Dưới nắng trời Châu Âu
TÓM TẮT TRUYỆN
Dưới nắng trời châu Âu là tập hợp những bài tản văn du lịch
thú vị đầy cảm xúc của một cô gái đặc biệt.
Đó là sự đón tiếp nồng nhiệt của một gia đình người Việt ở
Augsburg (Đức) đã thắp lên những suy nghĩ về cảm giác bình yên nhất đối với mỗi
người là khi được ở bên gia đình. Hạnh phúc đôi khi giản đơn như khoảnh khắc được
quây quần cùng bố mẹ trong bữa cơm chiều, để nhận ra “Cuộc đời vẫn thế, người
ta luôn luôn khát khao những gì họ không có”… (Augsburg - chốn bình yên). Đó là
nỗi trăn trở khi rời Weggis (Thụy Sĩ) với hình ảnh về câu chuyện một cô gái Đức
luôn đau đáu về cội nguồn với một nửa dòng máu Việt Nam đang chảy trong người...
Đồng hành cùng Dưới nắng trời châu Âu để biết tuổi trẻ không
phải chỉ là mùa của những yêu thương, mà còn là mùa của những hành trình, khám
phá nên có, cần có trong đời, để tầm nhìn và lý tưởng trước cuộc đời được cất
cánh bay cao, bay xa hơn, vững vàng hòa vào biển lớn mà không ngại gió giông
vùi lấp…”
GIỚI THIỆU
Dưới nắng trời châu Âu là tập hợp những bài tản văn du lịch thú
vị đầy cảm xúc của một cô gái đặc biệt.
Đó là sự đón tiếp nồng nhiệt của một gia đình người Việt ở
Augsburg (Đức) đã thắp lên những suy nghĩ về cảm giác bình yên nhất đối với mỗi
người là khi được ở bên gia đình. Hạnh phúc đôi khi giản đơn như khoảnh khắc được
quây quần cùng bố mẹ trong bữa cơm chiều, để nhận ra “Cuộc đời vẫn thế, người
ta luôn luôn khát khao những gì họ không có”… (Augsburg - chốn bình yên). Đó là
nỗi trăn trở khi rời Weggis (Thụy Sĩ) với hình ảnh về câu chuyện một cô gái Đức
luôn đau đáu về cội nguồn với một nửa dòng máu Việt Nam đang chảy trong người...
Đồng hành cùng Dưới nắng trời châu Âu để biết tuổi trẻ không
phải chỉ là mùa của những yêu thương, mà còn là mùa của những hành trình, khám
phá nên có, cần có trong đời, để tầm nhìn và lý tưởng trước cuộc đời được cất
cánh bay cao, bay xa hơn, vững vàng hòa vào biển lớn mà không ngại gió giông
vùi lấp…”
Hà Nội, 23h13’, 20.02.2011
Blogger LƯƠNG ĐÌNH KHOA
CÔ GÁI VIỆT THẮP NẮNG GIỮA TRỜI ÂU
Tôi đã gọi cô gái có nụ cười đẹp và rạng rỡ như “mùa thu tỏa nắng”
mang tên Hoàng Yến Anh như thế khi ngắm nhìn những bức hình trên trang blog cá
nhân của cô. Mỗi lần ghé thăm là mỗi lần tôi hồi hộp với niềm háo hức, mong đợi
được đọc tiếp một entry mới trong loạt bài viết về vẻ đẹp đất nước, con người
nơi mỗi thành phố phía trời Âu mà Yến Anh đã đi qua.
Trong mắt bạn bè cùng trang lứa thì tôi cũng thuộc dạng đi
nhiều, khi bàn chân tuổi 25-26 đã rong ruổi trên những miền đất từ Bắc chí Nam,
song cũng chỉ bó hẹp trong phạm vi của dải đất cong cong hình chữ S bên bờ biển
Đông mà thôi. Tôi khát khao được bay cao hơn, xa hơn mà chưa thể. Còn Hoàng Yến
Anh thì khác. Ít ai có thể nghĩ được rằng người con gái mảnh khảnh với mái tóc
đen dài rất nữ tính, rất Việt Nam ấy lại một mình bươn chải với cuộc sống nơi đất
khách quê người hơn 10 năm nay để theo đuổi ước mơ của mình, đồng thời sống những
tháng năm tuổi trẻ đầy ý nghĩa bằng hành trình khám phá những điều kì diệu ở từng
góc nhỏ của châu Âu - một điều mà không phải bất kỳ người trẻ 8x nào như Yến
Anh cũng có thể làm được.
“Ban đầu đơn giản chỉ là những chuyến đi theo lớp, theo trường
và mình đi chỉ để cho biết thôi. Sau này càng đi thì càng say mê, càng thấy thế
giới thật đẹp và nhiều người tốt lắm Khoa ạ. Những chuyến đi giúp mình có nhiều
bài học để mình hiểu biết và nhận ra được giá trị của cuộc sống sâu sắc hơn.” Yến
Anh đã chia sẻ với tôi như thế về những chuyến đi của mình. Mỗi chuyến đi được
đánh đổi bằng những giờ gia sư làm thêm sau thời gian đi học, bằng công việc bồi
bàn lặng lẽ vào cuối tuần. “Tất cả cũng chỉ vì muốn dành dụm để khám phá tiếp
những miền đất còn lại của châu Âu mà mình chưa được tới…”
Và cứ như thế đều đặn mỗi tháng, Yến Anh lại gửi tặng bạn bè
và những người háo hức muốn được đồng hành, khám phá bao điều kỳ diệu. Dưới nắng
trời châu Âu là tập hợp những bài tản văn du lịch thú vị đầy cảm xúc của cô gái
đặc biệt này.
“Tôi viết bài thơ cho một ngọn cỏ may nâu nhạt
mang trong mình dòng máu Việt Nam - theo gió lang thang,
tháng ngày ruổi rong
trên ngọn đồi xa xôi của nước Đức
Ngọn cỏ may nhỏ bé bản lĩnh và nghị lực
Vươn mình đất khách - dẫu cô đơn!
Ngọn cỏ may mang trái tim rực lửa yêu thương
Những trở trăn vơi đầy trên trang viết
Những lời tâm sự rưng rưng nước mắt
Ngọn đèn đêm thao thức nhớ quê nhà…
Sắp đặt hành trình cho con tàu tuổi trẻ đời mình - là những
chuyến đi xa
Từ Berlin, Sevilla đến Paris, Amsterdam, Lucerne, Venice…
Từ những thành phố yên bình nhỏ xinh đến những kinh thành phồn
hoa lộng lẫy
Những cánh đồng, dòng sông, cánh rừng, đỉnh núi…
Để gần hơn với đủ mọi kiếp người!...”
Đó là vẻ đẹp Copenhagen - thiên đường của những giấc mơ, là
những khoảnh khắc yên bình nơi thành phố Berlin, là Sevilla những ngày rực nắng,
là vẻ đẹp của Thụy Sĩ qua Lucerne thơ mộng, hay đơn giản chỉ là một ngày nắng đẹp
ở London, những khu vườn nhỏ xinh giữa lòng kinh thành Paris tráng lệ… Tất cả
hiện lên qua góc nhìn nồng nàn, mê đắm của một người Việt trẻ biết xui những
con chữ cất lời với những vẻ đẹp riêng và tươi mới, khác với những bài viết đơn
điệu mang tính cung cấp thông tin hướng dẫn du lịch về những thành phố này mà
tôi đã đọc được trên Internet. Hoàng Yến Anh biết cách đặt tình yêu của mình
vào trong từng câu chữ, để rồi những xúc cảm nồng nàn ấy như nắng sớm mai, cứ dần
lan tỏa và ấm lên trong lòng người đọc… Hoàng Yến Anh vô tình trở thành cô gái
có phép thuật khi biết rút ngắn khoảng cách và đưa những thành phố ẩn chứa nhiều
vẻ đẹp kỳ thú từ phía trời Âu để đặt trong lòng bạn bè Việt Nam.
Không chỉ dừng lại ở việc khám phá vẻ đẹp về đất nước - con
người ở mỗi thành phố mình đã đi qua, mỗi bài viết của Hoàng Yến Anh còn là những
thông điệp quý giá với những trải nghiệm, trăn trở, suy tư về cuộc sống, tình đời,
tình người trước, trong và sau mỗi chuyến đi, để rồi từ đó thấy mình lớn khôn
thêm trước cuộc đời.
Dưới nắng trời châu Âu của Hoàng Yến Anh không phải là tập
sách đầu tiên viết về châu Âu qua góc nhìn của người Việt trẻ. Bởi trước đó,
Dương Thụy (Pháp) và Giáng Uyên (Anh) đã cho ra mắt hai tập sách mang tên
Venice và những cuộc tình Gondola và Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương, song
có lẽ đây sẽ là tập sách đầu tiên mang đến cho bạn đọc cái nhìn toàn cảnh, nhiều
chiều về châu Âu với những bài viết thú vị đầy cá tính và cảm xúc về 15 đất nước
và gần 30 thành phố của châu Âu mà tác giả từng đi qua (nhiều bài viết đã được
đăng trên các báo Doanh nhân Sài Gòn, Tuổi trẻ, Nhịp cầu Đầu tư, Thế giới Doanh
nhân…)
Đồng hành cùng Dưới nắng trời châu Âu để biết tuổi trẻ không
phải chỉ là mùa của những yêu thương mà còn là mùa của những hành trình, khám
phá nên có, cần có trong đời, để tầm nhìn và lý tưởng trước cuộc đời được cất
cánh bay cao, bay xa hơn, vững vàng hòa vào biển lớn mà không ngại gió giông
vùi lấp…
Hà Nội, 23h13’, 20.02.2013
Blogger LƯƠNG ĐÌNH KHOA
ANH: LONDON NGÀY NẮNG ĐẸP
Đặt chân tới London vào một sớm ban mai những ngày giữa tháng
Mười hai, thủ đô của nước Anh đón chúng tôi bằng một trận mưa tầm tã. Ngồi trên
xe, tôi tự hỏi lẽ nào mình “vô duyên” với thành phố này đến thế sao? Mười mấy
giờ vật vã trên chiếc xe buýt du lịch xuyên qua Hà Lan, Bỉ, Pháp rồi khi đến
Calais lại phải dừng lại để kiểm soát an ninh. Vì dù nằm trong châu Âu, nhưng
khách du lịch mang quốc tịnh châu Âu khi qua Anh vẫn phải xuất trình hộ chiếu.
Sau đó, chúng tôi chuyển lên tàu thủy để tiến về phía nước Anh trong lúc nửa
đêm khiến niềm háo hức của tôi về London bị xẹp đi rất nhiều, nhưng may thay,
khi xe dừng lại ở Pháo đài Tháp London thì những giọt mưa cuối cùng cũng ngừng
rơi và mặt trời bắt đầu nhú lên ở phía đằng đông.
Khi người tài xế của chuyến xe nói rằng: “Chúng ta đã có mặt ở
London”, tôi vẫn không tin vào mắt mình và nói với Maike - cô bạn đi cùng rằng:
“Mình đang ở London thật rồi sao?” Thành phố đang buổi ban mai nên không khí rất
trong lành, khách du lịch cũng chưa xuống phố nhiều. Tôi rút tấm bản đồ đã đánh
dấu sẵn những nơi muốn đến từ khi còn ở nhà ra và bắt đầu cuộc hành trình tìm
kiếm vẻ đẹp của thành phố lừng danh và không kém phần đắt đỏ này.
Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi là Pháo đài Tháp London
(còn gọi là Tháp London), đây là một di tích lịch sử nằm ngay giữa trung tâm
thành phố, là Di sản văn hóa thế giới đã được UNESCO công nhận vào năm 1988.
Đây là nơi lưu giữ các vương miện của Vương quốc Anh, trước kia đây còn là nơi
giam giữ các tù nhân trong hoàng gia có địa vị cao. Chúng tôi chỉ ngắm nhìn
Tháp London từ phía bên ngoài, sau đó đi bộ ra dòng sông Thames nổi tiếng. Trước
khi tới London, tôi đã tưởng tượng ra một dòng sông Thames kiều diễm, đẹp không
thua gì dòng sông Seine ở Paris mà tôi từng được chiêm ngưỡng trước đó không
lâu. Nhưng khi nhìn thấy dòng sông Thames, tôi đã buột miệng thốt lên: “Ôi,
dòng sông xanh trong mơ ước của tôi sao bẩn và đục ngầu như thế này?” Đang thất
vọng về dòng sông trong mơ của mình, Maike kéo tay tôi bước đi và chỉ về phía
trước: “Xem này, Cầu Tháp London phía trước chúng ta kìa”. Tôi ngẩng mặt lên
nhìn cây cầu đá kiều diễm - niềm tự hào của người dân London, những tia nắng mặt
trời chiếu trên cây cầu bỗng làm tôi quên đi dòng sông Thames “không xanh” như
tôi vẫn hình dung.
Chúng tôi bách bộ dọc sông Thames, bước qua những cây cầu
khác nữa như Southwark, Blackfriars, Waterloo và cuối cùng dừng lại ở
Westminster. Mỗi cây cầu lại mang một vẻ đẹp khác nhau. Có thể đối với nhiều
người thì Cầu Tháp London là cây cầu rạng rỡ nhất London, nhưng với tôi,
Westminster là cây cầu để lại nhiều ấn tượng nhất. Khi đứng trên cây cầu này,
người ta không chỉ nhìn thấy toàn bộ những cây cầu khác bắc qua dòng sông
Thames, mà còn có thể dễ dàng nhận ra London Eye[1], BigBen[2] sừng sững hay
Nhà Quốc hội London. Một khung cảnh thật đẹp và nên thơ, đúng như những gì tôi
mơ tưởng về nước Anh mù sương.
[1] London Eye: Còn được biết đến với tên gọi Vòng quay thiên
niên kỷ (Millenium Wheel) là vòng đu quay cao nhất ở Châu Âu và là điểm du lịch
có thu phí đông nhất tại Anh, với hơn ba triệu lượt khách một năm.
[2] Big Ben: Tên đầy đủ là Tháp đồng hồ của Cung điện
Westminster, là một cấu trúc Tháp đồng hồ ở mặt Đông Bắc của công trình Quốc hội
ở Westminster, London. Mặc dù tháp này được biết đến với tên gọi Big Ben, nhưng
thực ra tên này chính là tên của cái chuông đặt trong tháp.
Chúng tôi đến London trong những ngày gần lễ Giáng sinh nên
trên các cây cầu có rất nhiều ông già Noel da đen đứng chơi những bản nhạc du
dương, còn khách du lịch thì đứng ghé vào chụp hình làm kỉ niệm. Tôi đứng nhìn
dòng người qua lại, mỉm cười và thấy một thành phố lãng mạn đang ở ngay trước mắt
mình. Bước xuống cây cầu Westminster, chúng tôi hòa vào dòng người đang đứng ở
hội chợ Noel, ghé vào những cửa hiệu bằng gỗ bé nhỏ xinh xắn bán những món quà
lưu niệm, quà Giáng sinh hay chỉ vài món ăn và đồ uống nóng lót dạ cho khách du
lịch, rồi sau đó vòng quay trở lại ngắm Tháp chuông đồng hồ Big Ben sừng sững
phía bên đường, cạnh đó là Tòa nhà Quốc hội cổ kính. Đây cũng là nơi thu hút rất
nhiều khách du lịch với những chiếc máy ảnh được hoạt động ở công suất tối đa.
Thậm chí, chúng tôi còn gặp một đôi bạn trẻ người Anh đang chọn nơi này để chụp
ảnh cưới. Có lẽ không một ai có thể biết được đã có bao nhiêu bức ảnh được ghi
lại ở đây.
Quảng trường Trafalgar hôm đó rất đông người, thời tiết chỉ
chừng 5-7 độ nhưng vì có nắng nên mọi người kéo nhau ra ngồi ở hồ nước và thả lỏng
mình trước một không gian thoáng đãng. Chuyện cho bồ câu ăn đã bị cấm từ nhiều
năm nay nên quảng trường bây giờ rất sạch sẽ, những chiếc ghế như muốn mời gọi
du khách tới ghé ngồi. Ở đó, người ta có thể quan sát mọi thứ xung quanh, ngắm
nhìn dòng người qua lại hay những chiếc xe buýt đỏ hai tầng - một hình ảnh
không thể thiếu của London.
Cách đó không xa là nhà thờ Westminster, nhà thờ này được xây
bằng đá trắng và gạch đỏ bên ngoài. Đây cũng là nhà thờ Thiên Chúa giáo chính của
Vương quốc Anh và xứ Wales. Sau đó, chúng tôi đi đường vòng tới công viên St.
James, ngồi trên những chiếc ghế gỗ ngắm nhìn những con chim bồ câu bay xung
quanh. Đây cũng là công viên cổ nhất của Hoàng gia Anh, nằm gần Cung điện
Buckingham và đường Downing. Nhiều người London thường tìm đến đây để tận hưởng
không khí thanh bình và thư giãn, nạp năng lượng cho một ngày làm việc mới hay
đơn giản chỉ để khẽ nhắm đôi mắt nghỉ ngơi, thư giãn. Khi đi qua công viên này,
chúng tôi tới Cung điện Buckingham. Trước cổng, du khách đứng xem người gác cổng
đi lại với những động tác luôn được lặp đi lặp lại khiến tôi không nhịn nổi cười.
Cô bạn đi cùng tôi quay sang nói nhỏ: “Nhiệm vụ cao cả này sao chẳng khác gì việc
làm trò cười cho thiên hạ thế nhỉ?” Xung quanh chúng tôi rất nhiều người đứng
xem và tủm tỉm cười.
Hyde là công viên được nhiều người Việt Nam biết tới, bởi
công viên này rộng nhất London và cũng khá nổi tiếng với góc diễn giả[3]. Công
viên này trước đây là nơi săn bắn của vua Henry VIII nhưng vào thế kỉ thứ XVII
thì công viên này đã được mở cửa cho dân chúng. Không biết có phải vì công viên
này được bao bọc bởi nhiều con đường mua sắm hay không mà rất nhiều người
London thường vào đây để tranh thủ nghỉ trưa. Một anh bạn thân người Đức của
tôi trước đây từng đến London và chạy bộ trong công viên này kể lại rằng, vào
giờ nghỉ trưa, những nhân viên làm việc gần đó thường mang đồ ăn đến đây để vừa
ăn, vừa hít thở không khí trong lành và ngắm nhìn một không gian xanh thoáng
đãng. Anh bạn còn kể rằng vào những ngày Chủ nhật, ở Góc diễn giả, mọi người được
phép tranh luận những chủ đề khác nhau, tự do phát biểu ý kiến và khách du lịch
cũng kéo vào đây tham quan rất đông.
[3] Nguyên văn: Speaker’s Corner.
Maike và tôi quay trở lại Tháp London bằng con đường cũ khi
trời đã sẩm tối. Ở London, vào mùa đông, 5h chiều, trời đã tối và ánh đèn điện
được chiếu sáng khắp nơi. Gần Giáng Sinh nên những hàng cây ven đường cũng được
trang trí lộng lẫy với nhiều màu sắc khác nhau. Tôi lại lân la tới cây cầu
Westminster để ngắm London vào đêm, vẫn một London Eye, vẫn một Big Ben sừng sững,
vẫn là những cây cầu níu giữ bao bước chân người London và du khách tới đây.
Tôi bỗng thấy London đẹp một cách lạ lùng, vẻ đẹp về đêm của London vừa lộng lẫy,
kiêu sa, lại vừa lung linh, huyền ảo. Trong giây phút ấy, tôi đã quên đi dòng
sông Thames “đục ngầu”…
Tới Tháp London lúc 8h tối, còn một tiếng nữa trước khi lên
xe để trở về Đức, tôi và Maike xuống ngồi trong một quán cà phê nhỏ phía dưới Cầu
Tháp London. Bên cạnh quán cà phê là một khoảng sân trượt băng rộng lớn, tôi
nhìn những lượt người băng qua mình mà thấy lòng chới với. Vậy là sắp phải nói
lời tạm biệt với thành phố này rồi. Khi chiếc xe chở chúng tôi băng qua cây Cầu
Tháp London, tôi nhìn ra phía xa, nói với London mà như nói với chính mình:
“London ơi, có một ngày tôi sẽ trở lại!”
ANH: SHEFFIELD - THÀNH PHỐ TRÊN BẢY NGỌN ĐỒI
Trước khi tới Sheffield tôi không biết nhiều về thành phố này
ngoài việc nơi đây có một trường đại học danh tiếng nằm trong top 100 trường đại
học tốt nhất thế giới. Tất cả chỉ có vậy. Tôi tới Sheffield cũng không hẳn vì sức
hấp dẫn của thành phố này mà bởi một lý do hết sức ngớ ngẩn: Muốn đi York cùng
với đứa em đang học ở Sheffield, vì thấy cô nàng khen York đẹp và bình yên quá.
Nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn không thực hiện được ước mơ tới York trong chuyến
hành trình tới UK của mình mà chỉ dừng chân lại được ở Manchester, Liverpool,
Chester và Sheffield. Có lẽ việc không tới được York lần này sẽ là một trong những
lý do để tôi quay trở lại UK một lần nữa trong một ngày không xa.
Ấn tượng đầu tiên của tôi khi tới Sheffield đó là thành phố
nhẹ nhàng quá, không hiện đại như Liverpool, không hỗn loạn như Manchester.
Sheffield hiền như một cô gái nhỏ xinh với ánh mắt thoáng buồn. Thư bảo những
ngày đầu mới sang, nhìn Sheffield thật buồn tẻ nhưng bây giờ cô nàng đã quen với
cuộc sống bên này, đã quen với những con đường dẫn tới giảng đường, những buổi
đi dạy tiếng Anh tình nguyện cho người nước ngoài và quen với việc tự do rong
ruổi khắp các thành phố của UK. Có lẽ khi ở nơi nào đó lâu lâu một chút, người
ta mới có đủ thời gian để khám phá ra vẻ đẹp của nơi ấy - điều mà một đứa chỉ ở
Sheffield có vài ngày như tôi chắc hẳn sẽ không cảm nhận được. Và cũng đúng như
Thư nói: “Càng ở em càng thấy có nhiều điều rất thú vị ở Sheffield và thấy
Sheffield không hề nhỏ như em vẫn nghĩ.”
Sheffield là thành phố trên bảy ngọn đồi thuộc phía Nam vùng
Yorkshire với khoảng 170 khu rừng và 88 công viên và vườn. Với địa hình đặc biệt
như vậy, Sheffield hoàn toàn xứng danh là thành phố xanh nhất Châu Âu mặc dù
trước đây thành phố này nổi tiếng và phát triển rất mạnh với công nghiệp thép.
Các nhà máy thép mọc lên rất nhiều trong khi nhân lực thì lại thiếu trầm trọng
nên Sheffield đã phải đón tiếp rất nhiều công nhân từ châu Phi sang, họ làm việc
rồi ở lại đây sinh sống luôn. Vì thế Sheffield cũng là thành phố có nhiều cộng
đồng quốc tế sống nhất, trong đó nhiều người không biết tiếng Anh.
Sheffield không thu hút khách du lịch nhiều như London,
Liverpool hay Cambridge, nhưng lại là một nơi lý tưởng để tham quan các vùng
lân cận như Vườn quốc gia Peak District - một khu du lịch nổi tiếng, một thắng
cảnh hùng vĩ và cũng là một trong những địa danh gợi nhiều cảm hứng nhất của nước
Anh. Từ Sheffield tới đó chỉ mất khoảng hơn 30 phút nhưng bạn sẽ được ngắm
Chatsworth House - một trong những lâu đài cổ được yêu thích nhất dành cho những
bá tước của Hoàng gia Anh thời xa xưa. Lâu đài này nằm trên một ngọn đồi thơ mộng
bên dòng sông Derwent, có rừng, núi, thiên nhiên và các tòa nhà cổ kính, tất cả
đều nằm gọn ở nơi này. Tôi tới đây vào những ngày cuối tháng Một, đúng vào thời
gian lâu đài đóng cửa nên không vào được, chỉ nghe qua lời kể của Thư mà cứ thầm
tiếc mãi.
Không tới Chatsworth House được, chúng tôi quyết định tới
thung lũng Rivelin nằm cách trung tâm thành phố Sheffield chừng 20 phút đi xe
buýt. Thật ra ở Sheffield có nhiều thung lũng khác nhau nhưng chúng tôi chọn
Rivelin vì thấy nơi này có vẻ lý tưởng hơn cả. Theo thông tin trên mạng thì sẽ
mất khoảng 60 phút để đi dọc thung lũng này nhưng chúng tôi đã mất ba tiếng cho
chặng hành trình của mình. Nhưng với tôi, đó là ba tiếng quí báu được hòa mình
cùng với thiên nhiên. Chẳng biết phải dùng ngôn từ nào mới lột tả hết được vẻ đẹp
của nơi này, nhưng bạn hãy cứ hình dung thế này nhé: Trên con đường bạn đi, một
bên là đồi, một bên là suối, vì đang là mùa đông nên những cành cây vẫn còn trơ
trụi lá nhưng với tiếng suối chảy róc rách và những tia nắng dịu dàng soi vào mặt
nước, Rivelin vẫn đẹp đến nao lòng. Mùa này, do thời tiết vẫn còn lạnh nên
khách du lịch tới đây không nhiều, thi thoảng chúng tôi mới bắt gặp vài người
chạy bộ ngang qua hay một vài người dẫn chó đi dạo, vì thế tôi có cảm giác như
thể thung lũng này thuộc về riêng chúng tôi ngày hôm đó vậy. Rivelin trong ánh
nắng chiều càng trở nên dịu dàng hơn bao giờ hết. Đạng mải mê chụp hình. Thư
kéo tay tôi chỉ ra phía đằng xa và thốt lên: “Chị ơi, nhìn kìa!” Tôi ngẩng đầu
lên theo phản xạ và quay sang phía bên trái, những tia nắng vàng ươm trải dài
trên cả một ngọn đồi xanh non màu cỏ. Thực sự lúc đó tôi không hề nghĩ mình
đang ở nước Anh mà đang ở một đồng quê nào đó xa thật xa. Chúng tôi trèo lên ngọn
đồi và dang tay ôm nắng, chạnh lòng chợt nhớ tới câu hát năm xưa: “Em muốn ôm cả
đất, em muốn ôm cả trời, mà sao anh ơi, mà sao anh ơi, không ôm nổi trái tim một
con người…” Có lẽ vòng tay tôi quá nhỏ để ôm giữ trái tim một con người hay bởi
trái tim người ấy mênh mông và sâu rộng quá? Cho đến giờ đó vẫn là một câu hỏi
không lời giải đáp trong tôi.
Thư đã chụp lại giùm tôi những khoảnh khắc bình yên ấy, sau
này mỗi lần tâm trạng bộn bề giữa ngổn ngang công việc, thỉnh thoảng tôi vẫn mở
file ảnh cũ ra và xem lại những bức hình trên ngọn đồi còn thơm mùi cỏ ấy, để
nhận ra rằng hạnh phúc của ngày hôm qua sẽ luôn nhắc tôi nhớ và cố gắng hơn cho
hiện tại của ngày hôm nay.
Gần 4h chiều, những giọt nắng đông càng trở nên yếu ớt, trời
bỗng lạnh hơn. Chúng tôi ghé vào một quán cà phê và cùng nhau nhâm nhi ly
cappuccino nóng hổi, cứ như thế chúng tôi đã “lặn lội” cả một chặng đường dài để
tự thưởng cho mình điều này. Cả hai đứa mỉm cười hạnh phúc, tận hưởng những
giây phút bình yên ấy, bởi rất có thể ngày mai, chúng tôi sẽ lại phải chạy theo
vòng quay của cuộc sống đời thường và không ai dám chắc liệu mình có còn thời
gian để “sống chậm” như giờ phút hiện tại của ngày hôm nay không nữa…
Trên chuyến xe buýt từ Rivelin trở về trung tâm thành phố,
nhìn ánh đèn trên những ngọn đồi thấp thoáng phía xa xa, cả tôi và Thư đều quay
ra nhìn và trầm trồ nức nở: “Đẹp quá!” Hình ảnh ấy khác hoàn toàn với những gì
tôi vẫn hằng tưởng tượng về nước Anh mù sương.
Có một điều đặc biệt ở Sheffield mà tôi rất thích, đó là vé
tàu xe ở đây rất rẻ. Nếu đặt vé từ sớm thì lại càng rẻ hơn. Đôi khi tôi trộm
nghĩ nếu giá vé tàu ở Đức mà cũng rẻ thế này thì chắc cuối tuần nào tôi cũng
dám vi vu lắm. Từ Sheffield xuống London đi xe buýt mất bốn tiếng mà cũng chỉ hết
có sáu bảng Anh, trong khi giá ở Đức phải đắt gấp vài lần như thế. Không biết ở
châu Âu có nước nào có giá tàu xe “bèo” như thế không nữa. Ngoài ra, ở
Sheffield cũng có xe buýt chạy miễn phí trong trung tâm thành phố, cứ bảy phút
là có một chuyến. Hôm đi Rivelin vì ra nhà ga quá sớm mà không biết phải làm
gì, tôi và Thư đã leo lên xe buýt ngồi và đi hai vòng quanh trung tâm thành phố,
ngắm Sheffield ở một góc khác thay vì đi “căng hải” như buổi sáng trước đó.
Có bạn là thổ địa dẫn đi chơi thật thích. Chúng tôi đi dạo
quanh tòa thị chính được xây dựng từ thế kỷ XIX và nằm ngay chính giữa trung
tâm thành phố. Phía trước tòa nhà này là một đài tưởng niệm những người đã hy
sinh cho tự do và hòa bình của Sheffield trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất và
thứ hai. Tới Sheffield thì phải ra ngoại ô một chút thì mới khám phá được nhiều
điều thú vị từ thiên nhiên, nếu ở trong trung tâm thành phố thì chỉ đi dạo một
vòng buổi sáng là hết. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt ở Sheffield đó là thành
phố này có khá nhiều nơi để thư giãn, cực kỳ lý tưởng cho thời tiết mùa hè, ví
dụ như Peace Garden. Thật không có gì tuyệt vời bằng việc ngồi trên những chiếc
ghế gỗ trong những ngày nắng đẹp để đọc sách, nghỉ trưa hay đơn giản là ngắm
dòng người qua lại.
Dù là cuối tuần nhưng Sheffield không hề nhộn nhịp và hối hả
như Manchester hay Liverpool, nhưng chính sự tĩnh lặng ấy của Sheffield lại khiến
tôi thích thú. Sheffield cũng có nhiều cửa hàng nho nhỏ rất dễ thương, người ta
cứ phàn nàn về giá cả ở Anh đắt đỏ nhưng tôi thấy đời sống nơi đây cũng khá
bình dân sau khi đảo qua vài siêu thị và xem xét “giá cả thị trường”. Chỉ cần
chịu khó để ý một chút là bạn hoàn toàn có thể ăn rẻ và ngon ở nơi này như bao
thành phố ở Đức khác, hoặc có thể do Sheffield là một trong những thành phố sống
rẻ nhất ở nước Anh nên tôi không nhìn thấy sự đắt đỏ của nó chăng?
Những ngày ở Sheffield là những ngày đầy kỉ niệm, do tiếp xúc
với nhiều bạn đến từ miền Trung Việt Nam nên khi trở về tự nhiên tôi cũng lại bắt
đầu với “mô tê răng rứa”, với thứ ngôn ngữ thân thuộc thuở nào mà đã từ lâu tôi
không quên nhưng hầu như không dùng tới nó nữa, để rồi bây giờ tự nhiên thắc mắc:
“Chạ hiểu răng đi UK có mấy ngày mà khi về mình lại nói giọng miền Trung hay phết
là răng hè”.
Tôi rời Sheffield vào sáng sớm ban mai và lên đường tới sân
bay Manchester khi thành phố vẫn còn đang ngái ngủ. Trời se se lạnh và dự báo sẽ
có tuyết. Nhìn cái dáng mỏng manh của Thư bên sân ga khi đứng lặng nhìn con tàu
của tôi lướt qua nhẹ nhàng, tự nhiên tôi thấy thương em đến lạ kì. Chỉ còn vài
tháng nữa thôi, em sẽ kết thúc khóa học và trở về Việt Nam tiếp tục sự nghiệp
giảng day. Tôi tự hỏi không biết có khi nào, nhìn cô sinh viên nào đó có nụ cười
na ná như tôi, em có nhớ lại những tháng ngày cùng tôi rong ruổi giữa đất trời
UK năm ấy? Còn tôi, chắc sẽ không thể nào quên…
ÁO - VIENNA VÀ MỐI TÌNH CỦA CÔ GÁI XỨ BAVARIA
Tôi đặt chân tới thủ đô Vienna của nước Áo xinh đẹp, quê hương
của thần đồng âm nhạc Mozart vào những ngày tháng Ba khi trời còn se lạnh. Anh
bạn ở Sài Gòn nhắn tin sang dặn: “Thủ đô Vienna tuyệt lắm, có dòng sông Danube,
những quán cà phê, những chiếc xe ngựa và điệu valse đầy quyến rũ. Nhớ ghé Nhà
thờ Stephan em nhé, đó thức sự là một tuyệt tác đấy!” Tôi mỉm cười và bắt đầu
chuyến hành trình thú vị của mình.
Đã từ lâu người ta biết đến Vienna không chỉ là thủ đô âm nhạc
của thế giới mà còn là thành phố của kiến trúc với những tòa lâu đài tráng lệ
và những công trình kiến trúc độc đáo bậc nhất châu Âu. Ấn tượng đầu tiên của
tôi khi tới Vienna là những chiếc xe ngựa chạy thong dong trên đường phố, lẫn
đâu đó là tiếng xe điện và những chiếc xe hơi hiện đại. Vienna khoác lên mình vẻ
đẹp của một thành phố cổ nhưng cũng rất trẻ trung và hiện đại.
Cung điện Schönbrunn
Tôi lang thang một mình trong cái lạnh của thành phố với tấm
bản đồ trên tay, địa điểm đầu tiên tôi đặt chân đến là Cung điện Schönbrunn - một
trong những cung điện được xây dựng theo kiến trúc Baroque[1] lớn và tráng lệ
nhất ở Trung Âu, nơi có một khu vườn rộng lớn bao quanh và cũng là một trong những
dinh thự quan trọng nhất ở Áo. Schönbrunn dịch ra tiếng Việt có nghĩa là một giếng
nước đẹp, tên gọi này bắt nguồn từ một giếng phun nước để cung cấp cho triều
đình. Cung điện này có một hồ nước rất đẹp và ở phía bên trên hồ là đồi
Gloriette cao chừng 60m. Đứng ở đó, người ta có thể ngắm toàn bộ thành phố
Vienna. Có lẽ không quá ngạc nhiên khi ngày nay nơi này trở thành một trong những
điểm du lịch nổi tiếng nhất của Áo và cũng là nơi tổ chức các lễ hội quan trọng
của người dân Vienna. Ban đầu, đây là nơi săn bắn cho các gia đình quý tộc của
Đế quốc Áo, sau đó một cung điện đã được dựng lên nhưng phần lớn cung điện này
chỉ là nơi nghỉ hè cho các bà quả phụ của Hoàng đế Ferdinand II. Đến khi Hoàng
đến Franz Joseph I lên ngôi, ông mới chọn nơi này là nơi ở chính của mình, bởi
thế nên khi dừng chân ở đây, người ta dễ dàng liên tưởng tới câu chuyện tình giữa
Hoàng đế Franz Joseph I và cô gái 16 tuổi xứ Bavaria mang tên Elizabeth mà sau
này nhiều người được biết đến qua bộ phim Hoàng hậu Sissi do nữ tài tử điện ảnh
quá cố Romy Schneider thủ vai. Nàng Elizabeth xinh đẹp, quý phái này là một
trong những người phụ nữ đẹp nhất châu Âu thế kỷ XIX, có điều bà chưa bao giờ
yêu Vienna. Lúc nào bà cũng muốn thoát khỏi những ràng buộc của dòng họ
Habsburg bởi bà cảm thấy cô độc khi ở nơi đây. Là một người yêu tự do, thích du
lịch và khám phá, bà luôn tìm mọi cơ hội để thoát khỏi nơi “đè nén” cuộc đời
bà, nhưng vì tình yêu dành cho Hoàng đế Franz Joseph I nên bà đã ở lại Vienna.
[1] Kiến trúc Baroque: Là thuật ngữ dùng để mô tả phong cách
xây dựng của thời kì Baroque, Ý, bắt đầu vào cuối thế kỷ XVII, tận dụng những
ngôn ngữ của kiến trúc Phục Hưng theo một cách thức mới, với sự vận động liên tục
của những bức tường uốn lượn.
Lâu đài Hoàng gia
Rời Cung điện, tôi tới Lâu đài Hoàng gia (Hofburg) - biểu tượng
của nền di sản văn hóa Vienna - được xây dựng từ năm 1275. Toàn bộ các công
trình của cung điện này nằm trên một diện tích khá rộng với những vườn hoa, đài
phun nước và những tòa nhà dành cho Hoàng gia. Trước đây, Lâu đài Hofburg là
Cung điện Mùa đông của hoàng tộc Áo nhưng hiện nay, nơi đây một phần đã trở
thành Thư viện Quốc gia, một phần thành Bảo tàng dân tộc và một phần nữa thành
phủ Tổng thống. Phía trước lâu đài có rất nhiều xe ngựa làm tôi liên tưởng đến
cuộc sống ngày xưa ở Áo. Trong cung điện Hofburg là viện bảo tàng của Hoàng hậu
Sissi và phòng ở của Hoàng đế. Vốn rất mê bà hoàng hậu của nước Áo nên khi tới
đây tôi đã dành cả buổi chiều để ngắm nhìn mọi bức hình, đồ vật và tất cả những
gì liên quan đến cuộc sống của bà thời xa xưa. Tôi cứ ngỡ như mình đang lạc vào
chính nơi bà từng sống…
Giữa trưa, ánh mặt trời len lỏi vào trong thành phố. Tôi hòa
vào dòng người đi trên phố và bách bộ ra Heldenplatz (còn gọi là Quảng trường
Anh hùng) - biểu tượng của sự thống nhất và độc lập của Áo. Đây là một quảng
trường khá lớn, thu hút được rất nhiều khách du lịch. Quả là một nơi lý tưởng để
chiêm ngưỡng những vẻ đẹp tiềm ẩn của Vienna. Ngày trước, khi học lịch sử của Đức
và Áo, tôi đã được nghe thầy giáo kể về Hoàng tử Eugène của xứ Savoie, người đã
đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ để mang lại vinh quang cho nước Áo. Thế nên, khi đến
Vienna, tôi đã muốn tới bằng được quảng trường này. Ngoài bức tượng của hoảng tử
Eugène, trên quảng trường còn có bức tượng người anh hùng Archduke Karl đang cưỡi
ngựa khoe chiến thắng của mình trong trận Aspern - Essling năm 1809.
Từ đây, người ta có thể đi xe buýt về hướng ga phía Đông để tới
Cung điện Belvedere. Nếu như người ta đến Vienna và yêu thích Schönbrunn thì
tôi lại thích Belvedere hơn. Tôi không lý giải được vì sao nhưng tôi thích cái
cảm giác lang thang từ “cung điện trên” xuống “cung điện dưới”, thích ngồi bên
chiếc ghế đá ngắm những chiếc vòi phun nước và những luống hoa đủ sắc màu.
Thích đứng ở “cung điện trên” nhìn xuống “cung điện dưới” và có cảm giác như
mình đang được ngắm một bức tranh thiên nhiên thơ mộng. Những bức tượng, vườn
hoa được chăm tỉa rất kĩ lưỡng. Lác đác xung quanh là những bạn trẻ ngồi đọc
sách, nghe nhạc và tận hưởng “vùng trời bình yên” của riêng họ.
Nói đến Vienna thì không thể không tới nhà Hundertwasserhaus
do nghệ sỹ người Áo Friedenreich Hundertwasser thiết kế. Bởi đây không đơn thuần
là một khu căn hộ mà là một tác phẩm nghệ thuật sinh động góp phần tôn vinh
thêm vẻ đẹp cho thành phố vốn đã nổi tiếng về văn hóa, nghệ thuật và kiến trúc
như Vienna. Cũng như người ta không thể bỏ qua Stephandom với cái chóp cao chót
vót và được người dân Áo gọi với cái tên trìu mến là “Steffl”. Với độ cao 137m,
Stephandom cũng là thánh đường cao nhất ở châu Âu đồng thời cũng là biểu tượng
của thủ đô Vienna. Tôi thích những buổi chiều khi nắng vừa tắt và những ánh đèn
điện bắt đầu được bật lên, xung quanh là tiếng nhạc của người nghệ sĩ đường phố,
là hò reo của những người đang đứng xem ảo thuật, là tiếng xuýt xoa của các em
nhỏ khi nhìn những bức hình của những người họa sỹ vẽ “y như thật”, là những tiếng
cười của những đôi tình nhân nắm chặt tay nhau. Dường như khi màn đêm bắt đầu
buông xuống, xung quanh Stephandom là nơi lý tưởng để gặp gỡ, hẹn hò. Tự nhiên
tôi ước giá như mình cũng có một người để… hẹn hò ở đấy, để học lại cách nắm
tay một người, điều mà đã từ lâu rồi tôi không còn làm nữa.
Dọc theo con đường Ringstraße - nơi tập trung những địa danh
nổi tiếng của thành phố như Tòa nhà Quốc hội, Lâu đài Hofburg, Bảo tàng Mỹ thuật,
tôi lang thang trên những con đường, có rất nhiều nhạc sĩ đường phố với những bản
nhạc không tên hoặc cũng có thể là những bản nhạc bất hủ của Mozart, của
Strauss được vang lên. Đã từ lâu, Vienna được mệnh danh là chiếc nôi âm nhạc cổ
điển của châu Âu, có lẽ vì thế nên tới đây, tôi cũng không quá ngạc nhiên khi
thấy ngay cả trên những con hẻm nhỏ bé nhất ở Vienna, những điệu nhạc vẫn được
vang lên. Ở nơi đây, người ta dễ dàng thấy những quán cà phê xinh đẹp, thu hút
rất nhiều khách du lịch. Dường như đối với người dân Vienna, những quán cà phê ấy
là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Bước vào các quán cà phê,
du khách như lạc vào một thế giới khác. Hình thức các quán cà phê cũng rất bắt
mắt, những bức tường thường được chạm trổ rất kì công và trên trần nhà còn treo
những chùm đèn pha lê lơ lửng.
Tới Vienna, người ta không thể không ghé thăm Nhà hát Vienna
Opera House - một trong những nhà hát lớn và đẹp nhất thế giới được xây dựng từ
năm 1861 tới năm 1869. Nhà hát này được mệnh danh là Trung tâm ca kịch của thế
giới bởi công trình kiến trúc hùng vĩ mang phong cách La Mã này gồm sáu tầng với
1.600 chỗ ngồi, riêng tầng sáu có sức chứa hơn 500 khán giả. Mỗi năm, nhà hát
có khoảng 300 buổi biểu diễn.
Trước khi đến Vienna, tôi tự nhủ là phải đến bằng được
Naschmarkt - khu chợ lớn nhất của Vienna. Tôi đi từ đầu chợ tới cuối chợ và đi
từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ở đây cái gì cũng có, nhất là các món
ăn, đặc biệt là pho mát và ô liu. Mùi thơm của các loại trái cây như mít, sầu
riêng và cả mùi phở làm tôi nhớ đến những ngày còn ở Việt Nam. Khi đi hết con
đường, tôi vòng lại và dừng chân ở một quán ăn Việt Nam, mùi bún bò Huế thơm lừng
khiến tôi thấy mình đang sống những khoảnh khắc thật đặc biệt ở một nơi không
phải quê hương mình.
Có lẽ đến với Vienna cũng là một cách để yêu và hiểu thêm về
dòng sông Danube. Dòng sông dài thứ hai của châu Âu này khi tôi đặt chân tới
này vẫn xanh và hiền hòa như tôi từng tưởng tượng. Mùa hè ở đây luôn tấp nập
khách du lịch, những quán cà phê và nhà hàng mọc lên ở khắp nơi. Trên dòng
sông, có rất nhiều đôi tình nhân rủ nhau đi chèo thuyền. Biết bao nhiêu người từng
ao ước được ngắm dòng sông ấy một lần, còn tôi đứng giữa nơi này, chợt nhớ về
câu chuyện tình đẹp và buồn của Sissi - người mà sau này từng nói rằng trở
thành Hoàng hậu của nước Áo là điều bà vô cùng hối tiếc.
Tôi tới Vienna vào một buổi tối mùa đông se lạnh và rời
Vienna vài ngày sau đó vào một sáng sớm tinh mơ buốt giá. Anh đưa tôi ra ga mà
tôi thấy lòng mình trĩu nặng. Dù chưa một lần vào một quán cà phê để ngồi nghe
những bản nhạc cổ điển, dù chưa ngồi lên xe ngựa để dạo quanh thành phố như người
ta vẫn thường làm khi tới Vienna, nhưng kỉ niệm về thành phố này có lẽ sẽ còn
đi theo tôi trên suốt những chặng đường phía trước.
ÁO: SALZBURG - GIAI ĐIỆU TÌNH YÊU
Từ Munich, tôi đến Salzburg vào những ngày đầu tháng Ba cùng một
chị bạn khi những bông tuyết còn sót lại trên pháo đài Hohensalzburg hòa cùng
tiếng nhạc của Mozart vang lên trên những góc đường và những con phố nhỏ dẫn
vào lòng thành phố.
Trước đây, khi nghe đến Salzburg, tôi chỉ biết đó là quê
hương của nhà soạn nhạc nổi tiếng, đồng thời cũng là đứa con cưng của Salzburg:
Wolfgang Amadeus Mozart. Nhưng khi tới Salzburg rồi, tôi mới biết, nơi này
không chỉ có âm nhạc mà còn có cả sự thơ mộng, trữ tình và một vẻ đẹp cổ kính
mà người ta khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Chúng tôi lái xe vào trung tâm thành phố, tìm chỗ đậu xe, rồi
dừng chân tại ngôi nhà của Mozart - bây giờ đã trở thành viện bảo tàng. Chị
Bình mua hai chiếc vé và chúng tôi bước vào một căn nhà chứa đầy những kỉ vật
thời xa xưa của người nghệ sĩ tài hoa này: những bản nhạc viết tay, những bức
hình theo dấu thời gian vẫn chưa ngả màu. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào
căn phòng của Mozart thuở xưa với những tiếng nhạc đang vang lên đâu đó xung
quanh mình.
Rời viện bảo tàng, chúng tôi đi qua cây cầu bắc ngang dòng
sông Salzach và bước vào khu phố cổ. Dù thời tiết còn se lạnh nhưng người ta vẫn
cảm nhận được sự ấm áp của thành phố nhỏ bé này. Bên trong những quán cà phê,
tôi đang tưởng tượng ra khung cảnh những cặp tình nhân đang ngồi nhâm nhi ly cà
phê và nghe nhạc Mozart, tận hưởng sự bình yên của cuộc sống.
Từ năm 1997, khu phố cổ ở Salzburg đã được công nhận là Di sản
văn hóa thế giới, bởi thế nên khi đi qua những con phố nhỏ như Getreidegasse,
Judengasse, Goldgasse, người ta có thể chiêm ngưỡng nhiều công trình kiến trúc
cổ, đan xen nhiều nét hiện đại. Tôi thích nhất là được ngắm nhìn những đồ lưu
niệm bé nhỏ xinh xắn có in hình Mozart và cách bày biện của người dân Salzburg
để “níu chân” khách du lịch khi đặt chân tới đây, khiến họ không thể “về
không”.
Hầu hết những địa điểm tham quan trong thành phố này đều nằm
rất sát nhau nên mọi con đường đều dẫn đến những nơi chúng tôi muốn tới thăm.
Chị Bình và tôi dừng lại trước một tiệm Imbiss[1] nhỏ và mua xúc xích ăn tạm,
tôi chọn xúc xích trắng, chị chọn xúc xích màu và hai chị em đứng ăn ngon lành
giữa mùi xúc xích nóng và cái lạnh căm căm ở ngoài trời, dù đeo găng tay nhưng
tôi vẫn thấy cái lạnh đang tìm cách len lỏi vào từng thớ thịt trong người mình.
Chúng tôi dừng chân ở Nhà thờ Dom uy nghi và lộng lẫy. Khi bước vào, chị Bình
xuýt xoa: “Nếu được cưới lại một lần nữa, chị sẽ làm lễ cưới tại nhà thờ này!”
Tôi bật cười và mường tượng ra cảnh chị xúng xính trong chiếc váy cô dâu bước
vào nhà thờ. Đúng lúc đó, tôi nhận được tin nhắn từ một người đặc biệt: “Em
đang ở đâu đấy?” Tôi cầm điện thoại và nhắn lại: “Em đang ở trong Nhà thờ
Salzburger Dom ở Salzburg, anh có muốn em nguyện cầu điều gì không?” Tin nhắn
trả lời chỉ vẻn vẹn dòng chữ: “Hãy cầu nguyện cho chúng ta, em nhé?”
[1] Quán ăn nhanh không có chỗ ngồi và không có nhà vệ sinh.
Tôi quan sát nhà thờ - nơi ngày xưa từng làm lễ rửa tội cho cậu
bé Mozart. Nhà thờ này được khánh thành vào ngày 24 tháng 9 năm 774 và cũng là
nhà thờ lớn nhất ở Salzburg. Kể từ ngày ra đời, nhà thờ này đã bị cháy vài lần
và sau đó liên tục được tu sửa và nâng cấp, nếu để ý kĩ ở phía bên ngoài, bạn sẽ
nhìn thấy những con số: 774, 1628 và 1959 - đây là ba thời điểm đánh dấu sự hoạt
động trở lại của nhà thờ sau mỗi lần bị hủy hoại.
Đứng trước Nhà thờ Salzburger Dom, tôi đã nhìn thấy Pháo đài
Hohensalzburg ở trên cao, lúc đầu tôi bảo chị Bình: “Mình trèo thang bộ lên đó
nhé, trèo cho lãng mạn, ngắm được nhiều cảnh hơn” nhưng cuối cùng, chúng tôi
cũng phải đầu hàng vì chẳng thấy ai lãng mạn như mình cả, có lẽ bởi nó dốc và
phải trèo quá nhiều bậc thang mới lên được đến đỉnh nên cả hai chị em ngậm ngùi
mua vé để “đi thang máy”. Ở phía trên nhìn xuống, chị Bình xuýt xoa: “May mà chị
không nghe lời em đi bộ lên đây, chứ nếu không chắc chị phải mất ba ngày mới
lên được đến đây mất!” Pháo đài Honhensalzburg nằm trên đỉnh núi sát bờ sông và
cũng là biểu tượng của thành phố Salzburg. Pháo đài này được hình thành vào năm
1077 và sau đó liên tục được mở rộng thêm. Ngày nay, pháo đài là Viện Bảo tàng
Nghệ thuật Quân sự của Áo. Với hơn 900 năm tuổi, pháo đài này được xem là pháo
đài cổ và nguyên vẹn nhất Trung Âu. Nghe nói nguyên nhân của việc xây pháo đài
này bắt nguồn từ một cuộc xung đột giữa nhà thờ với triều đình và pháo đài này
được xây dựng để chống lại sự tấn công của lính triều đình. Đi dạo ở phía bên
trong pháo đài, người ta có thể chiêm ngưỡng các căn phòng từ thuở xa xưa và đời
sống thời Trung cổ với những hiện vật còn được trưng bày và lưu trữ trong các
ngăn tủ kính. Không biết pháo đài có tất cả bao nhiêu căn phòng nhưng tôi thầm
nghĩ nếu được chơi trốn tìm ở đây thì có lẽ thật khó mà tìm ra nhau. Từ trên
pháo đài, người ta có thể nhìn thấy những khu phố cổ, thấy dòng sông Salzach
thơ mộng và ở phía xa là những dãy núi trùng trùng điệp điệp phủ đầy tuyết trắng.
Tôi đoán rằng chắc chắn ở trên núi cao kia sẽ là một trong những khu trượt tuyết
nổi tiếng nhất của nước Áo. Đã từ lâu, không chỉ khách du lịch từ nước Đức láng
giềng mới khăn gói sang Áo trượt tuyết mà người dân ở các nước Trung Âu khác
cũng đua nhau tới nơi này trong mùa đông khi tuyết bắt đầu rơi.
Có lẽ Salzburg nổi tiếng không chỉ bơi Pháo đài Hohensalzburg
và ngôi nhà của Mozart mà còn bởi vô số những lâu đài khác. Trước khi quay trở
lại bãi đỗ xe, chúng tôi đi dạo một vòng quanh Lâu đài Mirabell. Lâu đài này được
tổng giám mục Wolf Dietrich von Raitenau cho xây dựng vào năm 1606 cho người
tình của ông là Salome AIt. Bà đã sinh cho ông 15 người con và là mối tình lớn
nhất của ông. Ông đã xây dựng lâu đài này cho bà và các con của mình. Những khu
vườn rất rộng với những vòi phun nước thật đẹp, tôi thầm tiếc vì đã tới thăm
lâu đài này khi trời vẫn còn quá lạnh và hoa chưa kịp nở dù giờ đã là gần nửa
tháng Ba. Có lẽ nếu đến đây vào mùa xuân, khi hoa nở rộ khắp khu vườn, người ta
sẽ dễ dàng cảm nhận được sự bình yên và thư thái khi đi bộ xung quanh đó. Ngày
nay, lâu đài đã trở thành trụ sở làm việc của thành phố và tòa thị chính.
Trước khi rời Salzburg để trở về Munich, tôi và chị Bình bằng
mọi giá phải ghé thăm lâu đài Hellbrunn. Tôi đã nhìn thấy bảng hướng dẫn chỉ đường
trên phố nên cứ nghĩ là nó cũng nằm đâu đó xung quanh đây nhưng đi mãi mà vẫn
không thấy, trong khi trên biển bảo ngoài đường đã chỉ hướng về Munich. Chúng
tôi dừng lại hỏi một người đi đường và cô gái người Áo ấy đã chỉ sang phía bên
kia đường, thì ra từ trung tâm thành phố lái xe tới đây cũng phải mất hơn 30
phút. Lâu đài này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới với rất
nhiều hang động và nhiều hình thức trình diễn bằng sức nước. Ngoài ra, còn có cả
sở thú trong khuôn viên lâu đài này, nhưng khi chúng tôi tới thì phần lớn những
loài thú vẫn còn ngủ đông, nên chỉ có một số ít con vật người ta vẫn để ở bên
ngoài cho du khách tới chiêm ngưỡng.
Rời Salzburg, nơi được mệnh danh là thiên đường nhỏ bé của nước
Áo, tôi cứ nghĩ mãi về khung cảnh bình yên của nơi này. Khác với vẻ đẹp lộng lẫy
của Vienna, Salzburg khoác lên mình chiếc áo thơ mộng, thanh bình hơn. Thành phố
nhỏ bé này đã làm say đắm không biết bao nhiêu người từng tới đây và bây giờ
thì tôi cũng đã biết: Salzburg không chỉ có Mozart mà còn nhiều, nhiều hơn thế
nữa!
BA LAN: WROCLAW - NƠI TÌNH MÃI RU NGƯỜI
Ba Lan là nước láng giềng cuối cùng của Đức mà tôi quyết định
dừng chân trong chuyến hành trình khám phá châu Âu năm nay. Khác với mọi chuyến
đi khác, tôi đặt vé tàu và khách sạn chỉ hơn một tuần trước khi đi nên không hy
vọng là sẽ tìm được vé rẻ. Nhưng ơn trời, có lẽ là do ăn ở tốt nên cuối cùng
tôi vẫn “săn” được hai tấm vé mà tôi biết giá của nó sẽ không thể rẻ hơn được nữa,
đến nỗi khi ra nhà ga hỏi mua vé, nhân viên bán vé còn trịnh trọng xin lỗi và bảo
tôi rằng không có giá nào rẻ như thế cả sau khi đã đưa đầy đủ thông tin nơi đi
và nơi đến vào máy tính. Nhưng tôi kiên quyết không bỏ cuộc và bảo ông vào
trang web của DB Bahn (tập đoàn đường sắt lớn nhất của Đức), sau một hồi tìm kiếm,
cuối cùng tôi cũng mua được hai tấm vé đúng như số tiền mình muốn trả. Nhân
viên bán vé nhìn tôi mỉm cười và cảm ơn vì nhờ có tôi mà ông biết thêm được một
điều thú vị. Sau này, khi kể cho cậu bạn học cùng lớp nghe, anh chàng phá lên
cười và bảo: “Câu bây giờ trở thành chuyên gia săn lùng vé rẻ rồi còn gì. Sau
này có đi đâu, tớ nhất định phải hỏi cậu trước khi liên hệ với nhân viên bán vé
vì kiểu gì cậu cũng tìm được cho tớ vé rẻ hơn họ.”
Tôi tới Ba Lan với rất nhiều cảm xúc lẫn lộn, hệt như là đi
tìm lại dấu chân của ông bà nội nuôi người Đức của mình năm nào. Còn nhớ khi
ông nội nuôi của tôi còn sống, mỗi lần tôi tới chơi, ông đều kể cho tôi nghe rất
nhiều kỉ niệm về đất nước và con người Ba Lan, về ngôi nhà tuổi thơ và thành phố
lẽ ra là của Đức nhưng sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, mảnh đất đó đã thuộc về
Ba Lan. Đã rất nhiều lần muốn tới thăm miền đất ấy nhưng rồi lúc nào tôi cũng
nghĩ: “Ba Lan ngay bên cạnh, đi lúc nào chẳng được, giờ phải ưu tiên đến những
đất nước xa xôi khác đã,” thế nên tôi cứ lần lữa mãi. Cuối cùng, nhân chuyến đi
thăm một người bạn thân ở Chermnitz, tôi đã quyết định sẽ ghé Wroclaw một lần
cho thỏa lòng.
Chỉ ở Wroclaw có ba ngày nhưng trong ba ngày ngắn ngủi đó,
tôi đã thực sự bị người Ba Lan chinh phục. Tôi sẽ không quên hình ảnh cô gái
người Ba Lan đã tặng cho tôi hai chiếc vé đi xe buýt khi tôi còn đang loay hoay
tìm đường từ ga về nhà trọ. Tôi cũng không quên hình ảnh anh chàng người Ba Lan
áy náy vì không nói được tiếng Anh nên chẳng biết giải thích cho tôi cách rút
tiền như thế nào bèn kiên nhẫn đứng hướng dẫn cho tôi từng bước bằng tiếng Ba
Lan hiện trên máy ATM. Tôi cũng không quên hình ảnh hai nhân viên làm ở nhà ga
trong một buổi chiều mưa lạnh tôi run lập cập đứng đợi tàu về lại Đức. Khi biết
mình không thể giúp được tôi, họ đã nhờ một doanh nhân người Ba Lan lại gần và
giúp đỡ tôi khi tôi còn loay hoay không biết đợi ở đường ray nào vì nhà ga đang
trong giai đoạn tu sửa nên mọi thứ không theo một trật tự nào cả. Tôi mang theo
về nước Đức những tình cảm ấy cùng tất cả vẻ đẹp của đất nước, con người
Wroclaw. Đi và trở về để biết rằng thế giới thật đẹp và đâu đó xung quanh ta, vẫn
còn rất nhiều những tấm lòng đầy bao dung, trìu mến…
Sau gần một tiếng lang thang trên đường phố để tìm nhà trọ (về
đến nơi rồi tôi mới phát hiện ra là mình đã đi một vòng tròn), cuối cùng chúng
tôi cũng tìm ra được khu nhà của mình. Khi đặt vé trên Hostelworld, địa chỉ của
nhà trọ ghi rõ là Kazimierza Wielkiego 27, nhưng khi tới nơi và nhìn đúng số
nhà thì tôi lại thấy đề là Europeum Hotel khiến tôi không biết phải làm thế
nào. Vào hỏi nhân viên quán bar thì họ chỉ tôi tới con đường bên cạnh, nhưng đi
mãi vẫn chẳng thấy, đến khi quay lại tôi mới phát hiện ra một ngõ nhỏ đi vào
bên trong và thốt lên: “Thì ra nó nằm ở trong cái góc này.” Việc tìm nhà trọ đã
được xử lý êm xuôi dù có phải đi hơi vòng vèo một chút, tôi cũng bắt đầu thấy
đói nhưng trong ví tiền chỉ toàn tiền euro, mà theo lời dặn của một người phụ nữ
người Ba Lan ngồi trên chuyến tàu thì “Ở Wroclaw, người ta không nhận tiền
euro, thế nên cháu phải đổi sang tiền Ba Lan. Ngay ở nhà ga có cái Kantor[1],
cháu vào đó đổi sẽ không mất thêm lệ phí gì cả”, nhưng do nhà ga đang tu sửa
nên tôi chẳng tìm thấy cái Kantor nào cả, thế là tôi cứ ung dung về nhà trọ, đến
lúc đói mới cuống cuồng lên đi tìm máy ATM để rút tiền và dĩ nhiên mất oan tiền
lệ phí, nhưng ơn trời, tiền euro đổi sang tiền Ba Lan cũng lời kha khá, sau khi
xem xét giá cả các quán ăn và thấy rẻ hơn nhiều so với ở Đức, chúng tôi quyết định
vào một nhà hàng sang trọng nằm ngay bên Tòa thị chính và thưởng thức món cá
mang đậm phong cách Ba Lan vô cùng ngon với giá cả rất phải chăng cho cả hai
người kèm đồ uống - chưa đầy 20 euro.
[1] Kantor: Quầy đổi tiền ở Ba Lan.
Wroclaw trong đêm rực rỡ dưới ánh đèn, thành phố lung linh và
huyền ảo. Thật khó tưởng tượng được trong chiến tranh, thành phố này đã gần như
bị phá hủy hoàn toàn, thế mà giờ đây Wroclaw đã nhanh chóng khôi khục và trở
thành một trong những điểm du lịch hàng đầu của Ba Lan. Chúng tôi dạo bước bên
quảng trường Rynek - một trong những trung tâm kiến trúc nổi bật của Wroclaw và
chỉ dành cho người đi bộ được bao bọc bởi rất nhiều nhà hàng và cửa hiệu mua sắm.
Ban ngày, số lượng người tập trung ở đây không nhiều, hầu hết chỉ là khách du lịch
tới ngắm nhìn những ngôi nhà nhiều sắc màu. Trong một cuộc bình chọn 10 thành
phố màu mè nhất thế giới thì Wroclaw vinh dự đứng ở vị trí thứ bảy, mặc cho những
công trình kiến trúc đã lâu đời nhưng vẻ ngoài thì trông vẫn còn rất mới vì
chúng liên tục được đổi màu. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống thì trên quảng trường
bắt đầu trở nên tấp nập. Bên những vòi phun nước, mọi người ngồi trên những chiếc
ghế đá trò chuyện, uống cà phê và tận hưởng sự bình yên của cuộc sống. Tôi nhớ
trong một bài phỏng vấn, khi phóng viên hỏi: “Những điều gì các du khách nên biết
về Wroclaw?”, thủ thành của MU, Tomasz Kuszczak đã nói về quê hương của mình rằng:
“Đó không phải là một trong những thành phố nổi tiếng nhất tại Ba Lan nhưng nó
rất đẹp. Wroclaw có rất nhiều tòa nhà với tuổi thọ hàng trăm năm và tất cả đều
vô cùng đẹp. Quảng trường chính - trong tiếng Ba Lan được gọi là ‘Rynek’ có tất
cả mọi thứ - nhà hàng, quán cà phê, quán bar hay các cửa hiệu lớn. Tôi luôn
dành thời gian đến những nơi đó khi tôi về nhà. Chúng tôi cũng có một vài công
viên khá đẹp và tôi cũng không thể không nhắc đến vườn thú tại Wroclaw.”
Công bằng mà nói thì Wroclaw không lớn, chỉ trong vòng một
ngày chúng tôi đã có thể tham quan hết được “danh lam thắng cảnh” ở nơi này. Từ
Rynek, chúng tôi tới Hala Targowa, đây là một khu chợ nổi tiếng ở Wroclaw với rất
nhiều rau quả tươi, giá cả cũng rất phải chăng. Tôi nhìn gương mặt của những
người bán hàng, họ buôn bán ở khu chợ này quanh năm nhưng dường như họ vẫn rất lạc
quan. Suy cho cùng có lẽ ai cũng cần tiền nhưng không phải ai cũng phải cố gắng
kiếm thật nhiều tiền bằng mọi giá. Chúng tôi dạo một vòng quanh khu chợ, chụp một
vài bức hình lưu niệm rồi đi về phía cây cầu Most Tumski mà người dân Wroclaw vẫn
gọi đó là cây cầu của những người yêu nhau do khung cảnh xung quanh cây cầu khá
đẹp và thơ mộng, màu xanh của cây cầu hòa vào màu xanh của dòng sông Odra tạo
nên một Wroclaw thơ mộng, trữ tình. Most Tumski cũng là cây cầu nối khu phố cổ
với Thánh đường Isle - một trong những thánh đường rất đẹp. Chúng tôi vào cầu
nguyện rồi sau đó đi dạo dọc quanh dòng sông Odra trong cái nắng tháng Mười
tươi đẹp. Tôi nhớ mãi câu nói của Steve Jobs khi ông biết mình mắc bệnh ung
thư: “Thời gian của các bạn có hạn, vì thế đừng lãng phí nó vào việc sống cuộc
đời của một ai khác. Đừng nhốt mình trong những suy nghĩ giới hạn của người
khác. Đừng để quan điểm của người khác làm át đi tiếng nói bên trong bạn. Và
quan trọng nhất, hãy can đảm đi theo trái tim và trực giác của chính mình. Vì
chỉ có bạn mới biết được mình thật sự muốn gì. Tất cả những gì còn lại chỉ là
phụ mà thôi… Hãy luôn khát khao. Hãy cứ dại khờ.”
Miên man theo dòng suy nghĩ, chúng tôi tới Hala Ludowa tự khi
nào chẳng hay. Đây là một tòa nhà được thiết kế vào đầu thế kỉ XX với một mái
vòm tròn độc đáo tượng trưng cho kiến trúc thời đại mới. Nằm ngay cạnh tòa nhà
này là một vòi phun nước lớn và một không gian xanh vô cùng thoáng đãng. Những
đôi bạn trẻ người Ba Lan thường vào đây chụp ảnh cưới, còn những cụ già thì
thong thả đi dạo trong công viên với những cây cầu bé nhỏ xinh xinh và khu vườn
Nhật Bản ngập xác lá vàng bay. Thời tiết tháng Mười thật dễ chịu, nhưng dường
như trong khắp cả công viên, chỉ có hai đứa chúng tôi lang thang ở đó, bác bảo
vệ thỉnh thoảng lại đi qua, nhìn chúng tôi khẽ mỉm cười. Tôi tự hỏi tại sao có
một khu vườn đẹp và thơ mộng thế này mà người dân Ba Lan không tới tận hưởng,
phải chăng họ đã quá quen thuộc với điều này hay bởi vì Wroclaw nơi nào cũng
bình yên và dễ chịu như thế? Tôi buông mái tóc dài đã nuôi suốt nhiều năm qua
bên dòng suối nhỏ và đắm mình trong vẻ đẹp của mùa thu…
Ánh nắng cuối ngày đang tắt dần, chúng tôi rời công viên và
quay trở về khu phố cổ, tôi chợt nhận ra là ở Wroclaw có khá nhiều cây cầu lộng
lẫy với đủ những sắc màu xanh, vàng, đỏ. Khi hoàng hôn buông xuống trên cây cầu
Most Grunwaldzki, Wroclaw càng trở nên dịu dàng và đằm thắm. Đang loay hoay với
cái bản đồ để tìm lại đường nhanh nhất về khu phố cổ thì một người đàn ông
trung niên bỗng dừng lại và không ngần ngại dắt chiếc xe đạp của mình đi bộ
cùng chúng tôi một đoạn đường dài. Ông nói ông là người Hà Lan và đã sống ở
Wroclaw hơn hai năm nên đã thuộc mọi ngõ ngách ở nơi này. Ông yêu cuộc sống và
con người ở đây nhưng ông vẫn nhớ Amsterdam vô cùng và sẽ quay trở lại vào một
ngày không xa. Tình cảm của những con người xa lạ trên mảnh đất không người
quen ấy đã khiến tôi vô cùng xúc động. Sau này khi đã trở về Đức, mỗi khi nhớ lại
những ngày ở Wroclaw, tôi vẫn thấy tiếc vì mình đã không tới nơi này sớm hơn.
Nhưng có hề gì, rồi tôi sẽ còn quay trở lại, có thể ở nơi nào đó chẳng ai chờ đợi
tôi, nhưng tôi thì luôn khát khao được gặp lại những con người nơi đó.
Wroclaw, tình mãi ru người…
BỈ: BRUSSELS - MÙI THƠM QUYẾN RŨ
Tôi có ý định tới Brussels từ lâu, hồi đi Pháp cũng đã có ý định
ghé Brussels, nhưng vì thời gian quá cập rập nên tôi đành lùi lại, hẹn tới cuối
hè sẽ đi cùng Jean Paul. Nhưng trong lúc anh chàng còn đang mải mê vi vu ở châu
Á, tôi đã âm thầm lẻn sang Brussels mà không một lời thông báo. Đến khi anh
quay trở lại châu Âu, tôi mới “thú tội” là đã qua Brussels rồi, cũng may là trước
đó một ngày tôi đã nhận được email của anh thông báo: “Cuối hè này anh sẽ về lại
Việt Nam, đơn giản vì không có một đất nước nào tuyệt vời hơn thế”. Thế là tôi
lấy cớ luôn: “Em nằm mơ thấy cuối hè anh về Việt Nam thế là em qua Brussels trước
rồi. Định bụng sẽ cùng anh qua Bruges và Ghent nữa nhưng anh lại về Việt Nam mất
rồi”.
Trước khi tới Brussels, tôi đã được một vài người bạn cùng
công ty bảo: “Trời! Bộ không còn chỗ nào đi nữa hay sao mà qua Bỉ” hay một vài
người đi về toàn than vãn trên các diễn đàn là: “Brussels bé xíu, đi một ngày
là hết. Không có gì thú vị cả!” nhưng chừng nào chưa thấy tận mắt thì tôi vẫn
chưa tin. Vả lại, qua 12 nước châu Âu mà tôi đã đặt chân đến, tôi nhận ra một
chân lý rằng không có thành phố nào xấu cả, không có thành phố nào “không có gì
đáng xem cả” mà chỉ là người ta không nhận ra vẻ đẹp, không chịu đi tìm những
thứ thú vị, hấp dẫn của thành phố đó mà thôi. Tôi tới Brussels với niềm háo hức
bởi bất kì nơi nào tôi chưa có dịp đặt chân tới ở châu Âu đều ẩn chứa nhiều hấp
dẫn cần khám phá.
Tôi tới Brussels vào một ngày nắng đẹp, thời tiết khoảng 22 độ,
thật lý tưởng. K. Ngọc và tôi ghé vào một siêu thị nhỏ trong nhà ga mua bánh mì
ăn lót dạ, sau đó ngồi nghiên cứu tấm bản đồ thành phố. Địa điểm đầu tiên chúng
tôi tới là Quảng trường Lớn. Quảng trường này tuy không rộng lớn như những quảng
trường khác của châu Âu nhưng nó được bao bọc bởi nhiều tòa nhà cổ với những kiến
trúc vô cùng độc đáo. Đây cũng là một trong những khu phố cổ đẹp nhất châu Âu
và là trung tâm thương mại lâu đời của Bỉ mặc dù nơi đây chỉ có tòa thị chính với
mái được thiết kế theo kiến trúc Gothic. Nằm bên quảng trường này, nếu để ý kĩ
người ta sẽ thấy một tòa nhà với tấm biển Karl Marx, bởi đây là nơi mà Marx và
Engels từng ở trong suốt ba mươi năm tại Bỉ để hoàn thành tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản.
Tôi đứng giữa quảng trường ngắm nhìn dòng người qua lại và những
cửa hàng bán tranh phong cảnh đẹp như mơ của nước Bỉ, như để du khách biết rằng
họ đã không sai lầm khi dừng chân ở đây.
Nằm ở phía Nam quảng trường là một bức tượng được mạ vàng của
một người phụ nữ. Du khách chen nhau chạm vào nó và chụp hình làm kỉ niệm. K.
Ngọc bảo tôi “chạm tay vào đó thì sẽ gặp may mắn, nếu ai mà ước được có con thì
sẽ có.” Tôi bảo: “Nếu người ta chưa muốn có con, nhỡ chạm tay vào đó và có con
thì sao?” Tôi nói đùa và cũng đi luôn vì tôi không mấy tin tưởng vào những điều
như thế. Tất cả chỉ là cảm nhận của mỗi người. Sau này khi trở về nhà, tôi mới
biết bức tượng đó tạc nữ anh hùng của thế kỉ XIV Everard Serclaes.
Chúng tôi tản bộ tới những khu phố nhỏ với những cửa hàng lưu
niệm. Mùi sô-cô-la ngào ngạt quyến rũ, những cửa hàng bán bánh quế kèm dâu tây
thơm lừng khiến ai đi qua cũng phát thèm. Bỉ cũng là vương quốc dẫn đầu trong
việc sản xuất sô-cô-la, khắp mọi nẻo đường đều trưng bày sô-cô-la với nhiều mùi
vị và mẫu mã khác nhau. Trước khi về Đức, tôi cũng mua một hộp sô-cô-la nhỏ để
làm quà.
Có một điểm tham quan ở Brussels mà những ai tới đây đều
“không muốn” bỏ qua, đó là tượng Manneken Pis - hình một cậu bé đang đứng đái
tè. Bức tượng nhỏ xíu nhưng từ lâu đã trở thành niềm tự hào của người dân nước
Bỉ, có thể nói đó chính là biểu tượng của thủ đô Brussels. Người dân Brussels vẫn
hay thích đoán về sự ra đời của bức tượng này, không một ai rõ xuất xứ của nó.
Theo những thông tin từ trang miovista thì người ta truyền miệng kể rằng cậu bé
đó là Herzog Gottfried III von Brabant, người trong một trận chiến đã nhạo báng
lính đối phương. Một câu chuyện tương tự khác thì lại kể lại rằng, các nghệ sĩ
đã lấy người cảm hứng từ một cậu bé có tên là Juliaanske, người đã lấy nước tiểu
của mình thổi vào cầu chì của một quả bom để cứu thành phố khỏi một ngọn lửa.
Không cần biết cậu bé nghịch ngợm này là ai, nhưng cho đến ngày nay hầu như ai
cũng phải dừng chân ở đây khi ghé thăm Brussels. Bất cứ nơi đâu, ở cửa tiệm nào
người ta cũng lấy bức tượng này ra để pha trò và bán thành đồ lưu niệm. Một
cách kiếm tiền không lạ nhưng độc đáo.
Đến gần 2h trưa, khi bụng đã đói meo, chúng tôi quyết định đi
ăn trưa. Tôi chọn món ốc nổi tiếng của Bỉ kèm cà chua và pho mát thơm lừng
nhưng một đĩa chỉ có vẻn vẹn 12 con nên ăn “một thoáng đã hết”. Có lẽ vì nỗi
thèm ốc (tự dưng lại nhớ đến món bún ốc, cơm hến và canh cua ở Việt Nam) của
tôi, nên tối hôm đó tôi được mời ăn một nồi ốc to đùng. Đến Brussels mà lại ăn
hải sản thì quả thật hơi lạ nhưng cứ đi dọc con phố ăn uống Gretrystraat với
hàng chục cửa hàng hải sản thơm lừng xen lẫn với những cửa hiệu Pizza của Ý mà
không dừng chân lại ăn một bữa thì e là khó mà bước tiếp được. Sau khi tôi “chiến
đấu” xong gần hết một nồi ốc thì no căng bụng, cái tội “tham thì thâm” nên giờ
nhìn thấy ốc là tôi nổi da gà, nhưng bù lại tôi được một lần ăn ốc Brussels đã
đời. Tôi bảo đùa K. Ngọc “Ở Copenhagen thì mọi con đường đều dẫn tới biển, còn ở
Brussels thì mọi con đường đều dẫn tới các … quán ăn”.
Sáng hôm sau, chúng tôi đi thăm Metro Atominum - Viện bảo
tàng Khoa học kỹ thuật có cấu trúc như một phân tử với chiều cao 102m và được
xây dựng từ năm 1958. Đây là công trình kiến trúc khá nổi bật ở Brussels. Khách
đến thăm Brussels đều không thể bỏ qua được điểm đến này. Chúng tôi xếp hàng
mua vé và đi trong lòng các ống sắt nối các khối cầu kim loại lại với nhau, mỗi
một quả cầu có bán kính tới 19m. Leo bậc thang mãi mà vẫn không lên tới đỉnh cầu
vì có một dây chắn ngang không cho chúng tôi đi tiếp. Chúng tôi đành bước xuống
tầng một và xếp hàng đi thang máy vì đoán là sẽ lên được đến đỉnh cầu để có thể
nhìn ngắm thành phố từ trên cao. Chúng tôi đã được đền bù xứng đáng, mặc dù thời
gian chúng tôi ở trên đó không nhiều bằng thời gian xếp hàng mua vé và đứng chờ
đến lượt mình vào thang máy. Từ trên đỉnh, tôi nhìn xuống và thấy toàn bộ Mini
Europe. Khi tới Brussels tôi đã bảo K. Ngọc rằng kiểu gì cũng phải vào Mini
Europe, K. Ngọc bảo đi hết nửa châu Âu rồi, ngắm tận mắt còn chưa chán hay sao
mà lại thích vào đây ngắm mô hình người ta làm lại và “xúi” tôi không nên vào.
Nhưng những ai không có dịp đi châu Âu thường xuyên thì nên vào công viên châu
Âu thu nhỏ này. Khoảng hơn 300 danh lam thắng cảnh của hơn 10 nước châu Âu đều
có mô hình được xây dựng lại ở đây, như Tháp nghiêng Pisa ở Ý, tháp Eiffel ở
Pháp, Cổng Brandenburg ở Berlin, cối xay gió ở Hà Lan… Có thể nói công viên này
đã lưu lại được rất nhiều thành tựu văn hóa lịch sử của châu Âu từ xưa đến nay.
Khác với nhiều nước châu Âu khác, thủ đô Brussels luôn tràn
ngập cây xanh. Nhìn từ trên cao, những không gian xanh của Brussels trông như
những cánh rừng, cây cối xanh tươi và sum sê. Rừng nằm giữa thành phố, rừng
tràn xuống những con đường lát đá bằng phẳng. Trên đường trở về khách sạn, một
lần nữa tôi cho phép mình thong thả dạo qua những con phố để tận hưởng mùi
hương quyến rũ ở nơi đây. Chẳng biết lúc nào tôi mới có dịp quay trở lại vùng đất
này, nhưng chắc chắn một điều rằng mùi hương ấy sẽ mãi khắc ghi trong từng nỗi
nhớ và rất nhiều giấc mơ sau này của tôi.
ĐAN MẠCH: COPENHAGEN - THIÊN ĐƯỜNG CỦA NHỮNG GIẤC MƠ
Sau gần một đêm lang thang ở Hamburg, chuyến tàu hơn 7h sáng
xuất phát từ Hamburg đưa chúng tôi tới Copenhagen bằng cả đường sắt lẫn đường
thủy. Khi tàu tới cửa biển và chui luôn vào chiếc tàu thủy rộng lớn tự lúc nào,
tôi vẫn chưa khỏi ngỡ ngàng. Từ trước đến nay, tôi mới chỉ biết đến việc xe hơi
được vận chuyển bằng tàu thủy còn việc chiếc tàu hỏa với tốc độ di chuyển gần
như nhanh nhất nước Đức chui cả vào trong một chiếc tàu thủy vẫn còn quá mới mẻ
với tôi. Khi tàu đã ở trong, chúng tôi buộc phải ra khỏi toa tàu hỏa và lên tàu
thủy ở ngay cầu thang bên cạnh. Chiếc tàu thủy rộng lớn đưa chúng tôi tiến về phía
thủ đô. Trên tàu có đầy đủ mọi tiện nghi: những nhà hàng hải sản nho nhỏ nhưng
sang trọng, những cửa hàng bán đồ lưu niệm, mỹ phẩm… Ở đây, người ta có thể đi
dạo thoải mái, như thể có một thành phố thu nhỏ ở trên tàu vậy. Chúng tôi bước
ra boong tàu, gió thổi mạnh như muốn quật ngã tôi. Nhưng vẫn có rất nhiều người
chịu khó chịu lạnh để ngắm đại dương trong nắng, khoảnh khắc ấy thật đẹp biết
bao.
Copenhagen đón tôi vào một buổi trưa tháng Năm se lạnh. Nằm ở
phương Bắc nên thời tiết ở đây có lạnh hơn một chút so với các nước châu Âu
khác. Sau khi đã làm thủ tục nhận phòng và nghỉ ngơi một chút, tôi và Việt Anh
tìm một tấm bản đồ thành phố để bắt đầu khám phá thủ đô nhỏ bé nhưng vô cùng
đáng yêu này.
Đan Mạch là nước nằm trong Linh minh châu Âu nhưng vẫn có đồng
tiền riêng, nên để thuận tiện chúng tôi đã đổi sang tiền bản xứ. Sau phút ngỡ
ngàng vì thành phố quá đẹp, tôi giật mình bởi ở đây dường như cái gì cũng đắt.
Đã từng tới Paris và London, tôi cứ ngỡ đó là những thành phố đắt đỏ nhất châu
Âu, nhưng khi tới Copenhagen rồi tôi mới biết Paris vẫn còn thua xa. Một chai
nước lọc loại 0,5l giá ở Đức chỉ khoảng 40 - 50 cent nhưng ở đây lên tới gần
hai euro. Đồ ăn thì còn “kinh khủng” hơn nhưng không nỡ để em Yến Anh ăn bánh
mì chống đói nên Việt Anh hay mời tôi ở quán ăn nhỏ “Yam Yam”. Chúng tôi mua một
ít cơm và rau trộn với cái giá cắt cổ rồi sau đó ăn chung. Tôi nhận ra rằng mức
sống của người dân Đan Mạch khá cao, ít nhất là cao hơn tôi tưởng tượng rất nhiều.
Copenhagen hấp dẫn du khách với các kiến trúc cổ xưa, các lâu
đài, các nhà thờ và những con kênh chảy qua thành phố. Chúng tôi đi dạo trong
ánh nắng chiều vàng óng hắt lên những ngôi nhà cao tầng và soi bóng dưới mặt nước.
Chiều Copenhagen thật bình yên trong tiết trời se lạnh do ảnh hưởng của gió biển.
Chúng tôi băng qua những cây cầu và đi dạo trên những con đường lát đá mỏng với
những ngôi nhà chung cư treo hoa lơ lửng trên ban công. Do địa hình khá bằng phẳng
nên xe đạp rất phổ biến ở Copenhagen. Lần đầu tiên bước ra đường phố
Copenhagen, tôi đã ngỡ đây là một Amsterdam thứ hai của châu Âu. Đi thêm một đoạn
nữa, chúng tôi dừng chân trên một cây cầu màu trắng, Việt Anh bảo tôi: “Quay lại
phía sau mà xem em kìa, nắng vàng phủ đầy trên những ô cửa kính phía trên cao”.
Tôi quay lại, ngước lên nhìn và ngỡ ngàng. Chao ôi, nắng chiều ở bán đảo
Scandinavia đẹp biết bao nhiêu. Chiều Copenhagen hiện ra thật bình yên trong
cái se se lạnh của gió biển. Gió luồn lách qua từng con đường lát đá mỏng, vi
vu trên từng cây cầu, chui cả vào các khu nhà chung cư đùa giỡn cùng giàn hoa
lơ lửng trên ban công và lao theo đoàn người chạy xe đạp trên phố.
Stroget - con đường cổ nhất Copenhagen
Xuyên qua trung tâm thành phố, ở hai đầu là hai quảng trường
rộng lớn, Stroget dài hơn 2km, chỉ dành cho người đi bộ và luôn đông nghịt người
qua lại. Có rất nhiều quán ăn tập trung trên con đường này, từ những nhà hàng
Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì đến Ý, Pháp và dĩ nhiên cả Đan Mạch nữa. Từ những quán
ăn bình dân cho đến những quán ăn đắt đỏ, du khách tới đây luôn có rất nhiều sự
lựa chọn phù hợp với túi tiền của mình. Không chỉ có vậy, con phố này cũng có rất
nhiều bảo tàng nhỏ trưng bày những đồ vật lạ kì, hấp dẫn.
Từ con đường này, có khá nhiều con hẻm nhỏ tỏa đi khắp nơi.
Những con hẻm nhỏ lúc ban mai dường như vẫn còn đang ngái ngủ, thậm chí ngay cả
những cửa tiệm bán đồ ăn sáng trông rất bắt mắt cũng vẫn còn thưa thớt người.
Cách trưng bày của những tiệm ăn ngoài trời ở Copenhagen khá ấn tượng. Khách ngồi
dưới ánh nắng sớm mai nhấm nháp chút đồ ăn, trên những chiếc ghế mây họ ngồi
bao giờ cũng có một tấm chăn mỏng để nếu cần thì ai cũng có thể quàng lên người
cho đỡ lạnh.
Những bước chân vô định đưa chúng tôi tới Christianborg, nơi
có trụ sở Quốc hội, Tòa án tối cao và cũng là văn phòng của thủ tướng. Từ đây,
chúng tôi đi thẳng tới bờ biển, mặt nước xanh được nhuộm những tia nắng vàng
lóng lánh. Tôi để cho gió hất tung mái tóc mình và hít hà mùi hương của biển…
Chợt nhớ lại lời bài hát của Trịnh Công Sơn năm xưa “Ngày mai em đi, biển nhớ
tên em gọi về…” và tôi tự hỏi không biết ngày mai tôi đi, biển nơi này có còn
nhớ dấu chân tôi? Tôi bảo với Việt Anh rằng em có thể ngồi đây cả giờ đồng hồ để
phơi nắng và ngắm mặt biển mà không thấy chán. Chưa bao giờ tôi thấy Copenhagen
đẹp như trong khoảnh khắc ấy.
Từ Christianborg, chúng tôi tới Quảng trường Kongens Nytory
và ăn trưa ở đó. Chao ôi, giá cả Copenhagen lại một lần nữa làm tôi sững sờ. Một
ly bia bình thường chỉ chừng ba euro, nhưng ở đây lên tới tận bảy euro, đã thế
Việt Anh uống xong lại chê là không ngon, hóa ra bia Đức vẫn là nhất. Một cốc
côca loại 300ml cũng lên tới tận bốn euro và món ăn rẻ nhất cũng chừng 20 euro.
Thôi thì đành thực hiện chiến lược “xót tiền ngon bụng” vậy. Dòng kênh đào
Nytory đi qua quảng trường này được kiến tạo cách đây 300 năm nhằm mục đích
buôn bán bằng đường thủy được thuận lợi. Dọc hai bên bờ kênh là những ngôi nhà
cổ nhưng sặc sỡ sắc màu do người ta sơn quét lại cho đỡ cũ kĩ và cũng để thu
hút du khách. Khi xưa, đây là nơi ăn chơi của các thủy thủ từ nhiều châu lục
khác nhau nhưng bây giờ, nơi này phần lớn đều để phục vụ du khách. Những chiếc
thuyền trên kênh sẵn sàng đưa khách du lịch tham quan một vòng, bất cứ ai còn
muốn nán lại thì sẽ thưởng thức bữa ăn “ngay dưới bầu trời”, theo cách gọi của
người Đan Mạch.
Cung điện Amalienborg (Cung điện Mùa đông của Hoàng gia) nằm
cách đó không xa và được xây dựng từ năm 1794 theo lối kiến trúc của Pháp. Báo
chí vẫn thường ca ngợi rằng đây là một trong những cung điện đẹp nhất châu Âu.
Cung điện này được Vua Frederik III xây dựng từ năm 1667 đến năm 1673 và được đặt
theo tên của Hoàng hậu Sophie Amalie. Cung điện bị cháy vào tháng Tư năm 1689,
chỉ còn lại khu vườn và được giữ nguyên cho đến năm 1748. Năm 1750, Cung điện
Amalienborg được xây dựng lại trên một mảnh đất có hình tám cạnh với lối kiến
trúc Baroque. Chúng tôi đến đây vào buổi chiều nên không được chứng kiến nghi lễ
đổi gác vì nghi lễ này thường bắt đầu lúc 12h trưa.
Trên đường tới Kongen Havens chẳng biết đi thế nào mà chúng
tôi lại lạc vào một nơi triển lãm những chiếc xe hơi cực kì nổi tiếng và đắt đỏ.
Đây không phải là một cuộc triển lãm chính quy mà giống một buổi tụ họp, những
ai sở hữu những chiếc xe đẹp nhất, đắt nhất và đời mới nhất thì cứ mang đến
“khoe” và cho người lạ thưởng thức (hay ganh tị và thèm thuồng?). Ban đầu, tôi
tưởng đây chỉ là một cuộc trình diễn xe cộ nên để Việt Anh đi xem một mình, còn
tôi ngồi một góc đợi. Nhưng đợi mãi chẳng thấy anh chàng quay lại, đúng là đàn
ông thấy xe hơi thì quên ngay phụ nữ nên tôi quyết định đi tìm anh chàng và sững
sờ khi nhìn thấy những chiếc xe rẻ nhất cũng cỡ 200.000 euro. Tôi chiêm ngưỡng
để thưởng thức nó, Việt Anh chiêm ngưỡng chắc vì… thèm. Để lưu lại kỉ niệm đẹp ấy,
mỗi đứa chúng tôi làm một sêri ảnh “người mẫu quảng cáo xe” để lúc nào có thèm
thì lấy ảnh ra ngắm lại.
Rất lâu sau, tôi có đọc một bài báo trên Phụ nữ Việt Nam với
tựa đề “Đàn ông mê xe hơi” nói về một cuộc điều tra gần đây, rằng tuy rất mê xe
hơi nhưng nếu phải lựa chọn giữa xe và người yêu thì số đàn ông lựa chọn người
yêu vẫn cao hơn xe hơi 3%. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của người phụ nữ
trong mắt đàn ông hay nói chính xác hơn, đàn ông thật thông minh khi biết lựa
chọn phụ nữ trước xe hơi, nhưng tôi vẫn không thể nhịn được cười khi cuối cùng,
tác giả bài viết lại kết luận rằng: “Thông minh là thế, nhưng đàn ông vẫn thật
ngây thơ. Họ quên mất rằng phụ nữ đẹp có làm người yêu mãi cũng đến ngày thành…
vợ. Và giai thoại khủng khiếp về vợ lại bắt đầu. Mà vợ thì không bao giờ thích
chồng quá ưu ái xe hơi.”
Chúng tôi dừng chân ở một ngôi chùa - nơi mà nhìn sang bên phải
là biển, còn bên trái là một không gian xanh vô cùng rộng lớn và thoáng đãng.
Tìm được một nơi tuyệt vời như thế không hề dễ dàng. Sau này, khi đã về Đức rồi,
trong một vài giấc mơ, tôi vẫn thấy mình tung tăng đâu đó giữa chốn thiên đường
ấy.
Chúng tôi dừng chân ở Lâu đài Rosenborg - một lâu đài cổ màu
hồng theo kiến trúc Phục Hưng, được xây dựng vào thế kỷ XVII. Nghe nói nơi đây
lưu giữ nhiều hiện vật quý nhưng khi chúng tôi đến nơi thì đã hết giờ mở cửa
nên chỉ được đứng bên ngoài nhìn vào và đi dạo xung quanh. Lâu đài này được bao
quanh bởi một khu vườn xinh đẹp, lúc ấy đang là mùa xuân nên những bông hoa
tulip đua nhau khoe sắc.
Có lẽ ai tới Copenhagen cũng đều mong được nhìn thấy bức tượng
Nàng tiên cá nổi tiếng, đặt trên một tảng đá ở cảng Langilinic, do Edward
Eriksen chế tạo theo “đơn đặt hàng” của ông chủ hàng bia Carlsberg. Trước đây,
khi đọc những câu chuyện cổ tích của Andersen, tôi cũng đã từng mơ về nó và
nghĩ rằng sẽ thật hạnh phúc khi được chiêm ngưỡng và ôm nó vào lòng. Nhưng thật
đáng thương cho tôi, nàng tiên cá đã “bị” mang sang Thượng Hải để phục vụ cho
buổi triển lãm sẽ diễn ra vào cuối tháng Mười. Tôi đành ngậm ngùi, thôi thì đành
vào Tivoli ngắm bức tượng giả cũng xinh đẹp không kém vậy.
Tivoli là nơi mà có lẽ ai đã từng đến Copenhagen đều không thể
bỏ qua, đây là khu giải trí năm sao vô cùng lộng lẫy. Tôi từng phàn nàn là đời
sống ở Copenhagen đắt đỏ nên Việt Anh cứ bóng gió luôn: “Yến Anh đi chơi là cứ
phải vào chỗ nào năm sao cơ”. Tôi không biết phải thanh minh và lý luận thế nào
vì anh chàng nói chuẩn quá nên đành chữa vội: “Ừ thì đã mất chì rồi thì cho mất
cả chài luôn, bõ công đến đây rồi mà”. Khu giải trí này nằm ngay ở trung tâm
Copenhagen và được xây dựng từ năm 1843, nó có sức thu hút với tất cả những ai
đến Copenhagen (không ngoại trừ tôi).
Với diện tích 80.000m2, tại đây có đủ mọi thứ, từ các quán ăn
Á, Âu, các quán giải khát, các trò chơi truyền thống và hiện đại đến những vườn
hoa rực rỡ sắc màu và đài phun nước. Từ những chiếc đu quay kiểu cổ điển dành
cho trẻ em đến những toa xe chạy trên những đường trượt uốn lượn dành cho những
người trẻ tuổi. Rồi những anh lính bảo vệ trong trang phục Hoàng gia thuở xưa
đi diễu hành hộ tống những đứa trẻ ngồi trong những cỗ xe ngựa. Tivoli cũng là
khu giải trí dành cho các sự kiện văn hóa với các rạp chiếu phim và nhà hát
ngoài trời.
Ngắm Tivoli vào đêm thì quả thật không còn gì tuyệt vời hơn.
Ban đêm, vườn hoa này được chiếu sáng bởi 100.000 bóng đèn màu. Tôi vẫn cứ ngỡ
đây là một thành phố nhỏ chỉ dành cho vua chúa thời xưa và nay chúng tôi có may
mắn được hưởng diễm phúc đó.
Khi đi bộ từ Tivoli về chỗ trọ để chuẩn bị cho chuyến đi Thụy
Điển vào ngày hôm sau, tôi tự nhủ khi có điều kiện, nhất định sẽ trở lại nơi
này. Tôi yêu thành phố mà mọi con đường đều có thể dẫn ra biển này, yêu những
cơn gió se lạnh và yêu cả ánh hoàng hôn của mặt trời phương Bắc nhuộm vàng những
ngôi nhà nghiêng nghiêng. Tôi yêu cái xứ sở mà nhiều người vẫn gọi là “nơi hạnh
phúc nhất thế giới” với một nền công nghiệp xanh và một lối sống lành mạnh. Tôi
biết rằng đây không phải là lần cuối cùng tôi tới xứ sở của những câu chuyện cổ
tích thần tiên này.
ĐỨC: LƯU LUYẾN BERLIN
Đặt chân tới Berlin lần đầu tiên vào mùa thu năm 2001, thành
phố không đẹp như những gì tôi tưởng tượng. Giữa những ngày tháng Mười, tôi
lang thang trên khắp các nẻo đường để tìm lại những gì day dứt đã từng bỏ lại ở
quê hương, để rồi trong lá thư đầu tiên gửi về cho mẹ, tôi đã viết: “Mẹ ơi, ở
bên này con chẳng thấy mùa thu!”
Là một người lãng mạn, trong tôi mùa thu luôn là thứ gì đó
mang cho con người nhiều cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, bồi hồi. Vậy mà trong
tôi lúc ấy chỉ là sự trống rỗng, tôi bỗng nhớ những chiều thu Hà Nội đến nao
lòng.
Để rồi mãi đến lần thứ tư trở lại Berlin, tôi mới dám khẳng định
tình yêu của mình dành cho thành phố này. Sống ở Đức nhiều năm, được đi khắp
các thành phố lớn nhỏ nhưng mỗi lần tới Berlin, lòng tôi luôn dấy lên một nỗi
niềm khó tả.
Là thành phố nằm ở phía Đông của nước Đức với nhiều di tích lịch
sử, kể từ khi Bức tường Berlin sụp đổ, Berlin là nơi thu hút khách du lịch từ
khắp mọi nơi trên thế giới không phải bởi vẻ đẹp trang hoàng, lộng lẫy mà bởi
những nét đẹp văn hóa còn lưu lại cho đến ngày hôm nay. Và có lẽ cũng không quá
ngạc nhiên khi xếp Berlin vào danh sách những thành phố đẹp nhất châu Âu!
Tôi cứ nhớ mãi cái khoảnh khắc trong lần đầu tiên tôi tới
Berlin, với tôi Berlin là một thành phố xanh-sạch-đẹp và dường như chẳng bao giờ
ngủ vào ban đêm. Những ấn tượng của tôi về người Berlin trong lần đầu tiên ấy
không mấy thân thiện! Tôi sống ở một vùng quê yên ả, bình yên của miền Tây Bắc
Đức, khi ra ngoài đường, bất kể người lớn hay trẻ con, họ đều có thói quen chào
nhau “Hallo” (xin chào) hoặc nở một nụ cười, nhưng ở Berlin đó là điều không thể.
Khi tôi đem thắc mắc này ra hỏi thầy giáo tôi, ông đã nhẹ nhàng giải thích cho
tôi rằng: “Ở một thành phố với một lượng người đông như thế, người ta không thể
‘Hallo’ suốt cả ngày được, thế nên em đừng trách người Berlin”. Tôi tạm bằng
lòng với lời giải thích như thế dù trong lòng vẫn còn rất nhiều hoài nghi, để rồi
rất lâu sau tôi mới biết thầy đã đúng.
Bất cứ thủ đô nào trên thế giới đều mang một vẻ đẹp riêng tượng
trưng cho đất nước của mình và Berlin cũng vậy. Đến Berlin, bạn không thể không
ghé thăm cổng thành Brandenburg - biểu tượng của thành phố. Cổng thành cao 26m,
rộng 66,5m, trước đây từng là vạch phân chia ranh giới giữa hai miền Đông và
Tây Đức. Cổng Brandenburg được bắt đầu xây dựng từ năm 1788 và mãi đến năm 1791
mới được hoàn thành. Vua Friedrich Wilhelm II là người đã cho xây chiếc cổng
này như biểu tượng của hòa bình. Hầu như bất cứ du khách nào đến Berlin cũng đều
phải ghé qua cổng thành này.
Tôi không phải là người say mê lịch sử, nhưng khi đến Berlin
tôi đã dành thời gian ghé thăm gần hết các viện bảo tàng - nơi ghi dấu những gì
còn sót lại của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhiều người bạn Việt Nam từng
hỏi tôi: “Lịch sử nước Đức có gì thú vị?”. Tôi chỉ cười. Thật khó giải thích điều
đó bởi hầu như bất cứ ai khi nghĩ về lịch sử Đức cũng gắn liền với hai chữ
“Hitler”. Người dân Đức không bác bỏ điều này, thế hệ trẻ của Đức ngày hôm nay
vẫn phải hứng chịu những cái nhìn soi mói khi học về lịch sử nước nhà. Còn tôi,
tôi học để biết và cũng để hiểu rằng những gì đã đi vào lịch sử thì cũng nên biết
đến một lần.
Hiện tại ở Berlin, người ta vẫn lưu giữ những bức tường còn
sót lại từ năm 1991 và trong những cửa hàng lưu niệm bạn có thể mua những mô
hình nho nhỏ bằng ngón tay để làm kỷ niệm. Khi đi ngoài đường, nếu để ý kỹ, bạn
sẽ còn được nhìn thấy vạch phân chia ranh giới giữa hai miền ngày xưa. Tôi tìm
đến Checkpoit Charly, đây là một trong những những trạm kiểm soát của Mỹ ngày
xưa đóng tại Berlin để kiểm soát giấy tờ khi người dân muốn di chuyển từ Đông Đức
sang Tây Đức hoặc ngược lại. Khách du lịch đến đây thường chụp những bức hình
làm kỷ niệm để hồi tưởng lại không khí ngày xưa. Sau khi nước Đức thống nhất
thì trạm kiểm soát này đã bị hủy bỏ nhưng từ năm 2000 người ta đã cho xây dựng
lại một trạm kiểm soát được phỏng theo bản gốc để khách du lịch đến tham quan,
chụp ảnh.
Sau khi đã xem được gần hết các công trình lịch sử và các viện
bảo tàng, tôi bắt đầu khám phá một gương mặt khác của Berlin - nơi là lịch sử
không còn đóng vai trò chủ đạo của thành phố, mà thay vào đó là những dòng
sông, những cây cầu, những cung điện tạo cho thành phố một vẻ đẹp nên thơ, tao
nhã. Vào mùa hè, trên những thảm có trong những công viên hay thậm chí chỉ là một
bãi cỏ ven đường, giới trẻ thường tận dụng đó làm nơi nghỉ mát, hóng gió, hàn
huyên hay ngồi đọc một cuốn sách hay, ngắm vài lượt người qua lại. Trên những
cây cầu khi nắng tắt và hoàng hôn bắt đầu buông xuống, Berlin khi đó không còn
là một thành phố với những tòa nhà chọc trời mà là một thành phố thật sự yên bình
và đáng yêu. Người dân Berlin không ồn ào, vội vã, cuộc sống dẫu tất bật nhưng
họ vẫn tìm cho mình những giây phút để thư giãn. Trên những tàu điện ngầm hay
những chuyến xe buýt, tôi không hề thấy biểu hiện của sự hớt hải, bon chen, kẻ
lên người xuống vẫn với những bước chân thật nhịp nhàng. Tôi vẫn nhớ những buổi
sáng sớm thức dậy, đứng trên kí túc xá tầng 15 từ phòng của Trang nhìn xuống,
ngắm thành phố từ phía trên cao, để gió, để mặt trời tỏa vào đôi mắt biếc, một
cảm giác thật dễ chịu.
Người ta đặt cho Berlin rất nhiều những cái tên mỹ miều, nào
là “Trái tim của châu Âu”, “Nơi gặp nhau của quá khứ và hiện tại” hay “Thành phố
của nghệ thuật”. Còn tôi thì lại gọi Berlin là thành phố của yên bình, bởi mỗi
lần quay trở lại nơi này tôi đều bồi hồi, xúc động. Thành phố này luôn mang tới
cho tôi cảm giác của sự bình yên, bỏ lại phía sau những tính toán đời thường để
sống một cuộc sống của một người trẻ tuổi mang trong mình những hoài bão và
khát vọng tự do. Khó có ai nghĩ rằng hơn nửa thế kỉ trước Berlin vẫn còn bị tàn
phá nặng nề bởi chiến tranh khi ghé đến thăm thành phố này. Ở Berlin, sinh viên
Việt Nam và châu Á khá nhiều, thế nên vào các ngày nắng đẹp, họ thường tụ tập
cùng gia đình, bạn bè ở Thaipark nướng thịt, thưởng thức các món ăn châu Á khác
nhau, trong đó có món chè và nộm đu đủ của Thái Lan, cùng món thịt nướng kiểu
Lào là những món ăn tôi tâm đắc vô cùng.
Tôi thích nhất là được ngắm Berlin vào mỗi buổi đêm, được
lang thang trên con đường lộng gió, trút bỏ những nhọc nhằn của một ngày đã qua
và đắm mình trong hơi thở của thành phố. Ở Berlin có hai địa điểm mà bạn nên dừng
lại và ngắm nhìn vào buổi đêm đó là Alexander Platz, bạn có thể ngước nhìn lên
tháp truyền hình với độ cao 368m và những người không sợ độ cao thì có thể xếp
hàng mua vé lên đỉnh tháp để ngắm nhìn toàn bộ Berlin vào ban đêm với những ánh
đèn lấp lánh đủ sắc màu.
Còn Postdamer Platz là nơi từng bị chia cắt bởi hai miền nước
Đức, khi tới đây bạn có thể nhìn thấy vạch ngăn cách bức tường ngày xưa, nay đã
bị phủ bằng những lớp đá. Hiện nay, quảng trường này là nơi có mật độ giao
thông gần như cao nhất ở Berlin, những tòa nhà cao tầng, khách sạn và nhà hàng
mọc lên rất nhiều. Quảng trường này cũng là nơi “cực kì giản dị”, bởi đây là
nơi trải chiếc thảm đỏ thu hút các ngôi sao tài tử, minh tinh màn bạc từ khắp
nơi trên thế giới. Họ đến đây để làm áp phích quảng cáo cho bộ phim sắp được
trình chiếu và giao lưu cùng khán giả. Tôi còn nhớ cái lần đi theo chân chị
Trang tới Postdamer Platz chỉ để chờ và chiêm ngưỡng tận mắt hai diễn viên
chính trong bộ phim Transformer. Trước đó, tôi không hề biết đến tên tuổi của
hai tài tử điện ảnh này, nhưng hình như sau bộ phim này, họ đã bắt đầu nổi tiếng
ở Hollywood. Thế mà rồi tôi cũng “mò” lên được hàng đầu tiên (dáng người mảnh
khảnh khiến việc luồn lách của tôi rất dễ dàng), được đạo diễn và hai tài tử tận
tay kí tặng. Tôi cười toe toét trong tiếng hò reo khản cổ của những bạn trẻ
xung quanh.
Nói đến Berlin là không thể không nhắc tới Đồng Xuân - khu
trung tâm mua bán của người Việt tại Đức. Khi lạc vào đây, tôi cứ ngỡ mình đang
ở Việt Nam, bởi số lượng người Việt buôn bán ở trong này chiếm tới hơn 60%, 40%
còn lại được chia cho người Trung Quốc, người Thổ, người Ấn Độ và Đức. Người ta
có thể mua bất cứ thứ gì họ cần, sách báo, băng đĩa cho đến cả những món đặc sản
mà nhiều người vẫn nghĩ chỉ ở Việt Nam mới có thể mua được. Thế mới biết người
Việt Nam mình, dù sống ở đâu cũng muốn có đủ đầy hương vị quê nhà. Lần nào tới
đây, tôi cũng được chiêu đãi những món ăn Việt Nam truyền thống, nào là bún ốc,
phở bò và các loại chè thập cẩm khác nhau, ăn cho no nê rồi mới quay trở lại
trung tâm thành phố.
Ở Berlin, ngoài việc tới Đồng Xuân để thưởng thức những món
ăn Việt Nam, bạn cũng nên tranh thủ nếm thử những món đặc sản khác cũng không
kém tuyệt vời, như xúc xích cà ri (Currywurst), salad khoai tây, giò heo ăn kèm
bắp cải muối, bánh rán Berlin (Berliner). Tôi nhớ mùa hè năm ngoái trước khi
lên Berlin. Thủy có nhắn tin cho tôi bảo sẽ dẫn tôi đi ăn món Döner Kebab ngon
nhất Berlin khiến tôi háo hức vô cùng. Thật ra các cửa hàng bán Döner Kebab ở
Berlin thì hầu như ở trên con đường nào cũng có nhưng không phải cửa hàng nào
cũng ngon. Từ Alexander Platz, chúng tôi phải đổi tàu điện tới hơn ba lần mới tới
được cái lều bán Döner của hai anh chàng người Thổ Nhĩ Kỳ. Trước chúng tôi đã
có chừng hơn 20 người đang xếp hàng ở đó dù lúc đó mới chỉ hơn mười một rưỡi
trưa và bữa ăn chính của người dân Berlin chưa bắt đầu. Thật không uổng công xếp
hàng chờ đợi, đúng như những gì Thủy nói, tôi đã được thưởng thức món Döner
Kebab ngon nhất trong đời ở Berlin.
Viết về Berlin chẳng biết đến khi nào cho đủ, bởi mỗi lần trở
lại Berlin, tôi luôn khám phá ra được rất nhiều điều mới lạ. Từ khi nào tôi đã
thấy yêu tha thiết thành phố này. Rất lâu rồi, tôi nhớ có một lần mình ngồi
khóc giữa quảng trường Alexander Platz chỉ vì một lý do hết sức ngớ ngẩn, đó là
nhìn thấy một gia đình người Việt đi chơi cùng nhau, tiếng cháu gọi ông bà, tiếng
người con gọi mẹ, tôi bỗng thấy nhớ gia đình của mình biết bao nhiêu và thèm được
trở về những ngày tháng xưa trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Nhưng tôi biết,
thời gian không trở lại bao giờ. Nước mắt tôi lã chã rơi cho những điều gọi là
số phận. Và như thấu hiểu được nỗi niềm chất chứa đó ở trong tôi, Tú đã mời tôi
về nhà mình ở ngoại ô Berlin để ăn một bữa tối cùng bạn và gia đình, cho tôi được
sống những giờ phút ấm cúng trong không khí gia đình.
Căn nhà của bố mẹ Tú nằm ở ngoại ô Berlin, không khí rất
trong lành và xung quanh là thiên nhiên bao bọc. Dọc theo trục đường chính, Tú
dẫn tôi về phía một quả đồi trong một chiều nhạt nắng, cùng nhau hái mận, hái
hoa và tận hưởng những khoảnh khắc bình yên mà tôi biết không phải lúc nào mình
cũng có được.
Kỉ niệm về Berlin luôn song hành cùng tôi suốt những năm
tháng tuổi trẻ. Tôi vẫn thường nói với bạn bè tôi rằng đó là thành phố tôi thấy
mình có duyên nhiều nhất. Nhất định tôi sẽ còn trở lại nhiều và nhiều lần nữa
vì chẳng có lý do gì để mà không trở lại, bởi khi đã có duyên rồi thì “đi xa mấy
cũng có ngày tìm lại với nhau”. Và quan trọng hơn cả, ở Berlin, tôi cũng đã tìm
thấy mùa thu của mình.
ĐỨC: DRESDEN - GIỮA SẮC TRỜI THIÊN NHIÊN
Sống ở Đức gần mười năm cũng lang thang hết gần nửa châu Âu
nhưng tôi lại chưa khám phá hết vẻ đẹp của Đức. Sau khi kết thúc kì thi tốt
nghiệp, tôi tự thưởng cho mình một chuyến đi dài tới miền Đông trước khi tiếp tục
theo một ngành học mới. Đây là cơ hội để cho tôi được hiểu rõ hơn về quê hương
thứ hai của mình. Dù cùng nằm trong mảnh đất của nước Đức nhưng cuộc sống, con
người, phong cảnh ở Dresden cũng khá khác biệt và lần này tôi muốn được chứng
kiến và cảm nhận sự khác biệt đó bằng chính đôi mắt và trái tim mình.
Biết đến Dresden từ lâu qua báo chí va các phương tiện truyền
thông, nhưng suốt những năm tháng sống và học tập ở Đức, tôi chưa một lần được
đặt chân tới đó. Dresden trong kí ức của tôi chỉ là hình ảnh Nhà thờ Đức Bà
nguy nga, lộng lẫy, bên dòng sông Elbe hiền hòa. Và những hiểu biết của tôi về
thủ phủ của tiểu bang Sachsen này chỉ dừng lại ở đó. Có lẽ tôi cũng sẽ chẳng biết
được nhiều hơn nếu không tự bắt mình thực hiện cuộc hành trình tới miền đất
phương Đông này.
Sau những ngày rong ruổi ở Berlin, tôi mua vé tàu đi thẳng tới
Dresden. Hương - một người bạn hiện đang sống và học tập ở Dresden đón tôi ở ga
rồi sau đó hai đứa lang thang trong thành phố. Thật là tuyệt khi có một hướng dẫn
viên nhiệt tình và tốt bụng như Hương đi cùng, mặc dù trước đó chúng tôi chưa
biết nhiều về nhau. Vừa đi Hương vừa bảo: “Các danh lam thắng cảnh ở Dresden gần
nhau lắm, nằm ngay trung tâm nên chỉ cần đi hai tiếng là có thể xem được hết”.
Thời tiết tháng Bảy rất đẹp, nắng trải dài trên những con đường dành cho người
đi bộ, gió từ sông thổi vào khiến tôi có cảm tình ngay với nơi đây, hay tại số
tôi may mắn, đi đâu cũng có nắng đi cùng.
Dresden được mệnh danh là thành Florence nằm trong thung lũng
sông Elbe - một trong những dòng sông lớn đóng vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế Đức và các nước Trung Âu với chiều dài hơn 1000km - bao gồm nhiều kiến
trúc rất độc đáo mang đậm phong cách Baroque. Erich Kästner - một nhà văn nổi
tiếng của Đức sinh ra ở Dresden - đã nói rằng ông cảm tạ cuộc đời đã cho ông được
lớn lên ở mảnh đất này, nơi mà không chỉ vừa xấu mà lại vừa đẹp nữa. Có lẽ thật
mâu thuẫn nhưng quả thực, Dresden vừa mang hơi thở của quá khứ, vừa mang dáng dấp
của sự hiện đại. Dresden đã trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch
sử: Năm 1206, cái tên Dresden chính thức được đề cập đến, sau đó nơi này trở
thành nơi thường trú của dòng dõi quý tộc Wettiner. Vào năm 1945, sau Chiến
tranh Thế giới thứ hai, thành phố này đã bị tàn phá nặng nề bởi bom đạn của Mĩ
và Anh, mãi sau này khi nước Đức thống nhất thì Dresden mới bắt đầu được tu sửa
lại hoàn toàn. Nhà viết kịch Gerhart Hauptmann đã có lần nói rằng “Nếu như bạn
đã quên cách nhỏ lệ, thì sự phá huỷ Dresden sẽ khiến bạn nhớ lại cách khóc như
thế nào”. Quả thật, những năm học chuyên Sử ở Đức, xem những bộ phim tài liệu về
Dresden, tôi không khỏi ngậm ngùi, xót xa. Thứ mà ngày hôm nay, những vết
thương trong quá khứ mà Dresden xưa kia phải hứng chịu cũng đã dần dần lành lặn
theo thời gian, và không phải ngẫu nhiên mà vùng đất này trở thành một trong những
thành phố đẹp nhất châu Âu. Theo thống kê của Ủy ban thành phố thì hàng năm
Dresden đón khoảng gần chín triệu khách du lịch và trung bình, mỗi khách du lịch
ở lại nơi này khoảng hai ngày.
Sau khi đi qua nhiều con đường và góc phố Dresden, Hương dẫn
tôi tới Zwinger - một trong những địa điểm nổi tiếng không thể bỏ qua khi đã đặt
chân tới đây. Zwinger là công trình hoành tráng nhất của Dresden - là sự kết hợp
hoàn hảo giữa kiến trúc và nghệ thuật. Mới thoạt nhìn, cấu trúc của Zwinger có
phần giống với đấu trường La Mã, chính giữa là một khu vườn với những đám cỏ được
cắt tỉa tỉ mỉ rất xinh xắn. Trước đây, Zwinger được thiết kế là một vườn trồng
cam và sân trước của một lâu đài mới, nhưng sau năm 1709, khi đức vua của vùng
Saxony là Friedrich August I qua đời thì triều đình cũng buộc phải tạm dừng kế
hoạch ấy. Ngày nay, Zwinger vừa được sử dụng làm một khu liên hợp bảo tàng, vừa
để tổ chức các cuộc triển lãm đương đại, đồng thời cũng là một sân chơi ngoài
trời với các hoạt động văn hóa, văn nghệ. Đặc biệt, Zwinger bây giờ được du
khách biết đến dưới dạng viện bảo tàng đồ gốm sứ nổi tiếng nhất thế giới, và
cùng với thời gian, công trình này đã trở thành một trong nhiều biểu tượng quốc
gia vô cùng giá trị của Đức. Chúng tôi đi dạo quanh khu vườn, ngắm nhìn dòng
người qua lại, tận hưởng sự bình yên của Dresden và liên tưởng tới khung cảnh
thời xa xưa rồi bước lên cầu thang lên phía tầng trên. Cầu thang này không nằm ở
phía trong Zwinger như nhiều người nhầm tưởng mà nó nằm ở phía ngoài bên cạnh lề
đường, sau một hồi tìm kiếm cuối cùng chúng tôi cũng tìm thấy đường để đi lên.
Dựa mình vào bức tường cũ, nhắm mắt lại nghe tiếng nước chảy từ các vòi phun nước,
tôi ước rằng thời gian hãy ngừng trôi, để tôi được tận hưởng những phút giây nhẹ
nhàng trong khoảnh khắc mùa hè ở nơi ngày xưa từng một thời là chốn ăn chơi của
Dresden này.
Từ Zwinger, chúng tôi đi về hướng Brühlschen Terrasse (còn có
tên gọi khác là Ban công của châu Âu) nằm bên dòng sông Elbe, nơi đây hội tụ rất
nhiều khách du lịch vì nó nằm ở trung tâm khu phố cổ, kéo dài 500m dọc dòng
sông Elbe giữa cầu Augustus và cầu Carola. Tôi đứng ở nơi này và dõi mắt về nơi
xa, dòng sông Elbe hiền hòa hiện ra trước mắt, nắng chiều óng ả rọi trên những
lối đi. Nằm phía sau “ban công này” là chiếc cầu thang dẫn xuống một ngõ nhỏ,
chỉ là một ngõ rất ngắn nhưng lại tập trung rất nhiều quán ăn. Đi qua ngõ này
là tới Nhà thờ Đức Bà - niềm tự hào của nước Đức nói chung và người dân Dresden
nói riêng - được xây dựng vào cuối thế kỉ thứ XVIII theo phong cách kiến trúc
Baroque, nhưng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bom đạn của Mĩ và Anh dội
vào đã hủy hoại gần như là tất cả. Vì nhà thờ này vừa được coi là công trình thế
kỉ, lại vừa là nhà thờ Tin Lành rất lớn của Đức nên sự tổn thất này đã khiến
cho người dân Dresden rất hoang mang, họ luôn mong mỏi sẽ khôi phục lại nó. Ước
nguyện này cuối cùng đã trở thành hiện thực sau ngày nước Đức thống nhất, nhờ
lòng hảo tâm của rất nhiều người, đến năm 1993, nhà thờ bắt đầu được trùng tu
và cho tới tận năm 2005 mới hoàn thành xong, đánh dấu sự lùi xa của cuộc chiến
tranh tàn khốc, đồng thời cũng là chiếc cầu nối cho các dân tộc xích lại gần
nhau hơn.
Chúng tôi lặng lẽ bước vào bên trong nhà thờ, sự yên lặng như
bao trùm lấy cả không gian này. Kiến trúc trong nhà thờ vô cùng lộng lẫy và rất
trang nghiêm. Đã từng ghé thăm rất nhiều nhà thờ nổi tiếng ở châu Âu nhưng tôi
vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước hàng ngàn đường nét hoa văn và những hình vẽ ở
trên tường vòm nhà thờ, bao gồm tám bức vẽ của bốn tín đồ của Chúa Jesus có nhiệm
vụ truyền giảng Tin Lành là Lukas, Matthäus, Markus và Johannes, cũng như hình
tượng bốn đức hạnh trong Thiên Chúa giáo là đức tin, hi vọng, lòng bác ái và
nhân từ. Chúng tuyệt đẹp, đến nỗi tôi không thể viết được thành lời, chỉ biết lặng
lẽ ngồi xuống chiếc ghế phía sau cùng và thả lòng mình trong những giây phút
bình yên ngắn ngủi đó.
Bước ra khỏi nhà thờ, chúng tôi đi dọc qua cây cầu bắc ngang
dòng sông Elbe để đi về khu phố mới. Khu phố này nằm ở bên phải dòng sông và được
sát nhập vào trung tâm thành phố từ những năm 1403. Ngày nay, nơi đây tập trung
rất nhiều nhà hàng, khách sạn và cũng là một điểm mua sắm có tiếng ở Dresden.
Chúng tôi rẽ vào Kunsthof (vườn nghệ thuật) - một địa điểm mà không phải khách
du lịch nào cũng biết vì nó nằm ẩn mình trong khu phố mới. Sân nghệ thuật này
ban đầu chỉ là một ý tưởng nhằm phục hồi lại tòa nhà đó, nhưng cuối cùng nó lại
được thiết kế vô cùng nghệ thuật, với nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm nho nhỏ
trông rất lạ và bắt mắt.
Sáng hôm sau, tôi dành thời gian leo núi ở vùng Sächsiche
Schweiz - một dãy núi đã nằm bên dòng Elbe cách trung tâm Dresden chừng 40km và
từ lâu đã trở thành công viên Quốc gia của Đức với diện tích hơn 90km2.
Sächsische Schweiz được gọi là “Thụy Sĩ của Saxony” là do hai người Thụy Sĩ tới
sống và làm việc ở Dresden, từ thế kỉ thứ XVIII đã dành thời gian đi leo núi để
đỡ nhớ nhà, và từ đó tên gọi này cứ thế được lan truyền rồi tồn tại đến tận
ngày nay. Nếu tới đây vào mùa thu, bạn sẽ thấy phong cảnh đẹp hơn rất nhiều vì
lúc đó những chiếc lá xanh đang chuyển màu, khiến cả Saxony đẹp rực rỡ hơn bao
giờ hết. Tôi tới đây vào những ngày cuối tháng Bảy, lá vẫn còn xanh rợp trên những
lối đi và thời tiết cũng khá mát mẻ. Các biển chỉ dẫn sẽ giúp bạn lựa chọn con
đường và chiều dài mình muốn đi, rồi vừa leo núi vừa ngắm cảnh. Hãy dành thời
gian ngắm nhìn từng lớp đá lớn mang màu sắc nâu trắng rất lạ do đã bị xói mòn bởi
thời gian, đan xen những khe núi chật hẹp mà có lẽ chỉ một đứa bé mới có thể
chui lọt. Từ trên cây cầu đá Bastei trứ danh nhìn xuống, bạn sẽ chứng kiến hình
ảnh những người leo núi hăng hái (đây là môn thể thao khá được ưa chuộng ở
Saxony), hay nhìn xuống dòng sông Elbe hùng dũng uốn lượn. Tôi leo núi một
mình, tận hưởng sự bình yên của thiên nhiên kì vĩ và chợt nhớ tới câu nói của
người bạn cũ rằng: “Cuộc sống đôi khi rất thú vị với những phút riêng tư.” Nói
là leo núi một mình nhưng thật ra tôi có một mình đâu, bởi xung quanh tôi là
bao nhiêu tiếng cười rộn rã, thậm chí có những gia đình còn cho cả con nhỏ chỉ
chừng 4-5 tuổi đi leo núi cùng. Khoảnh khắc được sống giữa thiên nhiên ấy khiến
tôi đột nhiên nghĩ rằng sau này khi cuộc sống ổn định, tôi muốn về đây sống để
tận hưởng bốn mùa của Sächsische Schweiz. Ở đây, con người thực sự được thư
giãn, bỏ lại phía sau gánh nặng cuộc đời, chỉ có lá, có hoa, có những dãy núi
trùng trùng điệp điệp và có tiếng cười lắng đọng mãi trên môi.
ĐỨC: MUNICH VẪY GỌI
Đáp chuyến tàu từ Augsburg, tôi trở lại thủ phủ của miền đất
phương Nam vào những ngày đầu tháng Tám. Munich vẫn vẹn nguyên như thuở nào
nhưng hình như có phần ấm áp hơn so với những ngày tháng Ba lạnh giá của mùa
đông năm trước. Chị Bình đón tôi ở ga và lái xe đưa tôi về nhà nghỉ ngơi và ăn
uống. Chị bận với công việc ở nhà hàng nên tôi tự cầm bản đồ, nhảy tàu điện ngầm
và khám phá thành phố một mình. Khi tôi nhắn tin cho Hiếu rằng tôi đang lang
thang một mình ở Munich, anh chàng nhắn lại và bảo thật tội nghiệp cho tôi. Còn
tôi thì mỉm cười và giờ đây tôi đang muốn chiêm nghiệm điều đó bằng cảm nhận của
riêng mình.
Munich không phải là thủ đô của nước Đức nhưng đây lại là một
trong những thành phố thu hút nhiều khách du lịch nhất nước Đức, Munich được biết
đến không chỉ là thủ phủ của bang Bayern mà còn là quê hương của đội bóng lừng
danh Bayern Munich.
Địa điểm đầu tiên tôi đặt chân tới là Quảng trường Đức Mẹ
Marienplatz - nằm ở trung tâm thành phố và được xem là trái tim của thành phố.
Đây có lẽ là quảng trường đẹp nhất trong số những quảng trường ở châu Âu tôi từng
được ghé thăm. Nơi đây hầu như luôn tấp nập khách du lịch từ khắp nơi đổ về.
Xung quanh quảng trường là các nhà thờ, mà nổi tiếng nhất là Nhà thờ Đức Bà
(Frauenkirche). Ngoài ra, đây cũng là nơi tụ tập của các họa sĩ đường phố, những
nhóm nhạc hát rong với những trò đố vui, ảo thuật thu hút sự dừng chân của rất
nhiều người khiến khung cảnh thành phố càng trở nên nhộn nhịp hơn.
Tôi lang thang và đứng ngắm nhìn dòng người qua lại mà không
thấy mình cô đơn dù những ngày trước đó, tâm trạng tôi không được tốt lắm. Địa
điểm tiếp theo mà tôi hướng tới là khu chợ Viktualienmark. Đây là khu chợ nổi
tiếng ở Munich, có thể so sánh với Naschmarkt ở Vienna, chỉ khác ở chỗ
Naschmarkt đa dạng và phong phú hơn, còn Viktualienmarkt nhỏ hơn và chỉ tập
trung bán những thực phẩm của vùng Bayern. So với siêu thị thì giá cả ở đây có
cao hơn chút xíu nhưng các mặt hàng rất tươi. Vả lại, mua đồ ở ngoài trời cũng
thú vị hơn nhiều so với ở trong siêu thị, nhất là lại ở một chợ nằm giữa trung
tâm thành phố.
Từ đây, tôi đi thẳng tới Hofbräunhaus. Mặc dù không biết uống
bia, cũng không tới đây đúng vào lễ hội bia thường được tổ chức vào tháng Mười
hàng năm nhưng tôi nhất định phải tới nơi này, bởi tôi muốn chiêm ngưỡng khung
cảnh của một nhà hàng bia thuộc loại nổi tiếng nhất thế giới. Chưa vào tới nơi,
tôi đã nghe tiếng cười rộn rã phía bên trong mà có lẽ phần lớn là khách du
lich. Chị bạn tôi kể rằng nếu tới đây vào tháng Mười thì còn tuyệt vời hơn nhiều
vì đó là tháng ăn chơi, tụ tập, hội hè ở Munich. Ở Đức thì bang Bayern là nơi sản
xuất nhiều bia nhất, có lẽ vì thế nên bia có mặt ở khắp nơi. Trong các cửa hàng
bán quà lưu niệm, hình cốc bia luôn là một biểu tượng độc đáo. Các “vườn bia”
cũng có mặt ở khắp nơi trong thành phố. Có lẽ, thú vui tao nhã của người dân
Bayern là mỗi ngày phải được thưởng thức một cốc bia thật ngon. Thời tiết tháng
Tám ở Munich rất đẹp nên các vườn bia cũng nhộn nhịp tiếng chúc tụng của người
bản xứ và khách du lịch. Có lẽ không mấy ai dại đột như tôi, tới Munich rồi mà
không thử uống bia vùng này. Nhưng tôi tới Munich đâu có phải vì sự vẫy gọi của
những ly bia đâu, mà lý do của tôi sâu xa hơn cơ. Tôi muốn được “chạm trán” những
anh chàng đẹp trai của Bayern Munich trên một ngõ phố. Thật buồn cười phải
không? Nhưng tôi đang nói rất thật đấy. Nhiều khi người ta đặt chân tới một
thành phố không hẳn vì phong cảnh hùng vĩ hay những món ăn mà đôi khi chỉ vì một
lý do vô cùng ngớ ngẩn nào đó như tôi chẳng hạn. Đã bao giờ bạn làm như thế
chưa?
Ở Munich còn có một đại lộ rất rộng và dài tên là
Ludwigstrasse, phía đầu con đường này là một Khải hoàn môn có nét giống với Khải
hoàn môn ở thủ đô Berlin, có điều nhỏ hơn một chút. Từ đây, tôi tiếp tục đi bộ
và cách đó không xa là khu vườn Anh (English Garden). Đây là khu vườn lớn thứ
hai ở châu Âu và cũng là một trong những khu vườn lớn nhất thế giới. Tôi đi bộ
vào khu vườn này khi ánh nắng chiều bắt đầu núp xuống đằng sau những rặng cây cổ
thụ. Buổi chiều, ở đây là nơi tập thể thao của người Munich, trên các bãi cỏ rộng
người ta chơi bóng đá, trên những con đường dài thì người cưỡi ngựa và người chạy
bộ nhiều vô kể. Ở bên tháp Trung Quốc, mọi người chơi nhạc và uống bia, những
người lãng mạn hơn thì ngồi ven hồ ngắm cảnh. Tôi chọn một chiếc ghế băng màu
xanh còn trống và thả mình vào khoảng lặng của khu vườn. Tôi không biết cảm
giác của mình lúc đó là buồn hay vui sau những ngày không bình yên đã qua nhưng
trong giây phút ấy, tôi thấy được là chính mình. Tôi ru mình trong khoảng lặng
đó, chẳng thấy xót xa, chẳng thấy bồi hồi. Hơn 9h tối, trời mùa hạ vẫn còn
sáng, tôi lên tàu điện ngầm về và mang trong mình một cảm giác bồi hồi khó tả.
Sáng hôm sau, địa điểm đầu tiên tôi có ý định đến là Bảo tàng
BMW và Công viên Olympiapark - hai địa điểm đã hấp dẫn tôi từ lâu. Chẳng biết tại
số tôi hẩm hiu hay vì tính tôi không cẩn thận mà khi vừa vào bảo tàng này được
15 phút, tôi đã mất luôn ví xách tay, trong đó có toàn bộ thẻ bảo hiểm, thẻ
ngân hàng, bằng lái xe hơi, hộ chiếu, tiền mặt, máy ảnh, điện thoại và đủ thứ
giấy tờ linh tinh khác. Tôi thông báo ngay với nhân viên trong viện bảo tàng,
khi họ hỏi tôi cố nhớ lại xem là đã để chỗ nào, tôi cũng không tài nào nhớ nổi,
vẫn cái giọng thật thà: “Em đeo trên lưng, chắc nó rớt xuống lúc nào mà em
không biết vì lúc đó mải ngắm xe”. Tôi đã tự nhủ nếu mất vì thì mai khỏi bay về
luôn vì trong đó có hộ chiếu, nhưng ơn trời, hơn 30 phút sau người ta thông báo
cho tôi rằng có người nhặt được và trả lại, tôi kiểm tra và thấy không thiếu một
thứ gì.
Tòa nhà trụ sở BMW từ lâu đã trở thành biểu tượng của Munich
với kiểu kiến trúc rất độc đáo. Với hình dạng chiếc bát, không gian của viện bảo
tàng dường như được mở rộng đến bất tận. Tôi lang thang và ngắm các nàng BMW
xinh đẹp - giấc mơ của cuộc đời tôi. Khách du lịch quốc tế tới đây rất nhiều, ở
nơi trưng bày những chiếc xe BMW mới thì khách du lịch còn được phép ngồi vào
bên trong và tha hồ chụp ảnh thỏa thích. Khi bước ra ngoài rồi tôi mới chợt để
ý ở Munich, BMW được sử dụng rất nhiều, nhiều hơn tất cả những thành phố khác
trên thế giới.
Từ nơi này, khi đứng trên cầu, người ta đã có thể nhìn thấy
sân vận động Olympic Munich nằm trong khuôn viên của Công viên Olympia (còn được
gọi là Công viên Olympics). Công viên này được hoàn thành vào năm 1972 khi
Munich đăng cai Thế vận hội Mùa hè. Từ đó đến nay, công viên vẫn được sử dụng
vào rất nhiều mục đích khác nhau. Khi tôi tới đây, công viên này đang trong thời
gian nâng cấp để chuẩn bị cho Thế vận hội năm 2018.
Khi tới Munich, nhiều người bảo tôi rằng nếu tới khu vườn Anh
rồi thì không cần phải vào công viên này. Nhưng rõ ràng khi đã từng đặt chân tới
cả hai nơi, người ta mới nhận ra sự khác biệt rõ ràng. Có thể, khu vườn Anh rộng
hơn nhưng tôi thì lại thích phong cảnh độc đáo ở Công viên Olympics hơn. Bởi vì
trong này không chỉ có sân vận động mà còn có Tháp Olympics, nơi mà từ đây, người
ta có thể ngắm toàn bộ thành phố với cả núi và hồ. Một màu xanh ngút ngàn, thơ
mộng khác hẳn với khu vườn Anh - một vẻ đẹp mà sau này vẫn còn in đậm mãi trong
kí ức của tôi.
Nói đến Munich, cũng phải nói đến các cung điện và lâu đài mà
nổi bật nhất có lẽ là Lâu đài Nymphenburg. Lâu đài này là món quá lãnh chúa
Ferdinand Maria von Savoyen tặng vợ ông là Adelheid von Savoyen nhân dịp bà
sinh cho ông Hoàng tử Max Emanuel vào năm 1664. Lâu đài này là sự kết hợp hài
hòa độc nhất vô nhị giữa công trình kiến trúc và công viên lâu đài với hồ nước,
những cây cầu bé nhỏ xinh xinh và rất nhiều cây cối. Vào mùa đông, nếu khách du
lịch tới đây thì chỉ thường đi dạo trên tuyết vì nước trên các mặt hồ đều đóng
băng. Vào mùa hè, đây lại là nơi lý tưởng để thả mình vào một không gian rất đẹp.
Cung điện này làm tôi nhớ đến những ngày lang thang ở Vienna khi ghé vào Cung
điện Schönbrunn. Tất nhiên, mỗi nơi có một vẻ đẹp khác nhau và kiến trúc cũng
khác nhau, nhưng tới nơi nào tôi cũng không khỏi trầm trồ: “Đẹp quá”
Những ngày ở Munich đã để lại trong tôi những kí ức và hình ảnh
đẹp dù phần lớn thời gian ở đây tôi chỉ lang thang một mình cùng chiếc bản đồ.
Tôi rời Munich vào một ngày mưa tầm tã, cho tới khi đến sân bay rồi mà những
cơn mưa phương Nam vẫn còn chưa dứt. Nhưng tôi vẫn yêu Munich, không phải bởi
vì thành phố này giàu có mà tôi yêu vẻ đẹp của miền đất phương Nam, yêu những
người bạn thân thiện ở nơi đây. Đặc biệt tôi không quên chị Thu Bình - người đã
chăm sóc tôi rất cẩn thận trong những ngày ở đây chỉ để “mong em tăng thêm vài
ký nữa cho chị vui”.
ĐỨC: HAMBURG VÀ NHỮNG YÊU THƯƠNG CHƯA VIẾT HẾT
Lâu rồi trong cuốn Nhật ký viết về Hamburg, tôi nhớ mình từng
viết: “Tôi nhớ ngày đầu tiên tới nơi này, thành phố vừa xa, vừa lạ dù trước đó
tôi cũng đã đôi ba lần ‘vội vã trở về, vội vã ra đi’. Không có điều gì ở
Hamburg để níu giữ bước chân tôi ở lại hay nói đúng hơn, Hamburg gắn liền với
tôi bằng một kỷ niệm buồn mà mỗi lần đi ngang qua lối cũ ở sân ga, tôi vẫn
không tránh khỏi cảm thấy đau nhói trong lòng. Vậy mà giờ đây, không hiểu sao
trái tim tôi lại bình yên đến thế!” Những năm tháng sống và học tập ở đây, tôi
đã thêm yêu thành phố này nhiều hơn. Tôi yêu những con đường dẫn ra bến cảng,
yêu những buổi chiều ngồi vắt vẻo bên hồ vui đùa cùng những nàng thiên nga trắng,
để rồi tự hỏi không biết trên thế gian này có mấy người hạnh phúc như mình và
liệu có ai trong số họ nghĩ rằng họ đang rất giàu bởi những điều họ đang có hay
không?
Tôi nhớ trước ngày rời Hamburg, tôi có nói với một người bạn
của mình rằng: “Đôi khi cứ nghĩ nếu viết về Hamburg thì cảm xúc chắc cứ phải
tuôn trào ra như nước mắt lúc chia tay, nhưng bây giờ tự nhiên tớ lại chẳng thể
viết được điều gì cả, dù Hamburg đã trở thành một phần máu thịt trong những năm
tháng tuổi trẻ của tớ. Hình như ai đến và đã từng có một khoảng thời gian dù ngắn
hay dài sống ở thành phố này, đều không khỏi chạnh lòng khi quay gót bước đi…”
Và tôi, cũng không là ngoại lệ.
Hamburg trong tôi là những ngày lang thang ở Blankenese và ngắm
những ngôi nhà tuyệt đẹp ở trên cao, xa xa là những cánh buồm bay bay trong
gió. Nắng nhảy nhót trên dòng dông Elbe và tôi nghe thấy tiếng tôi cười trên
triền đê khi đi lạc ở Cranz và nhờ đi lạc đường mà lại may mắn nhìn thấy những
chú cừu xinh xinh đang chơi đùa trên bờ cỏ. Hạnh phúc nhiều khi đơn giản chỉ có
vậy thôi.
Hamburg trong tôi là những khoảng trời xanh với những khu vườn
nổi tiếng như Botanische hay những công viên với những vẻ đẹp đa sắc màu như
Planten un Blomen. Tôi nhớ những buổi chiều ngồi rung đùi đánh cờ vua với các
chiến hữu trên thảm cỏ xanh, vừa chơi vừa thưởng thức sô-cô-la, trái cây đủ các
thể loại, là những ngày hè khi hoa bắt đầu nở, chạy vào đó hít hà mùi hương của
hoa hồng và cảm nhận sự bình yên của cuộc sống.
Hamburg trong tôi là những ngày trốn mình ở Landungsbrücken
khi thấy lòng không bình yên. Là những đêm Plasten un Blomen xem nhạc nước và lắng
nghe những giai điệu ngọt ngào của cuộc sống. Là những lần đi Dom với những khoảnh
khắc yêu thương bất tận khi nhìn pháo hoa rực sáng giữa trời đêm, là phút giây
tôi thấy trái tim mình chết lặng khi nhìn thấy người đàn ông có đôi mắt giống hệt
“người xưa”, là đôi ba lần nước mắt tôi lăn dài trên má khi nhìn những cụ già
ngồi trên tàu điện ngầm với đôi mắt hoang mang, bíu chặt bàn tay tôi rồi thẫn
thờ quay sang hỏi: “Nơi này là đâu?”
Hamburg trong tôi là những ngày cà phê cùng bạn bè, là những
bữa tối cùng nhau “góp gạo thổi cơm”, là những ngày “ăn bóng đá, ngủ bóng đá”
và thao thức suốt cả mùa Euro để gào thét ở Heiligengeistfeld hay khóa cửa
phòng khóc dấm dứt suốt cả đêm khi cỗ xe tăng Đức bị loại khỏi trận đấu với Ý,
là những ngày nắng gió lang thang ra sân vận động cả hai ngày trời để xem bốn
trận bóng đá và rồi hét lên vì sung sướng khi được nhìn thấy những đứa con cưng
của Đức như Lahm, Müller, Neuer, Gomez tung hoành trên sân cỏ.
Hamburg trong tôi là những sáng ban mai lang thang cùng bạn
bè ở chợ cá (Fischmarkt) lúc 5h sáng. Toàn bộ thành phố chìm trong ánh đèn, những
con thuyền thường ngày chở khách đi dạo quanh cảng bây giờ cũng lặng lẽ nằm
yên. Trong lúc người bạn đi cùng loay hoay chụp hình để ghi lại những “khoảnh
khắc đẹp” đó vào trong những bức ảnh thì tôi bước lang thang và hít thở mùi
hương của đất trời, thấy lòng nhẹ tênh, những nỗi buồn không tên cũng tự nhiên
biến mất. Dòng sông Elbe đã ru tôi bằng những khúc nhạc dịu êm, tự nhiên tôi nhớ
tới bài hát Ru tình của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rồi nghêu ngao hát “Ru em
tình như lá, trăm năm vẫn quay về”. Vẫn chẳng biết sẽ “quay về đâu” trong đoạn
đường còn lại phía trước, nhưng sẽ phải đi, phải sống, phải tiếp tục yêu thương
và cố gắng. Vì mỗi ngày đều là một ngày mới…
Hamburg trong tôi là kí ức yêu thương về một người, về một
tình yêu không quá khó để bắt đầu nên cũng dễ dàng kết thúc. Chúng tôi đã đến,
đã ở lại và cuối cùng là bước qua nhau. Nhẹ nhàng và sâu lắng. Để rồi sau này
khi đã rời xa Hamburg, trong một lá thư viết dành cho Hamburg tôi đã viết: “Dù
thế nào thì em vẫn muốn nói lời cảm ơn Hambug, cảm ơn vì đã cho em một khoảng
thời gian để thương và để nhớ, cho dù một ngày nào đó em vẫn phải rời bỏ
Hamburg mà đi nhưng tất cả những gì em đã có và đang có lúc này, mãi mãi là những
dấu ấn cuộc đời mà năm tháng thời gian có thể xóa mờ nhưng vĩnh viễn chẳng bao
giờ tan biến trong trái tim.”
Hamburg trong tôi là còn nhiều lắm những nơi mà tôi chưa kịp
kể, những kí ức mà tôi không thể nào viết hết ra được. Nếu có dịp tới Hamburg,
tôi sẽ dẫn bạn lang thang hồ Alster - trái tim của thành phố, tôi sẽ đưa bạn tới
Hafen City - một trong những dự án phát triển đô thị lớn nhất châu Âu. Với diện
tích khoảng hơn 7000 héc-ta. Cảng Hamburg rộng gấp 10.000 lần sân vận động bóng
đá và cũng là trụ cột kinh tế của thành phố. Tôi cũng sẽ không quên dẫn bạn đi
dạo ở Speicherstadt với những khu nhà kho cũ nổi tiếng được xây dựng từ cuối thế
kỷ XIX và đầu thế kỷ XX (trước đây nơi này đã từng là kho lưu trữ các loại gia
vị, trà, cà phê, ca cao và đặc biệt là thảm). Trên một nóc nhà kho cũ ở
Speicherstadt này, công trình Elbphiharmonie đã được xây dựng nên. Nhân tiện
tôi sẽ nói thêm một chút về tòa nhà gây nhiều tranh cãi này. Elbphiharmonie được
bắt đầu xây dựng từ năm 2007 với ước tính ban đầu là 77 triệu euro, dự kiến sẽ
đi vào hoạt động năm 2010 nhưng do nhiều mâu thuẫn xảy ra trong quá trình xây dựng
giữa thành phố Hamburg và công ty xây dựng Hochtief mà tòa nhà này đã bị dừng
suốt tám tháng liên tục và tổng dự toán xây dựng ước tính cho đến thời điểm hiện
tại đã lên tới gần 500 triệu euro. Sau những thỏa thuận mới nhất diễn ra vào
tháng Bảy năm 2012 thì Elbphiharmonie đang bắt đầu gấp rút để hoàn thành vào
năm 2015 và trong rất nhiều cuốn sách viết về Hamburg, người ta bắt đầu nói tới
Elbphiharmonie là biểu tượng của Hamburg trong tương lai gần. Trong thời gian
thực tập cho một công ty du lịch ở Hamburg, tôi đã may mắn được vào bên trong
tòa nhà này để chiêm ngưỡng “vẻ đẹp chưa hoàn hảo” của nó, để rồi khi bước ra,
bần thần, tự hỏi: “Không biết đến bao giờ mình mới có đủ tiền để mua một căn hộ
trong đó?”
Nét duyên dáng và quyến rũ của Hamburg dường như sẽ không bao
giờ kể hết được và chắc chắn sẽ còn rất nhiều nơi ở Hamburg mà tôi không thể nhắc
tới hết được trong bài viết này của mình. Có rất nhiều điều thú vị và bất ngờ về
Hamburg mà có lẽ không phải ai cũng biết. Bạn có biết thành phố này là thành phố
cảng lớn thứ hai của châu Âu và thứ tám của thế giới? Bạn có biết trong Chiến
tranh Thế giới lần thứ hai, Hamburg đã gần như bị phá hủy hoàn toàn và toàn bộ
thành phố gần như bị chìm trong trận đại hồng thủy năm 1962 và bạn có biết
Hamburg là thành phố có nhiều cây cầu nhất thế giới? Vượt qua cả Amsterdam và
Venice?! Và nếu bạn tới Hamburg, ngoài những địa danh tôi nhắc đến ở trên, tôi
sẽ nhắn bạn dành thời gian ghé thăm một thế giới kì diệu thu nhỏ có tên là
Mininatur Wonderland. Đây cũng là một khu triển lãm trưng bày những mô hình thu
nhỏ cực kì sống động - một trong những điểm đến không thể bỏ qua khi tới
Hamburg. Nếu bạn yêu thích kĩ thuật, tôi sẽ bảo bạn tới thăm nhà máy sản xuất
máy bay Airbus, nơi lắp đặt nội thất cabin cho các mẫu máy bay như A300 và cả
A380. Bạn sẽ được chứng kiến những hình ảnh vô cùng thú vị về quy trình ra đời
của một chiếc máy bay. Ngoài ra tôi cũng sẽ không quên nhắc bạn trèo lên 452 bậc
thang của nhà thờ St. Michel để ngắm trọn vẹn khung cảnh thành phố, những không
gian xanh và những cây cầu dài, ngắn bắc qua sông. Và còn nhiều, rất nhiều những
điều khác nữa…
Tôi tới Hamburg vào những ngày cuối tháng Ba, đi dạo với một
người bạn đã sống suốt tám mùa hoa nở ở Hamburg trong một buổi chiều mà thời tiết
vừa có mưa, vừa có nắng, vừa có tuyết rơi và rời thành phố vào một ngày cuối
tháng Chín vàng ngọt nắng yêu thương. Trên chuyến tàu về lại miền quê yêu dấu,
có một người đã nắm bàn tay tôi rất chặt và trong khoảnh khắc đó tôi biết, thứ
tình cảm chúng tôi đã trao, đã dành cho nhau sẽ mãi chẳng bao giờ có thể đi đến
đâu. Nhưng tình yêu tôi dành cho Hamburg thì mỗi ngày lại một nhiều thêm…
ĐỨC: TRIER - THÀNH PHỐ CỔ NHẤT NƯỚC ĐỨC
Sau chuyến đi chơi ở Luxembourg cùng Jean Paul và cô em gái Quỳnh
Nga, khi trở về chúng tôi dừng lại ở Trier - thành phố cổ nhất nước Đức.
Trier được người La Mã xây dựng từ hơn 2000 năm trước, dưới
cái tên Augusta Treverorum. Đến thế kỉ thứ II thì thành phố này được đổi tên
thành Treveris và từ đó trở thành thành phố cổ nhất nước Đức, khác hẳn những trại
lính cũng do người La Mã lập ra cùng thời.
Trier là thành phố lớn thứ tư của Đức, thuộc bang Rheinland
Pfalz. Tại đây có rất nhiều công trình kiến trúc còn được lưu giữ như Cầu La
Mã, Cổng thành Đen (Porta Nigra), Hội trường La Mã, nhà thờ lớn, cơ sở tắm nước
nóng thời La Mã (Kaisertherme) và đây cũng là quê hương của vị lãnh tụ tài ba
Karl Marx.
Chúng tới Trier đúng vào ngày lễ hội nên cả thành phố tưng bừng
và nhộn nhịp sắc màu và âm nhạc. Tất cả mọi người đều đổ về trung tâm thành phố,
chúng tôi hòa vào dòng người và cùng chung niềm vui với họ. Các cửa hàng ăn lớn
nhỏ không chỉ của người dân bản xứ mà còn có cả Đức, Ý, Trung Quốc, Việt Nam,
Nhật đều tấp nập người ra vào. Các hoạt động văn nghệ diễn ra khắp trung tâm
thành phố với các dàn nhạc ngoài trời vui nhộn khiến Trier tươi trẻ hẳn ra.
Trung tâm thành phố
Nằm giữa dòng sông Mosel với những hàng cây trải dài hai bên
đường là trung tâm thành phố Trier. Từ Cổng thành Porta Nigra ở phía Bắc, chúng
tôi đi qua khu phố dành cho người đi bộ để tới khu chợ chính, nơi cách đó không
xa là Nhà thờ Dom sừng sững. Khu phố đi bộ được chia thành hai con đường là
Simeonstraße và Fleischstraße, rồi lại gặp nhau ở đường Nagelstraße nên người
ta đi dạo quanh trung tâm thành phố theo cung đường vòng tròn. Mỗi con đường
chính trong khu phố dành cho người đi bộ đều mang những nét đặc trưng khác
nhau. Nếu đi từ con đường Simeonstraße, người ta sẽ tới Hội trường La Mã, còn nếu
đi trên con dường Fleischstraße, bạn sẽ được ngắm nhìn rất nhiều siêu thị lớn.
Trên đường Nagelstraße tập trung rất nhiều cửa hàng nhỏ, còn muốn tìm đến những
quán ăn thì phải kể đến con đường Neustraße - con đường rất gần với tòa nhà
châu Âu và ngôi nhà đã sinh ra Karl Marx.
Chúng tôi đừng chân ở Hoàng cung La Mã, còn có tên gọi là
Hoàng cung của Vua Constantine, ngày nay là Nhà thờ Phúc Âm của Trier. Hoàng
cung này được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 4 (có lẽ là năm 310), ban đầu là nơi
đặt ngai vàng của Hoàng đế Constantine và được dùng như một phòng khánh tiết. Đến
giữa thế kỉ thứ XIX, đức vua Phổ Friedrich Wilhelm IV đã cho tu sửa lại công
trình này thành nhà thờ phái Phúc Âm, đủ chỗ cho 1.700 người ngồi. Đứng ở phía
dưới nhìn lên, chúng tôi không thể quan sát hết được toàn bộ khung cảnh của
hoàng cung này vì nó quá rộng và cao (số đo bên trong là: dài 67m, rộng 27,5m
và cao tới 33m). Sau này về đọc trên báo, tôi thấy người ta viết rằng ở đây có
thể chứa tới hai cái cổng thành Porta Nigra. Phía nam cung điện là một khu vườn
rộng lớn, được mở rộng thành một công viên chung cho tất cả mọi người từ thế kỉ
XX. Chiều buông. Hoàng hôn nhuộm những ánh nắng vàng cuối ngày trên cung điện
màu hồng trông thật lộng lẫy, phía bên dưới là màu xanh ngắt của cỏ và những luống
hoa đủ sắc màu. Tôi như thấy mình đang đi lạc vào một thế giới cổ tích.
Đối diện với cổng vào của Hội trường La Mã, leo lên bậc thang
rồi tiếp tục đi thẳng là tới cơ sở tắm nước nóng thời La Mã, còn có tên gọi tiếng
Đức là Kaisertherme. Công trình này được xây dựng vào khoảng năm 300 dưới thời
cai trị của vua Constantius Chlorus nhưng không được hoàn thành, chính vì thế
nên cũng không bao giờ được sử dụng. Tôi đã thắc mắc rất nhiều về lý do của sự
“không hoàn thành” này nhưng cho đến giờ vẫn chưa có được lời giải đáp. Ngày
nay, khi tới tham quan cơ sở tắm nước nóng còn dở dang này ở Trier, người ta vẫn
còn nhận ra dấu vết của kiến trúc La Mã qua những viên đá sáng và gạch đỏ.
Ở đây có một bức tường duy nhất còn sót lại không bị phá đi
vì trước đây nó được chọn làm cổng thành của thành phố Trier. Từ bên ngoài, người
ta có thể ngắm công trình này miễn phí nhưng nếu muốn vào trong để xem hệ thống
nước và hành lang ngầm của khu cấp nước nóng thời La Mã thì phải trả thêm vài
euro lệ phí. Trên bức tường dài là những ô cửa sổ lớn hình vòm cong rất đẹp.
Không những thế, ở đây, vào mùa hè người ta còn sử dụng những khu đất trống làm
rạp chiếu phim ngoài trời. Dù chưa tận mắt chứng kiến nhưng tôi có thể hình
dung được sự sáng tạo lãng mạn của người dân Trier.
Thánh đường cổ nhất
Băng qua con đường Simeonstraße và khu chợ chính, rẽ sang bên
trái là thánh đường Hole Domkirche St. Peter zu Trier, được xây dựng từ thời
Trung cổ. Khi đã tới Trier thì hầu như không du khách nào bỏ qua thánh đường
này, đơn giản vì nó nằm ở vị trí hết sức thuận lợi mà người ta có thể dễ dàng
nhìn thấy. Đây là nhà thờ cổ nhất của Đức, với chiều dài 112m và chiều rộng
41m, cũng là nhà thờ lớn nhất của Trier. Chúng tôi bước vào nhà thờ và cảm nhận
ngay được không khí tĩnh lặng bao trùm nơi đây. Tôi đưa máy ảnh lên để chụp
nhưng vì cũng xế chiều rồi nên nắng phản chiếu trên những ô cửa sổ bằng kính rất
khó chụp. Tôi tranh thủ ngắm những kiến trúc chạm gỗ tuyệt đẹp bên trong nhà thờ
và thấy mình thật may mắn vì đã được ghé thăm một trong những di tích lịch sử cổ
nhất thế giới. Vào mùa hè, nhất là tháng Năm và tháng Sau, ở nhà thờ này diễn
ra nhiều buổi biểu diễn, đặc biệt là buổi biểu diễn đàn đại phong cầm thế giới
được tổ chức hàng năm ở Trier.
Nằm cạnh thánh đường là Nhà thờ Liebfrauen, được xây dựng từ
thế kỉ XIII nhưng trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai đã bị phá hủy nặng nề.
Đây cũng là di sản duy nhất ở Trier không được xây dựng dưới thời La Mã nhưng
cùng với các di sản khác thì nhà thờ này vẫn được UNESCO công nhận là Di sản
văn hóa thế giới.
Cổng thành Porta Nigra
Từ nhà thờ Liebfrauen, chúng tôi băng qua những con đường và
tới Cổng thành Porta Nigra, dịch theo tiếng Latin là Cổng thành Đen bởi toàn bộ
cổng thành rộng lớn này có màu đen. Cổng thành này được xây dựng từ thời La mã
(năm 180), ngày nay, nó đã trở thành biểu tượng của thành phố Trier. Thời Trung
cổ, cổng thành này đã được xây thành nhà thờ nhưng đến khi quân đội của
Napoleon chiếm đóng thì nó lại được chuyển trở lại thành cổng thành. Leo lên
Porta, người ta có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố và đi dạo xung quanh cổng
thành ở phía trên để có thể nhìn kĩ hơn công trình kiến trúc này. Từ Porta
Nigra, chúng tôi đi dọc theo dòng sông Mosel và những con đường rợp bóng cây để
tới cầu La Mã. Cầu La Mã bắc qua sông Mosel là cây cầu cổ nhất nước Đức. Từ năm
1986, cây cầu này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Cầu La
Mã đầu tiên được làm bằng gỗ từ năm 17 trước Công nguyên, đến năm 45 sau Công
nguyên thì được thay bằng cầu đá. Cây cầu này dù đã được tu sửa nhiều lần nhưng
vẫn là một điểm đến không thể bỏ qua của Trier. Từ vị trí này, người ta có thể
ngắm dòng sông Mosel xinh đẹp lúc hoàng hôn cùng những dãy nhà lấp lánh ánh đèn
và hưởng trọn cảm giác được sống giữa thiên nhiên thời La Mã xa xưa.
Tới Trier, tôi như có cảm giác được quay trở về với lịch sử.
Dù không phải là điểm đến lý tưởng của những du khách thích phong cảnh hiện đại.
Trier vẫn được nhiều người yêu thích vẻ đẹp cổ kính tìm đến để được nhìn thấy một
thành Rome thứ hai giữa lòng nước Đức.
HÀ LAN: AMSTERDAM - MỘC MẠC, TRỮ TÌNH
Tháng năm ở châu âu vẫn đang là mùa xuân nên thời tiết còn se
lạnh. Mặc chiếc áo khoác mỏng, tôi và cô em họ lên chiếc xe buýt tới Amsterdam.
Hai đứa dựa vào nhau ngủ một giấc ngon lành cho đến khi bị đánh thức bởi tiếng
xì xào của những người đi cùng. Tôi dụi mắt và nhìn ra bên ngoài, một rừng hoa
tulip rực rỡ đủ màu sắc trải dài suốt một quãng đường dài.
Hà Lan từ lâu đã nổi tiếng với những cối xay gió và những rừng
tulip đẹp mê hồn nhưng lần đầu tiên được chứng kiến tận mắt rừng hoa đủ sắc
màu, tôi vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Cứ đi được một đoạn tôi lại thấy những cánh
đồng hoa lúc đỏ, lúc tím, lúc vàng, lúc đủ màu xen lẫn vào nhau. Những người
trông coi những rừng hoa ấy chắc phải mất công lắm khi gieo mầm trên mỗi luống
hoa, để cho những người “qua đường” như chúng tôi được ngắm thỏa thích.
Khi xe dừng lại ở trước cửa nhà ga Amsterdam, ấn tượng đầu
tiên hiện lên trong đầu tôi là “thành phố gì mà bẩn thế, toàn rác là rác”.
Không biết có phải vì đọc được nỗi thất vọng trong mắt tôi hay không, mà người
tài xế nhẹ nhàng giải thích rằng hôm qua là ngày cả đất nước Hà Lan ăn mừng
sinh nhật Nữ Hoàng của họ nên người dân từ các tỉnh đổ về ăn uống, tiệc tùng, xả
nhiều rác mà những người lao công chưa kịp dọn hết. Trên các ngôi nhà, những lá
cờ Tổ quốc vẫn đang nối đuôi nhau bay bay trong gió. Tôi liền thở phào nhẹ
nhõm.
Amsterdam làm một thành phố nhỏ nhưng rất đẹp. Có những đoạn
đường cực kỳ đông đúc nhưng mọi người rất thân thiện, không ai càu nhàu hay tỏ
ra khó chịu khi chẳng may va chạm vào nhau. Mọi người cùng tận hưởng một ngày
nghỉ thong thả. Đi dọc theo những con kênh, tôi mới thấy có lẽ người ta không
ngoa khi ví Amsterdam là Venice ở phương Bắc. Tôi không biết có mấy chục cây cầu
bắc qua dòng sông Amsel và những con kênh xanh biếc nhưng cứ đi qua một cây cầu
là tôi lại dừng lại và chụp một bức ảnh làm kỉ niệm. Những cây cầu nhìn xa có vẻ
gần giống nhau, vì bên cạnh thành cầu nào cũng toàn xe đạp là xe đạp nhưng khi
tới gần thì mỗi cây cầu lại có một vẻ đẹp riêng.
Trên những cây cầu, xe đạp dựng san sát nhau. Lúc đầu, tôi
nghĩ người ta dựng để làm cảnh nhưng hỏi ra mới biết người dân ở đây ưa dùng xe
đạp để bảo vệ môi trường. Tôi hỏi cô em gái đi cùng: “Không biết người ta khóa
xe như thế này, để qua đêm có bị mất không nhỉ?” Em tôi vu vơ đáp: “Chắc chẳng
ai lấy đâu!” Sau này, bạn tôi kể rằng chuyện mất xe đạp ở Amsterdam tuy không
là cơm bữa, nhưng cũng là cơm tuần, lúc đó tôi mới hiểu tại sao trên đường đến
nhà ga thành phố, chúng tôi lại thấy có một trụ sở trông gửi xe đạp hoành tráng
như vậy.
Có thể nói rằng, đường Dam là trục đường chính với những hình
ảnh được coi là không thể thiếu của Amsterdam. Tôi thấy một cảm giác thật dễ chịu
khi đi bộ dọc theo những ngôi nhà và những khu phố với rất nhiều cây xanh và những
con kênh bé nhỏ xinh đẹp. Những chiếc thuyền gỗ lớn nhỏ đưa du khách dạo chơi dọc
theo kênh, tôi chỉ đứng trên ngắm họ thôi mà cũng thấy thật bình yên. Dường như
tôi thấy Amsterdam sống thật chậm, chậm trong từng nhịp thở và chậm trong cả những
bước chân của kẻ đến, người đi. Một Amsterdam bình yên như thế, có lẽ chẳng ai
nỡ bước qua nhanh.
Ở Amsterdam, những ngôi nhà trông rất giống nhau, việc tìm
nhà ở đây có lẽ sẽ rất vất vả. Nhưng nếu nhìn kĩ thì mỗi ngôi nhà đều mang một
vẻ đẹp riêng, tuy nhà nào cũng có những ô cửa xinh xinh giống nhau, nhưng ban
công lại được thiết kế theo nhiều kiểu khác nhau. Nhà ở Amsterdam thường cao
nhưng rất nhỏ, tôi rất thích ngắm những ngôi nhà nằm sát bên bờ kênh.
Bảo tàng Madame Tussauds là nơi trưng bày các tượng sáp người
nổi tiếng: từ các nhân vật lịch sử, hoàng tộc đến những người nổi tiếng, ngôi
sao điện ảnh, âm nhạc, thể thao cổ đại và đương đại. Đặc điểm nổi bật là những
bức tượng này đều giống y chang bản gốc. Người ta có thể mua vé vào đây tha hồ
chụp hình, cứ như thể được đứng cạnh người nổi tiếng ngoài đời vậy. Tòa nhà này
là phiên bản của tòa nhà Madame Tussauds ở London.
Chúng tôi dừng chân ở Nhà thờ cổ Oude Kerk. Đây là nhà thờ
lâu đời nhất của Amsterdam được xây dựng từ thế kỷ XV trên cơ sở một nhà thờ nhỏ
có trước đó ba thế kỷ. Nhà thờ này bây giờ chỉ để cho khách tham quan. Điểm đặc
biệt của nhà thờ là những ô cửa sổ cao, những bia mộ, mái vòm và những vật dụng
trang trí từ thời Trung cổ. Phía dưới sàn nhà ghép bằng những tảng đá dài 2.500
huyệt mộ có khắc tên người chết hay đơn giản những con số.
Nhắc tới Amsterdam, người ta cũng không thể không nhắc đến phố
đèn đỏ - nơi được cả thế giới biết đến là khu công khai hoạt động mại dâm hợp
pháp, tồn tại từ thế kỷ XIV. Phố đèn đỏ được người Hà Lan gọi bằng tên: Gái bán
hoa ngoài cửa sổ. Đây cũng là khu vực cổ nhất ở Amsterdam. Ban ngày, cuộc sống ở
đây rất vắng vẻ, người ta không nghĩ là mình đang ở phố đèn đỏ, chỉ khi các cô
gái đứng bên cửa sổ chào hàng thì họ mới nhận ra. Càng về khuya, khu phố càng
náo nhiệt hơn, những tấm rèm bắt đầu được khép lại. Người ta không cho chụp
hình ở đây, bởi thế nên khách du lịch chỉ có thể chụp trộm nhưng thông thường
các cô gái cũng rất tinh mắt, khi họ phát hiện ra khách du lịch đưa máy ảnh lên
thì họ lủi trốn sau tấm rèm, có những cô còn phản ứng bằng cách quát tháo, chửi
bới.
Tôi trở lại Amsterdam một năm sau đó, cũng vào những ngày
tháng Tư nắng đẹp cùng người bạn thân của mình. Amsterdam vẹn nguyên như thế, vẫn
là những con kênh xanh xanh, những chiếc thuyền chở khách đi dạo, vẫn những cửa
hàng lưu niệm lớn nhỏ nối đuôi nhau với những đôi guốc gỗ thật xinh xắn. Tôi
cũng mua một đôi guốc nhỏ về làm quà cho cô em. Người ta kể lại rằng, khi xưa
người Hà Lan đi guốc để đề phòng bò dẫm vào khi đi vắt sữa và cũng để tránh cho
đôi chân khỏi bị ướt nếu phải đi qua đầm lầy. Nhưng bây giờ thì trong bất cứ cửa
hàng lưu niệm nào người ta cũng thấy những đôi guốc gỗ lớn nhỏ được trưng bày.
Thậm chí, trên những con phố lớn hay trong những vườn hoa còn có cả những đôi
guốc gỗ cực kì lớn để khách du lịch có thể ngồi vào đó để chụp hình.
Cũng trong lần trở lại Amsterdam này, chúng tôi được một người
bạn sống nhiều năm ở Leiden dẫn đi thăm vườn hoa Keukenhof. Từ Amsterdam, đi xe
lửa tới Leiden chỉ khoảng hơn 30 phút và sau đó đi xe buýt thêm một đoạn nữa là
tới vườn hoa trứ danh này. Với diện tích khá lớn nên để đi xem cả khu vườn này,
người ta có thể mất đến một ngày. Những bông hoa đua sắc màu rực rỡ nhưng nổi bật
nhất vẫn là những rừng tulip với đủ mọi sắc màu ngút ngàn. Khách du lịch cũng
có thể đi du thuyền trên những con kênh nhỏ hay thuê xe đạp để tham quan rừng
hoa ngay bên cạnh đó. Trong công viên hoa này còn có cả những ngôi nhà kính. Bạn
có thể vào đó chiêm ngưỡng những bông hoa lan nhiều màu sắc hay xem cách người
ta dạy cắm hoa. Thật đáng tiếc nếu bạn đến Hà Lan mà lại bỏ qua vườn hoa danh
tiếng này. Đôi khi, tôi cũng hay tự hỏi: “Amsterdam sẽ thế nào nếu như không có
hoa tulip?” Thật khó có câu trả lời, bởi dường như khi nhắc tới Amsterdam là
người ta nghĩ ngay đến hoa tulip và ngược lại.
Rời Amsterdam vào một buổi chiều nắng đẹp, sau những ngày
lang thang nơi ấy, tôi vẫn còn luyến tiếc thủ đô này vô cùng. Amsterdam in đậm
trong ký ức tôi về những ngôi nhà nhỏ thấp thoáng bên những con kênh xanh xanh
với những chiếc cầu thơ mộng nối đuôi nhau, những con đường với những bàn chân
bước chậm và nhẹ nhàng. Amsterdam với tôi không chỉ là thủ đô của Hà Lan mà còn
là một thành phố thơ mộng, lãng mạn và đầy quyến rũ.
HUNGARY: TỚI BUDAPEST NGẮM DÒNG SÔNG DANUBE
Tuy không có lịch chính thức là sẽ đi Budapest trong chuyến
hành trình qua Áo của mình nhưng để “chuộc tội” vì đã không làm hướng dẫn viên
cho tôi trong ngày ở Áo nên anh bạn quí hóa đã mua vé đưa tôi tới Budapest - thủ
đô kiều diễm của Hungary và là viên ngọc quý của Danube, nơi có những cây cầu
xinh xinh nối hai bờ Buda và Pest với nhau.
Chúng tôi tớt Budapest vào một ngày nắng đẹp và trong veo,
khi vừa bước chân ra nhà ga và đi thẳng trục đường chính để tới cây cầu
Erzsébet, tôi đã bị hớp hồn bởi vẻ đẹp cổ kính mà lộng lẫy của những tòa nhà
hai bên đường. Toàn bộ kiến trúc của thành phố là sự kết hợp hài hòa giữa các
tòa nhà hiện đại của một thành phố trẻ với những dinh thự lộng lẫy, những thánh
đường nguy nga và những kiến trúc La Mã còn sót lại Những kiến trúc đẹp nhất của
thành phố này đều nằm dọc theo hai bên dòng Danube. Có lẽ nhờ dòng sông xanh và
những kiến trúc độc đáo này mà Budapest trở thành một điểm đến hấp dẫn nhiều du
khách.
Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến là đỉnh đồi Gellert với độ
cao 235m, được gọi theo tên vị thánh tử vì đạo Gellert - người đã truyền bá đạo
Thiên chúa vào Hungary ở thế kỷ X. Ở dưới chân đồi, những bức tường thành bằng
đá kiên cố vẫn còn đọng lại lớp băng của những ngày mùa đông. Đường lên đỉnh đồi
có những hàng cây rất đẹp và những tảng đá lớn nằm trơ trọi khiến khung cảnh
nên thơ và lòng tôi bình yên hơn bao giờ hết. Phía trên đỉnh đồi là bức tượng Nữ
thần Tự do đang giơ hai tay nâng cao cành cọ, đó cũng là biểu tượng của chiến
thắng và tự do. Từ phía trên cao này, người ta có thể nhìn thấy Đồi Lâu đài
(Castle Hill) và toàn bộ khung cảnh phía bên dưới dòng sông Danube.
Từ phía trên đỉnh đồi Gellert đi xuống, tôi ngước nhìn lên
phía trên và thấy Đồi Lâu đài thật đẹp nên lại quyết định leo lên. Đây là nơi ở
của các triều đại vua chúa Hungary. Tại đây, vẫn còn những di tích cổ xưa và rất
nhiều đá gạch in đậm dấu vết thời gian. Khu di tích này gồm Cung điện Hoàng gia
Hungary khởi công xây dựng vào giữa thế kỷ XIII, Nhà thờ Mátyás mang tên vị vua
hùng mạnh và anh minh bậc nhất trong lịch sử đất nước này. Thư viện Quốc gia
Hungary cùng hàng loạt bảo tàng và khu triển lãm.
Đứng ở phía trên này, người ta có thể nhìn ra ngã rẽ của dòng
sông Danube khi chia thành hai nhánh. Là con sông dài thứ hai của Châu Âu và chảy
qua nhiều nước khác nhau như Đức, Slovakia, Áo… nhưng có lẽ không khúc sông nào
có thể sánh với đoạn chảy qua Budapest.
Trời đã xế chiều, chúng tôi băng qua cây cầu Széchenyi với
tên gọi tiếng Việt là cầu Xích. Đây cũng là cây cầu đầu tiên bắc qua sông
Danube, đồng thời cũng là cây cầu nổi tiếng và đẹp nhất ở Budapest. Với những dải
treo bằng sắt tựa như chuỗi xích khổng lồ, Széchenyi nối Quảng trường Roosevelt
của Pest với Quảng trường Adam Clark của Buda. Ngay ở đầu cầu, người ta đã thấy
bức tượng con sư tử không có lưỡi, anh chụp cho tôi bức hình làm kỉ niệm và
trêu: “Sau này xem lại ảnh, xem sư tử và em, ai xinh hơn” rồi sau đó bế tôi lên
trên thành cầu để chụp hình làm kỉ niệm trong khi tôi xấu hổ đỏ cả mặt khi thấy
người đi đường cứ nhìn qua nhìn lại. Có lẽ trông mặt tôi lúc đó ngố kinh khủng
nhưng anh thì mặc kệ, miễn sao anh có thể chộp được những tấm hình đẹp nhất để
tôi có “của hồi môn” cho con cháu sau này.
Khi đứng trên cây cầu và nhìn ra phía xa, tôi bảo anh: “Ở
đây, ai muốn tự tử thì chỉ cần nhảy xuống dòng sông, dòng nước xoáy rất mạnh.”
Lời nói vô tình ấy của tôi khi đó không hề có dụng ý nào, nhưng khi về và kể
cho cô bạn đồng nghiệp nghe, tôi mới biết rằng, khi xưa, người khắc bức tượng
sư tử ở trên cây cầu này cũng đã nhảy xuống sông Danube tự tử khi người ta chế
giễu ông rằng con sư tử không có lưỡi (thật ra nếu để ý kĩ thì sư tử vẫn có lưỡi,
chỉ có điều bức tượng này được đặt rất cao nên người ta khó có thể nhìn thấy lưỡi
của nó).
Khi chúng tôi băng qua cây cầu, hoàng hôn đã bắt đầu buông xuống.
Ngước nhìn lên tòa lâu đài và ngắm nhìn ánh đèn điện phía trên cao, tôi thấy một
Budapest lung linh huyền ảo. Chúng tôi dừng lại ở Tòa nhà Quốc hội bên sông
Danube. Đây là một trong những tòa nhà cổ kính nhất Châu Âu và lớn nhất thế giới
với chiều dài 268m được xây theo kiến trúc Gothic. Tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy
tòa nhà này chẳng khác gì nhiều so với Tòa nhà Quốc hội ở London mà tôi đã tới
cách đó vài tháng. Mãi sau này, tôi mới biết rằng tòa nhà này được phỏng theo
nguyên bản của Tòa nhà Quốc hội ở London. Trên dòng sông Danube, người ta thấy
bóng của tòa nhà soi trên mặt nước, nhưng lối đi chính thì không nằm ở đó mà nằm
ở bên hông quảng trường. Tôi chiêm ngưỡng vẻ đẹp về đêm của một công trình kiến
trúc đặc trưng của mọi thời đại và đã trở thành một trong những Di sản văn hóa
của nhân loại. Chắc hẳn, người dân Hungary phải rất hãnh diện vì đã lưu giữ được
một kiến trúc kiêu hãnh, hùng vĩ mà vẫn mang đậm phong cách cổ xưa như thế này.
Trời đã bắt đầu tối, hai anh em đi dạo trên những đại lộ rộng
lớn và sạch sẽ với những cửa hàng lớn nhỏ nằm hai bên đường. Mà nói đến phố xá
Budapest, phải nhắc đến đại lộ Andrássy nằm ở trung tâm thủ đô (phía bên Pest).
Hai bên đại lộ này là những quán cà phê, những viện bảo tàng, còn phía cuối đại
lộ là Quảng trường “Những người anh hùng” được xây dựng đầu thế kỷ XX với những
bức tượng của các thủ lĩnh lập quốc Hungary và các anh hùng, các vị vua lớn
trong lịch sử đất nước này. Tôi ghé vào một cửa hiệu bán đồ lưu niệm nhỏ bên đường
và được anh tặng luôn một chiếc khung ảnh một bên là hình chiếc cầu Xích và một
bên tôi có thể gắn bức hình của tôi vào để làm kỉ niệm trong chuyến đi này.
Chúng tôi lang thang trong cái lạnh ban đêm và những cơn gió mát lành thổi từ
sông vào. Dù có lạnh đến đâu, tôi vẫn muốn ra sông để ngắm lại đồi Lâu đài và những
cây cầu lung linh huyền ảo giữa màn đêm. Anh lấy chiếc máy ảnh của mình và cố
chụp lại những khoảnh khắc đẹp trong đêm của Budapest nhưng những tấm hình vẫn
không được ưng ý. Tôi đã nói với anh rằng có những khoảnh khắc mà người ta chỉ
có thể ghi lại vào kí ức mỗi khi nhớ về nó chứ không thể lưu hết lại vào trong
máy ảnh hay trong những bức hình được. Dường như hiểu được điều đó nên anh cũng
buông máy và tận hưởng khoảnh khắc dịu dàng đó.
Tôi không quá khó khăn khi nói lời tạm biệt Hungary bởi tôi
biết hành trang tôi mang trở về là rất nhiều kỷ niệm về một hòn ngọc của dòng
sông Danube xanh ngắt, một thành phố yêu kiều mà cổ điển, mang trong mình vẻ đẹp
của cả phương Đông và phương Tây. Có lẽ, người ta đã không quá lời khi gọi
Budapest là Paris Phía Đông, còn tôi, tôi gọi Budapest bằng một cái tên thật
trìu mến: Dòng sông xanh.
Sau này trong lá thư gửi cho một nửa yêu thương của mình, tôi
đã viết: “Nếu được chọn một nơi nào đó để cùng anh ngắm hoàng hôn châu Âu, em sẽ
chọn Budapest. Có thể Budapest không đẹp so với Paris, London, Vienna hay bất cứ
một nơi nào khác mà em đã từng đặt chân qua, nhưng Budapest đã cho em những khoảnh
khắc rất riêng trong cuộc đời mà em biết có lẽ sẽ còn rất lâu sau nữa em mới có
thể tìm lại được… Em yêu Budapest không phải bằng thứ ‘tình yêu sét đánh’, càng
không phải bằng thứ tình yêu đã được thời gian trải nghiệm… Em yêu Budapest bằng
một tình yêu không lời…”
LUXEMBOURG: LANG THANG LUXEMBOURG
Khi đọc trên một tờ báo mạng, người ta liệt kê ra 10 lý do nên
đến Luxembourg, trong đó có lý do Luxembourg là thủ đô văn hóa, có lâu đài ở khắp
mọi nơi, có Echternacht - thành phố cổ kính, có rượu ngon, có những nhà hàng đẳng
cấp thế giới… Đọc đến đó, tôi đã dừng lại và nghĩ tới chuyến đi của mình hồi cuối
tháng Sáu năm 2010.
Có lẽ, nên bắt đầu bằng việc “chê” một cái gì đó ở Đại Công
Quốc này trước chăng? Đó là lần đầu tiên Jean Paul lái xe đưa tôi và Quỳnh Nga
tới Luxembourg. Xuất phát từ Cologne, đi qua Bỉ và dừng lại ở Luxembourg. Việc
đầu tiên chúng tôi làm là đi ăn vì bụng đã sôi sùng sục. Nhìn thấy một nhà hàng
châu Á, chúng tôi bước vào. Tôi thề tôi không phải là người nấu ăn ngon nhưng
tôi cũng chưa bao giờ ăn món phở nào dở như ở đây, không có rau, chỉ có một cọng
hành và ba miếng thịt lõm bõm, nước phở chắc chắn là nước luộc thịt gì đó. Nga
ngửi xong liền đẩy sang trước mặt tôi và bảo: “Chị ăn đi, em không ăn đâu”, tôi
nuốt mãi cũng chỉ được vài ba miếng rồi bỏ đó, anh bạn Jean Paul gọi món thịt vịt
thì chủ nhà hàng mang ra món tôm. Nhìn thấy hai đứa chúng tôi không ăn, Jean Paul
bảo: “Đưa đây anh thử, có khi bọn em được ăn ngon quá rồi nên giờ chê”. Jean
Paul đã về Việt Nam mấy lần và còn là dân ăn phở sành điệu hơn tôi nữa ấy chứ
nên khi Nga đẩy bát phở sang, anh chàng vội vàng đẩy ra và bảo “mùi gì mà ghê
thế” làm tôi đang đói và tức cũng phải cười ngặt ngẽo. Ông bà chủ nhà người miền
Nam thấy chúng tôi bỏ mứa thì hỏi tại sao, nhưng tôi không đủ can đảm nói ra sự
thật. Khi rời khỏi nhà hàng tôi thề là sẽ không bao giờ ăn đồ Châu Á ngoài tiệm
nữa, sau đó tiến thẳng đến McDonalds ăn lót dạ.
Luxembourg nhỏ bé
Luxembourg là một đất nước nhỏ nhưng giàu có với thu nhập đầu
người luôn ở mức cao nhất thế giới. Diện tích chỉ vẻn vẹn 2.568km2, từ Bắc tới
Nam chừng 80km, từ Đông sang Tây chừng 50km nhưng đất nước này lại có rất nhiều
cơ quan nước ngoài đặt trụ sở và sử dụng cả hai thứ tiếng Đức và Pháp.
Chúng tôi tới Luxembourg vào một ngày đẹp trời và quyết định
đi dạo quanh thành phố bằng cách… đi bộ. Bởi lẽ Luxembourg nhỏ bé nên đi bộ là
cách tốt nhất để chúng tôi có thể khám phá thành phố.
Do đã đi và được ngắm khá nhiều công trình nổi tiếng ở Châu
Âu rồi nên khi tới Luxembourg, tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi ở ngay giữa trung
tâm Luxembourg mà lúc nào cũng phải leo lên leo xuống chẳng khác gì… leo núi.
Sau một ngày đi bộ rã rời, tôi mới phát hiện ra rằng thành phố này tuy nhỏ
nhưng lại được chia ra tới 24 quận, trong đó có những khu vực mà khách du lịch
thường xuyên lui tới là khu phố cổ Ville Haute (phố cao), Ville Basse (phố thấp)
và khu phố Kirchberg. Tôi cũng bất ngờ không kém khi kiến trúc ở đây không có
gì đặc sắc, từ văn phòng thủ tướng cho đến trụ sở của bộ Ngoại giao đều trang
trí một cách rất bình thường. Tôi không nhận ra được sự giàu sang ở đất nước
này hay bởi Luxembourg quá khiêm tốn? Bởi theo thống kê thì Luxembourg là trung
tâm kinh tế của Châu Âu và luôn nằm trong danh sách những đất nước giàu nhất thế
giới với tổng thu nhập bình quân đầu người là 80.000 USD mỗi năm.
Cầu đá Đại công tước Adolphe
Luxembourg dường như cố tình “giấu” vẻ đẹp của mình để khách
du lịch tự kiếm tìm và phám phá. Khi đứng ở Quảng trường Guillaume nhìn xuống
phía dưới, người ta có thể nhìn thấy thung lũng Petusse xanh ngắt với cây, hoa
và cỏ, xen kẽ đâu đó là những giọt nắng mùa hạ lấp lánh. Bắc ngang qua thung
lũng là cây cầu đá Adolphe khổng lồ với cấu trúc vòm khá đẹp. Cây cầu này nằm
giữa trung tâm Luxembourg, là Di sản văn hóa thế giới và từ lâu đã trở thành niềm
kiêu hãnh của người dân Luxembourg. Cầu Adolphe được xây dựng từ năm 1900 đến
năm 1903, cao 84m do kiến trúc sư Séjourné (người Pháp) và Paul Rodange (người
Luxembourg) thiết kế. Từ trên cây cầu này, người ta có thể thấy một bức tranh
thiên nhiên tuyệt đẹp, tôi tưởng tượng ra mùa thu ở đây phải đẹp và lãng mạn lắm
khi những chiếc lá xanh, vàng, đỏ hòa quyện vào nhau. Chúng tôi đi xuống phía
dưới thung lũng và cảm nhận được sự yên bình toát ra từ thành phố này, cuộc sống
thật mộc mạc và dịu dàng, khác xa bầu không khí ồn ào của khách du lịch ở bên
trên.
Nhắc đến Luxembourg, lẽ dĩ nhiên người ta không được phép bỏ
qua Place d’Armes. Đây là quảng trường chính ở Đại Công quốc Luxembourg, quảng
trường này được gọi là nhà khách thành phố. Khác hẳn sự trầm lặng ở thung lũng
Petusse, quảng trường này luôn nhộn nhịp bởi khách du lịch với rất nhiều nhà
hàng và quán cà phê san sát nhau, người người ngồi uống bia và rượu vang, khung
cảnh thành phố nhộn nhịp nhưng dường như tất cả vẫn tuân theo một trật tự vốn
đã có sẵn từ lâu. Chúng tôi đến đây đúng vào dịp lễ hội mùa hè của thành phố
nên tiếng nhạc được vang lên khắp mọi nơi. Luxembourg lúc ấy trong tôi không bé
nhỏ chút nào.
Lang thang ở Luxembourg trong một ngày ngắn ngủi - nơi sự
giàu sang được khéo léo giấu nhẹm đi, tôi đã biết được nhiều điều về đất nước
nhỏ bé mà không hề bé nhỏ này. Đã đôi lần, tôi tự hỏi tại sao đất nước này nhỏ
bé như thế, cũng từng bị xâm chiếm suốt bao nhiêu thế kỉ, cho đến tận Chiến
tranh Thế giới lần thứ hai vẫn còn bị xâm chiếm, mà lại có thể hồi phục nhanh
và có một tiếng nói quan trọng không chỉ ở Châu Âu mà cả trên toàn thế giới đến
vậy. Để lý giải được điều này sẽ mất rất nhiều thời gian nhưng có lẽ những quyết
định đúng đắn của chính phủ Luxembourg cũng như phong cách giáo dục và làm việc
chính là yếu tố đưa đất nước này đi lên từ nghèo khó. Theo một thống kê về số
lượng người nói được hai ngôn ngữ ở Châu Âu thì Luxembourg bé nhỏ chiếm vị trí
đầu tiên với 99%. Lúc đó tôi thầm ước: Giá như Việt Nam mình…
PHÁP: PARIS - THỎA NIỀM MƠ ỨỚC
Tôi có một người bạn sau khi xem xong những bức hình tôi chụp ở
Paris về đã nói với tôi rằng mơ ước lớn nhất của bạn ấy là được một lần đến với
Paris, được một lần chạm tay vào tháp Eiffel, được đi trên Đại lộ Champs Elysee
và được thưởng thức những món ẩm thực Pháp tuyệt vời. Lúc đó tôi đã mỉm cười. Bởi
nhiều năm về trước, khi còn là cô nữ sinh ngồi dưới mái trường phổ thông trung
học ở Đức và học tiếng Pháp suốt sáu bảy năm trời, tôi cũng mơ một ngày được đặt
chân đến thành phố Paris phồn hoa và tráng lệ này. Những mãi đến mùa thu năm
2009, Mắm Tôm mới giúp tôi thực hiện được ước mơ của mình khi cùng tôi rong ruổi
giữa nắng gió Paris.
Sau này khi đã đi qua hết những con đường trong những giấc mơ
của mình, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ về Paris. Tôi nhớ buổi sáng đầu tiên, khi ăn
xong bữa sáng, tôi nhất định đòi Mắm Tôm dẫn ra cây cầu Mirabeau, chỉ vì năm lớp
12 trong giờ học tiếng Pháp, cô giáo cho chúng tôi đọc và phân tích bài thơ Le
Pont Mirabeau của Apollinaire. Tôi đã ấn tượng với Mirabeau từ đó, ấn tượng về
một mối tình buồn, ấn tượng với cách ví von về tình yêu của tác giả để rồi nhận
ra rằng trên đời này thật ra chẳng có gì là tồn tại mãi mãi. Tất cả đều trôi đi
theo dòng chảy của thời gian, chỉ có kỉ niệm là ở lại. Như là mối tình xưa đó của
ông, dù đã qua rồi nhưng có một điều gì hình như vẫn sống.
Tôi nhớ cả những ngày lang thang ở Quảng trường Concorde nằm ở
đầu đại lộ Champs Élysées có cột đá Obelisque ở giữa trung tâm. Nghe nói đó là
món quà mà vương quốc Ai Cập đã tặng cho nước Pháp vào năm 1831. Từ quảng trường
này, đi qua khu vườn Tuileries là đặt chân tới đại lộ Champs Élysées - con đường
mà hơn 60 triệu người Pháp cho rằng đó là con đường đẹp nhất thế giới. Đại lộ
này được bao bọc bởi một không gian xanh với những hàng cây nối dài. Cái cảm
giác được ngồi trong quán cà phê nhâm nhi, ngắm nhìn dòng người qua lại tạo nên
một mùa thu Paris vô cùng quyến rũ.
Tôi nhớ cảm giác trèo qua mấy trăm bậc thang để leo lên Khải
hoàn môn (Arc de Triomphe). Với độ cao 111m, từ phía trên này bạn có thể ngắm
những kỳ quan của Paris từ nhiều hướng. Phía Bắc là thánh đường Sacre Coeur,
phía Nam là điện Panthéon, phía Đông là nhà thờ Đức Bà Paris và phía Tây là
tháp Eiffel. Thật khó để diễn tả được cảm giác lâng lâng khi thả lỏng mình giữa
toàn cảnh Paris và tôi nhận ra rằng nơi đây cũng có những góc nhìn xuống Paris
rất đẹp chứ không nhất thiết phải xếp hàng mấy tiếng đồng hồ để trèo lên tận
tháp Eiffel mới có thể chiêm ngưỡng Paris như hàng trăm bạn trẻ khác ngoài kia
đang làm. Khi chúng tôi chạm đến bậc thang cuối cùng, Mắm Tôm vừa đi vừa giảng
giải cho tôi về lịch sử: “Khải hoàn môn này được Napoleon quyết định xây để
vinh danh quân đội, ngay dưới nơi này có một vị trí nhỏ dành để tưởng niệm một
chiến sỹ vô danh người Pháp đã hy sinh trong trận chiến.”
Tôi thậm chí nhớ cả cái mùi tàu điện ngầm ở Paris trong những
ngày lang thang nơi đó. Kì lạ chưa! Nếu như London có một hệ thống tàu điện ngầm
lâu đời nhất và Copenhagen có hệ thống tàu điện ngầm vô cùng hiện đại thì Paris
lại là nơi có hệ thống tàu điện ngầm dày đặc nhất thế giới. Khi đã ngồi trong
tàu điện ngầm thì người giàu, kẻ nghèo tất cả đều như nhau. Bạn có thể gặp một
người rách rưới hoặc bạn cũng có thể “chạm trán” một doanh nhân.
Và tất nhiên, tôi nhớ cả những khu vườn Paris rực rỡ sắc màu
hoa với những buổi chiều cùng Mắm Tôm đi dạo. Tôi nhớ khu vườn Tuileries, nhớ cả
những chiếc ghế bên cạnh vòi phun nước mà tôi đã ngồi đó cả giờ đồng hồ, không
chịu nhấc mông đứng dậy đến nỗi Mắm Tôm phải thở dài ngao ngán. Tôi nhớ cả khu
vườn Luxembourg đẹp ơi là đẹp, với những hàng cây xanh thẳng lối được cắt tỉa rất
công phu, với những công trình điêu khắc nằm rải rác, với những vườn hoa đủ màu
xanh đỏ tím vàng, thế mà trong buổi sáng sớm tinh mơ khi lang thang trong đó,
tôi chỉ toàn nhìn thấy những cô gái, những cậu trai nằm trên thảm cỏ đọc sách,
ôn bài. Tôi như thấy mình đang sống lại tuổi 15 thuở nào, nhớ lại những câu thơ
mình từng viết trong mùa thu cũ cho một người bạn đặc biệt học cùng lớp năm
xưa:
“Có phải vì anh
Hay là vì em
Mà tình yêu trở thành dang dở
Hay lỗi tại mùa thu
Đưa chúng mình cách xa?”
Từ Khải hoàn môn, chúng tôi đi theo con đường dẫn về tháp
Eiffel. Trên đường đi, tôi hỏi Mắm Tôm: “ Đố anh biết tại sao tháp lại có tên
là Eiffel?” Anh chàng nhìn tôi rồi buông một câu mà không buồn suy nghĩ: “Anh
không biết!”. Thế là tôi thao thao: “Này nhé, tháp Eiffel được lấy tên từ người
kỹ sư Gustave Eiffel bởi ông là người đã phát minh ra ý tưởng này, nhưng người
biến ý tưởng này thành hiện thực lại là một người khác. Dẫu vậy người ta vẫn biết
ơn người đã sáng lập ra công trình này và đặt luôn tên ông thành tên tháp.” Mắm
Tôm sau khi nghe tôi “thuyết trình” xong quay sang tôi hỏi: “Em đọc khi nào và
đọc ở đâu thế?” “Hi hi, đọc trên tàu hôm qua khi anh ngủ và đọc trong cuốn sách
du lịch anh mua đấy.”
Khi đặt chân mình bên cạnh tháp, lòng tôi mang một cảm giác rất
bồi hồi. Xung quanh là khách du lịch với đủ mọi màu da, những đôi tình nhân tay
trong tay lặng lẽ trao cho nhau những nụ hôn nồng ấm. Tôi chọn cho mình một góc
khuất, đứng ở đó và nguyện cầu cho mình, cho tất cả những người trên thế gian
này sẽ yêu và được yêu. Vì suy cho cùng thì, như Trịnh Công Sơn nói “cuộc sống
không thể thiếu tình yêu”, vì đó là thứ làm cho ta hạnh phúc nhất mà cũng đau
khổ nhất. Bất chợt tôi nhớ tới mối tình mong manh như gió thoảng đã qua của
mình để rồi nhận ra rằng hình như mình vẫn còn đang giữ một tình yêu không có
thực.
Dòng cảm xúc trôi theo những bước chân đưa tôi tới Notre
Dame, ánh nắng chiếu vàng óng hắt lên tháp đôi. Trong khi Mắm Tôm mải mê chụp ảnh,
tôi chăm chú đứng nhìn dòng người qua lại, các lớp người từ trẻ đến già, từ Á đến
Âu nô đùa, thư giãn, ngắm nhìn những trò thú vị trên cầu. Trẻ em thì cho chim
ăn, những đàn bồ câu bay phấp phới giữa bầu trời. Tự nhiên tôi nhớ tới tuổi thơ
của mình, nhớ tới tuổi thơ của những em nhỏ ở miền quê lam lũ. Có lẽ, ước mơ của
chúng chẳng phải là một lần đặt chân đến Paris để cho bồ cầu ăn đâu, ước mơ của
chúng giản dị và bình thường lắm: Thoát khỏi đói nghèo thôi! Tôi kể cho Mắm Tôm
nghe điều đó, anh quay sang nhìn tôi bảo: “Em lạ thật, đi chơi thì tận hưởng
đi, sao cứ nghĩ về những điều đó. Thương chúng thì làm điều gì đó sau này cho
chúng chứ không phải là nghĩ tới chúng bây giờ.” Tôi lủi thủi bước sau anh rồi
“gạ” anh về quận 13 ăn phở. Nghe nói ở đó nổi tiếng với ẩm thức Việt Nam. Là một
người yêu đất nước Việt Nam và cũng đã từng đến Việt Nam vài lần, rồi phải lòng
với Phở, với Bún Chả nên khi nghe tôi đề nghị đi ăn tối ở quận 13, anh chàng hưởng
ứng nhiệt liệt và mời tôi luôn bữa tối hôm đó. Chúng tôi đáp tàu điện ngầm tới
nơi mà người Paris hay gọi là “phường Châu Á” và ghé vào một quán ăn với tấm biển
là nhà hàng Việt Nam, nhưng lại không hề có một người Việt nào. Mỗi đứa gọi một
tô phở với vài ba miếng thịt và mấy lọn rau thơm. Khi người phục vụ đặt tô phở
lên trước mặt mà tôi vẫn chẳng thấy mùi thơm bốc lên như hồi còn được ăn ở Việt
Nam. Nhưng vì đói nên cả hai vẫn cắm cúi vào ăn, ăn xong anh chàng phàn nàn về
đồ ăn ở đây, nào là anh đã ăn phở ở nhiều nơi nhưng không nơi nào có thể sánh bằng
phở vỉa hè ở Việt Nam. Tôi cũng thất vọng không kém gì anh, có lẽ tôi đã quá ảo
tưởng khi phải đòi hỏi rằng cái quận 13 danh tiếng ở Paris ấy phải thật hoàn hảo
với những món ăn đậm chất Việt Nam và sự sạch sẽ trong nhà hàng ở Pháp. Tôi hỏi
đùa Mắm Tôm rằng nếu một dịp nào đó trở lại Paris, anh có ghé lại quận 13 để ăn
một tô phở Việt Nam nữa không, anh tủm tỉm cười thay cho câu trả lời và tôi hiểu
sự im lặng đó nói lên điều gì.
Ngày cuối cùng ở lại Paris, chúng tôi tới thánh đường Sacré
Couer nằm trên đồi Montmartre. Phải leo lên mấy trăm bậc thang tôi mới lên được
phía trên này, những con đường dốc trải dài, những ngôi nhà cổ kính đẹp như
tranh. Sacré Couer là nhà thờ Thiên Chúa giáo nổi tiếng ở Paris với cấu trúc rất
đẹp và công bằng mà nói, nơi đây mới chính là trái tim của Paris. Tôi yêu những
giờ phút ngồi trên những bậc thang hay những thảm cỏ nhắm mắt và đắm chìm trong
những giai điệu của những người nhạc sĩ vô danh bên đường phố hay đơn giản là
lang thang đi xem những nghệ sĩ vẽ tranh đường phố ở Quảng trường Tertre nằm
ngay sau Sacré Coure. Chiều tàn chúng tôi dành thời gian ngắm nhìn Paris ở một
góc khác, nơi không có chỗ cho sự sành điệu nữa mà là những mảnh đời trái ngược
khiến tôi thẫn thờ và trở nên suy tư hơn.
Tôi rời Paris vào một chiều nắng đẹp với bao ý nghĩ ngổn
ngang. Cuối cùng thì tôi cũng đã thực hiện được ước mơ được đặt chân tới kinh
thành ánh sáng một lần. Trong đầu tôi hiện ra câu hỏi của Mắm Tôm khi chúng tôi
cùng đi dạo, anh đã hỏi tôi rằng: “Nếu được lựa chọn, em có muốn sống ở Paris
không?” Tôi đã đăm chiêu rất lâu rồi bảo đùa anh: “Vứt em ở đâu em cũng sống được
mà.” Ừ, thì đúng là như thế nhưng nếu phải chọn một nơi để sống đến cuối đời,
có lẽ tôi sẽ không chọn Paris. Bởi tôi không thích những ngày dài đi đâu cũng
phải chui vào tàu điện ngầm, có những đoạn bạn có thể chiếm ba, bốn ghế cho
riêng mình, có những đoạn người chen chúc nhau đến nỗi bạn không thể cựa hay
nhúc nhích thêm một bước nào được nữa. Tôi không thích lắm cái hối hả triền
miên và quá nhiều những mảnh đời trái ngược nhau ấy. Khác với Berlin hay những
thủ đô khác của Châu Âu, sự giàu nghèo ở Paris được phân chia một cách rõ rệt.
Tôi đã từng lạc vào một khu phố giàu có với những chiếc đồng hồ giá hàng trăm
nghìn euro để rồi tần ngần vì mình… nghèo kiết xác mà cứ lân la tới đó. Nhưng rồi
khi lạc vào một khu phố nghèo, nơi mà mỗi chủ nhật người ta bán đồ second hand
dưới gầm cầu, thậm chí một cái áo rách hay một cái thắt lưng đã ngả màu cũng được
đem ra để… bán đấu giá, để rồi lúc đó tôi chợt nhận ra rằng mình đang là một
con người giàu có.
Ở Paris, mọi thứ đều có thể, người giàu sống được thì người
nghèo cũng bám trụ được. Cơ hội làm giàu và được dấn thân ở thủ đô kiều diễm
này khá cao, nhưng nếu bạn chỉ là một người bình thường hay nghèo khổ bạn cũng
có thể tồn tại. Đối với nhiều người, tồn tại là được sống. Thế là đủ. Nhưng đối
với tôi thì khác! Ừ thì là sống, nhưng sống như thế nào mới là điều quan trọng.
Tôi sợ một cuộc sống bon chen, đắt đỏ và cũng không đành lòng nhìn những người
vô gia cư nghèo khổ mà ở bất cứ ngõ ngách nào ở Paris mà mình cũng có thể nhìn thấy.
Nhưng tôi vẫn thích được trở lại Paris, được thả mình trong những khu vườn, được
đứng trên những cây cầu bắc qua dòng sông Seine hiền hòa để cảm nhận được sự
yên bình toát ra trong tâm hồn bé nhỏ. Nhiều người bảo tôi yêu văn thơ nên tâm
hồn lúc nào cũng treo ngược ở trên mây. Biết làm sao được, miễn biết chân mình
đang chạm ở dưới đất là được mà, có phải không Paris?
PHẦN LAN: HELSINKI - ĐI RỒI NHỚ
Tôi có mấy người đồng nghiệp Đức đi Bắc Âu về khen lấy khen để
Stockholm và Oslo, nhưng khi tôi hỏi về Helsinki họ đều lắc đầu và bảo chưa đi
vì “thành phố đó không có gì đặc biệt.” Thật ra nếu chưa đi mà đánh giá như vậy
thì tôi thấy oan và tội nghiệp cho Helsinki quá, vì mỗi người đều có tiêu chuẩn
riêng cho những điều mà họ cho là đặc biệt. Dẫu vậy, tôi vẫn không dám kỳ vọng
quá nhiều vào thành phố này và tới Helsinki không bằng tất cả niềm háo hức,
nhưng khi trở về, lại da diết nhớ mong.
Helsinki vào những đầu tháng Chín, thời tiết rất đẹp và vô
cùng dễ chịu. Nắng trải dài trên những vòm cây và nước lóng lánh một màu óng ả.
Helsinki đẹp, cái đẹp dịu dàng của một cô thôn nữ, không kiêu sa mà vẫn nồng
nàn. Những ngày ở đây, tôi may mắn có được sự quan tâm, yêu thương và quý mến của
Sara, Thảo và Dung. Dù mới chỉ gặp tôi lần đầu nhưng những cô gái Hải Phòng tốt
bụng ấy đã đón tiếp tôi bằng tất cả sự chân thành. Sara thậm chí còn xin nghỉ
việc suốt cả một tuần để đưa tôi đi chơi, nào là Helsinki, Tampere, Turku,
Tallinn… Sau này khi về lại Đức, thỉnh thoảng tôi vẫn thường hay ngồi một mình,
nhớ lại và mỉm cười về những ngày tươi đẹp ở đất nước phương Bắc ấy.
Tôi nhớ những buổi chiều cùng Sara hẹn hò với Vy và Nhàn rồi
cùng nhau lang thang trên những con phố trải dài ở Helsinki, ghé thăm Nhà thờ
Trắng - biểu tượng của thành phố, được thiết kế bởi kiến trúc sư người Đức Carl
Ludwig Engel. Bên trong nhà thờ tương đối giản dị và không có nhiều bố cục đặc
biệt như những nhà thờ mà tôi thường thấy ở các thành phố Châu Âu khác nhưng
màu trắng phía bên ngoài đã tạo nên nét nổi bật của nhà thờ này. Ngay cạnh nhà
thờ là Quảng trường Senaatintori, vào những ngày nắng đẹp mọi người tập trung ở
đây khá nhiều. Dường như từ lâu nơi này đã là điểm hẹn của khách thập phương,
ngay giữa quảng trường là Đài tưởng niệm Sa hoàng Alexander II, người có công rất
lớn đối với Phần Lan. Bằng những cải cách của mình, ông là người đã cho ra đời
tiền tệ riêng cho đất nước Phần Lan cũng như đưa tiếng Phần Lan thành ngôn ngữ
quốc gia ngang hàng với Thụy Điển. Để tỏ lòng biết ơn ông, người Phần Lan đã
cho xây dựng đài tưởng niệm ngay ở quảng trường Senaatintori vào năm 1894 - 13
năm sau ngày ông bị ám sát.
Cách Nhà thờ Trắng không xa là Nhà thờ Đỏ (vì được xây bằng gạch
đỏ) có kiến trúc bên trong tuyệt vời với những trụ cột đá được làm bằng đá
granite vàng. Vào thời điểm xây dựng nhà thờ này, nó là biểu tượng về sự thống
trị của Nga trên đất nước Phần Lan và đây cũng là nhà thờ Thiên Chúa giáo lớn
nhất Tây Âu. Chúng tôi đi dạo dọc quanh Nhà thờ Đỏ, nhìn xuống bến cảng với những
chiếc thuyền bé nhỏ xinh xinh nằm phơi mình trong nắng rồi rẽ vào khu chợ trời,
thưởng thức món Kalalautanen. Đây là một trong những đặc sản phổ biến ở
Helsinki, có rau, khoai tây chiên ăn kèm với hai món cá Muikku và Lohi. Sara và
tôi gọi chung một đĩa mà vẫn ăn không hết mặc dù rất ngon. Lúc đó tôi không hiểu
tại sao ngày xưa ông Tổng thống Pháp Jaques Chirac lại “hết lòng” chê ẩm thực của
Phần Lan đến nỗi người Phần Lan tự ái và “không thèm” bỏ phiếu cho Pháp trong
cuộc tranh cử quyền đăng cai sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh năm 2012 và
Anh đã thắng cuộc trong lần tranh cử ấy.
Có một điều ở Helsinki khiến tôi rất thích đó là thành phố
này có rất nhiều đảo, mỗi một hòn đảo đều mang một vẻ đẹp riêng nhưng nổi bật
nhất vẫn là đảo Suomenlinna. Chỉ cách Helsinki 15 phút đi thuyền, Suomenlinna
là một pháo đài rất lớn do người Thụy Điển xây dựng từ năm 1784 để bảo vệ trước
sự tấn công của Nga vì lúc đó Phần Lan vẫn còn là một phần của Thụy Điển. Khắp
quần đảo đều tràn ngập màu xanh của cây cối, mọi người có thể cắm trại, nướng
thịt, tắm nắng hay chỉ đơn giản là nằm thư giãn đọc sách trong không gian thơ mộng.
Ngoài những căn hầm còn sót lại ở đây, Suomenlinna còn là nơi lý tưởng để chụp ảnh
cưới của các bạn trẻ.
Những giọt nắng đầu tháng Chín ở Suomenlinna không quá gay gắt,
tôi thả lỏng mình trôi theo những dòng nước đang cuộn chảy phía dưới rồi trèo
lên những mỏm đá hoang sơ. Những bông hoa vàng nằm sát trên triền cỏ dường như
cũng đang cố khoe vẻ đẹp của mình trước biển. Phía dưới chân tôi, sóng lặng lẽ
vỗ về bên triền cát, tôi khẽ mỉm cười, chợt nhớ tới bài thơ viết hồi 23 tuổi
khi ví mình là cát, còn người yêu là sóng với lời nhắn nhủ thiết tha, chân
thành:
“Biển chiều vẫn hát
Khúc nhạc đồng giao
Ơi sóng dạt dào
Chớ đừng tan nhé…”
Nhưng cuối cùng anh vẫn tan và trôi về với biển, để lại tôi -
một hạt cát mong manh, bé nhỏ giữa đời…
Nếu Suomenlinna là hòn đảo được cho là hấp dẫn nhất Helsinki
thì Seurasaari cũng khoác lên mình một vẻ đẹp cũng không kém phần sang trọng. Đảo
này nối với đất liền bằng một cây cầu trắng dài 200m và chỉ có chuyến xe buýt
thứ 24 đi từ trung tâm tới nơi này. Khi dạo trên hòn đảo này tôi có cảm giác
như mình đang đi trong một cánh rừng thu nhỏ vì cây cối ở đây khá nhiều và chỉ
có hai bãi tắm. Người dân ở Helsinki tới đây chạy bộ nhiều, khách du lịch hầu
như là rất ít nên đôi khi tôi có cảm giác Seurasaari giống như một hòn đảo
hoang sơ, nhưng nó lại là chốn bình yên cho những ai thích lặng lẽ giữa biển trời
thiên nhiên.
Có một điều không chỉ ở Helsinki nói riêng mà cả Phần Lan nói
chung, đó là đất nước này luôn luôn sử dụng song hành hai thứ ngôn ngữ là tiếng
Phần Lan và tiếng Thụy Điển. Trong trường học, học sinh Phần Lan học tiếng Thụy
Điển, trên đường phố thì các biển chỉ dẫn cũng đều bắt buộc phải có tiếng Thụy
Điển ngay bên dưới tiếng Phần Lan mặc dù chỉ có 5% số lượng người Phần Lan sử dụng
ngôn ngữ này. Trong khi đó ở Thụy Điển thì họ chỉ sử dụng ngôn ngữ của đất nước
họ mà thôi. Tôi đem thắc mắc này ra hỏi Sara thì được cô bé trả lời rằng trước
đây một phần của Phần Lan bị lệ thuộc vào Thụy Điển, tiếng Phần Lan khi đó chỉ
là ngôn ngữ thứ hai, rất nhiều trẻ em Phần Lan sinh ra và lớn lên ở đó đều phải
học tiếng Thụy Điển, sau này khi Phần Lan giành được độc lập, người Phần Lan vẫn
muốn tiếp tục sử dụng tiếng Thụy Điển để nếu các em ấy có “tìm về cội nguồn”
thì cũng sẽ đỡ vất vả.
Những ngày ở Helsinki là những ngày thú vị trong chuyến đi Bắc
Âu của tôi, tôi sẽ không quên những ngày lang thang trên đảo, những chuyến tàu
giữa Tampere - Helsinki - Turku. Nói đến Tampere và Turku, đó là hai thành phố
tương đối lớn ở Phần Lan nhưng tôi chưa thấy cái sân bay nào bé như sân bay
Tampere đến nỗi tôi nói đùa với Sara rằng nếu ai sợ lạc ở sân bay thì phải đến
Tampere. Còn Turku là thành phố nằm bên bờ sông Aura trước đây là thủ đô của Phần
Lan và cũng là thành phố cổ nhất đất nước này, được mệnh danh là thành phố văn
hóa Châu Âu năm 2011 nhưng không hiểu sao, tôi vẫn thấy Helsinki là đẹp nhất.
Ngày cuối cùng trước khi tạm biệt Helsinki, Sara dẫn tôi đi tắm
hơi. Đây là điều bắt buộc làm khi tới Phần Lan. Thật ra trong khu nhà của Sara
cũng có một phòng tắm hơi dành cho những người dân sống trong khu nhà trọ đó,
nhưng do phải đăng kí giờ trước nên Sara đưa tôi ra trung tâm luôn vì sau đó
chúng tôi có hẹn với gia đình Việt. Người con dâu xứ Thanh ấy đã đãi chúng tôi
món phở Nam Định ngon tuyệt vời mà sau này mỗi lần nghĩ lại tôi vẫn nhớ. Đôi
khi người ta yêu một mảnh đất nào đó không nhất thiết vì phong cảnh, mà có khi
là tình người ấm áp, và đó cũng là một trong những lý do khiến tôi thấy
Helsinki luôn xa mà gần trong kí ức.
Tôi rời Helsinki vào lúc 6h sáng để kịp cho chuyến tàu sang
Tallinn, ngồi trên chuyến xe buýt về bến cảng, nhìn những sợi nắng ban mai phủ
trên những ngôi nhà và lấp lánh trên biển, tôi thấy nhớ Helsinki cồn cào dù thời
điểm ấy tôi vẫn chưa thực sự rời xa Helsinki. Trước khi tới Helsinki, bạn tôi bảo:
“Hết chỗ đi rồi hay sao mà qua xứ ấy?” nhưng qua Helsinki rồi, tôi mới biết
mình đã không sai khi đặt chân tới nơi này. Nắng, gió và mùi hương của biển
cùng những tiếng cười trong vắt của những người bạn nơi này sẽ còn in đậm mãi
trong kí ức của tôi.
SÉC: PRAHA - XỨ SỞ TÌNH YÊU
Khi tôi nói với Kristina - cô bạn người Đức của mình rằng tôi
sẽ qua Praha trong kỳ nghỉ, Kristina đã trầm trồ khen: “Praha cổ, đẹp và thơ mộng
lắm đó. Nhớ ghé thăm Cầu Tình nữa nha.” Tôi mỉm cười, bởi đã từ lâu tôi luôn kì
vọng một Praha như thế, nơi mà lẽ ra tám năm về trước tôi đã đặt chân tới đó nếu
không quá sợ say xe trong những ngày đầu ở Châu Âu.
Là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Cộng hòa Séc,
Praha được biết đến như một thành phố vàng với cây Cầu Tình Charles mộng mơ bên
dòng sông Vltaya. Thành phố này vẫn giữa được nguyên vẻ đẹp cổ xưa với những
công trình kiến trúc độc đáo và được công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào
năm 1992. Khi tới Praha, điều đầu tiên khiến tôi ngạc nhiên là thành phố này có
nhiều người Việt nhất trong tất cả những thành phố châu Âu tôi từng đặt chân đến.
Anh bạn người Việt tôi gặp ở Munich hiện đang sống ở Praha cũng nói cho tôi biết
rằng có lẽ ở Châu Âu, cộng đồng người Việt tập trung nhiều nhất ở Séc và Praha
chỉ là một ví dụ điển hình. Người Việt ở bên này phần lớn kinh doanh và buôn
bán, chợ Sapa ở Praha và các chợ vùng ven biên giới Đức từ lâu đã trở thành “mảnh
đất của người Việt” ở đây.
Quảng trường Wenceslas
Quảng trường Wenceslas còn có tên gọi khác là Quảng trường
Dân chủ. Quảng trường này được đặt theo tên của vị thánh đỡ đầu của xứ Bohemia
- Saint Wenceslas và nằm ngay ở trung tâm Praha, đây là nơi chứng kiến những
thăng trầm lịch sử của Séc. Nằm trên quảng trường là tượng thánh Wenceslas và
bia đá của hai người thanh niên trẻ mà mãi sau này khi trở lại Đức tôi mới biết
đó là hai chàng sinh viên đã hi sinh cuộc đời mình để chống lại Chủ nghĩa Cộng
sản Liên bang Xô Viết.
Từ quảng trường này, người ta có thể nhìn thẳng xuống đại lộ
Václavské Náměstí với rất nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, đặc biệt là pha lê,
các quán bar, các tiệm ăn, khách sạn. Chúng tôi tới Praha đúng vào ngày tổ chức
trình diễn nhạc dân ca thế giới và tất nhiên chúng tôi đã không bỏ lỡ cơ hội
này dừng chân lại cùng những du khách nước ngoài khác, lắng nghe những giai điệu
dân ca từ Ba Lan, Áo, Đức…
Nằm ngay ở quảng trường này là tòa thị chính nổi tiếng với
chiếc đồng hồ thiên văn được chế tạo từ năm 1410. Điểm nổi bật thu hút khách du
lịch ở đây là mỗi một giờ, các bức tượng sẽ cử động và khi tới 12h thì sẽ có 12
vị tông đồ nối nhau đi từ hai cửa ra phía trước. Ngoài ra, trong trung tâm này
còn có đài tưởng niệm của một vị anh hùng người Séc có tên là Jan Hus - người đã
bị thiêu sống khi không chịu bỏ tư tưởng tôn giáo cấp tiến của mình.
Cầu Tình Charles
Đi qua những khu phố cổ, dần dần chúng tôi cũng tới được cây
cầu Charles mà người Việt Nam vẫn hay gọi là Cầu Tình. Ở Praha có rất nhiều cầu
bắc qua dòng song Vltava nhưng Cầu Tình vẫn là nơi thu hút nhiều du khách nhất.
Riêng tôi lại thích ngắm Cầu Tình từ những cây cầu khác hơn.
Cầu Tình là cây cầu bằng đá lâu đời nhất châu Âu bắc qua dòng
sông Vltava, nối hai quận Malá Strana và Staré Město với nhau và được xây dựng
từ thế kỉ XIV mang tên Hoàng đế Kar IV. Cầu Charles dài chừng hơn 500m và rộng
khoảng 9m, cầu này chỉ dành cho người đi bộ, bởi thế nên khách du lịch kéo tới
đây nườm nượp. Tôi không đếm hết được những bức tượng ở trên cầu nhưng ngó qua
cũng phải cỡ 30 bức tượng lớn nhỏ khác nhau của những danh nhân Séc gắn liền với
từng giai đoạn lịch sử của đất nước này. Nổi bật nhất vẫn là bức tượng của
Thánh Nepomuck mà người ta vẫn truyền miệng rằng nếu chạm vào chân bức tượng
đó, bạn sẽ có cơ hội quay trở lại Praha. Không chỉ có vậy, dọc hai bên đường có
vô số những sạp bán đồ lưu niệm, tranh ảnh, đồ trang sức và những món quà bằng
gỗ, bằng đá rất dễ thương. Những người họa sĩ và nhạc sĩ đường phố cũng có dịp
trổ tài ở đây. Cứ đi được một đoạn lại có một “người mẫu” làm dáng trước những
nét vẽ mềm mại, tôi cũng đã định bỏ ra 30 euro để lưu lại bức chân dung của
mình nhưng vì phải đợi quá lâu, mà bàn chân thì cứ muốn bước tiếp nên đành lỡ hẹn
với người họa sĩ đường phố nơi đây.
Cầu Charles đẹp và lãng mạn nên cũng dễ hiểu khi nhiều đôi
tình nhân chọn nơi này để chụp ảnh cưới. Từ trên cầu, người ta có thể ngắm nhìn
Cung điện Hoàng Gia, Nhà thờ thánh Vitus và cả những ngôi nhà mái đỏ nhấp nhô
phía xa xa. Dòng song Vltava lặng lẽ trôi, những đàn chim cứ sải cánh, những
chú vịt trời cũng lang thang như đã quen với sự có mặt của du khách, những công
trình kiến trúc soi mình dưới bóng nước. Lướt nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều
đôi uyên ương đang đứng hôn nhau. Tôi không ghen tị với hạnh phúc của họ, bởi
phút giây đó tôi cũng hạnh phúc. Có phải vì thế mà nơi đây đã được gọi là cầu
Tình.
Thành cổ Praha
Rời cầu Charles, chúng tôi rảo bước tới thành cổ Praha. Những
con đường ở đây khá dốc. Thành cổ nằm trên một khu đồi cao nên khi lên tới đây,
người ta có thể nhìn thấy xuống toàn bộ phía dưới. Khung cảnh Praha lúc xế chiều
đẹp vô cùng.
Thành cổ là công trình kiến trúc đẹp và cổ kính nhất Praha và
cũng là cái nôi của lịch sử thủ đô, bởi đây từng là nơi trú ngụ của hầu hết các
vị vua ở đất nước này. Ngày này, thành cổ vẫn là nơi diễn ra những hoạt động
kinh tế, xã hội và chính trị ở Séc. Lâu đài Praha nằm ở trong khu thành cổ là
biểu tượng của thành phố và cũng là tòa lâu đài vĩ đại của châu Âu. Đó là một
quần thể kiến trúc rộng tới 45 ha với nhiều tháp, nhiều công trình như Nhà thờ
St. Vitus, St. George, Cung điện Tây Ban Nha, Vườn hoa mùa hè Hoàng Gia… Mỗi
công trình đều có vẻ đẹp và những câu chuyện lịch sử riêng. Tôi không biết nhiều
về lịch sử Séc, chỉ nhớ là đã từng đọc trong một cuốn sách rằng: Công tước
Borivoj I là người đã cho khởi công xây dựng những công trình đầu tiên trong
khu thành cổ này, từ cung điện cho đến nhà thờ và rất nhiều công trình khác. Một
thời gian sau, cung điện bị cháy, hơn một thế kỷ sau vua Karl IV mới cho tu sửa
lại và xây dựng thêm cả Nhà thờ thánh Víta. Hiện nay, lâu đài là nơi ở của các
vị Tổng thống của Cộng hòa Séc. Bên ngoài cổng chính lâu đài bao giờ cũng có rất
nhiều người tập trung để nhìn thấy Tổng thống. Các tòa nhà trong lâu đài đại diện
cho hầu như tất cả các phong cách kiến trúc của thiên nhiên kỷ quan.
Chúng tôi dạo bước trên những con phố ở thành cổ Praha và bắt
gặp những người lính đứng gác ngoài cổng thành. Khách du lịch thay phiên nhau đứng
cạnh để chụp hình, dĩ nhiên người bạn đồng hành cũng chụp cho tôi được một tấm
hình làm kỉ niệm. Mặc cho khách du lịch đứng làm trò cười và cố tình chọc ghẹo,
những người lính vẫn đứng sừng sững như những pho tượng.
Khi đêm đến, Lâu đài Prague tỏa sáng với ánh đèn rực rỡ, lung
linh và huyền ảo. Như ai đó đã từng nói về thành phố này: “Nếu Praha là một bức
tranh thì đó là bức tranh mà các nghệ nhân đã chuyền tay nhau tô vẽ, hoàn thiện
trong suốt chiều dài lịch sử ngàn năm”.
Rời khu thành cổ, chúng tôi men theo những con đường dốc lát
đá nhỏ với những vườn nho trĩu quả và xuống phố. Chiều Praha thật bình yên. Có
lẽ bởi nơi đây là một trong những thành phố hiếm hoi của Đông Âu không bị tàn
phá bởi chiến tranh nên các công trình cổ kính vẫn nguyên vẹn. Phố xá ở đây hẹp
và dài, với những con đường chạy ngoằn ngoèo theo các triền đồi, trong đó rất
nhiều con đường vẫn còn được lát đá. Tôi thích cách bài trí của người dân Praha
khi thiên nhiên đã ưu đãi họ một phong cảnh hữu tình và họ cũng biết tận dụng tối
đa vẻ đẹp ấy để làm hài lòng du khách. Men theo những con đường lát đá là những
quán cà phê phủ đầy hoa, từ đây khách du lịch vừa có thể thưởng thức bia Séc, vừa
có thể nhìn xuống thung lũng với những vườn nho xanh ngắt.
Mới là tháng Tám nên ngày ở Praha vẫn còn dài, sau khi ăn bữa
tối trong một quán ăn ở dưới hầm, chúng tôi lại băng qua những cây cầu nhỏ và
ngắm thành phố ở một góc khác. Trong không khí trong lành và sạch sẽ, chúng tôi
men theo những con đường và bước vào thiên đường của những món quà lưu niệm.
Séc từ lâu đã nổi tiếng với pha lê, những cửa hàng bán pha lê ở đây rất nhiều
và sang trọng với những lọ hoa, những sợi dây chuyền, những chiếc vòng luôn lấp
lánh sắc màu rực rỡ.
Khi những giọt nắng cuối ngày bắt đầu tắt, chúng tôi quay về
khách sạn và bắt đầu leo lên những con dốc nhỏ với xung quanh toàn là màu xanh
của cây cối và hoa lá. Ven đường là những vườn táo, vườn nho, quả còn nhỏ nhưng
tiện tay nên chúng tôi vẫn… hái ăn thử. Đi được một đoạn, tôi sững sờ khi thấy
một đồi cherry, những quả cherry màu đỏ treo lơ lửng phía trên cao khiến tôi
không thể nào với tới được. Tôi quay ra phía sau thì thấy mình đã leo được một
đoạn khá cao, từ trên này người ta có thể ngắm mặt trời đang từ từ lặn xuống.
Praha thanh bình và đẹp như một bức tranh dù tôi biết những gì mình đang nhìn
thấy hoàn toàn có thực. Cách chỗ chúng tôi đứng không xa là ngọn tháp Petřín,
người ta gọi đó là Tháp Eiffel của Praha.
Niềm tự hào của Praha không chỉ có Cầu Tình, Thành cổ, Quảng
trường Wenceslas mà còn rất nhiều công trình kiến trúc đặc sắc khác nữa như Nhà
hát Quốc gia, Ngôi nhà Nhảy múa (Dancing House), Đền Thánh Đức Mẹ Loreto, Thính
phòng Rudolfinum… Để khám phá được hết những nét đẹp của thành phố này, có lẽ
người ta cần nhiều hơn là những ngày cuối tuần ngắn ngủi. Những thung lũng, những
ngọn đồi, những ngôi nhà mái đỏ, những cây cầu và dòng sông Vltava còn theo mãi
dấu chân tôi…
TÂY BAN NHA: SEVILLA - CHƯA XA ĐÃ NHỚ
Đặt chân tới Tây Ban Nha lần đầu tiên vào những ngày giữa
tháng Sáu năm 2009, tôi đã bị sốc bởi thời tiết khắc nghiệt của xứ sở này. Sau
gần ba tiếng bay từ Đức, cô bạn thân Nienke đón tôi ở sân bay Sevilla. Khi xuống
máy bay, câu đầu tiên tôi thốt ra là: “Trời ơi, nóng quá!” Trước đó một tháng,
Nienke nhắn tin dặn tôi: “Bên này khoảng 38 độ, nhớ mang váy và quần áo mát mẻ
nhé, thời tiết bên này không như ở Đức đâu.” Nhưng khi lái xe đưa tôi về nhà,
Nienke bảo tôi: “Hiện tại bây giờ ở Sevilla là 44 độ.” Tôi chỉ còn biết lau mồ
hôi và nói: “Chẳng trách…”
Sevilla nằm ở phía Tây Nam của Tây Ban Nha và cũng là thủ phủ
của bang Andalusien. Lần đầu đến Tây Ban Nha, tôi không chỉ bị choáng bởi thời
tiết mà còn bởi Tây Ban Nha khác Đức nhiều quá. Cùng nằm trong châu Âu và cũng
chỉ cách nhau ba giờ bay nhưng quả thật có quá nhiều khác biệt giữa hai đất nước
này. “Tây Ban Nha có nền văn hóa giống với những nước Nam Mĩ nhiều hơn”, Nienke
vừa lái xe vừa tranh thủ kể cho tôi về đất nước mà cô đã ở trong vòng một năm
qua. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, dù học rất giỏi nhưng cũng như rất nhiều những
bạn trẻ khác ở Đức, Nienke không chọn ngay con đường vào đại học mà quyết định
sẽ đi làm aupair [1] một năm vì cô nàng đã dành tình yêu cho đất nước Tây Ban
Nha từ lâu. “Từ ngày đi làm aupair, cuộc sống của tớ cũng thay đổi rất nhiều,
nhưng theo chiều hướng tích cực. Tớ học được rất nhiều điều và có những trải
nghiệm rất quý báu”. Lời tâm sự của Nienke làm tôi thấy tiếc nuối cho quyết định
của mình ngày xưa, bởi ngày đó tôi cũng đang làm giấy tờ sang Pháp một năm theo
diện aupair, nhưng rồi sau đó lại đầu quân cho công ty nội thất của Đức và bỏ dở
luôn kế hoạch của mình.
[1] Aupair là cụm từ Anh ngữ hóa từ tiếng Pháp có nghĩa là
“đôi cặp” hoặc “ngang hàng”, để chỉ một bạn trẻ (thường là nữ) sống với một gia
đình nuôi ở nước ngoài dựa trên cơ sở bình đẳng. Những người làm công việc
aupair sẽ giúp đỡ gia đình đó chăm sóc trẻ, làm việc nhà hoặc cả hai trong thời
gian sống như một người khách của gia đình và thông thường nhận được một khoản
tiền tiêu vặt.
Nienke dẫn tôi về nhà chào gia đình bố mẹ nuôi của cô. Mẹ
nuôi cô là người Đức và hiện đang giảng dạy ở trường đại học Sevilla và bố nuôi
cô là bác sỹ người Tây Ban Nha. Họ có với nhau ba đứa con, hai cô con gái thì
quá lém lỉnh, còn cậu út thì lại rất hiền. Vì không muốn làm phiền tới gia đình
bạn nên tôi thuê hostel và ở cùng phòng với một cô gái người Pháp, nhưng hầu
như ngày nào Nienke cũng ghé qua đón tôi về nhà cô ấy. Khi thì đi bơi với bọn
trẻ, khi thì được bố mẹ cô mời qua ăn trưa với những món Tây Ban Nha do cô giúp
việc người Maroko chế biến, khi thì cùng gia đình bố mẹ nuôi cô đi dự một buổi
biểu diễn văn nghệ ngoài trời. Thời gian còn lại Nienke đưa tôi đi chơi suốt mọi
nẻo đường Sevilla. Do thời tiết quá nóng nên tôi chọn phương án dậy sớm và đi
chơi đêm vì đó là hai thời điểm đẹp và mát mẻ nhất trong ngày.
Sáng sớm cô nàng đến đón tôi ở Hostel rồi hai đứa lân la đi
xem những kỳ quan của Sevilla gần đó như quận của người Do Thái, vườn cam, và
những khu phố đông kẹt người khi trời tắt nắng. Tầm đầu giờ chiều cho đến 4h
chiều thì ở ngoài phố hầu như rất vắng người vì họ bận nghỉ trưa hoặc ra hồ bơi
(Sevilla là thành phố có nhiều bể bơi nhất tiểu bang, trung bình ở những khu
nhà giàu thì hầu như cứ ba nhà thì một nhà có bể bơi riêng). Nienke bảo tôi:
“Thời tiết như thế này vẫn còn nhiều du khách đến thăm, nhưng vào cuối tháng Bảy
đầu tháng Tám thì hầu như ở Sevilla luôn vắng người vì thời tiết quá nóng, có
thể lên tới 48 độ. Ngoại trừ những công ty nhà nước và các siêu thị buộc phải mở
cửa thì hầu hết tất cả mọi người đều ra biển hết.” Sau đó cô bạn còn nói thêm rằng
người Tây Ban Nha “lười” lắm vì họ nghỉ trưa rất lâu. Giờ nghỉ trưa của họ thường
kéo dài tới 2-3 giờ đồng hồ và nó đã thành tập tục không thể bỏ qua ở đất nước
này. Tây Ban Nha có một nửa đất nước giáp với biển, nên vào mùa hè, người ta
thường đổ về những thành phố biển hay những hòn đảo nhỏ xinh xắn để tránh nắng.
Tôi nhớ buổi tối đầu tiên, dù mệt nhưng tôi vẫn nhất định phải
đi dạo một vòng quanh phố. Sevilla rực rỡ trong những ánh đèn. Những tòa nhà sáng
lấp lánh, bên những quán cà phê, mọi người thong thả ngồi nói chuyện, trẻ em nô
đùa ngoài đường phố. Một ngày ở Sevilla thường bắt đầu rất muộn nên kết thúc
cũng rất muộn, tôi đã không còn bỡ ngỡ và thắc mắc tại sao hơn 10h tối rồi mà
trẻ con vẫn tụ tập chơi và hò hét ngoài đường và quảng trường. Bởi cuộc sống của
người Tây Ban Nha thiên về đêm, buổi tối là thời điểm lý tưởng nhất để trẻ em ở
Sevilla có thể nô đùa sau khi kết thúc một ngày học ở trường. Tôi để những bước
chân dẫn mình đi trên những con phố nhỏ, mơ màng nhìn về phía dòng sông, ngắm
Tháp chuông Giralda và những vì sao lấp lánh phía trên trời.
Chiều hôm sau, hai đứa chúng tôi rủ nhau đi dạo dọc dòng sông
Guadalquivir và ngắm hoàng hôn từ từ buông xuống, tôi thấy mình như vừa trút bỏ
được những bộn bề cuộc sống ngoài kia và ngắm những giọt nắng từ từ buông trên
dòng nước bằng tất cả say mê. Tự nhiên tôi nhớ tới cô giáo dạy tiếng Tây Ban
Nha của mình, nhớ những bài thơ cô từng đọc cho cả lớp nghe, nhớ lời cô từng kể
rằng người dân Sevilla luôn tự hào về thành phố của họ vì nơi đây là nơi
Christopher Columbus bắt đầu cho chuyến đi kiếm tìm thế giới của mình, nhớ nhứng
ngày hè trước khi năm học kết thúc, tôi và các bạn luôn đòi cô tổ chức nấu một
bữa ăn Tây Ban Nha. Nỗi nhớ vô tình gợi lại kỉ niệm khiến tôi khẽ mỉm cười. Có
ai ngờ được rằng sau khi thôi học tiếng Tây Ban Nha, tôi lại đặt chân đến mảnh
đất này đâu. Âu có lẽ cũng là cái duyên của cuộc sống.
Những ngày ở Sevilla, Nienke đã là một cô hướng dẫn viên thật
tuyệt vời, đưa tôi thăm thú Sevilla. Cô nàng dẫn tôi đi tới Thánh đường Sevilla
và Cung điện Real Alcazares. Hai công trình kiếm trúc nằm giữa trung tâm này có
thể được xem là biểu tượng của thành phố và thu hút khách du lịch nhiều nhất.
Từ trên đỉnh của thánh đường bạn có thể ngắm nhìn toàn bộ
thành phố và dễ dàng thấy một khu vườn với rất nhiều cam. Ở Sevilla vào khoảng
tháng Tư và tháng Năm khi mùa cam bắt đầu, trên khắp các thành phố hay những
công viên người ta có thể thấy hàng loạt những cây cam nặng trĩu cành. Khi
chúng tôi đi dạo trong công viên, vẫn còn những cây cam cuối mùa còn sót lại.
Tôi nhắm mắt và tận hưởng mùi hương của nó. Nienke quay sang dặn: “Cẩn thận kẻo
vấp phải quả cam đấy” bởi dưới chân tôi những quả cam lăn tròn long lóc. Tôi vừa
đi vừa bảo: “Sao cam ở đây rụng nhiều thế mà không ai nhặt nhỉ?” Cô bạn phá lên
cười: “Đắng lắm làm sao mà nuốt nổi, cậu thích ăn thì gom lại đi, mang về Đức
mà làm mứt”. Tính tôi xưa nay vẫn vậy, rất thường hay tiếc vặt, dù đôi khi có
những thứ chẳng liên quan gì tới mình.
Thánh đường Sevilla được thiết kế theo kiến trúc Gothic và
cũng là một trong những thánh đường cao nhất thế giới, Thánh đường này có chiều
dài gần 115m và rộng 76m, ở bên trong được trang trí rất cầu kì và cũng tốn kém
rất nhiều, bởi phần lớn các hình ảnh được tái hiện ở thánh đường này đều mô tả
cuộc đời của Chúa Giêsu. Ở Tây Ban Nha, 90% dân số theo đạo Thiên Chúa giáo bởi
vậy nên họ rất tự hào gìn giữ nét đẹp cổ truyền. Những bức tranh quý giá của
Murillo, Valázquenz hay Zurbarán [2] cũng được lưu giữ ở trong này. Nienke dẫn
tôi tới bàn thờ chính, nơi cất giữ mộ của Columbus, người đã phát hiện ra châu
Mỹ. Thi hài ông ban đầu được chôn ở Santo Domingo rồi sau đó đã được cải táng ở
Cuba và cho đến khi Cuba độc lập thì người ta mang thi hài ông về và chôn ở
Sevilla. Cho đến bây giờ thì vẫn có nhiều giả thuyết cho rằng mộ của Columbus ở
Sevilla chỉ là mộ giả, còn mộ thật thì vẫn được chôn ở Santo Domingo và cuộc
tranh chấp giữa Sevilla và Santo Domingo vẫn diễn ra. Dạo quanh ở bên trong
thánh đường, chúng tôi trèo hơn mấy trăm bậc thang để leo lên Tháp chuông
Giralda. Từ tháp chuông này, bạn có thể nhìn toàn bộ thành phố từ phía trên
cao, rất đẹp!
[2] Các họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha.
Từ thánh đường Sevilla, chúng tôi đến thăm cung điện của Vua
Reales Alcazares, cũng là một công trình kiến trúc rất kì công. Từng viên gạch
trên tường, từng cột nhà đều được làm rất công phu. Khi bước chân vào đây, tôi
như thấy mình đi lạc vào một thế giới cổ tích với những khu vườn rất đẹp, những
căn phòng được trang trí lộng lẫy. Trên các tường nhà, trần nhà là hàng trăm
các bức chạm khắc vô cùng tuyệt vời, thậm chí có những vòm trần còn được dát
vàng trông vô cùng rực rỡ. Tôi chẳng nhớ mình đã đi qua bao nhiêu căn phòng,
bao nhiêu hành lang rộng lớn được trang trí cầu kì, phức tạp, để rồi cứ vừa đi
vừa trầm trồ, chẳng biết có khi nào trong đời mình lại được chiêm ngưỡng những
tác phẩm nghệ thuật có một không hai này không nữa, dù có phải giá trị nghệ thuật
nào tôi cũng hiểu hết được đâu. Nhưng chính những cái lạ đó đã khiến tôi thích
thú, tò mò và tin chắc một điều rằng khi đã lạc vào chốn này, bạn cũng sẽ có những
cảm giác như tôi.
Chúng tôi đi bộ trên những con phố dài với những dãy cửa hàng
bán quần áo, bán đồ lưu niệm, tranh ảnh và những thứ làm bằng tay của người dân
Sevilla. Thỉnh thoảng khi đi dạo trên đường, tôi lại bắt gặp tiếng nhạc rộn rã
phát ra từ những người nghệ sĩ đường phố hay những cô nàng diện trên mình chiếc
váy Flammenco trông thật yểu điệu và quyến rũ. Mỗi con đường, mỗi góc phố đều
mang một vẻ đẹp riêng, nhưng tôi vẫn thích nhất là được đi trên những con phố hẹp
với những ngôi nhà nho nhỏ được trang trí bằng những giàn dây leo màu xanh và
những giỏ hoa treo lơ lửng bên cửa sổ. Phố hẹp nên chỉ có những người đi bộ hoặc
đi xe đạp mới có thể vào được, tha hồ được tận hưởng sự yên tĩnh và hít hà mùi
hương hoa tỏa ra trên khu phố. Khi ngồi gõ những dòng chữ này, tôi không tài
nào nhớ nổi tên những con phố mà mình đã bước qua, nhưng khi nhắm mắt lại, tôi
vẫn thấy trước mắt mình là một bức tranh Sevilla thơ mộng. Không biết bây giờ,
nếu có dịp đi lại trên những con đường đó, tôi có còn nhận ra không nữa. Những
con phố có bao giờ đổi thay?
Một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi dừng chân ở công viên Maria
Luisa. Đây là một trong những công viên đẹp nhất Tây Ban Nha với hàng ngàn cây
xanh và rất nhiều vườn hoa lộng lẫy. Tôi và Nienke làm một cuộc picnic nhỏ trên
thảm cỏ, vừa ăn vừa nói chuyện về những tháng ngày cùng nhau đi học, những đổi
thay kể từ ngày cô rời nước Đức và nằm nghe tiếng ve sầu kêu. Cho đến tận bây
giờ tôi vẫn chẳng biết đó có phải là tiếng ve sầu không nữa, nhưng tiếng kêu của
nó hệt như tiếng ve sầu mà thuở còn đi học ở Việt Nam tôi vẫn thường được nghe.
Đã lâu lắm rồi kể từ ngày rời quê hương, tôi cứ ngỡ sẽ không bao giờ được nghe
tiếng ve sầu kêu vào những ngày mùa hạ nữa, nhưng Sevilla đã cho tôi được sống
lại cái cảm giác của ngày xưa.
Khi đã xế trưa, Anne gọi điện rủ chúng tôi đi uống cà phê ở
Quảng trường Plaza de América. Anne cũng đang làm aupair ở Sevilla và tôi thực
sự phục cái sự đi của cô gái người Đức này. Sau khi tôi đã trở về Đức, Anne vẫn
giữ liên lạc với tôi và qua Facebook, tôi cũng biết được rằng cô cũng vừa có một
chuyến đi bụi thú vị ở Việt Nam. Chúng tôi ngồi trong quán cà phê tán ngẫu và
ngắm những chú chim bồ câu rồi sau đó cả bọn rủ nhau đi ăn trưa trong một nhà
hàng mà theo lời Nienke nói là “ngon nhất Sevilla”. Họ bắt tôi thử món Tapas, một
món ăn nhẹ truyền thống của Tây Ban Nha, có thể ví như món khai vị thường là mực
chiên, khoai tây chiên, các loại thịt, ô liu, cà rốt, rau quả trông rất hấp dẫn
và ngon miệng, để rồi sau này dù đã rời Sevilla, tôi vẫn nhớ mãi mùi hương tuyệt
vời đó.
Đêm cuối trước khi trở về Hostel sửa soạn vali cho chuyến bay
ngày hôm sau, Nienke dẫn tôi đi thăm Quảng trường Plaza de Espana (Spain
Square). Quảng trường này là biểu tượng chính của thành phố từ khi ra đời vào
năm 1929. Khung cảnh buổi đêm với tòa nhà dài 200m trải dài hai bên chân tháp
cùng những cây cầu trong ánh đèn mờ mờ ảo ảo đã tạo nên một bầu không khí thật
sự yên bình và lãng mạn. Phía dưới chân tường được trang trí bằng những bức
tranh vẽ hình phong cảnh của những thành phố khác nhau của Tây Ban Nha. Tôi chọn
Barcelona với hy vọng trong chuyến đi Tây Ban Nha tới của mình, sẽ được đặt
chân ở thành phố đó. Đến tận lúc này, trong tôi Sevilla có một cái gì đó vừa cổ
điển, vừa hiện đại, vừa nồng nhiệt nhưng cũng rất kiêu kì. Vẻ đẹp của thành phố
phương Nam này đã được dung hòa như thế, nhưng thật tiếc, chuyến đi nào rồi
cũng phải trở về, cho dù có phải khó khăn để nói lời tạm biệt. Tôi biết rồi tôi
sẽ nhớ lắm một Sevilla với những nụ cười trong trẻo của người dân nơi đây, đã
làm tôi quên đi cái nắng nóng tới hơn 40 độ của xứ sở này. Tôi sẽ nhớ lắm mùi
cam thơm ngây ngất mà có thể ngửi được từ bất cứ con đường nào trong thành phố.
Nhớ một sáng tinh mơ nằm dài trên bãi cỏ trong tiếng gió đu đưa và ve kêu của
mùa hè, nghe tiếng nhạc du dương và những vũ điệu nhảy Flammenco của những cô
nàng Sevilla xinh đẹp. Nhớ một thành phố phương Nam nồng nàn và quyến rũ…
Tạm biệt Sevilla - thành phố yêu thương đầy thơ mộng, nơi đã
cho tôi những ngày rất đẹp. Và tôi biết nếu bất kỳ ai đã từng nghe đến cái tên
Anda-Louise Bogza thì chắc chắn họ sẽ biết tới thủ đô Sevilla yêu dấu của bang
này. Cái thành phố nhìn bề ngoài có vẻ tĩnh lặng và cổ điển nhưng lại chứa chất
rất nhiều điều kỳ thú để bất cứ du khách nào đến đây đều háo hức khám phá và
không hề ân hận khi trở về. Khi lái xe đưa tôi ra sân bay, trên Radio đang chạy
bản nhạc Time to say Goodbye, tự nhiên tôi thấy lòng mình trùng xuống. Nienke
quay sang nhìn tôi rồi nói khẽ: “Hai tuần nữa tớ cũng sẽ theo chân nàng về Đức,
đến bây giờ tớ vẫn chưa định hình được cảm xúc của mình nữa. Chỉ biết là sẽ rất
nhớ thôi.” Tôi im lặng một hồi, mãi sau mới nói: “Ừ, Sevilla là vậy đó, chưa xa
mà đã nhớ…”
THỤY SĨ: LUCERNE THƠ MỘNG
Tôi có thói quen là trước mỗi lần đi đâu đều lên mạng tìm
thông tin hoặc đọc các cuốn sách hướng dẫn du lịch để khỏi ngỡ ngàng và tiết kiệm
thời gian khi đến đó. Nhân có Hoa - cô bạn đang học ở Lucerne, tôi quyết định sẽ
dùng mấy ngày nghỉ phép cuối cùng trong năm để ghé thăm đất nước Thụy Sỹ.
Trong chuyến tàu đêm từ Zurich về Weggis, tôi phải đi qua
Lucerne. Khi tàu chạy dọc trên đường ray ven hồ Lucerne, tôi đã ồ lên vì bất ngờ.
Lucerne về đêm đẹp đến nỗi tôi đã nghĩ rằng nếu có trở thành họa sĩ, tôi cũng không
bao giờ có thể vẽ lại được một bức tranh hoàn hảo như thế. Những căn nhà, những
ngọn đèn lung linh soi bóng xuống mặt hồ khiến Lucerne không khác gì một nữ
hoàng kiêu sa của Thụy Sĩ. Giây phút đó, tôi biết mình có cảm tình với thành phố
này.
Núi Pilatus
Sáng hôm sau, tôi và Hoa tới Lucerne từ sáng sớm, thời tiết rất
đẹp nên chúng tôi quyết định leo núi Pilatus thuộc Lucerne với độ cao 2132m. Từ
chân núi lên đến đỉnh, bạn có thể đi cáp treo hoặc tàu, mất khoảng 40 phút. Lúc
lên chúng tôi đi bằng cáp treo và lúc xuống thì đi tàu để có thể nhìn thấy
thành phố Lucerne từ hai góc nhìn khác nhau. Đi bằng cáp treo, người ta có cảm
giác như đang lơ lửng giữa bầu trời, nhìn xuống phía dưới là hồ, là những ngọn
đồi nhấp nhô, còn nếu đi tàu bạn sẽ được ngồi trên đoạn đường ray dốc nhất Châu
Âu với độ dốc 48%. Do độ dốc cao nên tuyến tàu lên núi Pilatus phải sử dụng
công nghệ bánh răng hỗ trợ. Bình thường nếu đi vào mùa đông thì thời tiết xấu,
có lên được đỉnh núi cũng khó có thể nhìn xuống vì những lớp sương mù dày dặc
nhưng không hiểu sao hôm chúng tôi đi, bầu trời lại xanh ngắt. Tôi và Hoa chọn
một góc đẹp nhất trên núi và nhìn xuống hồ Lucerne, hít thở không khí trong
lành của thiên nhiên. Trên những mỏm đá, những mảng tuyết dày đặc vẫn chưa kịp
tan ra, mà tôi cũng không biết nó có còn cơ hội để tan nữa hay không khi mùa
đông đang bắt đầu đến. Tôi nằm dài trên một tảng đá lớn, nhắm mắt lại và nghe
những bản tình ca của Trịnh Công Sơn từ máy nghe nhạc. Đối với tôi, đó là một
thú vui, một cách tận hưởng cuộc sống hết sức bình dị.
Rời núi Pilatus, chúng tôi vào trung tâm thành phố Lucerne -
một trong những thành phố đẹp và thơ mộng nhất Thụy Sĩ. Có rất nhiều những tấm
bưu ảnh quảng cáo Thụy Sĩ đã chọn Lucerne bởi thành phố này có một địa hình hết
sức thuận lợi, được bao bọc bởi hồ và phía sau hồ là những dãy núi trùng điệp.
Lucerne không phải là thành phố lớn của Thụy Sĩ nhưng sẽ thật đáng tiếc cho những
ai tới Thụy Sĩ mà không dừng chân lại nơi này.
Cầu gỗ cổ nhất Châu Âu
Từ ga Lucerne, tôi và Hoa tới thẳng chiếc cầu Nhà thờ nhỏ (tiếng
Đức là Kappelbrücke). Đây là cầu gỗ có mái che cổ nhất Châu Âu được xây dựng từ
thế kỉ XIV, dài 204m với những bức tranh mô tả phần nào lịch sử của Lucerne.
Theo một cuốn sách hướng dẫn du lịch thì “Đây là thành phố đầu tiên nhập vào khối
liên minh ba thung lũng thuộc vùng núi Alpes. Hồ Lucerne nằm giữa ba thung lũng
thuộc vùng núi Alpes và Lucerne mang tên Vierwaldstättersee, có nghĩa là hồ của
bốn vùng đất rừng. Nơi đây được coi là cội nguồn của đất nước Thụy Sĩ.” Đứng
trên cầu, người ta có thể ngắm dọc khu phố đi bộ với những quán cà phê treo đầy
cờ Thụy Sĩ. Dưới chân cầu, những chú thiên nga trắng muốt thi nhau khoe vẻ đẹp
kiêu sa của mình. Khách du lịch có thể ngồi ven hồ và tận hưởng những giây phút
bình yên giữa lòng thành phố xinh đẹp này.
Từ đây, chúng tôi đi dạo dọc quanh hồ, ánh nắng chiều yếu ớt
của những ngày tháng Mười một vẫn lóng lánh trên những mái nhà. Phía bên kia hồ
những dãy núi còn phủ màu tuyết trắng, tôi ngồi bệt xuống bên cạnh một bé gái
Thụy Sĩ đang cho thiên nga ăn và ngắm nhìn mặt hồ đang gợn sóng. Xung quanh tôi
là bầu trời, là núi, là hồ và những người khách du lịch thân thiện. Chao ôi,
Lucerne đẹp biết bao!
Tượng sư tử buồn khắc trong núi
Say khi đi dọc một đoạn dài bên hồ và đắm mình trong thiên
nhiên, tôi quyết định ghé thăm bức tượng sư tử. Hình ảnh chú sư tử khắc trên
núi với đôi mắt buồn bi thảm đã gây xúc động mạnh mẽ cho tôi. Hình ảnh con sư tử
nằm chết oai hùng đã được nhà điêu khắc người Đan Mạch Bertel Thorvaldsen tạc
vào năm 1810 để tưởng niệm hơn 800 người lính Thụy Sĩ đã hi sinh thân mình để bảo
vệ Hoàng gia Pháp, bởi đội quân Thụy Sĩ này trước đây đã được thuê để bảo vệ
vua Louis XVI trong cuộc cách mạng Pháp. Bên cạnh bức tượng in hình hoa lưu ly
biểu tượng cho sự kết thúc của triều đại Louis XVI và hình dấu thập tượng trưng
cho sự trung thành và dũng cảm của những người lính Thụy Sĩ.
Điều khiến bức tượng sư tử trở nên sống động là dáng nằm oai
phong, khi chết vẫn rất kiêu hãnh. Đó có lẽ cũng là lý do vì sao Mark Twain đã
thốt lên “Tượng như một khối đá biết chuyển động và toát lên sự thương cảm đau
buồn!” khi đứng trước bức tượng này.
Dừng chân ở đây chừng 30 phút, tôi và Hoa quay trở lại khu phố
cổ. Vì là Chủ nhật nên phố cổ có phần vắng vẻ, nhưng đâu đâu cũng là những cửa
hiệu bán đồng hồ và sô-cô-la vì đây cũng chính là “đặc sản” của đất nước Thụy
Sĩ. Chúng tôi thong thả đi dạo trên những con phố cổ lát đá dành cho người đi bộ
và trở về ga. Tạm biệt Lucerne với núi Pilatus, tôi biết mình sẽ còn lưu giữ
mãi những hình ảnh đẹp này về sau.
Ý: TỚI TRIESTE NHỚ VỀ HÀ NỘI
Hôm trước tình cờ đọc được tờ báo 10 thành phố đẹp bị phớt lờ
trên thế giới có nhắc tới Trieste, tôi quay sang bảo với cô bạn cùng nhà trọ:
“Tự nhiên tao nhớ Trieste quá mày ạ, nhớ những chiều hoàng hôn vương trên biển,
nhớ những con đường chạy dài bên Grande Canal (Kênh Lớn) với những quán cà phê
thơm mùi quế.” Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không ngừng thắc mắc tại sao một
thành phố đẹp và thơ mộng như Trieste lại bị lãng quên một cách vô tình như thế,
dù dưới con mắt nhìn của tôi, nhan sắc của Trieste chẳng hề thua kém gì với cô
nàng Venice kiều diễm. Trước khi tới Trieste, tôi thấy Venice đẹp lắm, cái đẹp
mà tôi cứ ngỡ sẽ khó có nơi nào có thể sánh được, nhưng tới Trieste rồi tôi mới
biết, hình như mình đã nhầm.
Tôi đã yêu Trieste ngay từ trên đoạn đường từ sân bay về
thành phố, khi xe chạy dọc bờ biển tôi đã không tin vào mắt mình dù lúc đó đã
thấm mệt. Những ngày ở đó, tôi được khám phá một miền đất đẹp như mơ mà có lẽ nếu
không có bạn mình ở đó, có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội được đặt chân tới.
Bởi trong các cuốn sách nói về du lịch châu Âu, Trieste hầu như không được nhắc
tới hoặc nếu có, chỉ là một thước phim ngắn hay một vài dòng giới thiệu. Dường
như vẻ đẹp của Venice đã làm mờ mắt những du khách tới tới Ý và Trieste bỗng
nhiên bị phớt lờ. Nhưng nếu ai đã từng đặt chân tới nơi này, tôi tin rằng họ
cũng như tôi, còn muốn quay trở lại đây, không chỉ một mà còn nhiều lần nữa.
Trieste là thành phố nằm ở miền Đông Bắc của nước Ý, nằm giữa
biển Adriatic và biên giới Ý, giáp với Slovenia. Trong quá trình lịch sử,
Trieste chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nền văn hóa Slav và Áo, trước đây thành phố
này nằm trong sự quản lý của triều đại Habsburg, cho đến khi Chiến tranh Thế giới
lần thứ nhất kết thúc thì Trieste mới thuộc về Ý. Vì công việc và cơ hội phát
triển ở đây chưa cao nên phần lớn lớp trẻ ở Trieste đều di cư đi nơi khác làm
việc thế nên ở Trieste có tới 60% dân số là người già, số còn lại có thể là
khách du lịch hoặc là các bạn trẻ ở vùng khác tới đây học.
Lần đầu tiên tới Trieste tôi có cảm giác như mình đang ở Hà Nội
và tôi đã không ngần ngại gọi thành phố này là Hà Nội thứ hai của tôi. Đã dừng
chân qua rất nhiều thành phố ở châu Âu nhưng chưa có thành phố nào gợi cho tôi
nhớ về Hà Nội nhiều như Trieste. Cuộc sống ở đây dù là ngày hay đêm lúc nào
cũng nhộn nhịp và tấp nập nhưng vẫn không hề mất đi cái hồn của một thành phố cổ.
Tôi nhớ có một lần Thảo dẫn tôi tới Muggia - một thị trấn nằm ven biển ở Đông
Nam Trieste giáp với Slovenia và cách trung tâm Trieste chừng 30 phút đi xe
buýt. Đó là lần đầu tiên tôi thực sự nhớ Hà Nội da diết. Cuộc sống ở đây chẳng
khác gì một Hà Nội thu nhỏ, có khác chăng một chút là có biển. Buổi chiều khi nắng
đã bắt đầu nhạt, mọi người tập trung ở nhà thờ lớn bên quảng trường. Trẻ con
thì nô đùa, hò hét, đá bóng, chơi cầu lông. Người lớn thì ngồi uống cà phê, tán
dóc hay dẫn con đi dạo. Những con ngõ nhỏ nối dài, sâu hun hút với những ô cửa
sổ đã bị bạc màu bởi thời gian. Những ngôi nhà từ xanh đến đỏ bên những chiếc
ban công với những chiếc dây phơi quần áo bay bay trong gió. Tất cả những thứ
đó dường như đều mang hơi thở của một Hà Nội mà mười năm về trước tôi đã thầm
mang theo trong kí ức sang trời Âu. Bất chợt tôi nhớ tới bài hát Hà Nội ngày trở
về của nhạc sỹ Phú Quang với những ca từ thật sâu lắng, cho dù Hà Nội không phải
là nơi tôi sinh ra và lớn lên, nhưng có một cái gì đó như sợi dây tình yêu kết
nối tôi và Hà Nội:
“… Tôi bồi hồi khi chạm bóng cửa ô
Như ngày xưa mỗi lần chạm vai gầy áo mẹ
Ôi nỗi nhớ muôn đời vẫn thế
Như dòng sông Hồng cuộn đỏ mãi trong tôi…”
Có khác chăng bên cạnh tôi bây giờ không phải là dòng sông Hồng
cuộn đỏ mà là bờ biển dài xanh thẳm bao la. Tôi không hiểu tại sao khi đứng ở
nơi này mà lòng lại khắc khoải nhớ về Hà Nội một cách ồn ào và da diết đến thế.
Có bao giờ bạn có cảm giác đó như tôi, đứng giữa một miền xa lạ mà cứ ngỡ, mình
đang ở một nơi rất thân thương mà một thời bạn đã từng sống, từng đi qua?
Tới Trieste thì nhất định không thể bỏ qua Lâu đài Miramare -
một trong những nơi nghỉ mùa hè của dòng họ Habsburg, nằm trên vách núi đá, được
xây dựng trong thế kỷ XIX bởi Đại công tước Ferdinand Miximilian của Áo. Điều
khiến tôi ấn tượng trong các căn phòng này không phải vì chúng được trang trí lộng
lẫy mà tất cả đều hướng ra mặt biển, nhất là phòng ngủ. Chỉ cần mở mắt ra là đã
thấy ánh mặt trời rọi qua khung cửa sổ, phía xa xa là biển trời xanh thẳm. Thật
tuyệt vời khi mỗi sáng ban mai được thức dậy trong một khung cảnh đẹp đến thế.
Không chỉ có vậy, phía bên ngoài lâu đài là một công viên khá rộng. Chúng tôi dạo
bước trên con đường phủ đầy cây, nhìn ra biển và toàn bộ thành phố Trieste mà
ngơ ngẩn bởi vẻ đẹp của thành phố.
Cũng nằm sát ven biển và đẹp không thua kém gì Miramare là
Lâu đài Duino, cách trung tâm thành phố một giờ đi xe buýt. Đường tới Duino khá
dốc và ngoằn ngoèo nhưng cảm giác đi trên một con đường với một bên là đồi, một
bên là biển thật thú vị - điều mà trước đây tôi chỉ thấy trong những bộ phim
thì hôm nay được tận hưởng nó bằng những cảm xúc thật của mình. Lâu đài này được
xây dựng từ thế kỉ thứ XIV và hiện đang dưới quyền sở hữu của Hoàng tử Thurn và
Taxis - người mà nhiều năm về trước đã quyết định mở một phần lâu đài cho công
chúng vào tham quan, tổ chức các buổi hòa nhạc hay đám cưới. Sau khi “dạo
quanh” một vòng phía bên trong, tôi và Thảo ra ngoài công viên ngắm biển và chụp
lại những khoảnh khắc tuyệt vời này và trèo ra phía ngoài ở bên dưới. Trong lúc
hai đứa đang thay nhau “tạo mẫu” thì ở phía trên, hai anh chàng quản lý đẹp
trai người Ý vẫy tay ra hiệu và đề nghị chúng tôi quay trở lại, Thảo đáp lại một
câu khiến tôi không nhịn nổi cười: “Nhưng ở đây đâu có treo biển cấm.”
Thời tiết Ý vào tháng Chín khá dễ chịu vào sáng sớm, tầm khoảng
26 độ nhưng bắt đầu vào trưa thì nhiệt độ có thể lên tới 35 độ và khá nóng. Có
điều Trieste là thành phố biển nên nhiều gió và điều đó khiến người ta không có
cảm giác ngột ngạt khi đi trong thành phố, mặc dù mật độ giao thông ở đây cũng
không kém gì so với ở Việt Nam. Tôi thích nhất là những buổi chiều khi nắng đã
bắt đầu dịu nhẹ, cùng Thảo dạo phố rồi đi lên những đoạn đường với những ngôi
nhà rất cũ mà tôi đoán nếu chỉ tới Trieste một mình, tôi sẽ không bao giờ có thể
biết tới những con đường này. Càng đi sâu vào khám phá cuộc sống và đất nước
con người Ý, tôi càng nhận ra rằng so với các nước châu Âu khác, Ý không giàu về
kinh tế nhưng lại có nền du lịch khá phát triển. Đời sống ở đây so với Đức có
phần đắt đỏ hơn, người giàu vẫn cứ giàu, còn người nghèo thì vẫn cứ mãi luẩn quẩn
trong vòng quay cuộc sống của mình. Tôi nhớ có một bài báo mình đã dọc được ở
đâu đó có nói rằng phụ nữ Ý là những người phụ nữ khốn khổ nhất châu Âu, mặc dù
người Ý nổi tiếng là luôn có cuộc sống tươi đẹp (la dolce vita). Trong bài báo
đó có nhắc đến việc hai phần ba phụ nữ nước này hối tiếc vì đã lập gia đình và
có con, ngoài ra họ cho rằng ở đất nước này vẫn còn tình trạng trọng nam khinh
nữ và phụ nữ suốt ngày phải lo việc nhà, trong khi các ông chồng chẳng bao giờ
muốn dính tay vào chuyện bếp núc.
Khi mặt trời đã bắt đầu lặn cũng là lúc Trieste ngập tràn
trong ánh đèn, những quán bar, những cửa hàng ăn uống lại bắt đầu nhộn nhịp. Ý
là nước có nền ẩm thực khá phong phú nên khi tới đây tôi cũng không bỏ lỡ cơ hội
thưởng thức những món ăn của đất nước này, khi thì Pizza, khi thì spaghetti được
chế biến 100% theo kiểu Ý. Sau bữa ăn, chúng tôi thường đi dạo quanh những khu
phố mua sắm rồi ra Quảng trường Thống Nhất Ý (Piazza dell’ Unità d’Italia). Quảng
trường này thực sự là trái tim của thành phố với tòa thị chính rực rỡ ánh đèn.
Từ quảng trường này, chỉ cần băng qua phía bên kia con đường là đã tới biển. Lần
đầu tiên tới đây tôi đã thực sự ngỡ ngàng trước khung cảnh tuyệt đẹp này. Ngồi
bên Molo Audace hít thở gió biển, ngắm hoàng hôn và nhìn lên những ngôi nhà nằm
nép mình trên những ngọn đồi phía trên cao, tôi có cảm giác như mình đang ở một
giấc mơ nào đó mà rất nhiều năm trước đây đã có lần mơ thấy. Có khác chăng những
gì đang hiện hữu trước mắt tôi bây giờ là một không gian hoàn toàn có thật.
Chúng tôi ngồi bên bờ biển và nói về những buồn vui trong cuộc
sống cho đến khi gió đêm đã bắt đầu se lạnh rồi mới bắt đầu đứng dậy và tới
Canal Grande nhâm nhi ly cappuccino. Kênh này trước đây được xây dựng cho tàu của
thương gia giao và nhận hàng trong trung tâm thành phố nhưng bây giờ nó đã
không thể đáp ứng được những chức năng ban đầu của mình, tàu lớn không thể vào
được nữa nên chỉ có những chiếc thuyền đánh cá mới có thể đi vào được.
Trieste cũng có một quán cà phê khá nổi tiếng nằm cách Quảng
trường Thống nhất Ý chừng 150m với cái tên Caffè Tommaseo. Đây là quán cà phê
lâu đời nhất ở Trieste được khai trương vào năm 1830. Đêm cuối ở Trieste, thay
vì uống cappuccino ở Canal Grande, tôi và Thảo ghé vào đây thưởng thức đồ uống
đúng theo phong cách từ ngàn xưa của Ý rồi đi dạo về ký túc xá. Hơn 11h đêm, đường
phố có phần vắng vẻ hơn, nhưng thời tiết khá dễ chịu và mát mẻ. So với các
thành phố khác ở Ý thì Trieste khá an toàn, bởi vậy nên Thảo bảo tôi: “Chị em
mình có thể đi tới một hai giờ sáng thì cũng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra ở đây
đâu.” Thật không ngoa chút nào khi thành phố này đã được bình chọn là thành phố
hòa bình năm 2009 ở Ý.
Tôi không thể viết hết được những kỉ niệm trong suốt bốn ngày
ngắn ngủi ở nơi đây, nhưng chắc chắn nó thực sự là những ngày đáng nhớ. Tôi có
cơ hội được biết hơn, hiểu hơn về nước Ý xinh đẹp. Không chỉ có vậy, thành phố
này đã làm cho tôi thấy nhớ và yêu Hà Nội nhiều hơn, thứ tình yêu đã ngủ yên
nay bất chợt bị đánh thức bằng những ngọt ngào say đắm. Tôi sẽ không quên cô
gái Hà Nội tốt bụng đã nhiệt tình làm hướng dẫn viên cho tôi suốt những ngày ở
đây và nhường giường cho tôi ngủ. Tôi cũng sẽ không quên bữa cơm sinh viên giản
dị với vài miếng thịt và nồi canh mướp đắng do em Quân nấu, mà sau này tôi vẫn
nói là món canh mướp đắng ngon nhất từ trước tới nay mà tôi được thưởng thức.
9h tối, chiếc máy bay của hãng hàng không Ryanair đưa tôi trở
về Đức. Không biết vì lý do gì mà máy bay mãi mới hạ cánh được. Kéo vali về nhà
nghỉ của sân bay nằm khuất trong rừng lúc 12h đêm, tôi khẽ run vì lạnh, chợt nhớ
tới những giọt nắng vàng của Trieste biết bao nhiêu. Thảo nhắn tin cho tôi và
nói: “Hội ngộ rồi chia ly, nhưng em tin mình sẽ gặp lại nhau ở một bầu trời nào
đó.” Tôi cũng tin là như thế, biết đâu sẽ lại là Trieste nữa thì sao. Ai mà biết
được!? Sau này khi ngồi lật lại những bức hình đã chụp ở Trieste, tôi vẫn không
quên cái cảm giác mỗi đêm đi dạo ra quảng trường Thống Nhất Ý, băng qua một con
đường rồi ngồi bên Molo Audace hít thở gió biển cho đến khi bắt đầu thấy lành lạnh
thì đi về Grande Canal uống cappuccino. Tôi nhớ cả buổi chiều lang thang ở thị
trấn Muggia ngắm nhìn hoàng hôn buông trên biển để rồi sau này trong những giấc
mơ về châu Âu của tôi Trieste hiện về như một cô gái nhỏ với vẻ đẹp dịu dàng và
đằm thắm, khiến cho những ai đã từng tới nơi này đều thấy trái tim mình rộn rã
những bình yên.
Ý: DUYÊN DÁNG VERONA
Nhắc tới Ý, tôi thường mơ tới một Venice xinh đẹp bên những
con kênh xanh xanh, một Pisa nổi tiếng với tháp nghiêng hay một Milan thời
trang lộng lẫy. Verona ít được người ta nhắc đến hơn. Nhưng có lẽ tôi có duyên
với thành phố này nên sau những ngày “vừa học vừa chơi” ở vùng Hồ Garda, tôi và
một cô bạn người Đức đã tìm đến Verona.
Nằm ở miền Bắc của Ý, Verona là thành phố du lịch được nhiều
người biết đến, chỉ sau Venice là Hồ Garda. Người ta thường gọi Verona là thành
phố màu hồng bởi ở đây có rất nhiều ngôi nhà được quyét màu hồng. Đây còn là
thành phố tình yêu vì nơi đây chính là quê hương của câu chuyện tình huyền thoại
Romeo và Juliet.
Chúng tôi đến Verona vào một sớm tinh mơ giữa tháng Sáu, thời
tiết rất dễ chịu và mát mẻ. Ấn tượng đầu tiên của tôi về Verona là những ngôi
nhà cao bốn, năm tầng với ban công phủ đầy hoa. Thành phố trong mắt tôi bỗng trở
nên đẹp một cách diệu kì. Hít thật sâu không khí trong lành của buổi ban mai,
tôi bách bộ trên những khu phố nhỏ, ngắm nhìn những ngôi nhà được trang trí bắt
mắt và những giỏ hoa treo lơ lửng bên thềm.
Trước khi tới Verona, người thầy của tôi đã dặn tôi phải mua
giày tốt để đi vì những con đường ở đó được lát đá rất cứng. Nhưng khi đến
Verona, tôi không chỉ thấy những con đường lát bằng đá mà đá còn được trưng bày
khắp nơi, từ những tòa thành cho đến các ngôi nhà.
Verona có những con phố hẹp rất đáng yêu, những con phố mà
tôi hay gọi đùa là “phố tránh nắng” vì mùa hè ở đây rất nóng và khi lang thang
vào những con phố này, người ta dễ có cảm giác mình đang lạc vào một khu rừng
râm mát. Tôi thích nhất là được dừng chân ở một quán cà phê nào đó, nhâm nhi ly
cappuccino và ngắm nhìn dòng người qua lại. Sự hớt hải và nhộn nhịp đời thường
đã nhường chỗ cho vẻ đẹp của sự thanh bình. Phía trước quán cà phê hay trên ban
công của những ngôi nhà, những bông hoa nhỏ li ti cũng vươn mình khoe sắc, những
anh chàng bảnh trai người Ý ra trước cửa tận tình mời khách vào uống cà phê. Tất
cả tạo nên một bức tranh Verona dịu dành và thơ mộng.
Cầm tấm bản đồ thành phố trên tay, chúng tôi loay hoay tới
Roma Arena - Đấu trường La Mã thời xưa. Đây là công trình khá nổi tiếng ở châu
Âu, được xây dựng từ thế kỉ đầu tiên sau Công Nguyên với chiều dài chừng hơn
150m, rộng 123m, phía bên ngoài được bao bọc bởi đá vôi màu trắng và hồng. Hồi
học lịch sử về Rome, chúng tôi được xem bộ phim Võ sĩ giác đấu (Gladiator) và
biết nơi đây ngày xưa đã diễn ra các trận chiến của các dũng sĩ, Roma Arena có
sức chứa tới hơn 30.000 người. Trận động đất vào năm 1117 đã khiến một phần bên
ngoài của công trình bị hỏng. Vào thời kỳ Phục Hưng, người ta đã có ý định sử dụng
đấu trường này làm nhà hát, nhưng mãi đến năm 1913, ý tưởng này mới trở thành
hiện thực. Ngày nay, Roma Arena là nơi diễn ra các buổi hòa nhạc nổi tiếng, tập
trung chủ yếu vào các tháng Sáu, Bảy và Tám.
Người tìm đến Roma Arena vì tò mò, người đến vì muốn ngắm
công trình vĩ đãi này một lần trong đời, người đến vì vô tình bước qua, nhưng mọi
bước chân đều dừng lại ở đó. Trước đấu trường Arena, người ta có thể nhìn thấy
khách du lịch từ nhiều nước khác nhau đứng thành từng đoàn, họ chiêm ngưỡng và
bàn tán về công trình tuyệt vời này. Vào những ngày cuối tuần, khi chiều xuống,
khung cảnh nơi đây càng trở nên tuyệt vời khi ánh nắng nhạt màu phủ lên bức tường
màu hồng tạo nên một bức tranh Verona diệu kì. Đường phố châu Âu khá sạch sẽ
nên chúng tôi cũng không ngần ngại ngả lưng xuống nghỉ ngơi một chút trước khi
tìm đến căn nhà của Juliet.
Căn nhà của Juliet có tên gọi tiếng Ý là Casa di Giulietta.
Đây là ngôi nhà bắt đầu tình yêu huyền thoại của Romeo và Juliet. Nhưng mãi đến
thế kỷ XVII, nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh William Shakespeare mới cho ra đời
tác phẩm lừng danh Romeo và Juliet. Tôi đến căn nhà với một cảm xúc bồi hồi khó
tả, tưởng như chỉ cần khép khẽ bờ mi lại là chàng Romeo và nàng Juliet sẽ hiện
ra trước mặt mình.
Trước cổng vào căn nhà của Juliet, hai bên tường đầy những
dòng chữ của những người yêu nhau đến từ khắp nơi trên thế giới. Họ kí tên mình
lên đó, vẽ những kí tự tình yêu khác nhau để đánh dấu sự có mặt của mình ở ngôi
nhà của cô gái xinh đẹp nhưng lại có một kết cục quá bi thảm. Tôi đảo mắt qua
những dòng chữ trên những bức tường, định tìm một khoảng trống nhỏ để đánh dấu
tên mình nhưng sau lại thôi.
Nhà Juliet không rộng, phía trước ngôi nhà là một khoảng sân
nhỏ, dây leo mọc tường, bên cạnh là bức tượng Juliet. Khách du lịch thay nhau đứng
trước bức tượng để chụp ảnh kỉ niệm. Người ra kẻ vào chen chúc nhau, luồn lách
mãi cuối cùng tôi mới thoát khỏi đám đông và bước vào bên trong ngôi nhà. Phía
bên trong ngôi nhà là một viện bảo tàng nhỏ. Chỉ cần trả phí vài euro, bạn có
thể trèo lên ban công của ngôi nhà và nhìn xuống khoảng sân phía dưới. Ban công
rất nhỏ nên chỉ chứa được vài người, tôi không đủ kiên nhẫn để đứng xếp hàng
nên chỉ đứng ở phía dưới nhìn lên. Khách du lịch chen chúc nhau nên để chụp được
một bức ảnh cũng rất khó. Có lẽ, chỉ vào ban mai hoặc chiều tàn thì mọi thứ ở
đây mới yên ắng hơn.
Rời căn nhà của Juliet, chúng tôi đi vào trong một khu phố nhỏ,
dừng chân ở một quán ăn cũng nhỏ với một hàng cây xanh trông rất thơ mộng để ăn
trưa. Đồ ăn Ý khá phong phú và hấp dẫn. Dù trước đó tôi cũng đã từng nếm thử ở
Hồ Garda, nhưng tôi vẫn “chung thủy” với Pizza. Cô bạn đi cùng bảo ăn Pizza thì
về Đức ăn cũng được, nhưng tôi lại muốn thưởng thức nó ở nơi đây, ngay tại
chính quê hương của món này. Sau đó, chúng tôi tráng miệng bằng kem, tôi đã ăn
kem ở nhiều nước khác nhau nhưng chưa nơi nào tôi được ngồi thưởng thức món kem
trong không khí nhẹ nhàng như ở Ý, cũng chưa bao giờ tôi cố tình ăn chậm để thưởng
thức hương vị của kem như thế.
Ăn xong bữa trưa, chúng tôi ra phố để mua đồ. Những cửa hàng
thời trang dù quyến rũ đến đâu cũng không có sức hút với tôi như những cửa hiệu
bán đồ ăn nho nhỏ, mùi hương từ phía bên trong tỏa ra thơm nức khiến tôi không
đành lòng bước tiếp. Chúng tôi chia thành hai nhóm, một nhóm đi mua sắm và nhóm
còn lại thì tiếp tục tận hưởng những khoảng khắc thú vị của Verona. Tôi cùng
hai cô bạn gái và anh bạn người Đức bước vào những khu phố hẹp, đi qua nhà thờ,
ngắm nghía những công trình kiến trúc hiện đại nhưng vẫn giữ được phong cách cổ
điển, quay lại Quảng trường Erbe và sau đó nghỉ chân ở Quảng trường Bra, ngắm
nhìn dòng người qua lại.
Ở Verona có rất nhiều quảng trường được xây theo kiểu La Mã,
nhưng có lẽ Quảng trường Erbe là một trong những quảng trường đẹp nhất. Thầy
tôi - người đã từng tới Ý nhiều lần - kể cho chúng tôi nghe rằng nơi đây ngày
xưa là nơi tụ họp và bàn bạc của những người có chức quyền, còn bây giờ đây là
khu trung tâm của thành phố với rất nhiều những cửa hàng nổi tiếng. Đến Verona,
tôi mới biết, nơi đây không chỉ là thành phố tình yêu, cũng không chỉ là thành
phố của nghệ thuật mà còn là thành phố của sự yên bình. Dẫu hàng năm thu hút rất
nhiều khách du lịch nhưng Verona vẫn giữ cho mình được những bản sắc xưa cũ. Thời
gian cứ trôi và cuộc sống con người ngày càng tất bật, hối hả hơn nhưng thành
phố này thì vẫn còn nguyên vẻ yên bình và duyên dáng.
Nhắc đến Verona, người ta cũng không quên nhắc tới Lâu đài cổ
Castelvecchio, tới Thánh đường San Zeno Maggiore và khu vườn mơ ước Giardino
Giusti. Có rất nhiều nơi ở Verona hấp dẫn bước chân bạn. Tôi vẫn thích Verona
vào xế chiều hơn cả. Khi lang thang trên cây cầu bắc qua dòng sông Adige thơ mộng,
tôi chợt thấy Verona êm ả và thanh bình. Tôi biết mình không mơ khi đang đứng
giữa nơi này, mà nếu có mơ thì tôi biết giấc mơ ấy cũng đang có thật, nó như một
thước phim quay chậm, thật chậm, để rồi khi phải nói lời tạm biệt với Verona,
tôi bỗng thấy nỗi buồn phủ kín gương mặt mình. Tôi không vẫy tay chào thành phố
như đã từng vẫy tay chào những người thân yêu của mình, nhưng tôi biết hành
trang tôi mang theo trong chặng đường còn lại sẽ không phải là một Verona với
những trung tâm thương mại, với những tòa nhà chọc trời hay những ánh đèn lấp
loáng, mà là một Verona thanh bình và êm ả, một Verona với những khu phố nhỏ
xinh, những căn nhà treo hoa khắp ban công, với dòng sông Adige hứng những giọt
nắng vàng nhuộm dấu vết thời gian và những nụ cười thân thiện của các cô gái,
chàng trai Ý. Và tôi biết, dẫu thời gian có trôi và ngày nào đó tôi trở lại,
Verona có thể sẽ khoác thêm lên mình một chiếc áo mới nữa, nhưng tôi tin, tình
yêu tôi dành cho Verona vẫn còn mãi ở lại, như cuộc tình của Romeo và Juliet vẫn
ghi dấu trong lòng người suốt bao thập kỷ qua.
Ý: VENICE VÀ TÌNH YÊU CÒN ĐÓ
Tôi tới Venice vào những ngày giữa tháng Mười, khi ở Đức đang
bắt đầu ngập tràn những chiếc lá vàng bay thì ở thành phố tình yêu Venice lại
ngập tràn trong mênh mông sông nước với hàng trăm chiếc gondola cong cong lướt
nhẹ trên những con kênh và những cây cầu thơ mộng dẫn lối người đi.
Tôi đã yêu Venice ngay từ cái nhìn đầu tiên khi đứng trên cây
cầu Sealzi (Ponte degli Scalzi) nhìn xuống con kênh Grande Canal. Phút giây ấy,
tôi đã hiểu vì sao ai cũng khát khao một lần trong đời được đặt chân tới xứ sở
tình yêu này.
Dù đã quen với hệ thống kênh rạch ở Hà Lan nhưng khi tới
Venice, tôi vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Nếu như ở Amsterdam là xe đạp, Paris là
tàu điện ngầm và Việt Nam là… xe máy thì ở Venice, thuyền là phương tiện giao
thông không thể thiếu hay nói chính xác hơn, thuyền (hay còn gọi là xe buýt nước)
là phương tiện duy nhất để khám phá Venice cho những ai không muốn… đi bộ. Ở
Venice, để thuận tiện cho việc đi lại, bạn nên mua một chiếc vé đi thuyền tùy
theo thời gian ở lại, tôi chỉ ở Venice có ba ngày nên mua vé 24h để sử dụng, thời
gian còn lại tôi muốn dạo bộ trong những con hẻm nhỏ để ngắm một Venice khác.
Sau khi nhận phòng khách sạn và cất đồ đạc xong, chúng tôi xuống
phố và ăn trưa ở một quán ăn người Ý, ông chủ quán nhiệt tình chào đón và ngồi
tán dóc cùng chúng tôi, hỏi han và dặn dò chúng tôi đủ mọi thứ trong những ngày
ngắn ngủi ở Venice. Nào là nếu có thời gian thì hãy đi thuyền tới đảo Lido và nếu
muốn ngắm Venice từ trên cao thì phải tới Quảng trường St. Marco từ sáng sớm vì
lúc đó còn ít người và sẽ tiết kiệm được thời gian đứng xếp hàng. Người chủ cửa
hàng thân thiện ấy đã cho chúng tôi cảm giác dễ chịu đầu tiên trong những ngày ở
Venice để rồi sau này khi đã về lại Đức, thi thoảng chúng tôi vẫn còn nhắc đến
ông với một tình cảm trìu mến.
Dạo phố ở Venice
Thoảng trong những cơn gió mặn mòi của biển, chúng tôi tản bộ
trên những con đường nhỏ ở Venice, lang thang ngắm nhìn kiến trúc thành phố, những
công trình La Mã với cột và vòm. Những ngôi nhà với giàn hoa rực rỡ, những cửa
hiệu bán mặt nạ và thủy tinh Murano nối đuôi nhau, những quán cà phê thơm lừng
và xen lẫn đâu đó là mùi Pizza và Pasta khiến người ta không thể dừng lại.
Venice từ lâu đã nổi tiếng với những chiếc mặt nạ đủ mọi kiểu dáng khiến người
ta luôn có cảm giác rằng tất cả những gương mặt đó đang hướng về bạn và bạn
chính là “điểm ngắm” của cả thành phố. Tôi nhớ ai đó đã nói rằng: “Đeo mặt nạ
là một trong những cách Venice khiến mọi đẳng cấp xã hội biến mất, mọi con người
đều như nhau đằng sau khuôn mặt bị che giấu.” Venice thực sự đã cho tôi cảm
giác ấy trong những ngày ngắn ngủi ở đây.
Tôi ấn tượng với những ngôi nhà tróc lở nằm sát kênh mà cứ tưởng
tượng ra rằng những người sống ở đây, khi mở cửa ra, thay vì thấy đường phố như
ở châu Âu thì họ sẽ thấy… nước. Những căn nhà ở dưới tầng một đã không còn ai ở
vì nước đã dâng lên, họ chuyển lên tầng hai, tầng ba và cứ như thế cho đến một
ngày Venice chìm hẳn vào lòng biển. Ở Venice, tôi chỉ thấy những ngôi nhà cũ,
phải chăng vì những người sống ở đây cho rằng một ngày nào đó Venice sẽ bị chìm
nên không cần đầu tư quá nhiều vào những ngôi nhà sang trọng như ở Pari, London
hay Copenhagen? Không những thế, Venice còn đặc biệt vì ở thành phố này, dù có
cầm bản đồ thành phố trên tay, tôi tin chắc mình vẫn có thể bị lạc ở bất cứ nơi
nào, đơn giản vì ở đây có quá nhiều ngõ ngách chằng chịt san sát nhau. Tôi tin
là kể cả dân Venice chính hiệu cũng có thể bị lạc nếu trong các con hẻm nhỏ này
không có dấu mũi tên hướng về St. Marco.
Grande Canal và cây cầu Rialto
Venice còn được gọi bằng cái tên trìu mến khác là thành phố của
những cây cầu bởi có đến hơn 400 cây cầu lớn nhỏ bắc qua con kênh chính Grande
Canal. Tôi không có đủ thời gian để đi hết những cây cầu ấy, để đếm xem con số
đó có thật hay không hay chỉ là một con số mà người dân Venice nghĩ ra, nhưng mỗi
cây cầu tôi đi qua đều mang một vẻ đẹp khác nhau, không một cây cầu nào giống
cây cầu nào. Và tất nhiên, tôi không quên dừng lại ở cây cầu Rialto huyền thoại.
Đây là cây cầu lâu đời nhất ở Venice, đứng trên cây cầu này người ta có một góc
nhìn tuyệt đẹp xuống kênh Grande Canal. Hai bên bờ là những quán cà phê, những
cửa hàng kem ngon tuyệt, những ban công đầy hoa và những bức tường gạch nung đỏ.
Grande Canal là con kênh hình chữ S với chiều dài chưa đầy 4km, nhưng đi dọc
con kênh này sẽ thấy rất nhiều nhà thờ. Những kiệt tác đẹp nhất của Venice dường
như đều được trưng bày ở dọc hai bên bờ kênh. Phút giây đứng trên cây cầu này
và ngắm thành phố vào đêm, những chiếc thuyền nhỏ tránh nhau, những chiếc
gondola xen lẫn những chiếc taxi nước, đã cho tôi hiểu rằng mình đang có những
phút giây rất thật, không phải ở trong phim, cũng không phải trong những tấm
thiệp bạn bè từng gửi, dường như tôi cũng đang trôi bồng bềnh cùng thành phố.
Gondola và những khúc nhạc đêm
Sau một buổi chiều đi loanh quanh, khi trời bắt đầu tối,
chúng tôi quyết định ngắm thành phố bằng xe buýt nước vào đêm và tới Quảng trường
St.Marco. Tôi để tất cả những cảm xúc của mình trôi theo dòng nước, thả tất cả
những ưu tư và phiền muộn vào trong đó và thưởng thức một khoảnh khắc rất riêng
ở Venice mà tôi biết rằng sẽ không bao giờ có thể tìm thấy ở một nơi nào khác
trên thế giới này. St. Marco lung linh huyền ảo giữa màn đêm, giờ đã là tháng
Mười nên trời cũng bắt đầu se lạnh, ngoài chúng tôi ra hầu như chỉ còn lại những
cặp tình nhân đi dạo. Mùi thơm của Pizza, Pasta và hải sản tỏa ra trên khắp các
con phố như muốn níu chân chúng tôi. Hai cô con gái của chị bạn chỉ thích chui
vào những cửa hàng lưu niệm để mua quà, tôi tranh thủ thời gian đó đi dạo và ngắm
sự bình yên của Venice trong màn đêm. Vì tôi biết, ngày mai khi bình minh bắt đầu
lên, quảng trường này sẽ lại ngập tràn du khách, bởi thế nên đây là cơ hội tốt
nhất để tôi được thả lỏng mình với Venice. Băng qua những cây cầu nhỏ, tôi bắt
gặp những chiếc gondola với tiếng nhạc vang lên, khi thì chở một cặp tình nhân
lãng mạn nào đó, khi thì là một đại gia đình với tiếng cười trẻ thơ, khi thì là
một nhóm khách du lịch. Đi gondola khá đắt nhưng lãng mạn vì chỉ có những con
thuyền mũi cong này mới có thể “chui” vào được những con kênh nhỏ ở Venice mà
những chiếc xe buýt nước không thể vào tới được. Lướt qua tôi là hình ảnh một
đôi bạn trẻ đang cùng nhau uống rượu vang đỏ trên gondola, họ nắm chặt tay nhau
và cùng nhìn về một hướng. Bản nhạc từ người chèo thuyền vang lên, giây phút đó
tôi không khỏi chạnh lòng nhưng tôi đã mỉm cười và vui cùng niềm vui của họ. Bởi
tôi biết rằng khi biết vui cùng niềm vui của người khác, nghĩa là tôi cũng có
niềm vui của riêng mình.
Quảng trường St.Marco
Sáng hôm sau, sau khi đã thưởng thức xong bữa ăn sáng ở khách
sạn, chúng tôi quyết định sẽ tham quan Venice bằng xe buýt nước để có thể ngắm
các kì quan của thành phố dọc hai bên bờ kênh vào ban ngày. Từ Quảng trường
Roma, chúng tôi lên chuyến xe buýt số 1 vì tuyến xe buýt này dừng lại ở tất cả
các bến và bạn có thể lên xuống tùy thích, chúng tôi quyết định đi thẳng tới
St. Marco để ngắm các công trình kiến trúc vĩ đại này một lần nữa vào ban ngày.
Quảng trường St. Marco là một quảng trường rất đẹp, nơi đây trước kia là trung
tâm sôi động nhất của người dân Venice. St. Marco có tháp đồng hồ cao ngạo nghễ,
hai bên là tượng người Moaris luôn gõ chuông báo hiệu mỗi giờ. Ngoài ra, quảng
trường này được bao bọc bởi bốn tòa nhà dài dằng dặc và rất cổ kính với mặt trước
là Nhà thờ St. Marco, được xây dựng từ năm 840 trước Công nguyên. Tôi đứng giữa
quảng trường ngắm nhìn những chú bồ câu. Đã từ lâu chính quyền Venice có lệnh cấm
khách du lịch ăn uống ở quảng trường này (trừ trong những quán cà phê) cũng như
không được cho phép bồ câu ăn, nên quảng trường này khá sạch so với rất nhiều
những quảng trường khác tôi từng đi qua. Từ đây, chúng tôi tiếp tục đi sâu vào
những con phố nhỏ, mỗi một con phố là một cuộc sống khác, không nơi nào giống
nơi nào, chỉ có chăng cửa hàng nào cũng bày bán thủy tinh và mặt nạ. Tôi cũng
vào đây mua mấy chiếc mặt nạ về làm quà cho bạn bè và một con mèo xinh xắn làm
bằng thủy tinh để tặng mẹ nuôi mình. Sau đó, chúng tôi ghé vào những tiệm bánh
với mùi hương quyến rũ và mua đủ những loại bánh khác nhau để ăn thử. Khi trời
đã xế trưa, chúng tôi quay lại bến thuyền, định bụng sẽ trở về cây cầu Rialto để
ăn trưa nhưng chị bạn đi cùng lại bảo: “Thôi, ăn ở đây cũng được” và chúng tôi
ngồi ngay ở một vị trí rất đẹp, phía trước là mặt biển xanh ngắt bao la. Nhưng
cái giá phải trả cho đồ ăn thì thôi rồi, đến nỗi khi ăn xong rồi tôi nói với
Dung - chị bạn đi cùng: “Ở đây, mình mua chỗ ngồi chứ không phải là mua đồ ăn
chị ạ” và sau lần đó chúng tôi rút kinh nghiệm, bữa tối chúng tôi chọn được một
chỗ còn lãng mạn hơn nhiều nhưng giá rất phải chăng và cho đến tận bây giờ tôi
vẫn nghĩ đĩa mì spaghetti ấy là đĩa spaghetti ngon nhất tôi được ăn trong đời.
Có một Venice đang chìm dần trong biển nước
Suốt những ngày lang thang ở Venice, tôi đã có dự định ra
ngoài đảo Lido và đảo thủy tinh Murano nhưng vì thời gian quá gấp gáp nên tôi
đành lỗi hẹn với Venice ở lần sau. Bạn tôi nói với tôi rằng: “Liệu lúc đó chúng
ta có còn thấy Venice trên bản đồ thế giới nữa không?” Bởi thực sự thành phố
đang là nỗi lo lắng của không chỉ chính phủ Italia mà còn cả của những người
yêu mến Venice. Người dân Venice đang phải đối phó với cảnh nhà của họ đang
chìm dần xuống nước do thủy triều. Tình trạng lụt lội ở đây xảy ra thường
xuyên. Các trận lụt đã làm xói mòn nền móng của thành phố được xây dựng từ thế
kỷ XVI và đe dọa đến các tác phẩm nghệ thuật kiến trúc vô giá. Chính phủ Venice
hiện đang xây dựng một hệ thống kè chắn để đối phó với tình trạng này, vì theo
thống kê của các nhà khoa học thì trong vòng 50 năm tới, một nửa thành phố sẽ
chìm trong biển nước.
Tôi biết mình đã dành cho Venice một tình yêu vĩnh cửu khi dạo
chơi trên những con đường hẹp, lắng nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào bờ sông mỗi khi
thuyền qua lại, soi mình vào dòng nước mênh mông in bóng nắng chiều còn rớt
trên những tòa nhà cổ kính hay chỉ đơn giản là ngắm nhìn những ô cửa sổ đầy
hoa, những dây phơi quần áo bay bay trong gió, những nhà hàng thơm mùi Pizza và
Pasta. Vinice đã cho tôi những phút giây được rời xa mọi toan tính đời thường
và thả lòng trong những khoảng lặng yên bình của cuộc sống.
Tôi đã yêu Venice bằng một tình yêu như thế và tôi biết, sẽ
có một ngày tôi quay trở lại với Venice.
CHÂU ÂU: MÙA THU VÀNG
Từng sống ở Châu Âu nhiều năm và trải qua đủ bốn mùa, nhưng nếu
hỏi tôi yêu mùa nào nhất thì có lẽ tôi sẽ không ngần ngại mà nói rằng đó là mùa
thu. Tôi sẽ không bao giờ có thể lý giải nổi vì sao tôi lại yêu mùa thu đến thế,
cũng như khi yêu, người ta không cần biết đến lý do. Nhiều người vẫn hỏi tại
sao tôi không yêu mùa xuân vì mùa xuân ở Châu Âu bao giờ cũng lung linh và rực
rỡ sắc màu hoa. Người khác lại hỏi sao tôi không yêu mùa đông vì mùa đông châu
Âu luôn ngập màu tuyết trắng tinh khiết. Tôi chỉ cười. Mỗi màu ở châu Âu đều
mang vẻ đẹp riêng, nhưng tôi lại “thiên vị” mùa thu hơn cả. Không hẳn bởi mùa
thu để lại trong tôi quá nhiều kỉ niệm, mà bởi tôi luôn thấy lòng mình ngập
tràn cảm xúc mỗi độ thu sang. Không tươi rói như mùa xuân, không ảm đạm như mùa
đông, mùa thu là bức tranh của các mùa ghép lại. Tôi thích những buổi chiều đi
dạo, nhặt những chiếc lá vàng, nâng niu chúng trên tay ngắm nhìn thật lâu rồi lại
thả chúng bay đi… Tôi thích những ngày nằm dài trên thảm cỏ xanh, ngước lên bầu
trời nhìn những chiếc lá vàng bay theo chiều gió thổi, đôi môi khẽ mỉm cười - một
cảm giác buâng khuâng, sâu lắng.
Người dân châu Âu vốn dĩ rất yêu thiên nhiên, bởi thế nên
trong công viên, khi tiết trời vào thu luôn có rất nhiều người. Những cụ già
tay trong tay, những bạn trẻ nuôi dưỡng tình yêu bằng những cuộc picnic nhỏ
trên thảm cỏ hay thậm chí bạn cũng có thể gặp các cô tiến sĩ tương lai ôm sách
ra công viên học. Tôi tự hỏi mùa thu châu Âu đẹp đến thế này, làm sao những cô
nàng ấy có thể học nổi, nhưng họ vẫn rất chú tâm vào những trang sách của mình.
Nhớ hồi ở Séc thăm một người bà con, buổi chiều tôi thường
lang thang trên một con đường nhỏ nhặt lá vàng. Khi người lớn hỏi tôi nhặt lá
vàng làm gì, tôi trả lời rất thật: “Cháu gửi về Việt Nam cho bạn cháu!” Đó là
suy nghĩ rất hồn nhiên của đứa bé 15 tuổi nhưng thói quen đi nhặt lá vàng ngày ấy
tôi vẫn còn giữ cho đến tận bây giờ.
Đến Paris cũng vào những ngày chớm thu, nhìn nắng rơi trên
chiếc lá đang đổi màu, tôi thấy mình thật giàu trí tưởng tượng khi nghĩ rằng
mùa thu Paris sẽ giúp tôi cho ra đời những tác phẩm văn chương bất hủ như các
nhà văn Pháp ngày xưa. Bên dòng sông Seine, những chiếc lá bay rồi thả mình
trên dòng nước luôn khiến tôi chăm chú ngắm nhìn mà chẳng bao giờ biết chán. Những
người bạn nước ngoài của tôi dường như chẳng bao giờ có thể hiểu được vì sao một
chiếc lá vàng đậu trên vai cũng làm tôi rùng mình run khẽ. Mùa thu cho tôi những
cung bậc yêu thương, nhung nhớ, dỗi hờn. Mùa thu cho tôi được cười, được khóc
trên những xác lá vàng bay. Tôi thích được thả hồn mình trên đại lộ
Champs-Élyseés với những hàng cây đang thay lá, được ngồi trong những quán cà
phê nhâm nhi và ngắm nhìn dòng người qua lại hay đi vào các khu vườn nổi tiếng
Luxembourg và Tuileries với những chiếc lá đã nhuốm màu vàng và những vòi phun
nước đẹp tạo nên một mùa thu Paris vô cùng nên thơ.
Một lần đặt chân tới Bonn - một thành phố cổ xinh đẹp của nước
Đức, tôi dạo bước trên con đường ngập tràn lá và hoa. Anh bạn người Bỉ theo sau
vừa tranh thủ chụp hình, vừa than thở: “Lạc vào thế giới của em rồi, biết đến
ngày nào mới ra khỏi đây?” Tôi mặc kệ và cứ thế tung tăng. Kia là nắng, là hoa,
là cỏ mềm êm ả. Tôi tản bộ trên những con đường được lát bằng những viên gạch cổ,
ngắm nhìn những ngôi nhà nhỏ bé núp mình trên những con phố lớn. Tôi tự hỏi có
phải những ngôi nhà ấy cũng đang trốn tránh những ồn ào của phố thị như tôi lúc
này hay không?
Thời tiết vào thu thật dễ chịu. Se se lạnh một chút vào ban
mai, ấm áp vào ban trưa và mát mẻ vào ráng chiều. Mặc cho lá đổi màu, khoác lên
mình những chiếc áo mới, hoa vẫn thi nhau nở. Vẫn còn những bông tulip rực rỡ sắc
màu, vẫn là cúc vàng, là hồng đỏ xen lẫn vào nhau. Mùa thu châu Âu đẹp đến lạ
kì. Và bao giờ cũng vậy, cứ mỗi độ thu về, tôi thường thấy mình sống chậm hơn,
nhẹ nhàng hơn và cũng trầm tư hơn một chút. Thời gian có thể trôi đi và vạn vật
có thể đổi thay, nhưng chắc chắn tình yêu mùa thu trong tôi sẽ không bao giờ
thay đổi. Bởi vì mùa thu, dưới những ánh nắng vàng ấm áp, đi trên những con đường
ngập tràn xác lá, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình đang sống ở thế kỷ XXI với những
lo toan đời thường, mà dường như tôi đang được sống trong câu chuyện cổ tích của
ngày xưa.
Thật dễ chịu khi một sớm mai thức dậy giữa mùa thu, được thấy
bầu trời trong vắt, thấy nắng cười nắng tỏa khắp muôn nơi và được ngắm nhìn thỏa
thuê một không gian với đủ những gam màu kỳ ảo.
TÔI ĐÃ ĐI VÀ ĐÃ THẤY...
Tôi đi một mình quen rồi, nhưng tới đâu cũng gặp được những
người thương yêu. Điều tuyệt vời này tôi biết không phải ai cũng may mắn có được,
thế nên tôi càng trân trọng nó nhiều hơn”, tôi đã chia sẻ với những người bạn của
mình như thế khi luôn nhận được những câu hỏi rằng tôi đi một mình hoài như vậy
mà không thấy chán sao?
Thật ra tôi thấy mình đang đi trên một chuyến hành trình đầy
thú vị, mỗi ngày được học hỏi thêm vài điều, được khám phá những miền đất mới lạ
bằng những trải nghiệm riêng của mình, được thưởng thức những món ăn ngon và được
sống với những cảm xúc không bao giờ cũ. Vậy nên, chẳng có điều gì có thể khiến
tôi cảm thấy chán nản cả, mà nếu thế thì có lẽ tôi đã khép lại chặng hành trình
của mình từ lâu trước khi để người khác phát hiện ra điều đó.
Nhiều người cứ nghĩ đi du lịch phải có ít nhất một người bạn
đồng hành đi cùng mới vui, nhưng tôi thì nghĩ cái khái niệm “vui” hay “không
vui” còn tùy thuộc rất nhiều vào suy nghĩ và cách nhìn nhận vấn đề của mỗi người.
Tất nhiên, nếu được lựa chọn thì tôi biết, chẳng ai muốn đi một mình cả. Nhưng
nếu nhìn vào mặt tích cực của nó, ta sẽ thấy: Đôi khi đi một mình cũng mang lại
cho chúng ta một điều gì đó mà có thể khi đi cùng một nhóm bạn, ta sẽ không bao
giờ dành thời gian cho nó. Như tôi vẫn thường thích ngồi trong quán cafe ở một
thành phố xa lạ nào đó, ngắm nhìn những dòng người lướt ngang qua với những
gương mặt khác nhau, với những buồn vui lẫn lộn. Tôi ngắm nhìn trời đất với
muôn vàn ý nghĩ, tôi sẵn sàng mỉm cười với những người mà tôi không hề quen biết
khi họ lướt ngang qua. Tất cả những điều ấy, tôi nghĩ mình sẽ không có thời
gian để làm khi đi cùng cả nhóm bạn.
Tôi có một cô bạn học ngồi cạnh tôi suốt mấy năm trung học ở
Đức, sau khi tốt nghiệp phổ thông, thay vì đăng kí vào một trường Đại học hay
xin vào một công ty nào đó để vừa học vừa làm như bạn bè cùng lớp thì cô quyết
định sang tận Israel một năm để làm công tác tình nguyện.
Quyết định đó khiến nhiều người trong lớp ngỡ ngàng và không
hiểu tại sao cô lại “sang tận xứ ấy” bởi với họ, Israel là một đất nước rất xa
vời. Khi trở lại Đức, cô nhận ra mình vẫn chưa muốn dừng chân ở lại và sau khi
gom góp được một số tiền đủ để trả tiền vé máy bay, cô lên đường sang New
Zealand. Ở đó cô làm những công việc khác nhau để trang trải cho cuộc sống và
dành thời gian đi du lịch bụi. Từ New Zealand cô sang Úc rồi từ Úc sang
Singapore và cứ thế cô đi dọc theo những nước Đông Nam Á, từ Indonesia,
Malaysia đến Việt Nam, Lào và cuối cùng dừng lại ở Thái Lan trước khi bay trở lại
Đức. Chín tháng cho một chặng hành trình đầy thú vị với biết bao trải nghiệm
quí báu mà tôi tin, kể cả trong những năm tháng ngồi trên ghế giảng đường cô
cũng sẽ không bao giờ học được điều đó.
Giáng sinh vừa rồi chúng tôi gặp lại nhau ở trường cũ, tôi có
hỏi cô ấy rằng cho đến bây giờ tôi vẫn không ngừng thắc mắc trước quyết định
táo bạo đến mạo hiểm của cô ấy ngày đó, cô ấy cười và nói với tôi rằng: “Bản
thân tớ thật ra lúc đó cũng không biết là mình nên hay không nên đâu, có thể
nói đó là một sự mạo hiểm có phần táo bạo. Tớ cũng trải qua nhiều khoảng khắc
hoang mang và sợ hãi những ngày không còn một đồng xu dính túi, nhưng cậu thấy
đó, tớ vẫn trở về bình an và tớ nhận ra được một điều rằng tớ đã có những ngày
thật hạnh phúc”. Tôi nhận ra sự mãn nguyện trong từng lời nói của bạn tôi và
tôi hiểu, những kỷ niệm đẹp đẽ và thân thương về những ngày tháng ấy sẽ là món
quà vô giá trong kho tàng trải nghiệm sống của bạn hôm nay. Thế nên, tôi luôn
ngưỡng mộ những con người đang dấn thân mình vào những chuyến đi cuộc đời.
Có thể trong chuyến hành trình ấy, họ cũng như tôi, sẽ mất một
chút thời gian, một chút sức khỏe, một chút tiền và vài thứ khác nữa, nhưng đổi
lại họ sẽ có những điều mà dù ai đó có sở hữu cả trăm triệu đô cũng khó có thể
mua được.
Tôi nhớ mình đã đọc được ở đâu đó có một câu nói đại ý rằng:
“Cứ đi đi rồi sẽ đến, khi đến rồi sẽ biết, nếu không đi, nơi đó mãi mãi là điều
bí mật.” Tôi cũng đang trên con đường chinh phục cái đẹp và khám phá những điều
bí mật ấy bằng những chuyến đi của mình. Đi và trở về, để thấy thế giới thật
tươi đẹp, để thấy rằng mình là một người thật may mắn vì được rong ruổi những nẻo
đường ngược xuôi, được khám phá những miền đất mới lạ hay chỉ đơn giản là được
cầm chiếc máy ảnh ghi lại những khoảnh khắc đẹp rồi sau đó ghé vào một quán
cafe nào đó, vừa nhâm nhi ly cappuccino nóng hổi, vừa viết Nhật kí du lịch. Thế
nên trong túi xách tay của tôi bao giờ cũng có một cuốn sổ nhỏ để tôi lưu giữ
những cảm xúc nhất thời ngay lúc đó, ai biết được ngày mai khi trở về, tôi có
còn giữ được hay không? Tôi thấy mình trở nên tinh tế và dịu dàng hơn mỗi ngày
và sau mỗi chuyến đi, tôi lại thấy một tôi hoàn toàn khác. Tôi nhìn đời sống bằng
đôi mắt thiết tha hơn, tôi cảm nhận được hạnh phúc từ những điều nhỏ nhoi và vụn
vặt nhất giữa đời thường và tôi thấy, mình vẫn mãi là cô gái lãng mạn của ngày
hôm qua, cho dù tuổi thanh xuân của tôi đang nhẹ nhàng khép lại.
Tôi đã và đang dành những lời yêu thương nhất để viết vào cuốn
Nhật kí hành trình của mình và vẫn sẽ tiếp tục sải dài đôi chân của mình trên
những miền đất lạ cho dù nhiều người vẫn cứ mãi nhìn tôi như một kẻ lang thang
đơn độc. Nhưng đó là vì họ đang đứng phía sau tôi, bởi thế nên họ không thấy được
những cái đẹp mà tôi vô tình che mất. Mà suy cho cùng thì, độc hành đâu có
nghĩa đã cô đơn. Đôi khi chỉ cần có sự bình an và tự tại ở trong tâm là đã có
thể khiến cuộc sống hạnh phúc hơn lắm rồi. Tôi vẫn đi theo cách riêng của mình,
chẳng phải là để “khoe” thành tích những nơi mình đã đi qua, mà chỉ đơn giản là
biết hơn, hiểu hơn và yêu thương hơn cuộc sống này và những con người đang sống
ở quanh tôi.
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi muốn dành tặng cuốn sách này cho bố mẹ và em
trai - những người đã luôn dõi theo từng bước đi của tôi từ quê hương Việt Nam
thân yêu và chắp cánh cho mọi ước mơ của tôi bay xa. Cảm ơn bố mẹ đã dành cho
con một tình yêu thương vô bờ bến, dẫu không ít đôi lần con đã làm bố mẹ phải
lo lắng và xót xa. Cảm ơn em trai Ngọc Anh đã luôn ở bên và động viên chị trong
mỗi lúc khó khăn.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình bố mẹ nuôi người Đức
của mình, cảm ơn bố mẹ nuôi đã dạy dỗ và nuôi nấng con, cho con một ngôi nhà thứ
hai thân thương và ấm áp trên quê hương nơi xứ lạ.
Cảm ơn những người bạn đồng hành đã rong ruổi cùng tôi suốt
những nẻo đường châu Âu. Cảm ơn những tấm lòng yêu thương, trìu mến của những
người bạn vừa lạ, vừa quen mà tôi đã gặp và quen trong mỗi chuyến đi xa của
mình. Các bạn đã làm đầy cuộc sống của tôi bằng rất nhiều những điều thiết thực.
Tôi vẫn và sẽ luôn nhớ tới các bạn với những tình cảm thân thương nhất!
Cảm ơn các anh chị đang làm việc tại Công ty Cổ phần Sách
Thái Hà đã giúp tôi thực hiện cuốn sách đầy ý nghĩa này để kỷ niệm 12 năm ngày
tôi xuất ngoại.
Cuối cùng, tôi muốn gửi đến những độc giả của Dưới nắng trời
Châu Âu lời nhắn nhủ rằng: Tất cả những gì tôi viết trong cuốn sách này đều là
những ký ức thân thương đã được ghi lại bằng cảm xúc chân thật nhất. Tôi không
dám nhận mình là “ma xó” ở châu Âu nhưng tôi hy vọng rằng những trải nghiệm của
mình sẽ “đánh thức” được phần nào những khao khát được dấn thân và ước muốn được
đi xa của các bạn. Hãy đi khi còn có thể, bạn sẽ thấy thế giới thật là đẹp và
người tốt trong cuộc đời này còn nhiều lắm!”
Hẹn gặp lại các bạn một ngày nào đó dưới nắng trời Châu Âu!.
4/9/2017Hoàng Yến Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét