, lại dẫn các quan cùng với sứ thần phương Bắc tới
khách quán bái vọng cửa khuyết.
Ngày mồng 4 [12/2/1434], sai Môn hạ ty hữu thị lang Nguyễn Phú (sau đổi là Nguyễn Truyền), Hữu hình viện lang trung Phạm Thì Trung cùng đi với sứ Bắc là bọn Từ Kỳ, Quách Tế sang nhà Minh. Trước đó, nhà Minh sai bọn Từ Kỳ đem thư sang hỏi về những người còn bị ta giam giữ và số vàng phải đem cống, cho nên vua sa bọn Phú sang để trả lời.
Ngày mồng 6 [14/2/1434], sai bọn Tuyên phủ sứ Nguyễn Tông
Trụ, Trung thư hoàng môn thị lang Thái Quân Thực, kỳ lão Đái Lương Bật mang tờ
biểu và lễ vật địa phương sang nhà Minh cầu phong.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 1b.
Nhà Vua ra chiếu chỉ cho các
quan phải hết lòng trung thành, tiến cử người tài; các vệ quân trong
nước chuẩn bị lương thực 2 tháng để duyệt binh, tập trận; cùng ra
lệnh dân chúng dùng tiền đồng, không phân biệt tốt, xấu:
“Ngày mồng 6 [14/2/1434]; ra lệnh chỉ cho văn võ đại thần và
các quan lớn nhỏ trong ngoài, đại ý là:
‘Đạo làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung thành, thế thôi. Tất cả các quan được trẫm tin dùng, nếu có ai không hết lòng trung thành, mà bỏ bê phận sự, thì nhà nước có pháp luật. Mới rồi, tìm người hiền để giúp việc nước, đã có lệnh cho mọi người tiến cử người mình biết. Nay đã lâu rồi mà chưa có ai theo lệnh tiến cử một người nào để đáp ứng lòng trẫm là cớ làm sao".
Ngày mồng 9 [17/2/1434], ra lệnh chỉ cho các quân ngự tiền
và các vệ quân năm đạo chuẩn bị lương ăn trong 2 tháng, hạn đến ngày 20 tháng
này phải tới địa phận Đông Kinh để điểm danh và luyện tập võ nghệ. Còn
quân trấn giữ ở các trấn Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa thì tới địa
phận phủ, trấn mình để kiểm duyệt. Ai vi phạm sẽ bị trị tội.
Ngày 12 [20/2/1434], ra lệnh chỉ cho kinh thành và các phủ,
lộ, huyện, châu, xã, sách, thôn, trang rằng: Từ nay về sau, tiền đồng sứt nhưng
còn xâu dây được thì phải lưu thông tiêu dùng, không được chê bỏ, nếu đã mẻ gãy
không xâu dây được nữa thì thôi không tiêu. Người nào trái lệnh, từ chối không
nhận, hay kén chọn tiền lành, thì phải tội như nhau. Từ buổi đầu dựng nước đến
nay, đã nhiều lần ra chiếu chỉ cấm dân chê bỏ tiển, nhưng bọn coi kho khi nhận
tiền lại hay kén chọn tiền tốt, ở trong dân cấm cũng không được, cho nên lại có
lệnh này.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 2a.
Quy định con đầu, cháu
đầu các quan văn, võ, từ lục phẩm trở lên, được ghi tên vào học Quốc
tử giám. Riêng dân chúng, thì các lộ, huyện lập danh sách; rồi mở
cuộc thi toàn quốc lấy đỗ 1.000 người, chia làm 3 hạng; lấy hạng
nhất, nhì, cho vào học Quốc tử giám. Các sinh viên Quốc tử giám
được miễn sai dịch:
“Ngày 12 [20/2/1434], ra lệnh chỉ cho các quan văn võ
rằng: Các quan từ lục phẩm trở lên có coi việc quân dân và các quan phụ đạo,
thủ lĩnh ở các phiên trấn mà có con đích, cháu đích thuộc cùng một hộ tịch hay
các hộ tịch khác đều được miễn thuế và sai dịch. Nếu là đắp đê quai vạc, làm
đường và
các việc điều động khẩn cấp, thì không được miễn. Các con đích, cháu đích đều
cho ghi tên vào học ở Quốc tử giám để đợi tuyển dụng.
Ngày 15 [23/2/1434], ra lệnh chỉ cho các quan lộ, huyện
trong nước phải lập ngay danh sách người dự thi của lộ mình, hẹn tới ngày 25
tháng này phải tới bản đạo tập hợp điểm danh, đến ngày mồng 1 tháng 2 thì thi.
Người nào đỗ thì được miễn lao dịch, bổ vào Quốc tử giám. Những học trò ở nhà
học của các lộ, đến 25 tuổi trở lên mà không đỗ thì đuổi về làm dân. Lấy bọn Thính hậu văn đội Đỗ Thuận 5
người làm Giáo thụ Quốc tử giám.
Ngày mồng 4 tháng
2 [14/3/1434], thi
học sinh trong cả nước. Lấy đỗ hơn 1.000 người, chia làm ba bậc. Bậc nhất và
bậc nhì thì đưa về Quốc tử giám, bậc ba thì cho về học tại nhà học các lộ, đều
cho miễn lao dịch.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 2a.
Ngoài ra trong tháng giêng còn
có các việc khác như: Dân tộc thiểu số Lạo tại Tuyên Quang đến cống;
bổ dụng 156 quan trong triều và các địa phương; Vua sai các quan bái
yết Thái miếu, tuyên thệ trung thành. Cùng ra lệnh cho các quan đại
thần không được tới lui nhà người con trưởng Vua Thái tổ, tức Quận
vương Tư Tề:
“Ngày mồng 7 [15/2/1434], người Lạo ở Bình Nguyên (1)
, trấn Tuyên Quang đến
cống. Sai Đô đốc Lê Vấn truyền lệnh dụ bảo, cho trở về nghiệp cũ.
Ngày 13 [21/2/1434], bổ các quan viên lớn nhỏ trong ngoài
là bọn Lê Trãi 156 người. Những người tội nhẹ xử đi đày nhưng được ân xá là bọn
Phan Quý Khanh cũng được dự trong số đó.
Ngày 15 [23/2/1434], vua bái yết Thái miếu, sau đó
sai quan văn làm lễ. Vua ra trường đấu xem bọn đại thần Lê Sát và các quan văn
võ trong ngoài tế cáo trời, đất, thần kỳ danh sơn [núi danh
tiếng], đại xuyên [sông
lớn] , giết ngựa trắng
lấy máu cùng thề. Đồng thời sai các quan đi tế thần kỳ ở các xứ trong nước.
Ngày 28 [8/3/1434], ra lệnh chỉ cho đại thần và các
quan rằng: Từ nay về sau không được lui tới chỗ của Quận Vương. Quận vương nếu
không có người đến gọi thì không được vào chầu. Kẻ nào lén lút dẫn đầu, hoặc
người coi cửa cho vào, cùng các quan nào lén lút đến nhà Quận Vương đều bị
trị tội nặng. Bấy giờ có ba đứa hầu chạy tới tâu với Quận Vương, nói nhiều
điều càn bậy, sai trái, cho nên có lệnh này. Lấy bọn Ngự tiền học sinh Trình
Thanh và Nguyễn Thiên Tích làm Ngự tiền học sinh cục trưởng, Chu Tam Tỉnh và
Trần Phong làm cục phó, Bùi Thì Hanh làm Thái sư thừa.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 2a.
Ngày mồng 3 tháng 2 [13/3/1434],
quan Tư mã Bắc đạo Lê Văn An mang quân đánh dẹp bọn Quản lãnh Lạng Sơn
làm phản; cuối tháng vào ngày 22 [1/4/1434], dẹp xong:
“Tháng 2, ngày mồng 3 [13/3/1434], quản lĩnh trấn Lạng Sơn
là Hoàng Nguyên Ý mưu phản. Sai Bắc đạo tư mã Lê Văn An đi đánh dẹp.
Ngày 22 [1/4/1434], Tư mã
Lê Văn An đánh giặc trở về. Trước kia, bọn Hoàng Nguyên Ý, Hoàng Văn Ngạc,
Nguyễn Thế Ninh, Nguyễn Công Đình ở trấn Lạng Sơn đều là các phụ đạo của trấn
đó, vì có công theo về triều đình, đều được làm quản lĩnh, vẫn được ở đất
cũ của mình. Bọn Tuyên úy Lê Đồ, Lê Lộng không biết vỗ về, chế ngự
nên bọn nguyên Ý đều mang lòng oán hận. Quận Vương có người vợ lẽ, vì có
lỗi phải đuổi đi. Nguyên Ý về chầu trông thấy rất thích, ngầm đem theo về, đến
nỗi lộ việc. Lại có tên gia nô của Ý là Phi Báo, vì bị Ý đánh, chạy đến chỗ bọn
Đồ và Lộng, vu cáo là Nguyên Ý đã dấy binh. Vua liền sai Văn An đem quân Ngự
tiền, Thiết đột và quân ở Bắc đạo đi đánh. Khi đến nơi thì Văn Ngạc đã bị trấn
binh giết chết, bọn Ý đều bỏ cả vợ con chạy trốn sang đất Minh. Văn An liền
chia quân lùng bắt thân thích, nô tì, tài sản, gia súc của bốn tên đó cùng vợ
con của trấn quân được tới hơn nghìn người đem về dâng nộp. Vua thả hết dân
thường, đem gia thuộc của bốn tên đó ban cấp cho các quan.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 11, trang 4a.
Ngày mồng 8 tháng 2
[18/3/1434] bổ nhiệm các quan trong triều và ngoài lộ; tuyển dụng dân
đinh các đạo làm lính. Riêng bãi bỏ chức Hành khiển của Lê Khắc
Phục; vì anh Phục là Lê Nhân Chú bị quyền thần Lê Sát giết, Sát cho
rằng Phục oán hận, nên tìm cách đoạt chức để tránh mối lo về sau:
“Ngày mồng 8 [18/3/1434], lấy Ngự tiền võ đội là bọn Mạc Thôn
47 người làm Trấn phủ các lộ. Thời tiên đế [Lê Thái Tổ] , tướng hiệu các đội phạm
tội giáng làm võ đội, đến đây lại được bổ dùng.
Lấy Lê Khuyển làm Nhập nội
thiếu úy, Tham tri Hải tây đạo chư vệ quân sự thái giám như cũ; Lê Khiêm làm đô áp nha tri tả ban sự.
Bãi chức Nam đạo Hành
khiển của Lê Khắc Phục, cho làm Phán đại tông chính. Bấy giờ, Lê Sát đã giết Lê
Nhân Chú, ngờ Khắc Phục oán mình, tâu xin đoạt lại quyền hành của Phục, cho coi
việc hành ngục. Khắc Phục là em cùng mẹ với Nhân Chú.
Lấy Lê Quốc Trinh làm Nam
đạo Hành khiển tri quân dân bạ tịch chính sự, từ tụng như cũ. Lấy Lê Thừa
là Thiết đột trung quân hành quân tổng lĩnh; Lê Ê làm Điện tiền đô kiểm điểm
đồng thái nội giám nội ngoại chư dịch; Lê Thê làm Chỉ huy sứ.
Sai Đại tư đồ Lê
Sát, Tư khấu Lê Ngân, Tư mã Lê Liệt, Lê Bôi tuyển đinh tráng các đạo làm lính.
Ra lệnh rằng: Những con trai của các hạng quân, dân đều chọn cả. Còn con trai
của các quan văn võ từ lục phẩm trở lên có coi việc quân, dân và học trò Quốc
tử giám, các sắc dịch, các hạng nô công và tư, do nhà nước cho phép, đã thích
chữ đều được miễn. Nếu là quân ngự tiền, võ đội, thiết đột mà có 1, 2,3 con
trai thì được miễn 1 người; quân, dân có từ 3 con trai trở lên, cũng chỉ miễn 1
người, còn lại đều tuyển chọn cả.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 4a.
Trước kia vào tháng 2 năm
Thuận Thiên thứ 2 [3/1429], bọn Trình Hoàng Bá dâng sớ mật, khuyên Vua Lê
Thái Tổ giết các công thần Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Sau nhà Vua
biết bọn Hoàng Bá là lũ tiểu nhân, nên ra lệnh không được dùng
lại nữa. Nay
Đại tư đồ Lê Sát cho ân xá, có ý dùng lại. Các vị quan đặc trách
can gián là Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ kịch liệt khuyên can; lời
tâu được chấp thuận:
“Ngày mồng 8 [18/3/1434], Đại tư đồ Lê Sát cho là Trình Hoành
Bá trước đây bị tội, nhưng có tài đáng tiếc, sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng biên
vào sổ các quan cũ được hưởng ân xá, khi có chiếu chỉ, sắc lệnh cho được hầu
cùng với Hành khiển của bản đạo, có ý định dùng lại.
Ngôn quan (2) Nguyễn Thiên Tích và Bùi Cầm Hổ
tâu rằng:
"Tiên đế đã có
lệnh là bọn Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá, Lê Đức Dư có tài, nhưng không được
dùng lại nữa. Bề tôi có kẻ nào mưu việc phản nghịch cần phải tố cáo cũng không
cho chúng được cáo giác. Nếu dùng lại thì trái với lệnh của Tiên đế. Vả lại,
những kẻ như bọn Hoành Bá thì còn ai dùng nữa?".
Rút cuộc, xóa bỏ tên
hắn, sai bổ vào quân ngũ. Sau lại sợ Hoành Bá ở trong quân, nhất định sẽ gây
chuyện có hại, bấy giờ mới thích chữ vào trán đuổi về làm dân.
Trước kia, Thái Tổ
khi về già có nhiều bệnh, lại thêm Quận Vương Tư Tề ngông cuồng, bậy bạ, vua
thì còn trẻ thơ, mà Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đều có công lao giúp nước,
rất được người đương thời trọng vọng. Nguyên Hãn lại là con cháu nhà Trần và
Văn Xảo cũng là người kinh lộ, lo rằng sau này họ có chí khác, nên bên ngoài
thì đối xử theo lễ tiết hậu, nhưng trong lòng lại rất ngờ vực hai người.
Bọn Đinh Bang Bản, Lê Quốc
Khí, Trình Hoành Bá, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư đón biết ý vua, dâng sớ mật,
khuyên Thái Tổ quyết ý giết đi. Nếu có ai không vui, bọn Quốc Khí liền chỉ vào
họ mà bảo họ là bè đảng của hai nhà ấy, nên rất nhiều người bị xử tử và đi đày.
Các quan đều sợ miệng bọn chúng không dám nói gì. Nhưng Thái Tổ biết rất rõ bọn
Quốc Khí đều là loại tiểu nhân xảo quyệt, trong bụng vẫn ghét chúng. Sau này
bọn chúng đều có tội, lần lượt bị đuổi đi, song lại lo chúng đuợc dùng lại cho
nên nói thế để ngăn ngừa.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 5a.
Ngoài ra trong tháng 2, viên
Phụ đạo dân tộc thiểu số Mường Việt, Sơn La; vợ Đèo Cát Hãn tại
Mường Lễ [Lai Châu] vào chầu. Nhà Vua lại nhắc nhở tiến cử người
tài, giúp trị nước:
“Ngày mồng 8 [18/3/1434], cho viên phụ đạo đóng ở Mường
Việt (3) là
Cầm Công được đội mũ thắt đai vào chầu.
Ngày 14 [24/3/1434], người mẹ của Đèo Mạnh
Vượng là
vợ của Đèo Cát Hãn châu Mường Lễ về hàng. Sau khi Đèo Cát Hãn chết, con là Mạnh
Vượng đem mẹ về ở đất cũ. Người mẹ một mình về hàng trước. Vua hỏi Mạnh Vượng
sao không tự đến. Trả lời: Vượng vì em là Đạo Thu dẫn bọn Mường Lự (4) đến đánh nên không thể bỏ đi xa,
thiếp già nay xin về vâng mệnh triều đình trước. Vua sai người dụ bảo bà ta bảo
cho Mạnh Vương vào chầu.
Ngày 15 [25/3/1434], ra lệnh chỉ cho các quan viên
văn võ rằng:
‘Những người mà các ngươi
tiến cử, những lời mà các ngươi tâu lên, chả lẽ ta không biết hay sao? Song
những lời của các ngươi chẳng có mưu kế lạ gì có thể dùng được, những kẻ được
tiến cử đều là bọn tầm thường dung tục. Các ngươi nếu có lòng vì nước, lại càng
phải dể ý xét hỏi rộng khắp, xem có ai còn ẩn dật chốn núi rừng, hay nương náu
nơi thôn dã, chưa được triều đình xét dùng tới, hãy tiến cử lấy một vài người
giúp trẫm lo việc trị nước, như thế thì mới có thể là tận trung với nước, sẽ
được thưởng vượt bậc". Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 5b.
Bấy giờ vào tháng 4 mùa hè,
trời hạn hán lúa chết; cho rước Phật từ chùa Pháp Vân về để cầu
mưa; lại thả vài chục tên tù nhẹ. Đến ngày 22, vẫn không mưa, lập
chay đàn tại điện Cần Chính:
“Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1 [9/5/1434], vua sai các quan rước Phật chùa
Pháp Vân (5) ở
Cát Châu về Đông Kinh để cầu mưa. Bấy giờ, trời đã lâu không mưa, mà chỉ rước
Phật đọc chú để cầu đảo. Nguyễn Thiên Hựu dâng sớ tâu rằng:
‘Bệ hạ sửa đức, tha tù
oan, thả bớt cung nữ mà trời không mưa thì xin chém đầu thần để tạ trời đất’.
Đại tư đồ Lê Sát
ghét Hựu nói thẳng, sớ chưa được trả lời, thì gặp trận mưa nhỏ, bèn gọi Thiên
Hựu mà hỏi rằng:
‘Đêm hôm qua chẳng mưa nhỏ rồi là gì?’
Ngày mồng một tháng 4
[9/5/1434], thả vài
chục tên tù tội nhẹ vì hạn hán đã lâu.
Ngày 22 [30/5/1434] đặt đàn chay ở điện Cần Chính,
vì hạn hán hại lúa, sét đánh cháy thuyền.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 7a.
Tại trường Quốc tử giám có
người dán thư nặc danh, tố cáo Đại tư đồ Lê Sát giết quan đại thần
Lê Nhân Chú. Lê Sát nghi Giám sinh Nguyễn Đức Minh là thủ phạm; bắt đi
đày và tịch thu tài sản:
“Ngày mồng 1 tháng 4 [9/5/1434], đày giám sinh Nguyễn Đức Minh ra châu
xa. Đức Minh dời nhà đến ở Quốc tử giám, có thư nặc danh dán trên vách miếu
thần bên cạnh đường, trong đó có câu: "Đại tư đồ Sát và Đô đốc Vấn cùng
mưu giết ông Sĩ phán đại lý (tức là Nhân Chú) ". Đức Minh gọi
người đến xem, rồi bóc lấy xé nát ném xuống nước. Sát ngờ thư ấy do Đức Minh
làm, sai bắt về tra khảo, nhưng Đức Minh không nhận, định đem chém, nhưng hình quan
cho là tội còn ngờ, nên được giảm tội chết, bắt đi đày và tịch thu gia tài.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 7b.
Triều đình bổ nhiệm 2 quan
đại thần; và thăng thưởng tướng hiệu, 851 viên thuộc 5 đạo, 596 viên
thuộc Ngự tiền:
“Ngày mồng 1 tháng 4 [9/5/1434], lại lấy Lê Khả làm Vinh lộc đại phu
Lạng Sơn trấn tuyên úy đại úy tri quân sự; lấy Lê Nhữ Tổ làm Chính sự viện đồng
tham nghi tước Minh tự.
Ngày 25 [2/6/1434], thăng chức cho các tướng hiệu
các vệ quân năm đạo, từ vệ đồng trì, quản lĩnh, dưới đến đội trưởng là 851
viên, những người ở trong được thăng và ở các quận ngự tiền được chọn bổ là 596
viên; 155 người có tội nhẹ được ân xá và sử dụng. Quan nội mật gọi tên cấp sắc
suốt từ sáng đến trưa vẫn chưa hết. Những người ở trong mà chưa được thăng thì
được thưởng mỗi người một tư.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 7b.
Vào đầu năm, vào ngày mồng 4
[12/2/1434], Vua sai Môn hạ ty hữu thị lang Lê Truyền, tháp tùng sứ
bộ Từ Kỳ sang nhà Minh đến Yên Kinh:
“Ngày 12
tháng 4 năm Tuyên Đức thứ 9 [ 20/5/1434]. Bọn
Từ Kỳ, Hữu Thị lang bộ binh, từ An Nam trở về. Quyền coi quốc sự nước An Nam Lê
Lợi chết, con là Lân (6) sai
Đầu mục Lê Truyền theo bọn Kỳ đến cáo tang, hiến người vàng cùng sản phẩm địa
phương.” ( Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
234)
Ngày 19 tháng 4, dân Mường
tại Thanh Hóa làm phản, Tuần sát Lê Thống đánh dẹp được. Cũng trong
ngày, Chiêm Thành mang binh thuyền cướp phá tại Cửa Việt, Quảng Trị,
bị quân dân ta đánh đuổi:
“Ngày 19 [27/5/1434], dân Mường Ba Long, phủ Thanh Hóa làm
phản theo về nước Ai Lao. Tuần sát Lê Thống đi đánh, chém giết bọn đinh tráng,
bắt sống hơn 30 người đàn ông, đàn bà.
Chiêm Thành cướp bắt người
châu Hóa.
Chúa Chiêm Thành là
Bố Đề nghe tin Thái Tổ băng, thấy vua mới lên ngôi, ngờ là nước ta có biến
loạn, bèn tự mình cầm quân ra đóng sát biên giới, chực mưu vào cướp. Nhưng vì
chưa rõ thực hư, không dò hỏi vào đâu được, mới sai thuyền đi ngầm vào Cửa Việt
cướp bắt mấy người rồi đi. Dân địa phương đánh lại, bắt được 2 người đem nộp.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 7b.
Đại tư đồ Lê Sát lạm dụng
giết tù tội, không chờ cứu xét:
“Ngày 19 [27/5/1434], xử chém ngay tội tù.
Trước đây, người của quân
Uy viễn là Nguyễn Bẩm và của trung quân Thiết đột là Trịnh Thọ Lộc chuyên nghề
dụ trộm những nô tỳ nhà nước ban cho các quan. Tư mã Lê Liệt bắt được tâu lên.
Vì bấy giờ các nô tỳ công và tư bỏ trốn nhiều, Đại tư đồ Lê Sát giận lắm, sai
hình quan tra ngay ở sân điện, xét xong, lôi ra chém ngay.”
Viên Thái sử Bùi Thì
Hanh tâu rằng ngày 1 tháng 5 có nhật thực, đất nước sẽ gặp tai biến;
Tư đồ Lê Sát xin cho nghĩ chầu, bắt vượn đem giết để trấn yểm:
“Tháng 5, ngày Đinh Sửu, mồng 1 [7/6/1434], nghỉ chầu.
Trước đó, Thái sử Bùi Thì
Hanh bí mật tâu rằng, ngày mồng 1, tháng 5, có tinh vược đen ăn mặt trời, hôm
ấy sẽ có nhật thực. Có nhật thực thì trong nước có tai biến. Nếu bắt được vượn
sống đem giết để trấn yểm thì có thể chấm dứt được tai biến. Đại tư đồ Lê Sát
tin là thực, tâu xin ra lệnh cho quan lại các trấn Tuyên Quang, Thái Nguyên đốc
thúc dân chúng bủa lưới săn lùng khắp rừng núi khe hang, bắt vượn khỉ đóng cũi
gửi về nườm nợp không ngớt. Đến ngày ấy nghỉ chầu, làm phép trấn yểm trong cung
cấm, các quan không một ai được biết. Thì Hanh chỉ tâu cho Lễ bộ thị lang Trình
Toàn Dương, trước là đạo sĩ, cùng làm phép với mình. Hai người đều được thưởng
rất hậu.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 8b.
Sứ thần nước ta đến Yên Kinh
cáo tang vào ngày 12 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ 9 [ 20/5/1434]; đến ngày 3
tháng 5 Vua Tuyên Tông sai sứ sang điếu tế:
“Ngày 3
tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 9 [
9/6/1434]. Sai Hành nhân Quách Tế, Chu Bật đến An Nam tế
Lê Lợi. Ngày này Đầu mục An Nam bọn Lê Truyền từ giả trước bệ rồng, ban cho
tiền giấy làm phí tổn đi đường.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 234)
Ngày mồng 5, đặt quy định
mới đánh thuế bãi dâu:
“Ngày mồng 5 [11/6/1434], ra lệnh chỉ cho các phủ, lộ, trấn,
huyện, xã, sách, trang rằng: Các loại thuế dân đinh, đầm hồ năm nay thì theo lệ
năm Quý Sửu [1433], còn
thuế bãi dâu thì theo lệ mới quy định.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 9a.
Lệnh 5 đạo diễn tập võ, cho
bọn tù Chiêm Thành xem, rồi thả cho về. Lại cho tuần tra kỹ các tỉnh
Bình, Trị, Thiên, để phòng ngừa Chiêm Thành đến cướp phá; cùng tuần
phòng nghiêm mật tại các cửa ải:
“Ngày 12 [18/6/1434], sai quân năm đạo diễn võ ở trường
đấu, dẫn bọn tù Chiêm Thành tới xem rồi cho về.
Sai Nhập nội tư mã Lê
Liệt, tổng đốc các quân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, đi tuần tra các nơi thuộc
Tân Bình, Thuận Hóa, nếu gặp giặc cỏ Chiêm Thành vào cướp biên giới, mà có viên
chỉ huy hay tên lính nào vi phạm quân lệnh hay sợ hãi rút lui thì cho phép chém
trước tâu sau. Lại sai Nhập nội thiếy úy Lê Khôi và Hành khiển tổng quản Lê
Truất cùng đốc suất các quân ở Tân Bình và Thuận Hóa đi theo.
Ngày 18 [24/6/1434] , ra lệnh chỉ cho các đội tuần kiểm
coi giữ cửa ải ở các lộ, trấn, huyện phải tuần tra, canh giữ nghiêm ngặt lùng
bắt trộm cướp.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 9a.
Sai sứ dâng biểu cầu phong,
biểu do Hành khiển Nguyễn Trãi soạn, bọn Nội mật viện Nguyễn Thúc
Huệ muốn đổi vài chữ; Nguyễn Trãi giận chửi mắng Thúc Huệ, khiến
gây ác cảm với quyền thần Lê Sát:
“Ngày 16 [22/6/1434], sai bọn Tuyên phủ sứ Nguyễn Tông
Trụ: Trung thư hoàng môn thị lang Thái Quân Thực: kỳ lão Đái Lương Bật mang tờ
biểu và phương vật sang cầu phong nhà Minh. Hành khiển Nguyễn Trãi soạn xong tờ
tâu, bọn Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi lại mấy
chữ: Nguyễn Trãi giận nói:
‘Bọn các ngươi là hạng bề
tôi vơ vét, nạn hạn hán này là do các ngươi gây nên cả’.
Thúc Huệ tố cáo với
Đại tư đồ Sát và Đô đốc Vấn. Sát và Vấn tức lắm, trách Trãi rằng:
‘Làm nên nỗi có thiên tai
không phải là do lỗi của bọn ấy, lỗi ở vua và tể tướng thôi, sao ông trách nhau
quá như thế?’.
Trãi từ tạ nói:
‘Thúc Huệ chỉ vì chút tài vét thuế mà chiếm chỗ then chốt
của thiên hạ, mỗi khi có sổ sách tâu vào đều muốn vơ của dân về cho quan, để
mong hợp ý vua, cho nên tôi nhân việc này mà nói ra thôi, không dám chê bàn gì
đến vua và tể tướng cả’.
Sát vẫn chưa nguôi
giận. Nhưng bản tâu vẫn theo như của Trãi, không thay đổi.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 9b.
Ngày 24 tháng 5 [10/6/1434],
một người thợ xây cất chùa Báo Thiên, lao động cực nhọc, bèn đem lời
chê trách triều đình. Việc phát giác, các quan can gián xin giảm án
tử hình, nhưng Đại tư đồ Lê Sát cương quyết xử tử:
“Bấy giờ, điều động thợ ở các cục tất tác làm chùa
Báo Thiên. Công việc thổ mộc rất nặng nề, Sư Đăng phải làm lụng vất vả, nói
vụng rằng:
‘Thiên tử không có đức, để đến nỗi hạn hán. Đại thần ăn
của đút, cử dùng kẻ vô công, có gì là thiện đâu mà phải làm chùa to thế’.
Bị người cáo giác.
Đại tư đồ Lê Sát giận lắm. Quan thẩm hình Nguyễn Đình Lịch nói:
‘Nó dám nói càn đến việc
nước, nên chém’
. Nguyễn Thiên Hựu và Bùi
Cầm Hổ đều xin tha tội chết, vua sắp nghe theo, thì Sát nói:
‘Trước đã nghe lời bọn Thiên Hựu không giết Nguyễn Đức
Minh, để rồi nó bỏ thư nặc danh vu cho nhau, nay lại định tha thằng này thì làm
thế nào cho đứa khác răn sợ?’
Bọn Thiên Hựu không
dám nói nữa. Bèn chém Sư Đăng. Ngay hôm ấy vừa gặp có mưa nhỏ. Hôm sau, Sát nói
trong triều rằng:
‘Nếu nghe lời ngôn quan,
làm gì có trận mưa ấy?’.
Lê Ngân nói:
'Giết nhiều kẻ ác thì được
mưa nhiều, chỉ có điều xương người chất đầy đường khó đi thôi". Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 10a.
Tháng 6, bộ tộc Bồn Man nước
Ai Lao sai người đến cống:
“Ngày mồng 8 [13/7/1434], Mường Bồn Man (7) nước Ai Lao sai người sang cống
lễ vật, ban cho hai chiếc áo dệt kim tuyến và năm tấm lụa.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 11a.
Ngày 12, Đào Lộc con viên
Đồng tri phủ Đào Quí Dung thời Minh cai trị, từ Vân Nam trở về hàng:
“Ngày 12 [18/7/1434], Đào Lộc về hàng. Lộc là con của
Đào Quý Dung. Trước kia, khi Thái Tổ dẹp giặc Ngô, viên phụ đạo trấn Quy Hóa [Yên
Bái, Lao Cai] là Đồng
tri phủ nguỵ Quý Dung không phục, đem gia thuộc trốn sang Vân Nam. Đến đây, Quý
Dung chết, con hắn về hàng.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 11a.
Nhà Vua truy tôn mẹ đẻ là
Cung từ quốc thái mẫu:
“Ngày 24 [29/7/1434], truy tôn mẹ đẻ là Cung Từ quốc
thái mẫu. Trước kia, Thái Tổ không lập chính thất, chỉ có vài người như Trịnh
Thần phi là mẹ Quận vương [Tư Tề] và Phạm Huệ phi thôi. Quốc mẫu cũng là vợ lẽ của
Tiên đế, đã mất ngay từ buổi đầu gian lao dựng nước. Đến đây, vua tưởng nhớ,
truy tôn là Quốc thái mẫu. Thần chủ cũ của Quốc thái mẫu ở Lam Kinh, vua sai
cậu là Hữu ban Lê Liên và Trung thư thị lang Trần Thuấn Du rước thần chủ mới và
Kim sách đến miếu làm lễ truy tôn.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 12a.
Đại tư đồ Lê Sát cho xây dựng
xong các chùa Thanh Đàm và Chiêu Độ:
“Ngày 24 [29/7/1434] Đại tư đồ Lê Sát dựng xong các
chùa Thanh Đàm và Chiêu Độ, có đến hơn 90 gian.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 12b.
Tháng 7, ra lệnh các các cấp
giải quyết các vụ kiện theo trình tự từ dưới lên, không được vượt
cấp; chỉ có các vụ kiện lớn thì mới cho tâu thẳng lên. Ngày rằm tháng 7
lễ Vu Lan, tha tù nhẹ:
“Mùa thu, tháng 7, ngày 11 [15/8/1434], ra lệnh chỉ cho tướng hiệu vệ
quân các đạo và các quan lộ, huyện, trấn, sách, xã rằng:
‘Phép trị nước lấy hình
pháp gọn nhẹ làm gốc. Trẫm thấy các quân nhân đều tâu báo vượt cấp, cấu kết
nhau để đi kiện người, bỏ phế việc của dân, quấy rối triều đình, không gì tệ
hơn. Từ nay, quân hay dân nếu có vụ kiện nhỏ thì tới chỗ xã quan của xã mình mà
trình bày, xã quan không giải quyết được mới lên huyện, huyện không giải quyết được mới lần lượt lên lộ, lên phủ, phủ không không giải quyết được thì bấy
giờ được tâu lên. Các vụ kiện ruộng đất cũng thế. Các quan xét xử phải giữ phép
công bằng, không được nhận đút lót mà làm sai, để có người bị oan uổng.
Các vụ kiện lớn thì mới cho tâu thẳng lên.’
Ngày 15 [19/8/1434], mở hội Vu Lan, tha cho 50 tên tù
tội nhẹ, ban cho các sư tụng kinh 220 quan tiền.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 12b.
Tháng 8, quy định y phục cho
Giám sinh Quốc tử giám và Sinh đồ các lộ; cho Giáo thụ Quốc tử
giám và giáo chức đội mũ Cao Sơn:
“Tháng 8, cho các giám sinh Quốc tử
giám và sinh đồ các lộ, huyện được mang mũ áo và cho Giáo thụ Quốc tử giám cùng
giáo chức các lộ, huyện được được đội mũ cao sơn. Trước kia, Giáo thụ và Giám
thư khố đầu đội mũ thái cổ, đến đây, cho đội mũ cao sơn. Định khoa thi
Hương, thi Hội. Mở kỳ thi các quan lại, hạng nhất được bổ vào Quốc
tử giám:
Ngày mồng 8 [10/9/1434], Định khoa thi chọn học trò.
Xuống chiếu rằng: Muốn có được nhân tài, trước hết phải chọn lựa kẻ sĩ, mà phép
chọn lựa kẻ sĩ phải lấy thi cử làm đầu. Nhà nước ta từ thuở xưa loạn lạc, người
anh tài như lá mùa thu, bậc tuấn kiện như sao buổi sớm. Thái Tổ ta buổi đầu
dựng nước, mở mang nhà học, dùng cỗ Thái lao (8) để tế Khổng Tử, rất mực sùng
Nho, trọng đạo. Nhưng vì nước mới dựng nên chưa kịp đặt khoa thi. Trẫm nối theo
chí hướng người xưa, lo được nhân tài để thỏa lòng mong đợi. Nay định rõ thể lệ
khoa thi, kỳ thi: Bắt đầu từ năm Thiệu Bình thứ 5 [1438], thi hương ở các đạo, năm thứ 6 [1439], thi hội ở sảnh đường tại kinh
đô. Từ đấy về sau, cứ 3 năm một lần thi lớn, coi đó làm quy định lâu dài, người
nào thi đổ, đều được ban danh hiệu tiến sĩ xuất thân. Tất cả khoa mục của các
kỳ thi quy định như sau:
Kỳ thứ nhất: 1 bài kinh
nghĩa, Tứ thư mỗi sách một bài, mỗi bài đều 300 chữ trở lên.
Kỳ thứ hai: Chế, biếu,
biểu.
Kỳ thứ 3: thi, phú.
Kỳ thứ 4: 1 bài văn sách
từ 1000 chữ trở lên.
Thi lại viên, hỏi về
ám tả. Những người đỗ hạng nhất được bổ vào Quốc tử giám, hạng nhì bổ làm sinh
đồ và thuộc lại bên văn.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 13b.
Bấy giờ tình hình tại phương
nam, chúa Chiêm Thành Bố Đề, rút quân về không còn gây hấn; nên viên Tư
mã Nam đạo cũng cho đem quân về. Về phía tây, sai sứ sang giải hòa
nội loạn tại Ai Lao:
“Ngày 18 [20/9/1434], Tư mã Nam đạo Lê Liệt đem quân
về. Bố Đề thấy nước ta không có sự biến gì đã rút quân từ trước. Liệt đến châu
Hóa, định trở về, gặp lúc người Man ở châu Hóa là Đạo Thành bị Đạo Luận đánh,
đến xin cứu viện. Liệt bèn đem quân đánh giúp, bắt được hơn nghìn người và vài
chục con voi mang về.
Ngày 19 [21/9/1434], sai quản hạt Lê Bạn sang sứ nước
Ai Lao.
Bàn nhà (9) Côn Cô nước Ai Lao bị kẻ bề tôi
phản nghịch là Nữu Tại tấn công, sức chống không nổi, sai sứ sang xin cứu viện.
Vua sai Bạn sang trước dụ bảo, giải hòa.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 14a.
Tháng 9, bổ dụng và cách
chức các quan trong triều và ngoài lộ, như sau:
“Tháng 9, ngày mồng 4 [6/10/1434], Lấy Ngự sử Bùi Cầm Hổ
làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn, lấy chuyển vận huyện Cổ Đằng [huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa] Phan
Thiên Tước làm Thị ngự sử.
Lấy Chuyển vận sứ huyện
Giáp Sơn là Lương Thiên Phúc làm Điện trung thị ngự sử, Giáo thụ Bắc Giang Hạ
lộ là Nguyễn Chiêu Phủ làm Giám sát ngự sử, vì Chiêu Phủ dâng sớ có điều được
chấp nhận.
Ngày 16 [13/10/1434] Tổng quản lộ An Bang là Nguyễn Tông
Từ và Đồng tổng quản Lê Dao bị biếm 3 tư [3 bậc], bãi chức.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 16a.
Làm lễ tế cáo trời đất,
thái miếu, về việc đúc xong 6 quả ấn;
“Ngày 16 [13/10/1434], tấu cáo trời đất và thái miếu về
việc đúc sáu quả ấn: Thuận thiên thừa vận chi bảo, Đại thiên hành hóa chi
bảo, Sắc mệnh chi bảo, Chế cáo chi bảo, Ngự triều chi bảo, Ngự triều tiểu bảo.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 14a.
Bấy giờ thuyền buôn Java
đến cống sản vật địa phương; triều đình cấm tư nhân buôn bán với
người nước ngoài. Các lân bang như Ai Lao, Chiêm Thành đều mang lễ vật
đến cống;
“Ngày 16 [13/10/1434] Thuyền buôn nước Trảo Oa [Java] vào cống lễ vật địa phương.
Triều đình có lệnh cấm
quan lại và dân chúng không được mua bán vụng trộm hàng hóa nước ngoài. Bấy
giờ, có thuyền buôn Trảo Oa đến trấn Vân Đồn, bọn Tông Từ giữ việc xét ghi số
hàng hóa trong thuyền, trước đã báo nguyên số rồi, sau lại gian lận đổi làm bản
khác, mà bán trộm đi hơn 900 quan tiền, cùng với Lê Dao, mỗi người chiếm hơn
100 quan. Việc bị phát giác, nên cả hai đều bị trị tội.
Côn Cô [Vua] nước Ai Lao sai bề tôi là Quan
Long dâng voi và vàng bạc xin viện binh. Ra lệnh chỉ cho Thiếu úy Mường Mộc(10) là Xa Miên dẫn các man ở châu
Nam Mã (11) đi cứu Côn Cô.
Sứ Chiêm Thành mang
thư và lễ vật sang cống để cầu hòa thân.
Đại tư đồ Lê Sát
hỏi:
‘Nước ngươi vào trộm đất
ta, bắt bớ dân chúng ở châu Hóa là cớ làm sao?’
Trả lời:
‘Vua nước tôi nghe tin Tiên đế băng hà, nay Hoàng đế lên
ngôi, hai nước chưa trao đổi sứ thần, cũng chưa tin hẳn, nên sai tướng quân đến
đầu địa giới hỏi thăm tin tức. Tướng quân tự tiện làm trái lời dạy bảo, bắt
trộm 6 người của châu Hóa đem về. Vua nước tôi giận lắm, xử tội tất cả những
người vào cướp châu Hóa từ đại tướng trở xuống đều bị chặt chân, rồi đưa người
bị bắt giao trả cho Tổng quản Hóa Châu, không dám xâm phạm đến’.
Triều đình biết là dối
trá, nhưng vì họ biết sai người sang, cho nên khoan dung không xét hỏi nữa.
Bèn sai Chuyển vận Lê Thọ
Lão, Khởi cư Thái Huệ Trù sang sứ Chiêm Thành.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 11, trang 17a.
Tháng 10 [11/1434], bổ nhiệm
các quan tại trấn và Quốc tử giám bác sĩ tại kinh đô:
“Lấy bọn Đồng tri Nam Sách hạ vệ Lê Thọ làm An Bang trấn
vệ đồng tổng tri chư quân sự; Thẩm hình viện phó sứ Trình Tử Dục làm Tuyên phủ
sứ thượng bạn trấn Thái Nguyên.
Lấy Thái tử thị giảng cũ
là Nguyễn Tấn Tài làm Quốc tử giám bác sĩ.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 17b.
Nhà Minh vào tháng 5 [6/1434]
đã sai Hành nhân Quách Tế, Chu Bật đến An Nam tế Vua Lê Thái Tổ; vào tháng
này lại sai Thị lang Chương Xưởng sang phong Vua Quyền trông coi quốc sự,
giống như chức tước của Vua cha:
“Ngày 11
tháng 10 năm Tuyên Đức thứ 9 [10/11/1434]. Mệnh cho
Lân, con trai quyền trông coi quốc sự nước An Nam Lê Lợi đã quá cố, được tiếp
tục trông coi nước An Nam. Trước đây Lê Lợi bị bệnh mất, bọn Bồi thần Lê Sát
đưa Lân lên tạm thời cai quản việc nước rồi xin mệnh triều đình. Đến nay Lân
sai Bồi thần Nguyễn Tông Trụ, kỳ lão Đái Lương Bật dâng biểu xin mệnh. Thiên tử
ra lệnh Thị lang Chương Xưởng, Hành nhân Hầu Tiến mang sắc đến dụ rằng:
“Trẫm trước kia nghĩ rằng
quân dân An Nam các ngươi đều là con đỏ, sau khi hỏi han tình hình trong nước,
bèn mệnh Lợi, cha ngươi, quyền giữ quốc sự trông coi dân chúng. Nay cha ngươi
mất, đặc mệnh ngươi quyền trông coi quốc sự. Ngươi cần kính trọng đạo trời, lấy
lòng thành thờ bề trên, lòng nhân vỗ về kẻ dưới; ngõ hầu giữ bờ cõi an ninh,
hưởng lộc vị lâu dài. Khâm thử!”
Ban cho Xưởng tiền phí tổn
đi đường; cho bọn Tông Trụ tiền giấy lệnh cùng về với Xưởng.”
(Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 234)
Tháng 11, phái đoàn Quách Tế
đến điếu tế Vua Lê Thái Tổ một cách trọng thể tại điện Càn Đức;
bèn thiết yến khoản đãi và sai bọn Quản lĩnh Lê Bính sang nhà Minh
tạ ơn. Riêng bọn Chánh sứ Lê Vĩ, Nguyễn Truyền mua rất nhiều hàng từ
Trung Quốc mang về để kiếm lời; triều đình muốn làm cho họ hổ
thẹn; bèn sai người thu lấy hết đem phơi bày ở sân điện, rồi sau mới trả lại:
“Tháng 11, nhà Minh sai bọn hành nhân Quách Tế, Chu Bật,
đi theo sứ báo tin buồn của ta là Lê Vĩ, sang điếu tế. Đến kinh sư; ngày mồng
4 [4/12/1434] làm
lễ tế, cỗ tế đều mang từ đất Bắc sang, rất là thịnh soạn. Vua ra
đón ở cửa Thừa Thiên, đưa bày lễ tế ở điện Càn Đức. Lễ vật có: 1 con
lợn, 1 con dê, giấy tiền, cờ tiết, hương hoa cộng 80 bàn. Tế quan đứng bên tả,
chủ tế đứng ổ bên hữu, không dâng rượu, đàn bà đứng sau màn cất tiếng khóc.
Ngày mồng 5 [5/12/1434], thiết yến bọn Tế ở Cần Chính
đường.
Ngày mồng 7 [7/12/1434], bọn Đại tư đồ Sát lại thiết yến
bọn Tế ở khách quán, bày các trò chơi để xem, theo lời yêu cầu của họ. Bọn sứ
Minh Từ Vĩnh Đạt, Chương Xưởng, Quách Tế, trước sau mấy toán, ngoài lễ vật
cống tiễn, triều đình còn có quà tặng riêng cho từng người, họ đều từ chối
không nhận. Nhưng họ lại cho người đi theo mang nhiều hàng hóa phương Bắc, tính
giá rất cao, bắt ép triều đình phải mua.
Sai Quản lĩnh Lê Bính, Nội
mật viện đồng tri Phan Ninh, Ngự tiền học sĩ cục Nguyễn Thiên Tích và Lê Cát
Phủ theo Quách Tế sang nhà Minh tạ ơn việc sang điếu tế.
Ngày 22 [22/12/1434], Bấy giờ chánh sứ Lê Vĩ, Nguyễn
Truyền, hai người mua rất nhiều hàng phương Bắc, đến 30 gánh. Triều đình ghét
họ làm thói buôn bán, định làm cho họ phải hổ thẹn trong lòng; mới sai người
thu lấy hết đem phơi bày ở sân điện, rồi sau mới trả lại. Việc này rồi thành lệ
thường.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 17b.
Ngày 22 tháng 11 [22/12/1434]
sinh nhật của Vua, lấy làm lễ Vạn Thọ Thánh Tiết. Lệnh giảm tô và
thuế đinh; truy phong 2 đời ông, cha, của Đại tư đồ Lê Sát:
“Ngày 22 là ngày sinh của vua, lấy làm Kế Thiên thánh thọ
tiết sau đổi là Vạn Thọ thánh tiết.
Giảm tô ruộng và
thuế nhân đinh.
Truy phong 2 đời cho
Đại tư đồ Lê Sát.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 18b.
Bấy giờ trời quá rét, mặt
đất đóng băng, khiến sau này Vua Tự Đức phải than rằng “Lạ!”:
“Rét quá, mặt đất đóng băng, cây cối trên núi héo chết.
Lời phê - Lạ!” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 16.
Trước kia vào tháng 9, Côn Cô,
Vua nước Ai Lao xin viện binh, triều đình sai bọn Xa Miên mang quân cứu
viện. Vào tháng 12, Xa Miên đến nơi, biết chuyện xãy ra, một Hoàng
thân Ai Lao đã giết Côn Cô rồi lên làm Vua. Vua mới xin hàng, sai sứ
theo Xa Miên mang voi và vàng đến cống, được tha tội. Vào ngày 8, con
trai Đèo Cát Hãn tại vùng Lai Châu nối gót mẹ về hàng, được ban
tước Quan phục hầu. Ngày 26, viên tù trưởng châu Nam Mã tại thượng
nguồn sông Mã, trước đây thuộc đất Ai Lao, xin qui thuận rồi sai con
vào chầu, cho làm Đại tri châu:
“Tháng 12, ngày mồng 8 [7/1/1435], người Ai Lao sang hàng, dâng 3
con voi. Khi quân của bọn Xa Miên và Hà An Lược sang tới nơi thì bọn Nữu Sách,
Nữu Tại nước Ai Lao đã giết chúa nó là Côn Cô mà lập người họ của Côn Cô
là Dụ Quần làm Bàn nhà [Vua] rồi sai sứ mang voi và vàng bạc sang ta xin hàng.
Thế là bọn An Lược cùng đi với bọn ấy trở về. Triều đình xá tội cho chúng.
Ngày mồng 8 [7/1/1435], Con trai của Đèo Cát Hãn ở châu
Phục Lễ [ Sơn La, Lai Châu] là
Mạnh Vượng về hàng. Sắc cho làm Nhập nội tư mã tri bản châu quân dân sự, tước
Quan phục hầu.
Ngày 26 [25/1/1435], Cho Đạo Miện châu Nam Mã làm Đại
tri châu tri quân dân sự bản châu, tước Minh tự. Trước đây, châu Nam Mã thuộc
nước Ai Lao, sau vì mộ đức nghĩa nhà vua mà quy thuận. Đến đây, sai con vào
chầu, xin nội phụ. Vua khen ngợi và trao cho chức đó, lại ban cho mũ, đai và
một bộ thời phục.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 19a.
Thời Vua Lê Lợi khởi
nghĩa, Hoàng Khoan coi 2 đô Thiếp Lãng, Như Tích thuộc châu Khâm
theo; đến nay tỉnh Quảng Đông chiêu dụ vẫn không được, nên làm tờ tâu
lên triều đình nhà Minh:
“Ngày 20
tháng 12 năm Tuyên Đức thứ 9 [19/1/1435]. Châu
Khâm, Quảng Đông tâu:
‘Hai đô Thiếp Lãng, Như
Tích tiếp giáp với huyện Vạn Ninh, Giao Chỉ. Trước đây nhân Lê Lợi phản nghịch,
bọn người trong đô là Hoàng Khoan bị cưỡng bách, trợ giúp man khấu cướp tài sản
của dân. Mới đây được ân mệnh chiêu phủ, bọn Khoan cam tâm nghe lời giặc không
tuân theo.’
Thiên tử mệnh hành tại bộ Binh gửi văn thư cho Tam ty, Tuần Án Ngự sử Quảng Đông thẩm xét ước lượng để tiện nghi xử lý.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 236)
Chú thích:
1. Bình Nguyên: tên châu đời Lý
Trần về sau, thời Lê, đổi thành châu Vị Xuyên, là đất các huyện Vị Xuyên, Hoàng
Su Phì, Bắc Quang, tỉnh Hà Tuyên ngày nay.
2. Ngôn quan: hay gián quan, là
các quan giữ chức trách can gián khuyên ngăn vua.
3. Mường Việt: tức là Việt Châu,
nay là huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
4. Mường Lự: tức là động Bình Lư,
nay thuộc tỉnh Lào Cai.
5. Chùa Pháp Vân: Chùa này ở thôn
Văn Giáp, huyện Thượng Phúc, nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
6. Tên vua Lê Thái Tông xưng với
Trung Quốc là Lân, nhưng tên thực là Nguyên Long.
7. Bồn Man: Theo Đào Duy Anh,
ĐNVNQCĐ. trang 157; Bồn Man thuộc Ai Lao, tại thượng nguồn sông
Phố, sông Sâu, Hà Tĩnh.
8. Cỗ Thái lao: lễ lớn, dùng đủ
tam sinh tức ba con vật đẻ tế là: trâu, dê, lợn.
9. Bàn nhà: tức là "vua" phiêm âm tiếng Lào là "pha nhân"
10. Mường Mộc: nay là thuộc huyện
Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
11. Nam Mã: Vùng đất thượng lưu
sông Mã, giáp đất Ai Lao.
Nhân lễ tết Nguyên Đán,
năm Thiệu Bình thứ 2, nhà Vua dẫn các quan bái yết Thái miếu, rồi
thiết triều:
“Năm Ất Mão, Thiệu
Bình thứ 2, tháng giêng, ngày mồng 1 [29/1/1435], vua dẫn các
quan tới bái yết Thái miếu. Khi về cung, mặc áo trắng coi chầu, nhạc nổi lên,
quan hầu thét cảnh giới, các quan đều mặc cát phục trắng an ủi.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 20b.
Ngày mồng 3 tháng giêng,
Vua Tuyên Tông mất, Vua Anh Tông lên ngôi; đến ngày 15 tháng 5, gửi chiếu
dụ báo tin cho An Nam:
“Ngày mồng 3 [31/1/1435], Tuyên
Tông nhà Minh băng. Hoàng thái tử Kỳ Trấn lên ngôi, tức là Anh Tông, đổi niên
hiệu là Chính Thống.” Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang
20b.
“Ngày 15 tháng 5 năm
Tuyên Đức thứ 10 [11/6/1435]. Chiếu dụ
Quốc vương An Nam:
“Hoàng khảo ta dùng đức
chí nhân để thống trị cơ nghiệp lớn, noi theo hiến chương, khôi phục hoằng
dương chính hóa, làm cho quốc gia được vĩnh viễn hạnh phúc thái bình. Bất hạnh
vào ngày mồng 3 tháng giêng năm nay về chầu trời, di mệnh ta nối đại thống, lên
ngôi Hoàng đế vào ngày 10 [7/2/1435], tuyên bố
rằng năm sau là năm Chính Thống thứ nhất; mệnh đại xá thiên hạ, tất cả đều được
đổi mới. Nay ban chiếu để hay biết.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 6)
Ngày mồng 4 [1/2/1435], Vua Ai Lao sai bề tôi đến cống:
“Vua Ai Lao là Dụ
Quần sai bầy tôi là bọn San Mạc, Nại Mẫu đến dâng lễ cống: đồ uống rượu bằng
vàng bạc và voi.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 16.
Ra lệnh cho quân các đạo,
cùng Ngự tiền tại kinh đô thi tập võ nghệ; riêng duyệt thủy chiến
tại sông Nhị Hà, Vua đích thân ngự xem:
“Ra lệnh cho quân các
đạo đến những nơi gần gũi, thuận tiện trong đạo mình, chia quân tập trận; các
quân ngự tiền thi tập võ nghệ ở điện đình.
Vua ngự đến Cảo Động xem
các vệ quân năm đạo diễn tập đánh bộ, lại duyệt thủy chiến ở sông Nhị.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 21b.
Các quan đặc trách về
can gián thấy Vua ham chơi lười học, bèn liều chết dâng sớ khuyên 6 điều;
Vua giận, nhưng cuối cùng tỏ vẻ phục thiện:
“Ngày 21[18/2/1435],
Ngôn quan là bọn Phan Thiên Tước, Lương Thiên Phúc, Nguyễn Chiêu Phủ dâng sớ
nói:
"Tiên đế dầm mưa
dãi gió, mình mang giáp trụ, lao thân khổ trí, hơn mười năm trời mới dẹp yên
thiên hạ. Bệ hạ kế thừa cơ nghiệp đã có sẵn rồi, nên lưu ý tới học thuật, năng
tìm nhân tài để lo trị nước thành công. Nay đại thần tiến cử Thiếu bảo hữu bật
vào hầu giảng sách, bệ hạ đứng dậy bỏ đi không nghe, thế là một điều không nên.
Tiên đế chọn người làm bảo mẫu, làm thầy để vâng mệnh dạy bảo trong cung, bệ hạ
khinh rẽ, mắng chửi mà không nghe, thế là hai điều không nên. Đến như thần phi,
huệ phi là bậc dì, vào cung răn dạy, thì bệ hạ sai đóng cửa trước mà
không cho vào, thế là ba điều không nên. Người quản lĩnh thị vệ thấy bệ hạ
không đọc sách mà cầm cung bắn chim, có khi can ngăn, thì bệ hạ không nghe, lại
lấy cung bắn người ấy, thế là bốn điều không nên. Tiên đế lựa chọn con em công
thần sai vào hầu bệ hạ đọc sách thì bệ hạ đều xa lánh họ mà nô đùa với bọn hầu
hạ gần gũi ở trong cung, thế là năm điều không nên. Người làm vua phải tìm
người tài giỏi biết nói thẳng, hết lời can ngăn và những người có công lao mà
thưởng họ, nay bệ hạ lại vui đùa với bọn hoạn quan nói rồi thưởng cho chúng,
thế là sáu điều không nên. Thần chờ tội ở chức trách ăn nói, dám đâu không
trình bày, xin bệ hạ trong khi coi chầu, hoặc tiếp xúc với các vị đại thần,
hoặc nghe các quan tâu việc, phải ngay ngắn, trang nghiêm, lấy dung nghi cung
kính của Thiên tử mà kính trọng bậc đại thần, úy lạo người có công, nghe lời
nói thẳng, mở đường cho người nói thẳng để thấu hiểu tình hình bên dưới,
thì lời khen "bậc đại hiếu biết nối chí kế nghiệp" không chỉ chuyên
để khen Thành Vương, Thái Giáp (1) mà
thôi".
Vua xem sớ giận lắm,
vặn hỏi. Bọn tả hữu học Lê Cảnh Xước và hoạn quan Đinh Hối đi khắp nhà bọn
Thiên Tước chất vấn, bắt nói tên người tố ra các việc nói trong sớ và trách
mắng bọn họ. Thiên Tước trả lời:
"Những điều đó do Đồng
tổng quản Bắc Giang hạ vệ Lê Lãnh nói với thần đấy. Bọn thần cốt sao yêu vua,
làm hết chức trách mà thôi, dù chết cũng không sợ".
Bọn Cảnh Xước mới thôi.
Hôm sau, Thiên Tước
vào chầu, tâu rằng:
"Ngu Thuấn là bậc
thánh nhân mà Bá Ích còn lấy sự chơi bời lười biếng để khuyên răn, Đường Thái
Tông là bậc vua hiền, mà Ngụy Trưng vẫn đem mười điều thấm dần (2) mà
phòng giữ. Bọn thần tủi nhục giữ chức ăn nói, chỉ sợ nhà vua có lỗi lầm, nên
hết lòng ngu dại khuyên can. Bệ hạ nhận cho thì dẫu kẻ kiếm củi, làm nghề, cũng
đều trổ hết khả năng mà thánh đức của bệ hạ càng thêm ngời sáng vậy".
Vua nguôi giận bọn Thiên
Tước lại giữ chức cũ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 21b.
Vào tháng 10 năm ngoái
[10/11/1434] Vua Tuyên Tông sai bọn Chương Xưởng mang chiếu chỉ sang phong,
vào tháng 2 năm nay [3/1435] đến nước ta:
“Tháng 2, nhà Minh sai
Lễ bộ hữu thị lang Chương Xưởng, Hành nhân ty hành nhân Hầu Tấn đi theo Nguyễn
Tông Trụ sang trao sắc mệnh cho vua quyền coi việc nước.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, Quyển 11, trang 23b.
Nhân dịp nhà Vua được
phong Quyền coi việc nước, bèn làm lễ tế cáo Thái miếu, và sai Sứ
mang sản vật địa phương sang nhà Minh tạ ơn:
“Ngày Đinh Mùi mồng 5 [4/3/1435], sai
Thiếu bảo Lê Quốc Hưng làm lễ tế tiên sư Khổng Tử, từ đấy về sau coi là thường
lệ.
Ngày Mậu Thân [5/3/1435], tế
xã tắc. Sai quản lĩnh Phan Tử Viết và đại phu Trình Nguyên Hy mang tờ biểu và
phương vật đi theo bọn Xưởng sang tạ ơn nhà Minh.
Ngày mồng 8 [7/3/1435], làm
lễ cáo Thái miếu vì có lệnh để vua quyền coi việc nước. Sai các quan đi tế khắp
các thần kỳ trong nước có ghi trong tự điển (3).” Toàn Thư,
Bản Kỷ, Quyển 11, trang 23b.
Cũng vào ngày mồng
8 tháng 2 [7/3/1435], định thuế ruộng đất các loại, quy định tên húy;
phạt đày 2 viên Sứ thần can tội giao thiệp riêng với người nước ngoài, tức
giận đánh lẫn nhau, làm nhục quốc thể:
“Định các ngạch thuế
ruộng đất, đầm ao, bãi dâu. Ban tên húy của quốc triều. Khi gặp chữ chính về
miếu húy, ngự danh thì không được viết. Ai có họ tên trùng với các chữ húy thì
phải đổi, như tên húy của Cung Từ quốc thái mẫu là Trần, cho nên đổi họ Trần
thành Trình.
Đày Thái Quân Thực ra châu
xa, Nguyễn Tông Trụ ra châu gần. Hai người này khi vâng lệnh sang sứ nhà Minh,
hữu ty làm giấy tờ, theo thứ tự trước sau, ghi Tông Trụ là bồi thần (4) ,
Quân Thực là kỳ lão. Quân Thực có ý bất bình. Khi đến nước Minh, chiếu theo thứ
bậc để ban áo, thì áo của Quân Thực không có hoa văn kim tuyến, trong lòng hậm
hực bảo người phương Bắc rằng:
‘Ta là quan tứ phẩm lại ở
dưới Tông Trụ là làm sai’.
Đến khi dự yến, Thực
không mặc áo được ban, mà mặc áo dệt kim tuyến của mình vào dự. Thực còn đem
bản tâu do thừa chỉ Tham tri Nguyễn Trãi soạn ra mà chửi bới, lại chửi luôn cả
Tham tri Đông đạo Đào Công Soạn, vì ông này đã cử Tông Trụ cùng đi với mình.
Tông Trụ cũng giận dữ tranh cãi không ngớt, đến nỗi hai người đánh lộn lẫn
nhau, Tông Trụ bị vỡ mặt, người đi theo can ngăn cũng không được. Hai người lại
kiện nhau ở Hồng lô tự (5) nói xấu lẫn
nhau. Tông Trụ còn lén tới nhà viên nội quan của Bắc triều ở Long Châu (6) nhận
lễ vật tặng, lại nói với viên quan đi tiễn của Long Châu là Lã Hồi về chuyện
khi đi sứ Ai Lao nói vụng Tiên đế nghe gièm giết bậy. Hai người này đều vì tội
đi sứ mà giao thiệp với người nước ngoài, tức giận mà đánh lẫn nhau, làm nhục
cả quốc thể, đáng phải xử tử. Nhưng vì đã từng có công, nên tùy theo tội nặng
hay nhẹ, đều xử tội đi đày. Tông Trụ lại đem nhiều tiền lụa sang mua hàng
phương Bắc, vua ghét Trụ vi phạm lệnh cấm mà làm tiền, liền lấy hết hành trang
chia cho các quan.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 23b.
Ngày mồng 6 tháng 3,
đúc xong 6 ấn báu, đặt tên, và quy định trường hợp dùng:
“Tháng 3, ngày
mồng 6 [4/4/1435], đúc xong ấn báu. Sai bọn Hữu bật Lê Văn
Linh đến Thái miếu làm lễ tế cáo. Cả 6 ấn đều đúc bằng vàng bạc. Ấn "Thuận
thiên thừa vận chi bảo" thì cất đi không dùng, chờ khi nào truyền ngôi mới
dùng. Ấn "Đại thiên hành hóa chi bảo" thì dùng khi ban chiếu chế. Ấn
"Sắc mệnh chi bảo" thì dùng khi có sắc dụ và hiệu lệnh thưởng phạt
cùng các việc lớn. Ấn "Ngự tiền tiểu bảo" thì dùng khi có việc cơ
mật. Nhưng chính sự thì vẫn dùng ấn bằng ngà, chưa dùng đến các ấn mới đúc.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 24b.
Trong tháng 3 [4/1435]
các xứ Lạng sơn, Hải Dương bị dịch. Đặt quan Phòng ngự sứ để trông
coi các Mường tại Ai Lao. Xứ La La Tư thuộc Vân Nam và Quang Châu thuộc
phủ Quảng Nam tại phía đông Vân Nam đến cống:
“Dân các lộ Lạng Sơn,
Nam Sách [Hải Dương] đều bị bệnh dịch.
Lấy Ngự tiền trung
quân thiết đột Lê Đẳng làm Phòng ngự sứ coi việc quân dân các xứ Phọc La, Trình
Song, Mường Dương thượng và hạ của Ai Lao; Lê Thiên làm phòng ngự sứ coi việc
quân dân các châu Nam Mã, Tàm Thượng, Tàm Hạ (7) huyện
Lan Hòa. Bấy giờ các mường của Ai Lao, tuy ngoài mặt nói là quy thuận nước ta,
nhưng vẫn giáo giở bất thường, nên triều đình phải đặt quan ở những nơi đó để
trông coi.
Người nước La La Tư
Điện (8) sang cống. Nước La La Tư ở phía bắc Ai Lễ, giáp với Vân
Nam, ăn mặc theo tục Vân Nam, khi lạy tạ, đều tự nói tiếng nước họ.
Người Quang Châu thuộc phủ
Quảng Nam đến dâng ngựa.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 25b.
Vào tháng 7 năm trước
[8/1434] bọn Sứ thần Lê Bính sang nhà Minh cảm ơn điếu tế Vua Lê Thái
Tổ, tháng 3 này đến nơi được Vua Anh Tông ban quà:
“Ngày 13 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 10 [11/4/1435]. Nước An Nam sai bọn Bồi thần Lê Bính, Quốc vương Mãn Thứ
Gia (9) Tây Lý Ma Linh Thứ sai em là Thứ Ðiện Bả Thứ, Trung
thuận vương Cáp Mật (10) Bốc Ðáp Thất Lý sai Sứ thần Linh Mi
Tư đến cống lạc đà, ngựa, sản vật địa phương, khí mãnh. Ban cho các vật như lụa
là, có phân biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập
3, trang 6)
Vào tháng 4 [5/1435], các Mường tại nước Ai Lao đến cống; lúa có sâu keo, bèn ra lệnh các quan địa phương cúng bái:
“Mùa hạ, tháng 4, bọn Mường Qua (11) nước Ai Lao sang cống. Mường Tàm (12) dâng 1 con voi.
Ra lệnh cho các quan lộ,
huyện, xã rằng: Nếu thấy chỗ nào có sâu ăn hại mầm dâu thì phải cúng lễ để trừ
hại cho dân.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 26b.
Tháng 5, lại lưu ý nghề
nông hiện đúng mùa làm ruộng, phải thận trọng việc điều động sức
dân:
“Ra lệnh chỉ cho tướng
hiệu các đạo và các lộ, huyện, trấn rằng: Hiện đang mùa làm ruộng, các quan lộ,
huyện, trấn không được khinh suất điều động sức dân.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 11, trang 26b.
Tháng 6, ra lệnh quan
quân thuộc 5 đạo trong nước lưu ý sửa chữa vũ khí. Ngoài ra nhà Vua
vẫn tiếp tục vui đùa lười học; các quan đặc trách về can gián như
Phan Thiên Tước lại phải khuyên can:
“Tháng 6, ngày
mồng 4 [29/6/1435], ra lệnh cho bọn tướng hiệu các vệ quân năm
đạo đều phải sai người sửa chữa những chiến khí bị mối mọt hỏng nát.
Vua hằng ngày vui đùa với
bọn hầu cận ở trong cung, các đại thần muốn khuyên vua học, cùng nhau tâu lên
xin cử sáu văn thần là bọn Hành khiển thừa chỉ Nguyễn Trãi, Trung thư thị lang
Trình Thuấn Du... đi theo hai, ba đại thần chia phiên nhau vào hầu kinh diên.
Vua sai Đinh Phúc trả lại tờ tâu không nhận. Vua yêu dùng hoạn quan Nguyễn
Cung. Bọn Lê Sát xin giết đi, vua không nghe. Thế là bọn Sát cáo ốm không vào
chầu.
Bọn Thiên Tước tâu
rằng: "Bậc sinh trị (13) không ai bằng
Nghiêu Thuấn mà còn dùng Quân Trù, Thành Chiêu làm thầy. Các đế vương đời xưa,
sở dĩ thánh đức ngày một tăng lên, chưa có bậc nào là không do học vấn. Huống
chi bệ hạ đương lúc tuổi còn trẻ, chưa biết được mọi đạo trị nước xưa nay. Đại
tư đồ Lê Sát chọn dùng nho thần vào hầu bên trên, là có ý muốn bệ hạ được như
vua Nghiêu vua Thuấn mà thôi, sao bệ hạ coi nhẹ tông miếu xã tắc, không thấy
lòng trung thành của họ, để cho họ lo buồn mà không vào chầu? Xin bệ hạ nghĩ
đến ý ký thác của Tiên đế, thì thiên hạ được đội phúc mà bệ hạ được hưởng lộc
thọ của bậc đại hiếu". Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 27a.
Tháng 7, người nước Ai
Lao làm phản, bị dân địa phương đánh dẹp, rồi tâu cáo lên. Triều đình
thưởng các quan làm việc lâu năm siêng năng, cùng kiểm tra khắp nước,
bắt xét 53 người can tội tham ô:
“Mùa thu, tháng 7, ngày
mồng 5 [29/7/1435], nước Ai Lao lại làm phản, đánh vào Mường
Viễn. Người Man họ Nữu nước ấy đánh bắt được 13 người, chém được 9 thủ cấp, cắt
lấy tai đem dâng.
Ngày mồng 7 [31/7/1435], thưởng
cho các quan làm việc lâu năm, siêng năng tài cán. Hạng nhất được thưởng 1 tư
và 5 quan tiền, hạng nhì được thưởng 1 tư [1 bậc].
Trước đây, vua đã sai
người đi hỏi ngầm khắp nước, đến đây căn cứ vào lời tâu, bắt và xét hỏi những
viên tham quan ô lại không giữ phép nước, gồm Tuyên úy các phiên trấn, tướng
hiệu 5 đạo, các viên Tuyên phủ, Chuyển vận; Tuần sát các lộ, trấn, huyện, cộng
là 53 người.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 28a.
Tháng 8, có sâu keo
hại lúa. Đúc xong tượng vàng Vua cha và mẫu hậu, bèn rước vào thờ
tại Thái Miếu. Sứ bộ Lê Bính từ Trung Quốc trở về nước, tâu
rằng có 7 nhân viên bị dịch chết:
“Mùa thu, tháng 8,
ngày [11 3/9/1435], sét đánh vào thuyền của quân Tây đạo. Có sâu
hại lúa.
Ngày 22 [14/9/1435], đúc
xong tượng vàng của Thái Tổ và Quốc Thái mẫu, sai nhà sư làm phép điểm
nhỡn (14) rồi rước vào Thái miếu để thờ.
Ngày 28 [20/9/1435], Lê
Bính và Nguyễn Thiên Tích vâng mệnh đi sứ phương Bắc trở về, tâu là phó sứ Phan
Ninh, hành nhân Nguyễn Cát Phú và người đi theo, gồm 7 người bị bệnh dịch chết,
nước Minh đều có điếu tế.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 28a.
Tháng 9, mở kỳ thi tại Vân
Tập Đường để sát hạch những giáo chức và quân dân có học:
“Bấy giờ các giáo quan
phần nhiều không xứng đáng với chức vụ, lại hay chê bai nói xấu lẫn nhau. Việc
này lên đến triều đình. Nhà vua sai các giáo chức ở Quốc Tử Giám và ở các lộ
cùng với những người quân và dân có học vấn đều tập hợp để thi ở Vân Tập Đường,
rồi căn cứ vào đấy sẽ xét kỹ để bổ dụng hoặc sa thải. Chân giáo chức nào khuyết
sẽ lấy những người quân và dân đã thi đỗ mà bổ dụng vào.” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 16.
Ngày 18 [9/10/1435], bàn
về việc cấp đất công và miễn giảm thuế; Gián quan Phan Thiên Tước yêu
cầu phải miễn cho người neo đơn chết vợ, chết chồng, cuối cùng được
chấp thuận:
“Bấy giờ bàn việc giảm
nhẹ ngạch thuế khóa. Sắc sai: phàm đất bãi công ở sở tại đều chia cấp cho quân
và dân làm sản nghiệp đời đời: quân thì 5 sào, dân thì 4 sào, đều được miễn
thuế. Còn riêng hạng quan, quả [chết vợ, chết chồng] đều
không được miễn. Phan Thiên Tước nói:
‘Chính sự của vương giả,
đối với những người quan, quả, phải thương xót trước, nay ơn huệ chỉ nhuần thấm
đến quân và dân, còn hạng quan, quả phải riêng chịu khô héo! Thể thống chính sự
há nên như vậy ư?’.
Do đấy, hạn người
quan, quả cũng được miễn tô 3 sào.” Cương Mục,
Chính Biên, quyển 16
Tháng 10, bổ nhiệm quan
đại thần tại các viện. Vua ngự xem 5 quân tập vượt sông; quan quân
thuộc 5 đạo chuẩn bị 1 tháng lương, để tập luyện võ nghệ:
“Mùa đông, tháng 10,
ngày mồng 6 [27/10/1435], lấy Lê Cảnh Xước làm Nội mật viện
sứ, vẫn hầu Kinh diên; Đào Công Soạn làm tri Thẩm hình viện sự; Nguyễn Văn
Huyến làm tri Nội vật viện sự; Nguyễn Thúc Huệ làm Nội mật viện phó sứ; Hà Lật
làm Hữu hình viện đại phu.
Ngày 18 [8/11/1435], vua
ngự ra bến Đông [sông Hồng] phía đông thành xem năm
quân thi vượt sông.
Ngày 29 [19/11/1435],
ra lệnh chỉ cho các quan ngự tiền, các vệ quân và trấn quân năm đạo, cùng những
người trong các sảnh, viện, cục, mỗi người đều phải mang lương ăn trong 1 tháng
và các thứ chiến bào, đồ dùng, hạn đến ngày 15 tháng 11, phải tập hợp đầy đủ
tại địa phận của mình để điểm danh và luyện tập võ nghệ.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 11, trang 31a.
Ngày mồng 1 tháng 11,
có nhật thực, quan phụ trách Khâm thiên giám Bùi Thì Hanh biết trước,
nhưng cho là hiện tượng thiên nhiên, không mê tín cứu chữa bằng hình thức
như gõ mâm, nồi vv… như trước:
“Tháng 11, ngày Mậu
Thìn, mồng 1 [20/11/1435], có nhật thực, vì Bùi Thì Hanh đã mật tâu
từ trước, nên không hộ cứu mặt trời.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 11, trang 31a.
Sứ Chiêm Thành đến nước
ta, bị cật vấn về việc trước kia chiếm xứ Cổ Lũy [Quảng Ngãi] và
không chịu nộp cống:
“Chiêm Thành sai sứ
sang.
Ngày 24 [13/12/1435], sứ
Chiêm từ biệt về nước. Ban cho vải lụa. Sau Lê Nhữ Lãm hỏi bọn họ rằng:
‘Đồng ruộng các xứ Cổ
Lũy [Quảng Ngãi] của nước Chiêm vốn là đất của ta, các ngươi
nhân lúc nước ta nhiều biến cố, cướp lấy để tự vỗ béo mình, tới nay vẫn không
nói đến trả lại. Lễ cống hàng năm lại không nộp là tại làm sao?’
Sứ Chiêm trả lời:
‘Bọn thần muốn cho hai nước
thân yêu nhau, còn để gõ cửa mà xin lửa. Song chúa nước thần già lẫn, không
chịu tin ai. Thần xin triều đình cử sứ sang báo cho chúa nước tôi, nếu không
thì dù bọn thần có nói cũng không có bằng chứng gì để làm tin cả’.
Nhữ Lãm nói:
‘Triều đình há lại không có
lấy một sứ thần hay sao? Nhưng nước ngươi không giữ lễ nước nhỏ thờ nước lớn,
thì sứ thần đâu có thể khinh xuất mà đi được?’.
Bèn làm công văn đóng dấu
của Thượng thư trao cho sứ Chiêm mang về.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 11, trang 31b.
Triều đình mang đại quân
đi đánh châu Ngọc Ma, tại vùng Cam Môn, Cam Cớt phía tây tỉnh Nghệ An,
bắt sống Tù trưởng Cầm Quí. Xứ Mường Bồn giáp giới với Ngọc Ma sợ
vạ lây, nên trước đó xin qui thuận:
“Mường Bồn
Man sang cống các thứ ngà voi, sừng tê, bạc, vải. Mường Bồn giáp giới với
đất của Cầm Quý, thấy Quý vô lễ, sợ vạ lây đến mình, cho nên quy thuận trước.
Vua khen ngợi, sai đem áo kim tuyến về thưởng cho phụ đạo xứ ấy và ban lụa cho
người đi sứ theo thứ bậc khác nhau.
Ngày 21 lấy
Tư mã Tây đạo Lê Bôi làm Tổng quản; hữu bật Lê Văn Linh làm Tham đốc, đốc suất
các vệ quân năm đạo và hai vạn trấn quân Nghệ An đi đánh tên phản nghịch Cầm
Quý ở châu Ngọc Ma. Vua răn bảo phải nghiêm cấm tướng sĩ, vỗ yên nhân dân, tổng
quản, đồng tổng quản, tổng tri nào trái lệnh thì bắt giam mà tâu xin xử tội. Từ
vệ đồng tri trở xuống, người nào ra trận mà trái lệnh hoặc lùi lại thì cho chém
trước tâu sau. Châu Ngọc Ma ở phía tây Nghệ An, phía đông Ai Lao. Cầm Quý chỉ
có 1 vạn quân. Khi Thái Tổ khởi nghĩa, Quý đã từng đem quân sang giúp, được
trao chức Thái úy. Ít lâu sau lại ngờ vực, hối hận tự đem quân về. Đến khi dẹp
xong giặc Ngô, Quý rất hổ thẹn và lo sợ, nhưng lại cậy đất hiểm, đường xa,
không chịu thuần phục. Quý là người tham lam, tàn bạo, cấm dân không được trồng
trọt tranh với mình, xây dựng cung thất lớn, lấy đồng làm cột, vợ cả vợ lẽ phải
kể hàng trăm, bắt dân đóng góp nặng, nói láo là để nộp cống, nhưng thực ra là
vơ hết về mình. Thái Tổ định giết hắn, nhưng vì bấy giờ còn đương có việc, nên
chưa rảnh tính đến. Tới đây, vua sai đi đánh, bắt Cầm Quý đóng củi đưa về kinh
sư.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 31b.
Nhân Sứ nhà Minh sắp
sang, bèn cử Đào Công Soạn kiêm chức Thượng thư bộ Lễ đặc trách việc
tiếp đón:
“Lấy tri Thẩm hình viện
sự Đào Công Soạn làm Thẩm hình viện sứ kiêm Lễ bộ thượng thư. Công Soạn rất am
hiểu điển cũ và phong tục người Ngô. Bấy giờ sứ nhà Minh sắp sang, vua muốn
Công Soạn giữ việc ứng tiếp, cho nên có lệnh này.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 11, trang 33a.
Tháng chạp, Sứ thần
nhà Minh bọn Chu Bật sang báo tin Vua Anh Tông lên ngôi. Bật là tên tham
lam, lén nhận vàng và cho mang hàng ngàn gánh hàng hóa sang ép mua.
Đến ngày 11, phái đoàn nước ta do Nguyễn Văn Huyến cầm đầu, theo Chu
Bật sang Yên Kinh dâng biểu mừng:
“Tháng 12, sứ Minh là
Chu Bật, Tạ Kinh sang báo việc vua Minh lên ngôi và việc gia tôn
thái hoàng thái hậu. Bật vào đến địa giới, trước hết sai người tâu với vua mặc
đồ cát phục (15) đón tiếp. Đến khi mở đọc chiếu thư, cũng
không làm lễ cử ai, yến tiệc vui chơi như thường. Bọn Bật tham lam thô bỉ,
trong bụng rất hám tiền của nhưng ngoài mặt làm ra vẻ liêm khiết, mỗi khi có
tặng lễ vật vàng bạc, đều từ chối không nhận, nhưng lại nhìn những người đi
theo nét mặt ngần ngại. Triều đình biết ý, mới đưa những người đi theo sang dự
yến ở phòng khác, rồi nhân lúc rót rượu, ngầm lấy mấy nén vàng ấn vào lòng bọn
Bật. Bật mừng rỡ khôn xiết. Bọn Bật lại mang nhiều hàng phương Bắc sang, đặt
giá cao, ép triều đình phải mua. Đến khi về nước, phải bắt đến gần một nghìn
dân phu khiêng gánh đồ cống vật và hành lý của bọn Bật.
Ngày 11 [30/12/1435], lấy
tri nội mật viện là Nguyễn Văn Huyến, Điện trung thị ngự sử Lương Thiên Phúc,
Quản lĩnh Lê Lung, Tả hình viện đại phu Đinh Lan, cùng đi với sứ phương Bắc là
Chu Bật, đem biểu mừng vua Minh lên ngôi và hoàng thái hậu được gia tôn.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 33a.
Ngoài ra trong tháng
chạp cho đào vét sông Đuống tại vùng Từ Sơn, Bắc Ninh và hoàn thành
bản khắc gỗ bộ Tứ Thư Đại Toàn:
“Hạ lệnh cho vệ quân các
đạo và năm quân Thiết đột vét sông Đông Ngàn (16) .
Ván khắc mới sách Tứ Thư Đại Toàn hoàn
thành.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 33b.
Chú
thích:
1. Thành Vương: là vua nhà
Chu, Thái Giáp: là vua nhà Thương, được coi là những vua giỏi thời cổ của Trung
Quốc.
2. Nguyên văn "thập
tiệm". Nguỵ Trưng là hiền thần của Đường Thái Tông, dâng sớ xin vua đề
phòng 10 điều lầm lỗi có thể thấm dần mà mắc phải.
3. Tự điển: danh sách các vị
thần được triều đình chính thức phong tặng, được hưởng cúng tế.
4. Bồi thần: vốn là chức
quan đại phu của chư hầu xưng với thiên tử. Ở đây Tông Trụ là quan đại phu
triều Lê, đi cống nhà Minh, xưng với thiên tử nhà Minh.
5. Hồng lô tự của nhà Minh.
6. Long Châu là tên huyện thuộc phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc.
7. Vùng đất thượng lưu sông Mã, thuộc tỉnh Thanh Hóa.
8. La La Tư: Theo Nguyên Sử Loại Biên thì
La La Tư tuyên úy ti do nhà Nguyên thiết lập, thuộc lộ Vân Nam, đến đời Minh,
thuộc vệ Vĩnh Xương.
9. Mãn Thứ Gia: Tức Melaka,
một bang của Mã Lai.
10. Cáp Mật: Một bộ tộc nay
thuộc tỉnh Tân Cương.
11. Mường Qua: Nước Lão
Qua.
12. Mường Tàm: Tức Tàm
Châu, vùng thượng lưu sông Mã nước Ai Lao.
13. Sinh trị: Nghĩa là sinh
đã biết mọi việc, không cần phải dạy bảo, từ này chỉ dùng cho các bậc thánh
nhân.
14. Điểm nhỡn: Vẽ mắt
tượng.
15. Cát phục: Y phục mặc
lúc có việc vui, trái với tang phục.
16. Sông Đông Ngàn: Khúc
sông Đuống chảy qua huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Trước
đây nhà Minh chỉ phong cho các Vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông Quyền
trông coi quốc sự; bấy giờ triều đình nước ta muốn nhà Vua được phong
Vương như các triều đại trước; nên dùng Thượng thư bộ Lễ, Đào Công
Soạn, người giỏi về ngoại giao, đảm nhiệm việc cầu phong:
“Năm Thiệu Bình thứ 3, mùa xuân, tháng giêng [2/1436], bàn sai Thẩm hình viện sứ kiêm
Lễ bộ thượng thư Đào Công Soạn và Nội mật viện phó sứ Nguyễn Thúc Huệ sang nhà
Minh cầu phong.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 34a.
Mấy tháng sau Đào Công Soạn
đến Yên Kinh, thu xếp xong điều kiện để được sách phong; rồi vội vã
trở về nước mang vàng bạc sang cống vào tháng 6. Như vậy khi bọn
Soạn đến Yên Kinh lần thứ nhất, có thể vào tháng 4; mới kịp trở về
nước để đi chuyến thứ hai vào tháng 6. Nhưng văn bản Minh Thực Lục dưới
đây ghi đến Yên Kinh vào tháng 6, ắt có sự lầm lẫn về thời
gian:
“Ngày 27
tháng 6 nhuần năm Chính Thống thứ nhất [9/8/1436]. Quyền
trông coi quốc sự nước An Nam Lê Lân sai Bồi thần Đào Công Soạn đến dâng biểu,
cống sản phẩm địa phương. Ban cho các vật như lụa.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 9).
Ngày mồng 6 tháng 6 sứ bộ
Đào Công Soạn đem đồ cống sang Yên Kinh lần thứ hai, để dọn đường cho
việc sách phong:
“Tháng 6, ngày mồng 6, sai bọn Thẩm
hình viện sứ kiêm Lễ bộ thượng thư Đào Công Soạn và Nội mật viện phó sứ Nguyễn
Công Cứ sang nhà Minh nộp cống hằng năm.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 34a.
Minh
Thực Lục ghi vào ngày 12 tháng 9, sứ bộ Đào Công Soạn đến
triều đình nhà Minh dâng biểu và cống vàng, bạc vv…:
“Ngày 12 tháng 9 năm Chính Thống thứ nhất [21/10/1436] Nước An Nam sai Bồi thần bọn Đào Công
Soạn dâng biểu cống vàng, bạc, sản vật….” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 10).
Việc ngoại giao tiến triển
tốt đẹp, nên vào cuối tháng 9 Vua Anh Tông sai Thị lang bộ binh Lý Úc
làm chánh sứ, mang ấn phong cho Vua Thái Tông chức An Nam quốc vương:
“Ngày 28 tháng 9 năm
Chính Thống thứ nhất [6/11/ 1436]. Sai Hữu
Thị lang bộ binh Lý Úc làm Chánh sứ, Thông chính sứ ty Tả Thông chính Lý Hanh
làm Phó sứ mang ấn đến phong cho quyền trông coi quốc sự nước An Nam Lê Lân làm
An Nam Quốc vương. Trước đây Tuyên Tông Hoàng đế mệnh Lê Lợi quyền trông coi
quốc sự; sau khi Lợi mất, Lân nối chức, thờ triều đình rất cung kính. Thiên tử
cho rằng con cháu nhà Trần không còn ai, chi bằng chính ngôi vị của Lân để
thuận việc chiêu phủ kẻ dưới; quần thần bàn bạc đều cho là phải, nên mệnh bọn
Úc đến phong tước và ban chiếu cho nước này rằng:
“Trẫm chịu mệnh trời, coi
sóc dân trong thiên hạ; mong mọi nơi dưới cõi trời đất che chở đạt được
an khang. Nước An Nam lãnh thổ kề cận; ngươi Lân, con của quyền trông coi quốc
sự nước An Nam Lê Lợi kế thừa; lấy đức cần cù thận trọng thờ người trên, chăn
sóc kẻ dưới, không lười biếng để làm hỏng sự nghiệp. Nay đặc phong ngươi
làm An Nam Quốc vương, trao cho ấn chương để vĩnh viễn cai quản người trong
nước; thể hiện sự đối xử chung một lòng nhân của Trẫm.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 11)
Ngoài ra vào ngày 11 tháng 11
năm trước [30/12/1435], có một phái đoàn khác là bọn sứ thần Lê Lung
khởi trình sang nhà Minh dâng hương cho Vua Tuyên Tông mất và Vua Anh Tông
lên ngôi; vào tháng 4 năm nay đến Yên Kinh:
“Ngày 22 tháng 4 năm Chính Thống thứ nhất [
8/5/1436].Lê Lân [
vua Lê Thái Tông ] quyền
coi quốc sự nước An Nam sai Sứ là bọn Lê Lung đến dâng hương, nhân vua
Tuyên Tông Hoàng đế chầu trời.
Mừng Thiên tử lên ngôi
quý, Thánh Tổ mẫu lên Thái hoàng Thái hậu, Thánh mẫu lên Hoàng Thái hậu; các
nước sai sứ đến dâng biểu, cống sản phẩm địa phương. Được ban yến cùng các vật
như lụa.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang
18). Đầu năm Thiệu Bình thứ 4 [2/1437], sai quan Hành khiển Nguyễn Trãi
cùng với hoạn quan Lương Đăng đốc suất tập luyện nhã nhạc, sắm nhạc
khí; vì hai người ý kiến không thống nhất, nên xảy ra tranh chấp lớn:
“Năm Đinh Tỵ, Thiệu Bình thứ 4,
mùa xuân, tháng giêng Sai Hành khiển Nguyễn Trãi và Lỗ bộ ty giám Lương Đăng
đốc suất làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc múa.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 35a.
Hành khiển Nguyễn Trãi dâng
bản vẽ khánh đá, cùng lời khuyên muôn dân hài hòa là gốc của nhạc;
nhà Vua tiếp nhận và cho làm khánh:
“Hành khiển Nguyễn Trãi dâng bản vẽ khánh đá và tâu rằng:
‘Kể ra, đời loạn dùng
[36a] võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có
gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không không thể lưu hành. Hòa
bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không
dám không dốc hết tâm sức. Nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng
thanh luật, khó được hài hòa. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để chốn xóm thôn
không còn tiếng oán hận buồn than, như thế mới không mất cái gốc của nhạc’.
Vua khen ngợi và
tiếp nhận. Sai thợ đá huyện Giáp Sơn [huyện Kinh Môn, Hải
Dương] lấy đá ở núi
Kính Chủ để làm.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 35b.
Đến tháng 5. Nguyễn Trãi xin
từ chức hiệu đính nhã nhạc, vì bất đồng với Lương Đăng; nhưng
Vua vẫn chấp nhận ý kiến của Lương Đăng:
“Tháng 5, Hành khiển Nguyễn Trãi tâu rằng:
‘Mới rồi, bọn thần cùng
với Lương Đăng hiệu định nhã nhạc, nhưng kiến giải của thần không giống với
Lương Đăng, thần xin trả lại công việc được sai’.
Trước kia Thái Tổ
sai Nguyễn Trãi định ra quy chế mũ áo, chưa kịp thi hành. Đến đây, Lương Đăng
dâng sớ thư [38b] đại ý nói:
‘Về lễ thì có lễ đại triều
và lễ thường triều. Tế trời, cáo miếu, ngày thánh tiết [ngày
sinh của vua], ngày chính
đán [mồng một tết] ,
thì làm lễ đại triều, hoàng đế mặc áo cổn, đội mũ miện, lên ngồi ngai báu, trăm
quan đều mặc triều phục đội mũ chầu. Còn những ngày mồng một, ngày rằm hàng
tháng thì Hoàng đế mặc áo bào vàng, đội mũ xung thiên, ngồi ngai báu, trăm quan
đều mặc công phục, đội mũ phác đầu. Lễ thường triều thì hoàng đế mặc áo bào
vàng, đội mũ xung thiên, ngồi sập vàng, trăm quan mặc thường phục cổ tròn, đội
mũ sa đen. Về nhạc thì có nhạc tế Giao, nhạc tế Miếu, nhạc tế Ngũ tự (1), nhạc cứu khi có nhật thực, nguyệt
thực, nhạc đại triều, nhạc dùng trong cung, không thể dùng nhất loạt được. Về
lỗ bộ đại giá, như xe kiệu thì có đại lộ, tượng lộ, mã lộ (2), có cửu long dư, thất long
dư (3),
có bộ liễn, có phi liễn (4);
về nghi trượng thì có kim qua, phủ, việt, chàng, phướn, tinh kỳ, mao tiết,
chương phiến (5),
long ngũ phượng. Số ngựa đóng vào xe và số đội ngũ theo hầu cũng đều có quy
định cả, thần không thể chép hết được’.
Thư ấy dâng lên, vua
sai Lương Đăng định ra các quy chế. Đăng nhân đó dâng lên quy chế về mũ áo và
nhạc khí. Đại để, quy chế do Đăng và Trãi định ra phần nhiều không hợp nhau,
những chổ bàn về số lượng, trọng lượng các nhạc khí có nhiều điều trái nhau, mà
trình bày cũng khác nhau, cho nên Trãi xin thôi việc đó. Vua theo lời bàn của
Đăng, rồi làm theo.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 35b.
Tháng 11, ban bố các nghi
thức mới do hoạn quan Lương Đăng đặt ra; bị các quan đại thần như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Liễu cực lực phản đối. Riêng Nguyễn Liễu mạt
sát Lương Đăng nặng lời, bị lưu đày:
“Ban bố các nghi thức mới định lại trong các dịp lễ thánh
tiết, chính đáng, sóc vọng, thường triều, đại yến .
Trước kia, vua sai Lương
Đăng định các nghi thức đại triều, đến đây hoàn thành dâng lên. Vua bái yết
Thái miếu, các quan mặc triều phục làm lễ theo nghi thức mới bắt đầu từ đây.
Bọn Hành khiển Nguyễn
Trãi, Tham tri bạ tịch Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Tham
nghị Nguyễn Liễu dâng sớ tâu rằng:
‘Muốn chế tác lễ nhạc,
phải đợi có người rồi hãy làm, được như Chu Công thì sau mới không có lời chê
trách. Nay sai kẻ hoạn quan Lương Đăng chuyên định ra lễ nhạc, chẳng nhục
cho nước lắm sao! Vả lại, quy chế lễ nhạc của y là dối vua lừa dưới, không dựa
vào đâu cả, như đánh trống là báo giờ ra chầu triều sớm, nay vua ra chầu rồi
mới đánh. Theo quy
chế xưa, khi vua ra, thì bên tả đánh chuông hoàng chung, rồi năm chuông bên hữu ứng theo, lúc vua
vào đánh chuông chưng tân rồi năm chuông cũng ứng theo. Nay vua ra chầu, đánh
108 tiếng chuông, đó là số lần đếm tràng hạt của nhà sư. Nếu theo quy chế của
nhà Minh, thì khi vua ngồi ở cửa Phụng Thiên phải có ngai báu, nay chỉ có một
điện Hội Anh, lại chỉ có sập vàng, nếu di chuyển thì sợ không yên, đặt cả hai
thứ cũng không được, thế là lễ nghi gì? Làm xe thì đằng trước có diềm, đằng sau
mở cửa. Nay lại mở cửa đằng trước, quy chế xưa làm như thế hay sao?. Khi vua ra
thì có hô thét, khi vào thì có thu dẹp, đó là quy định của nghi lễ. Nay quan
coi cửa xướng tâu mọi việc xong, các quan lui ra, vua con ngồi mà người thu dẹp
đã la thét dọn dẹp là làm sao? Vả lại, Đăng là đứa hoạn quan, thần trộm lấy làm
ngờ lắm".
Đăng tâu:
"Thần không có
học thức, không biết quy chế cổ, các nghi thức nay đã làm, chỉ trông cả vào hiểu biết của thần mà
thôi, còn ban hành hay không là quyền của bệ hạ, thần đâu dám chuyên
quyền".
Nguyễn Liễu tâu
rằng:
"Từ xưa đến nay
chưa bao giờ có cảnh hoạn quan chuyên phá hoại thiên hạ như thế này".
Đinh Thắng từ trong bước
ra, mắng rằng:
"Hoạn quan làm
gì mà phá hoại thiên hạ? Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước".
Cuối cùng phải giao Liễu
cho hình quan xét hỏi. Án xử xong, tội đáng chém, nhưng được lệnh riêng, cho
thích chữ vào mặt, đày ra châu xa.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 47b.
Năm ngoái vào ngày 28 tháng 9
[6/11/ 1436]. Vua Anh Tông sai Hữu Thị lang bộ binh Lý Úc làm Chánh sứ mang
sắc ấn phong Vua Lê Thái Tông làm An Nam Quốc vương; ngày 13 tháng
giêng đến nước ta. Mấy ngày sau nhà Vua sai sứ sang triều Minh tạ ơn,
cùng làm lễ tấu cáo trước thái miếu:
“Ngày 13 [17//2/1437], nhà Minh sai chánh sứ là Binh bộ
thượng thư Lý Úc, phó sứ là Thông chính ty hữu thông chính Lý Hanh mang chiếu
sắc ấn vàng sang phong vua làm An Nam Quốc Vương (ấn nặng 100 lạng, núm hình
con lạc đà, làm bằng vàng). Khi bọn Úc về nước, vua ban cho lễ vật rất hậu,
nhưng bọn Úc từ chối không nhận.
Ngày 17 [21/2/1437], lấy Quản lĩnh quân Hùng tiệp là
Thái Sĩ Minh làm chánh sứ; đồng tri Thẩm hình viện sự Hà Phủ và Hữu hình viện
đại phu Nguyễn Nhật Thăng làm phó sứ sang tạ ơn nhà Minh.
Làm lễ tấu cáo Thái
miếu, vì nhà Minh sang phong. [35b] Hạ lệnh cho các Hành khi Ban cho quan võ
đội mũ cao sơn. Trước đây, quan võ đội mũ chiết xung, đến nay cho đội mũ cao
sơn cũng như quan văn.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 35a.
Vào cuối tháng giêng, triều
đình ra lệnh cho 5 đạo làm sổ hộ tịch; cùng thi tuyển được 690 người
làm thuộc lại cho các cơ quan trong triều và các đạo:
“Hạ lệnh cho các Hành
khiển năm đạo làm sổ hộ tịch.
Thi viết chữ làm tính, lấy
đỗ 690 người, bổ làm thuộc lại các nha môn trong ngoài.
Phép thi: Kỳ thứ
nhất, thi viết ám tả cổ văn. Kỳ thứ hai, thi viết chữ chân, chữ thảo. Kỳ thứ
ba, thi phép làm tính. Người dân và sinh đồ đều được vào thi, giám sinh và
những người đã ở sổ quân thì không được thi.
Bấy giờ quan tể tướng
đều là đại thần khai quốc, không thích Nho thuật, chuyên lấy việc sổ sách, giấy
tờ và kiện tụng để xét thành tích của các quan, bọn lại thuộc phần nhiều chiều
hót quan trên, cho nên quan trong ngoài có chức nào khuyết thì tiến cử để bổ
dùng. Bọn hãnh tiến chán ghét học thuật, theo nghề đao bút (6). Giám sinh cũng muốn bỏ việc
học hành mà xin vào làm lại, cho nên cấm không cho thi. Lần thi này, những kẻ
luồn lọt, thỉnh thác có tới một nửa.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 35b.
Tháng 2, Vua đích thân tới
đấu trường xem luyện tập võ nghệ. Cùng khảo xét võ nghệ các tướng
hiệu; người nào dưới tiêu chuẩn bị giảm lương:
“Tháng 2, vua tới trường đua xem tập võ nghệ.
Khảo xét võ nghệ của các
tướng hiệu. Phép khảo xét: bắn cung là một môn, ném tên là một môn, đánh mộc là
một môn. Cả ba môn đều được thì cấp lương toàn phần, ai không được môn nào thì
bị giảm lương, sau coi đó làm lệ thường.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 37a.
Bổ nhiệm các viên chức, trong
đó có Lưu Bá Cung trước kia là Thông dịch viên của Thành sơn hầu Vương
Thông, từng cung cấp tin tức mật cho Vua Lê Lợi, nay được đề bạt:
“Lấy Tả hình viện đại phu Đinh Lan làm An phủ phó sứ lộ
Bắc Giang thượng. Đổi Đoàn Quốc Sĩ làm An phủ phó sứ lộ An Bang, lấy bọn nội
thị Nguyễn Đình Trạc ba người làm Chuyển vận phó sứ, Vũ đội [36b] khách đội
trưởng Lưu Bá Cung làm Tứ sương chỉ huy sứ.
Trước kia, Bá Cung làm
thông sự cho Thành Sơn hầu Vương Thông. Năm Đinh Mùi (1427), Thái Tổ đóng bản
doanh ở Bồ Đề, Vương Thông thường sai Bá Cung đi lại thông tin tức. Thái Tổ bảo
Bá Cung rằng:
‘Nếu Vương Thông quả rút
quân về nước, ta sẽ phong ngươi tước hầu’.
Khi đất nước bình
yên, được cất nhắc làm đội trưởng. Đến đây, các đại thần đều nhắc tới việc đó,
cho nên có lệnh này.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 36a.
Tháng 3, trời hạn hán; ra
lệnh cho các địa phương cầu mưa. Vào giữa tháng, có nguyệt thực, viên
Thái sử biết trước, mật tâu lên:
“Hạn hán, hạ lệnh cho các lộ, huyện trong nước làm lễ cầu
mưa.
Ngày Ất Tỵ 15
tháng 3 [20/4/1437], có
nguyệt thực. Thái sử Bùi Thì Hanh mật tâu nên ẩn đi, không hộ cứu.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 37b. Tư liệu phương Tây trong Catalog of Lunar Eclipses cũng
ghi nhận rằng ngày 20/4/1437 có nguyệt thực.
Tháng 4, làm lễ cầu mưa. Vua
muốn xem thơ văn của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi dâng lên; khi làm lễ Thái
miếu, bỏ hát chèo và nhạc dân gian:
“Mùa hạ, tháng 4 [5/1437], làm lễ cầu mưa ở cung Cảnh Linh.
Vua muốn xem thủ
chiếu và thơ văn của họ Hồ (7), Nguyễn
Trãi sưu tập được vài chục bài thơ, văn bằng quốc ngữ dâng lên.
Vua yết Thái miếu bãi trò
hát chèo, không tấu nhạc dâm nữa (8).” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 38a.
Đầu tháng 6 hạn hán vẫn
tiếp tục, hạ lệnh cho các địa phương làm lễ cầu mưa. Đến ngày 12
kinh sư có mưa, Vua sai người đến các lộ xem có mưa không; hôm sau xuống
chiếu giảm thuế, bớt hình phạt để yên lòng dân:
“Tháng 6, hạn hán, có sâu hại lúa. Hạ
lệnh cho các lộ, trấn làm lễ cầu mưa.
Ngày Canh
Ngọ 12 [14/7/1437], kinh
sư có mưa, các quan đều chúc mừng, vua sai người đi các lộ xem có mưa không.
Ngày Tân Mùi 13 [15/7/1437], xuống chiếu rằng: Mấy năm nay
hạn hán sâu bọ xảy ra liên tiếp, tai dịch có luôn, phải bớt hình phạt, giảm
thuế khóa, để yên lòng dân.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 39b.
Lúc này Vua đã trưởng thành,
tự xét đoán công việc; ghét Lê Sát chuyên quyền; bèn sai Trịnh Khả
người đối kháng với Sát vào giữ cấm binh, đuổi những người thân cận
của Sát ra khỏi triều đình. Rồi xuống chiếu bãi chức Lê Sát, bổ
nhiệm trọng thần tại các đạo để củng cố quyền lực:
“Bấy giờ, vua đã lớn tuổi, xét đoán mọi việc đã sáng suốt,
mà Lê Sát vẫn tham quyền cố vị nên vua càng ghét Sát, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ vẻ
bao dung. Sát không nhận ra điều đó.
Đến đây, vua cùng những
người hầu cận bàn mưu cho rằng Lê Ê, Lê Hiệu là người thân thích của Sát, mà
Trịnh Khả thì trước có hiềm khích với Sát, bèn cho bọn Ê ra ngoài rồi trao cấm
binh cho Khả nắm giữ. Sát xin giữ Hiệu lại nói rằng:
‘Nếu Khả được hầu trong
cung thì sợ thần nguy mất’.
Vua trở vào cung.
Ngày hôm sau, vua sai người báo cho Đinh Cảnh An:
‘Đại tư đồ Sát cho thăng chức mà không nhận, ta muốn lấy
Lê Văn An làm Hải Tây đạo đồng đô đốc tổng quản, mà Lê Sát ngăn trở’.
Đinh Cảnh An, Nguyễn
Vĩnh Tích liền hặc tội rằng:
‘Lê Sát quen thói chuyên
quyền, tội ấy khó lòng dung thứ’.
Tờ tâu dâng lên, vua trao
cho Hình quan xét hỏi. Sát bỏ mũ tâu rằng:
‘Nay khép cho thần tội chuyên quyền, thế là tội của thần
do Tiên đế mà có cả’.
Bấy giờ bọn Lê Văn Linh,
Lê Ngân đều cứu gỡ cho Sát, nhưng vua không nghe.
Ngày Bính
Tuất 28 [30/7/1437], bãi
chức tước của Đại tư đồ Lê Sát. Xuống chiếu rằng:
‘Lê Sát chuyên quyền nắm
giữ việc nước, ghen ghét bậc hiền tài, giết Nhân Chú để hòng ra oai, truất
Trịnh Khả bắt người ta phục, bãi chức tước của Ư Đài khiến đình thần không còn
ai dám nói, đuổi Cầm Hổ ra biên giới cho gián quan đều bịt miệng im hơi. Xét
mọi việc làm của hắn đều không phải là phép tắc của kẻ làm tôi. Nay muốn khép
nó vào hình luật để tỏ rõ phép nước, nhưng vì là viên cố mệnh đại thần, có công
với xã tắc, nên đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước’.
Cho Bùi Ư Đài được phục
chức Đồng tri môn hạ tả ty sự, tước Trí tự, thành tri Tây [42a] đạo quân dân bạ tịch như cũ. Đưa Tây đạo tham tri quân dân bạ tịch
Đặng Đắc ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn, ít lâu sau bắt hạ ngục
Lấy Phạm Bôi làm
Đông đạo hành quân tổng quản: Lê Lý làm Nhập nội thiếu úy tham tri Tây đạo chư
vệ quân sự. Tước bỏ chữ "Công thần" và chức tước của bọn Lê Văn Linh,
giáng xuống làm Bộc xạ. Lấy Lê Thận làm Tư mã tri Bắc đạo chư vệ quân sự; Tham
tri chính sự Lê Định làm Tư mã; Tham tri Nam đạo chư vệ quân sự Lê Lãng làm
Tham tri Bắc đạo chư vệ quân sự; Lê Lan làm Bắc Giang Hạ vệ đồng tổng quản. Lấy
Thiên ngưu vệ hành quân tổng quản quản lĩnh tả dực thánh quân kiêm Nghệ An lộ
đại tổng quản Lê Chuyết làm Bảo chính công thần hành quân tổng quản tri Kim ngô
vệ chư quân sự quản lĩnh [42b] hữu dực thánh quân. Đưa Lê Ê ra làm Đồng tổng
quản lộ Quy Hóa. Lấy Nhập nội tư khấu Bắc đạo hành quân đô tổng quản Lê Ngân làm
Nhập nội đại đô đốc Quy Hóa trấn phiêu kỵ thượng tướng quân đặc tiến khai phủ
nghi đồng tam ty thượng trụ quốc, Quốc huyện thượng hầu.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 40b.
Tháng 7, nhà Vua phế Nguyên
phi Ngọc Dao, con gái Lê Sát, làm dân thường. Định xử chém Lê Sát,
nhưng các quan như Bùi Cầm Hổ khuyên can, nên bắt tự tử tại nhà:
“Mùa thu, tháng 7, lấy Chiêu nghi Lê Nhật Lệ, con gái
Đại đô đốc Lê Ngân, làm Huệ phi, phế Nguyên phi Ngọc Dao, con gái Lê Sát, làm
thứ nhân. Xuống chiếu rằng:
‘Lê Sát tội không thể dung thứ, đáng
phải chém để rao, nhưng trẫm tha không cho giết. Duy Đặng Đắc là kẻ bày mưu cho
Sát, định hại xã tắc thì phải chém bêu đầu. Nguyễn Gia Nô vì biết chuyện lại
không tố cáo thì phải đày ra châu xa. Còn [43a] bọn Lê Văn Linh, Lê Lĩnh, Lê
Thụ, Lê Ê, Lê Hiệu, đều phải xử phạt theo pháp luật, có ân xá cũng không được
hưởng. Lê Bang vì là con rể của Sát, tự tiện ra vào nhà Sát, cho đày ra châu
xa’.
Lấy An phủ sứ lộ
Lạng Sơn là Bùi Cầm Hổ làm Ngự sử trung thừa, vì Hổ trước đã hặc tội Lê Sát (9) .
Cho Lê Sát được tự tử ở
nhà.
Tờ chiếu viết:
‘Lê Sát nay lại ngầm nuôi bọn võ sĩ, liều chết, mưu hại
bậc trung thần lương tướng, mưu kế giảo quyệt, dấu tích gian phi mỗi ngày một
lộ rõ, đáng phải chém đem rao’.
Lê Ngân và Bùi Cầm Hổ cùng
tâu rằng:
‘Tội Sát đáng chết, nhưng
Sát từng là đại thần, nếu đem xác đi rao để làm nhục thì sợ rằng để tiếng chê
cười cho đời sau’.
Bèn cho được chết ở
nhà. Vợ con và điền sản nhà Sát đều bị tịch thu. Đem đồ đạc của cải nhà Sát ban
cho các quan.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 42b.
Vào tháng 8 thuyền buôn nước
Tiêm La đến cống; riêng Ai Lao mang quân quấy phá vùng Sơn La, bị đánh
đuổi:
“Tháng 8 [9/1437], thuyền buôn nước Xiêm La sang cống.
Bấy giờ, Ai Lao đem quân
sang tranh châu Mã Giang [Sơn La] và châu Mộc, Xa Tham đánh lại,
chém được tù trưởng của chúng là bọn Man Nữu hơn 20 thủ cấp, bắt sống hơn 20
người giải về kinh sư. Ai Lao sai sứ sang xin lại. Vua tha cho về.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 44a.
Sau khi Lê Sát bị thất sủng,
Bùi Cầm Hổ người từng chống đối Sát được trở về triều giữ chức
Ngự sử trung thừa; Cầm Hổ tiếp tục đàn hặc các quan lại thiếu khả
năng hoặc lầm lỗi, như Lê Đổ, Lương Đăng:
“Lấy Ngự tiền cường nỗ hỏa đồng tri quân Lê Đổ làm Chính
sự viện đồng tham nghị.Trung thừa Bùi Cầm Hổ tâu rằng:
‘Chức Tham nghị quan hệ
đến việc phụ chính, không phải là bậc [45b] lão thành thì không được. Nay Lê Đổ
là người nhiều lầm lỗi mà thăng lên chức ấy thì làm sao cho được?’
Vua không nghe.”
“Trung thừa Bùi Cầm Hổ tâu
rằng:
‘Bệ hạ lên ngôi tới nay,
hay thay đổi phép cũ của Thái Tổ, như Lỗ bộ ty đồng giám Lương Đăng, Tiên đế
cho là người hơi hiểu biết, dùng làm Nội nhân phó chưởng, sau thấy hắn khúm
núm, không thể gần gũi được, cho ra làm văn đội. Nay lại thấy hắn làm quan xin
bệ hạ nghĩ lại". Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 45a.
Vào tháng 9, có người dâng
mũ đẹp, rồi xin người vào làm tại cục chế tạo mũ; Vua định dùng 12
người. Nguyễn Vĩnh Tích và Bùi Cầm Hổ can ngăn; Vua không bằng lòng,
giáng Bùi Cầm Hổ xuống 2 cấp:
“Tháng 9 [10/1437], người thợ Cao Liệt dâng hai
chiếc mũ cỏ và lấy dân xin vào làm ở cục đó. Thị ngự sử Nguyễn Vĩnh Tích can
rằng:
‘Thời xưa, người làm vua
không hề quý nghề đua lạ khoe khéo. Cho nên vua Thuấn đóng đồ sơn mà có đến 17
người can ngăn. Nay có người dâng mũ thì xin bệ hạ hãy nghĩ tới thời Tiên đế
phải dãi gió dầm mưa, chưa bao giờ có thứ đó?’.
Khi bãi chầu
vua đưa mũ cho đại thần và đài quan xem và hỏi họ:
‘Cái mũ này có gì là lạ mà
quan phải can?’
Vĩnh Tích trả lời:
‘Thần muốn vua hơn cả
Nghiêu Thuấn, cho nên can trước cái điều chưa manh nha đó thôi!”. Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 45b.
Tháng 10, đày tay chân thân
tín của quyền thần Lê Sát; con Cầm Quí châu Ngọc Ma qui thuận triều
đình, bắt nạp người em chống đối; Hoạn quan Lương Đăng dâng 5 kiểu xe,
được thăng chức Đô giám:
“Mùa đông, tháng 10 [11/1437], đày bọn Lê Thảo ra châu xa. Bấy giờ bọn Lê Thảo, Lê Khản, Lê Khắc
Hài đều là võ sĩ, là bọn thân tín của Lê Sát. Đến khi Sát bị tội, có người nói
bọn chúng là thích khách của Sát, tra khảo thế nào chúng cũng không nhận. Hình
quan cho là bọn Thảo nghe Lê Sát định giết Đại đô đốc Lê Ngân, tội đáng chém.
Có chỉ đặc ân tha cho tội chết, bắt đày ra châu xa, tịch thu vợ con, điền sản.
Đạo Mộ ở châu Ngọc
Ma [Cam Môn, Cam Cớt thuộc Ai Lao] bắt em hắn là bọn Đạo Muộn và hơn 50 thủ hạ giải về kinh
sư. Muộn là em khác mẹ của Mộ, đều là con của Cầm Quý. Khi quan quân đánh Ngọc
Ma, thì Mộ quy thuận triều đình, còn Muộn thì theo cha sang Ai Lao. Sau khi Quý
bị giết, Mộ gọi Muộn về. Đến khi về, lại âm mưu giết Mộ, cho nên Mộ bắt đem
nộp. [47a]
Ngày Canh
Ngọ 14 [11/11/1437], năm
kiểu xe lộ (10) làm
xong. Cho Lỗ bộ ty đồng giám Lương Đăng làm đô giám.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 46b.
Tháng 11, ban hành nghi thức
mới lúc thiết triều. Sứ thần Xiêm La đến cống; Vua ra lệnh giảm thuế
buôn và tặng quà Quốc vương cùng Vương phi nước này:
“Ngày Bính Ngọ 20 [17/12/1437], vua ra coi chầu! Khi
ra, khi vào có vút roi dẹp đường. Vút roi dẹp đường bắt đầu từ đó.
Ngày Mậu
Thân 22 [19/12/1437] là
lễ tế Kế Thiên thánh tiết. Hôm ấy, buổi sáng vua bái yết Thái miếu, làm lễ 4
lạy. Khi về cung, Lỗ bộ ty (11) bày nghi trượng ở Đan Trì. Vua mang triều phục, áo
cổn, mũ miện, ngự ở điện Hội Anh. Đại đô đốc Lê Ngân dẫn các quan mặc triều
phục, làm lễ dâng biểu chúc mừng. Vua mặc áo cổn, mũ miện, các quan mặc triều
phục [49a] bắt đầu từ đây. Ban đại yến cho các quan, việc treo hoa dâng cỗ đều
theo nghi lễ mới.
Nước Xiêm La sai sứ
là bọn Trai Cương Lạt sang cống. Vua đưa cho sắc thư bảo mang về và trừ cho
phần thuế buôn giảm xuống bằng nửa phần năm trước, cứ 20 phần thu 1 phần, rồi
thưởng cho rất hậu. Ngoài ra, về phần chúa nước ấy, cho 20 tấm lụa màu, 30 bộ
bát sứ, phần của bà phi nước ấy là 5 tấm lụa màu, 3 bộ bát sứ, mỗi bộ 35 chiếc.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 48b.
Tháng chạp, giết Nhập nội đại đô
đốc Lê Ngân, tịch thu cả nhà. Giáng truất Huệ phi Lê Thị, con gái Lê Ngân:
“Có người cáo tỏ rằng nhà Lê Ngân thờ phật Quan Âm để cầu
khẩn cho con gái là Huệ phi được vua yêu chiều. Bấy giờ nhà vua đang ngự ở cửa
Đông trong thành, bèn sai thái giám Đỗ Đại đem 50 võ sĩ đến khám nhà Lê Ngân,
soát thấy có pho tượng Phật để thờ, vàng, bạc và lụa màu. Nhà vua sai bắt nô tì
của Lê Ngân để xét hỏi. Hôm sau, Lê Ngân vào chầu, bỏ mũ ra, tạ tội rằng:
‘Tôi từ trẻ, theo đi khởi nghĩa Lam Sơn, may được trông
thấy cảnh thanh bình; về già, vì dồn chứa nhọc nhằn vất vả đã lâu, nên sinh lắm
bệnh. Thầy bói đoán rằng chỗ đất nhà tôi ở là ngôi chùa cổ đã hoang phế, nay
sinh yêu ma làm cho động trệ, không yên, nên sùng mộ đạo Phật để cầu âm phúc.
Chẳng ngờ nay bị người vợ lẽ mà tôi đã bỏ, cùng với Trần Thị, là vợ lẽ của Lê
Sát ngày trước mà nhà vua ban cho nhà tôi (12) xui xiểm, kết hợp với tên đầy tớ gian
ngoan, nhân dịp thêu dệt cho thành tội lỗi. Nếu được nhà vua soi xét định đoạt
thì buông tha cho tôi về điền viên để được trót đời tàn rạc này’
Nhà vua chưa nguôi
giận, giao Lê Ngân cho tòa pháp ti luận tội. Khi án đã thành, nhà vua cho phép
Lê Ngân được chết, tịch thu cả nhà, phế Huệ phi Nhật Lệ, con gái Lê Ngân xuống
làm Tu dung [cung phi loại thấp]. Bà
đồng (13) cũng
bị đày đi châu xa.” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 17.
Vua ra lệnh người Trung Quốc
ngụ cư phải mặc Việt phục, đốc suất các đạo đào kênh, sửa sang
chiến thuyền để chuẩn bị tập thủy trận:
“Ra lệnh cho người Minh phải mặc quần áo người
Kinh người Việt và cắt tóc ngắn.
Đốc suất dân chúng
năm đạo đào các kênh.
Ra lệnh cho các quan Đô tổng quản năm đạo sửa sang thuyền chiến, thuyền tuần tiễu và cờ xí cho nghiêm chỉnh, đầy đủ để tháng giêng năm sau diễn tập thủy trận.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 50a.
Chú thích:
1. Ngũ tự: theo Lễ kinh, thiên
Nguyệt lệnh, thì Ngũ tự là năm lễ tế các thần Hộ (cửa), Táo (bếp) Trung lựu
(giữa nhà), Môn (cửa lớn), Hành (đường đi).
2. Đại lộ: xe lớn, tượng lộ: xe
trang sức bằng ngà voi; mã lộ: xe ngựa.
3. Cửu long dư: kiệu chín rồng;
thất long dư: kiệu bảy rồng.
4. Bộ liễn: xe đi thong thả, phi
liễn: xe đi nhanh.
5. Tinh kỳ, mao tiết: là các loại
cờ. Chương phiến: loại quạt lớn làm bằng lông chim.
6. Đao bút: chỉ bọn thư lại
chuyên nắm giấy tờ sổ sách, nguy hiểm như người cầm đao.
7. Họ Hồ: Tức Hồ Quý Ly, Hồ Quý
Ly có nhiều thơ văn bằng chữ Nôm, nhưng hiện nay chưa tìm lại được.
8. Dâm nhạc: Đối lập với nhã nhạc,
ở đây chỉ các làn điệu dân gian.
9. Bùi Cầm Hổ trước làm quan ngự
sử, mâu thuẩn với Lê Sát, bị đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn. Xem sự việc
năm Thiệu Bình thứ 1 (1434), tháng 9.
10. Năm kiểu xe lộ: 5 loại xe
lớn gồm Ngọc lộ (xe nạm ngọc), Kim lộ (xe trang sức bằng vàng), Tượng lộ (xe
trang sức bằng ngà voi), Cách lộ (xe bọc da), Mộc lộ (xe đóng gỗ). Xe của vua
và hoàng hậu, cung phi, có quy chế sẳn; các xe ấy đều gọi chung là
"lộ".
11. Lỗ bộ ty: cơ quan chuyên
trông coi về nghi trượng của Vua.
12. Trần thị vợ lẽ của Lê Sát
cùng gia quyến đều bị sung công làm nô tì khi Lê Sát phải tội, do đó nàng bị
nhà vua chia phát cho nhà Lê Ngân.
13. Bà đồng: người phụ trách việc thờ cúng tại nhà Lê Ngân.
Vào các
tháng giêng và tháng 5 năm Thiệu Bình thứ 5 [1438], Vua cho đào
kênh tại các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Cũng trong tháng 5,
giáng người anh trưởng là Quận vương Tư Tề làm thường dân:
“Năm Mậu Ngọ, Thiệu Bình thứ
5 [2/1438], (Minh
Chính Thống năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, sai dân chúng 4 đạo đào kênh ở
Trường Yên [Ninh Bình], Thanh
Hóa, Nghệ An.
Mùa hạ, tháng 5, sai văn
thần đốc thúc quân dân đào các kênh ở lộ Thanh Hóa.
Giáng quận vương Tư Tề
xuống làm thứ nhân.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 50b.
Bấy giờ trong nước có
nhiều thiên tai; nhà Vua xuống chiếu tự trách tội mình, đại xá cho thiên hạ
và cầu lời nói thẳng:
“Ngày 27 [19/6/1438], vì có nhiều tai dị, xuống chiếu
rằng:
‘Mấy năm nay, hạn hán, sâu
bệnh liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện. Khoảng tháng 4, tháng 5 năm
nay, nhiều lần sét đánh vào vườn cây trước cửa Thái miếu ở Lam Kinh. Cứ nghiệm
xét việc xảy ra tai họa, nhất định là có duyên do trong đó. Có phải do trẫm
không lo sửa đức để mọi việc bê trể hay là do quan tể phụ bất tài xếp đặt không
điều hòa? Hay là dùng người không đúng, để người tốt kẻ xấu lẫn lộn? Hay là hối
lộ công khai mà việc hình ngục có nhiều oan trái? Hay là làm nhiều công trình
thổ mộc để sức dân mỏi mệt? Hay là thuế khóa nặng nề mà dân túng thiếu? Trẫm tự
trách tội mình, đại xá cho thiên hạ. Tất cả các đại thần, các quan văn võ các
ngươi nên chỉ ra những lầm lỗi kể trên, cứ thẳng thắn nói hết, đừng kiêng nể gì. Nếu có
điều gì tiếp thu được, nhất định sẽ khen thưởng cất nhắc, dẫu có ngu dần vu
khoát, cũng không bắt tội. Ngõ hầu có thể lay chuyển lòng trời, chấm dứt được
tai biến, để nước nhà mãi mãi hưởng phúc lớn vô cùng vậy". Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 50b.
Vào tháng 10, sai bọn Thẩm
hình viện phó sứ Nguyễn Đình Lịch sang triều Minh nạp cống:
“Mùa đông, tháng 10, ngày 13 [31/10/1438], sai Thẩm hình viện phó sứ Nguyễn
Đình Lịch, Thiêm tri Nội mật viện sự Trình Hiển, Thị ngự sử Nguyên Thiên Tích
sang nhà Minh nộp cống hàng năm.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11,
trang 51b.
Về phía nhà Minh vào tháng 6
năm Chính Thống thứ 3 [1438], sai bọn Cấp sự trung Thang Đỉnh sang nước
ta phản đối việc Thổ quan châu Hạ Tư Lang [Lạng Sơn] là Nông Nguyên Hồng
và những người tại biên giới mang quân sang đánh phá các châu Tư Lăng,
An Bình tại phủ Thái Bình, Quảng Tây; đòi hỏi phải trả hết người,
trâu bò, súc vật và đất đai đã xâm chiếm. Toàn Thư chép vào tháng chạp,
phái đoàn này đến nước ta:
“Ngày 4
tháng 6 năm Chính Thống thứ 3 [25/6/1438]. Sai Cấp
sự trung Thang Ðỉnh, Hành nhân Cao Dần đi sứ An Nam, mang sắc dụ Quốc vương Lê
Lân rằng:
‘Trẫm nối ngôi trời, thống
ngự vạn phương, thể theo lòng trời mưu đồ sự yên tĩnh.
Mới đây Thủ thần Quảng Tây
tâu rằng Thổ quan Hạ Tư Lang nước ngươi là Nông Nguyên Hồng đánh giết người
châu An Bình, bắt trai gái hơn 220 người, cướp đốt trâu dê phòng ốc, chiếm thôn
động gồm 220 nhà. Lại tâu người biên giới thuộc nước ngươi mang đám đông cướp
phá thôn Ky Châu, thuộc Tư Lăng; bắt trai gái hơn 40 người, cướp đốt trâu dê
phòng ốc; điều này há lại ngươi chưa nghe? Hoặc hiệu lệnh của ngươi không được
những kẻ tại đó thi hành?
Nay sai sứ hiểu dụ ngươi,
lệnh Nông Nguyên Hồng và Ðầu mục nơi biên giới phải mang trả đủ người, trâu bò.
súc vật, đất đai đã xâm chiếm; rồi tâu lên đầy đủ thì được tha cho tội trước.
Từ nay trở về sau, cung kính tuân theo lễ pháp, mỗi bên giữ cương giới của
mình; nếu không tuân tất sẽ trị tội. Ngươi đừng che chở cho chúng, khiến bản
thân ngươi vướng vào lầm lỗi.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 13)
“Tháng 12 [1/1439], nhà Minh sai Cấp Sư trung Thang
Đỉnh, hành nhân Cao Dần sang nói về việc địa phương.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 51b.
Vào cuối tháng 12, triều đình
ta cứ Trung quân đồng tri Lê Bá Kỳ và Trung thừa Bùi Cầm Hổ sang Minh tâu đầu
đuôi việc xảy ra tại phủ Thái Bình; tháng 4 năm sau [13/5/1439] đến kinh
đô Bắc Kinh. Phái đoàn ta tố cáo rằng trước đó Thổ quan châu An Bình,
bọn Tri châu Lý Hạc, Triệu Nhân Chính đánh chiếm lãnh thổ châu Tư Lang, giết
và cướp người cùng súc vật; do đó Nông Nguyên Hồng, Thổ quan châu Tư Lang
mới đánh phục thù; tuy nhiên vẫn hứa trả lại súc vật và đất đã
chiếm cứ:
“Ngày 20 [5/1/1439], sai Trung quân đồng tri Lê Bá Kỳ
và Trung thừa Bùi Cầm Hổ sang Minh tâu việc địa phương Thái Bình (1).” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 11, trang 51b
“Ngày 1
tháng 4 năm Chính Thống thứ 4 [13/5/1439]. Quốc
vương An Nam Lê Lân sai bọn Bồi thần Lê Bá Kỳ dâng biểu, cống sản vật địa
phương và tạ tội. Trước đây bọn Thổ quan châu Tư Lang nước này tên là Nông
Nguyên Hồng đánh châu An Bình, Tư Lăng thuộc phủ Thái Bình; chiếm 2 động, 21
thôn. Triều đình sai bọn Cấp sự trung Thang Ðỉnh đến hiểu dụ Lân. Lân bèn sai
bọn Bá Kỳ đến tạ tội và dâng biểu rằng:
‘Ngưỡng trông Thánh Thiên
tử đối xử chung một lòng nhân, xa gần không phân biệt. Thần từ khi nhận triều
mệnh đến nay, chỉ lo giữ lãnh thổ yên dân để đáp ứng lòng Thánh Thiên tử; nào
dám quanh co che dấu để Nguyên Hồng làm lụy đến sinh linh một nước. Nay tuân
lệnh xin trả lại súc vật cùng đất đai đã chiếm cứ, lại giới sức Nguyên Hồng
thay lòng sửa đổi, không gây nên tội để lụy đến thần. Kính xin Thánh Thiên tử
rũ lòng khoan thứ. Kính cẩn dâng biểu cùng cống 100 lạng vàng 200 lạng bạch
kim, 100 cân trầm hương; lụa quyên địa phương, giáng chân hương, tuyến hương,
ngà voi, quạt ngà, mỗi thứ vài trăm. Thần run sợ vô cùng, đợi sự trừng phạt.’
Lại sai bọn Bồi thần Bùi
Cầm Hổ dâng tấu rằng:
‘Trước đó Nông Nguyên Hồng
nói rằng mấy lần bị Thổ quan châu An Bình, như Tri châu Lý Hạc, Triệu Nhân
Chính đánh chiếm lãnh thổ châu Tư Lang, giết và cướp người cùng súc vật. Thần
cho rằng dân Man nơi biên giới thù giết nhau là chuyện thường, mà lời của
Nguyên Hồng cũng không tin hết được, nên không dám tâu lên để làm phiền Thánh
Thiên tử. Chỉ răn đe Nguyên Hồng không kết oán gây sự, lại gửi văn thư cho ty
Bố chánh Quảng Tây xin ngăn cấm bọn Hạc. Gần đây lại được Sứ thần đến hiểu dụ
việc nêu trên; thần run sợ không biết làm sao, chỉ nghĩ rằng dưới cõi trời này
không đất nào là không của Thiên tử, không dân nào là không của Thiên tử, dân
Tư Lang cũng là con đỏ của triều đình vậy; mà bọn Hạc xâm nhiễu không được yên ổn, Thiên tử nơi cửu trùng làm sao biết được! Thần không làm được gì, chỉ biết
kêu van để xin Thánh minh cúi xuống soi xét.’
Thiên tử cho rằng người xa
xôi biết hối hận, không truy xét sự sai trái. Việc tâu rằng Lý Hạc cướp phá,
lệnh các quan Tổng binh tại Quảng Tây thẩm xét rồi tâu lên.”
(Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang
17)
Vua Anh Tông nhà Minh
phúc thư, hứa sẽ cho điều tra việc Thổ quan châu An Bình trước đó gây
hấn:
“Ngày 10
tháng 4 năm Chính Thống thứ 4 [22/5/1439]. Sắc dụ
Quốc vương An Nam Lê Lân rằng:
‘Nhận được lời tâu Vương
cho câu lưu cha con Nông Nguyên Hồng để thẩm vấn cùng đem những thứ chiếm đoạt
trả lại, thấy được là vua biết theo lễ giữ pháp luật. Lại tâu việc Thổ quan
châu An Bình, Tri châu Triệu Nhân Chính đánh chiếm đất đai, cướp đoạt người và
súc vật; đã ra lệnh quan Tổng binh An viễn hầu Liễu Ðoàn cùng Tam Ty Quảng Tây
tra khám minh bạch rồi tâu lên đầy đủ để định đoạt. Từ nay Vương nên nghiêm sức
những người giữ biên thùy lo giữ cương giới, đừng buông tuồng gây hấn, sẽ rước
lấy mối họa.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3,
trang 19)
Việc điều tra tiếp tục đến
năm Chính Thống thứ 7 [1442], phía Minh lại sai Cấp sự trung Thang Đỉnh
đến hỏi, Nông Nguyên Hồng tố ngược lại rằng bị Tri châu An Bình Nhân Chính
chiếm đất, cướp người. Bộ Binh nhà Minh muốn đưa Nguyên Hồng đến chỗ
tranh chấp đối chất; nhưng rồi sự việc không chép thêm, chắc rằng
phía Đại Việt không chấp nhận:
“Ngày 4
tháng 8 năm Chính Thống thứ 7 [7/9/1442]. Trước đây
Thổ quan châu An Bình Quảng Tây Triệu Nhân Chính tâu rằng bị Thổ quan châu Tư
Lang Giao Chỉ Nông Nguyên Hồng xâm chiếm đất đai; giết cùng cướp người và súc
vật. Sai bọn Cấp sự trung Thang Đỉnh đến Giao Chỉ hỏi lý do. Nguyên Hồng xưng
ngược lại rằng bị Nhân Chính chiếm đất, cướp người. Bộ Binh tâu xin sắc dụ quan
Tổng binh Quảng Tây Liễu Ðoàn điều tra kẻ nào thực, kẻ nào dối. Nên sắc dụ nước
An Nam cho người đưa Nguyên Hồng đến ngay chỗ tranh chấp để hội khám và xét
hỏi. Thiên tử chấp nhận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 3, trang 30)
Tháng giêng năm Thiệu
Bình thứ 6 [2/1439], bộ tộc Cầm Man (2) đem người Ai Lao vào cướp nơi biên
giới; nhà vua tự làm tướng đi đánh dẹp:
“Kỷ Mùi, Thiệu Bình năm thứ 6 [1439], (Minh Chính Thống
năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, vua thân đi đánh các châu Phục Lễ. Bọn man
họ Cầm nhiễu hại dân biên giới, vua sai tướng đi hỏi tội chúng. Ai Lao tin nghe
bọn man họ Cầm là Cương Nương, sai tên Nữu Hoa của chúng dẫn hơn 3 vạn binh
tướng sang giúp, lấn cướp các châu Phục Lễ. [52a] Vua thân hành dẫn 6 quân đi
đánh.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 51b
Tháng 3 [4/1439] ra qui định
thống nhất về tiền đồng, vải, lụa và giấy:
“Tháng 3, ra lệnh quy định số đồng của
1 tiền, kích thước dài nhắn của vải lụa và quy cách của tờ giấy viết. Hễ
tiền đồng thì 60 đồng là 1 tiền, lụa lĩnh thì mỗi tấm dài 30 thước, rộng 1
thước 5 tấc trở lên, vải gai nhỏ mỗi tấm dài 24 thước, rộng 1 thước 3 tấc trở
lên, vải tơ chuối thì mỗi tấm dài 24 thước, vải bông thô mỗi tấm dài 22 thước,
giấy thì tính 100 tờ.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 52a.
Tháng 10 [11/1439], Hoàng tử
Nghi Dân sinh; tháng 11 [12/1439] ra lệnh đại xá, đổi niên hiệu Đại Bảo
vào năm sau:
“Mùa đông, tháng 10, hoàng tử Nghi Dân sinh.
Tháng 11, đại xá, đổi niên
hiệu. Lấy tháng giêng năm sau làm Đại Bảo năm thứ 1. Đại xá thiên hạ. Những
người 70 tuổi trở lên được thưởng tước 1 tư và cho ăn tiệc.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 52b.
Ngày mồng một tháng giêng năm
Canh Thân [1440] đổi niên hiệu là Đại Bảo. Tiếp đến trong tháng nhà
Vua đích thân mang quân đánh viên thổ tù phản nghịch Hà Tông Lại, đến
ngày 20 chém được tên này. Ngày 21, lập con trưởng Nghi Dân làm Hoàng
thái tử:
“Canh thân, Đại Bảo năm thứ 1, (Minh
Chính Thống năm thứ 5). Mùa Xuân, tháng giêng, ngày mồng 1 [3/2/1440], đổi niên hiệu.
Vua đích thân đi đánh tên
phản nghịch Hà Tông Lai ở huyện Thu Vật [huyện Yên Bình, Yên
Bái], thuộc Tuyên Quang.
Ngày 19 [21/2/1440], bắt được Tông Mậu, con Tông Lai.
Ngày 20 [22/2/1440], chém được Hà Tông Lai rồi đem
quân về. Dâng tù cáo thắng lợi ở Thái miếu.
Ngày 21 [23/2/1440], lập con trưởng là Nghi Dân làm
Hoàng thái tử.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 52b.
Vào tháng 2, phía biên giới
đông bắc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Đông; viên Tuần vũ nhà Minh tâu về
triều rằng thời Tuyên Đức năm đầu [1426], tức giai đoạn Vua Lê Lợi
kháng Minh, Thổ tù Hoàng Khoan theo Vua Lê, mang dân và đất qui phụ, nay
xin kêu gọi trở về:
“Ngày 29
tháng 2 năm Chính Thống thứ 5 [1/4/1440]. Tuần vũ
Quảng Đông Giám sát Ngự sử Chu Giám tâu rằng:
‘Dân châu Khâm bọn Hoàng
Khoan làm phản theo An Nam; chiêu phủ năm này qua năm khác nhưng không phục.
Xin sắc mệnh cho quan Đại thần tại triều đình bàn bạc gửi văn thư hứa miễn thuế
lương thực nếu trở về với nghề nghiệp cũ; ngoài ra xin cử một Đô Chỉ huy thanh
liêm được việc đến trấn thủ tại châu Khâm.
Thiên tử mệnh số thuế bọn Khoan thiếu, hãy ngưng lại
không thu. Còn ra sắc dụ cho Tam Ty Quảng Đông rằng:
‘Con người ta không ai là
không thích an lạc ghét khổ sở; bọn Khoan đều do các quan lại quận huyện tham
bạo ngược đãi, bất đắc dĩ phải tìm kế tự toàn. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay,
lấy sự dưỡng dân làm chính sách; các ngươi là những người được tuyển chọn cẩn
thận, hãy thể theo y trẫm, lấy lòng trung phủ dụ còn có thể cảm hóa được loài
vật như cá, lợn huống gì là con ngươi! Các ngươi mỗi người hãy cử quan cao cấp
một viên, cùng với Tuần vũ, Án sát, Ngự sử thân đến chiêu dụ; chỉ dùng những
lời tử tế cảm hóa, bọn chúng nhớ ơn vui lòng khâm phục, khiến dân được yên. Lại
ban một đạo sắc dụ bọn Khoan, giao các ngươi đưa đi. Khâm châu là nơi quan
trọng, hãy bàn bạc chọn trong đám Đô Chỉ huy một tay lão thành thanh liêm, được
việc đến trấn thủ; không được phép sinh sự.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 23)
Quan lại tại Quảng Đông tìm
mọi cách chiêu dụ, nhưng Hoàng Khoan quyết không trở về. Nhà Minh khảo
sách địa lý, cho rằng trong giai đoạn Tuyên Đức năm đầu [1426] An Nam
đã chiếm số lớn đất châu Khâm, bộ binh đề nghị khi nào sứ giả An Nam
đến, sẽ yêu cầu trả lại:
“Ngày 15
tháng 10 năm Chính Thống thứ 5 [9/11/1440]. Dân châu Khâm, Quảng Đông là bọn Hoàng Khoan
từ năm đầu Tuyên Đức [1426] dụ
dỗ cư dân hơn 290 hộ cùng ruộng đất, hiến cho An Nam. Trước đây đã sắc cho Tuần
phủ, Án sát, Ngự sử cùng các quan tại Tam Ty mang sắc phủ dụ, nhưng bọn Khoan
không tuân. Khảo xét chí thư về châu này, từ khi Hán Mã Viện bình định xong,
lấy Đồng Trụ làm giới hạn phía tây nam, Phân Mao Lãnh giới hạn phía tây bắc;
trong vòng giới hạn đó từ thời Hán Vũ đế đến nay đều lệ thuộc châu Khâm. Nay
trong vòng Phân Mao Lãnh hơn hơn 300 dặm, trong vòng Đồng Trụ hơn 200 dặm đều
do An Nam xâm lấn. Nếu như ban sắc dụ Vương An Nam trả lại đất đã xâm lấn, thì
không cần phải gọi dân về, vì đã được trả lại!
Bộ Binh bàn định như sau:
“Nên đợi đến ngày
nước An Nam sai sứ triều cống sẽ ban sắc cho Quốc vương nước này trả lại đất đã
xâm lấn. Vẫn hiểu dụ bọn Khoan rằng nếu tình nguyện đem gia đình trở về sẽ được
tha tội. Sắc cho lực lượng phòng thủ, không được xâm nhiễu gây hấn nơi biên
giới.”
Được Thiên tử chấp thuận.”
(Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3,
trang 24)
Vào tháng 3 năm sau, nhân Sứ
thần An Nam Lê Quyến đến cống, Vua Anh Tông nhà Minh gửi sắc cho Vua Lê
Thái Tông đòi phần đất Hoàng Khoan đã giao cho nước ta, bảo đất này
thuộc 2 đô Thiếp Lãng, Như Tích. Nhưng phía ta không đáp ứng, mãi cho đến
năm Gia Tĩnh thứ 20 [29/4/1541] Mạc Đăng Dung đem đất này nhượng cho nhà
Minh:
“Ngày 8
tháng 3 năm Chính Thống thứ 7 [18/4/1442]
Sứ thần An Nam Lê Quyến từ
giả bệ rồng. Mệnh ban cho Quốc vương Lê Lân sắc; cùng ban mũ dạ, khăn đội đầu,
y phục dệt kim. Sắc như sau:
“Trẫm phụng mệnh trời,
coi dân bốn cõi, hải nội hải ngoại đều là con đỏ của triều đình, muốn mọi
nơi được an sinh lạc nghiệp, không trái với tính trời. Tiên Hoàng đế nước ta,
thể theo bụng Hoàng thiên, dẹp bỏ việc binh, thương xót dân, muốn thiên hạ được
nghĩ ngơi, nên đã mệnh cha ngươi quyền coi việc quốc sự, cai trị dân một
phương. Ta theo chí của người đời trước, phong ngươi làm An Nam Quốc vương để
kế thừa cha ngươi, đó cũng thể theo đạo trời, với lòng nhân thương người vậy.
Năm trước Hoàng Kim Quảng,
người châu Khâm, phủ Liêm Châu, Quảng Ðông bị người nước ngươi dụ dỗ, ngu muội
làm điều sai quấy xưng hai đô Thiếp Lãng, Như Tích xưa thuộc An Nam. Lấy lời
sàm mê hoặc cha ngươi, nên cha ngươi cho lập vệ đặt quân tại thôn Nha Cát. Bắt
ép 281 hộ phải theo, xâm chiếm cương vực, dụ hiếp nhân dân, việc này do người
dưới tại nước ngươi làm, cha con ngươi không biết được.
Phàm 281 hộ, chẳng đáng
gây thiệt hại nơi này, để có ích nơi khác; nhưng trọng tín nghĩa không thể dối
trời; sắc đến sai bọn Hoàng Khoan 281 hộ, giao cho châu Khâm quản lý. Tội trạng
cũng tha không hỏi đến, vệ đã lập hãy bỏ đi như cũ, để thể hiện đạo kính trời
thờ nước lớn, ngươi sẽ được hưởng phúc mãi mãi. Khâm thử!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 24)
Vào tháng 3, Vua mang quân
đánh thổ quan Nghiễm làm phản tại trấn Gia Hưng thuộc vùng Hòa Bình,
Sơn La ngày nay; đến tháng 5 viên thổ quan dâng đồ cống, nên mang quân
trở về. Tháng 6, phong cho Ngô Thị Ngọc Giao, mẹ Vua Lê Thánh Tông
triều đại sau, làm Tiệp dư :
“Tháng 3 [4/1440], vua thân đi đánh viên thổ
quan phản nghịch tên là Nghiễm ở châu Thuận Mỗi, trấn Gia Hưng [Hòa
Bình, Sơn La]. Tuyển
tráng đinh bổ sung quân ngũ. Làm sổ hộ tịch.
Mùa hạ, tháng 5, ngày 15 [14/6/1440], vua đem quân từ châu Thuận Mỗi trở
về, vì tên Nghiễm dâng trâu và voi [53b] xin hàng, và vì đương mưa nắng dữ.
Tháng 6, sách phong Ngô
thị làm Tiệp dư, được ở cung Khánh Phương, tức Quang thục Hoàng thái
hậu sau này” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 11, trang 53a.
Vào tháng 3 năm Đại Bảo thứ
2 [3/1441] nhà Vua lai mang quân đánh Thổ quan Nghiễm, bắt sống các con,
cuối cùng Nghiễm ra hàng:
“Tháng 3, vua đi lại đánh tên phản nghịch Nghiễm ở châu
Thuận Mỗi, bắt sống viên tướng Ai Lao là Đạo Mông cùng vợ con nó ở động La (3), lại bắt được con của tên
Nghiễm là Sinh Tượng và Chàng Đồng. Nghiễm kế cùng ra hàng. Vua bèn đem quân
về, dâng tù báo thắng trận ở Thái Miếu.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 53a.
Năm ngoái phong Nghi Dân làm
Thái tứ; năm nay Vua không bằng lòng mẹ Nghi Dân, nên giáng bà xuống
làm dân thường; cũng vì việc này Nghi Dân bị mất chức Thái tử:
“Giáng Dương Thị Bí xuống làm thứ nhân.
Trước đây, Dương Thị
Bí sinh con là Nghi Dân. Vua lập làm Thái tử. Dương Thị Bí cậy thế, càng lăng
loàn kiêu căng. Vua vẫn nín nhịn bao dong, giáng xuống làm Chiêu nghi, muốn cho
thị sữa bỏ lỗi lầm. Nhưng Dương Thị Bí lại càng hằn học trong lòng, không kiêng
nể gì nữa. Vua cho là Dương Thị Bí đã cố tình như vậy, thì con thị đẻ ra chưa
chắc đã là người khá, mới giáng xuống làm người đàn bà thường, rồi xuống chiếu
nói cho thiên hạ biết là ngôi Thái tử chưa định.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 53b.
Tháng 5 Hoàng tứ Bang Cơ tức
Vua Lê Nhân Tông sinh. Ra lệnh tuyển con gái đẹp; rồi đến tháng 8 cho
tuyển chọn tại sân điện:
“Mùa hạ, tháng 5, ngày Giáp Tuất mồng 9 [28/5/1441], hoàng tử Bang Cơ Sinh. Ra lệnh
chỉ tuyển con gái đẹp ở các huyện.
Mùa thu, tháng 8 [9/1441], tuyển chọn con gái đẹp ở sân
điện. Bắt giam hạng đàn bà ngỗ nghịch, đó là làm theo kế của Nguyễn Thị Lộ [Thị
Lộ là vợ của Nguyễn Trãi].” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 54a.
Tháng 10, sai sứ sang nhà Minh
nạp cống. Tháng 11, lập Hoàng tử Bang Cơ mới sinh 5 tháng làm Hoàng
thái tử; phong Hoàng thái tử Nghi Dân làm Lạng sơn vương:
“Mùa đông, tháng 10 [11/1441], sai sứ sang nhà Minh: Nội mật
viện phó sứ Nguyễn Nhật Thiêm, Tri nội mật viện phó sứ Nguyễn Hữu Quang, Thiêm
tri Thẩm hình viện Đào Mạnh Cung sang nộp cống hằng năm. Lê Thận sang xin mũ
áo. [54b]
Tháng 11, ngày 16 [29/11/1441], lập Hoàng tử Bang cơ làm Hoàng
thái tử.
Xuống chiếu rằng:
"Đặt Thái tử để vững gốc rễ, lập con đích để chính danh phận. Đó là mưu xa
của xã tắc, kế lớn của quốc gia. Hoàng tử Bang Cơ thể chất vàng ngọc, tư thái
anh minh, vừa có uy vọng của một bậc quân vương, lại đúng danh phận là con đích
tôn quý. Vậy sai Nhập nội đại đô đốc Lê Liệt mang sắc mệnh lập làm Hoàng thái
tử.
Hoàng thái tử Nghi Dân
phong làm Lạng Sơn Vương, hoàng tử Khắc Xương phong làm Tân Bình Vương.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 54a.
Vua Chiêm Thành, Chiêm Bà Đích
Laị trị vì trong thời gian dài khoảng 40 năm, đến nay mất; người cháu
là Ma Ha Bí Cai lên thay:
“Ngày 14
tháng 6 năm Chính Thống thứ 6 [2/7/1441]. Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Bà Đích Lại mất;
cháu là Ma Ha Bí Cai lãnh di mệnh lên thay. Bèn sai người cháu của Vương là bọn
Thuật Đề Côn dâng biểu, triều cống sản phẩm địa phương cùng xin được nối ngôi.”
(Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3,
trang 25)
Tháng giêng năm Đại Bảo thứ 3
[1442] cho xây cung điện mới; tháng 2 bọn Sứ thần Nguyễn Điến đến Bắc
Kinh tiến cống; tháng 3 mở kỳ thi Hội đầu tiên dưới triều Lê, xây bia,
lấy 33 Tiến sĩ; trong đó có sử gia Ngô Sĩ Liên:
“Nhâm Tuất, Đại Bảo năm thứ 3 [2/1442], (Minh Chính Thống năm thứ 7).
Mùa xuân, tháng giêng, làm cung điện mới.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 55a.
“Ngày 11
tháng 2 năm Chính Thống thứ 7 [22/3/1442]. Quốc vương An Nam Lê Lân sai bọn Bồi thần
Nguyễn Ðiền dâng biểu, triều cống các vật như vàng, bạc, khí mãnh. Ban yến,
cùng ban cho các vật như lụa thải (4), có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 27)
“Tháng 3 [4/1442], tổ chức thi hội cho sĩ nhân
trong nước. Cho bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Nhữ Đổ, Lương Như Hộc 3 người đỗ tiến
sĩ cập đệ (5); bọn
Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân (5); bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ đồng
tiến sĩ xuất thân (5). Lại
sai soạn văn bia, dựng bia ghi tên các tiến sĩ. Bia tiến sĩ bắt đầu có từ đây.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 55a.
Vào tháng 7, bọn phản
loạn Vi Lang Sa từ Vân Nam chạy trốn sang biên giới, bị nước Đại Việt
bắt trả về; cũng trong tháng này Hoàng tử Tư Thành, tức Vua Lê Thánh
Tông sinh:
“Ngày 12
tháng 4 năm Chính Thống thứ 7 [ 21/5/1442].Bọn Tổng
đốc quân vụ Vân Nam ,Thượng thư bộ Binh kiêm Đại lý tự khanh Vương Tập tâu:
“Chúng thần sai bọn Chỉ
huy sứ Vạn Thành, vệ Lâm An, Vân Nam dẹp bọn phản loạn Vi Lang La; đánh tan
trại giặc, bắt vợ con họ hàng mấy người. Lang La chạy trốn sang An Nam; bị Quốc
vương Lê Lân sai lính bắt cho vào củi giải đến doanh trại tại thành, rồi cho
hành quyết. Dư đảng 4000 người tuân theo sự chiêu dụ, trở về với nghiệp cũ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 30)
“Mùa thu, tháng 7, ngày 20 [25/8/1442], Hoàng tử Tư Thành sinh.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 11, trang 55a.
Tháng 8, vua đến thăm vườn
vải tại huyện Gia Bình, Bắc Ninh; đêm đó có Nguyễn Thị Lộ vợ bé
quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi hầu hạ; rồi nhà Vua chết đột ngột. Đình
thần cho rằng Thị Lộ giết vua, nên Nguyễn Trãi bị can tội tru di 3
họ; triều đình bèn lập Thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên ngôi, miếu
hiệu là Nhân Tông:
“Tháng 8, ngày mồng 4 [7/9/1442], vua về đến vườn Vải
huyện Gia Định (6),
bỗng bị bạo bệnh rồi băng. Trước đây, vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là
Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ
nghi học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh. Đến khi đi tuần miền đông, xa giá về tới vườn Vải, xã Đại Lại, ven
sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng, các quan bí mật
đưa về.
Ngày mồng 6 [9/9/1442] về tới kinh, nửa đêm đem vào cung rồi
mới phát táng. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua.
Ngày 12 [15/9/1442], đại
thần là bọn Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ nhận di mệnh cùng với bọn Lê Liệt, Lê
Bôi tôn Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi. Lúc ấy, vua mới 2 tuổi. Lấy năm sau làm
Thái Hòa năm thứ 1.
Ngày 16 [19/9/1442], giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là
Nguyên Thị Lộ, bắt tội đến ba họ. Trước đây, Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm,
Thái Tông trông thấy rất ưa, liền cợt nhả với thị. Đến đây, vua đi tuần về miền
đông, đến chơi nhà Trãi rồi bị bạo bệnh mà mất, cho nên Trãi bị tội ấy.
Tháng 9, ngày 9 [12/10/1442], giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh
Thắng, vì khi Nguyễn Trãi sắp bị hành hình có nói là hối không nghe lời của
Thắng và Phúc.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 55b.
Trong tháng 10, cử 4 phái
đoàn sang Trung Quốc với các nhiệm vụ: tạ ơn ban cho y phục; nêu ý
kiến về việc nhà Minh đòi đất tại châu Khâm; báo tang Vua Thái Tông
mất, cầu phong cho Vua Nhân Tông. Đến tháng chạp, phái đoàn Nguyễn
Thúc Huệ đến Bắc Kinh:
”Mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nhà Minh: Hải Tây đạo
đồng tri Nguyễn Thúc Huệ và Thẩm hình viện thiêm tri Đỗ Thì Việp sang tạ ơn cho
áo mũ. Thị ngự sử Triệu Thái tâu việc địa phương Khâm Châu. Bọn Tham tri Nguyễn
Đình Lịch, Phạm Du sang báo tang. Tham tri Lê Truyền, Đô sự Nguyễn Văn Kiệt,
Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu sang cầu phong.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 11, trang 56b.
“Ngày 19 tháng 12 năm
Chính Thống thứ 7 [19/1/1443]. Nước An
Nam sai bọn Bồi thần Nguyễn Thúc Huệ đến triều cống sản phẩm địa phương. Ban
yến cùng các phẩm vật như lụa, có phân biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 3, trang 31)
Vào ngày 16 tháng 10
[18/11/1442], an táng Vua Lê Thái Tông tại Hựu Lăng, Lam Sơn, Thanh Hóa,
bên cạnh lăng Vua Lê Thái Tổ; sai Hàn lâm viện Nguyễn Thiên Tích soạn
văn bia:
“Sai hàn Lâm viện thị độc học sĩ kiêm tri ngự tiền học
sinh cục cận thị chi hậu Nguyễn Thiên Tích soạn bài văn bia Hựu Lăng .
Ngày 16 [18/11/1442], táng Đại Hành Hoàng đế phía bên tả Vĩnh Lăng ở Lam Sơn gọi là Hựu Lăng. Dâng tôn hiệu là Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái Tông.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 56b.
Chú thích:
1. Thái Bình: Sự việc xảy ra
tại các châu An Bình, Tư Lăng thuộc phủ Thái Bình, Quảng Tây.
2. Cầm Man: Theo Hưng Hóa Lục của
Hoàng Trọng Chính, thì các châu Phù Yên [Sơn La] , Sơn La [Sơn La], Tuần Giáo
[Sơn La] và Mai Sơn [Sơn La], hồi đầu Lê, đều là các động, giáp giới với Ai
Lao và liền với châu Phục Lễ. Họ Cầm nối đời làm phụ đạo; có lẽ Cầm Man ở đó.
3. Động La: Tức Mường La, ở Sơn
La.
4. Lụa thải: hàng tơ lụa 5 sắc.
5. Tiến sĩ cập đệ, xuất thân,
đồng xuất thân: Tống
sử chép: Tống Chân Tông định điều lệ thi tiến sĩ, chia
người đỗ làm 5 bậc: Bậc nhất, bậc nhì là cập đệ; bậc ba là xuất thân; bậc bốn,
bậc năm là đồng xuất thân.
6. Vườn vải huyện Gia Định: Nguyễn Văn là Lệ Chi Viên. Huyện Gia Định, sau là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét