Một số bài viết về Phạm Quỳnh
LẠ LÙNG
MỘT CUỐN SÁCH DỞ DANG
Nguyên Ngọc
Nhà văn Nguyên Ngọc là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, những
bút danh khác là Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim, tên thật là Nguyễn Văn Báu,
sinh ngày 5-11-1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 18 tuổi, xin
gia nhập quân đội, tốt nghiệp Trường Lục Quân Khu V. Hầu hết thời gian
1951-1954, hoạt động ở vùng Tây Nguyên, chiến trường chính của Liên Khu V bấy
giờ. Chính điều đó đã dẫn đến thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước
đứng lên (1956), được tặng giải nhất về tiểu thuyết trong Giải Thưởng Văn
Học 1954-1955 của Hội nhà Văn Việt Nam. Sau đó, cho in Mạch nước ngầm (1960)
và tập truyện ngắn Rẻo cao (1961). Năm 1962, trở lại Tây Nguyên và Quảng
Nam, ông tiếp tục sáng tác với bút danh Nguyễn Trung Thành. Năm 1969, có tập
truyện và ký Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc nổi tiếng với
truyện ngắn Rừng xà nu và tùy bút Đường chúng ta đi. Năm 1971 và
1974, phần 1 và 2 tiểu thuyết Đất Quảng ra mắt bạn đọc…
Sáng tác của Nguyên Ngọc không nhiều về số lượng, nhưng gây
được ấn tượng mạnh với người đọc. Ông nhận thức rõ ràng về những hạn chế mang
tính lịch sử của một thời đã qua để hướng tới sự đổi mới, đó chính là
kết quả của sự nhạy cảm trong tư tưởng của nhà văn. Ông nhận Giải thưởng
Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Dịp nhà xuất bản Tri Thức và Trung tâm văn hóa
và ngôn ngữ Đông Tây tổ chức buổi ra mắt bản dịch Tiểu luận viết bằng
tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 của Phạm Quỳnh, nhà văn Nguyên Ngọc
nói: “Đầu thế kỷ XX, chúng ta đã có những người khổng lồ như Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi. Không phải mọi kiến giải của họ đều đúng đắn, nhưng
những vấn đề họ đặt ra đến nay vẫn còn tính thời sự”.
Chúng tôi xin mời các bạn đọc nguyên văn bài Lạ
lùng một cuốn sách dở dang như sau:
*
* *
Cuốn sách này của Thượng Chi Phạm Quỳnh, cầm lên, nhẹ tay đến
xót xa (mười một bài tản văn, bài dài nhất chỉ chín trang, bài
ngắn vỏn vẹn một trang; và mấy chục bài thơ dịch Đỗ Phủ). Những trang viết
cuối cùng của một người, một đời. Dở dang, thậm chí bài cuối cùng còn dừng
giữa dòng, mà lại rất có thể sẽ là bài tâm huyết nhất của ông, về Kiều, mà
ta biết ông gắn bó đến chừng nào. Ông nói: “Tôi với Truyện Kiều không
phải là thái độ một nhà văn với một tác phẩm mà là tâm lý một người có cảm giác
là một hội một thuyền… Tôi đối với Truyện Kiều, Truyện Kiều đối với
tôi – hay là có thể nói, tôi đối với cô kiều, cô Kiều đối với tôi…” Kiều với Đạm
Tiên, một hội một thuyền. Phạm Quỳnh với Kiều, một hội một thuyền. Cả ba một hội
một thuyền vậy! Đều “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Nhưng Phạm Quỳnh
không đổ lỗi cho trời, ông nhận lỗi về mình.
Ông viết những trang cuối cùng này ở nơi có tên là biệt thự
Hoa Đường và tự gọi mình là “Thiếu Hoa Đường”, nương theo tên “Lão Hoa Đường” của
danh nhân Phạm Quý Thích, “vị tiền bối chân Nho ôn hòa thuần túy” mà ông cho là
ông đã dại dột không biết ứng xử cho bằng “Lão Hoa Đường sinh vào thời Lê Mạt
Nguyễn sơ”, là đời loạn, tự biết “phận Nho quèn” không sao đương được với
thời cục rối, quyết chí ẩn dật để giữ lấy tiết thanh cao, còn cao hơn biết bao
nhiêu Thiếu Hoa Đường này, cũng sinh vào thời loạn là buổi Á Âu xung đột, mà tự
khờ dại đem mình lăn lộn giữa phong trào hỗn độn, trong thời buổi nhá nhem,
không biết cái thân “Nho quèn” đương nổi sao được thời thế, ở giữa cái xã hội
xu thời mị chúng này, ai còn thiết đến kẻ văn nhân nho sĩ, “chỉ biết đem một
thái độ ôn hòa nhà nho mà đối với cái cuồng phong bác tạp hỗn hào!…”
Trong cuộc “lăn lộn” (ngày nay ta goi là “dấn thân”) ấy, như
ta biết, Phạm Quỳnh đã thất bại. Ông lui về ẩn dật, và bắt tay viết “Hoa Đường
tùy bút”. Vậy Tùy bút Hoa Đường là gì? Thoạt nhìn, mươi bài tạp văn, không
có chủ đề chung, không đường dây dẫn dắt nhất quán, tản mạn, rời rạc, như chợt
nhớ đâu viết đấy, chợt nghĩ gì thì nói ra… Nhưng mà đọc đi đọc lại, ngẫm kỹ rất
có thể đây là một sự chuẩn bị, chuẩn bị cho một cuộc tổng kết, có thể
là một cuộc tổng kết lớn, và sâu, rất sâu nữa, mà tiếc thay, ông đã không kịp
làm.
Ở giữa tập tùy bút này là một bài có vẻ lạc giọng so với
những bài khác, với cái đầu đề trông rất thản nhiên, lối kể cũng rất thản
nhiên, điềm đạm, dửng dưng nữa, “Chuyện một đêm và một ngày”. Ấy vậy mà cái đêm
và cái ngày ấy, mồng 9 tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương - và
Phạm Quỳnh chừng nào đó ở chính trung tâm của sự kiện chấn động ấy, sự kiện
cắt ngang đứt phựt cuộc đời ông - và rộng hơn, chuẩn bị cho cả đất nước bước
qua một trang hoàn toàn mới của lịch sử (chính trong cái một đêm và một ngày đó
Trường Chinh dã viết Văn kiện quyết định “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta”). Cuối bài ông có hứa: “… (Trong một đêm và một ngày ấy) đều là
những việc quan trọng, thuộc về lịch sử, tôi được may mắn dự vào, đóng một vai
chính, sau này sẽ có dịp thuật tường?” Như ta biết, cũng là một lời hứa ảo tưởng
thôi, bởi cái lịch sử ông vừa nói đó nào có cho ông “có dịp”. Nó đã hất ông ra
bên lề. Ở bên lề đó, ông bắt tay chuẩn bị cho một cuộc tổng kết, những trang
trông rời rạc này chính là chuẩn bị cho cuộc tổng kết ấy – tôi tin vậy, bởi hai
lẽ: một người như Phạm Quỳnh, vốn sống đầy suy tư, vừa có cái chất nghệ sĩ chết
người của cô Kiều, vừa dẫu đã quyết về vườn chắc hẳn vẫn chưa chịu hết trách
nhiệm với xã hội và nhân quần, sau cuộc lăn lộn lấm lem mấy mươi năm trong vòng
danh lợi đắng cay, ắt không thể không có điều muốn nói lại với đời, và trước hết
với chính mình. Lại nữa, đọc kỹ xem, chừng rời rạc vậy mà vẫn có một nhất quán:
hoặc bằng đôi ba chân dung cực ngắn mà cực tinh, rất cụ thể mà sức khái quát lớn
– khiến ta không thể không nhớ những trang viết nổi tiếng Các tính
cách (Les caracactères) của La Bruyère; hoặc súc tích đến chỉ vẹn một
trang, mỗi câu như một châm ngôn – lại khiến ta nghĩ đến La Rochefoucault; hoặc
cứ như xa xôi thâm trầm bàn về căn nguyên của con người và tính
người khi ngẫm nghĩ về Keyserling…; mà hóa ra tất cả đều hướng về một điều rất
quán xuyến ông viết ngay từ đầu thiên tùy bút dở dang này: “Thế thái nhân
tình”. Một chuẩn bị tổng kết bi quan về cuộc đời, thói đời. “Thói đời nóng lạnh,
lòng người thắm phai; ai cũng nói vậy, ai cũng biết thế, nhưng có từng trải mới
biết thói đời điên đảo, lòng người xấu xa là dường nào… Dù có lạc quan gì về thế sự,
thấy người đời trở mặt như bàn tay, xây lưng như chớp nhóng, cũng phải sửng
sốt mà tự hỏi: “Ồ! Thói đời đen bạc đến thế ru?… Cho đến nỗi, tham sống vốn là
bản năng hàng đầu của con người, nhưng rồi trải thói đời điên đảo,
“người ta dù có mê sống đến thế nào cũng có lúc hốt nhiên tự tỉnh, mà trong
giây phút có cái cảm giác sống là nặng nề, là cực nhọc, là đau đớn cho thân thể,
là phiền não cho tinh thần, mà giá có ai doạ hỏi: “Muốn sống thì…” thì cũng thản
nhiên trả lời rằng: không.
… Người ta đã đến không “muốn sống” nữa, thì là thách cả mọi sự dọa
nạt của đời. Đời còn làm gì được con người đó nữa?…”
Đối lại cái bi quan cùng cực đó, Phạm Quỳnh cố đưa ra hai lối
thoát: Đạo đức, mà ông gọi là “Chỉ buộc chân voi”; “Nền nếp của gia đình, trật
tự trong xã hội, kỷ luật của cá nhân, phần nhiều cũng chỉ căn cứ ở mấy sợi chỉ
vô hình do đạo đức tôn giáo đời đời dùng để ngăn cái thị dục vô
nhai của người ta, ngăn cái xuẩn động vô ý của quần chúng… Cho nên những sợi chỉ
vô hình đó, chúng ta phải biết giữ gìn mà tôn tọng. Mỗi khi đụng chạm đến, phải
hết sức cẩn thận, vì đã đứt rồi không sao nối lại được…
Thứ nhất là kẻ có trách nhiệm trị dân trị nước, lại phải thận
trọng lắm, và phải nhớ rằng một dân không biết kính nữa là một dân bất trị vậy.”
Sâu sắc lắm, tha thiết lắm, nhưng mà liệu chính ông thật có
tin, khi chính ông biết những sợi chỉ ấy là vô cùng mong manh, mà
“con voi” cuộc sống thì vốn hung dữ quàng xiên. Và có khi “chỉ” cũng đã đứt
rồi!
Phạm Quỳnh lại vận đến đạo Phật: “Ai đã có cái cảm giác rùng
mình ghê sợ đó, sống mà hãi hùng cái sống, sống mà mệt nhọc vì sống, là người
đã sẵn sàng tâm trí để nếm thử mùi thiền vậy…” Thâm thúy lắm, nhưng rồi chính
ông cũng không kịp nếm được cái mùi an tịnh thâm trầm đó!
Cũng có khi ông cố tìm một con đường khác nữa: bàn
về văn học và chính trị, ông bảo nhà chính trị nên có thêm văn học, bởi nhà
chính trị “nếu quả có tài năng thời tài năng ấy nhờ văn học chắc cũng được cường
hóa, thâm hóa thêm ra”. Nghe chừng không thuyết phục lắm, bằng cái đoạn “phản
thuyết” sau đây: “Nếu nhà văn học bản sắc là văn học mà ngẫu nhĩ làm chính trị…
thời đó là một sự thí nghiệm mà thành công hay thất bại không thể quyết
đoán được. Nhưng cứ bình tĩnh mà xét, nhà văn học thuần túy, không nên tham dự
chính trị: hoa lan phải mọc trong u cốc, không thể đem ra trưng bày nơi đầu
đường góc chợ được…” Kinh nghiệm đau đớn của chính ông là một. Và ai cũng biết,
xưa cũng như nay, không chỉ có một.
Như ta vẫn thấy, tổng kết sự đời của một người
thành công thường nhạt. Có mấy tác phẩm lớn viết về những cuộc đời suôn sẻ đâu.
Kinh nghiệm đời quan trọng và đáng giá nhất là của những người ngấm đau vì đời.
Thượng Chi Phạm Quỳnh là một người như vậy. Tiếc thay ý đồ tổng kết lớn của
ông, báo hiệu qua mấy phác thảo ngắn mà sắc như dao này, đã phải dở dang. Nhưng
quả đây là một cuốn sách lạ, ngắn vậy, mà cứ muốn đọc đi đọc lại, bởi dẫu dở
dang, đọc cứ như tác giả đang nói về chính những điều xã hội ta đang phải đương
đầu hôm nay.
Những tư tưởng lớn, dù chỉ mới được nói ra một cách manh nha,
vẫn có sức đi xa lạ lùng của chúng. Và nghĩ cho cùng, cũng không hề chậm.
LẤY VỢ ĐỒNG TUỔI NHÂM THÌN
Dã Thảo
Làng Thọ Vực, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh có
ông ký lục Lê Văn Chấn và bà vợ họ Hoàng, gia đình cũng thường thường
bậc trung, nhưng sinh được ba cô con gái da trắng nõn nà, môi đỏ như
son, tóc đen nhánh, nổi tiếng xinh đẹp nhất làng. Cô cả, nhà gọi là cô Nhớn,
tên Lê Thị Vân. Cô Nhỡ tên là Lê Thị Hợp, cô Bé, tên Lê Thị
Mai. Con út là trai, tên Lê Văn Tốn (còn gọi là Xuân).
Một hôm ba cô theo bạn rủ nhau đi xem bói. Thầy bói nói cô Nhớn,
bấy giờ 14 tuổi, “số cô vất vả thời trẻ, nhưng về già thì sẽ thành nhất phẩm
phu nhân, con cái đầy đàn, trai một cỗ, gái hai cỗ”.
Cô Nhỡ thì thầy nói là “số long đong, ly hương biệt quán.” Cô Bé thì “căn quả
tu thờ Phật, nếu lấy chồng thì sát đến… 9 đời chồng!”. Ba chị em cười rúc
rích. Nhưng, sau này thì cô Nhỡ theo chồng là cựu học sinh Đông Du, phải lẩn
tránh, lên sống lẻn lút ở các đồn điền cà phê trên Yên Bái. Cô Út trốn nhà, xin
nương nhờ cửa Phật, sau này trở thành vị thượng tọa trụ trì có uy tín của chùa
Cầu Bây bên Gia Lâm Hà Nội.Ông ký lục mất sớm, gánh nặng gia
đình dồn cả lên vai bà mẹ và cô Nhớn. Nhà chỉ có mấy sào ruộng, cô Nhớn
phải làm thêm hàng xáo, xay lúa giã gạo, làm tương, nuôi lợn, già… Khi giáp hạt
thì thường thiếu ăn. Bà mẹ phải lên Hà Nội mượn tạm tiền bà chị
cùng cha khác mẹ, thường gọi là bà Nhì lấy chồng họ Phạm, buôn bán ở
nhà số 74 phố Hàng Áo, đến vụ gặt thì lại trả.
Mỗi lần ra Hà Nội phải mất một ngày. Những khi ra ăn giỗ, bà mẹ
thường dẫn cô Nhớn đi cùng, để biết họ biết hàng, khi cần thì thay mẹ đi. Họ Phạm
bên nhà chồng bà Nhì có bốn chi, chi Cụ Lang Hàng Bún là cao nhất, rồi
đến chi cụ Nhì, kế đến là các chi ông Tú, ông Cả Giới và ông Hai Kỳ. Chi ông Tú
có cậu Phạm Quỳnh. Bấy giờ, Phạm Quỳnh đã tốt nghiệp trường Trung học Bảo Hộ (tức
trường Bưởi) và đã đi làm nhân viên phiên dịch ở Trường Viễn Đông Bác Cổ. Phạm
Quỳnh vẫn sống với bà nội và cụ Tú (vợ người cho gia đình ông nội Phạm
Quỳnh thừa tự). Nhưng cả hai đều đã cao tuổi, lại chăm lo săn sóc mình từ khi lọt
lòng, cho đến năm lên 9 không còn cả cha lẫn mẹ, chỉ còn trông vào hai cụ, nên
Phạm Quỳnh thương hai cụ lắm, cũng mong có người cùng mình đỡ đần hai cụ lúc tuổi
già. Các cụ trong họ thấy đôi trai tài, gái sắc đồng tuổi Nhâm Thìn, vừa tròn
16, nên đều vun vào cho đôi trẻ. Thế là thành mối lương duyên, ai cũng mừng; mừng
nhất là hai bà cụ từng vắt kiệt sức tàn nuôi nấng Phạm Quỳnh. Cô Vân
sinh đầu năm Thìn, mà Phạm Quỳnh sinh cuối năm, cho nên sau này ông thường nói
đùa với các con là “Me hơn thầy một tuổi, cho nên Me bảo gì thầy cũng
phải nghe theo…”.
Hai vợ chồng trẻ sống cùng hai cụ bà ở nhà số I phố
Hàng Trống và sinh ba con đầu lòng tại đây: Phạm Giao (1911), Phạm Thị
Giá (1913) và Phạm Thị Thức (1915). Con trai thì đặt tên theo tên
cha: cha là Quỳnh, thì con là Giao.
Còn con gái thì đặt cho có tên mà gọi thôi. Con gái đầu,
khi sinh ra mình trắng như cọng giá thì gọi là cái Giá. Con thứ cứ
ngày ngủ, đêm thức suốt thì gọi là cái Thức. Tiếp đó là Phạm Bích (1919), Phạm
Thị Hảo (1920), Phạm Thị Ngoạn (1921), Phạm Thị Bảy (mất lúc sáu tháng), Phạm
Khuê (1923), Phạm Thị Chín (mất lúc chín tháng), Phạm Thị Hoàn (1926), Phạm Thị
Yến (mất lúc năm tháng), Phạm Tuyên (1930), Phạm Thị Giễm (1932), Phạm Thị Lệ
(1934), Phạm Tuân (1936) và Phạm Thị Viên (1938). Như vậy là có
ba con gái mất lúc chưa đầy tuổi tôi, cho nên có khi thấy viết trong
sách báo là Phạm Quỳnh có 13 con. Đến nay, các ông Phạm Giao, Phạm Bích,
Phạm Khuê và các bà Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức, Phạm Thị Ngoạn đã
qua đời, chỉ còn bà Phạm Thị Hảo và ông Phạm Tuân định cư ở Mỹ,
các bà Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Giễm, Phạm Thị Lệ, Phạm Thị Viên định
cư ở Pháp. Ở trong nước, chỉ còn một mình nhạc sĩ Phạm Tuyên.
Cô Vân, ở nhà chuyên làm ruộng, xay lúa giã gạo, nuôi lợn,
gà… không được đi học cho nên không biết cả chữ Nho lẫn chữ quốc ngữ. Nhưng cô
có trí nhớ tuyệt vời, thuộc nhiều ca dao, tục ngữ và các truyện Nôm, trong đó tất
nhiên có Truyện Kiều. Sau này bà đã giúp nhà văn, nhà báo Phạm
Quỳnh nhiều trong việc cung cấp cho ông các tư liệu về văn hóa, văn học dân
gian. Cho đến thời kháng chiến chống Pháp, có phong trào bình dân học vụ, một đứa
cháu ngoại thương bà đã cố hướng dẫn bà ngoại viết cho được
cái tên, kẻo ra đường, bị “thanh niên diệt dốt” bắt đi qua “cổng mù” thì
tội quá. Cho nên bà biết viết độc một chữ Vân tên mình. Hồi
ông làm báo Nam Phong, bà được làm thủ quĩ cho Hội Tế Sinh của bà Cả
Mọc, chuyên làm từ thiện ở Hà Nội và vài tỉnh miền Bắc. Hằng ngày, việc thu chi
của hội đều qua tay bà, bà nhớ kỹ, rồi tối về nói lại cho
ông ghi vào hóa đơn, sổ sách, không hề sai bao giờ.
Bà còn có tính kiên quyết, không tiếc cả thân mình khi cần
phải hy sinh. Năm 1935, có mang lần thứ 15 được bảy tháng thì bà lên
cơn hen nặng. Thường phải thức suốt đêm, ngồi tựa lưng vào con gái thứ
mới thở được. Những lúc ấy, cái thai cứ rực lên, rất mệt mỏi. Phạm Quỳnh quá lo
lắng, cho mời bác sĩ người Pháp là Piqueman đến khám. Ông ta nói là bệnh nặng lắm,
phải cứu lấy người mẹ, kẻo chết cả mẹ lẫn con. Ông lựa lời nói lại với vợ
thì bà nói ngay: “Tôi sống thì nó sống, tôi chết nó mới chết, chứ tôi
không bao giờ chịu làm cái việc thất đức đó…” Và kể cho ông nghe giấc mộng khi
sắp mang thai lần này. Bà đi xe kéo ở thành nội thì có đứa bé mặt trắng
môi son cứ chạy theo mà xin cho về nhà. Bà nghĩ đã có
14 con rồi, nên xua tay. Thì đứa bé chạy thật nhanh, rồi nhảy tót lên
xe, ngồi ngay vào lòng bà, ôm lấy bà. Tử đấy, Phạm Quỳnh càng lo chăm
sóc vợ hơn mà không nhắc gì đến chuyện đó nữa. May mắn thay, bệnh bà thuyên
giảm từng ngày và đủ tháng, đủ ngày, bà sinh một trai đúng như trong
mộng. Cả nhà đều mừng, cứ gọi là “Chú mình”, sau này gọi trại ra là “chú Miềng”.
Và cái tên cưng đó, đến nay (2009) vẫn quen dùng, kể cả hai vợ chồng ông Phạm
Tuân cũng vẫn tự xưng như vậy.
Rồi, trưa cái ngày định mệnh 23/8/1945 ấy, có mấy người mặc
quân phục đến “mời ông ra làm việc tại trụ sở Ủy ban Khởi Nghĩa Thừa
Thiên-Huế”, thì bà cũng có mặt. Thoáng thấy trên cánh tay một người mặc
quân phục có đeo cái băng đỏ, bà như có linh cảm là việc chẳng lành,
đã hét lên một tiếng thật to rồi ngất đi… Trong khi đó, ông thanh thản thay áo,
đi theo họ, để rồi không bao giờ trở về nữa… Nhưng, sau cơn gia biến lớn,
chính bà đã thu vén tài sản gia đình còn sót lại, cho bán tất cả sách
ở chợ Đông Ba, rồi dẫn cả đoàn con, cháu 14 con người (trong đó
có năm trẻ dưới 10 tuổi) từ Huế ra Hà Nội về nhà con gái trưởng. Để rồi
cùng tản cư, sống những năm đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp.
Bà chuyên làm nông nghiệp, giỏi lo toan việc nhà, đặc biệt
có tài làm tương Bắc từ nếp và đậu tương rất ngon, ngọt. Cho nên khi tản cư,
gia đình thiếu thốn, “thượng thư phu nhân” lại trở về nghề cũ: làm tương, bán
cho dân làng.
Bác sỹ Đặng Vũ Hỷ là con rể hiếu thảo, thu xếp cho
mẹ vợ và các em cùng nhiều cháu nội ngoại tản cư về làng Vạn Lộc, phủ Xuân Trường,
Nam Định, ở nhà cụ Chánh Đoán là người trong họ. Mấy năm tản cư, tiền nong cạn
dần, cụ bà lại làm tương, và tương rất ngon, dân làng tìm đến mua nhiều,
cụ phải làm hàng chum to mới đủ bán. Nhà có cổng lớn, dẫn vào ngõ trúc rồi mới
đến sân to là chỗ cụ bà làm và bán tương. Cậu út Phạm Tuân khéo tay,
mài gạch non, viết chữ đỏ ngay trên cổng quét vôi trắng “Ở đây có bán tương ngọt”.
Từ đấy, càng nhiều người biết mà đến mua, không phải chỉ trông chờ vào truyền
miệng như trước.
Năm ấy, biết vợ nhớ mẹ và em, bác sĩ Đặng Vũ Hỷ cho người đón
cụ và hai em trai, gái út về Thư Điền, Ninh Bình, nơi ông công tác và gia đình
đang sống. Cụ bà ra đi, gọi cháu ngoại Tôn Nữ Việt An 15 tuổi lại dặn
dò lo việc nhà, còn hàng chục miệng ăn, và đưa ít tiền cho cháu liệu chi tiêu
tiết kiệm. Hai tháng sau, cụ về, cháu gái đảm đang đưa lại tiền cho cụ, không
thiếu một xu. Lấy làm lạ, cụ hỏi vậy cả nhà lấy gì mà ăn. Thì cháu gái chỉ vào
chum tương to đặt gần máng xối nước mưa. Hóa ra tiền bán tương đủ cho cả nhà
chi dùng trong suốt thời gian bà ngoại đi vắng. Cụ mở nắp chum xem,
thì thấy vẫn còn non nửa. Hỏi ra mới biết, chum tương càng dưới càng mặn, may mà… được nước mưa ở máng xối bắn vào những khi mưa to cho nên nhạt bớt mà tương vẫn
ngon ngọt. Lại đã được tín nhiệm, có “thương hiệu” rồi, cho nên rất đông khách
vốn lấy tương cà làm gia bản!.
Thế là Phạm Quỳnh mười sáu tuổi đã lấy vợ đồng tuổi Nhâm Thìn,
suốt đời sống hòa thuận, nhường nhịn nhau, bổ sung cho nhau mà tạo dựng nên một
gia đình hòa hợp hạnh phúc. Cả khi ông không còn nữa, nếp nhà ấy vẫn còn, giản
dị, cần cù, chân thành, không hề khệnh khạng quan cách bao giờ như người ngoài
dễ lầm tưởng. Con cháu sống ở đâu cũng được nhân dân yêu mến, gần
gũi, sẵn lòng giúp đỡ. Đó là cái đức của ông đã lưu lại ánh sáng về sau
cho con cháu được nhờ. Đáng quý vậy thay nếp nhà mẫu mực ấy.
NĂM 29 TUỔI, PHẠM QUỲNH ĐÃ ĐỌC DIỄN VĂN
TRƯỚC VIỆN HÀN LÂM PHÁP
Dã Thảo
“Ngày 22/7/1922, trong bộ quốc phục áo dài khăn đóng giản dị
mà trang trọng, ông (Phạm Quỳnh – D.T chú) “cả gan” trình bày trước Ban
Luân Lý Chính trị Viện Hàn lâm Pháp về Một vấn đề dân tộc giáo dục. Lời
nói thật khúc chiết, hùng hồn, tha thiết, bằng một giọng văn tiếng Pháp mẫu mực,
khiến các viện sĩ Pháp phải phá lệ, đồng loạt đứng dậy vỗ tay hồi lâu khi ông vừa
dứt lời. Một hiện tượng chưa hề có trong lịch sử viện hàn lâm đầy uy tín này.
Báo chí Pháp đương thời đã loan tin lạ này trên trang nhất, đăng lại bài
diễn văn, kèm theo là bức ảnh ông mặc áo gấm, bế trong lòng cô con út
mới sinh được mấy tháng.
(…) “Chống lại chính sách ngu dân của bọn thực dân Pháp đang
thi hành ở nước ta, ông dõng dạc nói trước những đại biểu của tinh hoa trí tuệ
và lương tâm Pháp hiện diện tại Viện Hàn Lâm Pháp những lời sau và đã được họ
tán thưởng hoàn toàn:“ - Dân tộc Việt Nam chúng tôi không thể ví như một tờ giấy trắng.
Chúng tôi là một quyển sách dày đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai
đã từ mấy mươi thế kỷ. Quyển sách ấy có thể đóng theo kiểu mới
cho hợp với thời trang, nhưng không thể đem một thứ chữ ngoài in lên dòng chữ
cũ. Vấn đề là phải giáo dục người Việt Nam thế nào cho vừa truyền
được học thuật cao thượng đời nay, vừa không đến nỗi khiến chúng tôi mất giống,
không còn quốc tính, để biến thành một dân tộc vô hồn, không còn có tinh thần đặc
sắc gì nữa, như mấy thuộc địa cổ của Pháp kia.” Nhà báo Nguyễn Trung đã viết
như thế trong bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta (Nguyệt
san Công giáo và Dân tộc số 141 tháng 9 năm 2006).
Nhưng, ở đầu cuốn Pháp du hành trình nhật ký, chỉ thấy
ông viết: “Tôi được quan Thống sứ Bắc kỳ cử sang Đại Pháp thay mặt cho Hội Khai
trí Tiến đức để dự cuộc đấu xảo Marseille, lại được quan Toàn quyền đặc
phái sang diễn thuyết tại mấy trường lớn ở Paris, ngày 9 tháng 3 tây năm 1922
(tức là ngày 11 tháng 2 ta), xuống Hải Phòng để đáp tàu Armand Béhic về
Pháp.” Bấy giờ, về học lực ông chỉ tốt nghiệp trường Trung học bảo hộ. Nên khi
sang Pháp, ngày thứ năm 18/5/1922 ông viết trong nhật ký (Đăng trên báo Nam
Phong – DT chú): “Cả ngày hôm qua xem điện Panthéon là nhà kỷ niệm các
danh nhân nước Pháp. Ở trọ đi ra gần lắm, cách có vài phố. Đi
qua con đường d’Ulm, thấy trường Cao đẳng sư phạm (Ecole Normale
Supérieure), trong bọn học sinh thường gọi tắt là “cái nhà đường d’Ulm” (la
maison d’Ulm), nhà cũng thường thôi, không lấy gì làm to lớn đẹp đẽ lắm, nhưng
có cái vẻ nghiêm trang bình tĩnh, thật
là một nơi học hành cao thượng. (…)
trong lòng cảm phục cái chí cao của kẻ thanh niên nước Pháp, mà lại bùi ngùi
cho cái công học hành dở dang của mình. Than ôi! mình không phải là không có
cái lửa nhiệt thành về sự học, nhưng mà sinh trưởng vào giữa
buổi thanh hoàng học không ra gì cả, nho đã chẳng ra
nho, mà Tây cũng chẳng thành Tây. Phàm sự học phải cho đến nơi đến chốn
thì sở học sở hành mới điều hoà dung hợp nhau, mà gây nên cái nhân cách thanh
cao. Hễ còn dở dang, còn nửa chừng, thì không ra con người gì cả. Ông
cha mình mấy mươi đời học nho, nghiệp nhà đến mình là đoạn tuyệt. Bây giờ muốn
cầu làm ông đồ cổ, bàn nghĩa tính lý, ngâm thơ nhà Đường, nhắp dăm ba chén
chếnh choáng cho tiêu sầu khiển hứng, bảo mươi lăm thằng trò chẹt biết dã,
giả, chi, hồ, an nhàn vô sự, ngày tháng vui qua, cũng không được nữa. Nói
đến học Tây, thì chẳng qua học mấy câu tiếng tây để đi làm thuê, cũng tự biết
còn thiếu thốn, muốn ra công học thêm, nhưng thày đâu sách đâu, ở trường thông
ngôn ra, được học mấy ông hương sư ở Tây sang, thế đã là tột phẩm rồi, nào đã
bao giờ được từng ngồi qua cái ghế một trường Đại học như trường Sư phạm này?
Mà đã không được học đến bậc đó, thì còn mong lập nên sự nghiệp gì về
đường học vấn? Dở dang, dở dang, thôi mình đã đành là một con người
dở dang! – mà cả nước mình cũng là một nước dở dang! (…)“Nhưng mà thôi, đã sinh vào buổi lỡ làng thì cũng phải chịu
cái phận hẩm hiu vậy, biết sao bây giờ? Duy Phải biết rằng học đã chẳng ra gì, thời làm cũng chẳng
nên chi, vì có gốc mới có lời, vốn ít mong sao được lời to? Cho nên cũng chớ có
mong mỏi những sự to tát quá sức không làm nổi; chỉ nên hinh hương
chúc vọng cho kẻ đến sau này họa được may mắn hơn mình chăng…”. Rõ là ông còn tự
ti như vậy, thì vì sao, chỉ sau có hai tháng, ông lại đã đăng đàn diễn
thuyết được ở viện Hàn lâm Pháp. Một việc không được Thống sứ Bắc Kỳ lẫn Toàn
quyền Đông Dương giao. Mà chắc là cũng…không dám giao cho ông, vì không thể tin
là có thể được mẫu quốc chấp nhận cho một tên dân bản xứ trẻ tuổi, không có học
vị gì, lên diễn đàn Viện Hàn lâm. Vậy tại sao lại có chuyện lạ đó. Có
phép lạ gì chăng…
Trong Pháp du hành trình nhật ký ngày thứ bảy, mùng
8 tháng 7, ông viết: “Tối ăn cơm ở nhà ông bà V. .Từ bữa nhân đến
chơi với ông con là André được biết hai cụ, thì hai cụ cũng có lòng
yêu mến, cố hẹn làm thế nào tối hôm nay cũng đến ăn cơm để nói chuyện. Hai cụ lại
hẹn đến trước giờ ăn cơm để nói chuyện được lâu. Cơm nước xong mãi đến 11 giờ
khuya mới về trọ.” Và thứ ba 11 tháng 7 lại viết: “Trưa hôm nay ăn cơm ở
nhà cụ ông cụ bà V.. Bữa nay chỉ có một mình, không có khách nào lạ cả.
Chuyện trò rất vui vẻ và thân mật. Hai cụ thật có bụng quá yêu mà mình đối với
hai cụ cũng một lòng kính mến.” Rồi thứ bảy, 15 tháng 7 năm 1922: “Hôm nay hẹn
với cụ V. đến thăm ông bác sĩ Lyon – Caen là vĩnh viễn thư ký Hội Hàn
lâm, ban Chính trị Luân lý học, tại
nhà riêng ông đường Soufflot, trước cửa
đền Panthéon.
“Mấy lần nói chuyện với cụ V., cụ vẫn khuyên nên vào diễn
thuyết ở Hội Hàn lâm. Nhưng làm thế nào vào nói được ở một chốn tôn
nghiêm như thế? Cụ nói rằng cụ có quen biết nhiều ở Viện Hàn lâm, để cụ sẽ giới
thiệu cho ông vĩnh viễn thư ký là người chủ trương các việc đó. Bởi thế nên hôm
nay cùng nhau đến thăm ông Lyon Caen. Ông dạy pháp luật ở trường Đại học Paris,
tuổi đã cao, thật ra thái độ một nhà bác học thâm nho. Tiếp ân cần tử tế lắm;
nói chuyện hồi lâu, rồi cụ V. mới ngỏ ý muốn có dịp cho mình được vào diễn thuyết
ở Hội Hàn lâm, để trước là các ngài Hàn lâm biết được một người Việt Nam có học
thức, sau là cho mình được bày tỏ ý kiến tư tưởng của người Nam ở một nơi
cao nghiêm danh giá. Bác sĩ cũng hiểu các lẽ đó, nhưng có ý ngần ngại nói rằng:
“Hội Hàn lâm còn có một kỳ hội đồng cuối tuần lễ này nữa thời giải tán để nghỉ
hè, mà kỳ hội đồng này nhiều việc quá. Vả trừ các
thông tín hội viên (membres correspondants) của Hội ở các nơi, còn người ngoài
vào đây nói cũng ít. Người Đông phương thời năm trước có một ông bác sĩ Ấn Độ
cũng vào diễn thuyết ở Hàn lâm, nhưng ông thuộc tiếng Anh hơn tiếng Pháp, nên
nói khó nghe lắm. Tôi xem ông đây nói tiếng Pháp được, song xin để tôi liệu thu
xếp xem có đủ thì giờ để ông nói ngay kỳ hội đồng sau này không.” – Bác sĩ hỏi
định diễn thuyết về vấn đề gì; mình cũng đột ngột chưa định gì cả, nói sẽ chọn
một đề về giáo dục hay văn hoá. Bác sĩ hẹn vài ba hôm sẽ trả lời
cho cụ V. biết.
“ - Vào diễn thuyết ở Hàn lâm, thật mình không bao giờ dám mơ
tưởng đến sự đó. Việc này mà khởi ra thật là tại cụ V.; việc này mà
thành được cũng nhờ cụ V.” Và thứ ba, 18 tháng 7 năm 1922: “Hôm nay nhận được
thư của ông Vĩnh Viễn thư ký Hội Hàn lâm bảo cho biết rằng Hội Hàn lâm sẽ vui
lòng nghe mình diễn thuyết kỳ hội đồng ngày thứ bảy 22 tháng 7 này, xin đúng 2
giờ ngày ấy tựu tại Hội sở. – Thế là cái mơ tưởng hoang mang nay sắp
thành sự thực đây. Nửa mừng mà nửa sợ, mừng là thật là một cái hạnh
ngộ ít có, một sự vẻ vang không gì bằng; sợ là không biết nói làm sao
cho nghe được, để khỏi phụ lòng các ngài có bụng chiếu cố đến, khỏi gây
ra cái cảm giác xấu về người An Nam. Các ngài trong Hội Hàn lâm chắc
là chưa từng biết người An Nam bao giờ; nếu mình nói năng không ra gì thì các
ngài sẽ xét người nước mình ra thế nào? Bây giờ mới biết rằng kẻ sất phu cũng
có trách với nước là thế. Mình chẳng có danh vị gì mà cũng phải lo đến quốc thể
đây: Chà! chà! ghê quá! Không biết các ngài quyền cao chức trọng, đại biểu cho
cả quốc gia, thì lo đến đâu; có lẽ đến không ăn không ngủ được chắc?!”
Rồi thứ tư, 19 tháng 7 thì: “Hôm nay ở nhà soạn diễn thuyết.
“Nghĩ trong các vấn đề thiết yếu cho người mình không gì bằng
vấn đề giáo dục. Bèn khởi thảo một bài tỏ rõ
cái tình trạng sự giáo dục ở nước ta, phân trần
những điều lợi hại, những sự khó khăn, và hỏi ý toà Hàn
lâm nên giải quyết thế nào cho hợp lẽ. Đại khái nói rằng nước Việt Nam là một
nước cổ, vốn đã có một cái văn hoá cũ, nhưng cái văn hoá cũ ấy ngày nay không
thích hợp với thời thế nữa, cần phải có cái văn hoá mới đời nay thì mới có thể
sinh tồn được trong thế giới bây giờ. Hồi đầu quý chính phủ dạy người An Nam chẳng
qua là dạy lấy ít tiếng tây để sai khiến các công việc cho dễ, chưa phải là
truyền bá văn minh học thuật gì. Gần đây mới gọi là bắt đầu ban bố một cái học
cao hơn trước một chút. Nhưng trong sự truyền bá cái học mới ấy, có
nhiều nông nỗi khó khăn, quý chính phủ vẫn chưa giải quyết được ổn thoả. Nếu
dân Việt Nam là một dân mới có, chưa có nền nếp, chưa có lịch sử gì, thì quý quốc
cứ việc hoá theo tây cả, dạy cho học chữ tây hết cả, đồng hoá được đến đâu hay
đến đó. Nhưng ngặt thay, dân Việt Nam không phải là một tờ trắng muốn vẽ
gì vào cũng được; tức là một tập giấy đã có chữ sẵn từ đời nào đến giờ rồi. Nếu
bây giờ viết đè thêm một chữ mới nữa lên trên, thì e thành giấy lộn mất. Cho
nên bây giờ dạy khắp chữ tây cho người An Nam từ tuổi nhỏ đến tuổi lớn,
như ở các trường Pháp Việt ngày nay, kết quả chỉ đủ làm cho người An Nam mất
tính cách An Nam mà chửa chắc đã hóa được theo tây hẳn, thành ra một giống lửng
lơ thật là nguy hiểm. Muốn tránh sự nguy hiểm ấy, chỉ có một cách: là
dạy cho trẻ con An Nam bằng tiếng An Nam cho hết bậc tiểu học, lấy
cái phổ thông giáo dục bằng quốc văn làm gốc, như thế vừa tiện
và vừa mau, vì không mất thì giờ học một thứ tiếng ngoại quốc dở dang không đến
nơi và không dùng được việc gì. Học trò đã được bằng tiểu học tốt nghiệp bằng
tiếng An Nam rồi, bấy giờ mới kén chọn người nào có sức được học lên các bậc
trên nữa, như trung học, đại học, thời cho vào một trường dự bị chỉ chuyên học
tiếng Pháp, nhưng học theo cách tấn tốc, như người Pháp học tiếng Anh tiếng Đức,
nghĩa là học như học tiếng ngoại quốc vậy. Học thế chỉ vài ba năm có thể thông
chữ Pháp đủ theo được các lớp trung học như bây giờ. Như thế mới khỏi được cái
nguy hiểm thành một hạng người dở dang, tốt nghiệp ở trường tiểu học ra, chữ
tây không đủ dùng được việc gì mà cái phổ thông thường thức học bằng chữ tây
cũng còn mập mờ chưa lĩnh hội được hết, còn tiếng của nước nhà thì hầu như quên
cả, v.v… – ấy bài diễn thuyết định đại cương như thế, nhưng còn phải phô
diễn thế nào cho nghe được.”
Tiếp đến thứ năm ngày 20 tháng 7: “Chiều hôm nay lại ăn cơm ở
nhà cụ ông cụ bà V. . Hai cụ vẫn định một buổi mời ông nghị viên
Marcel Sembat và phu nhân để giới thiệu cho mình nói chuyện.
Nguyên bà nghị viên là chị em thân thích với bà cụ
V., nên hai nhà thường đi lại với
nhau thân lắm. Ông Sembat thì ai hơi thuộc lịch sử chính trị
nước Pháp ngày nay, chắc cũng đã biết tên và biết tiếng cả. Ông là một tay lãnh
tụ trong đảng xã hội (…). Hôm nay nhân ông nghị bà nghị sắp đi nghỉ hè ở
núi Alpes, hai cụ mời đến ăn cơm tối, để thừa dịp giới thiệu cho mình được biết.
(…). Sau bàn đến vấn đề giáo dục ở bên ta. Đề này chính là
cái đề mình định diễn ở Hội Hàn lâm nay mai; lại là cái đề vẫn thường thảo luận
với cụ V., cụ rất đồng ý với mình: phàm tiểu học cần phải dạy bằng quốc ngữ,
không thể dạy bằng ngoại ngữ được, đó là một lẽ tất nhiên. Một đứa con trẻ
tiếng nước mình không thuộc thì học tiếng nước nào rồi cũng khó; trước hết phải
dùng quốc ngữ để vỡ vạc trí khôn của con trẻ đã, nhiên hậu học tiếng
ngoại quốc mới mau hiểu. Ông Sembat thời lại xét cái vấn đề ra một phương diện
khác, ra phương diện chính trị. Ông là một nhà chính trị, lại là một nhà chính
trị ý kiến rất rộng rãi, vì thuộc về đảng xã hội. Đối với ông thì việc khai thuộc
địa là cái sự nghiệp của bọn tư bản, ông không ưa gì bọn tư bản và sẵn
lòng đề huề với kẻ lao động, tức là dân thuộc địa. Vậy trong vấn đề này là ông
vị dân thuộc địa, – tức là vị người An Nam mình, – mà nói. (…). Người An Nam ở
dưới quyền chính trị nước Pháp, muốn vận động về đường chính trị tất phải biết
tiếng Pháp, đó là một điều cố nhiên rồi. Nhưng có phải là nhất ban quốc dân An
Nam đều có thể vận động về chính trị được
không? Chẳng qua chỉ là một bộ phận gồm
những người tai mắt, kẻ thức giả trong nước, mới có tư cách vận động mà thôi; bọn
đó thời phải biết tiếng Pháp cho thật thông, dẫu tốn công phu đến đâu cũng phải
học cho kỳ được. Còn phần nhiều người thì cần nhất bây giờ là học lấy cho mau
biết những điều thường thức cần cho người ta ở đời này. (…) Cho nên dù thế nào
mặc lòng, số người An Nam học được tiếng Pháp vẫn là số ít, còn phần
nhiều phải học bằng tiếng nước nhà mới
mau biết những điều thường thức.” Ngày thứ 6, 21 tháng
7: “Hôm nay đã thảo xong bài diễn thuyết ở Hội Hàn lâm. Mai đã phải dùng đến
rồi, không kịp mượn người đánh máy. Thôi cứ thế này đem đọc cũng được. Nhưng
trước khi ra đọc ở Hội Hàn lâm, phải nên diễn tập trước một lần. Không gì bằng
đem đọc thử cho hai cụ nghe, được chăng thế nào hai cụ sẽ bảo. Vả cụ ông đã cho
biết rằng có lẽ mai cũng không ra nghe ở Hội Hàn lâm được, vì cụ hiện đương có
giấy ứng cử vào chân Hội, không muốn đi lại vội. Như thế thời đọc trước cho cụ
nghe, tưởng cũng là một cái nhã ý đối với cụ. Vậy ngâm nga riêng một mình
rồi, liền đem cả bản thảo lại đường Saint Germain. May hai cụ đều có nhà
cả. Tỏ ý đọc trước để hai cụ nghe, hoặc có chỗ nào sai suyễn hay sơ suất xin
hai cụ chỉ giáo cho, hai cụ lấy làm cảm động lắm. Để đồng hồ bên cạnh,
đọc thong thả rõ ràng, vừa đúng hai mươi phút, thế là hợp với cái thời hạn đã định.
Còn nội dung thế nào, lời lẽ có nghe được không, hay là rườm tai khó hiểu? Xin
cụ cứ thực tình dạy cho. Hai cụ chỉ chữa cho vài cái “phốt” chữ tây vô ý không
biết, còn thời nhất định quyết rằng nghe được, không những nghe được mà lại có
cái giọng nhiệt thành bạo dạn, chắc sẽ có ảnh hưởng, không đến nỗi là những lời
không ngôn. Hai cụ đã phán đoán như thế, dù là bởi bụng khoan dung muốn khuyến
lệ cho kẻ tuổi trẻ lòng thành, hay là vì cách lễ nhượng không muốn kích thích
cái thói “tự đắc của con nhà văn” mà chỉ trích cho hết những chỗ khuyết
điểm, dù thế nào mặc lòng, mình cũng tạm yên tâm, để ngày mai có thể vững vàng
mà ra đối diện với các quan Hàn lâm Đại Pháp. – Hai cụ cũng mừng cho và nói rằng
nghe bài diễn thuyết mới biết cái vấn đề giáo dục ở nước
Nam phiền phức là dường nào, và lòng nguyện vọng của người Nam cũng chánh đáng
là dường nào.”
“Thứ bảy, 22 tháng 7.
“Sáng nay không đi chơi đâu, chỉ bữa ăn đi một lát, rồi về
nghỉ ngơi để sửa soạn ra Hội Hàn lâm. Phân vân không biết mặc tây phục hay mặc
quốc phục. Đã có bộ jaquette, nếu mặc tây thì cũng tùng tiệm được. Nhưng nghĩ lại, gặp
những cơ hội như lúc này mà nỡ bỏ quốc phục đeo tây phục, thì cũng tủi cái áo
cái khăn anh đồ quá; thôi thì cứ mặc An Nam, chỉ dẫu đi ngoài phố thiên hạ chỉ
trỏ nữa cũng chẳng hề gì. Trước hãy đến đón cụ V. để cụ hướng đạo và giới thiệu
cho các ông phần việc, kẻo lạ lùng không biết đường nào mà dò. Nhà Hội Hàn lâm
này cũng là một cái lâu đài cổ ở thành Paris, mặt tiền trông ra sông Seine, trước
có cái cầu gọi là “Cầu Văn nghệ” (Pont des Arts). Phong cảnh có vẻ cổ thời.
(…). Vào hỏi ở phòng thư ký, rồi có người đưa đến phòng hội đồng. Ban Luân lý
Chính trị thường họp hội đồng cùng một phòng với ban Văn học duy khác ngày mà
thôi: phòng này gọi là phòng Tự điển, vì ban Văn học thường họp để làm Tự điển ở
đấy. (…). Mình vẫn tưởng rằng hôm nay chẳng được đông lắm, nhưng cũng được vài ba
chục ngài (toàn ban chỉ có bốn chục ngài cả thảy). Không ngờ lác đác chỉ có vài
ba cụ nữa đến, thế mà thôi, cả thảy được mươi mười hai người, kể cả các nhà
báo. Lúc bấy giờ cũng hơi lấy làm thất vọng. Cái thói con nhà văn vẫn
hay tự đắc: có lẽ nào các cụ Hàn được tin ông P. Q. diễn thuyết mà lại không
hăm hở kéo nhau đến nghe cho thật đông! Đáng lẽ cả bốn chục ngài phải có mặt ở
đấy, không thiếu một ngài nào mới phải! Sau hỏi ra mới biết rằng những khi hội
đồng thường chỉ có thế thôi, không mấy khi được đến mười lăm ngài có mặt. Vả lại
nay đã đến đầu hè, phần nhiều các ngài đi ra bể lên núi nghỉ mát cả, đến được
thế này đã là đông rồi đó. Khi đã ngồi đâu vào đấy, thấy một ông cụ đầu râu bạc
phơ, lưng khom khom chống cái ô đi vào; các cụ đều đứng lên chào một cách kính
trọng lắm. Cụ mới vào đó chính là cụ Alexandre Ribot, nguyên thủ tướng Đại
Pháp, hiện có chân ban Chính trị và ban Văn học Hội Hàn lâm. Năm nay tuổi đã
cao lắm, – nghe đâu ngoài 80, – thường đau yếu, ít khi đến họp hội đồng được,
hôm nay thấy đến, cử ban đều lấy làm mừng rỡ lắm. Cụ ngồi vào ghế, rồi ngài ban
trưởng khai hội đồng. Chương trình kỳ hội đồng hôm nay có hai bài “thông cảo”
(communications), tức là bài diễn thuyết cho các cụ Hàn nghe, rồi xét có
nên thì sẽ đăng vào sách “Biên tập” của Hội Hàn lâm: một bài của
ông giáo trường Đại học thành Rennes có chân thông tín của Hội, một bài
của mình (…) Đoạn rồi đến lượt mình; ai đọc cứ ngồi chỗ nấy, không phải đứng dậy.
Mình cố đọc cho to tát dõng dạc để các cụ nghe cho dễ; xem dáng các cụ cũng chú
ý nghe. Đọc hết bài dừng lại thì thấy các cụ đều vỗ tay một hồi. Có ý nhận
lúc ông giáo Đại học đọc lúc nãy thì không có vỗ tay. Sau về nhà nói
chuyện với cụ V. mới biết rằng lệ thường ở Hội Hàn lâm nghe đọc những bài
“thông cảo” không có vỗ tay bao giờ, hôm nay các cụ đặc cách vỗ như thế là có ý biệt đãi vậy. Trong bài
“thông cảo” của mình có kể rõ về cái vấn đề giáo dục ở nước ta
khó khăn là dường nào và hỏi ý các ngài Hàn lâm nên giải quyết thế nào (…) Ông
trưởng ban nói trong bài diễn thuyết sở dĩ dẫn chứng lời của một vị Hàn
lâm như thế thật là đủ tỏ rằng ý kiến của Hàn lâm cũng không khác gì ý kiến
của diễn giả. Diễn giả sợ cách giáo dục của chính phủ Pháp ở nước
Nam không phải đường, kết quả đến làm mất hết cái cốt cách tinh thần của dân tộc
An Nam, làm “mất giống” An Nam đi. Cái hiểm tượng đó cũng đáng lo thật; diễn giả
muốn hỏi toà Hàn lâm nên làm thế nào cho tránh khỏi. Vấn đề phiền phức, không
thể trong một buổi thảo luận mà giải quyết ngay. Nhưng toà Hàn lâm xin chú ý; vấn
đề đã trình bày ra như thế, hoặc có ngài nào trong ban muốn nghiên cứu, sẽ
có thư từ bàn bạc với diễn giả, và thử nghĩ xem có cách nào giải quyết được
ổn thoả cả mọi đường; nếu quyết định được một cái chương trình thoả đáng, mà cả
ban thuận nhận thời lâm thời Hội Hàn lâm sẽ sẵn lòng vận động với chính phủ Đại
Pháp cho có thể thi hành được. Hiện nay hẵng xin cám ơn diễn giả đã có lòng tin
cậy toà Hàn lâm mà đem một vấn đề quan trọng như thế trình bày cho biết một
cách rõ ràng mà thâm thiết như vậy. – Nghe diễn thuyết xong thì các người ngoài
lùi về và hội đồng vào họp trong buồng trong, để bàn việc kín.
“Ở Hội Hàn lâm ra, về thẳng đường Saint Germain để nói chuyện
cho hai cụ biết. Hai cụ lấy làm mừng lắm. Lại nghe nói khi đọc xong cử tọa có vỗ
tay, hai cụ lấy làm lạ, nói xưa nay ít khi như thế, lần này thế là các cụ Hàn
có ý biệt đãi khách phương xa lắm đó. Hai cụ lại nói rằng các ngài Hàn lâm thường
không hay đến hội đồng đông bao giờ, ngay như ở ban Văn học phải làm Tự điển mà
mỗi lần cũng chỉ mươi lăm vị là cùng. Song các bài “thông cảo” đều có đăng
vào sách “Biên tập”, tức cũng như quyển tạp chí của Hội, như thế thì người
không đến nghe rồi cũng được đọc, tất có ảnh hưởng to. Cụ ông hứa rằng nếu
không ở Paris được lâu thì khi nào in bài vào sách “Biên tập” của Hàn lâm,
cụ sẽ thương thuyết với nhà in lấy
riêng ra mấy trăm bản, rồi gửi
sang An Nam cho.”
Thì ra việc đọc diễn văn tại Viện Hàn lâm Pháp là hoàn
toàn do sáng kiến của riêng Phạm Quỳnh, không “ thỉnh thị” ý kiến của cấp trên
nào. Chỉ bằng vào tài năng và lòng yêu nước nồng nàn, với thái độ chân thành
khiêm nhường, có văn hóa cao của mình, ông đã thuyết phục được các bạn bè Pháp,
đứng đầu là cụ V., một người cha của một bạn trẻ Pháp của Phạm Quỳnh.
Càng tìm hiểu về nhà văn hóa Phạm Quỳnh, ta càng đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác: Ông quả là một thiên tài, một người yêu nước
thương dân đến tận tâm can.
VIẾT VỀ THẦY TÔI
Phạm Thị Thức
Lời dẫn của Phạm Tôn: Học giả Phạm Quỳnh có
11 con gái, 3 người mất từ lúc chưa đầy tuổi tôi (thôi nôi). Có 5 người
từng viết về ông là bà Phạm Thị Giá, con gái trưởng, Phạm
Thị Thức con gái thứ hai và các bà Phạm Thị Hảo, Phạm Thị
Ngoạn, Phạm Thị Hoàn.
Từ nay, chúng tôi sẽ lần lượt đăng các trang viết đó để bạn đọc
biết rõ hơn con người Phạm Quỳnh trong đời thường,
qua con mắt của các con gái ông.
Mở đầu là bài Viết về thầy tôi của bà Phạm
Thị Thức viết tại Hà Nội năm 1992, mà nhà sử học Trần Gia Phụng đã đôn lên
thành Hồi ký của bà Phạm Thị Thức viết tại Paris năm 1992 gây
nên một sự hiểu lầm lớn trong dư luận, nhất là ở nước ngoài, chủ yếu
là Canada, Mỹ và Pháp. Bài này, bà Phạm Thị Thức viết theo yêu cầu
của các em gái ở Pháp, nhân dịp kỉ niệm 100 năm sinh Phạm Quỳnh (1892-1992),
nhưng chưa công bố trên báo chí.
Bài này chúng tôi đã đưa lên Blog PhamTon 3/12/2009
nay phải đăng lại. Chỉ vì người Mỹ Sơn Tùng đã lặp lại sai lầm của ông Trần Gia
Phụng trong bài viết ghi ngày 4/9/2011 nhan đề Sau 66 năm lịch sử và
công lý nào cho vụ án Phạm Quỳnh? (tạp chí Thế Giới Mới). Chúng
tôi đã có bài Vì sao người Mỹ Sơn Tùng lại cứ bám dai nhạc sĩ Phạm
Tuyên như thế?, mới đưa lên Blog PhamTon ngày 21/10/2011 mà đến ngày 5/12/2011 đã có tới 36.344 lượt người truy cập! Đủ thấy sự đăng lại bài
của bà Phạm Thị Thức là cần thiết đối với các bạn quan tâm.
Thầy tôi, nói đến hai chữ ấy, tự nhiên hai dòng nước mắt của
tôi chảy dài xuống má, ruột tôi đau quặn như đứt từng khúc! Nỗi hận này suốt đời
tôi không sao có thể quên được…!!
Tôi hồi tưởng lại trong ký ức, những mẩu chuyện nhỏ về Thầy
tôi…
Năm tôi 13 tuổi, tối nào tôi cũng lên ngồi bàn làm việc
để viết bài cho Thầy tôi, vì Thầy tôi cho rằng chữ tôi đẹp và rõ ràng. Thầy
tôi cầm quyển sách vừa dịch vừa đọc như đọc chính tả cho tôi viết. Tôi ngây thơ
hỏi: Thầy phải dịch vào giấy nháp rồi để con viết chứ. Thầy thôi chỉ
cười. Tôi còn nhớ là viết những học thuyết của Hippocrate gì gì đó mà tôi chẳng
hiểu chi cả. Có hôm khuya quá, thấy tôi có vẻ buồn ngủ Thầy tôi bảo:
“Con cố lên, chỉ còn vài trang nữa là xong thôi”, và gọi người nhà mua
cho tôi một bát chí mà phù để bồi dưỡng…Phần đầu bài viết của bà Phạm Thị Thức.Năm 1928, tôi học École Brieux, cours Supérieur (Trường
Brieux lớp nhất – PT chú) và là học sinh giỏi nhất lớp, đồng thời cũng là nhất
trường vì ở đó chỉ có đến lớp Supérieur (nhất – PT chú) là hết. Đầu năm 1929,
các cô giáo cử tôi lên đọc compliment (lời chúc – PT chú) chúc Tết bà Đốc
là bà Autigeon. Các cô bảo: Em về nhà nhờ Thầy em viết giúp cho mấy
câu. Tôi lo quá, nghĩ Thầy tôi bận nhiều công việc như thế, chắc có viết không.
Nhưng khi tôi về nói, Thầy tôi vui lòng ngay và bảo: Con đừng lo. Thầy
sẽ viết cho vài câu, nhưng con phải học thuộc lòng và đọc cho hay
vào. Thế rồi tối nào Thầy tôi cũng bắt học cho rõ thuộc và đọc cho nghe, dặn nhấn
mạnh khi nào nên nhìn vào giấy, thỉnh thoảng phải ngẩng đầu lên nhìn xuống dưới
chỗ mọi người ngồi. Bài viết tôi học thuộc kỹ quá, cho đến nay quá 64 năm
tôi vẫn còn nhớ mãi, những câu sau đây:
… C’est en obéissant à une tradition chère à tous les pays que
nous venons aujourd’hui vous apporter le sincère témoignage de nos jeunes
coeurs. L’année 1928 vient à peine de s’écouler, emportant dans sa fuite une
année de notre existance que déjà la foule s’empresse de fêter sa jeune soeur,
en qui, elle met toute sa confiance et son espoir. Que cette année qui vient marque pour
vous et votre chère famille, une ère de prospérité et de joie. Qu’elle soit
pour vous douce et bénie. Avec cette confiance facile de notre jeunesse
pour cette année qui s’annonce de bon augure, nous formulons des voeux les plus
sincères pour qu’elle soit pour vous bonne et heureuse, remplie de bonheur et
exempte de tout souci… (Tạm dịch là: Nay, theo tục lệ thân thiết với mọi xứ,
hôm nay, chúng con xin chuyển đến Bà tấm lòng thành của những
trái tim non trẻ. Năm 1928 vừa qua đi, mang theo một năm trong cuộc sống chúng
ta, mà nhân dân đã hối hả mở hội đón năm mới, năm họ đặt tất cả niềm tin và hy
vọng. Mong sao năm nay sẽ đánh dấu một kỷ nguyên thịnh vượng và vui vẻ với Bà và
gia đình yêu quí của Bà. Mong sao năm mới an lành và đầy ân huệ với Bà.
Với lòng tin cậy giản dị của tuổi trẻ chúng con vào năm mới này, năm
báo trước điềm lành, chúng con xin chúc những lời chân thành, mong
sao năm mới tốt lành và hạnh phúc với Bà, tràn đầy niềm vui và tiêu tan hết
mọi ưu phiền… – PT chú) còn dài nữa, v.v… Bài đọc từ hơn nửa thế kỷ
không bao giờ nhớ lại, nay bỗng có dịp nhắc lại, nên có thể nhiều chữ sai và
nhiều lỗi chính tả!
Tôi đọc trôi chẩy quá đến nỗi sau đó bà Đốc ôm lấy
tôi hôn và bảo “Con đọc hay quá”. Các cô giáo thì tíu tít vui mừng
vì học trò của mình được bà Đốc khen…
Năm 1930 tôi đậu Certificat (Tiểu học – PT chú) và thi vào
trường École normale des institutrices (Trường nữ sư phạm – PT chú).
Thi concours (Tuyển – PT chú) 150 người lấy 30, trong đó chỉ lấy có 3 người
vào Normale (Sư phạm – PT chú), còn 27 vào cours complémentaire (Lớp bổ túc –
PT chú). Tôi được đỗ thứ 2, như vậy là trong 3 người trên cùng được bourse (Học
bổng PT chú) mỗi tháng 9 đồng. Tôi mừng quá về khoe ríu rít ở nhà. Thầy
tôi bảo: “Thầy không muốn cho con nhận học bổng, sau này đỗ ra trường
làm cô giáo, người ta bổ đi đâu cũng phải đi. Nhà mình, con đi học
chỉ cần có kiến thức, không cần đi làm ăn lương gì cả. Con không nên
nhận và để cho người đỗ thứ 4 lên thay con”. Tôi buồn quá, khóc với Me
tôi. Thầy tôi thấy tôi buồn và có vẻ tiếc cái món bourse, một hôm Thầy tôi gọi
vào buồng giấy và cho tôi một chồng 90 đồng bạc hoa xòe và bảo tôi: “Đây Thầy
“đền” cho con 10 tháng học bổng. Con lấy muốn mua gì thì
mua và yên tâm mà học hành”. Nhận được số tiền đó tôi mừng quá, tôi đi vội đến
phố Hàng Khay sắm sửa bao nhiêu thứ mình vẫn thích: dentelle (Đăng ten – PT
chú) viền áo, vòng đeo tay, dây chuyền đeo cổ, nhẫn, v.v và quà cho các anh các
chị và các em…Thầy tôi có bà bạn là nữ sĩ Jeanne Duclos
Salesses. Bà vẫn thường đến chơi với gia đình và làm nhiều bài
thơ tặng Me tôi và em bé của tôi là em Yến. Được tin bà qua đời, sau
đó em tôi cũng mất, Thầy tôi có viết một bài nói về Bà, trong đó có mấy
câu tôi còn nhớ: “Son souvenir est attaché à un petit être qui m’est cher, à ma
petite hirondelle chérie, qui, un mois après son départ, s’est envolée dans les
airs, òu elle aurait du la retrouver…” (Tạm dịch là: Kỷ niệm về Bà gắn
với một sinh linh nhỏ bé thân thiết với tôi, với chim yến nhỏ yêu quí của tôi,
một tháng sau khi Bà ra đi, đã bay lên trời, nơi có lẽ cháu sẽ được gặp
lại bà.- PT chú)
Năm 1935, chồng tôi sang Pháp thi doctorat en médecine (Bác
sĩ y khoa – PT chú) 3 năm, tôi vào Huế với Thầy Me tôi và sinh cháu Tứ ở Huế.
Năm 1937 có một sự kiện làm cho tôi xúc động và nhớ mãi. Hồi đó Me
tôi có mang em Phạm Tuân được độ 6 tháng thì Me tôi mắc bệnh hen rất nặng, suốt
ngày tôi ngồi vuốt ngực và xoa bóp cho Me tôi, nhiều lúc thấy lên cơn hen Me
tôi khó thở tưởng như nếu kéo dài có thể chết. Thầy tôi đi làm về là vào ngay
buồng thăm hỏi, vuốt ve và nói chuyện động viên và an ủi sẽ khỏi, v.v…Một hôm
tôi thấy Thầy tôi ngồi với hai ông docteur (Bác sĩ – PT chú), nói chuyện gì mà
tôi thấy Thầy tôi nét mặt buồn rầu tôi chưa từng thấy. Tôi đoán là có chuyện gì
hệ trọng lắm. Sau đó, thấy Thầy tôi vào nói với Me tôi là các ông docteur hội
chẩn và khuyên nên lấy cái thai ra thì mới khỏi nguy hiểm cho người mẹ. Me tôi
khóc, bảo: “Đau đớn mấy tôi cũng cố chịu được, không khi nào tôi chấp nhận cái
việc đó; vì tôi nằm mơ thấy rõ ràng có một thằng bé rất thông minh xinh đẹp chạy
theo xe tôi và nói “Me, cho con về với me!””. Sau đó nhờ phúc ấm tổ
tiên, Me tôi qua khỏi và sinh được đứa con thứ 15 của Thầy Me tôi. Thầy
Me tôi thương và quý em lắm, cứ gọi là “chú Miềng”; năm nay em đã 55 tuổi, có
5 con rồi mà gia đình vẫn quen gọi là chú Miềng.
Thầy tôi có 16 người con mà lúc nào cũng chú ý săn
sóc thương yêu như nhau, chưa hề bao giờ mắng mỏ con cái. Thầy tôi rất
thông minh, uyên bác, tuy không phải là docteur nhưng có một “Larouse médicale”
(Từ điển Larouse y khoa – PT chú) nhiều tập. Mỗi khi con cái ốm đau,
Thầy tôi đều đem ra sưu tầm tra cứu và theo đơn trong sách chữa bệnh, hiếm lắm
mới phải mời đến docteur.
Tháng tám năm 1945, Thầy tôi ra đi!! Than ôi cả Thầy Me tôi
và các con đều không có thể ngờ rằng Thầy tôi ra đi mãi mãi!!! Chúng
tôi khóc tưởng như có thể chết đi sống lại!! Sau đó, chị tôi và tôi nhờ một anh
bạn là ông Vũ Đình Huỳnh ngày ấy làm garde corps (người hộ vệ – PT chú) cho Cụ
Hồ, giới thiệu đến thăm Cụ và hỏi chuyện. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về…Và trong
thời kỳ khởi nghĩa quá vội vã có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” Và tôi còn
nghe một bà bạn là nữ sĩ Hằng Phương đến dâng Cụ ít cam và một bài
thơ, nhân nói đến Thầy tôi cụ Hồ bảo:“Thật là đáng tiếc, dẫu sao cũng là một
nhà văn học!”
Trời ơi, oan uổng cho Thầy tôi biết bao!!! Nỗi oan này khắc
sâu trong lòng chúng tôi, nỗi hận này đến kiếp nào cho khuây!…
Thầy ơi, chúng con thật là bất lực, xin cúi đầu nhận
tội với Thầy.
Phạm Thị Thức
28/10/1992Bản sao chụp phần cuối bài của bà Phạm Thị Thức
viết tại Hà Nội ngày 28/10/1992."ĐIỆP VIÊN ĐƠN TUYẾN"
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
(Một đoạn báo của giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn
Văn Trung, tháng 9 năm 1999)
Lời dẫn của Phạm Tôn: Giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn
Văn Trung từng nổi tiếng như cồn ở Sài Gòn thập niên 60 và 70 thế kỷ trước với
các bài viết, các tập sách và cả các buổi diễn thuyết chống Phạm Quỳnh quyết
liệt, sắc sảo đến mức “đào đất đổ đi”, “không đội trời chung”, nhất là trong tập
sách Chủ Đích Nam Phong (Tủ sách Tìm về dân tộc của nhà xuất bản Trí
Đăng, Sài Gòn phát hành 2000 bản, ngày 20/2/1975), một công trình phê bình
chính trị, trong đó ông dành hết tâm trí để chứng minh rằng Phạm Quỳnh là: “tay
sai chính trị, tay sai văn hóa của thực dân Pháp”.
Thế nhưng, tháng 9 năm 1999, trên tạp chí Đi Tới, xuất bản
ở Montreal, Canada số đặc biệt về chủ đề “Phạm Quỳnh: Văn hào và Chính trị:
Công hay Tội”, ông lại bất ngờ công bố một giả thuyết mới và lạ.
Để bạn đọc có tư liệu tham khảo nhiều chiều khi tìm hiểu về học
giả Phạm Quỳnh, chúng tôi xin trích đăng đoạn báo đó và một phần trong Lời
kết bài của giáo sư Nguyễn Văn Trung đăng trong số báo trên từ trang
8 đến trang 20 nhan đề Từ suy tôn Phạm Quỳnh đến đề cao thực dân thời hậu
hiện đại. Đầu đề đoạn trích này là của chúng tôi.
Tóm lại xét về mặt nổi mặt chìm Phạm Quỳnh là người của địch nhưng
có thể là người của ta gài trong hàng ngũ của địch (Chúng tôi nhấn mạnh –
PT) hay không? Giả thuyết này có thể được nêu lên dựa vào tâm sự mà
Phạm Quỳnh đã bày tỏ trong chuyến công du Pháp hồi 1922. Bất cứ người Việt
Nam nào từ khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương và nước Pháp, có cơ hội ra nước
ngoài sang Pháp đều có một lối nhìn thời cuộc khác với người chỉ ở trong nước.
Qua những trang tâm sự Phạm Quỳnh cho biết:
Đời sống va chạm hằng ngày trong nước ở xa mới thấy những việc
tưởng là quan hệ mà sau đó bần tiện nhỏ nhen, tranh ăn tranh nói, tranh uống
tranh ngồi, v.v…
Ở Paris đầu óc mở ra đón nhận những trào lưu mới tiến bộ. Phạm
Quỳnh đi nghe các buổi nói chuyện của phe tả Cộng sản, đi thăm đại học
Sorbonne, trường sư phạm rồi than thở về thân phận học hành dang dở dở dang của
mình và cả nước cũng là dở dang.
Nhận rõ chân tướng chế độ thực dân ở Việt Nam, những người
Pháp thực dân khác hẳn người Pháp ở Pháp
Hiểu được tại sao người Việt ở Pháp chống thực dân và
không thể có thái độ khác
Với tâm tình đó ông tìm gặp các ông Phan Chu Trinh, Nguyễn An
Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc.
Trong bài du ký ông chỉ nhắc tới buổi gặp Phan Chu Trinh
mà không nói tới những gặp gỡ khác đặc biệt với Nguyễn Ái Quốc. Chắc
hẳn ông đã báo cáo với mật thám Pháp về những tiếp xúc này một cách nào đó
cho khỏi bị nghi ngờ. Những ai đã có dịp gặp Nguyễn Ái Quốc bất kể là người Việt
Nam hay người ngoại quốc đều thú nhận rất khó chống khả năng cảm hóa thuyết phục
của Nguyễn Ái Quốc sau này là Hồ Chí Minh, một người thấm nhuần sách lược
Lê-nin-nít. Có thể Nguyễn Ái Quốc, nhận thức được sự đóng góp đặc
biệt của Phạm Quỳnh cho cách mạng Việt Nam ở cương vị một người cộng tác thân
tín với giới lãnh đạo chính trị an ninh tình báo cấp cao nhất trong chính quyền
thuộc địa, trao công tác cho Phạm Quỳnh mà bây giờ gọi là “ĐƠN TUYẾN” nghĩa là
chỉ tiếp xúc nhận chỉ thị của một người khi cần đến, trong khi chờ đợi cứ năm
vùng 10 năm, 20 năm hoàn thành xuất sắc tất cả các việc người Pháp trao để
không bị nghi ngờ bất chấp những đố kị kết án là phản quốc Việt gian. THỜI ĐIỂM
1945-46 PHẠM QUỲNH CÓ THỂ XUẤT HIỆN VỚI BỘ MẶT THẬT (thì) BỊ CẤP DƯỚI GIẾT CHẾT.
Khả năng bị thủ tiêu ở thời điểm này lại rất dễ xảy ra ngay cả với những người
được triệu ra Bắc làm bộ trưởng như Lê Văn Hiến nếu không nhờ có can thiệp kịp
thời.
Dĩ nhiên, đây hoàn toàn là một giả thuyết có thể phải đợi bao
giờ một cuốn sử về Nguyễn Ái Quốc trung thực được công bố có nói đến tiếp xúc
giữa ông và Phạm Quỳnh hồi ở Paris hoặc không bao giờ được kiểm chứng.
(…) Tình hình hiện nay có xu hướng tạm gác đánh giá Phạm Quỳnh
về chính trị và lưu tâm tìm hiểu về sự nghiệp văn học của ông. Trong
nước đã xuất bản những Truyện ngắn Nam Phong và chuẩn bị những trao đổi
về mặt văn học (…) Việc nghiên cứu này không dựa vào những chứng từ như hồi ký,
trả lời phỏng vấn… chỉ có giá trị tương đối nào đó, mà vào bút tích ghi trong hồ
sơ hành chính lưu trữ ở văn khố Pháp, Nhật hay của bộ nội vụ ở Việt Nam. Hy vọng
có thể phát hiện những sự kiện thuận lợi cho Phạm Quỳnh như xác
nhận giả thuyết ông Nguyễn Ái Quốc móc nối Phạm Quỳnh và bức thư kết bằng những
mẩu thuốc lá của những Đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở trong tù gửi cho ông
Phạm Quỳnh đề nghị can thiệp với Pháp thay án tử hình đối với nhóm Nguyễn Thái
Học được xác minh ông Phạm Quỳnh có can thiệp… (những đoạn in đậm là do
chúng tôi nhấn mạnh – PT)
Montreal, đầu tháng 8/1999
TRƯỞNG NỮ CỦA HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH
Dã Thảo
Bà Phạm Thị Giá, trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh, sinh
ngày 27/10/1913 (tức 28 tháng 9 năm Quý Sửu) tại nhà số 1 phố Hàng Trống Hà Nội,
sau anh trai là Phạm Giao, trưởng nam, sinh năm 1911. Nhưng, bà lại mất
ở Bạc Liêu, tại nhà con gái út, nơi bà sống tám năm cuối đời,
ngày 16/12/2000 (tức 21 tháng 11 năm Canh Thìn).
Đám tang bà giản dị, ngoài gia đình
cô con út sống ở Bạc Liêu, hai con trai từ Hà Nội, chỉ có
cháu đích tôn, bố mẹ cháu, bốn người cháu gọi bằng bác, một người bạn của gia
đình từ Thành phố Hồ Chí Minh về và bà con lối xóm, bạn bè vợ chồng
cô con út. Đó chính là làm theo lời bà dặn từ nhiều năm trước
khi mất mà tất cả các con đều nhớ rõ: “Suốt đời mẹ chỉ sống cho gia
đình, không làm nên việc gì ích nước lợi dân, cho nên mẹ muốn khi chết, không
loan báo trên báo đài gì hết, chỉ những bà con gần gũi biết là
được rồi.”
Không kèn, không trống, đám tang lặng lẽ đi trong mưa nhẹ
phương Nam…
Cuộc đời gần một thế kỷ của bà thật không ít thăng
trầm, trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới và hai cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm của dân tộc suốt hơn ba mươi năm ròng, và thời bao cấp khốn khó
sau chiến thắng thống nhất đất nước. Bà đã làm tròn trách nhiệm người
công dân Việt Nam yêu nước thương nòi như thân phụ bà và làm tròn nhiệm
vụ người vợ thảo, người mẹ hiền, một mình nuôi dạy bầy con thơ dại
nên người.
Là con gái trưởng, gia đình lại đông con, mới
15 tuổi đầu bà đã phải phụ mẹ lo việc gia đình, chăm sóc đến… tám em
nhỏ. Kể cả bế ẵm các em, cho các em ăn. Cho nên bà chỉ học tiểu học,
không được học lên.
Năm 18 tuổi thì lấy chồng, một chàng trai xứ Huế, có chí, có
tài, nhưng nghèo, con một quan huyện từ quan khi chưa đến tuổi bốn
mươi, vì không chịu làm theo lệnh quan Tây đi bắt Cộng sản, những người mà ông
khẳng định lương thiện, không thể bắt.
Vợ 18, chồng mới 24, lại gánh một gánh nặng bên nhà chồng
đông chị em…
Bà không bao giờ quên những ngày còn ở bên cha mẹ,
mà bà gọi là thầy, me. Bà gần gũi với cha, thức chép
các bài cha dịch miệng đến khuya, đun nước pha trà cho cha, bổ cam cha xơi
lấy sức mà làm việc. Chính ông đặt tên cho bà là Giá, cái giá, vì khi
mới sinh, bà trắng như cái giá. Thật là dân dã nôm na và biết bao yêu
thương. Khi bà sinh con gái đầu lòng, cũng là lúc ông vào
Huế làm quan, ông bảo khi nào cho cháu vào Huế là thăm được cả bên nội, bên ngoại.
Hai vợ chồng bà sống nhiều năm tại nhà số 5 phố Hàng Da, nơi gia đình
ông từng sống và có thời còn là trụ sở tạp chí Nam Phong nổi tiếng hồi
đầu thế kỷ XX. Các em Phạm Bích học Luật, Phạm Khuê học Y đều sống ở
nhà bà. Ngoài ra, còn có ông anh họ và em trai chồng bà cũng từ
Huế ra Hà Nội học. Vợ chồng bà cưu mang tất cả. Chồng bà là
Tôn Thất Bình, dạy học ở trường Gia Long, sau là một trong hai hiệu trưởng của
Trường trung học Thăng Long (Ngõ Trạm) nổi tiếng. Từ ngày có con đầu
lòng, ông còn nhận làm chủ bút cho tờ La Patrie Annamite (Tổ quốc An Nam).
Mỗi tháng lĩnh lương, ông lại bỏ tiền vào từng cái hộp gỗ nhỏ, ngoài có ghi tên
từng đứa con, để sau này lo cho việc học hành của các con. Gia đình bà Giá
sống êm ấm như vậy cho đến năm 1945, nhiều biến cố đã xảy ra, khiến bà từ
một phụ nữ chỉ biết lo cơm ngon canh ngọt, dạy dỗ các con đã phải đứng
ra chèo chống cả một gia đình, mà không phải chỉ là gia đình của riêng bà.
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, em trai Phạm Khuê về nghỉ hè ở
Huế vội ra báo cho chị biết cha đã bị bắt ngày 23/8. Bà cùng chồng và
vợ chồng người em gái là bà Phạm Thị Thức và bác sĩ Đặng Vũ Hỷ bàn
nhau phải xin gặp Cụ Hồ để kêu oan và giao cho em Khuê là người biết rõ sự việc
viết thư trình Cụ. Bà nhờ ông Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, bấy giờ là
Thứ trưởng Bộ Nội vụ và công tác ở văn phòng Chủ tịch xin được gặp. Ông Phan
Bôi là em ruột ông Phan Thanh, cùng làm việc ở Trường Thăng Long với chồng bà Giá.
Ông Nam sốt sắng nhận lời và sau đó, ngày 31/8/1945, hai chị em bà được
Cụ Hồ tiếp lúc 11 giờ, nhận thư, ngay sau khi Cụ duyệt lại lần cuối cùng Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ đọc ngày 2/9.
Sau này, bà vẫn nhớ mãi thái độ thân thiết ân cần của
người đứng đầu Nhà nước trong buổi tiếp và lời dặn của Cụ nói các chị cứ yên
tâm, tôi sẽ xem xét. Chính vì thế, bà lại càng không thể hiểu được vì
sao sau đó thân phụ lại bị hạ sát bí mật, hơn ba tháng sau mới công bố trên hai
tờ báo nhỏ của địa phương.
Bấy giờ, bà đang bụng mang dạ chửa
cô con út.
Sau quốc khánh đầu tiên của nước ta, báo chí loan “tin vui”
là từ nay chấm dứt các vụ bắt bớ, nhân dân yên tâm làm ăn dưới chế độ mới.
Nhưng lạ thay, vẫn có ngoại lệ. Tối 7/9/1945, có hai người xưng là học trò cũ,
đến nhà xin đưa thầy Tôn Thất Bình đi giữa lúc ông cùng gia đình đang ăn bữa tối.
Quá bất ngờ và đau khổ tột cùng, bà Giá đau bụng dữ dội và đã
sinh con gái út ngay 10 giờ đêm hôm sau, 8/9/1945.
Những tưởng “hai học trò mời thầy đi có việc” ít lâu sẽ về
nên bà Giá chưa vội cho làm khai sinh, chờ chồng về làm như những lần
trước. Nhưng chờ mãi không thấy, mới nhờ em rể là dược sĩ Phùng Ngọc Duy làm giấy
khai sinh cho cháu. Thành ra, trễ mất 10 ngày. Nay đã ở tuổi 65 mà chưa biết mặt
cha, giấy khai sinh của bà Tôn Nữ Thanh Nhàn vẫn ghi ngày sinh là 18/9/1945.
Đẻ con xong, bà hoàn toàn mất sữa và bị
liệt, mắt mờ, phải điều trị hơn nửa năm mới đi lại được và nhìn thấy đường. Bà lo
ngay việc kiếm sống cho gia đình nay đã mất nguồn sống do chồng mang về hằng
tháng, lại cưu mang thêm bao nhiêu người ngồi không. Vì từ sau ngày 23/8, được sự giúp
đỡ của ông Hoàng Hữu Nam, cả đại gia đình trong Huế đã ra sống ở nhà số 5 phố
Hàng Da này. Ông anh cả và bà vợ hai với ba con, các em trai
gái, cộng lại tất cả gần hai chục miệng ăn. Bà em đón mẹ và các em nhỏ
về sống cùng, còn lại, bà gánh hết… Đi lại được là bà Giá
lên bà em có chồng dược sĩ mở hiệu thuốc, cất thuốc, cho vào cái làn
mây trắng nhỏ, xách đi bán ở các nhà quen, vì hồi ấy thuốc khan hiếm, ai cũng cần.
Rồi lại nhờ ông Hoàng Hữu Nam, biết được chỗ và được cấp phép đi thăm nuôi chồng
“an trí” ở Hoài Đức Hà Đông, mang cho chồng sách học tiếng Anh Anglais
sans Peine (Tiếng Anh dễ học) để ông học cho qua thời giờ. Cậu em Phạm
Khuê, thương chị và hiểu cảnh nhà, ngày đi học, tối ra rạp Olympia ở trước chợ
Hàng Da, kéo đàn phong cầm trước khi chiếu phim, Phạm Tuyên, mới 15
tuổi, chưa làm được gì… Cứ thế, bà Giá dốc dần các hộp nhỏ đề tên
các con ra để chi tiền chợ hằng ngày. Cho đến năm 1946, tình hình
kinh tế gia đình đang lúc kiệt quệ nhất thì có lệnh tản cư, toàn quốc kháng chiến
bắt đầu.
Gia đình bạn bè bà đều về quê,
nhưng bà biết về quê nào… Quê chồng thì quá xa, quê cha thì đã mấy đời
định cư ở Hà Nội rồi, còn ai biết mình! Bàn với bà bạn thân là
Nguyễn Thị Nội, ở ngay trước cửa nhà, cùng phố. Thì bà này mời về quê
chồng, tức họa sĩ Nguyễn Cát Tường, cha đẻ của áo dài tân thời, cũng là thầy dạy
vẽ ở trường Thăng Long. Thế là bà Giá chân yếu tay mềm, ngày trước chỉ
nhất nhất theo lời chồng, đã dẫn đại gia đình gần 20 người cả lớn lẫn bé kéo
nhau về làng Tràng Cát Hà Đông. May nhà ông anh họ họa sĩ có cái nhà mới làm,
chuẩn bị cho con trai lấy vợ, ba gian, hai chái, tường gạch, mái rơm
sẵn sàng cho mượn. Cả non hai chục con người về đấy, cũng vào rừng vải
quét lá mà đun, ra sông nông trong vắt mò trai, hến, vẹm mà nấu, xào. Dần dà,
trẻ con người lớn đều bị ghẻ lở như dân làng, phải nấu lá xoan mà tắm.
Và đau mắt đỏ, phải nhỏ… nước muối. Mùa đông, nẻ, rán mỡ gà mà thoa mặt. Con út bà đành
sống bằng cháo loãng pha với đường đỏ. Con trai út, thì ăn một bát
xôi nhỏ mỗi sáng cùng cô bé chị họ đều ba tuổi. Còn tất cả, từ năm tuổi trở
lên, thì nhịn. Ngày chỉ ăn hai bữa cơm độn ngô, khoai với củ cải muối cả củ như
dân làng. Hôm nào mò được trai, sò, hến thì mới có chất đạm.
Được hơn nửa năm thì kiệt quệ quá, bà bàn với Phạm
Khuê, 21 tuổi, tìm về nhà bà em kế là bà Thức đang ở quê chồng
tận Nam Định. Móc nối được rồi, bà Thức cho người ra Hà Đông đón, cả
nhà đi thuyền về Nam Định. Đến ngã ba sông Tam Tòa, Nho Quan thì bị vướng một
thảm bèo dày hàng thước, người đi trên mặt bèo được, dài hàng cây số, do tắc ở
hàng cọc cắm xuống lòng sông để “chống tàu chiến giặc Pháp”. Phải bỏ thuyền nhỏ,
đi bộ trên bèo, lên thuyền lớn mới về đến nhà bà em.
Ở đấy được hơn một năm thì cô con thứ hai của bà ho
ra máu mấy lần, chỉ còn cách đưa về Hà Nội may ra mới cứu được. Bà đành
bỏ lại con gái lớn và hai em trai nhờ bà ngoại nuôi,
đưa con gái đau yếu và hai con nhỏ ra Hà Nội. Phải thuê người
gánh mới đi nổi đường xa. Thằng anh năm tuổi, một bên thúng; thúng
kia con em gầy yếu phải dằn thêm mấy hòn gạch mới gánh được.
Bà đi sau, đỡ con gái đau yếu. Vất vả lắm mới
theo kịp người đàn bà nhà quê gánh hai con nhỏ. Cuối
cùng cũng về đến Hà Nội tạm bị giặc Pháp chiếm. Gặp lại bà em có chồng
dược sĩ tạm lo cho nơi ăn chốn ở là bà nghĩ ngay đến việc đưa con gái
đi chữa bệnh. Chiếu điện, thì ra bị lao nặng, hai phổi đã nát gần hết. Hồi ấy, ở
Hà Nội cũng chưa có thuộc đặc trị, nghe nói còn đang thử nghiệm tận bên
Pháp. Bà em đành lo thuốc thang cho cháu với các thuốc tìm được,
“cầm cự được tới đâu hay tới đó”. Cô gái 14 tuổi phải kiêng khem, ăn riêng, ở
riêng một buồng nhỏ. Khổ nhất mà cũng buồn nhất là không được lại gần hai em ở
cùng nhà, lai khôn nguôi nhớ ba chị em ở xa. Một đêm lạnh, bà đang nằm
bên hai con nhỏ thì nghe có tiếng thét to, ghê rợn, hốt hoảng từ buồng con gái. Bà vội
chạy ngay đến mở cửa thì thấy cô gái mặt xanh nhợt, đang gục đầu bên thau rửa mặt
đầy máu. Bà đỡ ngực con, vuốt nhẹ lưng, lấy khăn lau mặt cho sạch
rồi hỏi nhẹ nhàng: “Nó ra thế này là tốt lắm, con có thấy nhẹ người
không…”. Cô gái nhắm mắt nằm yên trong lòng mẹ, thở nhẹ nhàng và thiu thiu ngủ.
Sau này, chính bà cũng không hiểu vì sao lúc ấy mình có thể bình
tĩnh, mà nói được câu ấy… Bà gọi thợ may về nhà, may đo cho cô một
cái áo dài lót bông màu đỏ sẫm, nổi bật khuôn mặt thanh tú, xinh đẹp của cô gái
15 tuổi đôi má bà thêm chút phấn hồng. Bà đưa cô đi xem kịch
ở nhà hát lớn, tối tối lại đọc truyện cho cô nghe. Các truyện trinh thám, mới đọc
được nửa chừng , cô đã đoán ra kết cục, không muốn nghe nữa. Những chuyện tình
cảm thì thường là buồn, kết thúc bi đát, bà không muốn cô thêm nặng
lòng vì những chuyện không đâu. Cuối cùng, chỉ đọc truyện cổ tích và chuyện cười.
Cứ như thế, hằng ngày bà đi mua đồ gỗ cũ về nhà sơn hoặc đánh véc ni
lại, cho sửa chữa chút ít rồi bán giá rẻ cho những gia đình mới hồi cư về Hà Nội,
cũng tạm đủ tiền ăn hằng ngày. Tiền thuốc men chữa bệnh tốn kém nhất thì đã
có bà em lo. Nhưng rồi cũng chỉ cầm cự được gần hai năm thì cô gái mất,
đám tang toàn hoa loa kèn trắng.
Ít lâu sau, ba đứa con nương nhờ bà ngoại
cũng về đoàn tụ với gia đình. Cô con cả phải đi làm
cho bà em ở hiệu thuốc, còn hai em trai, bà lo tìm ngay chỗ
học cho con. Lỡ năm học, đành vào học trường tư. Lại thêm một khoản
tiền phải chi trả. Bà bỏ nghề bán đồ gỗ cũ chuyển sang mở cửa hàng
may y phục phụ nữ và trẻ em. Được mấy năm thì nghe tin Hà Nội sắp giải phóng. Bạn
bè, bà con đến khuyên gia đình bà nên đi Nam “để tránh
cộng sản”, chí ít, cũng nghĩ đến tương lai các con trai mà cho chúng
đi. Bà vẫn quyết định cả nhà ở lại. Lý do thật đơn giản mà vững chắc: Bà chờ
chồng về… Mấy ngày trước khi Hà Nội giải phóng, đọc các tờ rơi kêu gọi đồng bào
chuẩn bị đón quân ta vào giải phóng thủ đô, bà cho may thật nhiều cờ
đò sao vàng, bày bán ở tầng dưới quầy. Có tối, lính Tây mũ đỏ say sỉn sau
khi nốc rượu ở quán gần nhà, vào cửa hàng, thấy có cờ đỏ sao vàng bày bán,
chúng hỏi. Thì bà thản nhiên đáp bằng tiếng Pháp: “Cờ của nước chúng
tôi đó…” Chúng nghe, rồi xua tay, bỏ đi, không gây gổ gì. Cà nhà và hàng
xóm nữa, ai cũng sợ. Còn chính bà Giá, sau này nói với mọi người là
không hiểu sao lúc ấy mình không sợ mà lại dám nói như thế.Rồi Hà Nội giải phóng, cả nhà bà vui mừng cùng đồng bào
thành phố đón quân ta về, mong ngày đoàn tụ với người thân mười năm xa cách. Tối
nào bà cũng đi họp phụ nữ, con cái thì đi họp thanh niên,
thiếu nhi mong hiểu thêm về chế độ mới. Rồi cháu đích tôn của học giả Phạm Quỳnh
là Phạm Vinh về, là bộ đội văn công. Và em trai Phạm Khuê cũng về thăm, là đại
úy quân y. Cuối cùng là Phạm Tuyên, từ Khu học xá trung ương tận bên Trung Quốc
cũng về. Theo nếp cũ gia đình, hễ họp nhau là cùng hát. Nhưng là những bài
hát mới do những người mới về dạy cho. Có cả bài Liên Xô, Trung Quốc lời
Việt.
Vui thì cũng vui nhưng chưa trọn vẹn. Chồng bà vẫn
chưa về, mà cũng chẳng có tin tức gì. Bấy giờ, bà mới nghĩ là sao lại
không viết thư hỏi người đồng nghiệp dạy cùng trường Thăng Long với chồng ngày
xưa, nay đã là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bà bảo con viết
thư gửi đại tướng hỏi xem nay chồng bà ở đâu, xin cho biết tin. Thì
ít lâu sau, nhận được thư trả lời của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Nhân Dân Việt
Nam: Một bản in sẵn, chỉ điền tên người vào. Đại ý: Xin gia đình vui lòng cho
biết đồng chí Tôn Thất Bình, nhập ngũ ngày nào, tại đâu và trực thuộc đơn
vị nào… Thế là tiêu tan hy vọng! Rồi sau đó, có việc truy quét thổ phỉ Bắc
Hà, bà lại nhờ người quen ở Mặt trận Tổ Quốc dò hỏi hộ trong số người
bị chúng bắt và sử dụng có chồng mình không. Nhưng tất cả đều vô vọng.
Cô con lớn , làm cho bà em cùng theo vào
Nam giúp việc dì nơi đất mới, chỉ với hy vọng hai năm sẽ lại về với mẹ nhân hiệp
thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo Hiệp định Genève.
Nay thì đã vắng tin chồng, lại bặt tin con. Tuy vậy, bà vẫn
hòa nhập vào cuộc sống mới đầy khó khăn vất vả. Có cái máy
khâu, bà góp vào hợp tác xã may gia công, hằng ngày đi bộ hai buổi đến
nơi làm việc. Tối lại họp phụ nữ, làm đại biểu phụ nữ khu phố. Chủ nhật thì làm
vệ sinh viên, lo tiêm chủng, săn sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, còn tham
gia lao động chân tay, dùng chảo nhà mang đi múc bùn hôi thối góp phần xây dựng
công viên Thống Nhất, đi quét rác làm đẹp thành phố.
Rồi giặc Mỹ leo thang chiến tranh, bà theo hợp tác
xã lên Hà Bắc sơ tán, tiếp tục sản xuất, cứ mỗi tháng đều cố về Hà Nội một lần
“cho đỡ nhớ” và thăm con trai thuộc ngành giao thông vận tải, vẫn làm
việc tại Hà Nội. Có lần bà đem cả một con gà mình nuôi, rán
lên, làm món trộn thật ngon lành cho con trai sống một mình, ăn cơm tập
thể. Nhưng anh con dăm hôm sau mới về nhà, thấy mấy hàng chữ phấn trắng
mẹ viết trên mặt bàn lúc hai giờ sáng là “đã đến giờ phải ra tàu lên Hà Bắc,
không đợi con được, chúc con ăn ngon miệng
món con vẫn thèm”. Bên cạnh đó là một dĩa rau trộn héo úa và đĩa gà
rán meo đã lên bông trắng.
Thời gian hợp tác xã may sơ tán lên Hà Bắc, bà Giá
vẫn làm thêm nhiệm vụ vệ sinh viên như khi công tác phụ nữ đường phố. Bà phát
thuốc, tiêm chích thuốc thông thường chữa cảm, cúm, mỏi mệt hoặc sơ cứu các vết
thương… Một lần Mỹ bắn phá khu vực hợp tác xã, có xã viên và cả dân làng bị
thương, bà đều đem túi thuốc đến cấp cứu kịp thời. Từ băng bó đến
ga rô cho máu ngừng chảy, kịp thời sơ cứu để đưa lên tuyến trên an toàn. Mặc
bom rơi, đạn bắn, bà vẫn làm nhiệm vụ đúng với lương tâm người làm
nghề thuốc, dù chỉ là một vệ sinh viên bình thường, không hưởng lương. Có người
hỏi vì sao bà bình tĩnh được trong những hoàn cảnh như vậy, bà bảo
lúc đó tôi chỉ biết có người bị thương, bị đau, không thấy gì khác. Rồi bà kể
chuyện năm xưa khi con gái thổ huyết giữa đêm lạnh. Ai cũng cảm mến bà.
Và phục nữa. Dù bà không bao giờ đạt năng xuất cao hơn người.
Đến cuối năm 1972, Mỹ ném bom B52 rải thảm Hà Nội thì gia
đình bà lại đoàn tụ ở thủ đô. Các con xin bà thôi
việc ở hợp tác xã, về nhà lo mấy bữa ăn cho các con. Bà xin về.
Khi thanh toán thì hóa ra những lần về Hà Nội, bà đều có vay một ít
tiền, nay tính lại số tiền ấy gần bằng tiền hóa giá cái máy khâu. May mà còn đủ
tiền cho bà mua vé tàu về nhà. Bà rất mừng là không phải
vay mượn vào ngày chia tay Hợp tác xã.
Hằng ngày, các con đi làm sau khi ăn bữa sáng tuy đạm
bạc nhưng nóng hổi, ngon lành do bà chuẩn bị từ sớm. Sau
đó, bà đi mua thực phẩm ở các điểm bán hàng dã chiến, người bán hàng
ngồi ngay trên miệng một hố cá nhân tránh bom. Một tối, bà khoe với
các con là đã tìm được một điểm mua không phải xếp hàng, chỉ phải gọi
một tiếng là có người bán hàng ngay. Các con hỏi và kinh hãi
khi bà cho biết bà “mua thực phẩm ở ngay đầu cầu Long Biên.
Ngay trên tầng cao của cầu đã có bộ đội phòng không sẵn sàng tay súng thường trực,
không phải lo máy bay”.
Rồi Hiệp định Pari, hòa bình lập lại trên cả nước. Đám cưới con trai
út của bà đón dâu bằng ba chiếc xe đạp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đi một xe
đèo một bà bạn bà. Con trai thứ
đèo bà. Con trai út đón cô dâu. Bữa ăn đón dâu do bà và bà bạn
nọ cùng vợ chồng con gái út chuẩn bị.
Sau ngày đất nước thống nhất, con trai cả và út đều
đã có gia đình, con cái ở Hà Nội. Con trai thứ chưa vợ ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Con gái về quê chồng Bạc Liêu cùng
các con. Bà lần lượt sống với bốn con, bao giờ cũng cố gắng
có mặt lúc các con cần mình nhất như khi sinh con hoặc cưới.
Những năm cuối đời, bà sống ở Bạc Liêu
cùng con gái út, lại lo cho con cháu đến hết đời. Bà bảo:
“Không gì vui bằng khi trông thấy đứa cháu nhỏ mỉm cười sau cơn sốt hầm hập kéo
dài”. “ Mẹ không cần Tết, đối với mẹ khi nào các con sum họp thì đó
là ngày Tết của mẹ rồi”
Bà có cái thú là viết thư cho chị em và các con.
“Viết thư mẹ thấy như được gặp mặt và trò chuyện với những người thân yêu vậy.”
Chính nhờ những lá thư đó và tấm lòng kính yêu vô hạn của bà với thân
phụ mà nhà báo Phạm Tôn mới có tài liệu sinh động, cụ thể, tỉ mỉ để viết nên những
trang gây xúc động lòng người đăng trên các báo Xưa và Nay (Người nặng
lòng với nước), Công giáo và Dân tộc (Phạm Quỳnh, người nặng lòng với
nước), Nghiên cứu và Phát triển (Người nặng lòng với nhà) và nhà báo
Nguyễn Trung có bài trên Công giáo và Dân tộc (Phạm Quỳnh,
người nặng lòng với tiếng ta). Thư bà viết bao giờ cũng đem lại
niềm vui sâu đậm cho người nhận.
Bà còn có tài kể chuyện sinh động đến mức có chuyện thế
này: Các bạn xã viên cùng bà đi dự một đám cưới con bạn
cùng phân xưởng. Hôm sau đi làm là nài nỉ bà kể lại cho họ nghe chuyện
đám cưới mà chính họ cùng dự với bà hôm trước. Để rồi cười trước cả
khi bà sắp kể đến những đoạn vui trong đám cưới đó. Thành ra, thật
không phải nói quá là bà có gien văn nghệ cha truyền. Vì lo cho cha,
chồng, con, cháu mà bà hy sinh hai tài năng của mình là viết văn
và diễn kịch. Chỉ còn là những tài lẻ, sở thích đem lại niềm vui cho mọi người
thân. Cả trong và ngoài gia đình bà.
Chẳng thế mà nữ sĩ Tương Phố (14/7/1900-8/11/1973) tác giả Giọt
lệ thu nổi tiếng một thời lại gắn bó thân thiết với bà. Xuân Quý Tị
1953, nữ sĩ đã viết tặng bà bài Âm thầm lòng em trên giấy mỏng,
đóng thành một quyển sách nhỏ. Bài thơ gồm hai câu mở đầu và mười khổ, mỗi
khổ bốn câu, chữ cuối câu cuối khổ này lại là chữ mở đầu của câu đầu khổ sau, cứ
thế cho đến hết. Trong bài, có những câu:
Con dại một bầy ăn học dở
Mình em kiêm mẹ lại kiêm cha…
Năm trôi lận đận chỉ vì con!
Con lớn, con khôn, mẹ héo hon.
Mai mốt sân hòe dù nảy quế,
Trăm năm nghĩa cả có vuông tròn?.
(…)Trang đầu và khổ thứ 10 của bài thơKỷ niệm 10 năm ngày mất bà Phạm Thị Giá
(16/12/2000-2010)TÌNH BẠN PHẠM QUỲNH - NGUYỄN VĂN VĨNH
Dã Thảo
Nguyễn Văn Vĩnh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo,
quê quán làng Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay là huyện Phú Xuyên,
Hà Nội. Bố mẹ nghèo, phải bỏ làng ra Hà Nội kiếm sống và sinh ông ở 46 phố Hàng
Giấy, ngày 15/6/1882. Nguyễn Văn Vĩnh hơn Phạm Quỳnh 11 tuổi.
Lên tám, phải đi làm thằng nhỏ kéo quạt ở Trường Thông ngôn của
Pháp vừa mở ở đình Yên Phụ. Ngồi cuối lớp kéo quạt, nhưng ông vẫn chăm chú nghe
giảng, do đó nói và viết được tiếng Pháp. Hiệu trưởng Đác-giăng-xơ (D’Argence)
chú ý và sau ba năm học, cho phép cùng thi tốt nghiệp. Ông đỗ thứ 12 khi mới 11
tuổi, nên được đặc cách nhận vào làm học sinh chính thức, được học bổng để theo
học khóa tiếp theo (1893-1895) và đã đỗ thủ khoa khóa học này. 14 tuổi, làm
thông ngôn tòa sứ Lào Cai, rồi chuyển về tòa sứ Hải Phòng, Bắc Giang, ông bắt đầu
cộng tác với các báo tiếng Pháp. Công sứ Bắc Giang đánh giá tài mẫn tiệp và nói
tiếng háp của Nguyễn Văn Vĩnh đã đặc cách bổ nhiệm làm chánh văn phòng. Khi được
cử làm Đốc lý Hà Nội cũng đưa ông về theo.
Ông giúp vận động người Việt làm đơn xin mở trường và các hội
nên đã trở thành người sáng lập Hội Trí Tri, Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hội Dịch
sách, Hội giúp đỡ người Việt du học Pháp. Năm 1906 được sang Pháp giúp tổ chức
và quản lý gian hàng Bắc Kỳ tại Hội chợ Thuộc địa mở ở Marseille. Học hỏi được
nhiều về nghề báo và nghề in, nên khi về nước, ông từ chức ở phủ thống sứ và đứng
ra làm báo và nghề in… Năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh từ Sài Gòn trở về Hà Nội làm
chủ bút tờ Đông Dương tạp chí, sang năm sau, kiêm cả tờ Trung Bắc tân
văn, hai tờ này đều của Snây-đe (Schneider) người Pháp.
Sau Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa Trường Thông ngôn năm 1895,
Phạm Quỳnh cũng học tại trường này và cũng đỗ thủ khoa năm 1908, khi trường
Thông ngôn kết hợp trường Thành chung Nam Định thành trường Trung học Bảo hộ (tức
trường Bưởi). Nguyễn Văn Vĩnh đi làm công chức khi 14 tuổi, thì Phạm Quỳnh đi
làm công chức năm 15 tuổi ở trường Viễn Đông Bác Cổ. Chính trong thời gian làm
việc tại đây, được học tập nghiên cứu nhiều, Phạm Quỳnh đã viết bài
cho Đông Dương tạp chí và dần dà trở thành cây bút được bạn đọc tin cậy
và cũng là cộng tác viên thường xuyên của báo.
Họ thân nhau từ đấy.
Lý do sâu xa hơn của tình thân ấy chính là cả hai đều học chữ
Pháp, làm việc dưới quyền người Pháp, nhưng đều yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ và cố
dốc hết tâm sức để vun trồng chăm sóc cho quốc ngữ ngày một lớn mạnh, phong
phú, đủ để giữ được hồn nước. Ngay từ năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết: “Nước
Nam ta mai sau này hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ” (Lời tựa bản dịch Tam
Quốc Chí của Phan Kế Bính), cũng tha thiết tin tưởng như sau này Phạm Quỳnh
nói “Tiếng ta còn, nước ta còn” trong lễ Kỷ niệm Nguyễn Du đầu tiên ở
nước ta năm 1924.
Năm 1922, hai ông cùng đi dự Đấu xảo Thuộc địa Marseille và
tranh thủ đi Paris. Nguyễn Văn Vĩnh đã đi Pháp năm 1906, có kinh nghiệm hơn, lại
tháo vát, có khiếu về kinh doanh, đã mua xe hơi, đưa Phạm Quỳnh đi tất cả những
nơi mà Phạm Quỳnh muốn đến “xem tận mắt, nghe tận tai”. Trong Pháp Du Hành
Trình Nhật Ký, ngày 23/7/1922, Phạm Quỳnh viết: “Sẵn có ô tô của ông V.,
hai anh em định suốt tuần lễ này đi xem cho thật nhiều không những trong châu
thành Paris, mà đi cả các nơi phụ cận ở ngoài nữa”. Chính nhờ có ông V. tự
lái xe của mình cho Phạm Quỳnh đi cùng mà hậu thế chúng ta được biết thêm bao
nhiêu cảnh và người nước Pháp hồi ấy, chứ Phạm Quỳnh thì chỉ có đi bộ và đi các
phương tiện giao thông công cộng, làm sao mà tung hoành theo ý mình được.Chính vì tình bạn vong niên đó mà năm 1926 khi Thống sứ
Bắc Kỳ Rơ-nê Rô-banh (René Robin) có “nhã ý” trợ cấp cho Phạm Quỳnh và tạp
chí Nam Phong thì ông đã nhân cơ hội này xin trợ cấp cho Nguyễn Văn
Vĩnh mà trong thư gửi cho Robin ông trình bày là Nguyễn Văn Vĩnh đã làm rất
nhiều việc cho xã hội và còn gặp khó khăn lớn hơn ông.
Cùng yêu tiếng ta, một lòng với tiếng ta, mục đích chỉ là nhằm
giữ hồn nước, khơi dậy lòng yêu nước thương nòi trong nhân dân ta. Nhưng khi gặp
được cơ hội trực tiếp đấu tranh chính trị để đem lại lợi ích cho nhân dân, nâng
cao vị thế của người dân thì hai ông cũng không bỏ qua, mà luôn luôn tận dụng.
Năm 1908, Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, Nguyễn Văn Vĩnh
cùng bốn người Pháp ký tên yêu cầu chính quyền Đông Dương thả Phan Châu Trinh
đang có mặt ở đấy. Vì việc này, ông đã bị Toàn quyền Pháp gọi lên đe dọa. Sau,
nhờ có sự can thiệp của Hội Nhân quyền, Phan Châu Trinh được trả tự
do trước hạn và đưa về quản thúc ở Mỹ Tho (1911).
Năm 1925, Phan Bội Châu bị đưa ra xét xử tại Tòa Đề hình Hà Nội,
bị kết sáu án chung thân và hai án tử hình. Nhà báo Phạm Quỳnh đã viết bằng tiếng
Pháp trên báo Indochine Républicaine (Đông Dương cộng hòa) có
thế lực cả ở Đông Dương lẫn chính quốc, lên tiếng bênh vực Phan Bội Châu là
“người chỉ có một tội là tội yêu nước như bao anh hùng liệt sĩ Pháp chống giặc
ngoại xâm” và yêu cầu khoan hồng. Kết quả là, cùng với phong trào đấu tranh của
nhân dân sôi nổi cả nước, Phạm Quỳnh đã góp phần giảm án cho Phan Bội Châu từ tử
hình xuống chỉ còn quản thúc ở Huế, để Phan Bội Châu thành “ông Già Bến Ngự” nổi
tiếng cả nước.
Năm 1930, trên diễn đàn của Hội đồng Kinh tế và Tài
chính Đông Dương, nhà báo Phạm Quỳnh đã lớn tiếng bênh vực công nghiệp còn non
trẻ, yếu ớt của nước nhà, chống lại và làm thất bại chính sách độc quyền kinh
doanh của thực dân Pháp, điển hình là đã làm phá sản chính sách độc uyền về sản
xuất và bán rượu gạo ở Việt Nam của công ty Fontaine. Cũng trên diễn đàn ấy,
năm 1932, Nguyễn Văn Vĩnh đã thay mặt giới doanh nghiệp phản đối việc chuyển đồng
tiền Đông Dương từ ngân bản vị sang kim bản vị vì có lợi cho ngân hàng Pháp và
có hại cho Đông Dương.
Tuy cùng một mục đích nhưng không phải khi nào hai ông cũng
nhất trí với nhau về con đường và cách thức đi tới mục đích đó. Cho
nên mới có cuộc tranh luận trực trị hay lập hiến sôi nổi một thời mà
hai ông đứng ở hai phía đối lập . Tuy thế cả hai đều hòa nhã, chừng mực, lấy việc
tìm ra con đường tốt nhất cho dân cho nước làm trọng, bình tĩnh thảo
luận tìm ra chân lý. Hai ông bao giờ cũng “hòa nhi bất đồng” (tức: hòa với mọi
người, nhưng không về hùa với ai) theo đúng kiểu người quân tử. Đó là một cuộc
tranh luận có văn hóa.
Nhưng, rốt cuộc, tất cả những việc các ông tham gia hoạt động
chính trị chỉ càng chứng tỏ là cả hai ông chỉ là những nhà văn hóa, nhà
văn hóa lớn như nhà văn Nguyên Ngọc có lần gọi là “những người khổng lồ”, nhưng
không thể là những nhà chính trị. Sự nghiệp các ông để lại vẫn chỉ là
về văn hóa, văn học mà thôi.
Năm 1932 khi Nguyễn Văn Vĩnh đang họp Hội đồng Kinh tế và Tài
chính Đông Dương ở Sài Gòn thì có trát tòa án đòi tịch biên gia sản vì ông thiếu
nợ do vay tiền dựng tòa soạn báo An Nam Nouveau (Nước An Nam mới). Vỡ
nợ, ông phải đi sang Lào đào vàng và chết trong một cơn sốt rét ác tính,
trên con thuyền độc mộc ở sông Sêbăngghi, gia sản chỉ còn
hai bàn tay trắng (ngày 1/5/1936).
Lễ tang ông được tổ chức ở Hà Nội với đông đảo giới báo chí
ba kỳ dưới dòng chữ kính viếng “ông tổ của nghề báo”.
Bấy giờ, Phạm Quỳnh đang ở Huế, là Tổng lý Đại thần Ngự tiền
Văn phòng và Thượng thư Bộ Quốc dân Giáo dục. Vậy mà ông lại làm một bài thơ Khóc Nguyễn Văn Vĩnh,
sau này có người tìm thấy khi được giao nhiệm vụ tịch thu gia sản Phạm Quỳnh
khi ông bị bắt tháng 8/1945. Bài thơ có bốn câu cuối rất lạ:
Sống lại như tôi là sống nhục
Chết đi như Bác, chết là vinh
Suối vàng Bác có dư dòng lệ,
Khóc hộ cho tôi nỗi bất bình.
Người đương thời cũng thường gắn tên hai ông với nhau như
trong việc kể tên bốn tác giả kiệt xuất thời đầu thế kỷ XX là “Quỳnh (Phạm
Quỳnh), Vĩnh (Nguyễn Văn Vĩnh), Tố (Nguyễn Văn Tố), Tốn (Phạm
Duy Tốn.
Hai ông đều là “nhưng người dân thuộc địa, qua ứng xử với nền
văn hóa đô hộ, đã tiếp biến văn hóa phương Tây để tạo ra những giá trị mới (lắm
khi chống lại và nằm ngoài toan tính của kẻ xâm lược)”
(trích bài của Hữu Ngọc, Việt Nam và “sốc văn hóa”, báo Nhân dân
cuối tuần, 27/6/1999 trang 5.)
Thành ra cảm thấy… hụt hẫng khi đọc bài Nhớ “người
Nam mới” đầu tiên của Thu Hà đăng trên Tuổi Trẻ chủ nhật
12/9/2010 đoạn văn sau:
“Có quá nhiều điều chúng ta hôm nay chưa biết về
Nguyễn Văn Vĩnh và những người ông chịu ảnh hưởng hay chia sẻ
tâm huyết (Chúng tôi nhấn mạnh-D.T.) như Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn Tố,
các đồng chí trong Đông Kinh Nghĩa Thục…”
Hụt hẫng vì không thấy nhắc đến tên người bạn thân thiết
nhất, người đồng chí đồng tâm nhất với Nguyễn Văn Vĩnh là Phạm Quỳnh.
Vì sao đến cuối năm 2010 rồi mà vẫn cứ phải né tránh một
tên tuổi cả nước đã biết từ gần 100 năm nay…
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18/11/2010.
D.T.
TÌM HIỂU PHẠM QUỲNH
VỀ VIỆC PHẠM QUỲNH TRAO TẠP CHÍ NAM PHONG CHO CON RỂ
Dã Thảo
Đọc sách báo xưa, nay về Tạp chí Nam Phong và Phạm
Quỳnh ta thường gặp câu văn ngắn gọn: “Năm 1932, Phạm Quỳnh vào triều đình Huế
và trao Tạp chí Nam Phong cho con rể là Nguyễn Tiến
Lãng.” Có người như Nguyễn Khắc Xuyên còn đi xa hơn khi viết: “Người ta lấy làm
lạ rằng Nam Phong đẵ bắt đầu bằng việc hô hào dùng chữ quốc ngữ và quốc
học làm nền tảng, với cây bút có một không hai là Phạm Quỳnh, song Nam
Phong đã kết thúc bằng người kế chân như chỉ quen viết Pháp ngữ: ông Nguyễn
Tiến Lãng.” (…). “Nam Phong nay đã thuộc về lịch sử, lịch
sử vẻ vang, nhưng không khỏi nhuốm màu bi đát của chủ bút tiên khởi của nó”.
(Trang 24 cuốn Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong, xuất bản năm 1968 tại
Sài Gòn).
Nhưng, sự thật không đơn giản như vậy.
Trước hết là Nguyễn Tiến Lãng làm chủ bút cuối cùng của Tạp
chí Nam Phong từ năm 1932, năm ấy ông chưa kết hôn với con gái
Phạm Quỳnh là Phạm Thị Ngoạn, việc chỉ diễn ra tám năm sau đó, năm 1940. Mặt
khác, Nguyễn Tiến Lãng đã từng cộng tác với Nguyễn Văn Vĩnh trong tủ sách Âu
Tây tư tưởng và Tản Đà trong An Nam tạp chí từ năm 1926 đến
1932. Ông cũng thường được các báo, nhất là các báo ở miền Nam, đặt bài
cho những số Tết, viết truyện hay các bài phê bình văn học. Chính ông đã dịch
ra tiếng ta cuốn sách Eurydic ông viết bằng Pháp văn, do nhà xuất bản
Đông Tây phát hành tại Hà Nội năm 1932. Và trong An Nam tạp chí số
39, phát hành ngày 30/4/1932 có bài của Vân Bằng Tôi thất vọng vì
Phan Khôi, chê trách ông này là con người lập dị, đã “thất lễ” với
Nguyễn Tiến Lãng, chứng tỏ Nguyễn Tiếng Lãng cũng là một “bỉnh bút ăn khách”,
có một số độc giả trung thành. Có điều đúng là những sáng tác bằng Pháp văn của
ông đã làm lu mờ các sáng tác bằng Việt văn. Ông từng đoạt giải nhất cuộc thi
do tạp chí Indochine tổ chức tại Sài Gòn năm 1931 với cuốn truyện ngắn Eurydic.Vậy sự việc thật sự đã
diễn ra như thế nào mà Nguyễn Tiến Lãng lại nhận Tạp chí Nam Phong?
Chính Nguyễn Tiến Lãng từng kể: “Đầu năm 1934, nhân một buổi
tiếp tân tại hội quán Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, có ba người không hẹn trước
mà gặp nhau (…) Lê Văn Phúc (quản lý báo Nam Phong – PT chú), Louis
Marty và tôi. Chúng tôi đã đề cập đến số phận của Nam Phong với số
người hâm mộ ngày càng giảm đi, kể từ khi Cụ Phạm Quỳnh vào Huế lãnh chức vụ
Thượng thư và do đó, không có thì giờ chăm lo tạp chí. Cuộc đàm thoại kết thúc,
có thể tóm tắt như sau: Nếu Nguyễn Tiến Lãng cho rằng Nam Phong cần
phải làm cho tuổi trẻ lại, thì tại sao chính mình không đích thân gánh vác việc
ấy?”. Ý kiến được đưa ra như một thách thức. (…) Tôi liền đi Huế gặp Phạm Quỳnh
và được cụ chấp nhận tôi. Mãi sau này, tôi mới hay là cụ có chấp nhận nhưng
không sốt sắng! Trong bức thư đề ngày 20/6/1934 mà tôi chỉ được biết vào năm
1958, có những dòng sau đây về vấn đề này: “Nguyễn Tiến Lãng có mặt ở đây, có
thảo luận với tôi về những dự định liên quan đến Nam Phong. Không ai phủ
nhận đây là một thanh niên thông minh có thực tài về văn chương (…) Tôi không
thấy gì trở ngại nếu tạp chí được trao cho đương sự điều khiển. May
ra Nguyễn Tiến Lãng có thể khiến tạp chí thêm hấp dẫn và khỏi sút kém (…) Tôi
rất đau lòng nếu Nam Phong mà tôi trìu mến bị sút kém đi (…) Thôi
thì cứ thử với Lãng xem sao, rồi sau này ta sẽ liệu. Tôi đã ủy toàn quyền
cho ông Lê Văn Phúc; hai người sẽ cùng nhau hỏa thuận để tổ chức ban biên
tập mới cho thích đáng…”.Chúng ta cũng biết rằng, chính Phạm
Quỳnh đã nói một câu rất rõ ràng khi trả lời nhà báo Nguyễn Vạn An đến phỏng vấn
ông sau khi Nhật đảo chính Pháp tháng 4/1945, ông về ở ẩn tại biệt thự Hoa Đường:
“Suốt đời tôi, tôi đã phụng sự văn học, thì ngày nay không vì lẽ
gì tôi không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời gian bỏ dở”.
(bài Tôi đã gặp Phạm Quỳnh ở biệt thự Hoa Đường, báo Tin Điễn,
ngày 23/3/1952). Chính Phạm Quỳnh cũng vẫn mong có ngày trở lại với Nam
Phong tờ báo yêu quí của ông.
Nguyễn Tiến Lãng thì tự nhận đã “lỗi lầm” khi nắm Tạp
chí Nam Phong là “đã “chờ thời”, dành cho ông Lê Văn Phúc nhiệm vụ liên lạc
với “nhóm người cũ” (tức là các nhà bỉnh bút cựu học – PT chú), còn tôi chỉ giữ
lại một số trang mà tôi có toàn quyền quyết định. (…) Thực ra, trước các vị đó
quá nhiều uy tín, tôi luôn luôn đầy mặc cảm (…) Tôi thay đổi định kỳ của tạp
chí, từ nay trở nên bán nguyệt san. Nhằm thỏa mãn thị hiếu độc giả và theo dõi
thời sự, tôi cho in thêm nhiều tranh ảnh. Nhưng, thời thế thay đổi quá
nhanh, khiến các cải cách trên đây không đủ cung ứng cho các nhu cầu mới. Vả
chăng, tôi vẫn còn là công chức, nên không đủ sức kiêm nhiệm. Sau cùng, sức khỏe
của tôi không cho phép tiếp tục.”
Nam Phong sống lay lắt đến cuối năm 1934 thì chính thức
đình bản.
TpHCM, ngày 11/7/2010.
D.T.
* Trong bài sử dụng chủ yếu tư liệu trong cuốn Tìm
hiểu tạp chí Nam Phong, bản dịch của Phạm Trọng Nhân dịch từ nguyên tác tiếng Pháp
của bà Phạm Thị Ngoạn Introduction au Nam Phong (NXB Ý Việt,
Yerres, 1993).
NGAY TRƯỚC NGÀY QUỐC KHÁNH ĐẦU TIÊN,
HỒ CHỦ TỊCH ĐÃ TIẾP HAI CON GÁI HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH
Dã Thảo
Trong những ngày Cách Mạng Tháng Tám đang diễn ra sôi nổi
khắp nước ta, mặc dù bận trăm công nghìn việc “quốc gia đại sự”, vậy mà
ngay trước ngày Quốc khánh đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chủ
tịch vẫn dành thời gian vốn rất ít ỏi để tiếp
hai bà con gái lớn của Phạm Quỳnh xin gặp Người sau khi biết tin
cha bị bắt tại Huế. Trong tư liệu VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ
CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI – PHẠM QUỲNH (viết ngày 8/12/2008, tại Hà Nội) mà
nhà văn Sơn Tùng đã có nhã ý ký thác cho nhạc sĩ Phạm Tuyên, có viết:
“Ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đến làm việc tại Bắc Bộ phủ, 12
phố Ngô Quyền. Một phái đoàn Trung ương – ông Nguyễn Lương Bằng, ông Trần Huy
Liệu, ông Cù Huy Cận đã vào Huế dự lễ vua Bảo Đại thoái vị. Hôm phái đoàn lên
đường rồi, Hồ Chủ tịch mới về Hà Nội, như chợt nhớ, Người nói với ông Võ Nguyên
Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng – Tổng chỉ huy quân đội – Bộ trưởng Bộ
Nội vụ; ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) – Thứ trưởng Bộ Nội vụ; ông Lê Giản- Tổng
giám đốc Nha Công an Việt Nam, Vũ Đình Huỳnh: “Chú Bằng (Nguyễn Lương Bằng),
chú Liệu (Trần Huy Liệu), chú Cận (Cù Huy Cận) vô Huế rồi mình mới về thì đã trễ,
giờ chú Nam (Hoàng Hữu Nam) hoặc xem có ai thay được chú Nam vô Huế gặp Cụ
Phạm Quỳnh, trao thư tôi mời Cụ…” (Chúng tôi nhấn mạnh – DT).
Hai hôm sau, ông Hoàng Hữu Nam đến báo cáo với Hồ Chủ tịch: “Ông
Phạm Quỳnh đã bị bắt (Chúng tôi nhấn mạnh – DT), hai người con gái
của ông ở Hà Nội, gặp tôi thổ lộ việc này”. Hồ Chủ tịch để điếu thuốc đang hút
dở xuống gạt tàn, nói lửng: “Bất tất nhiên”!* (Chúng tôi nhấn mạnh – DT).
Người hỏi ông Hoàng Hữu Nam: - Hai chị ấy tên là gì?
Ông Hoàng Hữu Nam trình bày:
- Dạ… Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức, thưa Bác.
- Chú mời hai chị em cô ấy gặp tôi, chú Tư (Vũ Đình Huỳnh) sẽ
sắp xếp ngày giờ gặp…
Ông Hoàng Hữu Nam tươi cười kể lại với Bác là chị Giá, chị Thức bày
tỏ xin được gặp Cụ Hồ, nhưng chưa dám hứa chắc vào lúc nào…
Sau buổi làm việc này, ông Vũ Đình Huỳnh trao đổi với ông
Hoàng Hữu Nam, Hồ Chủ tịch sẽ tiếp “thân nhân Cụ Phạm” vào cuối buổi sáng ngày
31/8/1945 tại phòng khách Bắc Bộ phủ.
Ngày 31/8/1945, buổi sáng Hồ Chủ tịch rà xét lần cuối bản thảo Tuyên
ngôn Độc lập.
Ông Nguyễn Hữu Đang, Trưởng ban tổ chức ngày lễ Tuyên ngôn Độc
lập 2/9/1945 và bốn người nữa đến báo cáo với Hồ Chủ tịch về công việc chuẩn bị
cho ngày lễ…Đến 10 giờ 30 phút, ông Hoàng Hữu Nam báo với ông Vũ
Đình Huỳnh: “Đã mời thân nhân Cụ Phạm đến, đang ở phòng khách…”. Cụ Vũ Đình Huỳnh
khi kể lại với tôi sự việc này, cụ nói trầm trầm như tâm sự:
“Tôi nghe danh ông Phạm Quỳnh từ một bỉnh bút, chủ nhiệm, chủ bút báo Nam
Phong và Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức. Có đôi lần nhìn thấy ông khăn
xếp áo the, kính trắng đi từ trụ sở Nam Phong phố Hàng Da, qua Hàng
Bông đến trụ sở Khai Trí Tiến Đức, phố Hàng Trống, bên hồ Hoàn Kiếm. Tôi có biết
chị Phạm Thị Giá, vợ giáo sư Tôn Thất Bình dạy Pháp văn ở trường
Thăng Long cùng với cụ Phó bảng Bùi Kỷ, dạy Hán văn; các giáo sư
Hoàng Minh Giám dạy Pháp văn, giáo sư Đặng Thai Mai dạy Pháp
văn, giáo sư Võ Nguyên Giáp dạy văn, sử, địa, giáo sư Vũ
Đình Hòe dạy văn, giáo sư Nguyễn Xiển dạy toán, lý… Còn chị Phạm Thị
Thức là vợ bác sĩ Đặng Vũ Hỷ, cùng quê Nam Định với tôi, lại còn thân thuộc nữa.
Cho nên, cái phút giây tháp tùng Hồ Chủ tịch đến gặp chị Giá, chị Thức tôi bùi
ngùi thấy hai chị rụt rè, sợ sệt, chỉ một thoáng, hai chị xúc động mạnh trước cử
chỉ Hồ Chủ tịch cầm tay hai chị thân tình, an ủi và mời ngồi vào ghế đối diện với
Người. Người nói:
- “Tôi ở chiến khu Việt Bắc mới về Hà Nội, nghe tin chẳng
lành về Cụ nhà ở Huế…”. Hồ Chủ tịch ngừng giây lát, nói tiếp: “Trong lúc cuộc
khởi nghĩa bùng nổ khó tránh được sự lầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi
đang trên đường về Hà Nội (ngày 22/8/1945, Hồ Chủ tịch rời Tân Trào, Tuyên Quang).
Chị Phạm Thị Giá trình bày sự việc cha bị bắt trong lúc đang làm
việc tại nhà… Chị Phạm Thị Thức hai tay nâng phong thư lên Bác, Người nhận và
chuyển sang tay cho tôi, dặn: “Chú chuyển sang Bộ Nội vụ”. Bác thân mật hỏi han
hai chị em về tình hình gia đình ở trong Huế, ở Hà Nội…Người dặn: “Những việc
hai cháu vừa đề đạt, hai cháu sẽ trực tiếp gặp ông Hoàng Hữu Nam, Bộ Nội vụ
nhá…”.
Đồng chí Bảy (Luật sư Phan Mỹ) Đổng lý văn phòng vào thỉnh thị
Chủ tịch… Người đưa tay cầm chặt bàn tay chị Giá, chị Thức: – “Hai chị em
về nhá, tôi có việc khẩn…”
Việc hai người con gái đầu của Phạm Quỳnh xin và được
Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ sáng ngày 31/8/1945 đã được chính người chị là cụ Phạm
Thị Giá sau này thuật lại tỉ mỉ như sau trong bài của nhà báo Phạm
Tôn Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và
Dân tộc, cơ quan của Ủy ban Đoàn kết
Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, số 140, tháng 8/2006, từ trang 99 đến
trang 116, và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa
và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 267, tháng 9/2006, từ
trang 15 đến trang 20.
* Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội Hà Nội 1992) thì Bất tất nhiên có nghĩa là: “Không nhất
định phải như thế, có thể ra cách khác được.”
Khi nghe tin Phạm Quỳnh bị bắt, các bà Phạm Thị
Giá, Phạm Thị Thức là hai con gái lớn của ông, đến văn phòng Bộ Nội vụ
tìm gặp người quen là ông Hoàng Hữu Nam, tức Phan Bôi, bấy giờ là Thứ trưởng Bộ
Nội vụ và Chánh văn phòng Phủ Chủ tịch, xin cho vào Huế đón mẹ và các em ra Hà
Nội. Ông Nam khuyên không nên vào trong lúc này, vì nhân dân đang nổi dậy, vào
có khi lại bị bắt giữ lôi thôi, không có lợi. Muốn đón cụ bà và gia
đình ra thì để ông “tư” vào trong ấy. (Sau đó, gia đình đã được đưa ra Hà Nội
an toàn) [1]. Còn
nếu muốn gửi thuốc men cho cụ ông thì cứ gói lại và đề ở ngoài là gửi cho “Thầy
tôi”, tự ông sẽ cho chuyển đến tận tay. Hai chị em cũng được ông Nam giải
thích rõ là: “Vì nay bọn Pháp đang tìm cụ để lợi dụng, nên chúng tôi giữ cụ
lại nơi yên ổn thôi.” Hai chị em còn ngỏ ý xin được gặp cụ Hồ. Ông Nam nhận
lời sẽ bố trí một hôm nào đó cho được gặp “ít phút thôi, trình bày ngắn gọn,
kẻo Cụ ít thời giờ lắm.” Thái độ thân ái chân tình của ông Nam khiến
hai bà cảm động và yên lòng, tin tưởng ở cách mạng.
Sau đó ít ngày, có giấy của Bộ Nội vụ báo Cụ Hồ nhận tiếp hai
chị em vào 11 giờ ngày thứ sáu 31/8/1945, tại Bắc Bộ Phủ.
Hai bà được đưa đến chờ ở một phòng rộng, lòng hồi hộp, lo lắng và sợ
hãi nữa. Một lát sau thì Cụ ra, mặc áo kaki, đi dép lốp, đi đứng nhanh nhẹn; có
ông Vũ Đình Huỳnh là thư ký riêng theo sau. Hai chị em đứng lên chào Cụ, Cụ bắt
tay và mời ngồi. Cụ hỏi thăm thì hai chị em trình bày việc cha bị bắt và
trình lên Cụ một phong thư kể rõ sự việc. Cụ Hồ nói: “Trong lúc khởi
nghĩa, cũng không sao tránh được sự nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn
đang ở trên Việt Bắc.” (Chiều 26/8/1945, Hồ Chủ tịch mới về đến Hà Nội, nhà số
48 phố Hàng Ngang) [2]. Cụ
còn hỏi thăm gia đình được bao nhiêu anh chị em. Rồi cầm phong thư đưa cho ông
Vũ Đình Huỳnh và nói: “Tôi sẽ chuyển qua Bộ Nội vụ.” Lúc đó, có người báo có
đoàn đến xin gặp Cụ. Hai chị em đứng lên chào Cụ thì Cụ lại bắt tay một lần nữa
rồi mới đi… Chuyện xảy ra đã lâu, mà đến năm 1988, đã 75 tuổi, cụ Phạm Thị Giá
còn nhớ rõ từng chi tiết như vậy. Lòng nhân ái của cán bộ cách mạng và chính Cụ
Hồ đã khiến hai chị em ngày ấy cảm động, quý mến vô cùng. Sau này lại càng khiến
hai bà không sao hiểu nổi những sự việc đau lòng xảy ra sau
đó.”
Điều này chứng tỏ đã là sự thật thì trước sau gì
cũng được xác nhận từ các góc nhìn của những nhân chứng rất khác nhau. Thời đầu
Cách mạng thật trong sáng. Chính quyền và nhân dân thật gần gũi. Người đứng đầu
chính quyền Cách mạng lúc ấy dẫu bận trăm công nghìn việc, vẫn sẵn sàng, chân
tình tiếp và lắng nghe tiếng nói của người dân, dù họ “thuộc diện có vấn đề”,
không hề né tránh, để những bức xúc của người dân rơi vào “sự im lặng đáng
sợ” như sau này.
Bức thư mà hai bà đưa cho Hồ Chủ tịch là do Phạm
Khuê, con trai Phạm Quỳnh, hồi ấy còn là sinh viên trường Y Hà Nội,
chấp bút viết theo ý của cả ba chị em, sau khi nghe tin cha bị bắt ở Huế. Sau
này ông trở thành bác sĩ, đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đảng viên Đảng Cộng
Sản Việt Nam, giảng viên trường đại học Y Hà Nội, rồi Viện trưởng Viện Lão Khoa
Việt Nam, Hội trưởng đầu tiên của Hội Người Cao Tuổi Việt Nam, được phong
Nhà giáo Nhân dân, là đại biểu Quốc hội khóa X ứng cử tại quê cha Hải
Dương với số phiếu cao nhất. Bấy giờ, nhạc sĩ Phạm Tuyên mới 15 tuổi, sống với
mẹ và gia đình ở Huế, sau mới ra Hà Nội ở với chị cả Phạm Thị Giá.
D.T
Chú thích:
[1] Những
người trong gia đình Phạm Quỳnh từ Huế ra Hà Nội đến ở nhà số 5 phố Hàng Da hồi
đó gồm có: vợ Phạm Quỳnh, con cả Phạm Giao và bà vợ hai
cùng ba người con là Quý (5 tuổi), Kim (3 tuổi), Loan (2 tuổi), Phạm
Bích, Phạm Khuê, Phạm Tuyên (15 tuổi), Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Giễm, Phạm Thị Lệ,
Phạm Tuân (9 tuổi), Phạm Thị Viên (7 tuổi). Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, giao thông còn khó khăn, tình hình xã hội chưa ổn định mà đưa được một số
người đông như thế (trong đó có năm trẻ em dưới mười tuổi) vượt nửa đất nước ra
đến Hà Nội an toàn, mạnh khỏe, đồ đạc mang theo nguyên vẹn, chính là nhờ sự giúp
đỡ của chính quyền cách mạng non trẻ, do chính ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) đã
thực hiện lời hứa “tư” vào trong ấy giải quyết.
[2] Vũ
Kỳ: Nhớ mùa thu năm ấy, báo Nhân Dân, ngày 2/9/2000
VỀ TÊN SONG THÂN SINH RA VỢ PHẠM QUỲNH VÀ ÔNG NỘI CỦA PHẠM QUỲNH
Dã Thảo
Bà Lê Thị Vân là con gái cả của ông ký lục Lê
Văn Chấn, hiệu Đào Hùng và bà vợ họ Hoàng. Do
ông Chấn có tên là một quẻ trong Kinh Dịch, lại có tên hiệu là Hùng, cho
nên có nhiều tư liệu viết lầm tên ông là Lê Văn Hùng, căn cứ theo luận văn
trình Đại học Sorbonne bà Phạm Thị Ngoạn viết bằng tiếng Pháp từ những
năm 70 thế kỷ trước nhan đề Introduction au Nam Phong. Bà là con Phạm
Quỳnh, nhưng ở nước ngoài, lại viết trong thời gian đang chiến tranh, không có
điều kiện xác minh. Sai sót là dễ thông cảm. Còn bà vợ ông Chấn cũng
thường được các tư liệu ghi là Hoàng Thị Ký. Ngày xưa, người đàn bà đã
có chồng thường được gọi theo tên chồng, hoặc chức vụ, nghề nghiệp của chồng, chứ
ít ai biết tên thời con gái của họ. Ví như bà phán A, bà đốc B, bà giáo C… đều
là như vậy. Trường hợp bà vợ ông ký lục Lê Văn Chấn cũng thế. Bà họ
Hoàng, là vợ ông ký lục, thì thường được gọi là bà ký, hoặc bà ký
họ Hoàng. Ký là chức vụ của chồng, không phải tên bà vợ. Một lý
do cho ta tin chắc rằng ông chồng tên là Chấn là khi sinh con út là
trai, ông đã đặt tên con là Tốn, cũng là tên một quẻ trong Kinh
Dịch lại kế ngay sau của tên ông (Càn, khảm, cấn, Chấn, Tốn, ly, khôn,
đoài.) Tên con trai thường đặt có liên hệ với tên cha là lệ thường
ngày trước.
Cái tên cậu út Lê Văn Tốn này còn là chìa khóa để
xác minh tên của một người nữa. Đó là tên ông nội Phạm Quỳnh. Có tài liệu viết
là Phạm Tốn, tức Thịnh, lại có tài liệu viết là Phạm Chu hay Phạm
Chuyên. Chúng tôi thấy gọi tên ông là Phạm Tốn là chính xác. Chứng cứ là cậu út
Lê Văn Tốn, sau khi chị cả Lê Thị Vân lấy chồng là Phạm Quỳnh, cháu nội cụ Phạm
Tốn thì phải đổi tên thành Lê Văn Xuân, chỉ vì trùng tên với người bề trên
là ông nội ông anh rể. Cái tên Lê Văn Xuân này coi như là tên chính thức, mất hẳn
tên Lê Văn Tốn. Về sau, đi làm ông được hàm cửu phẩm thì mọi người đều
gọi ông là ông Cửu Xuân. Và ngay trong thư Phạm Quỳnh hồi mới làm thượng
thư được một năm, viết gửi Chánh mật thám Đông Dương là Louis Marty đề nghị can
thiệp giảm án hoặc tha cho em ông chủ hãng thuốc Lào Giang Ký, bị giam ở nhà tù
Hỏa Lò Hà Nội “vì hoạt động cộng sản”, cũng giới thiệu: người cầm thư này
đến ngài là Lê Văn Xuân, em vợ tôi. Điều này chứng tỏ cái tên Lê Văn Xuân
được dùng làm tên chính thức của ông Lê Văn Tốn, vì ai dám giỡn với chánh mật
thám Đông Dương thời ấy.
Cụ Phạm Tốn thì lúc sinh thời cũng như khi đã qua đời đều được
gọi là ông Cả, vợ được gọi là bà Cả. Vì ông chưa từng đỗ đạt gì
khi còn sống, mặc dù cũng học rộng và làm nghề dạy học. Khi ông thi lần cuối
thì bị cảm, mất ở trong lều thi, người ta xem ống quyển thấy bài vở đã làm
xong nên cứ trình quan giám khảo chấm. Ông được đỗ tú tài. Nhưng khi ấy, ông đã
qua đời ở tuổi còn rất trẻ. Con trai ông, thân sinh Phạm Quỳnh, cũng
mất khi còn trẻ.
Chúng tôi là người rất thân cận với gia đình Phạm Quỳnh, tự
thấy có nhiệm vụ nói cho rõ những sự việc mà người ngoài, dù có đi
sâu nghiên cứu sách vở, tư liệu cũng khó lòng biết được. Xin thành thật
trình bày cả ra đây mong góp phần để các bạn quan tâm đến học giả Phạm Quỳnh
có thêm tư liệu chính xác tham khảo.
Thành phố Hồ Chí Minh 25/7/2010.
D.T
TÌM HIỂU PHẠM QUỲNH
TƯ LIỆU VỀ VỤ "PHẠM QUỲNH HẤT CẲNG NGÔ ĐÌNH DIỆM" CỦA
D.GRANDCLÉMENT
Dã Thảo
Lời dẫn của Phạm Tôn: Trước đây, khi tìm tư liệu về vụ
“Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm”, chúng tôi may mắn tìm được quyển Bao
Daï ou les derniers jours de l’empire d’Annam của Daniel Grandclément do
nhà xuất bản JC Lattès mới cho ra mắt năm 1997. Chúng tôi quá mừng, vì tưởng
đây là của hiếm, hàng độc, ít người biết, cho nên sử dụng ngay, không khỏi có
chút “tự hào”… Nhưng, mới đây, đi hiệu sách thì thấy sách ấy đã dịch ra tiếng
ta với nhan đề Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam. Bản
tôi mua được in năm 2009 đã là… bản “In lần thứ 3” của Nhà xuất bản Phụ Nữ,
Hà Nội. Như vậy là không ít người đã biết tư liệu “quý hiếm” ấy từ lâu… trước
khi Blog PhamTon đăng bài Có hay không vụ Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô
Đình Diệm của chúng tôi.
Nhưng, nghĩ rằng, chắc chắn còn không ít bạn đọc muốn biết rõ
vấn đề mà chưa có dịp đọc, hôm nay, Blog PhamTon xin trích đăng những đoạn liên
quan đến vụ này theo bản của Nhà xuất bản Phụ Nữ do Nguyễn Văn Sự dịch,
trên các trang 37, 38, 40, 41, 43, 44, 45 và 46.
(Trang 37) Không biết từ lúc nào, Ngô Đình Diệm chỉ một mực
suy nghĩ. Đầu hơi cúi xuống mặt bàn, ông dán mắt chăm chú đọc trang nhất của
tờ Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương). Tên ông được
nêu lên mặt báo đến hàng chục lần. Báo chí được ông cung cấp thông tin đã tôn
ông là anh hùng, đã thừa nhận ông là người bảo vệ tích cực nhất nếu không phải
là duy nhất nền văn hóa Việt Nam. Ông Diệm là một thượng thư. Không phải trong
số những nhân vật kém vai vế nhất. Đó là bộ Lại, lo nội trị, bổ dụng quan chức
đầu tỉnh. Sau ngày trở về Việt Nam, vua Bảo Đại lập nội các dân sự (…)
(Trang 38) Cha ông, Ngô Đình Khả trước đây đã làm phụ chính cho vua Thành Thái,
vị Hoàng đế bị phế truất rồi bị lưu đày ở đảo Réunion. Cả gia đình ông Diệm sau
đó không được vua nối ngôi là Khải Định tin dùng nữa.
Ông Diệm không phải không biết rằng mọi ý định cải cách của
ông, có thể dẫn đến thất sủng như cha ông. Một lát nữa, các em ông sẽ đến. Họ đều
có thế lực, học vấn uyên bác, tập hợp quanh ông, bảo vệ ông là người đề ra học
thuyết, là linh hồn của gia đình. Họ có năm người, một người là linh mục, một
người là Ngô Đình Khôi cũng làm quan, người thứ ba là Ngô Đình Nhu, một trí thức
tốt nghiệp trường Pháp điển, nơi đây được tiếp cận nhiều nguồn tư liệu về lịch
sử nước Pháp nhất là những “bí quyết” làm nên sức mạnh của nước Pháp. Còn một
người em nữa là Ngô Đình Luyện, sau này sẽ làm đại sứ lâu năm ở Paris là một
trong những bạn bè thân thiết của Bảo Đại. Bấy nhiêu con người tạo
nên một khối liên kết rất chặt chẽ bằng những mối quan hệ ruột thịt lại vừa đồng
nhất hoàn toàn về quan điểm.
Dần dần trong những tháng đầu tiên của triều đại Bảo Đại, họ
là biểu tượng cho nước An Nam cổ xưa đối chọi với những ý tưởng tân tiến của
Nhà vua và của các bạn người Pháp (…)
(Trang 40) Tuy nhiên một vài biện pháp canh tân, ít quan trọng,
mức độ vừa phải, đã gắn với tên tuổi Bảo Đại.
(…) Sau cùng ông (Bảo Đại – DT chú) cải tổ chế độ quan trường,
gây nên sự chống đối của ông Diệm.
Ở xứ An Nam không có tầng lớp quý tộc nhưng có hàng ngũ các
quan lại. Họ là đại diện cho Vua, được lựa (Trang 41) chọn qua các kỳ thi của
sĩ phu. Nhiệm vụ của họ là tổ chức việc thi hành các chỉ dụ của Triều đình, các
quyết định của cấp trên. Trải qua nhiều thế kỷ địa vị của họ vẫn vững vàng.
Không có một xó xỉnh nào trong triều mà không có quan lại mặc áo dài lam.
Họ không bị ai kiểm soát. Họ là những ông chủ có quyền lực
tuyệt đối trong địa phương được giao cho họ cai quản. (…) Cuộc sống của họ buồn
tẻ, u sầu, thường lười biếng, nhưng bổng lộc khá vì người đứng đầu nền hành
chính địa phương không phải mở sổ kế toán hay bất kỳ sổ sách nào. Và chỉ toàn
là danh vọng. Đi đâu đã có võng lọng, lính vác cờ đi trước, lính hộ vệ theo
sau. Như mọi viên chức mẫn cán, đường công danh của họ rộng mở, tuần tự thăng
tiến. Họ thanh thản, bình tâm hơn các bạn đồng nghiệp Pháp của họ. Mặc chiếc áo
dài lam thẳng nếp, họ không bị những người dân lam lũ nào đến gần để quấy rầy,
họ không phải lo sợ bị trừng phạt và rất hiếm khi bị truy cứu trách nhiệm. (…)
(Trang 43). Việc điều hành nhà nước tùy thuộc vào lớp trí thức
này. Văn chương, ý tưởng và truyền thống vẫn ngự trị trong cuộc sống tinh thần
của người dân trong nước.
Điều gây nên sự giận dữ của ông Diệm là việc ông
Eugène Chatel, Khâm sứ Trung Kỳ và Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng muốn
tước bỏ quyền tư pháp của các quan An Nam, nghĩa là không cho họ được quyền xét
xử. Lý do được nêu ra là các quan An Nam thiếu kiến thức luật học (DT nhấn
mạnh). Nhưng đây là một đòn (Trang 44) nặng giáng vào hàng ngũ quan lại vì làm
mất phần lớn thu nhập của các quan từ các vụ kiện cáo dân sự lẫn xét
xử hình sự. Nạn hối lộ là chuyện phổ biến trong quan trường.
Diệm phải bảo vệ lợi ích của giới mình nên đấu tranh đơn
thương độc mã (DT nhấn mạnh), trong tiểu ban cải cách để ngăn chặn cuộc cải
cách không đúng lúc của Chatel-Phạm Quỳnh. Ông ta cũng đề ra nhiều sáng kiến
canh tân. Ông là người tiên phong nhưng không hiểu biết nhiều về những thủ đoạn
chính trị. Ông đưa cả biên bản họp tiểu ban cải cách cho báo chí.[1]
Báo La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông
Dương) ra ngày 21 tháng 7 năm 1933 miêu tả cuộc đấu tranh không cân sức giữa
Ngô Đình Diệm – một con người thật thà được lòng dân, có khả năng và
Toàn quyền Pierre Pasquier, một con người phản động kỳ cựu, tươi cười
mà bền bỉ…
Còn Bảo Đại thì sao? Nhà vua luôn luôn kiên quyết ủng hộ
phong trào cải cách nhưng “chắc chắn phải là dưới ảnh hưởng của Pháp”. Ông ủng
hộ Pasquier, Chatel và Phạm Quỳnh.
Thế mà sao Vua lại dùng ông Diệm là người ông không ưa và phản
đối cái thói phường hội gia đình trị của ông ta.
Sau khi đưa Diệm vào nội các, Bảo Đại cho rằng (Trang 45) muốn
cải cách gì đi nữa cũng cần có các quan lại trong triều làm hậu thuẫn. Đảm bảo
hậu thuẫn ấy không ai bằng Diệm. Ngay từ đầu khi nắm quyền bính, giúp việc Nhà
vua tất cả chỉ có sáu vị thượng thư và đảm nhiệm mọi lĩnh vực triều chính. Diệm,
vị tân thượng thư họ Ngô xem ra không thích hợp với vai trò mới. Ông cũng là một
ông quan, nguyên là tuần vũ Phan Thiết. (…) Viên thượng thư
công giáo này vừa nghiêm khắc trong công việc, vừa khắc khổ trong tác
phong. Ông cũng đấu tranh để cải tổ triều chính nhưng theo một phương hướng
không làm vừa lòng chính quyền bảo hộ. Ông muốn được độc lập hơn, nhất là giảm
bớt quyền lực của người Pháp.
Trong lúc này ông Diệm vẫn cắm cúi làm việc. Trong tòa nhà
dành riêng cho bộ của ông, ông ưa ngồi một mình trong thư phòng. Sau lưng ông
chiếc thập giá khẳng định đức tin của ông. Ông quay vào cái thập giá, quỳ xuống
và lẩm nhẩm đọc kinh.
Cho đến khi một viên thư lại bước vào phòng ông mới đứng dậy,
đưa tay đón phong thư do người thư lại kính cẩn đệ trình. Ông mở ra. Đó là thư
của Toàn quyền Đông Dương. Đọc xong, ông bàng hoàng khiến ông làm dấu
thánh và lại quỳ xuống dưới chân thánh giá. Công văn báo tin ông bị thải hồi.
Louis Marty lúc đó là Chánh sở Liêm phóng và Nha chính trị Đông (Trang 46) Dương
đã phát hiện được một bức thư của Diệm gửi cho các báo và lập tức ông báo cáo
ngay lại cho Toàn quyền Đông Dương. Theo quy tắc hành chính, ông Diệm đã phạm
sai lầm nghiêm trọng (DT nhấn mạnh).
(…) Không những ông Diệm phải từ chức mà bị cách tuột khỏi
hàng ngũ quan lại trong triều (DT nhấn mạnh). Từ đó Diệm oán hận đối với Bảo
Đại và cả triều đình, kéo dài cho đến 22 năm sau mới tìm lối thoát bằng một cuộc
trưng cầu dân ý giả hiệu để phế truất Bảo Đại. Vị thượng thư bị thải hồi, số phận
thật trớ trêu ông phải đi dạy tiếng Pháp kiếm sống. Sau đó ông tìm được việc
làm ở nhà thờ Thiên hựu, nơi các cha cố trong Hội truyền giáo nước
ngoài ở Huế làm việc.
Và cuộc cải cách sẽ được thực hiện cũng như phần lớn các biện
pháp do Chatel đề ra…
Tháng 5-2010.
D.T
Nam
Phong ra đời và tiến triển - Phạm Thị Ngoạn
Đọc ở đây:
Phạm Minh, chắt nội của Phạm Quỳnh, biên đạo và diễn viên ba
lê nổi tiếng (Bài viết riêng tặng cháu Phạm Minh)
Phạm Tôn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Trong Blog PhamTon tuần thứ 1
tháng 5/2010, chúng tôi có đăng bài Phạm Vinh, đích tôn của Phạm Quỳnh,
trọn đời là anh bộ đội Cụ Hồ. Cuối bài, có nhắc đến Phạm
Minh, con trai ông và cũng là diễn viên ba lê múa đơn kiêm biên đạo nổi
tiếng. Nhiều bạn đã gởi email và gọi điện thoại ngỏ ý mong được biết rõ
hơn con đường dẫn người chắt nội này của học giả Phạm Quỳnh đến với
nghệ thuật hàn lâm và thành đạt khi tuổi đời còn rất trẻ.
Hôm nay, chúng tôi xin đáp ứng phần nào yêu cầu đó của bạn đọc
thân mến của blog PhamTon.
Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn, ông có tài về cả văn học nghệ
thuật và khoa học. Đến đời các con ông, thì mặt khoa học xem ra phát
triển mạnh hơn. Người là luật sư, người là bác sĩ, dược sĩ, người là nhà nghiên
cứu văn học. Tuy hầu như tất cả các con ông đều ham mê văn học nghệ
thuật, người dàn giỏi, người hát hay, người làm thơ, người vẽ tranh… Nhưng, chỉ
là để làm phong phú hơn cuộc sống làm khoa học của mình. Chỉ có một người hiến
trọn đời mình cho nghệ thuật âm nhạc, đó là nhạc sĩ Phạm Tuyên. Đến đời các
cháu ông, cũng thế. Xu hướng khoa học át hẳn xu hướng văn học nghệ thuật. Tuy
thế, vẫn có người quản lý đoàn nghệ thuật, dạy nhạc, đàn pi-a-no… có
người viết báo mê văn, có kiến trúc sư sành đàn ghi ta và vẽ tranh đẹp,
có nhà giáo nhân dân hát hay… Và hầu như, mọi người đều thích hát,
nghe nhạc.. Chỉ đến đời các chắt của ông, mới xuất hiện một con người
như sinh ra chỉ để làm nghệ thuật. Mà lại là một nghệ thuật hàn lâm, cao siêu,
chuyên sâu: múa ba lê. Đó là Phạm Minh, con trai đích tôn Phạm Vinhcủa
ông. Phạm Minh như sinh ra chỉ để múa, mà là múa ba lê.
Phạm Minh sinh ngày 4/10/1974, tại Hà Nội, trong khu văn công
Mai Dịch. Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, em mới hơn nửa tuổi. Và bấy giờ, bố
Phạm Vinh của em, người “trọn đời là anh bộ đội Cụ Hồ” đang tiếp quản Sài Gòn.
Với cương vị phó đoàn Văn công Quân giải phóng Trường Sơn, rồi đoàn Văn công
Quân khu II. Những ngày bố Vinh về thăm nhà, Phạm Minh mới biết có bố sống bên
mình sướng đến thế nào…
Được hơn ba năm, Phạm Minh mới gần tròn năm tuổi, thì tối
7/9/1979, bố Vinh đi dự liên hoan mừng thắng lợi của đơn vị và cũng là buổi đơn
vị cũ thân thương tiễn anh lên nhận chức vụ mới, cao hơn. Sáng hôm sau, bé Minh
ngơ ngác thấy bố không về và mắt mẹ và hai chị cứ đỏ hoe. Các cô, chú trong khu
văn công thì nức nở: “Bà Vinh ơi, thương bà quá”. Minh hiểu, mọi
người nói “Bà Vinh” là nói về bố em, người vốn rất yêu thương chăm
sóc chu đáo đồng đội. Mẹ bảo: “Đêm qua, bố ngủ lại với đồng đội sau buổi liên
hoan chia tay. Sáng nay, bố không dậy nữa”.
Dần dần, Phạm Minh mới hiểu thế là em mất bố Vinh thật rồi…
Trước cặp mắt ngây thơ của em, mẹ và chị cả gọi người đến bán
dần bán mòn “các đồ vật có giá” quen thuộc với gia đình từ khi “đổi đời” mấy
năm nay. Tivi, tủ lạnh, ra-đi-ô, rồi đến cả quạt máy, bàn là…lần lượt ra
đi… Các bữa cơm hằng ngày cũng nhiều rau đậu hơn thịt cá. Em không hiểu vì sao
khi cả nước vui mừng, các gia đình trong khu văn công quân đội đời sống ngày
càng đầy đủ hơn, vui vẻ hơn thì nhà mình lại buồn bã suy tàn thế này. Mẹ là diễn
viên múa đơn xinh đẹp mà nay xơ xác lo chạy ăn hằng ngày. Các chị lặng lẽ học
và giúp mẹ làm việc nhà; ai cũng ít nói, cười…Tuy thế, mẹ Lương vẫn lo cho em
đi học nhạc tại Trường Nghệ thuật Hà Nội. Nhưng lại học vi-ô-lông. Không cho
theo nghề múa vất vả của mẹ. Minh được học nhạc là mừng rồi, học chăm và được
trường cấp giấy khen. Bấy giờ, em mới tám, chín tuổi.
Còn hai tháng nữa thì em tròn mười tuổi. Bấy giờ Bộ Văn hóa
có tổ chức thi tuyển để chọn những thiếu nhi có năng khiếu về múa, đưa đi đào tạo
ở nước ngoài. Mong tránh cho con khỏi phải khổ vì theo cái nghiệp
của mẹ, bà Lương đã giấu, không cho Minh biết. Bà lại đang
là chính trị viên phó Đoàn Ca múa Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam
thì nếu dự thi, Minh càng dễ trúng tuyển.
Nhưng bà mẹ thương con và lo xa ấy không
hề biết tới tâm trạng u buồn lâu nay của cậu con út luôn đau đáu “tìm
cách cứu mình, cứu nhà” và một lòng lo chuyện kế nghiệp múa của mẹ yêu quý.
Hằng ngày, Phạm Minh vẫn chăm chỉ đi xe buýt từ nhà đến trường
học vi-ô-lông; còn học cả cách trốn vé xe cho đỡ tốn tiền mẹ. Nhưng rồi, chẳng
biết bằng cách nào, Phạm Minh nghe ngóng được tin có cuộc thi tuyển định mệnh đó.
Có lẽ, do đó là một tin làm chấn động cả Khu văn công Mai Dịch. Em nằng nặc đòi
mẹ cho dự thi. Mẹ em đành bảo là em có học múa bao giờ đâu mà dự thi, vả lại
hạn đăng ký thi cũng đã hết từ lâu rồi… Chẳng ngờ, thấy mẹ không phản đối,
chỉ nêu lý do khó khăn này nọ, Minh bèn tìm cách khắc phục. Khăn quàng đỏ trên
vai, cậu bé gầy gò, nhỏ bé, lầm lũi đi bộ đến nơi dự thi. Thì khi ấy, cuộc thi
đã qua hai vòng rồi. Bây giờ là vòng cuối. Phạm Minh hớt hải chạy đến nài nỉ
ban tổ chức, vốn có nhiều người trong ngành múa quen biết bố, mẹ em. Thương
tình cậu bé nhiệt tình, quyết tâm, đang mồ hôi mồ kê nhễ nhại đến xin dự thi, họ
báo cáo lại và được ban giám khảo chấp thuận cho em vào thi thằng vòng ba. Thật
không ai ngờ: Phạm Minh trúng tuyển ngay, lại còn được chuyên gia giám khảo
khen là “có cả năng khiếu về múa lẫn âm nhạc”. Sau này, bà Vũ Thị
Lương, mẹ em xúc động kể lại: “Hôm ấy, tôi thấy cu cậu ôm một tập hồ sơ về, vừa
bước vào nhà vừa khóc thút thít. Tôi nghĩ là cháu bị trượt nên khóc; mà trượt
thì cũng phải thôi, có học hành tập tành gì đâu, tôi định lựa lời an ủi… Về
sau, mới biết, chỉ khóc vì tủi thân: “Ai cũng có bố, mẹ đưa đón,
còn con thì lủi thủi một mình đến, lại lủi thủi một mình về.” Cháu đỗ
rồi, tôi không muốn xa con, sợ con vất vả suốt đời với nghiệp
múa mình đã trải qua, nhưng cũng đành chiều ý con”.Mới chín, mười tuổi đầu, Phạm Minh lại một mình sang nước bạn
xa xôi giá lạnh để quyết nối nghiệp mẹ, hiến thân cho nghệ thuật múa.
Suốt tám năm ròng rã học ở Trường múa của Nhà hát Hàn lâm quốc
gia Ki-ép (U-crai-na) cái nôi lớn đào tạo diễn viên ba lê nổi tiếng thế giới,
Phạm Minh đã cố gắng học cho được những bước cơ bản nhất của nghệ thuật múa hàn
lâm này. Không có gì ngoài học bổng ít ỏi, không trông chờ gì vào chi viện của
gia đình ba miệng ăn chỉ trông vào đồng lương ít ỏi của mẹ, cũng không theo bạn
bè “dạy khôn” học buôn bán kiếm tiền. Em chỉ lo học tập, miệt mài học tập, mà
chỉ học một môn múa ba lê mà càng ngày em càng say mê, cảm thấy như mình sinh
ra chỉ là để múa ba lê vậy. Có lần, viết thư về cho mẹ ở Hà Nội, Phạm Minh
thành thật bày tỏ: “Mẹ ơi, con không thể từ bỏ ba lê!” Càng ngày
em càng được thầy cô ưu ái, các vị giáo sư đầu ngành ở Ki-ép này đã
không tiếc công sức chỉ bảo cho cậu học trò Việt Nam, cả từ chuyên môn múa đến
những việc nhỏ nhặt nhất trong đời sống hằng ngày của một diễn viên ba lê. Ở
đây, Phạm Minh học thiên về múa cổ điển. Sau khi tốt nghiệp xuất sắc với tấm bằng
đỏ, thầy cô muốn giữ lại trường, nhưng Minh nghĩ là muốn phát triển thêm thì phải
qua biểu diễn thực tế trên sàn diễn thật nhiều, đồng thời phải biết kết hợp giữa
cái cổ điển và cái hiện đại. Anh đành lòng từ chối nơi mình từng lưu luyến
cả người lẫn cảnh và tìm cách gia nhập một vũ đoàn thực sự.
May mắn đến với anh khi trường cử học sinh xuất sắc của mình
dự Cuộc thi Ba lê Quốc tế tại Vác-na (Bun-ga-ri). Phạm Minh vào tới vòng hai trong ba vòng, không được
giải. Anh bình tĩnh nói với các chuyên gia ở đây là: “Tôi không phải là một
trong số những người xuất sắc ở đây, bị loại là điều không thể tránh khỏi…”.
Nhưng không ngờ, chính thái độ bình tĩnh của chàng trai Việt Nam 18 tuổi ấy đã
khiến một vị trong Ban giám khảo xúc động. Ông Robert Barthier, người Pháp,
giám đốc Đoàn Ba lê Trẻ Pháp (Jeune ballet de France - JBK) đã thấy được những
khả năng thần kỳ tiềm ẩn trong cặp chân của Phạm Minh. Sau này, năm 1993, khi
sang Việt Nam chỉ đạo đoàn biểu diễn, ông nói với giới báo chí Việt Nam: “Chúng
tôi thấy cậu bé Việt Nam có đôi chân rất đặc biệt, nhất là trong các điệu cổ điển
và cũng có rất nhiều khả năng để sau này múa hiện đại. (…) chúng tôi thích cậu ấy.”
Phạm Minh được nhận vào đoàn ba lê của ông.
Đoàn này thật có một không hai: chỉ nhận học sinh từ 16 đến
22 tuổi, đã học múa mà chưa biểu diễn chuyên nghiệp, gồm cả thanh niên Pháp và
các nước khác, đào tạo trong đúng một năm, sau đó giới thiệu cho các đoàn múa
chuyên nghiệp. Trong năm này, học sinh biểu diễn trên 170 buổi. Phạm Minh nhờ
được rèn luyện trong một môi trường múa chuyên nghiệp như vậy mà thành tài.
Năm 1994, lại một bước ngoặt quyết định nữa trong cuộc đời
nghệ thuật của Phạm Minh. Anh là một trong ba người được chọn vào Nhà hát Le
Ballet Capitole de Toulouse (Pháp) qua cuộc thi tuyển năm sáu chục người tài
năng. Phạm Minh sớm được đảm nhiệm vai diễn chính trong các vở đặc sắc của
George Balanchine, Peter Martine, Nacho Duato, Richard Tannuer, JC Blavier,
Antony Todor… Anh vào các vai Albrecht trong Giselle (phóng tác của
N.Glushak), vai hoàng tử trong Cô bé Lọ Lem của D.Dean, vai Franz
trong Camella của Martinez và Kẹp Hạt Dẻ trong vở cùng tên
của M.Rhan. Với kỹ thuật múa ba lê cổ điển điêu luyện gây ấn tượng và một phong
cách múa thanh thoát, trẻ trung, tự nhiên, nhiều báo chí Pháp và thế giới đã ca
ngợi Phạm Minh là một diễn viên múa đơn xuất sắc trong số những diễn viên ba lê
nổi tiếng của Nhà hát Capitole lừng danh thế giới.
Năm 1993, Phạm Minh và Đoàn Ba lê Trẻ Pháp đã về biểu diễn ở
nước ta. Đoàn biểu diễn buổi đầu tiên tại Cung văn hóa Việt Xô ngày 25/4/1993.
Sau đợt biểu diễn ở Hà Nội đến hết tháng 5, đoàn đi nhiều tỉnh và thành phố lớn,
đặc biệt là diễn cho công nhân khu mỏ Quảng Ninh. Năm 2003, Phạm Minh về nước
cùng Đoàn ba lê Capitole, biểu diễn hai tối 30 và 31 tháng 8, tại Nhà hát Lớn
Hà Nội. Anh múa đơn, với kỹ thuật ba lê cổ điển, điêu luyện, gây ấn tượng và với
phong cách độc đáo của riêng anh thanh thoát, trẻ trung và tự nhiên đã chinh phục
khán giả Hà Nội, đặc biệt là thanh niên và sinh viên được xem với giá vé giảm tới
50%. Trong hai tối 6 và 7 tháng 9/2006, Phạm Minh, nghệ sĩ múa đơn số 1 từ hơn
10 năm nay của Nhà hát Capitole Toulouse dàn dựng vở Mùa xuân thiêng liêng của
N.Roerich, ra mắt tại Nhà hát lớn Hà Nội. Đoàn múa Capitole Toulouse (Pháp)
trình diễn cùng với các nghệ sĩ múa của Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân
đội. Đây là chương trình hợp tác giữa Trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội, Nhà
hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam và Dự án Hỗ trợ phát triển văn hóa Việt Nam. Năm
2008, Phạm Minh lại về nước, chỉ đạo các nghệ sĩ múa ba lê của Nhà hát Nhạc Vũ
Kịch Việt Nam trình diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội hai tối 27 và 28 tháng 8/2008
tiết mục Người đãng trí (Amnesta) của Roderick Vanderstraen do anh
biên đạo trong Đêm Ba lê hiện đại Khúc Giao Mùa.
Chắt nội Phạm Minh của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, con trai
của hai nghệ sĩ - chiến sĩ Điện Biên Phủ Phạm Minh và Vũ Thị Lương, dù đi nhiều
nước trên thế giới, danh tiếng cũng đã vang khá xa khi tuổi đời còn trẻ, nhưng
bao giờ anh cũng luôn tâm niệm một điều là “Đi đến bất cứ nơi nào, mình và những
người bạn của mình đều cố gắng làm mọi việc đạt kết quả cao nhất để nói lên rằng
người Việt Nam rất tốt, rất giỏi”.Tại Hà Nội, anh đã gặp nhạc sĩ Phạm Tuyên, ông trẻ của mình,
một người cũng hiến thân cho nghệ thuật. Và khi nhắc tới tấm gương sáng của nhà
văn hóa Phạm Quỳnh, Cụ của Phạm Minh, anh càng thấy rõ hơn con đường
hiến thân cho nghệ thuật của mình còn dài lắm.
Và cao hơn cả hiến thân cho nghệ thuật nữa là hiến thân cho Tổ
quốc Việt Nam muôn vàn yêu quý của chúng ta.
PHẠM VINH, ĐÍCH TÔN CỦA PHẠM QUỲNH,
TRỌN ĐỜI XỨNG DANH "ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ"
(Bài viết tặng chị Vũ Thị Lương và các cháu Phạm Mai Hương,
Phạm Lan Phương và Phạm Minh)
Phạm Tôn
Lâu nay, khi nói về học giả, nhà văn hóa Phạm Quỳnh, ta thường
thấy nhắc tới các con Ông, nhất là Giáo sư bác sĩ
Nhà giáo Nhân dân, Đại biểu Quốc hội Phạm Khuê, Viện trưởng cũng là
người sáng lập ra Viện Lão Khoa và ngành lão khoa Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của
Hội Người cao tuổi Việt Nam. Và cũng không ai quên nhắc tới nhạc sĩ Phạm Tuyên,
người đã viết lên bài ca khải hoàn mà toàn thể người dân Việt Nam từ trẻ đến
già và cũng không ít bầu bạn năm châu đều thuộc là Như có Bác trong ngày đại
thắng, tác giả của hơn sáu trăm ca khúc và hiện là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Hà Nội,
ông cũng là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam từ ngày
thành lập năm 1957.
Nhưng, những người viết thường quên, hoặc không biết đến thế
hệ thứ ba, các cháu nội, ngoại của Ông. Mặc dù vất vả, khốn khó với “chủ nghĩa
lí lịch” một thời ngăn cản, kìm hãm, thậm chí trù dập, không muốn cho họ có cơ
hội thành đạt… nhưng, đến nay, các cháu nội, ngoại của nhà văn hóa Phạm Quỳnh
đã có không ít người là giáo sư, phó giáo sư,
nhà giáo nhân dân, tiến sĩ, viện trưởng viện này viện nọ ngay trên đất
nước mình. Trong số đó, nổi bật nhất có một viện sĩ, giáo sư, tiến
sĩ, Chủ nhiệm một ủy ban trong Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, từng ba khóa liền là ủy viên trung ương của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Đó là chưa kể các cháu nội ngoại, vì lý do “tan đàn xẻ
nghé” đau lòng năm 1945 ấy, đã phải ra sống ở nước ngoài, nay cũng nhiều người
thành đạt, là cán bộ của Liên Hiệp Quốc, tổng giám đốc các công ty đa quốc gia
lớn… Nói chung, tất cả đều là những con người lương thiện, không hề
làm điều gì có hại cho dân cho nước mà người Ông đáng kính của họ đã dốc lòng
phụng sự và suốt đời yêu quý. Tiêu biểu cho thế hệ thứ ba này là Phạm
Vinh, đích tôn của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, người đã trọn đời là một anh bộ đội
Cụ Hồ.Trong bức ảnh mừng sinh nhật hai cụ đồng tuổi Nhâm
Thìn tổ chức tại gia đình ở Huế năm 1934, dễ nhận thấy ngay chú bé hai tuổi đứng
giữa ông, bà, ngay sát chân ông là Phạm Vinh, đích tôn của hai
ông bà Phạm Quỳnh – Lê Thị Vân.
Phạm Vinh sinh ngày 21/5/1932, tại nhà số 5 phố Hàng Da Hà Nội,
trụ sở tòa soạn tạp chí Nam Phong, khi Phạm Quỳnh vẫn còn làm chủ nhiệm
kiêm chủ bút. Năm 1938, bố mẹ li dị vì không còn hợp nhau nữa, nhưng Phạm Vinh
vẫn cùng mẹ và em sống với gia đình Phạm Quỳnh ở Huế, tại biệt thự Hoa Đường. Đến
năm 1943, ba mẹ con mới ra Hà Nội sống với bên ngoại. Năm 1945, sau
Cách Mạng Tháng Tám, bên nội ly tán, Phạm Vinh mới 13 tuổi đã phải xa cả bố lẫn
mẹ. Rồi năm 1946, mới 14 tuổi đã thành nhân viên kế toán cho Công binh xưởng K6
Cục Quân giới, liên khu 11 đến gần hết năm 1947 thì được về sống cùng với mẹ và
các em tại Vĩnh Yên để đi học tiếp đến gần hết năm 1948. Rồi trường Lục quân
khóa 6 về đóng tại trường học Vĩnh Yên, thế là đích tôn của Phạm Quỳnh xin nhập
ngũ ngay ngày 4/3/1950, công binh khóa 6 trường Lục quân, học tại Trung Quốc.
Vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 20/10/1950, được công nhận là đảng viên chính
thức ngày 18/5/1951. Xong khóa học, thì về nước, được phát hiện “có năng khiếu
văn nghệ”, nên đưa vào đoàn Văn công F.351. Những năm 1951 đến 1953, anh đi biểu
diễn phục vụ chiến sĩ các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, rồi Điện Biên Phủ. Và dự
Hội diễn văn công toàn quân ở Việt Bắc (Thái Nguyên). Đến tháng 8/1954 thì về
công tác tại Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị, tham gia tiếp quản tỉnh Nam Định,
biểu diễn ở Thái Bình, Nam Định, Phát Diệm và toàn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ
tháng 6 đến tháng 11 năm 1957, đi biểu diễn ở bốn nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em:
Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, Liên Xô.Về nước cuối năm 1957 đến năm 1958 đi biểu diễn phục vụ
bộ đội các đơn vị ở Tây Bắc. 1958 đến 1963 cùng vợ là nghệ sĩ múa Vũ Thị
Lương tham gia biểu diễn vở nhạc vũ kịch đầu tiên của nước ta Ngọn lửa Nghệ
- Tĩnh ở miền Trung và miền Bắc. Năm 1962 đến 1965 Phạm Vinh mới có thời
cơ về học nhạc chính qui tại Trường Âm nhạc Việt Nam. Tốt nghiệp trường nhạc,
Phạm Vinh về Đoàn văn công Quân khu Việt Bắc và đến tháng 10/1969 thì về Đoàn
văn công Quân giải phóng Trường Sơn, trực thuộc Bộ tư lệnh 559. Suốt 10 năm trời,
đích tôn của nhà văn hóa Phạm Quỳnh là đoàn phó Đoàn Văn công Quân giải phóng
Trường Sơn, thuộc Tổng cục Xây dựng Kinh tế, tham gia biểu diễn tại các mặt trận
Quảng Trị, Vĩnh Linh, Khe Sanh, Đông Hà, Lào, Buôn Ma Thuột, ngay khi chiến sự còn
đang diễn ra ác liệt. Anh luôn chăm sóc diễn viên một cách chu đáo, tỉ mỉ cho
nên thường được diễn viên gọi thân mật là “Bà Vinh”, coi anh
như bà mẹ luôn chăm lo cho các con , một người mẹ hiền, tốt
bụng.
Sau ngày đại thắng 30/4/1975, các anh vào tiếp quản Sài Gòn.
Từ đấy, Đoàn Văn công Quân giải phóng Trường Sơn chuyển thành Đoàn Văn công
Quân khu II.
Ngày 7/9/1979, trong buổi liên hoan mừng công của đơn vị,
cũng là để tiễn Phạm Vinh lên nhận chức vụ mới, cao hơn, anh vui vẻ chan hòa
cùng đồng đội đã từng cùng nhau chia lửa, cất cao lời ca tiếng nhạc suốt hàng
chục năm dài gian khổ. Đêm ấy, anh ngủ lại cùng đồng đội trước lúc chia tay.
Không ngờ tất cả những gian khổ về vật chất, đau đớn về tinh thần mà anh đã chịu
đựng để rồi vượt qua từ năm mới mười ba tuổi đầu, đã dồn cả lại khiến đêm ấy
thành đêm cuối cùng anh nằm trong lòng đồng đội yêu thương. Sáng hôm sau, Phạm
Vinh không dậy nữa, không bao giờ còn thấy lại đồng đội, mẹ và vợ con yêu
thương. Năm ấy, anh mới 47 tuổi đời, nhưng đã có 29 tuổi quân và 29 tuổi Đảng.
Khi anh mất, nhiều đồng đội đã đau đớn thốt lên: “Bà Vinh
ơi, thương bà quá”.
Sau này, bà Vũ Thị Lương, nguyên chính trị viên phó
Đoàn Ca múa Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, vợ hiền của Phạm
Vinh đã nhớ lại: “Anh sống cả cuộc đời trong quân ngũ cho đến hơi thở cuối cùng. Anh
là con người hiền hậu, tận tụy với công việc, một mình làm việc bằng
ba người… Không hề bao giờ anh kêu ca, phàn nàn, mà kiên trì chịu đựng mọi gian
khổ trong đời sống người lính, cống hiến cho quân đội không hề tiếc sức, dù có
lúc từng bị trù dập cũng vẫn không nản chí, không oán trách. Nhưng tôi
cũng cảm ơn quân đội đã công bằng nhìn nhận những thành tích của anh”. Tổng cục
Chính trị và các Bộ tư lệnh Quân khu đã tặng anh quá nhiều bằng và giấy khen của
Phòng Chính trị F351, Tổng cục Chính trị, Nhạc viện Hà Nội, Quân khu Việt Bắc,
Đoàn Văn công Quân giải phóng Trường Sơn, Quân khu II, Tổng cục Xây dựng Kinh tế.
Ngoài ra, Phạm Vinh còn được tặng một Huân chương Kháng chiến Chống Pháp hạng
ba, ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang các hạng I, II, III, một huân chương Kháng
chiến Chống Mỹ cứu nước hạng I, hai huân chương Chiến công Quân giải phóng và
hai lần được bầu là chiến sĩ Thi đua.
Đêm 7 rạng ngày 8/9/1979, Phạm Vinh đột ngột ra đi nhẹ nhàng
trong giấc ngủ, để lại cho vợ mẹ già và ba con nhỏ. Con trai
út là Phạm Minh, bấy giờ mới gần năm tuổi. Cuộc sống gia đình thật chật vật, ăn
bữa nay, lo bữa mai; những đồ đạc “có giá” như tủ lạnh, ti-vi,
ra-đi-ô, bàn là, quạt máy… đều lần lượt “ra đi” để đổi lấy ngày ba bữa ăn đạm
bạc. Vợ anh, chị diễn viên múa xinh đẹp năm nào, nay đầu tắt mặt tối suốt ngày
với công tác và lo chạy ăn hằng ngày. Nhưng chị vẫn nuôi dạy con cái
thành người có ích cho xã hội, sống lương thiện, tận tụy với dân với nước như
cha các con.
Cậu út Phạm Minh sinh năm 1974, đến năm 1982
thì bà lo cho theo học vi ô lông tại Trường Nghệ thuật Hà Nội. Do có
năng khiếu và cố gắng học tập đã được giấy khen của trường. Lúc đó em mới tám,
chín tuổi. Đến tháng 8/1984, non mười tuổi thì em may mắn “lọt mắt xanh” một
chuyên gia Liên Xô đến Hà Nội tuyển học sinh đào tạo diễn viên ba lê, nên được
sang nhập học ở Trường Ba lê quốc gia Ki-ép (U-crai-na) đến tháng 6/1992. Tốt
nghiệp với tấm bằng đỏ, sau 8 năm miệt mài học tập, em được Trường Ba lê quốc
gia Ki-ép cử dự thi Cuộc thi múa ba lê quốc tế (International Ballet
Competition) tại Vác-na (Bun-ga-ri). Vừa lúc em tròn 18 tuổi. Từ đó, Phạm
Minh vào Đoàn Ba lê Trẻ Pháp (Le Jeune Ballet de France). Rồi tháng 8/1994,
tròn 20 tuổi, Phạm Minh được chính thức mời về làm việc tại Nhà hát Ballet du
Capitole de Toulouse vơi vai trò là diễn viên múa đơn số 1 (Premier Solist).
Trong thời gian làm việc ở hai đoàn trên, Phạm Minh đã tham gia biểu diễn các
gala ở Mỹ, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Na Uy, Trung Quốc, Phi-li-pin,
Thái Lan, Cu-ba, Vê-nê-duy-ê-la, Bờ Biển Ngà, Ba Lan và lãnh thổ Hồng Công…Từ
năm 2005, Phạm Minh thường xuyên được mời sang Nhật Bản, dạy ba lê cho
Architanz Dance Studio ở Tô-ki-ô (Nhật Bản). Tháng 9/2009, Phạm Minh được Ban
Giám đốc Nhà hát Ballet du Capitole bổ nhiệm làm “Bậc thầy ba lê” (Maître de
Ballet) của nhà hát.
Trong hai tối 6 và 7/9/2006 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, đã ra mắt
vở ba-lê nổi tiếng Mùa xuân thiêng liêng của N. Roerich do Phạm Minh
đạo diễn. Đây là chương trình hợp tác giữa Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội
(L’Espace) với Nhà hát nhạc vũ kịch Việt Nam và dự án Hỗ trợ phát triển Văn hóa
Việt Nam. Tham gia biểu diễn có các nghệ sĩ của Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật
Quân đội và Phạm Minh, nghệ sĩ múa đơn số một từ mười năm nay của đoàn múa
Capitole (Toulouse, Pháp).
Thế là đứa chắt, con trai của đích tôn nhà văn hóa
Phạm Quỳnh cũng đã trở về phục vụ nhân dân nước nhà.
Đến đây, có thể còn có người không hiểu vì sao con,
cháu, chắt Phạm Quỳnh lại sống và làm việc như thế, trong khi nỗi đau bốn đời
chưa được giải tỏa thỏa đáng… Sự thật giản dị hơn họ nghĩ nhiều. Con,
cháu, chắt nhà văn hóa Phạm Quỳnh đều là những con người lương thiện,
một lòng trung với nước, hiếu với dân như Ông suốt đời nêu gương và tin vào lời
dặn lại của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng tám năm 1945 sau khi thảm kịch xảy ra với
đại gia đình là: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại
sau này. Các con, cháu… cứ vững tâm đi theo cách mạng”.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng chạp năm Kỷ Sửu, tức
12/2/2010.
P.T
KỶ LỤC GIA VỀ NGHIÊN CỨU PHẠM QUỲNH
Kỷ lục gia số 1: Nhà văn Thái Vũ, người phát hiện ra nhiều… vàng nhất ở nhà Phạm Quỳnh. (?!)
Dân Thường
Ngày nay, hầu như mở bất cứ báo ngày hay báo tuần nào ra là dễ
dàng gặp nhan nhản những kỷ lục gia. Vì lẽ, thế giới thì có Kỷ Lục Guiness,
còn Việt Nam ta thì cũng có Kỷ Lục Việt Nam, cũng làm lễ xác nhận, trao bằng
công nhận hẳn hoi đâu kém người ta.
Tôi cứ nghĩ, tại sao trong một lĩnh vực rộng lớn như nghiên cứu
về … Phạm Quỳnh, lại không có kỷ lục gia nào ư?
Tìm tòi rồi thì cũng tìm ra: kỷ lục gia số 1: Nhà văn
Thái Vũ, người phát hiện ra nhiều…vàng nhất ở nhà Phạm Quỳnh. (?!).
Đầu đuôi thế này…
Nhà văn Thái Vũ được Tạp chí Hồn Việt số 16 tháng
10/2008 giới thiệu là: “Ông đã có mặt ở Huế vào những ngày Cách mạng Tháng tám
và đã ghi lại một số ý kiến như là một chứng nhân (Chúng tôi nhấn mạnh
- DT) của dòng lịch sử vốn rất phức tạp lúc đó…”. Trong bài của ông Về
cái chết của ông Phạm Quỳnh (Hồn Việt số 16 tháng 10/2008) có nội
dung giống hệt một bài cũng của ông, nhan đề Về cái chết của ông
chủ bút Tạp chí Nam Phong đã đăng trước đó 3 năm trên Tiền Phong Chủ
Nhật số 51 tháng 12/2005, nêu ra một sự việc chưa từng ai biết
bao giờ. Ba năm trời, hơn một nghìn ngày, đủ chứng tỏ ông tin chắc vào những điều
mình đã viết. Đó là khi sinh viên Trường Thanh niên tiền tuyến Phan Hàm đến bắt
Phạm Quỳnh trưa 23/8/1945 thì: “Anh Phan Hàm ở dưới…khám nhà cả trên lầu, thấy ở
tủ sách nhỏ của con gái Phạm Quỳnh (không biết của cô nào) vàng
lá xếp đống (Chúng tôi nhấn mạnh - DT) trong đó. Niêm phong nhà lầu.
Tất cả người nhà cụ Thượng họ Phạm kể cả cụ đều xuống nhà dưới. Đột nhiên, Phạm
Quỳnh xin lên lầu lấy một “quả trầu” - vì cụ Thượng thường ăn trầu. Thật không ngờ dưới bàn
để toàn vàng (Chúng tôi nhấn mạnh - DT)
Sinh viên Phan Hàm ngày ấy, sau này là thiếu tướng Phan Hàm
đã có viết tay một tập tư liệu mười trang, đề ngày 8/11/1993, tuyên huấn Thừa
Thiên Huế nhận chiều 14/11/1993, thì lại viết như sau:
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh - DT) chẳng
thấy súng đạn đâu cả, ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông
ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít
tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước
đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự,
Đảng, chính quyền của tỉnh nhà.
Nhớ đâu viết đấy. Miễn là nói lên sự thật (Chúng
tôi nhấn mạnh - DT)”.
Mười trang tư liệu mà thiếu tướng không hề có một chữ
nào đả động đến số vàng khổng lồ mà nhà văn Thái Vũ… 60 năm sau đã “phát hiện”
ra.
Tiếc thay cho nhà văn lão thành Thái Vũ, một tiểu thuyết gia
chuyên viết về lịch sử, lại là “một chứng nhân” (chữ của tạp chí Hồn
Việt) của thời đầu Cách Mạng Tháng Tám sôi động ở Huế, lại hai lần viết như thế.
Trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên Võ Thu Hương,
báo Sài Gòn Giải Phóng đăng trên số báo chủ nhật, mục Gặp gỡ cuối
tuần ở trang 4, ngày 7/5/2006 nhà văn Thái Vũ đã nói: “Có nhiều nhà văn viết
tiểu thuyết lịch sử nhưng hiểu biết của họ còn rất hạn chế”. Và “bản thân
chúng tôi, những người viết đề tài này chỉ luôn biết nghiêm khắc với trang
viết của mình, để đưa ra công chúng và khi không được chấp nhận thì tự nghĩ rằng
biết đâu, mai này, giới trẻ sẽ thích thú trước những câu chuyện lịch sử”. Và
ông còn nhấn mạnh: “Không chỉ dồn công sức mà còn phải tuyệt đối trung
thành với lịch sử, phải đề cao yếu tố lịch sử, CÒN NẾU KHÔNG THÌ NÊN GÁC
BÚT!”. Thật hùng hồn thay, tâm huyết thay, thấm thía thay…
Không biết nhà văn Thái Vũ, hiện tuổi đã rất cao, đã chịu
gác bút chưa?
Mong ông sáng suốt… cho giới trẻ và cả giới già nữa được nhờ.
Mong lắm thay…
31/7/2009
D.T
TƯ LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG
VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký
thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc
danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu
chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý,
tại Hà Nội - Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên,
cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề
từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc
bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.
II. Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh
CỤ ĐÀO NHẬT VINH - 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn -
nay là quận 1 Tp. Hồ Chí Minh.
Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913, Đào Nhật
Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba - Nguyễn Tất Thành từ Le
Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận
Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ;
“Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn
dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với
Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật
qua nước Nga - Xô Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại
Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố
cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp,
cụ bị trục xuất về Sài Gòn.
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải
phóng. Tôi vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh… để sưu tầm tư
liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở
Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường
Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành
và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây,
tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ
đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc…
sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ
ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào
lăng viếng Bác Hồ
PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC "BỮA CƠM BẮC, THẾT
KHÁCH BẮC"
Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội
Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân
nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với
Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins). Còn
trên tạp chí Nam Phong, khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết
công khai: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông
đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên
bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ
đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã
lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện
ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói… Mai là
ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7 - PT chú)… Anh em đi dạo
chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nàoCụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: – Năm 1919 tôi rời đại dương,
lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn
Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường)
và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám
yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ
thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng
“Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh,
Nguyễn Thế Truyền.Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số
3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh
Nguyễn nhận báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt
mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất,
tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở
Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu vua Khải Định đăng trên
các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité (Báo Nhân Đạo của
Đảng Cộng Sản Pháp – PT chú),…Những bài gây xôn xao nhất: Les
lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của bà Trưng Trắc -
PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số 24/6/1922; Les
civilisateurs (Những nhà khai hóa - PT chú) số 22/6/1922 và bài Hygiène
mental (Vệ sinh tinh thần - PT chú); La haine des races (Hận thù chủng tộc -
PT chú)… Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông Tre, chưa in trên
báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô - PT
chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu
Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ Phan Văn Trường
chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao
người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A.
Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”… Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu
Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ
Thuộc Địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng
giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm.
Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác
và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria.Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào
phục dịch Hội Chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn
Long… cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như:
quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh - Tổng thư ký Hội Khai Trí
Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo,
Đông Dương Tạp Chí, Notre Journal, Notre Revue… Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo
Marseille 1906, ông Quỳnh quen biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh
Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn
Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn
Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch
Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái
Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch
Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn
là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập hội. Nhờ
ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào,
tôi trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn
Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ
đang nói thầm… (Chúng tôi nhấn mạnh - PT). Tôi và anh bạn quay trở lại… chiều hôm ấy
tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn
nhỏ với tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc”
nhé. Đến sơm sớm, đó… Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc
là tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm
chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa
làm bếp vừa tự hỏi - Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn
Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về
Paris được. Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng
tôi nhấn mạnh - PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên
phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ,
tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị
tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu
rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba
vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về
phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền – và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh
khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn,
đặc biệt là món dồi.Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi
chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:Nhìn mặt mà đặt hình dongCon lợn có béo, miếng lòng mới ngonĐủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòngCụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên
nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly
chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói:- Anh
Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu,
Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:Đồng bàn, đồng bát, đồng bangHồn quê theo áng mây ngàn cố hương.Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn
bình dân!…”Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn
Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.Hà Nội - Chiếu Văn8-12-200812/11 Mậu Tý(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ
Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành
phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên
cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước
ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên cứu, cán bộ
bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, nhan đề Những
năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất Pháp 1917-1923. Chúng
tôi thiết nghĩ, những tư liêu của nhà văn Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích
thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật chuyện năm 1922 tại
Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật chuyện
năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những tư
liệu bổ sung quý giá và hiếm có."ĐIỆP VIÊN ĐƠN TUYẾN"CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH(Một đoạn báo của giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn
Văn Trung, tháng 9 năm 1999)Lời dẫn của Phạm Tôn: Giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn
Văn Trung từng nổi tiếng như cồn ở Sài Gòn thập niên 60 và 70 thế kỷ trước với
các bài viết, các tập sách và cả các buổi diễn thuyết chống Phạm Quỳnh quyết
liệt, sắc sảo đến mức “đào đất đổ đi”, “không đội trời chung”, nhất là trong tập
sách Chủ Đích Nam Phong (Tủ sách Tìm về dân tộc của nhà xuất bản Trí
Đăng, Sài Gòn phát hành 2000 bản, ngày 20/2/1975), một công trình phê bình
chính trị, trong đó ông dành hết tâm trí để chứng minh rằng Phạm Quỳnh là: “tay
sai chính trị, tay sai văn hóa của thực dân Pháp”.Thế nhưng, tháng 9 năm 1999, trên tạp chí Đi Tới, xuất bản
ở Montreal, Canada số đặc biệt về chủ đề “Phạm Quỳnh: Văn hào và Chính trị:
Công hay Tội”, ông lại bất ngờ công bố một giả thuyết kỳ quặc đến mức nhà
báo lão thành Mạc Kinh Trần Thế Xương dưới bút danh Người Luân Đôn ở tận thủ đô
xứ sở sương mù đã phải đánh giá đoạn báo đó là “thần sầu quỷ khốc” và viết
hẳn một bài báo dài ngót 14 trang giấy A4 nhan đề Đối diện với lương
tâm trước vụ án văn học – chính trị về Cố học giả Phạm Quỳnh: GIÓ ĐÃ ĐỔI CHIỀU.Để bạn đọc có tư liệu tham khảo nhiều chiều khi tìm hiểu về học
giả Phạm Quỳnh, chúng tôi xin trích đăng đoạn báo đó và một phần trong Lời
kết bài của giáo sư Nguyễn Văn Trung đăng trong số báo trên từ
trang 8 đến trang 20 nhan đề Từ suy tôn Phạm Quỳnh đến đề cao thực dân thời
hậu hiện đại. Đầu đề đoạn trích này là của chúng tôi.Tóm lại xét về mặt nổi mặt chìm Phạm Quỳnh là người của địch nhưng
có thể là người của ta gài trong hàng ngũ của địch (Chúng tôi nhấn mạnh -
PT) hay không? Giả thuyết này có thể được nêu lên dựa vào tâm sự mà
Phạm Quỳnh đã bày tỏ trong chuyến công du Pháp hồi 1922. Bất cứ người Việt
Nam nào từ khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương và nước Pháp, có cơ hội ra nước
ngoài sang Pháp đều có một lối nhìn thời cuộc khác với người chỉ ở trong nước.
Qua những trang tâm sự Phạm Quỳnh cho biết:Đời sống va chạm hằng ngày trong nước ở xa mới thấy những việc
tưởng là quan hệ mà sau đó bần tiện nhỏ nhen, tranh ăn tranh nói, tranh uống
tranh ngồi, v.v…Ở Paris đầu óc mở ra đón nhận những trào lưu mới tiến bộ. Phạm
Quỳnh đi nghe các buổi nói chuyện của phe tả Cộng sản, đi thăm đại học
Sorbonne, trường sư phạm rồi than thở về thân phận học hành dang dở dở dang của
mình và cả nước cũng là dở dang.Nhận rõ chân tướng chế độ thực dân ở Việt Nam, những người
Pháp thực dân khác hẳn người Pháp ở PhápHiểu được tại sao người Việt ở Pháp chống thực dân và
không thể có thái độ khácVới tâm tình đó ông tìm gặp các ông Phan Chu Trinh, Nguyễn An
Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc.Trong bài du ký ông chỉ nhắc tới buổi gặp Phan Chu Trinh
mà không nói tới những gặp gỡ khác đặc biệt với Nguyễn Ái Quốc. Chắc
hẳn ông đã báo cáo với mật thám Pháp về những tiếp xúc này một cách nào đó
cho khỏi bị nghi ngờ. Những ai đã có dịp gặp Nguyễn Ái Quốc bất kể là người Việt
Nam hay người ngoại quốc đều thú nhận rất khó chống khả năng cảm hóa thuyết phục
của Nguyễn Ái Quốc sau này là Hồ Chí Minh, một người thấm nhuần sách lược
Lê-nin-nít. Có thể Nguyễn Ái Quốc, nhận thức được sự đóng góp đặc
biệt của Phạm Quỳnh cho cách mạng Việt Nam ở cương vị một người cộng tác thân
tín với giới lãnh đạo chính trị an ninh tình báo cấp cao nhất trong chính quyền
thuộc địa, trao công tác cho Phạm Quỳnh mà bây giờ gọi là “ĐƠN TUYẾN” nghĩa là
chỉ tiếp xúc nhận chỉ thị của một người khi cần đến, trong khi chờ đợi cứ năm
vùng 10 năm, 20 năm hoàn thành xuất sắc tất cả các việc người Pháp trao để
không bị nghi ngờ bất chấp những đố kị kết án là phản quốc Việt gian. THỜI ĐIỂM
1945-46 PHẠM QUỲNH CÓ THỂ XUÁT HIỆN VỚI BỘ MẶT THẬT (thì) BỊ CẤP DƯỚI GIẾT CHẾT.
Khả năng bị thủ tiêu ở thời điểm này lại rất dễ xảy ra ngay cả với những người
được triệu ra Bắc làm bộ trưởng như Lê Văn Hiến nếu không nhờ có can thiệp kịp
thời.Dĩ nhiên, đây hoàn toàn là một giả thuyết có thể phải đợi bao
giờ một cuốn sử về Nguyễn Ái Quốc trung thực được công bố có nói đến tiếp xúc
giữa ông và Phạm Quỳnh hồi ở Paris hoặc không bao giờ được kiểm chứng.(…) Tình hình hiện nay có xu hướng tạm gác đánh giá Phạm Quỳnh
về chính trị và lưu tâm tìm hiểu về sự nghiệp văn học của ông. Trong
nước đã xuất bản những Truyện ngắn Nam Phong và chuẩn bị những trao đổi
về mặt văn học (…) Việc nghiên cứu này không dựa vào những chứng từ như hồi ký,
trả lời phỏng vấn… chỉ có giá trị tương đối nào đó, mà vào bút tích ghi trong hồ
sơ hành chính lưu trữ ở văn khố Pháp, Nhật hay của bộ nội vụ ở Việt Nam. Hy vọng
có thể phát hiện những sự kiện thuận lợi cho Phạm Quỳnh như xác
nhận giả thuyết ông Nguyễn Ái Quốc móc nối Phạm Quỳnh và bức thư kết bằng những
mẩu thuốc lá của những Đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở trong tù gửi cho ông
Phạm Quỳnh đề nghị can thiệp với Pháp thay án tử hình đối với nhóm Nguyễn Thái
Học được xác minh ông Phạm Quỳnh có can thiệp… (những đoạn in đậm là do
chúng tôi nhấn mạnh - PT)Montreal, đầu tháng 8/1999Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký
thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc
danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quý”. Tập tư liệu
chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý,
tại Hà Nội - Chiếu Văn.Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên,
cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề
từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc
bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.PHẦN 2: "GIẾT MỘT HỌC GIẢ NHƯ VẬY THÌ NHÂN DÂN TA ĐƯỢC GÌ?
CÁCH MẠNG ĐƯỢC LỢI ÍCH GÌ? (…) ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI XẤU!"Lời dẫn của Phạm Tôn: Những lời nói ngay từ tháng 9/1945
khẳng định chắc chắn, dứt khoát ấy của Hồ Chủ tịch đã được thuật lại rõ ràng
trong bài Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt
san Công giáo và Dân tộc, số 140, tháng 8/2006 và bài Người
nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng
9/2006.Sau khi thoái vị, cựu hoàng Bảo Đại - Vĩnh Thụy nhận lời mời
Hồ Chủ tịch ra Hà Nội, ngày 4/9/1945. Ngay hôm sau, ngày 5/9, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nghênh tiếp cựu hoàng Bảo Đại - Vĩnh Thụy tại Bắc Bộ phủ từ 8-9 giờ. Và
ngày 10/9 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23/SL cử ông Vĩnh Thụy làm cố vấn
Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.Tiếp theo, các vị cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, cựu
Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, cựu Tổng đốc Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Hồ Đắc
Điềm ứng đáp lời mời Hồ Chủ tịch ra gánh vác việc nước. Trong thời khắc này ông
Tôn Quang Phiệt, chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên - Huế, ông đến
nhà số 8 Lê Thái Tổ bên Hồ Gươm gặp Bác Hồ (từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội,
Bác ở nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ một
nhà tư sản yêu nước, danh nho. Bác viết Tuyên Ngôn Độc Lập tại đây.
Sau ngày người đọc Tuyên Ngôn Độc Lập 2/9, Bác về ở nhà số 8 phố vua
Lê Thái Tổ, hằng ngày đến Bắc Bộ phủ làm việc).Ông Vũ Đình Huỳnh kể:- Ông chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên-Huế Tôn
Quang Phiệt đến Bắc Bộ phủ, đồng chí thường trực văn phòng đưa khách vào phòng
đợi rồi đến báo với tôi. Tôn Quang Phiệt, một danh sĩ tôi nghe tiếng từ lâu,
nay mới gặp lần đầu. Hai chúng tôi tay bắt mặt mừng… Anh xin được gặp Ông Cụ,
nhiều vấn đề phải thưa ngay với Cụ. Tôi hẹn anh Tôn Quang Phiệt, hiện giờ Ông Cụ
đang bàn công việc khẩn, tướng Lư Hán đến Hà Nội rồi. Sáng mai Ông Cụ hội
đàm với Lư Hán… Tôi vào phòng họp, báo với Bác: – Ông Tôn Quang Phiệt trong Huế
ra đang ở phòng khách, xin Bác cho gặp chiều hôm nay, có được không. Lúc nói đến
ông Tôn Quang Phiệt, Bác và anh Võ Nguyên Giáp đều biểu lộ sự vui mừng
tái ngộ. Bác nói: - Ông Tôn Quang Phiệt là chỗ quen biết. Ngày còn nhỏ, tôi
theo cha lên Võ Liệt, Nguyệt Bồng huyện Thanh Chương để học, Tôn Quang Phiệt bấy
giờ độ 4,5 tuổi… Chú Tư hẹn với chú Phiệt đúng 16 giờ gặp nhau ở “Bát số” (số 8,
phố vua Lê Thái Tổ - tiếng lóng, mật hiệu). Chiều hôm ấy, Hồ Chủ tịch làm việc
với ông Tôn Quang Phiệt tại đây. Chính trong buổi làm việc này, ông Tôn Quang
Phiệt báo với Hồ Chủ tịch: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi!” (Chúng tôi nhấn mạnh
- PT) Bác thu hai cánh tay vào sát ngực tựa lên mặt bàn, lặng ngắt một
lúc…Người nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được
lợi ích gì?” Người duỗi hai tay ra mặt bàn: “Tôi đã từng gặp, từng
giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!”PHẦN 3: "LÚC NÀY CÒN CỤ PHẠM QUỲNH THÌ…"Hồ Chủ tịch, Thượng khách thăm chính thức nước Cộng hòa Pháp
từ 31/5 đến 20/9/1946. Ông Vũ Đình Huỳnh tháp tùng Hồ Chủ tịch. Ông Vũ
Đình Huỳnh vừa nói, vừa mở tập Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch bốn
tháng sang Pháp - Đ.H viết là sở cứ:…“Pháp không chịu công nhận Việt
Nam độc lập mở chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ từ 23/9/1945 đang lan rộng ra Nam
Trung Bộ mà lại mời Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thượng khách thăm chính thức nước
Pháp, đó là điều chưa từng có trong lịch sử. Còn kỳ lạ hơn, sau lễ đón nghi thức
nguyên thủ quốc gia tại phi trường Le Bourget ngày 22/6/1946, Hồ Chủ tịch về
nhà khách chính phủ Royal Monceau. Tại đây, liên tiếp các chính khách, các nhà
văn hóa danh tiếng, các tướng lĩnh, các văn nghệ sĩ, báo giới, các đảng lớn ở
Pháp… đến chào Hồ Chủ tịch.Người đến chào Hồ Chủ tịch đầu tiên là Đại tướng Juin, Tổng
tham mưu trưởng quân đội Pháp. Rồi Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Moutet, Bộ
trưởng Justin Godart, nhà kiến trúc sư danh tiếng Francis
Jourdain, giáo sư nghị viện Privet CTS Paillet, tướng Petit, chủ tịch
báo giới Cộng hòa Pháp Bayet, trạng sư Nordman, văn sĩ
Bloch, bà Cotton lãnh tụ phụ nữ Dân chủ. Điều lạ là, Đảng Cộng hòa
bình dân (MRP- đảng của thủ tướng Bidault) do ông Schuman chủ tịch đảng dẫn đầu
đoàn, ông Francisque Gay - Bộ trưởng, ông Michelet - Bộ trưởng, ông Collin ủy
viên trung ương, ông Gortais ủy viên trung ương, ông Debey - ủy viên trung ương,
ông Ammury ủy viên trung ương, ông Terrenoir - ủy viên trung ương, ông Max
André - trưởng đoàn đại biểu Pháp, Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau. Kế đến
là đoàn Đảng Xã hội Pháp đến chào Hồ Chủ tịch gồm có bà Morty
Capgras, ông Moutet - Bộ trưởng, ông Philip-Bộ trưởng, ông Luyssy nghị viên,
ông Rosenfeld- Viện sĩ, ông Boutbrien- bác sĩ và các ủy viên trung ương Roux,
Stble, Dechezelles… Hồ Chủ tịch từng sinh hoạt trong đảng Xã hội… các vị vui
chuyện với Người suốt 8 giờ tối đến 2 giờ sáng… Đoàn Đảng Cộng sản Pháp: Hai
ông bà Cachin, Thorez Phó chủ tịch chính phủ, bà Braun Phó
chủ tịch Quốc hội, bà Jeannette Vemersche nghị
viên, bà Vaillant Couturier nghị viên, Duclos Phó chủ tịch Quốc hội,
Marty ủy viên trung ương, Mauvais ủy viên trung ương, Billoux Bộ trưởng Bộ Xây
dựng, Tillon Bộ trưởng Bộ quân khí…Một đoàn văn sĩ, thi sĩ lừng danh thế giới đến chào Hồ Chủ tịch:
Triolet, Aragon, Richard Bloch, Boene, Moussinac, Masson, Séghers, Pierre
Emmanuel. Ông bà Joliot Curie hai nhà bác học thế giới đến chào Hồ Chủ
tịch rất thân tình, đàm đạo gần hai tiếng đồng hồ. Về sau, hai nhà bác học
Joliot Curie còn gặp Hồ Chủ tịch mấy lần… Lại…không thể tưởng tượng nổi, nhà
danh họa Picasso gặp Hồ Chủ tịch ôm choàng lấy nhau hồi lâu! Vừa hàn huyên
Picasso vừa ký họa chân dung Hồ Chủ tịch. Bức chân dung lịch sử ấy người giao
cho tôi cất giữ. Hơn hai mươi năm sau tôi gặp họa, bị khám nhà nên không còn nữa.Đến như cựu Toàn quyền Đông Dương hai lần A.Saraut cùng với con rể
là Thượng sứ Sainteny đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và ôm chặt lấy Nguyễn Ái Quốc
năm xưa trước quan khách trong bữa tiệc long trọng!Trước ngày khai mạc hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau, Hồ
Chủ tịch gặp mặt tất cả phái đoàn: ông Phan Anh, ông Bửu Hội, ông Hoàng Minh
Giám, ông Nguyễn Văn Huyên, ông Trịnh Văn Bính, ông Dương Bạch Mai, ông Nguyễn
Mạnh Hà, ông Tạ Quang Bửu, ông Đặng Phúc Thông, ông Huỳnh Thiện Lộc, ông Chu Bá
Phượng, ông Hoàng Văn Đức. Trưởng đoàn là ông Phạm Văn Đồng. Lúc các thành viên
đoàn Việt Nam vào đủ trong phòng, Hồ Chủ tịch nói với ông Phạm Văn Đồng, có ông
Đỗ Đình Thiện và tôi (Vũ Đình Huỳnh): “Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì…” (Chúng
tôi nhấn mạnh - PT). Người im lặng. Ông Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã
nói rồi mà!…” (Chúng tôi nhấn mạnh - PT). Mà cũng chỉ có Bác Hồ! Sau khi ở
Pháp về, ngày 4/12/1945, trong phiên họp Chính phủ Người đề nghị trợ cấp hằng
tháng cho hai bà Thành Thái, Duy Tân mỗi bà 500 đồng Đông
DươngLời bình của Phạm Tôn: Nhà nghiên cứu Nguyễn
Đình Đầu năm nay 89 tuổi, vừa nhận giải thưởng “Nghiên cứu – 2008” của Quỹ văn
hóa Phan Châu Trinh, công nhận thành tựu suốt đời của cụ. Trong một lần vui
chuyện cụ đã kể cho chúng tôi: Năm nọ, thành phố Hồ Chí Minh có yêu cầu Giáo sư
Trần Văn Giàu và cụ chủ biên một tập sách giới thiệu toàn diện về Sài Gòn -
Thành phố Hồ Chí Minh. Khi cùng làm việc với nhau, bỗng một
hôm Giáo sư Trần Văn Giàu thở dài: “Giá như bây giờ còn cụ Phạm Quỳnh,
có phải là đỡ không…” Câu nói ấy vô tình gần giống hệt lời Hồ Chủ tịch nói
năm 1946, trước ngày khai mạc Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau trên đất
Pháp.ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC
Nhà báo lão thành Đặng Minh Phương tỏ ra có con mắt tinh đời khi trích dẫn đoạn văn sau đây: “Làm báo Nam Phong, Phạm Quỳnh cũng được phụ cấp 600 đồng một tháng, món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ là để rồi lấy danh nghĩa chính phủ Nam triều đòi Pháp phải trở lại hiệp ước 1884. Vậy một người yêu nước như Phạm Quỳnh, sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua chỉ là làm một việc miễn cưỡng, trái với ý muốn, để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn, chứ thực tình là một người dân mất nước, ai không đau đớn, ai không khóc thầm”. Đó là một đoạn văn có trọng lượng trích trong tác phẩm Đời viết văn của tôi của nhà văn Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, phần ông viết rõ lý do vì sao ông viết nên thiên kiệt tác Kép Tư Bền: Đó là vì ông thương… Phạm Quỳnh! (Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, năm 1971). Có điều đáng tiếc là nhà báo lại gán đoạn đó cho Phạm Tôn, khiến cho Phạm Tôn mang tiếng “đạo văn” khi ông viết: “ông Phạm Tôn trên báo Xưa và Nay tháng 9-2006 viết” trước khi đưa ra đoạn văn trên. Sau đoạn văn trên ông còn thòng thêm một câu hóm hỉnh: “(xin được lưu ý ông Phạm Tôn là ông Phạm Quỳnh từng nói nước ta còn mà!)”. Quả tình Phạm Tôn tôi thuộc thế hệ sinh sau đẻ muộn, không có hiểu biết, cũng không đủ tầm cỡ để viết những dòng nặng ký như thế… Nhưng nhân được người trên quan tâm như vậy, chúng tôi cũng xin bày tỏ vài điều chân thật, không phải ai cũng biết cả.
Phạm Quỳnh là con nhà nho, cháu nhà nho, chắt nhà nho, mà đều
là nhà nho nghèo, loại hàn sĩ cả. Từ cụ Dưỡng Am Phạm Hội (trích Gia phả họ
Hoàng Đạo- Phụ: bên ngoại, do rể: Hoàng Đạo Thành bái ghi, môn đệ tử: Tô
Ngọc Huê thủ thức, tôn sinh: Ngô Văn Dạng phụng viết, Hoàng Đạo Thúy kính dịch
từ chữ Hán) đến ông nội rồi cha đẻ đều dạy học mà không thu học phí, chỉ sống với
những gì học trò đem biếu, khi thì thúng gạo, rổ khoai, lúc con gà, con cá, mớ
rau. Chín tháng mất mẹ, bà nội và bà cụ tú cho hưởng thừa tự phải bế đi bú chực
nhà hàng xóm. Rồi chín tuổi mất cha, gia đình khốn khó, hai cụ phải bòn những
quả ổi, quả bồ hòn trong vườn nhỏ sau nhà đem bày bán trước cửa cùng mớ hàng
xén lặt vặt để có cái cơm cháo qua ngày nuôi cháu khôn lớn. Sau đó lại lo cháu
“Không có cái chữ thì làm sao sống được với đời”, bèn cho theo học trường tiểu
học Pháp Việt mới mở ở phố Hàng Bông gần nhà (Hoàng Đạo Thúy: Phố phường Hà Nội
xưa, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2000). Chỉ vì ở đấy học không mất
tiền. Rồi tiếp đến lại học Trường Thông ngôn (Collège Des Interprètes) ở bờ
sông Hồng, cũng lại vì học ở đấy không mất tiền!
Nghèo khổ như thế lại ham học và có hiếu với hai bà cụ, Phạm
Quỳnh chỉ mong cố gắng học để đổi đời, đền đáp ơn hai bà nuôi dạy. Mặt khác
“Ông, cha Phạm Quỳnh có liên hệ mật thiết với các tổ chức Cần Vương, Phục Việt
chống Pháp đương thời (…) Vì thế, không lạ gì chuyện cậu thanh niên Phạm Quỳnh
đã nhiệt tình tham gia ủng hộ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tham gia bãi
khóa ngay tại Trường Thông ngôn, phản đối đàn áp Đông Kinh Nghĩa Thục, bắt giam
các sĩ phu yêu nước đến nỗi đã từng bị Pháp bắt giữ, năm mới 15 tuổi” (Mạc
Kinh: Nỗi oan khiên của học giả Phạm Quỳnh, trong tập Giải oan lập một
đàn tràng, Cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, phát hành lần thứ nhất tại Hoa Kỳ,
2001). Sau đó được thả ra vì thấy là người không thuộc tổ chức hội kín nào cả
(Sự tình cờ của lịch sử đã khiến con thứ mười của Phạm Quỳnh là Phạm Thị Hoàn
sau này lại lấy nhạc sĩ Lương Ngọc Châu cháu nội cụ Lương Văn Can vị chủ soái của
Đông Kinh Nghĩa Thục).
Năm 1908, đỗ thủ khoa trường Trung học thuộc địa (Collège Du
Protectorat) tức trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An, Phạm Quỳnh được tuyển
vào làm nhân viên Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Êxtrême - Orient).
Tại đây do yêu cầu công việc, Phạm Quỳnh phải tự học Hán văn đến mức đọc và viết
được văn chữ Hán. Trường Viễn Đông Bác Cổ là cả một kho tư liệu sách
vở, “kho báu tri thức’ cho chàng trai hiếu học, yêu nước, thiết tha với lịch sử
cha ông. Phạm Quỳnh đã tìm trong mớ giấy bản phủ bụi và tìm ra những áng văn
thơ yêu nước. Ông đọc, chọn lọc trong sách Lệ ngữ Văn tập rồi dịch ra
Pháp văn, đưa đăng trong tạp chí của Trường Viễn Đông Bác Cổ như tài liệu tham
khảo lịch sử hai bài của Nguyễn Viết Lụy tế các tướng sĩ Võ Tánh và Ngô Tùng
Châu. Từ đấy hai bài này mới được người đời biết đến (Hoàng Đạo Thúy: Nhà
họ Phạm Lương Đường và chủ bút Phạm Quỳnh, bài viết theo yêu cầu của Viện
Văn học ngày 5-12-1992).
Từ 1913, hai mươi tuổi, Phạm Quỳnh đã thử sức trên Đông
Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh với những bài khảo cứu, bình luận văn học
nghệ thuật. Đến 1917, mới 24 tuổi nhưng đã có thâm niên 9 năm công tác nghiên cứu
viết lách, ông chớp thời cơ nhận làm chủ bút phần quốc ngữ tạp chí Nam
Phong, giành lấy cho mình và những người cùng chí hướng, yêu nước, đặc biệt yêu
tha thiết tiếng ta, có chỗ để thi thố tài năng, góp sức xây dựng nền quốc học,
mở mang dân trí, tăng tiềm lực cho đất nước sau này. Trên tạp chí Nam
Phong, ngoài những việc không thể không làm trong một tờ báo mà thực tế là do
người Pháp chi tiền và điều hành, ông đã khôn khéo đăng những bài văn yêu nước
của người xưa và cả người đương thời, những bài về lịch sử chống ngoại xâm,v.v…
làm nên cả một bộ bách khoa thư về lịch sử và đời sống Việt Nam phong phú. Cũng
từ đó tập hợp được lực lượng yêu quốc văn, yêu quý lịch sử nước nhà, tạo điều
kiện cho biết bao thanh niên nâng cao hiểu biết về nhiều mặt đời sống, vun bồi
thêm lòng yêu nước sẵn có trong họ.
Năm 1925 Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc)
rồi đưa về Hà Nội giam ở nhà tù Hỏa Lò, đem ra xét xử ở Hội đồng Đề hình là tòa
án thực dân tàn bạo nhất thời ấy. Tất nhiên, kẻ đứng ra xét xử đều là người
Pháp. Hơn nữa, dư luận người Pháp ở Đông Dương cũng như ở chính nước Pháp sẽ có
tác động rất lớn, có thể nói là quyết định đối với vụ xử án này. Vì thế ông
đã không phát biểu chính kiến trên Nam Phong, mà
trên một tờ báo của Pháp có ảnh hướng rất lớn hồi bấy giờ. Hơn nữa viết trên
báo tiếng Pháp thì tự do hơn, có thể trình bày hết ý mình, vì thời ấy báo tiếng
Pháp không bị kiểm duyệt. Ông cho đăng trên tờ Indochine Républicaine bài
lên tiếng công khai bênh vực Phan Bội Châu, yêu cầu khoan hồng cho nhà chí sĩ
chỉ có “một tội” là “tội yêu nước như bất kỳ người Pháp nào yêu nước Pháp”
(Chính Đạo:Hồ Chí Minh con người có huyền thoại, tập 2, 1925-1945, Văn
hóa, Houston, Mỹ, trang 49, chú thích 8). Sáu tháng sau ngày bị bắt, 8 giờ 30
phút ngày 23-11-1925, Hội đồng Đề hình xử vụ Phan Bội Châu. “Hội đồng Đề hình
Pháp cho là: trong 8 tội đó có 6 tội đáng phạt đi đầy, một tội đáng khổ sai chung
thân và một tội đáng tử hình (theo Bùi Đình: Vụ án Phan Bội Châu, NXB Tiếng
Việt, Hà Nội, 1950). Tuy vậy, có lẽ vì sợ hậu quả của vụ án mà tới lúc này họ
chưa thể lường được nếu xử tử hình Phan, nên vào phút chót sau một ngày xét xử,
hội đồng này đã tuyên án Phan khổ sai chung thân (Nguyễn Quang Tô: Sào Nam
Phan Bội Châu con người và thi văn, tủ sách Văn học, bộ Văn hóa Giáo dục
và Thanh Niên, Sài Gòn 1974).
Năm 1932, Phạm Quỳnh nhận vào Huế tham gia quan trường với ý
nghĩ ngây thơ là có điều kiện để những điều mà trước nay mình chỉ có thể luận
bàn trên trang giấy và bằng lời nói thì nay có cơ thực hiện được. Mười ba năm
ông làm quan thì có tới hơn chín năm làm Thượng thư Bộ Học. Ông kiên quyết chủ
trương người Việt phải học tiếng Việt đã, chống lại chủ trương thịnh hành thời ấy
là cho học ngay tiếng Pháp từ vỡ lòng “vì là thần dân của Đại Pháp thì học tiếng
Pháp sớm ngày nào hay ngày nấy, dù sao rồi cũng ra làm việc cho Tây”. Ông cố gắng
rất nhiều, nhưng mới chỉ thành công ở mức bắt buộc phải học tiếng Việt đạt bằng
Sơ học yếu lược mới được thi tốt nghiệp tiểu học.
Năm 1933 mới làm quan được một năm ông đã viết thư cho
Lu-i Mác-ti (Louis Marty) là giám đốc chính trị tùng sự tại phủ toàn quyền
Đông Dương, cũng là “bạn cũ” đồng sáng lập tạp chí Nam Phong, để bênh
vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ Lu-i Mác-ti can thiệp giảm án. Trong
thư đề ngày 18-1-1933, Phạm Quỳnh nêu rõ ông (ở Huế) viết thư này để giới thiệu
em vợ là ông Lê Xuân đến gặp Lu-i Mác-ti ở Hà Nội, trình bày một việc bà mẹ vợ
Phạm Quỳnh yêu cầu ông nhờ Lu-i Mác-ti giúp đỡ. Đó là vụ một chiến sĩ cộng sản
18 tuổi tên là Nguyễn Công Nghi bị bắt ở Kiến An vì một vụ “âm mưu Cộng Sản”,
đã bị tòa án Kiến An kết án tù chung thân và hiện nay đang bị giam ở nhà tù Hỏa
Lò Hà Nội, sắp bị đầy đi Côn Đảo, thậm chí đầy đi ngoài xứ Đông Dương. Anh
này là em ông Nguyễn Công Kính, chủ hãng thuốc lào Giang Ký danh tiếng ở Hà Nội
, một người giàu có, đáng kính và có vai vế trong xã hội, lại là người có ân
nghĩa lớn với gia đình vợ Phạm Quỳnh. Ông trình bày sơ qua vụ này và đề nghị
Lu-i Mác-ti can thiệp, còn gợi ý nếu không thể tha được (Vì ông tin là anh
ta vô tội) thì cho đi tù ở gần Hà Nội hoặc ít nhất cũng là vùng Bắc Bộ, đừng bắt đi Côn Đảo hay
những nơi quá xa xôi. Vì gia đình ấy, ông anh cả không có con chỉ trông vào anh
ta kiếm con trai nối dõi, mà anh lại chưa có vợ; không được thăm nuôi thì gia
đình rất lo lắng, v.v… Ông cố hết sức dùng tình cảm riêng thân mật lâu năm với
Lu-i Mác-ti để xin xử nhẹ tay với người cộng sản trẻ này. Tư liệu này
chúng tôi được đọc là do sau khi Lu-i Mác-ti chết, bà vợ thấy có bút tích của
Phạm Quỳnh, đã gửi lại cho bà Phạm Thị Ngoạn, con gái ông cũng là tiến sĩ
Xoóc-bon (Sorbonne), Pa-ri, tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (Introduction
Au Nam Phong)
Ông Phạm Tuân con trai út Phạm Quỳnh sinh năm 1936, đến nay
(2008) còn nhớ rất rõ và kể cho người viết bài này kỷ niệm khó quên thời thơ ấu,
đặc biệt là những ấn tượng lạ lùng về những lần được thân phụ dẫn đi thăm “ông
già điên” ở túp lều tranh bên bến Ngự. Năm ấy ông mới lên bốn.
Các buổi chiều, cơm nước xong, thường bác tài Mai hỏi: “Chú
Miềng (chú mình, nói trại giọng miền Trung) có theo Cụ đi chơi không… Hôm nay Cụ
lại đến “ông già điên đây”. Ông nhớ hồi đó không biết người ấy là ai nhưng
gặp thì thấy hiền hậu, dễ thương, hay hỏi chuyện trẻ con dễ hiểu mà cũng dễ trả
lời, nên ông thường bám xe đi theo cha luôn. Cha và ông già ăn mặc xuềnh xoàng,
râu tóc dài, xơ xác thường vào trong nhà nhỏ to trò chuyện một lát rồi ra về. Vẻ
thân mật lắm, nhất là lúc mới đến và khi sắp ra về. Cuối năm ấy ông già mất,
ông Tuân mới nghe cha nói đó là Cụ Phan Bội Châu.
Ngày 24-12-1925, một tháng một ngày sau hôm xử án tại Hà Nội
kết án khổ sai chung thân thì toàn quyền Va-ren (Varenne) vốn là Đảng viên Đảng
Xã Hội Pháp ký quyết định “ân xá Phan Bội Châu”. Tuy “được ân xá”, nhưng, thật
ra ông bị giam lỏng ở bến Ngự (Huế), bị mật thám theo dõi, kiềm chế mọi hoạt động.
Ông dựng một túp lều ở bến Ngự và sống ở đấy suốt 15 năm cuối đời. Nơi đây biến
thành nơi tập trung của thanh thiếu niên và học sinh Huế, tới để yết kiến,
chiêm ngưỡng vị anh hùng dân tộc. Nơi đây cũng thường lui tới một số công
chức còn nặng tình dân tộc, sùng bái các vị anh hùng, vĩ nhân
đã hiến trọn cuộc đời cho đất nước (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).Biết cảnh sống khó khăn của Phan Bội Châu, nhiều người
đã gửi ngân phiếu nặc danh giúp ông tiền bạc, nhiều đến nỗi Phan
Bội Châu bị phiền hà. Ông đã phải buộc lòng từ tạ bằng một bức thư với lời lẽ
chân tình tha thiết. Trùm mật thám Trung kỳ Xô-nhi (Sogny) đã bủa một mạng lưới
mật thám dày đặc bao vây túp lều bến Ngự. Mà hồi ấy, theo như chính lời Phan Bội
Châu nói (do Lạc Nhân, nguyên thư ký tòa soạn báo Tiếng Dân ghi lại
đăng trên báo Tiếng Dân năm 1933) thì: “Tôi không hề kêu ca, nhưng
trong nhà nhiều miệng ăn, nào là các đồng chí đi đầy về đã quá già, không biết
làm gì để sống, cũng phải tới đây chung sống với tôi, nào con cháu các đồng
chí, kẻ chết chém, người chết trong lao, tôi phải nuôi dưỡng vì không biết bỏ
cho ai bây giờ”. Trong số đó có Phạm Công Nguyệt con trai độc nhất của liệt sĩ
Phạm Hồng Thái, chưa từng được biết mặt cha. Anh được Phan Bội Châu nuôi cho ăn
học tại trường Khải Định Huế đến đỗ tú tài triết học. (theo Nguyễn Quang Tô,
sách đã dẫn).Ngày 29-10-1940, Phan Bội Châu mất, thọ 74 tuổi. Mai táng
trong chiều ngày kế tiếp, theo đúng di chúc của Cụ. Ngoài những người thường
ngày gần gũi bên cụ, không mấy ai dám lai vãng, sợ ty Liêm phóng theo dõi rầy
rà. Theo Nguyễn Quang Tô: “hàng trăm, ngàn câu đối, văn tế được gửi trực
tiếp đến nhà hoặc đăng báo, hay truyền tụng miệng cho nhau nghe… tạo thành một
bầu không khí bi hùng tràn ngập khắp Trung Nam Bắc. Một số người còn gửi
tiền về tòa soạn báo Tiếng Dân nhờ lo xây dựng phần mộ. Lại có những người thuộc
hạng “tai to mặt lớn” đã phải lén lút chui lòn cửa sau nhà Phan để được tới
trước bàn thờ Phan dâng điếu lễ và tấm lòng kính mộ.”Không biết trong số những người “gửi ngân phiếu nặc danh”, “gửi
tiền nhờ báo Tiếng Dân”, “lén lút chui lòn cửa sau” có Phạm Quỳnh không?
Tôi nghĩ, công bằng mà nói, khó có thể trả lời dứt khoát là không.Bởi, chỉ cần xua đi lớp bụi thành kiến kỳ thị dày đặc đã chôn
vùi cuộc đời ông suốt hơn nửa thế kỷ qua, ta thấy ngay ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG
LÒNG VỚI NƯỚC. Những dòng tôi viết trên đây chỉ là nhân đọc bài của nhà báo
lão thành Đặng Minh Phương mà nghĩ tới thôi, hoàn toàn không có ý trả lời, thảo
luận hay tranh luận gì cả. Tôi viết chỉ là vì tâm đắc với L.T.S in trước bài
ông là: “đánh giá công minh người và việc của quá khứ là việc khó. Nó cần rất
nhiều điều kiện mà trước hết cần chỗ đứng nhìn, cần hiểu bối cảnh lịch sử và
tư liệu lịch sử… Ngày nay chúng ta cần có thái độ cởi mở khoan dung, gạn
lọc công bằng… nhưng cũng không được làm đảo lộn lịch sử, lờ mờ thật giả, đưa đến
sai lệch nguy cơ cho lịch sử và cho cả hiện tại”.Ngày 8-8-2008Phạm TônÔNG PHẠM QUỲNH QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC (Bài số 2)Phạm TônSau bài số 1 được bạn đọc đón nhận, chúng tôi thấy nên thuật lại
thêm một số sự việc liên quan đến Phạm Quỳnh còn không ít người chưa biết rõ.Năm 1922, Phạm Quỳnh sang Pháp với tư cách là tổng thư ký hội
Khai Trí Tiến Đức do ông sáng lập, tham dự cuộc Đấu xảo Thuộc địa
tổ chức tại Marseille. Ông từ giã cái búi tó củ hành, nhưng vẫn mang theo mấy bộ
quốc phục và một “bản Kiều tùy thân” cùng một cuốn sổ tay nhỏ xíu.Xong nhiệm vụ ở đấu xảo ông tranh thủ đi ngay Paris.
Trong Pháp du hành trình nhật ký đăng liên tiếp trên báo Nam
Phong, ngày thứ ba, 16/5/1922 ông ghi “Ngồi trên xe lửa mình đã đọc kỹ cái sổ
kê những nhà khách sạn ở Paris in trong các sách Paris chỉ nam, anh em đã
bàn nhau định vào trọ một nhà ở đường Vaugirard, vì trong sách nói rằng nhà ấy
trông ra vườn Luxembourg cảnh trí đẹp lắm. Nhưng khi đến nơi bảo xe ô tô đi đến
đường ấy số ấy thì chẳng thấy nhà khách sạn đâu cả, không biết là sách in lầm
hay nhà đã dọn đi nơi khác rồi. Thế là mình rắp định một điều hỏng cả một điều,
mà sự không trông hòng thời lại tới. Số là ông Ng.H.C là con một vị hưu quan ở
Bắc kỳ ta, được tin anh em đến có ra ga đón, khi đi tìm trọ ở đường Vaugirard
không xong, ông bèn dắt về chỗ trọ ông, nơi gọi là “Thế giới khách sạn” (Hôtel
du Monde) ở đường Berthollet số 15. Thế là sang đất lạ lại được ở cùng người đồng
quận cũng là một sự không ngờ”. (Phạm Quỳnh: Pháp du hành trình nhật
ký. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2004)Phạm Quỳnh không thể ngờ rằng, từ hôm ấy ông đã bị tên mật vụ
Désiré theo dõi và báo cáo đều đặn lên cấp trên. Báo cáo ngày 16/6/1922, Désiré
viết “Người An Nam Phạm Quỳnh đến từ Đông Dương đã bị sở cảnh sát Marseille chỉ
điểm, từ ngày 16/5/1922 đã ở tại Hôtel du Monde, 15 phố Berthollet. Ông thuê một
căn phòng trả tiền mỗi tháng 200 francs. Ông ta đăng ký vào sổ của khách sạn với
nhân thân sau: Phạm Quỳnh, 29 tuổi, nhà báo. Sinh tại Hà Nội, đến từ Hà Nội. “Ông đến Paris với hai đồng bào, cũng nói là đến từ Đông
Dương, ở cùng địa chỉ là:- Nguyễn
Văn Vi, 30 tuổi, sinh ở Hà Nội, thợ in.“Từ khi tới Paris, ba người An Nam
này có đồng bào tới thăm thường xuyên.“Xin đặc biệt lưu ý là một người có nhận dạng ứng với nhận dạng
của Phan Văn Trường.“Họ thường ra ngoài và đôi khi đêm về nhà rất muộn. “Tuần trước họ nói với chủ khách sạn là đi dự một cuộc họp,
không giải thích gì thêm”.“Ký tên Désiré” (Tư liệu lưu trữ tại Văn khố Bộ Ngoại
giao Pháp, phần Pháp quốc hải ngoại, tại Aix en Provence, Pháp)Trong cuốn sổ tay nhỏ bằng bốn ngón tay của Phạm Quỳnh năm ấy
có ghi “Juillet, 13, Jeudi: Ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái
Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins)” Và “Juillet, 16, Dimanche: Ở nhà. Trường,
Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” Còn trên tạp chí Nam Phong khi đăng Pháp
du hành trình nhật ký, ông viết công khai: “Thứ năm, 13 tháng 7 năm 1922:
(…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là
tay chí sĩ, vào hạng bị hiềm nghi, nên bọn mình đến chơi không khỏi có
trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng,
họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn
ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta, thật là vui vẻ, thoả
thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói… Mai là ngày hội kỉ niệm dân quốc… Anh
em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội ở Paris thế
nào.” Và “Chủ nhật, 16 tháng 7 năm 1922: Hôm nay, không đi đâu, ngồi hầm
trong buồng viết mấy cái thư về nhà.“Trưa, mấy ông chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước lại chơi ở trọ,
nói chuyện giờ lâu. Nghe nói các ông đi đâu cũng có bọn trinh tử theo sau, chắc
bọn đó đã đứng ngoài cửa cả. Người đồng bang ở nơi khách địa, không thể không gặp
nhau, gặp nhau không thể không nói chuyện nước nhà, lòng người ai chẳng
thế, tưởng cũng chẳng là sự phi phạm gì.” (Phạm Quỳnh: sách đã dẫn)Chắc chắn tên mật vụ Désiré có theo dõi hai cuộc gặp gỡ này,
không biết hắn đã báo cáo thế nào… Nhưng còn một lần gặp gỡ nữa, có đến 11 người,
do các ông Lê Thanh Cảnh và Trần Đức tổ chức vào một buổi cơm chiều thì chắc chắn mật
vụ Désiré không biết vì không vào nổi khách sạn Montparnasse Paris. Trong số
khách dự có Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Cao
Văn Sến. Sau này Lê Thanh Cảnh đã thuật lại cuộc họp mặt của “5 nhân vật phi
thường ngồi chung lại một bàn” trong hồi ký “Rời mái tranh trường Quốc Học”, bản thảo gửi đăng Đặc san số 5 của Hội Ái hữu cựu học sinh Quốc Học.
Cả năm vị đều trình bày chủ trương cứu nước của mình. Đây thật sự là cuộc họp mặt
bàn việc nước, thẳng thắn, sôi nổi, có khi gay gắt, nhưng ai cũng một lòng thiết
tha yêu nước dù cho quan điểm có khác nhau, thậm chí chống đối nhau.Có lẽ ít nhất qua ba lần gặp mặt mà chúng ta còn biết đó và
mười mấy năm đọc Tạp chí Nam Phong mà tháng 8/1945, sau khi nghe ông
Tôn Quang Phiệt từ Huế ra báo: “Phạm Quỳnh đã bị xử mất rồi” thì cụ Hồ ngồi lặng
người một lúc lâu rồi nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách
mạng được lợi ích gì?… Tôi đã từng gặp cụ Phạm ở Pháp… Đó không phải là người xấu.
(Tư liệu do nhà văn Sơn Tùng cung cấp). Và khi nhà thơ Huy Cận tham
gia phái đoàn chính phủ vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại có nghe dân chúng xì
xào nhiều về chuyện cụ Phạm bị xử tử hình, về tới Hà Nội, được gặp Bác, ông có
kể lại chuyện đó, thì Bác thở dài, nắm lấy tay ông và nói: “Đã lỡ mất rồi”.
Trong bài Phạm Quỳnh - Chủ bút báo Nam Phong, giáo sư Văn Tạo cũng
xác nhận là nhà thơ Huy Cận đã thuật lại với ông câu “Đã lỡ mất rồi” của Hồ Chủ
tịch (Tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng 9/2006)Tư liệu số 313 (Phạm Quỳnh) báo cáo của mật vụ
Jolin ngày 21/12/1922 từ Marseille viết: “Tôi vinh dự gửi tới ngài
bản dịch một bài báo ký tên Phạm Quỳnh đăng trong Nam Phong, tờ báo Bắc
kỳ mà ông ta là chủ bút”. Trong bản dịch, Jolin nhấn mạnh những đoạn Phạm Quỳnh viết là
tại khu Đấu xảo Thuộc địa ở Marseille khu vực Đông Dương “có một lâu đài lớn
xây dựng theo kiểu Angkor, thực sự là vĩ đại. Để phục chế tòa lâu đài này đã phải
tốn rất nhiều công và của. Nội thất thì toàn bằng gỗ, bên ngoài thì quét vôi.
Thật tiếc vô cùng vì sau 6 tháng đấu xảo sẽ phải hủy bỏ. Hàng triệu đồng đã
tiêu phí vào việc này và sẽ tan thành mây khói và tung theo gió bốn phương, lợi
ích của việc tuyên truyền thuộc địa này có bõ công không?” Một đoạn khác, Jolin
lại nhấn mạnh bằng cách gạch dưới “Tất cả những người thợ và nhân viên ở tại đấu
xảo đều than phiền về thức ăn và nơi ở. Quả vậy, những lán trại dành cho người
An Nam không có gì là hấp dẫn. Về cái ăn thì còn phải mong đợi nhiều. Người ta
cho rằng tất cả những việc này chỉ là tạm thời vì những nhân viên chịu trách
nhiệm tổ chức đấu xảo đã ngập đầu trong biết bao lo toan khác cho nên họ không
có thời giờ vật chất để chăm sóc cho người An Nam. Mong rằng những cái đó chỉ
là tạm thời, bởi lẽ thật là thảm thương (…). Nhiều phái viên trước khi đi sang
Pháp nghĩ rằng đời sống ở bên đó rất đắt đỏ, họ sẽ sống ở đấu xảo để tiết kiệm
tiền, nhưng sau khi thấy được cảnh này, họ đã không thể ở lại đấy đến một giờ.“Sự thực là với tiền người ta có thể làm tất cả, chỉ cần biết
là họ có biết cách tiêu tiền có ích không”. Cuối bản báo cáo, Jolin viết “những
lời gièm pha của Phạm Quỳnh chỉ trích oan uổng và gây ngờ vực đối với sự quản
lý chung, đặc biệt là đối với ban Đông Dương ở Đấu xảo Marseille (…) Tôi
tin chắc chắn rằng, thưa ông Toàn quyền, là Phạm Quỳnh như tôi đã nêu
lên trong những bức thư số 170, 200, 203, 204 phải được coi là đáng ngờ nếu
không muốn nói là kẻ bị tình nghi”. Mật vụ Jolin còn phụ thêm một báo cáo
đặc biệt về “Cuộc trò chuyện của Phan Châu Trinh với Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn
Vĩnh”, nhưng trong đó chỉ dẫn lời tranh luận với nhau của Nguyễn Văn Vĩnh và
Phan Chu Trinh, không thấy dẫn lời nào của Phạm Quỳnh (Tư liệu của
Văn khố đã dẫn)Đó là những nhân viên cấp thấp nhất của nhà cầm quyền Pháp đã
“quan tâm” đến Phạm Quỳnh như thế. Còn các cấp cao thì sao?Chúng tôi có trong tay tài liệu 14-PA-1/8 của Khâm
sứ Trung kỳ J.Haelewyn gửi Toàn quyền Đông Dương J.Decoux viết từ Huế ngày
15/10/1944, trong đó y ca ngợi Phạm Quỳnh tài năng xuất sắc hơn tất cả các quan
lại trong triều cho nên đang bị kèn cựa, kỳ thị và đề nghị: “Giữ vững ông ta
trong vai trò của mình là Thượng thư Bộ Lại” và “Tóm lại là đứng vững trên mớ hỗn
độn”, kèm theo là hai chữ “Phải!!”, “Phải!!” ghi bằng mực đỏ, do chính tay Toàn
quyền Decoux phê, tán thưởng việc đề xuất ấy. Tiếp sau đó là báo cáo ngày
8/1/1945 cũng của Khâm sứ Trung kỳ Haelewyn gửi Toàn quyền Đông Dương J.Decoux
và Đại tướng Mordant, trong đó viết : “Một lần nữa, viên Thượng Thư Lại Bộ (Phạm
Quỳnh) lại cực lực công kích việc trưng dụng thóc gạo cho Nhật Bản… Ông (Phạm
Quỳnh) đòi hỏi chúng ta, trong thời hạn ngắn nhất, thực thi lời hứa thể hiện sự
khai phóng lũy tiến trong một tiến trình rõ rệt, và chúng ta phải cam kết trả lại
cho Triều Đình những biểu tượng của quyền uy tối thượng quốc gia bao trùm Bắc Kỳ
và Nam Kỳ. Phạm Quỳnh đe dọa khuyến khích các phong trào phản loạn, nếu
trong những tháng tới chúng ta không cam kết thương thảo với Hoàng Đế Bảo Đại một
quy chế chính trị mới, thay chế độ Bảo Hộ bằng một thể chế “Thịnh Vượng Chung”,
trong đó những chức vụ chính được giao cho người bản xứ. Nói một cách
khác, Phạm Quỳnh đòi chúng ta ban bố chế độ tự trị cho Trung Kỳ, Bắc Kỳ,
bãi bỏ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và tạo dựng một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu
ý ngài về điểm với bề ngoài lịch sự và chừng mực, ông này là một người quyết liệt
tranh đấu cho Việt Nam độc lập, và chúng ta không nên hy vọng làm dịu tinh thần
ái quốc của ông ta, một tinh thần chân thành và không hề lay chuyển, bằng cách
bổ nhiệm ông vào một chức vị danh dự được hưởng nhiều bổng lộc. Cho đến nay,
ông là một đối thủ hòa hoãn nhưng quyết liệt của nền thống trị Pháp…Chúng tôi
xin chờ chỉ thị của Ngài”. (Trích bản dịch của Đoàn Văn Cầu trong Dẫn Nhập tập Phạm
Quỳnh: Hành Trình Nhật Ký, Nhà xuất bản Ý Việt, Yerres, Pháp, 1997).Trong bài cùng nhan đề trên Hồn Việt số 15 có viết
là năm 1933 mới làm quan được một năm, Phạm Quỳnh đã viết thư cho Louis Marty
là Giám đốc Chính trị vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương, cũng là ”bạn cũ” đồng sáng
lập Tạp chí Nam Phong để bênh vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ
Louis Marty can thiệp giảm án. Thì cuối năm đó, ngày 30/12/1933 ông lại viết
cho Marty một lá thư “chúc mừng năm mới”, trong đó có những dòng tâm tình: “Về
phần riêng tôi, như thế là số mệnh đã an bài. Tôi là người của chuyển tiếp, vì
vậy, sẽ không bao giờ được người đời hiểu mình. Chuyển tiếp giữa Á Đông và
Tây Âu, giữa quá khứ và tương lai, giữa một trạng thái chánh trị sản phẩm của
xâm lăng và đương nhiên là phải hư hỏng ngay từ nền tảng, và một nền trật tự mới
không thể nhất đán mà thành tựu, khả dĩ biết tôn trọng phẩm cách của con người.
Sống giữa đầy rẫy những mâu thuẫn như thế, cố gắng dung hòa các mâu thuẫn đó, với
hoài bão thực hiện một chương trình tiến hóa hợp tình hợp lý khả dĩ đưa đến
tình trạng hòa hợp toàn diện; dĩ nhiên là tôi phải đương đầu với những ngộ
nhận đủ loại.“Tôi tự an ủi và tin tưởng mãnh liệt ở vai trò cần thiết của
mình. Vai trò đó hiện nay chỉ mang lại cho tôi những “đắng cay”, nhưng một ngày kia sẽ có thể tiến tới “vinh
quang”“Dĩ nhiên là tôi rất có thể sống ẩn mình trong một “tháp
ngà”, tự mãn với cuộc đời êm dịu thanh bình theo quan niệm của nhà hiền triết
hay học giả mà đó cũng là lý tưởng của lòng tôi. Nhưng tôi thiển nghĩ có bổn phận
sống ra ngoài khuôn khổ đó. Tôi đã lầm? Hay tôi đã có lý?“Và một cuộc phiêu lưu đã đến với tôi. “Là một nhà ái quốc An Nam, tôi yêu nước với tất cả tâm hồn:
người ta lên án tôi phản bội Tổ quốc, vì tôi đồng lõa với xâm lăng và phục vụ
xâm lăng!“Mặt khác, là bạn chân thành của nước Pháp: người ta lại
trách tôi khéo léo che đậy một ý thức quốc gia khe khắt và bài Pháp sau một tấm
bình phong thân Pháp!“Và trường hợp của tôi làm ai nấy ngạc nhiên. Người ta cố tìm
hiểu giải thích, bằng đủ mọi cách, mà vẫn không thể hiểu.“Có lẽ một ngày kia người ta sẽ hiểu, khi một thỏa hiệp được
chào đời có thể hòa giải tinh thần quốc gia An Nam và chánh sách thuộc địa
Pháp.“Tôi tin sự hòa giải có thể thực hiện được. Nhưng trong khi sự
hòa giải đó chưa được thực hiện, cuộc phiêu lưu của tôi không tránh khỏi
trở nên bi đát”.“Có lẽ chăng, đó chẳng phải là cuộc phiêu lưu của riêng tôi.
Nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một cá nhân, để trở nên của cả một thế hệ, một
thời đại” (Phạm Thị Ngoạn: Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong, nguyên tác viết
bằng tiếng Pháp, bản dịch của Phạm Trọng Nhân, Nhà xuất bản Ý Việt, Yerres,
Pháp, 1993)Ông Phạm Quỳnh quả là người nặng lòng với nước.VỀ NGÀY "ỦY BAN KHỞI NGHĨA THUẬN HÓA MỜI PHẠM QUỲNH RA
LÀM VIỆC" ĐỂ RỒI "ĐI KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI"Đại tá, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn KhoanLời dẫn của Phạm Tôn: Chúng tôi đã đăng bài Góp phần
tìm hiểu và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất Tất Nhiên” của Đại tá Tiến
sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan, ký bút danh Sông Hương, và được đông đảo bạn đọc ở
trong nước và cả ngoài nước nữa hoan nghênh, khen ngợi, truyền cho nhau đọc…Kỳ này chúng tôi lại may mắn được Đại tá Tiến sĩ ưu ái gửi
cho một bài mới, kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, đúng phong cách của
nhà sử học chân chính, nhưng vẫn với bút pháp rất độc đáo của ông, lật đi lật lại
vấn đề nhiều lần, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, thể hiện sự tin tưởng vào
lương tri và trình độ hiểu biết của bạn đọc.Xin mời các bạn cùng thưởng thức để có thêm những suy
nghĩ mới về một vấn đề xảy ra cách nay đã hơn 60 năm.Theo lời Phạm Quỳnh, ông muốn “nghỉ việc”, để chăm lo vào đường
văn học. Tổng khởi nghĩa diễn ra ở Huế, ông vẫn bình tĩnh. Con cháu tham gia biểu
tình, ông chẳng những không ngăn cản mà còn khuyến khích, bảo người nhà mua và
may cờ đỏ sao vàng cho con cháu đi biểu tình. Có lẽ ông cho mình là một người
yêu Tổ Quốc - theo cách của ông - đòi Pháp trả lại quyền cho vua Việt Nam - đấu
tranh cho một nền quân chủ lập hiến hiện đại, v.v… Và cũng biết mình chưa nắm
được tình hình diễn biến của thế sự, tin (cả tin) vào suy nghĩ của mình, không lường được những gì
sẽ xảy ra, chủ quan không chủ động tìm hiểu thông tin để tự bảo vệ. [1]Ngày 23 tháng 8 năm 1945, hai sinh viên trường Thanh niên Tiền
tuyến - Huế là Đặng Văn Việt và Cao Pha [2] hạ
cờ quẻ ly ở Kỳ đài Huế, kéo cờ đỏ sao vàng lên. Vào lúc 14 giờ, lá cờ rộng chừng
100 mét vuông ấy đã tung bay trên bờ sông Hương, trước núi Ngự Bình, trên đỉnh
cột cờ Phu Văn Lâu.Ngày 23 ấy, nhân dân Thừa Thiên-Huế đã tổng khởi nghĩa giành
chính quyền thắng lợi.Cũng trong ngày 23, “Tôi (Phan Hàm sinh viên trường Thanh
niên Tiền tuyến Huế-NVK chú) nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong
nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi
sáng hôm ấy, anh Hồ [3] và
tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết đích xác nhà
(biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa ông Phan Tử Lăng [4] trực
tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc cho hai tiểu đội
lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu đội cho anh Việt chỉ huy) để
giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được
rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn
cuộc mít tinh.”
Bởi, chỉ cần xua đi lớp bụi thành kiến kỳ thị dày đặc đã chôn
vùi cuộc đời ông suốt hơn nửa thế kỷ qua, ta thấy ngay ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG
LÒNG VỚI NƯỚC.
Phạm Quỳnh không thể ngờ rằng, từ hôm ấy ông đã bị tên mật vụ
Désiré theo dõi và báo cáo đều đặn lên cấp trên. Báo cáo ngày 16/6/1922, Désiré
viết “Người An Nam Phạm Quỳnh đến từ Đông Dương đã bị sở cảnh sát Marseille chỉ
điểm, từ ngày 16/5/1922 đã ở tại Hôtel du Monde, 15 phố Berthollet. Ông thuê một
căn phòng trả tiền mỗi tháng 200 francs. Ông ta đăng ký vào sổ của khách sạn với
nhân thân sau: Phạm Quỳnh, 29 tuổi, nhà báo. Sinh tại Hà Nội, đến từ Hà Nội.
“Họ thường ra ngoài và đôi khi đêm về nhà rất muộn.
Tư liệu số 313 (Phạm Quỳnh) báo cáo của mật vụ
Jolin ngày 21/12/1922 từ Marseille viết: “Tôi vinh dự gửi tới ngài
bản dịch một bài báo ký tên Phạm Quỳnh đăng trong Nam Phong, tờ báo Bắc
kỳ mà ông ta là chủ bút”.
“Và một cuộc phiêu lưu đã đến với tôi.
“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy
ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu
súng lục St.Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng
trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên
Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn.
Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra,
ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
Phần cuối tập tư liệu 10 trang do chính tay Thiếu
tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 và Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế
nhận chiều 14/11/1993. Có chữ ký trên tên do Thiếu tướng viết.
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh - N.V.K)
chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và
ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn
hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi
muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà”. [5]
“Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ, sau đó
giao cho anh Nguyễn Trung Lập [6] đưa
họ đi khỏi thành phố Huế để tránh sự dòm ngó của người ngoài [7].
Ngày 28 tháng 8, Pháp cho sáu tên nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Mười
ngày sau (6 hoặc 7 tháng 9) lại có một toán người Pháp khác đổ bộ vào Thuận An.
Bọn nhảy dù xuống Hiền Sĩ, vừa xuống mặt đất đã hỏi thăm người địa phương “Phạm
Quỳnh ở đâu? (nguyên văn tiếng Pháp: Où est Pham Quynh?)”
Trong khi đó, cũng ngày 23 “sáng, Hồ Chí Minh (rời Tân Trào từ
ngày 22 để về Hà Nội) đi qua huyện Đa Phúc, Phú Yên (nay là Sóc Sơn, Hà Nội).
Chiều, người qua sông Hồng ở bến Phúc Xá. Tối người đến nghỉ trong nhà ông Công
Ngọc Kha ở làng Gạ (Phú Gia, huyện Từ Liêm)[8]”.
Ngày 24 người nghỉ tại đây. “Sáng ngày 25, tại làng Gạ, Người nghe các đồng chí
Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo8. “Chiều, người đi ô tô
vào Hà Nội, dừng ở số nhà 35 phố Hàng Cân, lên gác tầng hai nhà số 48 phố Hàng
Ngang”8. Ngày 26, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung
ương Đảng. Ngày 27, Người họp với Ủy ban Dân tộc Giải phóng, “đề nghị thi hành
chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập chính phủ thống nhất quốc gia bao gồm cả
những đảng phái, những người có danh vọng”8
Ngày 28, Hồ Chí Minh đến làm việc tại nhà số 12 Ngô Quyền,
dành thời gian soạn Tuyên ngôn độc lập. Được báo cáo là Trần Huy Liệu cùng
phái đoàn đã vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại thoái vị, Bác nói với Hoàng Hữu
Nam: “Chú tìm một người [9] thay
chú vào Huế gặp Phạm Quỳnh đưa thư tôi mời cụ Phạm” [10]
Trong đêm 23 tháng 8, chính phủ cách mạng lâm thời đã điện
đòi Bảo Đại thoái vị. Chiều 30 tháng 8, Bảo Đại nộp ấn, kiếm cho phái đoàn chính phủ ta [11]
Trở lại ngày 27 tháng 8, khi họp Ủy ban Dân tộc Giải phóng tại
Hà Nội, chưa rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh có “đả động” gì đến Phạm Quỳnh
không? Và Người có kịp căn dặn Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận
vào Huế tìm hiểu hoặc đến thăm Phạm Quỳnh?
Ngày 28, Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Ngày 30, Trần
Huy Liệu – nếu có tìm gặp Phạm Quỳnh cũng không được. Vì, có thể là
những người lãnh đạo Ủy ban Khởi nghĩa cho biết là “có dấu hiệu Pháp liên lạc với
Phạm Quỳnh” hoặc là Phạm Quỳnh bị bắt và đã giải đi xa rồi… Trần Huy Liệu chắc
là có báo tin về Hà Nội, nên ngày 30 tháng 8 (ngày tiếp nhận thoái vị của Bảo Đại),
Hoàng Hữu Nam đã thưa với Bác: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt” [12] thì
Bác đã nói ngay “Bất Tất Nhiên”. [13]
Ngày 31, Vũ Đình Huỳnh đưa các cô Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức
đến gặp Hồ Chủ tịch, báo tin cha mình (Phạm Quỳnh) đã bị bắt.
Bảy ngày sau, tức mùng 6 hay 7 tháng 9 năm 1945 [14],
theo Phan Hàm, Võ Quang Hồ, sau khi Giải phóng quân Huế được thành lập vào ngày
1/9 thì có tin tàu Pháp xuất hiện ở cửa bể Thuận An [15].
Võ Quang Hồ cùng một số chiến sĩ có vũ khí đi thuyền áp mạn tàu Pháp, leo lên
tàu Pháp đưa thư của ta cho chúng. “Xem xong thư, tên Pháp ôn tồn nói: Mời các
ông lên bờ trước, tôi cho tàu nhổ neo sát vào bờ, rồi dùng ca nô lên bờ sau.
Khi thuyền của Võ Quang Hồ, Đoàn Huyên15 cặp bờ thì tàu Pháp nhổ neo,
giương buồm, hướng biển khơi mà chạy. [16] Có
thể là “sau đó” Phạm Quỳnh bị bắn, nhưng bị bắn vào ngày nào?
Báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của
Việt Minh Trung bộ, số 11 ra ngày 9/12/1945, cho biết: “Cả ba tên Việt Gian đại
bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính
quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23/8 và đã bị Ủy ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã
thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật” [17].
Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế bấy giờ là Tố Hữu.
Vậy, ông Phan Tử Lăng nhận lệnh đi bắt Phạm Quỳnh hẳn không phải là do ông Tôn
Quang Phiệt Chủ tịch Ủy ban Nhân dân hay ông Hoàng Anh - phụ trách chính trị đại
diện Đảng bố trí trong chính quyền - ra lệnh, mà phải là Chủ tịch Ủy ban Khởi
nghĩa.
Theo tư liệu nước ngoài, sau khi tàu chiến Pháp vào
cửa Thuận An ngày 6 tháng 9, có lẽ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa cho rằng “Pháp có
thể tiếp tục tìm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh (dù chỉ có một câu nói của nhóm nhảy dù
“Phạm Quỳnh ở đâu?”. Cũng không rõ bọn Pháp hỏi để nhờ Phạm Quỳnh làm “phiên dịch”
hoặc “tôn” Phạm Quỳnh lên làm chức gì đó?) nên họ xử lý ngay.
Sau khi Phạm Quỳnh “lên xe đi” (và “không bao giờ trở về nữa”),
ông vẫn tin “Cách mạng sẽ cho về”. Và lúc nhận viên đạn trước khi rời bỏ cuộc đời,
sự nghiệp còn dở dang, ông vẫn tự cho mình là không có tội với Nước - có
chăng là chưa thuận theo thời đại - ông vẫn không tin rằng “Cách mạng, những
người Cộng sản Việt Minh” lại xử bắn mình. Vì thế ông mới hét lên “Quân sát
nhân!” (Quân giết người).
Theo Vũ Đình Huỳnh, khi ông Tôn Quang Phiệt ra Hà Nội gặp Bác
và báo cáo “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử rồi” (nguyên văn). Bác nói: “Giết
một học giả (chú ý: Bác không nói người mà nói học giả) như vậy
thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao
tiếp với Cụ Phạm (chú ý: Bác dùng chữ Cụ) ở Pháp. Đó không phải là
người xấu”[18]
Trở lại với thông báo của Việt Minh Trung Bộ, ta có thể đặt
các câu hỏi sau đây:
a) Tại sao đã xử bắn “Kết án tử hình” từ ngày 6 (7)
tháng 9 năm 1945, mà mãi đến ngày 9 tháng 12 mới ra “thông báo”?
b) Bản án đã “thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”.
Vậy “thời kỳ thiết quân luật” bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào, trong phạm vi địa
phương nào? Có được chính phủ cho phép?
c) Ủy ban Khởi nghĩa “kết án tử hình”. Vậy bản án ấy số bao
nhiêu? Ai là quan tòa? (Hoặc do thời kỳ cách mạng, bão táp, v.v… và v.v…)
d) Thông báo viết: “Phạm Quỳnh còn dựa vào thế lực Pháp (…)
bóc lột vơ vét tài sản quốc dân…”. Vậy, khi khám nhà Phạm Quỳnh đã thu được được
bao nhiêu “tài sản”, vàng bạc, v.v…? Có mâu thuẫn gì không với ý kiến của thiếu
tướng Phan Hàm: “Chẳng thấy dấu hiệu gì (chứng tỏ liên lạc với Pháp), cũng chẳng
có tài sản gì… ( ngoài khẩu súng săn)? Và nếu thu được “tài sản” liệu có
thống kê không, danh mục ai thu, ai giữ, gửi ai, cơ quan nào bảo vệ?
đ) Tờ thông báo này là một công văn của “Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh
Nguyễn Tri Phương, Thừa Thiên-Huế gửi Tòa án Quân sự Thuận Hóa”
Thông báo này có hai điểm cần xem xét:
1/ Cho đến ngày 9/12/1945, nghĩa là sau khi nước ta tuyên bố
độc lập, có chính phủ rồi, hệ thống chính quyền ở các địa phương là Ủy ban Nhân
dân kỳ, tỉnh, huyện…liệu có phải chỉ riêng ở Thừa Thiên-Huế vẫn tồn tại Ủy
ban Khởi nghĩa?
2/ Tòa án quân sự Thuận Hóa - sự thật đã có hay chưa? Ai là
chánh án?
Trong sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3, NXB
Chính trị Quốc gia, 1993, trang 17 có viết: “Ngày 13 tháng 9, sắc lệnh số
33C quy định lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh
Bình), ở Trung Bộ (Vinh, Huế, Quảng Ngãi…) Tòa án Quân sự sẽ xử tất cả những ai
có hành động phương hại đến nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Những
quyết nghị của Tòa án Quân sự sẽ đem thi hành ngay (không có quyền chống án
- NVK chú) trừ trường hợp tử hình (Chúng tôi nhấn mạnh - NVK), cần có
thời gian cho tội nhân xin ân giảm (chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền ân giảm -
NVK chú) nếu họ muốn và phải được ghi vào bản án. Nếu không, bản án (tử hình -
NVK chú) thành vô giá trị”.
Xử Phạm Quỳnh trước khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự, “cũng
phải” thôi! Sau khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự ngày 13/9/1945 rồi, tại sao
đến ngày 9 tháng 12 cùng năm, Ủy ban Khởi nghĩa mới báo cáo lên tòa án - một việc
đã làm cách đó hơn ba tháng? Với mục đích gì? Nhằm giải quyết việc gì?
Phải chăng đây là một “tờ trình” cho hợp lệ, khi Ủy ban Khởi
nghĩa có thể không còn, thời gian “thiết quân luật” đã qua, việc “kết án tử
hình đã thi hành ngay rồi”. Cũng cần nói thêm là khó có thể tránh… Tuy nhiên, nước
nhà đã độc lập, đã có chính phủ, chính quyền các cấp, người công dân của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải được hưởng quyền công dân (tự do báo chí, hội họp… không
bị xâm phạm thư từ, tài sản, càng không được xâm phạm tính mệnh). Nhưng những
người lãnh đạo ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, chịu trách nhiệm trước dân lại vô tình
(hay hữu ý?) không biết (hay cậy quyền?) dựa vào uy tín của cách mạng, tự tiện
quyết định mà không cần xin phép, không báo cáo…Họ chủ trương (có hay
không?) làm một việc đã rồi. Khoan nói đến tầm nhìn hạn hẹp, ấu trĩ,
mà cần xem xét sự việc này như là một “di căn” của “đấu tranh giai cấp” từ
1930 - 1931 còn sót lại, với “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những
“nhà cách mạng yêu nước” tinh thần cao nhưng lại giáo điều, tả khuynh “hủ Mác”.[19]
Tạp chí Tri Tân số 205 ra ngày 7/9/1945 (suýt soát
ngày 6 (7) Phạm Quỳnh bị thủ tiêu) đăng bài Cuộc hội đàm giữa Cụ Hồ Chủ tịch
với ba đại biểu Liên đoàn Văn hóa (Trương Tửu, Thượng Sĩ, Nguyễn Đức Quỳnh -
NVK chú).
Trong buổi gặp ấy, Cụ Hồ có nói: “Trong chính phủ lâm thời có
cả vua, quan lại cũng có, địa chủ cũng có, nông dân cũng có, công nhân cũng có
(chú ý: Bác không nói Việt Minh - Cộng sản - Dân chủ - Quốc Dân đảng - NVK chú)…
Lúc này bất cứ người nào miễn là có tài và đừng phản cách mạng thì có thể
phụng sự quốc gia, Tổ quốc”…[20]
Chắc chắn là vẫn còn những nhân chứng, chi tiết, sự kiện mà lịch
sử chưa tiếp cận được, chưa khai thác được, hoặc chưa tìm ra, chưa công bố được
nhiều vụ việc - trong đó có “vụ Phạm Quỳnh”.
Chúng ta có thể tự an ủi rằng: Bác Hồ đã “gặp” Phạm Quỳnh rồi
mà vẫn “lỡ” [21].
“Gặp” ở tinh thần yêu nước, muốn làm gì đó để nước thoát khỏi ách nô lệ, mỗi
người theo cách riêng của mình, “gặp” ở tri thức, “gặp” ở sự cống hiến cho Tổ
quốc. Còn “lỡ” là “lỡ” không kháng chiến, kiến quốc, “lỡ” để mất đi “một học giả”…
khi chính Cụ Hồ, Tổ quốc đang rất cần những “học giả” như thế…
Không phải là “bới lông tìm vết”. Mà khoa học lịch sử là phải
công bằng, rõ ràng công, tội: Công bao nhiêu, tội bao nhiêu?.
Không thể “mờ mờ nhân ảnh”, để thế hệ này và cả các thế hệ
mai sau cũng “mờ mờ” theo [22].
N.V.K
Chú thích:
[1] Xin
nói rằng bộ phim Ngọn nến hoàng cung, dù là phim “tiểu thuyết lịch sử”
(do đạo diễn tuyên bố) nhưng đã “sáng tác” ra quá nhiều chi tiết-sự kiện
phi lịch sử - sai lệnh về cách ứng xử, nhân cách của các nhân vật trong phim.
[2] Đặng
Văn Việt, năm 2009 vẫn còn sống, ở tuổi 90, là “đệ tứ quốc lộ đại vương”, vua
đường số 4 những năm 1949-1950; Cao Pha, thiếu tướng Cục Tình báo, đã mất.
[3] Võ
Quang Hồ, thiếu tướng, 120/6 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, Quận Gò Vấp, TpHCM.
Điện thoại số: 3996 7419
[4] Phan
Tử Lăng bỏ nghề dạy học để đi học Võ bị Tông, cùng khóa với Dương Văn Minh, tổng
thống Việt Nam Cộng hòa sau này, được chính phủ Trần Trọng Kim giao “Tổng chỉ
huy lực lượng vũ trang của chính phủ”, trực tiếp chỉ huy lực lượng Bảo An binh
Trung Bộ, đồng thời là Hiệu trưởng trường Thanh niên Tiền tuyến.
[5] Tư liệu viết
tay 10 trang, Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa
Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993
[6] Trung
đoàn phó 84 - Quân khu V, liệt sĩ 1950. Địa chỉ gia đình: nhà 50- đường 40 -
phường Thảo Điền - Quận 2 - Tp.HCM. Điện thoại số: 3512 5778
[7] Theo
bài thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 15/8/1995, ông đã mất năm 2004. Địa chỉ gia
đình: số 9 đường Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, Tp.HCM. Điện thoại số: 3844
7396
[8] Hồ
Chí Minh, Biên niên tiểu sử tập II, 1930-1945, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005, các trang 283, 284, 285…
[9] Theo
hồi ký Trần Huy Liệu: “Nhớ là ngày 25/8/1945, phái đoàn chính phủ lâm thời
từ thủ đô Hà Nội ra đi bằng hai chiếc ô tô, có một tiểu đội Giải phóng quân đi
theo bảo vệ. Trong khi ấy bọn Pháp đã bắt đầu nhảy dù xuống Huế, tên Pháp vừa
nhảy xuống đã hỏi ngay Bảo Đại, Phạm Quỳnh. Ta đã xử lý thích đáng ngay nhiều
tên tay sai của Pháp như Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh” Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử số 18 (tháng 9 năm 1960).
[10] Tư liệu của
nhà văn Sơn Tùng gửi Nhạc sĩ Phạm Tuyên, 12/2008. Trong lúc đó, Phạm Quỳnh đã bị
bắt mà Chủ tịch nước vẫn chưa biết (không được báo cáo). Bác viết thư chứ không
đánh điện, có thể là một cử chỉ coi trọng người hiền tài.
[11] Ủy
ban Khoa học Xã hội Việt Nam, chủ biên Nguyễn Khánh Toàn, Lịch sử Việt
Nam tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1985, trang 340)
[12] Nhà
văn Sơn Tùng thuật lại theo ý kiến của Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Bác hồi đó.
[13] Có
nghĩa là “Không cần thế, có thể có cách khác”.
[14] Theo
gia đình Phạm Quỳnh thì ông mất vào ngày 6/9/1945.
[15] Sách Trường
Thanh niên Tiền tuyến - Huế, trang 242. Đoàn Huyên, thiếu tướng đã mất năm 2004.
Địa chỉ gia đình: 7 Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, TpHCM. Điện thoại số: 3844
6322
[16] Trong
hồi ký này không thấy Pháp có hỏi han gì về Phạm Quỳnh
[17] Lưu
tại thư viện Trung ương Hà Nội, ký hiệu T520, không rõ Ngô Đình Huân, con trai
Ngô Đình Khôi, “Việt Gian đại bợm” thế nào? Thông tin về con người này còn quá
ít
[18] Tư liệu của
nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sĩ Phạm Tuyên, ghi theo lời kể của ông Đào Nhật Vinh
và Vũ Đình Huỳnh. Qua chữ khử mà Tôn Quang Phiệt dùng dễ nhận ra là
ông Tôn Quang Phiệt cũng không đồng ý việc xử lý Phạm Quỳnh và cả cách (phương
pháp) tiến hành vụ xử. Và dù ông Phiệt không đồng ý cũng chẳng làm được gì.
[19] Trong
Cách Mạng Tháng Tám, ở Trung Bộ, Nam Bộ từng xảy ra một số vụ “xử bắn”, “bắt
giam” người trái phép rất đáng tiếc. Còn ở Bắc Bộ, nhiều quan Tổng đốc, Án sát…
do “đoàn thể” quán triệt đường lối của Đảng nên đã may mắn được an toàn.
[20] Cuối
năm 1945, sau khi Đảng ta tuyên bố tự giải tán, trong một lần trả lời các nhà
báo, Bác nói: “Sau này tôi sẽ thành lập một đảng mới. Đảng ấy có tên gọi là Đảng
Việt Nam. Chỉ có hai hạng người không được vào Đảng: phản quốc và tham ô”.
[21] Bài Đã
gặp rồi mà vẫn lỡ đăng trên Nhà báo Huế, Xuân 2009.
[22] Một
vị Tổng đốc Hà Đông, giàu tiền lắm ruộng, xây lăng to, không ít “thành
tích”, chỉ viết có một cuốn sử mỏng, vậy mà cũng đã được công chúng
ngày nay hoan nghênh. Tại sao đánh giá, xác định vai trò của Phạm Quỳnh - người
có công lớn với văn hóa nước nhà, lại phức tạp, khó khăn đến thế? Liệu lịch
sử còn công bằng không? Có thể còn kéo dài chế độ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông chưa hề có môn lịch sử?.
Mấy điều “Giám định và bổ sung tư liệu”
Phạm Tôn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Bài này, Phạm Tôn tôi viết và gửi
đến Tổng biên tập tạp chí Hồn Việt ngày 30/11/2008, tức là sau khi tạp
chí đã tuyên bố kết thúc cuộc thảo luận, cho nên không được đăng. Sau đó, chúng
tôi còn gửi cho Tạp chí Nghiên cứu Văn học thuộc Viện Văn học Việt
Nam. Đây là nơi Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn từng công tác nhiều năm và cũng từng là
viện trưởng một thời gian không ngắn. Chúng tôi nhận được điện thoại của một
cán bộ lãnh đạo tạp chí báo là đã nhận được và đã đọc bài của chúng tôi. Khi
chúng tôi cho biết ý định gửi bài chỉ là để có thông tin hai chiều, không dám
nghĩ là bài sẽ dễ dàng được đăng, thì vị cán bộ đó tỏ ý hài lòng vì chúng tôi
đã thông cảm với “khó khăn tế nhị” của tạp chí trong trường hợp này.
Hôm nay, để nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật
và nói rõ sự thật như tinh thần các nghị quyết của các Đại hội Đảng, nhất
là từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ X, chúng tôi tin chắc chắn là đại
hội XI của Đảng sẽ càng đi sâu hơn vào các vấn đề còn “treo” hàng mấy chục năm
nay cũng theo tinh thần đó, cho nên đăng bài này, kèm theo là bài của chính
giáo sư Nguyễn Văn Hoàn để bạn đọc có điều kiện hiểu rõ vấn đề đã rất cũ
(“treo” hơn 60 năm rồi…) này hơn. Ngoài ra còn thêm bài Kỷ lục gia số 2:
Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, người tìm ra tội phản quốc lớn nhất, hiện hành của Phạm
Quỳnh, của tác giả Dân Thường, đã đăng trên Blog PhamTon tuần 5 tháng 8 năm
2009.
Cuộc “Trao đổi - Ý kiến về trường hợp Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn
Vĩnh” mở đầu trên Hồn Việt số 14, đến số 17 thì kết thúc, vẻn vẹn có
bốn số báo. Trong Lời kết cho một cuộc thảo luận, Hồn Việt viết “với bài
viết của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn – Nguyên phó viện trưởng Viện Văn học, chúng
tôi tạm kết thúc (…). Cuộc trao đổi đã diễn ra một cách dân chủ, thiện chí với
những ý kiến sâu sắc. Vấn đề, theo chúng tôi như thế là đã rõ” (Hồn Việt 17 –
Tháng 11/2008). Nhưng, có thật là đã rõ không?
Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn viết trong bài trên “Tháng 7 năm 2008
tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kỷ niệm lần thứ 130 ngày sinh nhà Chí Sĩ yêu nước Ngô Đức
Kế. Tôi có bản tham luận Nhà Chí Sĩ Ngô Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một
nhà báo (…). Một bạn đồng nghiệp, giáo sư Khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội,
sau khi đọc bản tham luận của tôi đã hỏi:
“- Nếu như năm 1945, chiếc xe chở Phạm Quỳnh ra Hà Nội được
trót lọt, rồi ông sẽ cộng tác với Chính phủ Cụ Hồ như cụ đồng liêu Bùi Bằng
Đoàn thì đến nay, chúng ta nói về ông có khác không?
“Thảo luận lịch sử trên cơ sở chữ nếu thì thật là
thiếu căn cứ, đối với lịch sử thì tốt hơn là hãy tìm hiểu xem tại sao một
sự kiện đã xảy ra như thế! (Chúng tôi nhấn mạnh - PT).”
Có một người đã cố “tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy
ra như thế!”, đồng thời cũng đưa ra một chữ nếu mà giáo sư đã
cho là thiếu căn cứ. Đó là Trần Thanh Đạm. Trong bài Mấy ý kiến về
nhà chính trị và nhà văn hóa Phạm Quỳnh (1892-1945) đăng trong Hồn Việt
15 (Tháng 9/2008), ông viết “có lẽ điều đáng ghi nhận nhất của ông là tuy làm
quan cao chức trọng như vậy cho chế độ thực dân phong kiến, song không nghe nói
ông có phạm tội gì làm hại những người yêu nước và cách mạng như những tên tay
sai thô bỉ và độc ác khác. (…) ông vẫn còn giữ được ít nhiều phong độ trí thức,
nhiều người chê trách ông song cũng nhiều người kính nể ông. (…) Cuối đời ông
diễn ra trong bi kịch và kết thúc trong thảm kịch. (…) Lịch sử ở đây công minh
song cũng hơi tàn nhẫn.
“Điều đáng tiếc là cái chết của Phạm Quỳnh. Quả là ông đã gặp
một tai nạn. Ông là nạn nhân đáng tiếc của tính tự phát lịch sử, kể cả lịch sử
cách mạng. (…) ngoài ý muốn của các nhà cách mạng chân chính. Tiêu biểu là thái
độ và tình cảm của Bác Hồ đối với ông được người đương thời làm chứng và thuật
lại. Có nhiều chứng cứ và chứng nhân, song tôi chú ý lời kể của nhà thơ Huy Cận
khi từ Huế trở về gặp Bác, báo cáo với Bác về chuyện Phạm Quỳnh gặp nạn ở Huế:
“Bác thở dài nắm tay tôi và nói “Đã lỡ mất rồi!””. Quả đúng là tấm lòng của Bác
và cũng là chính sách của Bác. Đồng thời và đồng liêu với Phạm Quỳnh còn có bao
nhiêu nhân vật, nhân sĩ của chính quyền Nam triều khác như: Thái Văn Toản, Bùi
Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Vi Văn Định, Ngô Đình Diệm và bao nhiêu người khác nữa
nhất là vị hoàng đế đương thời là Bảo Đại, chưa nói đến các vị như Bùi Kỷ, Phạm
Khắc Hoàng, Vũ Đình Hòe, Phan Anh, Hoàng Xuân Hãn trong chính phủ Trần Trọng
Kim. Có ai bị cách mạng kết án hay xúc phạm gì đâu, nói chi đến xử tử hình. Rõ
ràng là Phạm Quỳnh gặp tai nạn, tai họa rất đáng tiếc.
“Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng Phạm Quỳnh nếu (chữ
này giáo sư Nguyễn Văn Hoàn đã khuyên không nên dùng-PT) không gặp tai nạn
không may ấy mà còn sống đến sau cách mạng thì với tài năng, tấm lòng và phẩm
chất trí thức cá nhân của ông, với chính sách đoàn kết rộng rãi của Bác Hồ, nếu
không tham gia cách mạng và kháng chiến, không tiếp tục đóng góp cho văn hóa học
thuật, thì ông ít nhất cũng được sống an toàn, yên ổn như một người Việt Nam
bình thường, như bao người khác. Riêng tôi tôi tin tưởng ông có thể như
Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Thái Văn Toản, Vi Văn Định. Chứng cớ là gia đình
ông các con ông đều đã là những chiến sĩ yêu nước, những hiền tài giúp nước như
Phạm Khuê, Phạm Tuyên, các con khác tuy ở nước ngoài song tôi không hề nghe có
lời nói hay hành vi chống lại tổ quốc hay cách mạng vẫn một lòng trung với nước,
hiếu với dân, dù rất đau đớn vì sự tử nạn của người cha thân yêu, song không hề
bị kẻ địch và bọn xấu mua chuộc, lợi dụng, vẫn hy vọng có ngày chiêu tuyết cho
cha. (…) Hơn 60 năm nay, ông là một câu hỏi lớn, một mối hồ nghi trong dư
luận và nhận thức của bao nhiêu người ở bên này hay bên kia chiến tuyến.
(…) cách mạng khó giải thích thanh minh, phản cách mạng muốn khai thác lợi
dụng. Nỗi đau của gia đình ngày càng lớn vì sự oan khuất của ông. (…)
Không nhập nhoạng biến xấu thành tốt, biến tội thành công, đảo điên chính tà, lẫn
lộn phải trái, song đối với những nhân vật lịch sử có những số phận bi kịch như
Phan Thanh Giản thế kỷ XIX, Phạm Quỳnh thế kỷ XX, thiết tưởng cần có sự đánh
giá lại một lần nữa để thể hiện tấm lòng của lớp người đi sau đối với lớp người
đi trước. (…) chúng ta mong mỏi sang thế kỷ XXI tinh thần Đại đoàn kết của Hồ
Chí Minh không chỉ bao trùm lên tất cả những người còn sống mà cũng hòa giải được
cả những người đã khuất, nhất là những người cùng chịu những đau khổ, hy sinh,
tổn thất do tai họa chung của dân tộc mà thủ phạm là các thế lực tham lam độc
ác từ bên ngoài gây ra cho chúng ta từ thế kỷ XIX và vẫn chưa buông tha cho
chúng ta cho đến thế kỷ XXI”
Đúng là lịch sử đã diễn ra như nó đã diễn ra. Nhưng đó
có phải là tất yếu, hợp lý, hợp pháp, hợp lòng dân không thì người đời-người
đương thời và người muôn đời sau- đều có thể phán xét, có thể kết luận khác hẳn
những gì đã được viết, thậm chí đã được ghi vào lịch sử
Vì sao giáo sư Nguyễn Văn Hoàn cứ cố giữ cái lập luận người
dân đã chán nghe hơn 60 năm qua như thế? Có thể vì giáo sư kiên trì quan điểm
“A.Q không phải là người lương thiện, chứng cớ là y đã bị bắn. Vì rằng: nếu
là người lương thiện thì sao lại bị bắn kia chứ” (Chúng tôi nhấn mạnh-PT) như
văn hào Lỗ Tấn đã viết trong phần kết thiên kiệt tác A.Q Chính truyện (Lỗ
Tấn: Gào Thét, NXB Văn Hóa Viện Văn Học, Hà Nội, 1961, bản dịch của Trương
Chính). Và “dưới ánh sáng” của quan điểm ấy, trong bài viết dài nhất cuộc thảo
luận này, Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh, giáo sư cố gắng
tìm ra thêm các tội mới gán cho Phạm Quỳnh. Căn cứ vào bài báo ta thấy các
tội mới ấy như sau:
“Tội” thứ nhất: “Tóm lại theo Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân,
Thanh Lãng, Xuân Ba thì từ sau đảo chính Nhật ngày 19/3/1945, Phạm Quỳnh đã dứt
khoát rời bỏ chính trường, an nhiên ngâm bài Quy khứ lai từ, trở lại vui thú
bút nghiên! (…) Ngay bản thân Phạm Quỳnh cũng tuyên bố như thế. (…) có một nhà
báo lặn lội từ Hà Nội vào Huế (…) để đến biệt thự Hoa Đường ở An Cựu phỏng vấn
Phạm Quỳnh. Hỏi: Chúng tôi muốn biết rồi đây cụ có hoạt động về chính trị
nữa không, hay trở về với văn học giới? Đáp: Suốt một đời tôi đã phụng
sự cho văn học thì ngày nay không vì lẽ gì tôi lại không muốn trở lại cái đời cầm
bút đã bị một thời bỏ dở ” (…) Phạm Tôn để chứng minh Phạm Quỳnh là “người
nặng lòng với nước” đã dùng lại tư liệu và lập luận (Phạm Tôn
không dùng lập luận-PT) của Nguyễn Phúc Bửu Tập (…) để chứng minh “tấm lòng
son” của Phạm Quỳnh (…) dẫn ra bản báo cáo mật của Haelewyn, khâm sứ Trung kỳ gửi
cho toàn quyền Decoux tố cáo Phạm Quỳnh đã trách cứ Pháp trưng dụng lúa gạo để
cung ứng cho Nhật và vẫn kiên trì đòi Pháp trả quyền cai trị Bắc kỳ cho Nam triều
nhưng cả hai đều bỏ qua ý kiến này trong bản mật báo “Phạm Quỳnh sẽ có thể
trở thành kẻ đối địch bất khả quy của chúng ta nếu như một khi ông ta bị lôi cuốn
bởi lời hứa hẹn của Nhật Bản cho một chủ thuyết Đại Đông Á”. Sự thật là cả
Nguyễn Phúc Bửu Tập và Phạm Tôn đều trích nguyên văn bản mật báo, không bỏ qua
ý kiến này.
Giáo sư còn dẫn việc trong cuốn Phạm Quỳnh Tuyển tập và
Di cảo xuất bản ở Paris năm 1992, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Phạm
Quỳnh “bài thứ 6, nhan đề Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945)
cố ý bị bỏ quên” và ý kiến của Nguyễn Văn Trung, Phạm Khắc Hòe để đi đến kết luận
là “tóm lại, việc quân Nhật và Phạm Quỳnh âm mưu liên lạc và câu kết với
nhau là nguyên do đầu tiên đưa đến việc Phạm Quỳnh bị bắt giữ. Sau đó việc
quân Pháp tìm cách trở lại Huế thực hiện âm mưu tái chiếm Đông Dương của chính
phủ De Gaulle lại khẳng định sự đúng đắn và cần thiết của việc bắt giữ đó”.
Sự thật có khác với điều khẳng định trên của giáo sư. Tuần
báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh
Trung Bộ, số 11 (ra ngày 9 tháng 12 năm 1945) đăng toàn văn thông báo của Ủy
ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương gửi Toà án Quân sự Thuận Hóa, phần nói về
tội của Phạm Quỳnh có ghi “Mặc dù chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau
ngày đảo chính 9/3/1945 nhiều triệu chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước
bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta”. Ngay từ năm 1945, Ủy
ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương cũng không nhận định là “quân Nhật và Phạm
Quỳnh âm mưu liên lạc câu kết với nhau” như giáo sư khẳng định 63 năm sau khi sự
việc xảy ra
Còn việc trong Phạm Quỳnh, Tuyển tập và Di cảo không
có bài số 6 thì bà Phạm Thị Hoàn, người giữ bản quyền tập sách đó, năm 1993 về
thăm nhà có nói với tôi chỉ vì “bài đó hoàn toàn không có tính văn chương,
chỉ như là một đoạn nhật ký ghi lại tỉ mỉ sự việc mà thôi”. Chúng tôi có trong
tay bản photocopy toàn bộ tập di cảo đó, viết trong một quyển vở bìa trước có
in hình vua Bảo Đại, bìa sau in hình một con rồng ôm chặt lấy quả địa cầu. Bài
số 6 nguyên tên là Đêm ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, sau Phạm Quỳnh xóa đi
và viết lại lên trên là Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm
1945) viết từ trang 18 đến trang 26. Trong bài Phạm Quỳnh kể lại sự việc xảy
ra với mình từ khoảng 9 giờ tối hôm mùng 9 ông đang cùng con trai là Phạm Bích
nói chuyện tại tư thất Bộ Lại đến 10 giờ đêm ngày mùng 10 “các cụ Cơ mật lại họp
ở Bộ Lại để tiếp quan đặc sứ (Yokohama-PT) và thảo tờ Tuyên bố Độc lập”. Bài
viết kết thúc bằng câu “đều là những việc quan trọng, thuộc về lịch sử,
tôi được may mắn dự vào, đóng một vai chính, sau này sẽ có dịp thuật tường”.
Trong bài cũng ghi rõ khi Nhật đảo chính thì nhà vua và hoàng hậu còn ở Quảng
Trị đến khuya đêm hôm ấy mới về, cho nên người tiếp phó lãnh sự Ishida và một
võ quan nữa là Phạm Quỳnh, Thượng thư Bộ Lại, người giữ chức vụ cao nhất sau
nhà vua. Các bài khác trong tập Hoa Dường Tùy Bút – Kiến văn cảm tưởng I có
tên như sau, tất cả đều mang tính văn chương, khác hẳn bài số 6: 1, Thế
thái nhân tình; 2, Muốn sống… 3; Chỉ buộc chân voi; 4, Văn
học, chính trị; 5, Vô duyên; 7, Con người hiểm độc; 8, Anh
chàng khoác lác; 9, Lão Hoa Đường, Thiếu Hoa Đường; 10, Tư
tưởng Keyserling; và 11, Cô Kiều với tôi (bài này viết dở dang ở cuối
trang 48). Như vậy chứng tỏ không có lý do gì để cho rằng bài đó cố ý bị bỏ
quên vì là bằng chứng về việc “Phạm Quỳnh là nhân vật chính mà Nhật tìm đến
để liên lạc, đề nghị thương thảo để thuyết phục nhà vua cộng tác với Nhật” như
Nguyễn Văn Trung khẳng định và giáo sư Nguyễn Văn Hoàn dẫn lại đã nhấn mạnh
thêm. Chính trong Lời kết cho một cuộc thảo luận Hồn Việt cũng chỉ
nói “đã có những hành động chính trị đáng ngờ, bọn Pháp Nhật cũng tìm
cách lôi kéo ông (Hồn Việt 17, tháng 11/2008) chứ không khẳng định
như giáo sư. Sự hiểu lầm có lẽ tại mấy chữ của người viết lời mở đầu phần Di cảo
là in lại trọn vẹn. Nhận ra thiếu sót này, ông Phạm Tuân con trai út của
Phạm Quỳnh và vợ là Hoàng Hỷ Nguyên, khi cho xuất bản tập Giải oan lập một
đàng tràng (cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, 2001 tại Hoa Kỳ) đã cho in lại
nguyên văn bài này từ trang 433 đến trang 439. Việc “phát hiện ra” thiếu bài
này không phải là “công” của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn mà là do một số trí thức
Việt Kiều vẫn nhiều năm băn khoăn cố tìm hiểu nguyên nhân cái chết của Phạm Quỳnh
mà họ cho là không đáng chết và tìm cách lý giải việc đó, đã phát hiện ra là sau
đảo chính những người Nhật đầu tiên tiếp xúc với Nam triều đã đến gặp Phạm Quỳnh.
Sự thật như chúng ta đã biết chỉ vì Bảo Đại đi săn khuya hôm đó mới về, nên
sáng hôm sau mới gặp người Nhật. Còn Phạm Quỳnh vì thấy đêm hôm đó và ngày hôm
sau có quá nhiều sự kiện liên quan đến những vấn đề lịch sử, cho nên ông thấy cần
ghi lại rõ ràng, tỉ mỉ, đủ nhân chứng, để sau này có dịp sẽ tìm hiểu rõ ý nghĩa
của những sự việc đó. Cho nên bài không có tính văn chương, chỉ ghi lại đúng sự
việc, từ giờ giấc, đến những nhân vật mà không có một lời nào bình luận hoặc
nói lên cảm nghĩ của mình.
Ngoài ra việc quân đội Pháp nhảy dù xuống Hiền Sỹ sáng
29/8/1945 và mười ngày sau, một đơn vị lính Pháp lại đổ bộ vào cửa biển Thuận
An “để liên lạc với quan lại bản xứ lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương”
cũng không liên quan gì đến Phạm Quỳnh. Vì ngay khi đến bắt ông hôm 23/8/1945,
sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến – Huế Phan Hàm đã khám xét cẩn thận khắp
nhà không hề thấy có điện đài, vũ khí, ngoại trừ một khẩu súng săn của con trai
ông là Phạm Khuê lúc ấy đang đi dự mít tinh ở sân vận động Huế. Điều này đã được
thiếu tướng Phan Hàm – nguyên là sinh viên Thanh niên Tiền tuyến năm xưa tường
thuật rõ trong tư liệu 10 trang viết ngày 8/11/1993 và ban tuyên huấn
Thừa Thiên Huế nhận ngày 14/11/1993 mà chúng tôi hiện có trong tay. Như vậy là
đúng như Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân, Thanh Lãng, Xuân Ba và cả Nguyễn Vạn An viết
là sau đảo chính Nhật 9/3/1945, Phạm Quỳnh đã từ quan về ở ẩn dật trong biệt thự
Hoa Đường bên sông nhỏ An Cựu, chuẩn bị trở lại với sự nghiệp văn học mà suốt đời
ông yêu quý, trước hết là đọc và lựa chọn rồi dịch nghĩa 51 bài thơ Đỗ Phủ, gửi
cho người bạn thân thiết ở phương Nam là thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, rồi bắt đầu
khởi thảo Hoa Đường Tùy Bút – Kiến Văn Cảm Tưởng I, mới viết đến trang 48,
dở dang bài số 11, Cô Kiều với tôi thì được Ủy ban Cách mạng “mời đi
họp” để rồi không bao giờ về nữa.
Thật bất ngờ “tội mới” thứ hai của Phạm Quỳnh là “tôi (tức
giáo sư Nguyễn Văn Hoàn ngày ấy-PT) hay trò chuyện trao đổi ý kiến với ông (tức
Nguyễn Tiến Lãng, con rể Phạm Quỳnh-PT), từ vụ ông bị bắt ở Huế đến tạp
chí Nam Phong và Phạm Quỳnh. Có vài ý kiến ông nói hồi đó, tôi không
hiểu rõ lắm nhưng cũng không tiện hỏi thêm, chẳng hạn, theo ông, Phạm Quỳnh
là một người rất kín đáo và khó hiểu, ông thú nhận là – không thể hiểu nổi
Phạm Quỳnh” (trích bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn).
“Tội” thứ 3 mà cũng là tội lớn nhất là “ba tên Việt gian
tối nguy hiểm Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân đã bị Ủy
ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kết án tử hình và bị bắn ngay trong
thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và vật dụng của ba tên phản quốc ấy đều bị
tịch thu và quốc hữu hóa” (Nhật báo Quyết Chiến, cơ quan ủng hộ chính
quyền nhân dân cách mạng – Huế, số 88 (ra ngày thứ tư 5/12/1945)) và “Phạm Quỳnh một
tay cộng sự rất đắc lực của giặc Pháp trong việc củng cố địa vị của Pháp ở
Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã
giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái
nghề mãi quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị
cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp
và địa vị của mình bóc lột vơ vét tài sản của quốc dân”(Chúng tôi nhấn mạnh-PT)
(Tuần báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh
Trung bộ số 11 (ra ngày 9 tháng 12 năm 1945)). Chắc giáo sư rất muốn nêu những
tội này lên nhưng sau nghĩ kĩ lại thì thấy không ổn nên thôi. Hoặc có phần chắc
chắn hơn là Hồn Việt thấy chướng quá, đưa ra vô duyên nên cắt bỏ đi.
Tiếc là Hồn Việt số 17 ra muộn hơn mọi khi 2 ngày (thường lệ ra ngày
30; tháng 10 lại có 31 ngày mà ngày mùng một mới ra được) chắc là biên tập vội
nên đã để sót ở phần chú thích vẫn còn số “(15) Nhật Hoa Khanh, Phạm Quỳnh
và bản án tử hình đối với ông, tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 269,
10/2006”. Thành ra có chú thích số (15) nhưng trong bài chỉ có số (12), (13),
(14), sau đó thì nhảy luôn đến (16), hoàn toàn không có chú thích số (15). Hơn
nữa, từ 2006 khi đăng bài của Nhật Hoa Khanh công bố tư liệu đăng
trên hai tờ Quyết Thắng và Quyết Chiến trên thì Xưa và
Nay đã phải viết trong lời tòa soạn in bằng chữ to đậm ở trước bài báo là
“vẫn còn một điểm nghi vấn. Đó là hai bài báo được viết vào tháng 12/1945,
bốn tháng sau khi Phạm Quỳnh đã bị hành quyết, như vậy để nhằm mục đích gì?” (Tạp
chí Xưa và Nay số 269, tháng 10/2006).
Thành ra bài của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn dài hơn bốn trang rưỡi,
tên bài là Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh mà trong suốt bài
không có một chữ nào viết về cái chết của Phạm Quỳnh. Có chăng chỉ là ở phần mở
đầu có mấy dòng “Sau khi gia đình Ngô Đình Diệm tìm được ngôi mộ chôn
chung Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh ở khu rừng Hắc
Thú, gần Hiền Sĩ thuộc tỉnh Quảng Trị (1956)” (bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn
Văn Hoàn). Lần trước, trong bài Bài báo “mới mà cũ” tôi có ý trách
nhà văn Thái Vũ trong suốt ba trang bài báo có đầu đề Về cái chết của ông
Phạm Quỳnh (Hồn Việt số 16 tháng 10/2008) mà chỉ viết về cái chết ấy
có bảy dòng. Nay thì giáo sư nguyên Viện trưởng Viện Văn học lại còn “cao tay”
hơn, không thèm viết lấy một chữ! Giáo sư còn điều gì e ngại chăng…?. Tất cả lập
luận của ông về âm mưu liên lạc, câu kết chờ Nhật, Pháp, cứ cho là đứng vững đi
nữa thì cũng chỉ đủ đến mức bị coi là “những hành động chính trị đáng ngờ”
như Hồn Việt mới viết đây thôi, tức là bị nghi vấn, có thể bị bắt tạm
giam, nhưng không đủ để đem đi giết, mà lại giết một cách dã man, chém nứt sọ bằng
cuốc xẻng rồi mới bắn ba phát súng vào lúc đêm khuya, bên rừng vắng?!
Thật tình đọc bài viết của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn nặng tính
chất “xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm”, chúng tôi không có ý muốn đáp lại,
nhưng đọc đến phần cuối thì lại thấy nên nói vài điều vì giáo sư viết “khi nói
về người đã chết thì phải hết sức thận trọng, phải hết sức khách quan và
trung thực, không được vì một động cơ cá nhân nào mà cố ý nói sai sự thật, dù
theo hướng tô hồng hay bôi đen; hơn nữa cần nhớ rằng: trong lĩnh vực lịch sử và
khoa học xã hội nói chung, dù có thiện chí cũng rất khó nắm bắt được chân lý
chính xác trăm phần trăm. Trên tinh thần đó, tôi thành thật mong nhận được sự
giám định và bổ sung tư liệu của đông đảo bạn đọc” (bài đã dẫn của
giáo sư Nguyễn Văn Hoàn).
Tôi cũng xin thành tâm cố gắng “giám định và bổ sung
tư liệu” cho bài của giáo sư như trên. Mong giáo sư vui lòng nhận cho tấm
lòng thành của tôi.
Phạm Tôn
30.11.2008Phần đầu bản thảo viết tay của Phạm Quỳnh bài số 6 - Chuyện
một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945). Ở trang 18 tập Hoa Đường
Tùy Bút - Kiến Văn Cảm Tưởng I
TRẢ LẠI SỰ SÁNG TRONG CHO PHẠM QUỲNH
Hà Khánh Linh, Nhà văn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Hà Khánh Linh, tên khai
sinh là Nguyễn Khoa Như Ý, hội viên Hội nhà văn Việt Nam, sinh tại Huế, tham
gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tại Thừa Thiên Huế. Hiện ở tại số 24/7
đường Chế Lan Viên, thành phố Huế.
Những tác phẩm đã xuất bản gồm có Thúy, tiểu thuyết, nhà
xuất bản Văn Nghệ Giải Phóng, 1973; Nụ cười Ápxara, tập truyện, NXB Văn
Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1983; Là bóng hay là hình, tập truyện, NXB Tác
Phẩm Mới, 1986; Chiến tranh và sau chiến tranh, tiểu thuyết, NXB Thanh
Niên, 1989; Rừng và cái chết con thiên nga, tiểu thuyết, Hội văn nghệ
Thừa Thiên - Huế, 1992; Góa phụ Paris, tập truyện, NXB Văn Học, 1993; Trăng
cứu rỗi, thơ, NXB Hội Nhà Văn, 1995; Những bọt bóng màu, thơ, NXB Hội Nhà
Văn, 1998; Con gái người cung nữ, tiểu thuyết, NXB Phụ Nữ, 1999; Vũng
Chân Mây, tập truyện, NXB Đà Nẵng, 1999; Ngày ấy, Trường Sơn…, Hồi ký, NXB
Hội Nhà Văn, 2000; Vì người mà tôi làm vậy, tập truyện, NXB Hội Nhà Văn,
2001; Người cắm hoa nhà thờ, tiểu thuyết, NXB Văn Học, 2002; Người
kinh đô cũ, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà Văn, 2004;… Và đàn bà, tập truyện,
NXB Văn Nghệ, 2007; Phùng Quán viết Trăng Hoàng Cung, tự truyện, NXB Thuận
Hóa, 2007; Ôi trần gian, tiểu thuyết, NXB Thanh Niên, 2008…
Từ lâu nhà văn Hà Khánh Linh đã quý mến học giả Phạm Quỳnh và
coi “Vấn đề Phạm Quỳnh là vấn đề của lương tâm thời đại”. Với tâm thức
đó, bà đã viết bài báo này vào cuối năm 2006.Sinh ra và lớn lên tại Huế, sau chiến tranh được sống và được
làm việc ở Huế, tôi có điều kiện tiếp xúc nhiều với các giới đồng
bào, càng thêm hiểu tâm tình bà con với những ai đã từng yêu quý và sống hết
mình với Huế, vì nước vì dân. Năm 1945, sau khi cùng phái đoàn chính phủ vào Huế
tước ấn kiếm và dự lễ thoái vị của Bảo Đại, ra Hà Nội báo cáo với Hồ Chủ tịch,
nhà thơ Huy Cận đã không quên nói lên tâm tình của dân Huế. Sau này, ở tuổi
ngoài tám mươi, ông đã hai lần kể lại rành rọt cho nhạc sĩ Phạm Tuyên, con trai
Phạm Quỳnh câu chuyện xưa mà ông không bao giờ quên: “Năm 1945, cuối tháng 8,
tôi là Bộ trưởng Bộ Canh Nông của chính phủ Cách mạng lâm thời, được tham gia
phái đoàn chính phủ vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại, có nghe dân chúng xì xào
nhiều về chuyện Cụ Phạm bị xử tử hình. Khi về tới Hà Nội, được gặp Bác tôi
có kể lại chuyện đó, thì Bác thở dài, nắm tay tôi và nói: “ĐÃ LỠ MẤT RỒI!”
Đầu năm 2005, tôi đã được đọc bài Phạm Quỳnh chủ bút báo
Nam Phong của giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, đăng trên tạp
chí Khoa học và Ứng dụng số 2-2005, và bài Vai trò của trí thức
trong quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỉ 20 của
Vương Trí Nhàn trên tạp chí Nghiên cứu Văn học tháng 7-2005 thì cuối
năm đó lại được đọc loạt bài của Xuân Ba Những uẩn khúc trong cuộc đời ông
chủ báo Nam Phong trên Tiền Phong Chủ Nhật các số 44
(30/10/2005), 45 (6/11/2005) và 46 (13/11/2005). Rồi đến năm 2006, tôi được đọc
các bài của Phạm Tôn đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, tháng
8: Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước và tháng 9/2006 trên bán nguyệt
san Xưa và Nay: Người nặng lòng với nước, và Người nặng lòng với
nhà trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (56) 2006, bài của
Nguyễn Trung Phạm Quỳnh người nặng lòng với tiếng ta trên nguyệt
san Công giáo và Dân tộc tháng 9/2006. Tôi còn được đọc bài Thử
nhận dạng lại chân dung nhân vật Phạm Quỳnh của Trần Văn Chánh trên Nghiên
cứu và Phát triển số 2 (55) 2006 và Lời giới thiệu Phạm Quỳnh và Thượng
Chi văn tập của cùng tác giả in đầu bộ sách đồ sộ 1134 trang Thượng
Chi văn tập do NXB Văn Học tái bản năm 2005. Tôi cũng đã đọc bài Đọc
lại tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh của Đỗ Lai Thúy trên tạp chí Tia
Sáng số 12 tháng 6-2006. Và mới đây là bài trên báo Thể thao và Văn
hóa số 5 tháng 1/2005, Trở lại với khu vực đầu nguồn của văn học Việt
Nam hiện đại: In lại Nhật Ký Đi Pháp của Phạm Quỳnh cũng của Vương Trí
Nhàn. Còn mới nhất là bài của Xuân Ba trên tạp chí Sao Việt tháng
10/2006: Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục…Tôi cũng đọc các sách của Phạm
Quỳnh mới tái bản ở nước ta như Mười ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật
ký, Luận giải văn học và triết học và Thượng Chi văn tập của các
nhà xuất bản Văn Học và Hội Nhà Văn. Càng đọc tôi càng thấm thía lời nhà thơ
Huy Cận nói với nhạc sĩ Phạm Tuyên: “Càng đọc kỹ những dòng chữ Cụ viết mới
càng thấy rõ hơn tấm lòng nhiệt thành yêu nước của Cụ.” Và tôi càng thương tiếc
vô hạn học giả Phạm Quỳnh, đau xót trước cái chết oan ức của ông. Vì thế tôi đặc
biệt chú ý đến một bài báo mới đăng trên tạp chí Xưa và Nay.
Trong số 269, tháng 10/2006 tạp chí có đăng bài của Nhật Hoa
Khanh: Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông. Do yêu mến Phạm Quỳnh tác
giả đã nhiều năm cố công tìm hiểu về cái chết bí ẩn của ông, đã gặp nhiều người,
tìm tòi nhiều tư liệu và cuối cùng đã tìm được hai tờ báo khổ nhỏ
phát hành hẹp tại Huế năm 1945. Đó là nhật báo Quyết Chiến khổ A3, mỗi
số 2 trang, là “Cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân Cách mạng Huế”. Số 88, ra
ngày thứ tư, 5/12/1945 có đăng bản tin: “Ba tên Việt Gian tối nguy hiểm Ngô
Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân đã bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri
Phương kết án tử hình và bị bắn ngay trong thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và
vật dụng của ba tên phản quốc ấy đều bị tịch thu và quốc hữu hóa.” Tin này rút
ra từ “Thông báo của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kính gửi Tòa án
Quân sự tỉnh Thuận Hóa” (tức là Huế), sau đó đăng trên tuần báo Quyết Thắng,
khổ A3, mỗi số bốn trang, là “cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh
Trung bộ.” Số 11, ra ngày 9/12/1945 đã đăng toàn văn thông báo trên. Cuối bản
thông báo, chỉ ghi “Ủy ban Khởi nghĩ tỉnh Nguyễn Tri Phương”, mà không có
ai đứng tên thay mặt ký cả.
Trong lời tòa soạn in chữ đậm, cỡ lớn, chính tạp
chí Xưa và Nay cũng thấy cần nhấn mạnh “ở đây vẫn còn một điểm nghi vấn.
Đó là hai bài báo được viết vào tháng 12/1945, bốn (Thật ra là ba -
PT chú) tháng sau khi Phạm Quỳnh đã bị hành quyết, như vậy để nhằm mục
đích gì?” (chúng tôi nhấn mạnh - HKL).
Lệ thường, khi cần xử tử một kẻ gây tội ác lớn, người ta thường
thông báo càng rộng rãi, càng kịp thời, càng được nhiều người chú ý và vì thế
tác dụng răn đe các kẻ xấu khác càng lớn. Hơn nữa, việc xử tử cũng thường tổ chức
càng công khai, càng đông người tận mắt được thấy kẻ thủ ác phải bị trừng phạt,
càng có tác dụng ngăn ngừa tội ác. Nhưng, trường hợp “xử tử ba tên Việt gian tối
nguy hiểm” này lại diễn ra khác hẳn. Trong số 267 tháng 9/2006, tạp
chí Xưa và Nay đăng bài Người nặng lòng với nước của Phạm
Tôn có đoạn: “Người canh gác xưởng (ép dầu tràm, nơi giam giữ Phạm Quỳnh cuối
cùng-HKL chú) kể: Một đêm đầu tháng 8 ta, trăng lưỡi liềm, khoảng 11 giờ, có
người xưng là cấp trên đến bảo đưa ba người bị giam ra cho ăn cơm (…) Sau đó, họ
bị trói và đưa xuống đò (…) gần 1 giờ sáng thì táp vào bờ, đến gần hai bụi tre
thì giết ba người”
“Xử tử” vào 1 giờ đêm, ở một nơi hoang vắng, giữa đêm trăng mờ.
Thật lạ lùng cho cách “xử tử” này. Quả là có một không hai trên đời!…
Chắc hẳn là ba tháng sau khi thủ tiêu Phạm Quỳnh, người
xưng là cấp trên có quyền sinh quyền sát trong tay ấy mới nghĩ ra được cách
ra thông báo để hợp pháp hóa vụ giết hại mờ ám, lén lút và tàn bạo mình đã tự ý
gây ra trong đêm trăng non nọ?… Để rồi suốt hơn 60 năm trời Cách mạng Việt Nam phải
chịu tiếng đã giết oan một con người nặng lòng với nước với dân như Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh, con người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với
dân, đã sống 13 năm cuối đời tại Huế, đã viết những dòng tâm huyết cuối cùng tại
Huế (tập Hoa Đường tùy bút: Kiến văn, cảm tưởng và 51 bài thơ Đỗ Phủ
còn dịch dở dang). Và cũng đã gửi lại nắm xương tàn trong khuôn viên chùa Vạn
Phước xứ Huế. Dân Huế yêu quý ông, đã tự nhiên bảo nhau gọi bến đò An Cựu trước
biệt thự Hoa Đường xưa của ông là Bến Cụ Phạm. Và tôi tin là hình ảnh ông,
tư tưởng của ông còn sống mãi trong lòng người dân xứ Huế, vốn nặng tình và trọng
nghĩa.
Tôi tin là giống như mặt trời lên thì xua tan bóng tối, đất
nước ta ngày càng tiến lên xã hội công bằng dân chủ văn minh thì những đám mây
đen, bụi bẩn bấy lâu che mờ gương sáng của ông cũng sẽ tiêu tan cùng với các thế
lực đen tối, cực tả một thời đã làm ô danh cách mạng Việt Nam.
Huế, những ngày mưa cuối năm 2006
H.K.L
Ghi thêm:
Thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác là cộng tác viên nhiệt thành của tạp
chí Nam Phong rồi trở thành bạn tri âm tri kỷ từ lâu của học giả Phạm Quỳnh.
Cho nên, sau khi từ quan về ở ẩn dật tại biệt thự Hoa Đường xinh đẹp bên con
sông nhỏ An Cựu để chuẩn bị quay trở lại với nghiệp văn của mình, Phạm Quỳnh đã
bắt đầu “khởi động” bằng việc dịch thơ Đỗ Phủ, nhà thơ Trung Quốc đồng cảnh với
ông. Dịch được 51 bài, ông tin cậy gửi cả nguyên văn chữ Hán do tay ông chép và
các bản dịch thô của mình cho Đông Hồ, người mà ông tin cậy ở cả cái tâm và cái
tài.Mùa hạ năm 1945 ấy, Đông Hồ đang sống cùng nữ sĩ Mộng Tuyết,
học trò và bạn đời của ông tại Hà Tiên. Huế và Hà Tiên không phải là xa xôi
cách trở gì lắm, vậy mà những sự biến tày trời, đổ tai họa xuống đời Phạm Quỳnh,
hai ông bà không hay biết gì hết. Bức thư cuối cùng trong đời của nữ sĩ Mộng
Tuyết viết ở tuổi 94 từ Hà Tiên gửi cho chúng tôi đã nói rõ điều kỳ lạ đó: Rõ
ràng vụ bí mật, lén lút thủ tiêu Phạm Quỳnh đêm 6/9 rạng ngày 7/9/1945 ở nơi rừng
hoang Hắc Thú nọ của một số người ở Thừa Thiên Huế không ai muốn phổ biến rộng
rãi. Đó là một sự thật kỳ lạ.
Nữ sĩ Mộng Tuyết viết ngày 29/12/2006 một bức thư dài tới bốn
trang giấy A4. Mở đàu là những dòng sau: “Được đọc bài viết của cháu về Cụ Thượng
Chi Phạm Quỳnh làm cho bác ngẩn ngơ. Vì bác xa xôi, vẫn không biết rõ
hoặc nghe về cái chết của cụ Phạm Quỳnh, cứ ngỡ là không có điều gì bất thường
khi Cụ vào Huế trở về sau.” Và tiếp đó là nhiều lần nhắc lại câu “Bác thật
xúc động khi đọc bài của cháu viết về cái chết của cụ Thượng Chi!!!” Rồi “Đọc
bài cháu viết về cái chết của Cụ Phạm Quỳnh mà bác vô cùng xúc động. Và lạ lùng
là tin động trời như vậy mà ở trong này, bác và bác Đông Hồ không biết gì cả.” Tiếp
đó là “bài báo cháu viết làm cho bác biết thêm nhiều điều mà bác vẫn không
có được biết tin tức mảy may nào! (…) bác chưa từng nghĩ đến việc đời lại xảy
ra như vậy!!! Bác viết cho cháu mà lòng bác rất “bức xúc” không biết
việc đời nó lại xảy ra như vậy đối với gia đình…” Rồi cụ còn nhắc, ở tuổi
94 là “Các tác phẩm của Cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh đã in lại có bán ở đâu cháu
cho biết để bác nhờ cháu mua giúp bác.” Và còn tế nhị viết “Cháu biết không, ở
cái tuổi 94 của bác này, thì bác viết một bức thư này cháu cũng không đọc được
nữa rồi.”
Bài báo mà chúng tôi gửi cho nữ sĩ Mộng Tuyết là bài Phạm
Quỳnh, người nặng lòng với nước đang trên nguyệt san Công giáo và Dân
tộc tháng 8 năm 2006.
Nữ sĩ sinh ngày 9/1/1914 tại làng Mỹ Đức, Hà Tiên, nay là tỉnh
Kiên Giang và mất tại bệnh viện đa khoa Kiên Giang ngày 1/7/2007.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2/2/2010
Tôn Thất Thành
RỒI LỊCH SỬ CŨNG SẼ CÔNG BẰNG
Nhà văn Nguyên Ngọc
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Nguyên Ngọc là Hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam, những bút danh khác là Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim, tên thật
là Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5-11-1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 18 tuổi, xin
gia nhập quân đội, tốt nghiệp Trường Lục Quân Khu V. Hầu hết thời gian
1951-1954, hoạt động ở vùng Tây Nguyên, chiến trường chính của Liên Khu V bấy
giờ. Chính điều đó đã dẫn đến thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước
đứng lên (1956), được tặng giải nhất về tiểu thuyết trong Giải Thưởng Văn
Học 1954-1955 của Hội nhà Văn Việt Nam. Sau đó, cho in Mạch nước ngầm (1960)
và tập truyện ngắn Rẻo cao (1961). Năm 1962, trở lại Tây Nguyên và Quảng
Nam, ông tiếp tục sáng tác với bút danh Nguyễn Trung Thành. Năm 1969, có tập
truyện và ký Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc nổi tiếng với
truyện ngắn Rừng xà nu và tùy bút Đường chúng ta đi. Năm 1971 và
1974, phần 1 và 2 tiểu thuyết Đất Quảng ra mắt bạn đọc…
Sáng tác của Nguyên Ngọc không nhiều về số lượng, nhưng gây
được ấn tượng mạnh với người đọc. Ông nhận thức rõ ràng về những hạn chế mang
tính lịch sử của một thời đã qua để hướng tới sự đổi mới, đó chính là kết quả của
sự nhạy cảm trong tư tưởng của nhà văn. Ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật năm 2001.
Dịp nhà xuất bản Tri Thức và Trung tâm văn hóa
và ngôn ngữ Đông Tây tổ chức buổi ra mắt bản dịch Tiểu luận viết bằng
tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 của Phạm Quỳnh, nhà văn Nguyên Ngọc
nói: “Đầu thế kỷ XX, chúng ta đã có những người khổng lồ như Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi. Không phải mọi kiến giải của họ đều đúng đắn, nhưng
những vấn đề họ đặt ra đến nay vẫn còn tính thời sự”
Dưới đây xin mời các bạn đọc bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc
đăng trang 13 báo Tuổi Trẻ ngày 7-12-2007. Tiếp đó là bài Lịch sử
sẽ công bằng với Phạm Quỳnh cha tôi của nhạc sĩ Phạm Tuyên trả lời phỏng vấn
của báo Tiền Phong.
Không như các tác phẩm khác của Phạm Quỳnh đã được in lại
trong những năm qua đều viết bằng tiếng Việt (*), tập tiểu luận lần này vừa được
dịch và xuất bản vốn được viết bằng tiếng Pháp.
Có lẽ trước hết cho tôi nói điều này: cách đây mấy mươi năm một
người tự coi mình là rất bác học và cũng đầy quyền lực đã chế giễu: tiếng Pháp
của Phạm Quỳnh chỉ vừa đủ để lòe người An Nam, chữ Hán của Phạm Quỳnh chỉ vừa đủ
để bịp người Tây!
Là một trong những người dịch tác phẩm của ông, tôi thấy có lẽ
Phạm Quỳnh là một trong những người Việt viết tiếng Pháp hay nhất, một thứ
tiếng Pháp trong sáng, sang trọng, trang nhã và đầy âm vang, chỉ có thể có được
trên cơ sở một vốn tri thức uyên thâm về văn hóa và văn minh không chỉ của Pháp
mà còn của cả phương Tây cổ kim. Và vốn Hán học cùng tri thức về phương Đông của
ông cũng rộng sâu không kém. Những người dịch đã rất cố gắng để mong chuyển được
một phần vẻ đẹp văn chương Pháp, chỉ riêng điều này thôi đã rất quí rồi, trong
tác phẩm này.
Vì sao ông viết bằng tiếng Pháp? Vì đối tượng mà ông muốn nhắm
đến: người Pháp ở chính quốc và ở VN. Ông muốn nói với họ ở tầm cao nhất, quan
trọng nhất và do vậy cũng nghiêm trọng nhất của vấn đề, ở tầm cuộc va chạm chấn
động giữa phương Đông và phương Tây trong thời cận đại và hiện đại, trong đó có
số phận của dân tộc ta mà suốt đời ông tha thiết trăn trở. Rất sáng suốt, ông
nói: “Các dân tộc đụng chạm với nhau trước hết qua những con người cứng rắn nhất,
háo danh nhất, hay những người xác quyết nhất trong việc áp đặt các học thuyết
của mình và chỉ cho chứ không nhận… không hề lấy sự bình đẳng trong các trao đổi
làm đối tượng và vai trò của họ chẳng bao giờ là tôn trọng sự thư thái, tự do,
các niềm tin hay những điều hay của những người khác…”. Lại cũng rất thực
tế, ông bảo rằng: “Quá khứ đã nằm im trong lịch sử. Nó như thế nào thì nó vẫn cứ
như thế, không phụ thuộc vào bất cứ ai trong chúng ta để có thể khác đi. Hiện tại
với những đòi hỏi của hiện tại, tương lai với những hy vọng của tương lai là đủ
để chúng ta quan tâm…”. Hãy để cho những đại diện chân chính và ưu tú của các nền
văn hóa nói với nhau, có thể có một con đường đi và một tương lai được thiết kế
như vậy giữa các dân tộc. Ông mong muốn các dân tộc đến với nhau trong hiểu biết
và tôn trọng các giá trị của nhau, ông muốn nói với người Pháp về dân tộc mình,
những chiều sâu thăm thẳm đã tạo nên sức sống ngàn đời của dân tộc này, nền văn
hóa mềm dẻo mà bất diệt của nó, số phận nó có thể và cần được có. Chính vì vậy
mà cuốn sách viết cho những người mà lịch sử đã đặt vào một vị trí thống trị chẳng
hay ho gì trên đất nước này, thậm chí có thể đi ra ngoài ý định của tác giả nữa,
đã trở thành một công trình nghiên cứu súc tích, sâu sắc, tinh tế, toàn diện,
khách quan, vừa lâu dài vừa nóng hổi tính đương thời về đất nước và dân tộc ta
mà ông da diết muốn tìm một con đường đi ra trong những điều kiện lịch sử cực kỳ
khó khăn và éo le.
Những mong muốn ảo tưởng, và những trăn trở tìm tòi mà một
người đã thất bại trong lịch sử đã cố tạo nên để làm nền tảng cho những mong ước
đó, lại có thể rất có ích cho hôm nay. Đọc cuốn sách này, do vậy, sẽ có thể rất
ngạc nhiên về tính cập nhật bất ngờ của nó trên không ít phương diện, cả tổng
quát lẫn cụ thể.
Lịch sử, trên con đường đi tới của nó, vốn rất dửng dưng và
tàn nhẫn. Phạm Quỳnh, như chúng ta biết, đã có số phận cá nhân bi đát.
Nhưng rồi về lâu dài lịch sử cũng lại công bằng. Nó trả lại cho các nạn nhân của
nó những giá trị không thể mất của họ. Bạn hãy cầm cuốn sách này trên tay và trân
trọng đọc kỹ từng dòng của người xưa. Bạn đang làm một hành động chiêu tuyết đẹp
đẽ mà cuộc sống giao cho chúng ta hôm nay đấy.
N.N
TƯ LIỆU CỦA THIẾU TƯỚNG PHAN HÀM
KỂ LẠI VIỆC ĐI BẮT PHẠM QUỲNH
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Thái Vũ được Tạp chí Hồn
Việt số 16 tháng 10/2008 giới thiệu là: “Ông đã có mặt ở Huế vào những
ngày Cách mạng Tháng tám và đã ghi lại một số ý kiến như là một chứng
nhân (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) của dòng lịch sử vốn rất phức tạp lúc
đó…”. Trong bài của ông Về cái chết của ông Phạm Quỳnh (Hồn Việt số
16 tháng 10/2008) có nội dung giống hệt bài Về cái chết của ông chủ bút Tạp
chí Nam Phong đăng trước đó 3 năm trên Tiền Phong Chủ Nhật số 51
tháng 12/2005, đã nêu ra một sự việc chưa từng ai biết bao giờ là khi sinh viên
Trường Thanh niên tiền tuyến Phan Hàm đến bắt Phạm Quỳnh trưa 23/8/1945 thì: “Anh
Phan Hàm ở dưới…”khám nhà” cả trên lầu, thấy ở tủ sách nhỏ của con gái Phạm Quỳnh
(không biết của cô nào) vàng lá xếp đống (Chúng tôi nhấn mạnh -
PT) trong đó. Niêm phong nhà lầu. Tất cả người nhà cụ Thượng họ Phạm kể cả
cụ đều xuống nhà dưới. Đột nhiên, Phạm Quỳnh xin lên lầu lấy một “quả trầu” - vì
cụ Thượng thường ăn trầu. Thật không ngờ dưới bàn để toàn vàng (Chúng
tôi nhấn mạnh - PT)…”
Chúng tôi may mắn có trong tay bản sao chụp tư liệu 10
trang viết tay của Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Thừa
Thiên Huế nhận chiều 14/11/1993, xin trích đăng phần Thiếu tướng kể về việc đi
bắt Phạm Quỳnh để bạn đọc có điều kiện biết được sự thật đã xảy ra như thế nào.
Thiếu tướng Phan Hàm viết như sau:
“Tôi chỉ xin kể lại việc đi bắt Phạm Quỳnh. Còn các nơi khác
không rõ chi tiết, chỉ biết chung chung:
“Tôi nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm
Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng
hôm ấy, anh Hồ và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ
biết được đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến
trưa, ông Phan Tử Lăng trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta
sẽ phối thuộc cho hai tiểu đội lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu
đội cho anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian đầu sỏ này.
Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động
Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh.”
“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy
ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu
súng lục St. Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng
trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên
Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn.
Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra
ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh - PT) chẳng
thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn
săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô
con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn
đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà.
Nhớ đâu viết đấy. Miễn là nói lên sự thật (Chúng
tôi nhấn mạnh - PT)”
Lời bình của Phạm Tôn: Như vậy số vàng rất lớn ở trong tủ
và dưới bàn chỉ có một người biết là nhà văn Thái Vũ. Thiếu tướng Phan Hàm
không hề nói đến sự việc này.
TƯ LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNHTrang đầu và trang cuối (có con dấu và chữ ký của tác giả) tập
bản thảo của nhà văn Sơn Tùng.Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký
thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc
danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quý”. Tập
tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008,
tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội - Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên,
cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với
tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc
bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.
PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC "BỮA CƠM BẮC, THẾT
KHÁCH BẮC"
Mỗi năm, cứ đến tháng 5 là không người dân Việt nào không nhớ đến ngày sinh của
Người. Và mỗi người lại nhắc nhớ những câu chuyện về Người, thấm thía đối với bản
thân mình. Nhất là vào năm nay, 2010 - Năm kỷ niệm ngày sinh lần thứ 120 của
Người.
Cũng với tâm tình ấy, nhân dịp này, blog PhamTon chúng tôi vốn kính yêu Người,
lại quý mến Thượng Chi Phạm Quỳnh, xin đăng tại đây tư liệu kể về một
sự việc trong thời Người còn bôn ba tìm đường cứu nước, tìm bạn đồng tâm,
đồng chí, thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và trong sáng, một lòng vì nước vì dân,
chỉ có một ham muốn tột bậc là nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Đây là phần 4 trong Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng về mối
thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh với Thượng Chi Phạm Quỳnh mà nhà
văn đã ký thác cho nhạc sĩ Phạm Tuyên là một người con của Thượng Chi Phạm
Quỳnh, cũng là một người con của Đảng; ông là Đảng viên Cộng sản từ 1950, năm
nay vừa tròn 60 tuổi Đảng.
Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh
CỤ ĐÀO NHẬT VINH - 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn - nay là quận 1 Tp. Hồ
Chí Minh.Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913,
Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba - Nguyễn Tất Thành từ
Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận
Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ;
“Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành
phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang
hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga - Xô
Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để
“cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần
gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất
về Sài Gòn.
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô
Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ
ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa
tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ
Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy
Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An
Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng,
có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những
kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội
thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ
(Ghi chú của nhà văn Sơn Tùng)
Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành
phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang
hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga - Xô
Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để
“cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần
gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất
về Sài Gòn.
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô
Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ
ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa
tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ
Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy
Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An
Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng,
có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những
kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội
thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ.
(Ghi chú của nhà văn Sơn Tùng)
Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại
Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong
đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái
Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins).” Còn trên tạp chí Nam Phong,
khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết công khai: “Thứ năm 13 tháng
7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy
ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi
có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi!
Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm
ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ
thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc
(tức ngày quốc khánh Pháp 14/7-PT chú)…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông
cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào”
Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: - Năm 1919 tôi rời đại dương,
lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn
Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường)
và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám
yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ
thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng
“Ngũ Hổ” - Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh,
Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des
Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận
báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa
tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris
và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế
giễu vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple,
L’Humanité (Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng Sản Pháp - PT chú),…Những
bài gây xôn xao nhất: Les lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của
bà Trưng Trắc - PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số
24/6/1922; Les civilisateurs (Những nhà khai hóa - PT chú) số 22/6/1922
và bài Hygiène mental (Vệ sinh tinh thần - PT chú); La haine des races
(Hận thù chủng tộc - PT chú)… Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông
Tre, chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ
ngoại ô - PT chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí
sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ
Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt
làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A. Sarraut mời đến
Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”… Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái
Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ Thuộc Địa” mở cửa từ
đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu
Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc
có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris
lo liệu công việc báo Le Paria.
Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội Chợ
như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long… cho nên chúng
tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như: quan tuần phủ Cao
Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh - Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn
Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo, Đông Dương Tạp Chí, Notre
Journal, Notre Revue… Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo Marseille 1906, ông Quỳnh quen
biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu
trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn
Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu
đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch
Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là
“bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân
quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc
là một trong những người lập hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút
ít lai lịch của các cụ.
Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong hội chợ
cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng
ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm… (Chúng
tôi nhấn mạnh - PT) Tôi và anh bạn quay trở lại…chiều hôm ấy tôi về nhà ông Tạ
Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với
tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc” nhé. Đến
sơm sớm, đó…Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là tiến
sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi
biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa
tự hỏi - Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn Trường) và
Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được.
Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng
tôi nhấn mạnh - PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên
phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ,
tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị
tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu
rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và
hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về
phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền - và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh
khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn,
đặc biệt là món dồi.
Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu
ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:
Nhìn mặt mà đặt hình dong
Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon
Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…
Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng
Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười
và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm
Quỳnh nghiêm trang nói:
- Anh Đào Nhật Vinh đã
hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê,
quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.
Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:
Đồng bàn, đồng bát, đồng bang
Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương.
Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân!…”
Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm
Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.
Hà Nội - Chiếu Văn
8-12-2008
12/11 Mậu Tý
(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)
Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ
Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành
phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên
cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt
động ở nước ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên
cứu, cán bộ bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc,
nhan đề Những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất
Pháp 1917-1923. Chúng tôi thiết nghĩ, những tư liệu của nhà văn
Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật
chuyện năm 1922 tại Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật
chuyện năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những
tư liệu bổ sung quý giá và hiếm có.
Lời bình của Phạm Tôn về các tư liệu của nhà văn
Sơn Tùng - Về mối quan hệ thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với
Thượng Chi - Phạm Quỳnh.
Đến đây, các bạn đã đọc xong tư liệu của nhà văn Sơn Tùng Về mối
quan hệ thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Thượng Chi - Phạm Quỳnh. Đây
là tư liệu nhà văn đã đăng ký công bố trong hội thảo (bất thành) về
Phạm Quỳnh do Viện Văn học Việt Nam dự định tổ chức vào cuối năm 1992 tại Hà Nội,
nhân kỷ niệm 100 năm sinh Phạm Quỳnh.
Nhưng, đến gần ngày khai mạc, áp phích về hội thảo đã xong, chỉ chờ sử dụng vào
đúng dịp gần tết năm ấy thì có “lệnh qua điện thoại” báo “tạm hoãn đến sau
tết”. Đến nay, hai mươi cái tết đã qua, “hội thảo tạm hoãn” đó vẫn chưa khai mạc…
Chỉ có một cuộc tọa đàm về Phạm Quỳnh tại quê hương Hải Dương của ông do tỉnh ủy,
ủy ban nhân dân tỉnh, hội nhà báo và đài phát thanh truyền hình tỉnh tổ chức
năm 2010 và phát trong tỉnh.
Không biết sự thể sẽ thế nào nếu ngay từ năm 1992 ấy, cách nay ngót hai thập kỷ,
các tư liệu quí này đã đến được với đông đảo người Việt Nam chúng ta ở
cả trong và ngoài nước. Mọi người Việt Nam đều biết được những lời nói chí
minh, chí nhân, chí thiện, chí thành về Phạm Quỳnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Anh hùng Giải phóng Dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới. Người thốt lên “Bất tất
nhiên” (Không nhất định phải làm như vậy.) khi mới hay tin Phạm Quỳnh bị bắt ở
Huế, rồi phẫn nộ nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng
được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không
phải là người xấu!” sau khi nghe Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
Cách mạng Thành phố Huế báo là “Cụ Phạm Quỳnh bị khử mất rồi!” và đầy tiếc nuối
nói với các cán bộ đoàn đàm phán của chính phủ ta với chính phủ Pháp tại hội
nghị Fontainebleau năm 1946: “Lúc này còn Cụ Phạm Quỳnh thì…” Và Phạm Văn Đồng
đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…”
Hà Nội, 6/10/1922 Nguyên Ngọc - Dã Thảo - Phạm Thị Thức - Phạm Tôn - Dân Thường - Nguyễn Văn Khoan - Hà Khánh Linh - Tôn Thất ThànhNguồn: Blog PT
Hà Nội, 6/10/1922
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét