Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023

Trần Dần

Trần Dần

Ông mới xuất hiện là một nhà thơ thì cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Trở về Nam Định ông tham gia kháng chiến và đảm nhận công tác tuyên truyền. Sau khi Nam Định thất thủ, ông xung phong gia nhập bộ đội và được cử lên mặt trận Sơn Lạ ở đây, ông phụ trách điều khiển đoàn văn công, được các văn nghệ sĩ trong Trung đoàn rất quý mến và được kết nạp làm đảng viên. Nhưng là một văn nghệ sĩ, ông không chịu nổi sự chèn ép của các cán bộ chính trị cấp Trung đoàn, nên đến năm 1951, ông xin về Trung Ương. nhận công tác viết báo cho cục Quân Huấn. Trong thời kỳ này, ngoài việc viết báo, ông còn phụ trách giảng về văn nghệ nhân dân và chính sách lãnh đạo văn nghệ của Đảng đối với văn nghệ sĩ trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê bình là giảng sai đường lối của Đảng, ông tức mình xin đi công tác tiền tuyến và được cử lên mặt trận Điện Biên Phủ. Xúc cảm trước sự tấn công ào ạt của quân đội kháng chiến vào thành lũy của Pháp, nhất là trước cái chết thê thảm của Tô Ngọc Vân, bạn đồng hành của ông. Trần Dần sáng tác cuốn Người Người Lớp Lớp. Nhờ cuốn sách này ông được Đảng yêu chuộng trở lại và năm 1954 được cử đi Trung quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim "Chiến thắng Điện Biên Phủ" là cuốn phim Việt Minh đóng lại trận Điện Biên Phủ do cán bộ Trung cộng sang quay và mang sang Tàu thu thanh. Nhân chuyến du hành này, Trần Dần được tiếp xúc với nền văn hóa của Trung Cộng. Ông lấy làm thất vọng nên khi trở về, ông nói nhỏ với bạn bè: "Chớ nên theo đường lối văn nghệ của Trung Quốc". Cùng đi với ông sang Trung quốc có một cán bộ chính trị phụ trách về đường lối giải thích, nhưng tên cán bộ này mặc dầu dốt đặc về văn chương nhưng cũng cứ nhất định dùng quyền lực chính trị của mình để sửa chữa từng câu, từng chữ của Trần Dần, mà có khi ngang nhiên đọc lời giải thích của mình cho Trần Dần viết. Ông lấy làm bất mãn, nên khi về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh và Đỗ Nhuận, cùng trong cảnh ngộ, viết kiến nghị lên cấp trên yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lãnh vực văn nghệ. Kiến nghị còn đang được cứu xét thì xẩy ra một việc quan trọng hơn. Đó là việc Trần Dần tự tiện lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của Đảng. Theo một đạo luật bất thành văn mà Đảng đã đặt ra, các đảng viên cấp xã phải báo cáo cho cấp trên biết trước mỗi khi dự định lấy vợ, lấy chồng; các đảng viên huyện (trường hợp của Trần Dần) phải xin phép Đảng mới được cưới xin hoặc yêu đương, còn về phần các đảng viên cấp tỉnh trở lên thì việc dựng vợ gả chồng là đo Đảng quyết định. Trần Dần tuy là đảng viên, nhưng vẫn giũ tính chất văn nghệ sĩ, không chịu nổi luyến ái quan Mác Xít. Hồi ở chiến khu bao nhiêu lần Đảng "xây dựng" cho ông với các nữ đồng chí, ông đều không chịu và khi hòa bình trở lại, ông tình cờ gặp và mê ngay một thiếu nữ tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một mình, vì bố mẹ họ hàng di cư vào Nam không kịp mang theo. Trần Dần xin phép Đảng để cưới người yêu, nhưng Đảng nhất định không cho vì một lý do căn bản: người con gái đó theo đạo Thiên Chúa. Tuy vậy, Đảng không nêu lên lý do tôn giáo để từ chối mà chỉ giải thích rằng người con gái đó sống về tiền thuê nhà mà bố mẹ để lại nên thuộc vào thành phần bóc lột, và một đảng viên không thể lấy vợ giai cấp "địch". Trần Dần không chịu cắt đứt tình yêu nên khuyên ý trung nhân mang nhà cửa bố mẹ để lại giao cho ủy ban quản trị tài sản của những người vắng mặt trông coi và thu hoa lợi; hai người đều cam chịu sống trong cơ cực để yêu thương nhau. Đảng bèn rẽ duyên bằng cách điều động Trần Dần lên Việt Bắc công tác, nhưng Trần Dần lấy cớ ốm đau xin về Hà Nội nghỉ dài hạn và tự ý xin ra khỏi Đảng, ngang nhiên đến phố Sinh Từ sống với tình nhân không cần cưới xin. Đảng toan trừng trị, nhưng ngặt vì lúc đó đang có phong trào di cư, nên không dám khủng bố bất cứ ai sợ làm náo động nhân tâm khiến cuộc di cư bành trướng thêm. Đảng bèn nuốt giận làm lành, chỉ gây dư luận là Trần Dần đã sa đọa, rơi vào hố tư sản phản động. Nhưng sau khi đóng cửa Hải Phòng, Trần Dần lại làm một việc táo bạo thứ hai là phê bình đả kích cuốn "Thơ Việt Bắc" của Tố Hữu, một thi sĩ giữ chức trung ương ủy viên, phụ trách lãnh đạo văn nghệ. Tố Hữu liền ra lệnh bắt cóc Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc. Vợ Trần Dần lại sống bơ vơ giữa Hà Nội một lần nữa, hỏi thăm chồng ở đâu, không ai biết, vẫn thất nghiệp, lại thêm bụng mang dạ chửa. Bạn bè của Trần Dần phải chung tiền giúp đỡ và thay phiên đến thăm hỏi nâng đỡ tinh thần. Tin Trần Dần bị bắt mang đi biệt tích lan ra khắp Hà Nội và gây dư luận sôi nổi trong giới trí thức kháng chiến. Để dẹp yên dư luận, Đảng bèn sửa sai bằng cách đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Đảng cũng gọi vợ Trần Dần đến cho công việc may vá cho Mậu Dịch. Không được bao lâu, xảy ra vụ Krushchev hạ bệ Stalin. Nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Đảng bằng cách xuất bản tập Giai Phẩm 1956 (sau này gọi là Giai phẩm mùa Xuân). Lúc này Trần Dần không có mặt ở Hà Nội, nhưng Hoàng Cầm là bạn thân, biết Trần Dần hồi 1954 có viết bài "Nhất định thắng" có giá trị, nên đến nhà bảo vợ Trần Dần đưa bản thảo và mang in trong tập Giai Phẩm. Tờ tạp chí vừa in xong thì bị tịch thu ngay. Đảng ngờ rằng Trần Dần đã bị nằm tù mà còn dám viết bài chống Đảng nên gọi Trần Dần về, mang ra đấu giữa một cuộc hội nghị của đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần vào tội phản động, lấy cớ là trong các bài thơ ông có dùng chữ "Người" viết hoa nên gán cho ông có ý đả kích cụ Hồ và ra lệnh tống giam vào nhà pha Hỏa lò ở Hà Nội. Trần Dần uất ức quá dùng lưỡi dao cạo cứa cổ, nhưng không chết, sau này vẫn mang cái sẹo ở cổ. Năm tháng sau, Việt cộng tuân theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế phát động phong trào sửa sai. Giới trí thức được dịp phát động phong trào đấu tranh chống Đảng. Họ xuất bản tờ Giai Phẩm mùa Thu và tờ Nhân Văn, lên tiếng phản đối vụ tịch thu tờ báo Giai Phẩm Mùa Xuân và việc khủng bố Trần Dần. Cụ Phan Khôi có nêu hai vấn đề này trong bài "Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ" đăng trong Giai Phẩm mùa Thu và Hoàng Cầm viết một bài nhan đề "Con Người Trần Dần" đăng trong tờ Nhân Văn số đầu bị công kích không có thế đỡ, Đảng bèn thả Trần Dần về và phục hồi danh dự bằng cách ra lệnh cho Hội Văn Nghệ viết bản tự kiểm thảo đăng trên các báo. Nhóm Giai Phẩm bèn tái bản tờ Giai Phẩm mùa Xuân trong đó có bài thơ "Nhất Định Thắng" của Trần Dần. Nhưng sau khi Nga Sô đàn áp cuộc khởi nghĩa Budapest thì Việt cộng cũng đóng cửa tờ Nhân Văn và Giai Phẩm. Một lần nữa, Trần Dần lại bị quy là phản động và bị "treo giò" không được viết văn. Nhưng đến tháng cuối năm 1957, nhân báo Văn trở lại chống Đảng, Trần Dần gửi đăng một bài thơ nhan đề là "Hãy Đi Mãi" nói lên ý chí cương quyết đấu tranh đòi tự do đến cùng. Về thơ, ông còn sáng tác những bài: "Nói thật" trong đó ông lý luận rằng chỉ vì cán bộ hèn nhát không dám nói thật với Đảng nên mới xảy ra vụ "sai lầm" trong cải cách ruộng đất. "Nhân Văn làm lớn con người" trong đó ông đề cao nhân văn. "Một bài thơ chưa có đề" trong đó ông ám chỉ Tố Hữu là nhà thơ "ti tỉ đờn bầu" Về truyện, ông viết: "Chú bé làm văn" để chỉ trích nền giáo dục Cộng sản chuyên môn tập cho trẻ em nói dối từ thuở bé để sau này nói dối thuê cho Đảng. "Mâu thuẫn với cả nước" tả một nhạc sĩ bất tài (ám chỉ Lương Ngọc Trác) dùng thế lực Đảng, quy cho một nhạc sĩ có tài hơn mình vào tội "mâu thuẫn với cả nước". "Lão Rồng" tả một nông dân hiền lành bị bọn "lý trưởng mới" chà đạp. Nhưng đặc biệt hơn cả là truyện Anh Cò Lắm, tả sự khổ cực của nông dân trong cải cách ruộng đất. Trong đó có đoạn như sau: "Tôi đi thẳng vào nhà Cò Lắm. Vắng cả, nhà chả có ai, nhưng có tiếng trẻ khóc. Ba gian nhà nhỏ vẫn một cái giường, một cái chõng, có thêm một lá cờ đỏ rắt mái nhà rủ trước mặt bức ảnh Hồ chủ tịch. Một đứa bé con độ lên hai bò giữa nhà, giời rét mà độc một manh áo nâu, còn cởi chuồng, chân tay lắm mụn, bôi phẩm xanh lè cả người. Thấy tôi nó càng khóc, giơ tay quẹt má. Tôi nhìn: Tay nó có cái gì vàng vàng? à ra cứt, nó ỉa một đống còn kia, cổ chân nó lại buộc một cái dây bằng vải khá dài, một đầu dây buộc vào cột nhà, chắc hẳn mẹ nó buộc nó vào dây cho nó chơi một mình". Trừ có hai bài thơ Nhất Định Thắng và Hãy Đi Mãi ông ký tên thật, còn tất cả những bài khác đều ký bằng bí danh, sau này bị tra khảo trong tù ông mới nhận là chính ông viết. Sau đây chúng tôi chỉ trích hai bài: Nhất Định Thắng và Hãy Đi Mãi vừa điển hình cho lối thơ của ông, vừa nói lên tâm sự của thế hệ mới ở Bắc Việt:
NHẤT ĐỊNH THẮNG HÃY ĐI MÃI. Bài thơ này đã gây nên cuộc đấu tố tác giả, khiến tác giả phải cứa cổ tự tử. Vì vậy nên tuy dài, chúng tôi cũng đăng trọn bài. Đại ý của tác giả là nêu sự đói rét của đất Bắc và nỗi u buồn trong lòng người phương Bắc hiện nay. Tôi ở phố Sinh Từ: Hai người Một gian nhà chật. Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui? Tổ quốc hôm nay tuy gọi sống hòa bình Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất Chúng ta còn muôn việc rối tinh... Chúng ta Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc Vợ con đau thì rối ruột thuốc men Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt. Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù Chúng còn đương bày kế hại đời ta? Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc Đất hôm nay tầm tã mưa phùn Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn Lưng tôi có tên nào chém trộm? A! Cái lưỡi dao cùn! Không đứt được - mà đau! Chúng định chém tôi làm hai mảnh Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh Hãy nhìn xem: có phải vết dao? Không đứt được mà đau! Lưng Tổ quốc hôm nay rớm máu Tôi đã sống rã rời cân não Quãng thời gian nhung nhức chuyện đi Nam Những con mưa rơi mãi tối xầm Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng Tôi đã trở nên người ôm giận Tôi đem thân làm ụ cản đường đi. - Dừng lại! - Đi đâu? - Làm gì? Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân Có cả anh Nam chị Nữ kêu buồn - ở đây - Khát gió thèm mây... - Ô hay! Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi? Sau đám mây kia là cả miền Nam Sao nỡ tưởng là non bồng củ a Mỹ! Tôi muốn khóc giữ từng em bé Bỏ tôi ư? - từng vạt áo - Gót chân Tôi muốn kêu lên - những tiếng cọc cằn... - Không! Hãy ở lại! Mảnh đất ta hôm nay dù tối Cũng còn hơn... non bồng Mỹ triệu lần... Mảnh đất dễ mà quên? Hỡi bạn đi Nam Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà? Chỉ là: - thiếu quả tim, bộ óc! Những lời nói sắp thành nói cục Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi Tôi nức nở giữa trời mưa bão. Họ vẫn ra đi. - Nhưng sao bước rã rời? Sao họ khóc? Họ có gì thất vọng? Đất níu chân đi. gió cản áo bay về Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống. Tưởng như đây là phút cuối cùng Răng rối lại: - mỗi lùm cây - hốc đá - Mỗi căn vườn - gốc vả - cây sung Không nói được chỉ còn nức nở Trắng con người nhìn lại đất trời Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ Ôi đất ấy - quên làm sao được? Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi Hôm nay đây mưa gió dập vùi - Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc... Ai dẫn họ đi? - Ai ? Dẫn đi đâu? - mà họ khóc mãi thôi! Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi Tôi cúi xuống - quỳ xin mưa bão Chớ đổ thêm lên đầu họ - khổ nhiều rồi! Họ xấu số - chớ hành thêm họ nữa Vườn ruộng hoang sơ - Cửa nhà vắng chủ Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thiu Họ đã đi nhưng chút lại tâm hồn Ôi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ. Tôi ở phố Sinh Từ Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi... không thấy phố... không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa... trên mầu cờ đỏ Gặp em trong mưa Em đi tìm việc Mỗi ngày đi lại cúi đầu về - Anh ạ!... họ vẫn bảo chờ... Tôi không gặn hỏi, nói gì ư? Trời mưa, trời mưa Ba tháng rồi Em đợi Sống bằng tương lai Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã Em đi... trong mưa... cuối đầu... nghiêng vai Người con gái mới mười chín tuổi Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi Bóng chúng ... đè lên... số phận... từng người Em cúi đầu đi, mưa rơi Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi... không thấy phố... không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa... trên mầu cờ đỏ Đất nước khó khăn nà... sao không thấm được vào Thơ? Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua Nhưng mà sách - hình như khá chạy à quyển kia của bạn này - bạn ấy Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm Nó đang mơ: - nếu thêm cả miền Nam Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu Tôi đã biến thành người định kiến Tôi ước ao tất cả mọi người ta Đòi thống nhất, phải đòi từ việc nhỏ - từ cái ăn... cái ngủ... chuyện riêng tư - từ suy nghĩ... nựng con... và tán vợ. Trời mưa mãi lây dây đường phố Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió Nhưng hôm nay... tôi bỗng cúi đầu Thơ nó đi đâu?... Sao những vần thơ Chúng không chuyển, không xoay trời đất? Sao chúng không chắp được cõi bờ? Non nước sụt sùi mưa Tôi muốn bỏ thơ... làm việc khác Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa Chút tài mọn... tôi làm thơ chính trị Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi... không thấy phố... không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa... trên mầu cờ đỏ Em ơi! -- ta ở phố Sinh Từ Em đương có chuyện gì vui hử à cái tin trên báo - ừ em ạ Chúng đang phải dậm chân đấm ngực! Vượt qua đầu chúng nó. ... mọi thứ hàng Những tấn gạo vẫn vượt đi Những tấn thơ, tài liệu Vẫn xéo qua đầu chúng, giới danh gì? ý muốn dân ta... là lực sĩ khổng lồ Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến Dân ta muốn trời kia cũng chuyển Nhưng Trời mưa to lụt cả gian nhà Ôm tất cả che mưa cản gió Con chó mực nghe mưa là rú Tiếng nó lâu nay như khản em a Thương nó nhỉ - nó gầy - lông xấu quá Nó thiếu ăn - Hay là giết đi ư ? Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ. Em thương nó - ừ thôi chuyện đó Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra Anh đã biến thành người định kiến Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi... không thấy phố... không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa... trên mầu cờ đỏ Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm Tiếng người nói xen tiếng người ầm ả. - Chúng phá hiệp thương - Liệu có hiệp thương - Liệu có tuyển cử - Liệu tổng hay chẳng tổng - Liệu đúng kỳ? hay chậm vài năm? Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng Ôi Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương lai Ngươi quên mất Mỹ là sư tử giấy. Người vẫn vội - Người chưa kiên nhẫn mấy Gan người ta chưa phải đúng công nông Người chửa có dạ lim trí sắt Người mở to đôi mắt mà trông! A tiếng kèn vang... quân đội anh hùng Biển súng... rừng lê... bạt ngàn con mắt Quân ta đi tập trận về qua Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà... Lá cờ ấy là cờ bách thắng Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn Từ đất dấy lên... là quân vô sản Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành Thắng được Chiến tranh... Giữ được Hòa Bình Giặc cũ chết - lại lo giặc mới Đoàn quân ấy kẻ thù sợ hãi Chưa bao giờ mất bụng dân yêu Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều Ai có Lý? và ai có Lực? Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy Biết nhân dân... Biết Tổ quốc Việt Nam này Những con người từ ức triệu năm nay... Không biết nhục... Không biết thua... Không biết sợ! Hôm nay Cả nước chỉ có một lời hô: THỐNG NHẤT Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi - Giả miền Nam... Tôi ngửa mặt lên trời Kêu một tiếng - bỗng mầu trời rơi xuống Vài ba tia máu đó rớt vào tôi Dân ta ơi! Những tiếng ta hò Có sức đâm trời chảy máu Không địch nào cưỡng nổi ý ta Hiền hậu lắm - Nhưng mà đi cả quyết... Hôm nay Những vần thơ tôi viết Đã giống lưỡi lê: đâm.... Giống viên đạn: xé ...... Giống bão mưa: gào... Giống tình yêu: thắm Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu Tôi là người vô địch của lòng tin. Sao bỗng đêm nay,... tôi cúi mặt trước đèn? Gian nhà vắng - chuột đêm nó rúc. Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra. Hừ! Chúng nó đã biến thành tảng đá... chặn đường ta! Em ơi thế ra Người tin tưởng nhất như anh... vẫn có phút giây ngờ vực Ai có lý? và ai có lực ? Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin? Em ơi Cuộc đấu tranh đây... cả nước... cả hoàn cầu Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu Có lẫn máu, có sót thương lao lực Anh gạch xóa tranh thơ hằn nét mực Bỗng mặt anh nhìn thấy! lạ lùng thay! Tảng đá chặn đường này! Muôn triệu con người... muôn triệu bàn tay Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực! Anh đã nghĩ: Không có con đường nào khác Đem ngã lòng ra... mà thống nhất Bắc Nam ư? Không không! Đem sức gân ra! Em ơi em! Cái này đỏ lắm, gọi là Tim Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT
Bài thơ này lúc đầu lấy nhan đề là "Bài thơ Thống Nhất" và chỉ có đến đây là hết. Hoàng Cầm khuyên Trần Dần nên làm thêm một đoạn nữa để "giữ vững lập trường" mới có thể xuất bản được. Vì vậy nên mới có đoạn văn sau này và bài thơ cũng đổi nhan đề là "Nhất định thắng".
Hôm nay Trời đã thôi mưa thôi gió Nắng lên đỏ phố đỏ nhà Đỏ mọi buồng tim lá phổi Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa! Bây giờ Em khuân đồ đạc ra phơi Em nhớ đừng quên Em khuân tất cả tim gan chúng mình phơi nắng hết Em nhìn cao tít trời xanh Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ! Hôm nay em đã có việc làm Lương ít - Sống còn khó khăn Cũng là may... Chính phủ muôn lo nghìn lắng Thực có tài đuổi bão xua mưa, không thì còn khổ Em treo cờ đỏ đầu nhà Lá cờ trừ ma Xua được bóng đen chúng nó! Những vết thương kháng chiến đỏ lòm Đã mím miệng, lên da lên thịt Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực Em ơi Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni... và nhiều phố khác. Anh đã sống ở Sài-gòn thuở trước Cảnh miền Nam thành một góc tim anh Chúng đốt tận đâu ... mà lửa xém tim mình Tim nó bị đen thui một nửa Từ dạo ấy... mà em chẳng rõ. - Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã Đứng đây Một lúc! Cờ bay... đỏ phố... đỏ nhà Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh Ai thắng ai thua? Ai có lý? và ai có lực? Em ơi Hôm nay... trời xanh... xanh đục Nắng lên... đỏ phố... đỏ cờ Cuồn cuộn mít tinh Những ngày thương xót đã lùi xa Hòa bình... thêm vững Anh bước đi... đã thấy phố thấy nhà Không thấy mưa sa Chỉ thấy nắng lên... trên màu cờ đỏ. Ta ở phố Sinh Từ Em này Hôm nay... đóng cửa Cả nhà ra phố... mít tinh Vung cờ đỏ ... hát hò... vỡ phổi. Hỡi những người... thành phố... thôn quê Đói no lành rách Người đang vui Người sống đang buồn Tất cả!... Ra đường! Đi!... hàng đoàn... hàng đoàn Đòi lấy tương lai: HÒA BÌNH... THỐNG NHẤT... ĐỘC LẬP... DÂN CHỦ. Đó là tim... là máu đời mình Là cơm áo! Là ái tình Nhất định thắng... TRẤN DẤN
- Ngụ ý của tác giả trong bài này là kêu gọi những người yêu chuộng tự do hãy tranh đấu đến cùng, bất chấp mọi sự đe dọa Khi trái đất còn đeo bom... trước ngực thắt lưng... còn lựu đạn, bao xe: - Khi bạo lực còn khua... môi mõm mốc xì, khẩu đại bác mỏi đừ... vẫn sủa; - Khi bóng tối... còn đau như máy chém những lời ca đứt cổ ... bị bêu đầu Lũ đao phủ tập trung... hình cụ mặt trời lên... phải mọc giữa rừng gươm; - Khi thế kỷ còn rung... chuông lừa bịp. Những canh gà... báo trượt rạng đông. Con rắn lưỡi cắn người như cắn ngóe: - Khi xe tăng... chửa đi cấy đi cày, như... một lũ tội nhân cần cải tạo; - Khi... con thò lò ngày đêm hai mặt đói meo , còn quay tít... trên kiếp người hạ giá; - Những khi ấy... sẵn sàng... nổi giận, loài người... còn tổ chức nhau đi. Hãy đi mãi như người... cộng sản có thể mỏi mọi điều... không mỏi tấn công! Phải làm lại chúng ta, tất cả - ... không tha, để đừng có một ai lần lữa, khi nào... chân lý gọi tên đi, Hãy đi mãi!... dù mưa băm nát mặt Sương rơi, hơn đạn xưa... đau đầu. Dù bốn mùa... nhung nhức nắng mưa mùa bão tuyết thế chân... mùa gió độc. Hãy đi mãi!... dù mưa đông phục kích hay... lửa hè đánh trộm sau lưng Dù những đêm... buồn như sa mạc hoang vu Đoàn du mục tủi thân... vùi bãi cát. Dù... những ngày, mũi kiếm heo may đi hành hạ... những tâm tư trằn trọc Hãy đi mãi!... Dù trên biển cả sống như người vật vã... khắp đại dương. Dù những con tàu... bỗng nhớ bến bình yên. còi rúc mãi những tiếng kêu rùng rợn Hãy đi mãi!... Dù khi cần thiết người ta cần đói khát... vượt bình xa. Ta bỗng có thể nhịn lâu... hơn cả lạc đà. đi... đến tận những kinh thành no ấm . Hãy đi mãi!... Dù có phen chót ngã Hãy bó đôi chân lầm lỡ... mà đi. Hãy tin chắc... rồi ta... xứng đáng một vòng hoa đỏ nhất... phủ quan tài Tôi chửa có khi nào quên táo bạo chửa khi nào quên hát... quên đau. Tôi yêu đất mẹ đây... có cỏ hoa làm chứng Tôi yêu chủ nghĩa này... cờ đỏ cãi cho tôi. Nhưng... chẳng thể rúc kèn củ rích, vác loa mồm kêu:... "Hiện tại rất thiên đường!" Không! Thiên đường chúng ta... là nối đuôi nhau... vô tận triệu Thiên đường. Đi mãi... chẳng bao giờ thỏa. Tôi có thể mắc nhiều... tội lỗi, chẳng bao giờ quá ngu đi... mắc tội: nằm! Han rĩ... khác gì cái chết? Chết con tim chẳng còn dám đau thương. Chết khối óc... chẳng còn dám nghĩ! Nếu... tôi chửa đến ngày thổ huyết phổi tôi còn xâu xé mãi... lời thơ. Tôi có thể mặc thây... ngàn tiếng chửi tục tằn trừ tiếng chửi:..."Sống không sáng tạo!" Nếu tôi bị gió sương... đầu độc, một hôm nào ngã xuống... giữa đường đi tôi sẽ ngã... như người lính trận hai bàn tay chết cứng... vẫn ôm cờ. Nếu vầng nhật... thui tôi làm bụi, nắng oan khiên đốt lại... làm tro Bụi tôi sẽ... cùng ta... vẫn sống vẫn chia nhau gió bấc... xẻ mưa phùn. Nếu dĩ vãng đè trên lưng... hiện tại nặng nề... hàng tạ đắng cay, tôi sẽ nổ tung... ngàn kho đạn tiếng kêu tan xác pháo... mọi cái gì cũ rích, Nếu... hàm răng chuột nhắt của gia đình gậm nhấm... cả tình yêu cùng dự định tôi sẽ biến thân tôi thành... thép nguội làm thất bại... mọi thứ rũa đã quen rũa người... tròn trặn quá hòn bi. ở trong tôi... nếu còn sức mạnh gì chính là sức những ai... nghèo khổ nhất. những ai... lao lực nhất... địa cầu ta. Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu... nặng nề sáng tạo như... nâng một viễn vọng đài trên cuộc sống hàng ngày... nhí nhách Tôi vẫn cháy... ngọn hải đăng con mắt ở trong biển sống... từng đêm. Tôi vẫn đóng những câu thơ... như người thợ... đóng tàu, chở khách... đi về phía trước, nói... loài người... đã biết sống chung nhau. Nói... tất cả... chẳng còn ai bần tiện, chẳng còn lo... cơm áo... nợ nần.
21/8/2020
Mạc Đình
Theo http://quyetnguyenblog.blogspot.com/
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...