Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2024

Chuyện tình Phja Bjooc 2

Chuyện tình Phja Bjooc 2

Chương 13
Lửa Tình
Mây chiều kéo bóng xuống dòng Nậm Khao. Gió túm mặt nước dập dềnh ném ì oạp vào khe đá. Tụi chim ríu ra, ríu rít chao liệng đùa giỡn trên mặt nước trước khi bay về rừng mác cọt. Hợp khỏa nước, chầm chậm bước xuống. Nước òa ập vây quanh bắp chân rắn rỏi, lặng lẽ lùa quanh như trò đùa của tụi trẻ con. Vục hai tay xuống nước, Hợp táp lên mặt. Từng hạt nước mát lạnh không làm vơi bực mình trong suy nghĩ. Hợp không biết từ bao giờ mình nghĩ đến Ri, vì lẽ gì tình cảm bùng lửa, xô ập vào người con gái ấy. Mà chính em cũng không biết vì sao lại thế đúng không?
Thứ lửa tình của hai con người gần nhau, âm ỉ ngày này qua tháng khác, mùa này nối mùa kia, bây giờ bùng cháy dữ dội. Lửa trong bếp, trên nương rẫy mà gặp nước thì tắt, thế nhưng thứ lửa tình tóa ra từ trong hồn vía, gặp nước như được tắm trong men say, khiến cho hai người đắm đuối. Ấy mới là điều lạ! Thế nên cái mặt bị vùi xuống dưới sông ngàn ngàn lần, thân bị dìm xuống đáy nước sâu, thì đời này kiếp này, lửa tình vô hình của Hợp bén sang Ri vẫn rực cháy mãi không thôi.
Hồi còn bé, cũng chính chỗ nông của khúc sông này, vào cuối chiều, khi ánh ngày nhẹ lướt trên cây lau, bông chít, nước sông phản chiếu màu mây hồng nhạt pha sắc tím, tụi trâu sau khi nhồi vào bụng lũ cỏ trong rừng, bụng căng mọng tựa quả sim chín, Hợp với Ri, em Rinh cùng lũ bạn chăn trâu thỏa sức chơi trò bắt ba ba, thi bơi, thi lặn. Tụi trẻ tha hồ lặn ngụp, xoãi chân, giang tay, nằm ngửa, thả người nổi trên mặt nước, để tự nước đẩy đi. Cái mắt ôm trọn bầu trời có những khối mây lớn, bé đủ hình thù thoắt hiện, thoắt ẩn, biến hóa sinh động. Cái tai lắng nghe giọng nước ngân nga hát bản tình ca bất tận trong chiều trôi về tối. Thật vô tư khi lũ con trai trần truồng như nhộng kéo chân, kéo tay tụi con gái cũng khoe cơ thể gầy nhẳng như que củi, không chút vải che thân, thi nhau tìm bắt ba ba, hò hét vang dậy khúc sông, đến lúc bóng tối bịt mắt mới đủng đỉnh về nhà.
Thực ra, Hợp không định hình nổi mình đi qua tuổi thơ ngây, làm thằng trai cất tiếng nói ồm ồm từ bao lâu rồi. Vồng ngực Hợp biết đánh trống trận trước đôi mắt đen tựa hạt mần tang già và trong trẻo như nước dòng Nậm Khao của Ri. Nụ cười cùng gương mặt trắng hồng của em vô tư len vào giấc ngủ, khiến con tim Hợp thắc thỏm...
Thích Ri đến thế nhưng Hợp không thể thốt ra lời. Có lẽ Ri cũng thế thôi. Sao hai đứa đủ can đảm để nói với mé điều ấy? Vẫn ăn cùng mâm, đi học chung lớp, lên nương gieo chung một ống hạt giống, êm đềm sống trong mái nhà từ bé đến lớn... Trong mắt người bản, Hợp là thằng anh tài giỏi, Ri với Rinh làm hai đứa em gái ngoan hiền. Ba anh em là niềm tự hào của mé. Nhiều lần mé bảo, ước mơ tuổi trẻ của mé gửi vào ba đứa, thế nên dù có khổ, mé cũng cố vượt qua nuôi mấy anh em ăn học, có chữ hơn người. Cũng vì thương mé mà Mường Vang có ba anh em Hợp lẽo đẽo vượt núi, lội sông đi lấy cái chữ của thầy, cô giáo mãi dưới huyện. Kể ra thì buồn cười, trong Trường phổ thông Trung học huyện Pó Liểng, có duy nhất anh em Hợp cưỡi ngựa đi học.
Ba anh em mà có hai con ngựa. Con ngựa nâu và con khoang. Chúng là giống ngựa quí của vùng núi Phja Bjooc. Chân thon, vóc chắc, mông nở. Chiếc bờm trên cổ dựng ngược lên oai vệ. Tiếng hí lanh lảnh cách vài cánh rừng vẫn nghe thấy.
Tụi ngựa rất khôn. Anh em Hợp ngồi học trên lớp, chúng nhẩn nha gặm cỏ ở bìa rừng sau trường học. Không cần phải buộc vào cây, chân lũ ngựa không đi xa. Nhồi cỏ no căng bụng là đến giờ tan lớp. Không cần gọi, tự khắc con khoang và con nâu đứng ngoài cổng trường gõ móng sồn sột, hí gọi. Người lạ không ai dám bén mảng đến gần. Tụi ngựa cao hơn mét sáu, chúng chỉ ngoảy đuôi là quật ngã người. Thường thì Ri và Rinh chung nhau cưỡi con khoang, còn con nâu là của Hợp. Nhưng mà Hợp hay dẻo chân đi bộ, Hợp thích nhảy chân sáo hơn.
Chặng đường từ huyện về nhà, dù mùa đông sương phủ kín mường, mùa hè mưa như trút nước, thế nhưng lịch trình đi tìm kho chữ không đổi. Tờ mờ sáng, khi tụi gà chưa biết mở miệng thì mé lay từng đứa, miệng gọi ời ời:
- Dậy, dậy thôi, sáng rồi.
Bao giờ thì Ri và Rinh cũng bật dậy như thể ngồi ở bên kia đầu cái nhịp chày. Còn Hợp thì lần khân, mắt díp tịt, mấy lần vục dậy, rồi nằm xuống mà chưa thể chạy ra ngoài "lìn" nước rửa mặt.
- Cứ thế thì muộn học thôi! - Em Rinh làu bàu, múc gáo nước, xòe tay vẩy vào mặt Hợp cho tỉnh ngủ.
Rinh làm thế thì tốt cho Hợp, nhưng lần nào Hợp cũng đưa tay lên mặt gạt nước, la lối:

- Ay ấy, ướt tao, mày muốn ăn cơm đấm rồi.
Rinh cười khinh khích:
- Ri à, kệ thằng anh Hợp, đi thôi! – Nói thế rồi Rinh cố tình dẫm chân bình bịch xuống sàn nhà, miệng nhanh nhảu: - Con đi học mé à.
Khi thì mé dúi nắm cơm lèng, lúc lại gói xôi bọc lá chuối vào tay Ri, dịu dàng:
- Ừ, hai đứa nhẩn nha đi trước, thằng Hợp nó guồng chân sẽ kịp.
Đều đặn như một lịch trình biết trước. Nghe tiếng nói của chị em Ri ở trên nhà vọng xuống là tụi ngựa lộc cộc nện móng và cất tiếng hí dài. Lúc ấy thì Hợp tỉnh ngủ, vùng dậy chạy ra ngoài sàn, vã nước ào ào lên mặt.
Anh em Hợp cưỡi ngựa đi học đến hết năm học lớp chín.
Đầu năm lớp mười. Buổi tối trước ngày khai giảng năm học, sau khi sắp sách vở cho vào túi, Rinh hiếng mắt nhìn Hợp và nói:
- Mai không thích cưỡi ngựa nữa, đi học bằng chân thôi.
Hợp ngạc nhiên, gặng hỏi:
- Sao không đi bằng ngựa cho đỡ mệt?
Em Rinh lắc nhẹ mái tóc, nhấm nhẳn:
- Xuống huyện người ta nhìn chằm chằm, chỉ trỏ như mình làm gì sai. Không thích.
Hợp cười váng lên làm tụi sóc giật mình nhảy ra khỏi hang quanh nhà, ngó nghiêng. Sau chuỗi cười giòn, Hợp khoát tay:
- Kệ chứ! Cho họ nhìn chán, khắc thôi.
- Mắt già làm ngơ, mắt tụi trẻ không chán. Nhất là tụi trai ấy. Thằng nào cũng hau háu nhìn, thả lời trêu chọc khó nghe. Rõ là ghét!- Rinh quay sang Ri đang giúp mé thái rễ cây, đột ngột hỏi: - Tao nói đúng không? Mày thích thì cứ cưỡi ngựa nhá.
Tính Ri vốn điềm đạm, chưa vội trả lời, mặt hơi nghểnh lên, khẽ lắc đầu. Rinh vóng vót: - Tai mày nặng a? Vờ vĩnh, khôn lỏi. Biết mà chả nói.
Mé từ nãy vẫn lặng yên, giờ thấy Rinh đành hanh, thả lời đe:
- Con này, lớn rồi bớt nồng nàn đi, mày chỉ giỏi bắt nạt chị. Từ mai tao nghe mày không gọi cái Ri bằng chị thì đừng trách.
- Hùi! Kệ nó đi mé. Trong nhà gọi sao cũng được! – Ri nói bình thản.
Mé lắc đầu nói chắc nịch: - Bé thì không sao, nhớn cả rồi, người ngoài cười cho. Trên cao, dưới thấp phải có thứ tự.
Mé hiền hậu nhưng nghiêm khắc.
Ba anh em Hợp, Ri, Rinh lớn lên trong vòng tay yêu thương đùm bọc, trở che của mé. Mé vừa làm cha, vừa làm mẹ. Từ ngày ông, bà trẻ gọi nhau vào trong rừng mả làm người thiên cổ, căn nhà rộng thiếu vắng bóng người đàn ông. Nhiều cái khổ đổ ập vào đôi vai của mé. Những việc nhỏ nhoi như cần cối xay gẫy nằm chỏng chơ, vách liếp ngăn buồng bưng xộc xệch, máng vầu bắc nước bị gió xô lệch, không đưa nước về nhà... đều một tay mé lụi cụi lo làm lại cho chắc chắn. Thư thoảng cũng có lúc nhờ người trong họ làm cho, nhưng nhờ nhiều quá không được. Người ta nhìn vào cảnh mẹ góa, con côi thầm thì đơm đặt những chuyện nghĩ đến đã thấy gai người...
Khổ nhất là mái nhà lợp cọ lâu rồi chưa thể lợp lại. Lúc nắng ngửa mặt lên nhìn thấy kín. Khi mưa gió, ngôi nhà sàn đung đưa, các mộng cột kèo theo năm tháng bào mòn kêu răng rắc. Mưa trút nước xuống mái cọ như thể hàng trăm bà then múa quần ngựa chảy tí tách, lọt qua khe hở bị mủn nát mái, rơi vào trong nhà, lăn xuống sàn, làm ướt các vật dụng cũ kỹ. Chỗ ngủ cần phải kín, mé lấy tấm ni lông màu xanh, buộc dây bốn góc, nước không rơi xuống mặt, cái mắt tha hồ nhắm lại ngủ ngon lành.
Những nơi khác trong sàn nhà, hai chậu men, vài chậu gỗ mang ra hứng nước nhỏ giọt, nhưng làm sao mà hứng hết chỗ dột? Cũng may chỗ chái bếp không dột. Mé bảo, hồi xưa ông bà trẻ dạy mé, cái bếp không lúc nào được tắt lửa, càng không bao giờ để nước rơi xuống. Bếp đỏ lửa, than hồng rực là chủ nhà có sức khỏe, làm ra nhiều củ sắn to, bắp ngô chắc hạt, con ngựa chạy nhanh, con gà chóng lớn. Ngược lại, lửa bếp tắt, than tàn, nhà ấy có chuyện lớn rồi, phải mời thày then về cúng. Như thế lo lắng quẩn quanh bám riết, không còn bụng dạ lên nương tra hạt, xuống ruộng cấy lúa nữa. Lúc ấy cái khổ, cái đói tồng tộc chạy vào nhà, mặt mũi bủng beo, vầng vọt...
Chuyện nhà không có đàn ông để dột thì bé tí như thể con cá quẫy dưới nước, con chim bay ngang trời. Chuyện lớn hơn, khổ hơn là vào dịp bản có lễ hội hay mùa trẩy quả mác cọt.
Lễ hội trong bản, ngoài mường làm ở động Ngườm Nải. Ba mé con bao giờ cũng là người sau cùng dâng mâm lễ mọn. Mặc dù khói hương mờ mịt, nhưng không che nổi những ánh mắt khinh khỉnh xoáy vào mé con Hợp. Người bản quan niệm, nhà được dâng mâm cúng trước là gia đình bề thế, tốt đẹp, được mọi người tôn kính. Còn mâm cúng sau cùng là gia đình có nhiều chuyện không hay, không tốt, làm ảnh hưởng đến uy tín bản, mường.
Hồi bé, ba anh em Hợp không hiểu có chuyện gì mà nhà mình bị đối xử như thế. Đấy, nhà ké Nám có thằng con đi tù vì tội buôn hàng cấm, hãm hiếp trẻ con, thế mà mâm cúng vẫn đứng trên nhà Hợp. Nhiều lần, chỗ đặt mâm cúng trên mấy tầng ban thờ đá không còn, mâm nhà Hợp để lung tung, có khi đặt xuống mặt hang đá trải phên nứa, cách chân người khấn vái hàng đầu vài gang tay thôi. Họ chen lấn, cầu xin may mắn, mắt hếch lên, cái chân bước qua, dẫm bừa lên mâm cúng nhà Hợp. Đất cát, bụi đá phủ vào xôi đăm đeng, đĩa bánh dầy văng lung tung, thế nhưng mé vẫn nuốt nước mắt nhặt về. Mé bảo, mỗi hạt cơm, miếng bánh là hạt ngọc của trời. Từng hạt ngọc kết dính làm xôi dẻo, bánh dầy thơm, lòng thành tâm kính, dâng thánh thần. Một miếng lộc thánh bằng mấy gánh của người trần thế. Người ta làm mâm cúng nhà mình bẩn, người ta gánh tội. Lộc thánh bị bẩn không ăn được, gọt bên ngoài đem xuống lòng sông thả cho tụi cá rỉa lấy phúc phận, còn lõi thì mấy mé con nhấm nháp, nhẩn nha đến khi bụng no căng khắc có sức khỏe.
Hình như người bản sinh ra cái quyền được đè nén nhà Hợp. Ngay tụi trẻ con cũng thế. Đang vui chơi với nhau thân thiết, nhưng đến lúc chia nhau thứ quả rừng, tụi nó ăn những quả ngon, để lại cho anh em Hợp quả xấu xí, còi cọc. Trẻ con vô tư, trong sáng, nhưng tại người lớn tiêm nhiễm điều xấu cho tụi trẻ thôi. Biết thế nhưng không làm thế nào thoát ra khỏi.
Chuyện thằng Sần thích hai chị em Ri và Rinh thì Hợp lờ mờ đoán biết qua cử chỉ, hành động, lời nói của nó. Những gói xôi lá chuối nóng hôi hổi nó dúi vào tay hai đứa em của Hợp mỗi sáng lạnh cóng. Tập sách giáo khoa mới cứng, tụi vở mới thơm mùi giấy bọc cẩn thận, nhãn vở điền tên Ma Thị Minh Ri, Ma Thị Minh Rinh khiến Hợp lác mắt... Rồi đôi chiếc gương tròn tựa mặt trăng, cặp tóc nơ vàng nhạt sao hợp với mái tóc dài óng ả của Ri, Rinh đến thế? Nhiều lắm Hợp không biết hết...
Ri bảo, không muốn nhận những thứ thằng Sần cho, nhưng miệng lưỡi nó nói nghe lọt tai lắm. Nói hay như con chim, không nhận không được. Mà nhận rồi làm thế nào trả nợ?
Thấy Ri băn khoăn, em Rinh khoát tay cười vang, tự nó khắc cho cứ lấy, mình có xin đâu. Nhà nó thiếu gì của nả. Nghe người ta đồn, vàng bạc nhà nó nhiều không kể xiết, hình như có cặp dê đúc bằng vàng chầu hai bên ban thờ. Thứ nó chia cho mình, nhỏ như hạt cát trong bãi cát lớn hai bờ sông.
Nhiều lần, nhìn nét mặt không vui của Ri, thằng Sần nói đừng nghĩ ngợi gì, chúng mình là bạn tốt của nhau. Có ăn cùng hưởng, có của chia sẻ. Nó nói thế thì Ri biết thế, nhưng thật sự Ri sợ nhìn vào đôi mắt sắc như lưỡi dao của nó lắm. Là cảm giác của Ri thôi, thế nên mấy năm học cấp ba, tuy ngồi chung bàn, nhưng Ri ngại nhìn vào mắt nó. Ri thấy chờn dợn.
Có điều, Hợp đoán rằng chẳng hiểu vô tình hay có lý do nào khác, thằng Sần hình như thích cả hai chị em Ri, Rinh. Bụng nó sao lại mê hai đứa gái cùng lúc nhỉ? Có phải nó tham lam không? Hay đầu nó không bình thường? Hợp nghĩ mãi rồi, phải hỏi thẳng nó thôi.
Cách đây chưa đầy hai bàn tay ngày đêm đuổi nhau, Hợp kéo thằng Sần ra sau lớp học. Dưới tán rừng sau sau xanh rì, tụi ve tấu lên những giai điệu gọi nắng hè, Hợp nheo mắt, thăm dò:
- Sần này, sắp học xong chữ ở trường rồi, tao để bụng chuyện này lâu lắm, muốn hỏi mày.
- Sao thế, có gì mà phải đo bụng tao? – Sần thoáng chút cau mày, nói trịch thượng: - Cứ hỏi, tao không dấu đâu. Người tốt đi đường thẳng, người xấu vào đường cong.
Lời thằng Sần sao hôm nay khó nghe thế? - Thoáng nghĩ vậy nhưng Hợp không chấp. Vốn tính nó thường ngạo mạn, vênh vang. Hợp nhìn vào mắt nó, hỏi thẳng:
- Mày thích hai đứa em tao à?
Cái đầu có tụi tóc dựng ngược của Sần ngúc ngoắc, đôi mắt ti hí trên khuôn mặt núc ních, ánh lên tia nhìn cảnh giác. Phút giây ấy qua nhanh, nó chợt cười thân thiện, choàng tay lên vai Hợp thú nhận:
- Hai đứa em mày đẹp như hoa nở gặp nắng sớm, có thằng trai nào mà không thích nhìn ngắm, ao ước? Nhưng mà tao thích Ri hơn. Ri đẹp dịu dàng, tiếng nói của Ri nhẹ êm, còn Rinh thì... - Nó nhún vai, bỏ dở câu nói.

Hợp lặng đi, đứng chôn chân dưới gốc cây, mặc tụi ve chốc chốc tưới nước thải lên người. Hợp thấy bực mình quá đi. Thằng Sần không nói dối. Tai Hợp dù không muốn nghe lời nói ấy, nhưng nó đã trôi ra khỏi miệng Sần rồi. Nó đâu biết tim Hợp đau buốt...
- Này thằng anh, mày đừng lo, bụng tao thương Ri thật mà, sau này Ri sẽ không khổ đâu, nhà tao á... đủ sức nuôi mấy đời cả nhà thằng anh đấy. – Nó nhăn nhở khoe khoang, ngoác đôi môi, phá ra cười ha hả.
Nhà ông nội thằng Sần ở Mường Vang, cùng bản với nhà Hợp. Ông ngoại nó làm cán bộ từ thời kháng chiến chống Pháp, sau hòa bình chuyển ngành sang làm người đứng đầu tỉnh. Quyền hành, oai vệ lắm. Ông ngoại nó là cây to, lõi chắc cắm rễ chùm vào đá núi. Vô số con cháu từ rễ cây lớn của ông ngoại nó, vươn nhánh tỏa vào các sở ngành từ huyện lên tỉnh. Rễ chùm quan chức, họ hàng nhà thằng Sần đông lắm. Mối quan hệ chằng chịt quấn chặt lấy nhau.
Nhà thằng Sần xây to đẹp nhất phố huyện. Từ núi cao nhìn xuống nhà mấy tầng to rộng, mái ngói đỏ cao lêu nghêu giữa những ngôi nhà sàn, nhà xây lợp mái ngói âm dương rêu phong. Ông Khỉnh, bố thằng Sần mấy năm trước làm Chủ tịch huyện, giờ lên tỉnh làm cán bộ to hơn. Làm chức gì thì người già ở vùng này còn không biết nữa là tụi nhóc như Hợp. Có điều nhà nó mỗi dịp lễ tết đông khách đến thăm hỏi lắm. Xa thì đi ô tô to tướng như mấy con trâu gộp lại, tiếng kêu rít chói tai, lộng óc. Gần thì đi xe máy, xe đạp... ai cũng hớn ha hớn hở bước chân qua cổng nhà nó, mặt tươi tỉnh, rạng rỡ như thể bắt được vàng.
Bà Khúi, mé thằng Sần to béo, phốp pháp. Da mặt in như màu tàn tro trên nương. Cái mắt nhìn người bản xuống núi liếc xéo ngang, mặt vác lên như cái bánh đa để nghiêng. Thằng Sần khoe với tụi học trò trong lớp, mé nó những năm bao cấp phụ trách cửa hàng bách hóa tổng hợp huyện, hàng hóa á, có mà hoa hết mắt, cái gì cũng đẹp, thứ gì cũng có. Giờ bà Khúi làm Phó Chủ tịch huyện. Thầy cô giáo trong trường nể mé nó. Vào dịp đầu năm học mới, mé nó khềnh khàng đến dự khai giảng, thầy hiệu trưởng khúm núm vâng vâng, dạ dạ như thể mỗi lời nói của mé nó là một mệnh lệnh.
Cho dù thích Ri đến mức nào chăng nữa thì Hợp cũng không muốn tranh giành với thằng Sần, bởi có nhiều điều khó nói ra. Hai thằng trai mà tranh nhau một đứa gái ư? Sẽ làm cho đứa gái ấy day dứt rồi khổ. Còn nữa, Hợp tuy không cùng họ với hai chị em Ri và Rinh, nhưng ba anh em lớn lên trong cùng mái nhà, được mé Ngần chăm bẵm, nuôi nấng. Hợp là anh trai của hai đứa gái rồi. Anh với em thì sao thành thân được đây? Vẫn nghĩ thế nhưng con tim, cái bụng của Hợp không nghe theo điều Hợp nghĩ.
Nhiều lúc Hợp tự xỉ vả mình là thằng trai đê tiện. Cái mắt không thoát khỏi núi cao, núi thấp vây quanh bản. Anh em một nhà sao để tình cảm trai, gái ập vào? Không biết mấy mươi lần Hợp tự tay tát vào mặt đôm đốp, đấm ngực thùm thụp để rời khỏi mê lú. Nhưng thứ tình cảm mặn mòi vị muối, chát chúa vị đắng, ngọt ngào men say, nhưng nhức gai châm ấy quấn riết lấy Hợp, không buông tha. Hợp lo sợ tình cảm nảy nở song không đủ can đảm rời xa Ri.
Vẫn hiểu, thằng Sần thương thầm, nhớ trộm Ri. Nhưng Hợp có phần nể nó. Mấy ngày liền, từ hôm làm lễ bế giảng năm học cuối cấp ba đến nay, hai ngày một lần, nó từ dưới phố huyện, lặn lội lên bản Nộc Nhùng, chơi với Hợp thì ít, nhưng ngắm gương mặt ngời ngợi, nói vài ba câu chuyện với Ri và Rinh thì nhiều.
Nó là bạn lên nhà chơi quí rồi, nhưng nó lễ mễ xách quà cáp, mồ hôi nhễ nhại thì Ri thấy ái ngại quá đi. Nó hỏi Ri thích làm nghề gì ư? Nguyện vọng ghi trong hồ sơ tuyển sinh rồi. Ri không muốn nói với nó, dù sao chăng nữa nó không phải là người nhà. Mà dạo này Ri thấy anh Hợp đối với nó có điều gì xa cách, nhàn nhạt thế nào ấy. Em Rinh thì thầm vào tai Ri, khẳng định chắc chắn anh Hợp ghét thằng Sần. Cứ nhìn mặt anh nhăn lại, nói nhát gừng cộc lủn với nó thì biết. Ấy thế mà Ri gặng hỏi, anh bảo không có chuyện gì. Anh Hợp từ trước đến giờ vẫn là người kín miệng.
Như chuyện hai chị em là con nuôi của mé, anh Hợp biết lâu rồi mà Ri và Rinh mãi đến năm vào học cấp ba mới được biết. Cũng do mé nói ra để hai chị em hiểu rõ ngọn ngành, gốc rễ.
Nhớ sao cái hôm mé nói chuyện về mé đẻ của hai chị em. Bốn mé con cùng khóc. Năm ấy chị em Ri tính theo mùa mác cọt cho quả non nhinh nhính bằng đầu ngón tay tròn mười bốn năm. Anh Hợp mười năm tuổi.
Tối tháng Sáu, năm 1975. Bóng đêm khoác áo màu tro trùm lên bản. Gió mang hơi mát từ trên núi lùa vào nhà làm tụi ngô treo trên sàn đung đưa nhè nhẹ. Con chim "Từ qui" từ trong rừng văng vẳng tiếng kêu khắc khoải từng hồi, từng chập. Mé bần thần dở tấm chăn thêu dở ra. Vỏ chăn này anh em Hợp nhìn thấy từ lúc bé, đến giờ hơn chục năm trôi qua, mé vẫn chưa thêu xong. Mà mé thêu xong nhiều vỏ chăn khác, mang xuống chợ huyện bán, nhưng riêng vỏ chăn này sao mé thêu mãi vẫn không xong?
Tối mùa hè nhẩn nha chơi đã, không vội gì nhòm vào sách giáo khoa, mặc anh Hợp lụi hụi sắp lại sách vở cũ, Ri và Rinh lấy chỉ thêu ra học làm đứa gái khéo tay. Mé dạy, phận gái phải biết dệt vải, nhuộm chàm, thêu thùa, đan lát... kẻo sau này là đứa vụng, các cụ trong dòng họ trách mé trước, mắng đứa gái sau.
Rinh vốn hiếu động, mới thêu chưa được mấy chục đường kim đã len lén chạy ra bên mé. Ngạc nhiên thấy tay mé run lên trước tấm chăn thêu dở dang, mắt ướt dượt nhìn vào bóng tối vô định, Rinh vỗ bồm bộp tay xuống sàn nhà, mé giật mình thảng thốt lau nước mắt...
Rinh rụt rè: - Mé à, có chuyện gì thế? Sao lần nào dở cái vỏ chăn này mé cũng khóc?
Mé sụt sùi, dưng dưng: - Chăn này chờ cho mé Xa chúng mày về thêu mới xong.
- Ơ, mé Xa là ai? Sao chưa thấy đến nhà mình?- Ri quăng vội miếng vải thêu dở, nhổm người chạy đến bên mé hỏi dồn dập.
Mé thở dài sâu hút tựa tiếng thác Lỉn réo, nước mắt thấm đẫm vạt áo, thảng thốt mé nói ngắt quãng:
- Là mé đẻ của hai đứa mày đấy Ri và Rinh à.
Hai chị em túm chặt lấy mé. Không thể thế được. Sao cho đến bây giờ mé mới nói? Sao chị em Ri không phải là con đẻ của mé? Thảo nào anh Hợp mang họ Đào, còn hai chị em Ri mang họ Ma của mé. Tại sao lại là họ Ma mà không phải họ khác? Mé đẻ của hai chị em là họ Ma ư? Vậy thì bố là ai? Ở đâu?
Ri bưng mặt khóc tức tưởi. Rinh mím môi mặc nước mắt giàn giụa. Anh Hợp gục đầu vào những cuốn sách giáo khoa cũ... Mé Ngần ôm chặt hai chị em vào lòng lầm bẩm:
- Hai đứa là con của mé. Là con chung mà. Miền Nam vừa giải phóng, đất nước im tiếng súng, mé Xa sẽ trở về với mé con mình thôi.
Trong bụng Ri cồng quặn lo lắng mơ hồ. Qua khe hở của tấm vách bưng, tiếng thở của gió rền rĩ...
Tờ mờ sáng. Sương bồng bềnh quẩn vào nhà tỏa hơi mát. Tụi gà trống thi nhau khoe tiếng gáy. Mé giắt con dao quắm vào thắt lưng chia việc cho ba anh em. Hợp lùa tụi trâu vào rừng mác cọp. Thả ở đấy, chiều nó khắc biết đường về, tranh thủ chặt cây chuối lá bánh tẻ, thái ra nấu lẫn cám gạo, cám ngô cho đàn mẹ con, con lợn nái ăn đẫy xuất chuồng. Ri thì xay thóc bỏ trấu, cho vào cối giã bong cám ra. Nói thế rồi mé quày quả giục em Rinh quẩy thạ lên nương hái bắp.
Ri muốn theo chân anh Hợp lùa trâu lên rừng, tranh thủ hái nắm rau rừng, vài ba quả "mác bựa", "mác niệng" về ăn vặt. Mà không hẳn thế. Ri thích đi cùng anh Hợp thôi. Ri sẽ cùng anh chìm vào không gian bí hiểm của rừng mác cọt, thỏa thích nghe giọng hót đa âm của chim, mắt nhìn no những chùm quả mác cọt lúc lỉu tựa như trứng gà, trứng vịt treo lơ lửng giữa vòm lá vời vợi xanh, nắm tay anh thong thả trôi trên thảm lá mục... không lo đôi mắt mé xăm soi, nhìn như cứa cắt suy nghĩ trong tim Ri.
Dạo này mé có điều gì lo lắng. Đêm buông bóng tối, mé hay ngồi trước ban thờ, thắp hương ông bà, thở than, lẩm bẩm lâu lắm. Có lúc mé lấy chăn, gối trong giương ra thêu và thở dài. Vẫn cái vỏ chăn, gối dở dang ấy. Mười mấy năm rồi, con chim đang bay trên trời cao thiếu cái cánh. Những đóa hoa nở rộ chưa có nhị. Mặt trời trên núi không tỏa nắng. Con hươu, con nai thiếu mắt... Dường như lần nào mé cũng nâng vạt áo lên chấm hai khóe mắt, ngồi thừ ra không thêu nổi.
Trời tràn căng gió. Cối xay kêu ù ù nhả ra tụi gạo lức căng mẩy. Gáy Ri chợt nóng bỏng. Cần cối nhẹ băng băng. Thằng Sần như chui từ dưới đất lên, lù lù đứng bên Ri, cùng đẩy đưa cần cối xay. Thảo nào nhẹ thế. Chẳng mấy chốc đã xay xong, lên nhà uống nước đỗ đen cho mát đã. Ri ý tứ nghiêng người nói với Sần như thế.
Vừa ngồi xuống sàn, chưa kịp bê bát nước đỗ đen sóng sánh lên miệng, Ri bỗng thấy gai người trước mắt nhìn có than đỏ của Sần. Bất chợt, Sần nhào đến ôm chặt Ri, hổn hển. Thân hình vạm vỡ của Sần ngấu nghiến, chồm hổm trên tấm thân mảnh mai. Cái miệng nó bầm vập, miết mát, chuồi chuội trên da mặt làm Ri nghẹt thở. Ri dãy giụa, chống cự, cào cấu, rồi gào lên thất thanh: "Buông tao ra, đồ... chó!".
Sần thở hồng hộc giống con thú điên, tay nó lần sờ trên vồng ngực chũm đào của Ri, miệng lảm nhảm: "..Anh yê..u... yêu em nhiều, làm vợ anh đi..."
Ri càng cào cấu, giãy đạp, cơn thú tính của Sần như hăng lên. Nó sấn xổ, vồ vập, ôm riết...
Sàn nhà rung lắc. Ri thở ậm ạch. Sức Ri đuối dần.
Bốp. Chát, chát. Huỵch. Bốp, bốp... tích tắc, người Ri nhẹ bẫng. Anh Hợp nhanh như con sóc, khỏe tựa gấu rừng, rít lên: - Thằng mọi rợ! Cút! C...ú...t!
Thằng Sần lồm cồm bò dậy, cắm đầu chạy huỳnh huỵch xuống cầu thang.
Hợp thở phào nhẹ nhõm. Cũng may, tụi sóc trắng, sóc khoang đàn lũ kéo nhau gọi Hợp về kịp, không thì Ri khổ rồi.
Hồi sáng, lùa đàn trâu vào rừng, tiếng mõ của chúng khuya vang núi. Hợp len vào giữa vạt chuối, đốn ngã cây không lá nào lành, để nằm trên thảm lá khô, lát nữa vác về thái cho bầy lợn.
Xong nửa việc, nhẩn nha leo tót lên cây "mác bựa", tranh thủ hái tụi quả vàng ươm về cho hai đứa em ăn, vỏ phơi khô dành nấu canh cá ngon phải biết. Vừa mới vặt được dăm quả, nhựa "mác bựa" chưa kịp dính tay, tụi sóc ào đến kêu thảm thiết: "...Cho ốc...chốc...chốc...cho...ốc...". Con sóc trắng, thủ lĩnh bầy đàn, không chạy dưới đất mà đu cành từ cây này, sang cây khác, nhảy chồm đến cành "mác bựa" trước mặt Hợp, một chân trước kéo tay Hợp giật liên hồi, còn chân kia của nó chỉ về hướng nhà, mồm ngoác ra không ngừng kêu lạc giọng, hối hả, giục giã: "Tu...chúc...tu chúc...chúc...chúc". Có gì không hay rồi!
Lũ sóc khôn ranh này là con cái, cháu chắt nhiều đời của đôi sóc cha Hợp để lại, trước khi hành quân vào Nam đánh Mỹ. Bây giờ đông đàn, dài lũ, có mấy chục con. Tụi chúng láu lỉnh chọn hốc đá, gốc cây trong vườn và tản vào rừng mác cọt xung quanh nhà trú ngụ. Mùa quả mác cọt chín, chúng tranh nhau chí chóe vặt quả cho vào thạ người bản, vì thế dân bản quí tụi sóc này như con gà, con ngựa trong nhà.
Đàn sóc lanh lợi ngước đôi mắt trong veo nhìn Hợp kêu thảm thiết, chân nhảy lưng tưng như chạm vào tổ kiến bống. Bụng Hợp lo quá. Hợp guồng chân vừa vác chuối, vừa chạy như rắn đuổi về nhà... Tiếng kêu yếu ớt của Ri làm máu trong người Hợp trào sôi sùng sục.
Hợp thấy mình mạnh mẽ. Cánh tay thằng trai mười tám túm chặt cổ áo thằng Sần, lôi con thú trong người nó ra, nhấc bổng khỏi tấm thân óng ả của Ri, vung nắm đấm trời giáng vào mặt, vài cú đá, mấy lần đạp vào người Sần đặt dấu chấm hết tình bạn.
Có nhắm mắt lại ngàn lần, thở ra trăm nhịp, Hợp không quên cặp mắt long sòng sọc, gương mặt đỏ như chiếc lưỡi cày nung trong lò rèn của thằng Sần lúc ấy. Trong tích tắc, giống như ngọn lửa liếm sạch lá khô, thiêu rụi sợi dây tình cảm vui, buồn chung lớp tìm kho chữ của thầy, cô dưới trường cấp ba phố huyện.
Hợp lặng lẽ chạy xuống bờ sông, ào xuống nước lặn ngụp, bới sải cho nguôi cơn tức. Sau những tiếng "bùm...bùm" quẫy đạp, từng vòng nước tròn xoay, dập dềnh tỏa ra, loang loáng dưới ánh mặt trời...
Trên nhà, Ri thất thần nhìn lìn nước không lúc nào vơi. Dòng nước trong vắt bắc từ một ghềnh đá nhô ra giữa lưng chừng thác Lỉn, ngày đêm mải miết đuổi nhau lòng vòng trong lòng những ống mai bổ ngang ngọn này, gối đầu vào gốc kia rồi đổ xòa vào lìn nước làm bằng gốc cây lớn đục rỗng ruột có từ đời nảo, đời nào trên cầu nước ở gần chái nhà, tràn ra ngoài, rơi long tong xuống gần sàn, chảy lênh láng xuống vườn cây sau nhà. Ừ, giá mà nước dội rửa được vết đau nhơ nhuốc trên người Ri thì tốt quá.
Dội mãi, rửa mãi, kỳ bằng đá cuội xám, da rát bỏng mà Ri vẫn thấy hôi hám. Mắt Ri trào ra những giọt nước mặn chát.
Chương 14
Số Phận Cay Đắng
Chiều chầm chậm buông.
Mặt trời như chiếc mâm nhuốm máu lừ đừ đậu trên ngọn Phja Bjoóc.
Vạt núi tím biếc hoa mạy mác buồn liêu trai.
Ri chạy lên rừng mác cọt, nằm vật vã dưới gốc cây mác cọt đôi. Nước mắt Ri thấm ướt lá mục dưới nền rừng, bốc lên mùi ai ải. Rừng mác cọt lặng gió. Từng chùm quả lúc lỉu oằn cành trĩu xuống.
Thế là bao ước mơ, khao khát tích tụ từ thủa hoa niên, dày lên theo nhịp bước đi lấy chữ dưới trường học bỗng tan thành bọt nước chảy trôi trong sáng nay. Ri nghẹn ngào nấc từng hồi, từng nhịp. Gương mặt ông Khùng, Chủ tịch xã thoắt hiện, thoắt ẩn trong nếp nghĩ ngắt quãng...
Sáng đặc mây. Tụi gà rừng, gà nhà gọi người bản thức giấc. Mường Vang chìm trong sương. Hợp nhón gót đi vào buồng bưng của hai em khẽ lay gọi Ri và Rinh:
- Có xuống xã không?
Ri bật dậy dụi mắt ngái ngủ. Rinh làu bàu: - Xã với xiếc, còn sớm mà.
- Ừ, thế thì mày ngủ đi, tao với Ri đi đây, đừng có tiếc nha! – Hợp ghé tai Rinh nhỏ nhẹ, kẻo lo mé ở gian buồng kế bên thức giấc.
Vốn tính đành hanh, Rinh nhổm người, hét: - Không, không, chờ tao đi với.
Giọng oang oang của Rinh làm mé hắng giọng, nhẩn nha: - Ầy, tụi này đi xã thì nhanh chân thôi, kẻo trưa không tới.
Hợp bước ra khỏi cánh liếp cửa buồng của hai đứa em, mé đã dúi vào tay Hợp một bọc lá dong, dịu dàng: - Xôi sắn đấy, vừa đi vừa ăn.
Hóa ra mé đã dậy từ bao giờ rồi.
Xôi sắn thơm phức, nóng hổi âm ấm tay Hợp. Mé vẫn thế, dù anh em Hợp đứa nào cũng cao hơn mé cái đầu, nhưng vẫn bé bỏng trước mắt mé. Từ tối hôm qua, mé biết ba anh em sáng nay xuống xã hỏi giấy báo điểm thi đại học và giấy báo nhập trường, mé dậy sớm chuẩn bị đồ ăn cho các con.
Nhìn mé gày guộc, cúi đầu thổi lửa trước bếp đặt nồi cám lợn, Hợp cay xè sống mũi, xộc lên mắt muốn chảy nước.
Anh em Hợp dắt díu nhau lội qua sông Nậm Khao. Chân dảo bước trên lối mòn đẫm sương, người như thể trôi trong mây. Rinh loi choi chạy trước, chân nó xéo đạp lên cỏ dại. Chẳng mấy chốc nó đã mất hút trong sương. Tính Rinh vẫn thế từ hồi còn đi học, bao giờ nó cũng là người chạy nhảy, mặc cho Ri và Hợp đi sau. Lần nào đến cổng trường nó cũng ú òa, rồi nháy mắt, nói toáng lên:
- Hai người là rùa, ta là thỏ đây!- Nói thế rồi Rinh cười nắc nẻ như thể tiếng nổ của hạt ngô trong than bếp nóng.
Ừ, là chị em ruột đấy, song mỗi người một tính. Rinh là đứa rắn rỏi, mạnh mẽ. Ri dịu dàng, nhạy cảm và có phần yếu đuối.
Tháng ngày chờ đợi kết quả báo điểm thi vào trường đại học rồi cũng đến. Mới đấy đã đầu tháng Chín rồi.
Nắng ồn ã đổ loang mặt đất, hắt lên tường màu vàng của hoa dẻ rừng. Chả mấy chốc cái chân cũng rảo bước tới Ủy ban xã. Ba anh em Ri nhìn nhau phân vân...
Lưỡng lự trước cánh cửa gỗ nâu bóng cho trống ngực bớt nhịp đập. Rụt rè nhìn vào phía trong căn phòng Chủ tịch xã, ba anh em nom thấy người đàn ông mái tóc bóng nhoáng quay lưng lại, dáng đứng hơi lệch chân về phía bên trái như thể chân cao, chân thấp. Hợp đưa ngón tay gõ nhè nhẹ vào cánh cửa. Giọng người đàn ông thản nhiên:
- Mời vào!- Nói xong, ông quay ra nhìn ba anh em tươi tắn như nắng sớm bất chợt ùa đến, hồ hởi: - Vào đây, vào đây, từ bản nào đến đây? Xuống xã tìm ta có việc gì?
Không hiểu vì sao Ri bỗng cảm giác, ông Chủ tịch xã xa lạ trước mặt Ri thật gần. Thẳm sâu trong Ri từng mạch máu nóng lên, bồi hồi. Mắt Ri sáng ngời, trong veo như nước dưới sông Nậm Khao, nụ cười tỏa sáng, khoe má lúm đồng xu duyên dáng, nhỏ nhẹ:
- Dạ, tụi cháu... cháu người bản Nộc Nhùng, Mường Vang trong xã Pù Nhài này.
Đôi chân chấm phẩy thập thững đến bên bàn, mắt người đàn ông hấp háy, dãi bày:
- Ô là là, ta ở cùng mường đấy. Con cái nhà ai nhể? Ta tên là Khùng, làm Chủ tịch Pù Nhài, ta ở bản Nộc Chao. Tụi trẻ nhớn như thổi thì sao ta biết được. Nào, nói đi, có gì hỏi ta đấy?

Trong đầu Hợp láng máng, thoáng lướt khuôn mặt nhạt nhòa của người đàn ông đỏ bầm màu gấc chín, từ sân nhà Hợp cau có, hầm hầm bước dấu chấm, dấu phẩy ra đường đá. Bao giờ nhỉ? Lâu rồi, khi ấy Hợp vẫn là đứa trẻ mải chơi đâu có để ý? Hợp dè dặt, bất an, miệng chợt dính lại như nhựa cây "mác bựa".
Em Rinh thì thào vào tai Hợp: - Anh à, ông bác Chủ tịch này có gì lạ lắm. trống ngực em đập rộn là sao?- Nói thế rồi Rinh quay nhanh sang ông Chủ tịch xã nhanh nhảu, mau miệng:
- Tụi cháu là con mé Ngần. Anh em cháu lên xã hỏi xem có bì thư báo điểm thi đại học về chưa.
Đang vui vẻ, nghe Rinh nói vậy, ông Chủ tịch bỗng cau mày, mắt lóe ánh nhìn khó chịu, phảy tay, giọng cứng nhắc: - Biết rồi! Thế này nhá, có giấy báo điểm rồi đây.
Nói xong, ông Khùng chúi mắt vào đám hồ sơ trước mặt, lôi ra ba mảnh giấy rộng hơn bàn tay, nói kẻ cả:
- Sao chúng bây lên muộn thế? Gớm, điểm cao đấy nhỉ, đứa nào cũng trên hai mươi điểm!- Ngừng một giây như tính toán điều gì, ông quay mái tóc bóng nhẫy sang phía Hợp, mắt lóe luồng sáng sắc lạnh:
- Thằng Hợp này thi được hai mươi tám điểm cơ à? Đủ tiêu chuẩn đi nước ngoài đào tạo, thế nhưng chả để làm gì...
Có gì đó ứ nghẹn dâng lên cổ Hợp. Đắng đót.
Cố nuốt khan để tiếng thở thoát ra, Hợp dè dặt:
- Bác nói sao ạ?
- Sao á? Về hỏi người nhà, lý lịch có vấn đề mà muốn vào học trường quân đội với chả y khoa, kinh tế a?
Lúc này, Rinh đứng phắt dậy, chau mày, cau có: - Bác nói sao? Lý lịch gia đình cháu ư? Nhà ngoại cháu gia đình cách mạng. Cha cháu hy sinh ngoài mặt trận. Mé cháu từng là dân quân xã...
Ông Khùng ngửa cổ ra thành ghế cười khành khạch. Tiếng cười nghe rờn rợn như lưỡi dao cạo cật nứa. Cười chán, ông trừng mắt:
- Ờ, sáng choang nhể, thế ba anh em mày chưa nghe mé mày kể chuyện a? Mé mày trong diện tình nghi theo dõi. Hồ sơ nhà mày có nhiều cái nút lổn nhổn...
Anh em Hợp mặt tái nhợt, biến sắc. Nước mắt Ri trực trào ra.
Dường như những câu nói chém người ấy chưa đủ đắc ý, ông Khùng xoa tay vân vê chiếc râu mọc ngang trên nốt ruồi đen trũi, dưới má phải, miệng ông ngoác ra, hằm hè:
- Hai đứa gái chúng mày con rơi, con vãi, con nhặt đấy. Không biết bố mé chúng mày là ai, biết đâu con của tụi theo giặc cũng nên...
Lúc này Rinh hét lên: - Ông nói láo!
Ba anh em tay bịt chặt hai tai, ào ra khỏi phòng trong tiếng quát ing ỏi gì đó của ông Khùng...
Đất đá dưới chân Ri như tụt xuống hố sâu hun hút...
Hình như sương chiều bủa vây rừng mác cọt từ lâu rồi. Người Ri run bắn theo tiếng thổn thức.
Trong âm u, rậm rạp, lạnh lẽo chợt có tay ai đó nóng rát đặt ngang lưng Ri như xoa dịu sự đổ vỡ trong tâm hồn... Theo bản năng phản xạ, Ri co người chồm dậy. Anh Hợp ngồi đây từ bao giờ. Mắt anh thật buồn. Mái tóc anh ngày thường bồng bềnh, hôm nay dựng ngược, bù xù như bụi cọng cây guột già. Anh ngồi như thể muốn hóa thân vào đá.
Ri chợt ngưng khóc.
Rừng mác cọt giang rộng vòng tay ấm êm bao bọc Ri và anh Hợp. Gió thu mang hơi sương, khí núi lạnh se se. Anh Hợp nắm chặt tay Ri, tiếng anh rành rẽ:
- Em khóc hết nước mắt đi để từ mai mắt không biết chảy nước. Đừng hỏi mé chuyện gì làm mé đau buồn. Mé khổ nhiều rồi.
Ri ép chặt cái buồn trong lồng ngực, cố tỏ ra điềm tĩnh:
- Vâng, số trời đã định nhà mình phải trải qua kiếp nạn...
- Ừ, cuộc đời này đâu gói gọn trong mường ta hả em? Anh tin một ngày nào đó, những người tốt sẽ minh oan cho nhà ta... Mai anh lên huyện hỏi xem các bác lãnh đạo trả lời thế nào.
Nói xong anh thở hắt ra nhiều hơi thật dài như muốn trút đi gánh nặng và tai họa.
Hợp nói thế cho Ri yên bụng. Thật ra tâm can Hợp rối bòng bong. Người tốt ư? Nhiều lắm, nhưng ai đứng ra minh oan, gột rửa vệt bẩn miệng lưỡi người đời từ quá khứ đây? Cuộc sống bon chen tầm thường, ích kỷ của một vài cá nhân ấu trĩ đã đưa con người ta vào hoàn cảnh trớ trêu, đối chọi, khó có sự bao dung, độ lượng.
Chuyện ông bà ngoại và mé bị lực lượng chức năng nghi vấn trong những năm chiến tranh chẳng hiểu duyên cớ thế nào? Mười mấy năm rồi. Hình như Hợp nghe cậu Ngành nói, cơ quan chức năng đã làm rõ. Nhưng vì sao ông Khùng, Chủ tịch xã nói thế? Chuyện này ắt hẳn có lối kín mơ hồ, lẩn quất mà anh em Hợp không biết được...Bỗng dưng Hợp ước ao giá như cậu Ngành về thì tốt quá.
Năm Hợp là thằng nhóc đang học lớp bảy, cậu Ngành về quê dịp giỗ bà ngoại. Hợp xoắn tít cậu và hỏi sao cậu đi xa rồi ở mãi dưới phố, không chịu về quê? Cậu làm gần nhà, Hợp sẽ nhờ cậu giảng giải giúp bài toán khó, hỏi cậu những chuyện của thằng nhóc tập làm người lớn thế nào cho tốt...
Lần ấy, cậu nói với Hợp nhiều lắm. Không phải cậu muốn bỏ mảnh đất núi cao gian khó để sống nơi phồn hoa thủ đô. Dù ở đâu cậu vẫn giữ bản chất thật thà bộc trực người dân tộc mình. Cậu muốn học xong về trên núi phục vụ lắm, thế nhưng quê mình có chuyện làm cậu đau. Nỗi đau khó thoát ra bằng lời. Oái oăm thay, một lần bị đòn đánh không roi làm cậu khiếp đảm đến bây giờ.
Vì sao ư? Đừng hỏi cậu nhiều, rồi sau này cháu khắc biết thôi. Song, cậu nói với cháu điều này, nếu người có chức quyền làm đúng thì dân được nhờ. Vì lý do nào đó làm sai lệch thì người dân thấp cổ, bé họng khổ!
Dồn tâm sức học hành, cậu Ngành thi vào Đại học Bách khoa theo ngành chế tạo máy. Điểm thi cao đứng thứ hai toàn trường. Cậu được cử sang đất nước Liên Xô xa xôi học tập. Một đất nước xa lạ, với những người xa lạ cao lớn, da trắng, tóc vàng nhưng nồng ấm tình người. Mùa đông lạnh tái tê, xuống đến âm hơn chục độ, tuyết phủ trắng trời, trắng đất. Mỗi khi ra đường những bông tuyết bay bay, đậu dày vạt áo như bước ra từ thế giới cổ tích. Nơi ấy, mỗi khi nhìn cánh rừng bạch dương, cậu nhớ rừng mác cọt quê mình. Nỗi nhớ quay quắt không nguôi...
Cậu Ngành miệt mài học, phấn đấu là sinh viên ưu tú, tốt nghiệp xuất sắc, được tiếp tục học lên cao, bảo vệ luận án tiến sĩ. Về nước, cậu được phân công làm giảng viên Khoa Chế tạo máy, Trường đại học Bách khoa. Giờ thì cậu ở Hà Nội, thư thoảng mới về quê.
Cách đây chưa xa, cậu về đúng dịp tết. Thời khắc giao thừa, hương thơm lan tỏa vấn vít, cậu vỗ vai Hợp, giọng cậu trầm ấm:
- Cháu à, hãy là quả chín cây. Tự quả khắc thơm từ trong thơm ra. Đừng bao giờ làm quả chín ép.
Trong ánh lửa bập bùng, cùng ánh sáng nhè nhẹ của hạt bưởi xâu thành đèn, Hợp nhìn ánh mắt sáng của cậu, nói chắc nịch:
- Cháu là cháu cậu mà...
Bây giờ lời cậu văng vẳng bên tai, giúp Hợp phần nào vơi nỗi buồn vần vò tâm can...
Mải mê nghĩ. Lặng lẽ ngồi trong rừng mác cọt, đến lúc sương nhúng ướt dượt vai áo, hai anh em Hợp uể oải về nhà. Giờ này cơm chín, mé đang mong. Chả biết em Rinh đã nói chuyện gì với mé chưa, nếu nói thì mé buồn đau lắm. Hợp bỗng giận mình sao không biết lối dặn em...
Không khí im lặng bao trùm gian nhà sàn rộng rênh.
Bà Ngần ngồi lặng. Quanh bà một màu mờ mịt như khói sương. Chưa bao giờ bà thấy buồn và lo lắng đến thế. Đời bà bạc phận, nhưng ba đứa trẻ con bà tội tình gì mà bị vạ lây?
Những tháng năm qua, bà tưởng không thể sống nổi khi nhận giấy báo tử chồng bà, anh Phái hy sinh. Xương thịt, hồn cốt anh giờ ở nơi đâu bà còn chưa tìm thấy. Dặm trường, đường xá cách trở, đất nước khó khăn và chưa im tiếng súng, thì sao bà an bụng mà đi tìm hồn chồng?
Bà lập cập run run đến bên ban thờ, đốt nén nhang vào các bát hương. Mắt bà chạm vào mắt buồn rầu của chồng. Bà run run chắp tay, giọng như lạc đi khấn vái:
"... Anh Phái ơi, anh sống khôn, thác thiêng, hồn anh linh ứng đi mây, về gió, hãy theo con nước ngược dòng, theo mây trời, gió núi về mảnh đất ông bà gây dựng. Vía anh nghe tiếng em gọi bay về với mé con em, phù hộ độ trì cho các con tai qua, nạn khỏi... Anh vạch mặt, chỉ tên người đã dìm gia đình mình vào rừng rậm, hang hẹp. Anh dẫn lối cho các con bình an, đi ra nơi ánh nắng mặt trời, soi tỏ..."
Miệng bà khấn khứa mà đắng ngắt như ngậm mật gà. Trên di ảnh đôi mắt chồng bà bỗng loang loáng màu đỏ của máu.
Những mùa gió đổi chiều ngang qua cuộc đời, không đếm nổi những giây phút rùng mình. Bà âm thầm chịu đựng không ngã quị vì ánh mắt thơ ngây của tụi trẻ đăm đắm chờ trông. Nhiều lần chân muốn trơn trượt, mắt muốn nhắm lại, mặc số phận đẩy đưa, song tiếng gọi của lũ con kéo bà trở lại thực tại.
Không phải dân bản ai cũng ghét bỏ bà. Nhiều người thương bà lắm chứ. Vợ chồng cô Dần, nhà ông Gắng, gia đình bà Tẩn. Mẹ con bà Lý ở cách nhà bà mấy trăm sải chân... họ giang rộng tình cảm, qua lại sớm hôm với bà. Nếu không có những người dân thật thà, chất phác ấy, bà còn khổ nhiều. Tuy nhiên, họ dè dặt khi bước chân vào ngõ nhà bà. Họ đi khẽ, nói nhẹ, lựa thời khắc vắng bóng người mà qua lại thăm hỏi mẹ con bà. Họ sợ bị qui chụp tội qua lại với phần tử xấu là bà sẽ bị liên đới.
Chuyện vì sao người bản xa lánh dài lắm, như thể dãy núi trập trùng kia. Câu chuyện ấy bắt rễ từ rừng mả họ Ma nhà bà.
Nghĩ đến những ngôi mộ đá của tiên tổ, ông cha ở rừng mả um tùm, bà thắt lòng, cháy ruột, cháy gan. Án oan khốn khổ cũng từ rừng mả nhà bà mà ra.
Những nút thắt oan khiên từ quá khứ như mũi dao nhọn băm vằm trái tim rỉ máu của bà trăm mảnh.
Cũng vào lúc trời sang thu như thế này. Tụi giặc trời không ngừng ném bom xuống núi rừng Mường Vang. Rừng mác cọt cháy xém. Núi Phja Bjooc cõng con vỡ toang hoác lộ ra tụi đá đỏ rừng rực như máu. Nước dưới sông Nậm Khao ầm ầm sôi réo...
Suốt đêm, các nữ dân quân do Ngần chỉ huy trên trận địa canh trời, gần chục lần nhả đạn đuổi tụi giặc ầm ì thả bom cắn trộm. Mặt mũi ai cũng bạc đi vì trắng đêm không chợp mắt.
Tang tảng sáng. Sương mù dán kín mắt, quẩn quanh quấn riết người và súng. Tốp trực chiến tiếp theo lên thay ca. Về đến nhà, chưa leo hết mấy bậc cầu thang, ba đứa trẻ bu bíu, bám riết vạt áo chàm. Chúng chen nhau đứa trèo lên lưng, đứa níu tay tựa như Ngần đi xa lâu lắm mới về. Tụi trẻ thấy mẹ như con cá mắc cạn thấy nước. Thôi thì đủ thứ chuyện, với bao câu hỏi ngây ngô trong trẻo làm Ngần quên tất thảy ưu phiền.
Quấn quít với con chừng mươi phút, chưa kịp ăn xong củ sắn cậu Va lùi trong bếp đã nghe tiếng kẻng gọi ra đồng. Thời chiến, làm việc khẩn trương. Cũng may trời phú cho Ngần sức khỏe, không biết đau ốm.
Nắng cầm những thanh kiếm vàng, chém tụi sương vỡ vụn, chạy táo tác lên đỉnh núi. Trên bãi dài tít tắp dọc bờ sông Nậm Khao râm ran tiếng cười nói. Hôm nay các mẹ, các chị trong tổ "cày" được phân công cày xong đám bãi để lên luống trồng khoai gối vụ.
Đáng nhẽ, Ngần cùng tốp dân quân đi tuần tra một vòng quanh rừng, quanh núi. Độ này cảnh giác cao trước thủ đoạn, âm mưu của thế lực thù địch. Tình hình an ninh chính trị thời chiến vùng núi hậu phương không thể lơ là. Đất rừng rộng, người thưa, nhà ít... dễ bị tụi giặc nhòm ngó lợi dụng hoạt động lén lút. Vừa ba hôm trước, tốp dân quân tuần tra do Dần chỉ huy tóm sống thằng gián điệp. Nó là thằng cuối cùng, trong toán bảy thằng biệt kích được tụi giặc tung từ trong Nam ra phá hoại miền Bắc. Sáu thằng cùng hội với nó đã bị lực lượng vũ trang, dân quân bên huyện Pó Lài tóm gọn.
Chả hiểu nó chui rúc, luồn lách thế nào đến ẩn náu trong rừng mả nhà Ngần. Thoáng chốc, Ngần thấy khó chịu. Nó làm hoen ố nơi linh thiêng.
Vừa dong trâu cày, Ngần vừa nghĩ. Ngần mang trọng trách mấy vai. Tuy làm Trung đội trưởng dân quân súng máy phòng không, nhưng là Đội phó Đội sản xuất Mường Vang không thể vắng mặt trong buổi cày. Vắng Ngần, lời ra tiếng vào khó lọt tai lắm. Ừ, biết việc cầm súng bảo vệ bản mường quan trọng, nhưng việc cầm cày cuốc làm ra khoai chắc, thóc mẩy cũng cần lắm chứ. Không có lương thực thì không đủ sức khỏe cầm súng.
Các già nói thế. Lời người già đúng, tụi trẻ cãi cự lôi thôi với các già ngay. Các già không cần họp hành nhắc nhở, mắng luôn trước mặt. Ngần vốn tình nhu mì, nhã nhặn, thế nên giữa việc cấy cày và cầm súng phải bố trí hài hòa. Thôi thì cố một tí có sao đâu. Ở ngoài tuyền tuyến các anh ấy vất vả gấp ngàn lần chị em nơi quê nhà ấy chứ.
Điều hành con trâu đực ương bướng cày xong thửa bãi khoảng đôi sào, vừa buông cày cho trâu xuống sông uống nước, gặm vài vạt cỏ non. Ngần ngồi bệt trên tảng đá, xung quanh lúp xúp lũ rau dớn. Chưa kịp tháo nón quạt cho bớt mồ hôi, thì một tốp người ào xuống bãi. Ơ kìa, thoáng trong đầu Ngần câu hỏi: "Sao họ ra đây làm gì? dỗi việc đến thế ư?". Giờ này công an xã và lực lượng dân quân bận lắm cơ mà. Trong đám người này có anh Khùng Đội trưởng. Mặt ai cũng nhăn nhúm, khó đăm đăm như thể ăn phải cỏ đắng.
Nụ cười của Ngần vừa nở ra trên gương mặt đỏ hồng xinh đẹp vụt tắt, bởi câu nói ra lệnh của ông chú Tài, Công an xã: - Cô Ngần, theo chúng tôi về trụ sở xã có việc.
Phản xạ của người Tiểu đội trưởng phòng không mách bảo Ngần xảy ra điều ghê gớm, vì thế đích thân người công an già ra tận đây. Cô rụt rè hỏi:
- Có gì thế chú? Nếu không vội để cháu dắt trâu về chuồng của đội đã ạ.
- Trâu với chả bò, không cần cô lo! Cày, bừa để đấy có người khác mang nó về! – Tiếng nói lạnh tanh của Khùng như chậu nước hắt vào mặt Ngần.
Ông Tài thở dài sâu hút, giọng nói chùng xuống:
- Đi thôi, việc không hay đấy. Cứ đến khắc biết.
Đoàn người lầm lũi bước. Không ai nói câu nào, tựa như miệng bị bịt đá. Chặng đường gập ghềnh sống trâu xuống xã heo hút.
Giữa trưa. Nắng thu hanh hao bỏng rát. Mấy con ngựa nâu, dáng thon, chân chắc, đứng gõ móng dưới gốc cây kháo. Trong dãy nhà lá tường trình của Ủy ban nhân dân xã hôm nay đông người. Ngần chột dạ!
Cậu Va, mợ Sang mặt buồn như lá chuối khô ngồi kia. Mấy đứa con nhà Ngần khắc ở nhà với nhau. Không ai trông nom, liệu chúng có gì cho vào bụng chưa? – Nghĩ đến con bụng Ngần se sắt.
Vừa bước vào, Ngần chạm nhiều ánh mắt lạnh lẽo.
Những tiếng lao xao, trì triết khi Ngần đến:
- Chắc được nhiều tiền lắm đấy. Nuôi dấu gián điệp. Gan to bằng giời.
- Quân tay sai hại dân, hại mường.
- Ày dả! Nếu cái mắt đội trưởng Khùng không nhìn thấy thằng người rừng thì mường ta tan tro rồi.
- Rõ là cán bộ nhá. Giờ mới hiểu vì sao dạo này tụi giặc ném bom vùng này nhiều thế. Mất mạng phải đền mạng. Máu chảy rồi phải trả máu thôi...
Nhiều... nhiều lời nói ồn ĩ như kiếm sắc dúi vào mặt Ngần.
Ngần sững sờ, thoáng chốc mặt cô thất sắc.

Trên chiếc bàn trong hội trường có hai người mặc sắc phục công an, một người dong dỏng cao, nghiêm nghị, đứng lên, nói dõng dạc:
- Mời các đồng chí không có nhiệm vụ ở đây lui ra ngoài! – Sau giây phút nhìn Ngần bằng ánh mắt nghiêm khắc, ông nói: - Tôi tên là Hoái, Phó trưởng Công an huyện, còn đây là đồng chí trợ lý Công an của phòng nghiệp vụ. Cô Ngần ngồi xuống. Bình tĩnh nhé, không có chuyện gì đâu, chúng tôi mời cô ra đây hỏi một số chuyện liên quan thôi.
Căn phòng làm nơi hội họp vừa đông người đứng ngồi, bỗng chốc vắng vẻ. Trước mặt Ngần có Chủ tịch Khút, Bí thư Đào Nhùng cùng hai người công an.
Dưới hàng ghế tre ghép là cậu Va, mợ Sang.
Vẫn đồng chí công an Hoái ánh nhìn nghiêm túc, nói với Ngần:
- Cô Ngần trung thực khi trả lời câu hỏi của chúng tôi nhé.
- Vâng, Mời các đồng chí hỏi, có chuyện gì phải giấu giếm đâu.
- Ừ, thế thì tốt rồi!- Bí thư Đào Nhùng gật gù mái tóc màu mây.
Mắt nhìn ra ngoài khoảng rừng qua cửa sổ lấy lại bình tâm, Ngần se sẽ thở dài. Trong đầu Ngần thoáng nhanh câu hỏi, sao bỗng dưng cô bị tra khảo? Nỗi oan khuất dâng lên bóp nghẹn nhịp thở.
Tiết thu trôi về cuối mùa. Vạt rừng sau sau chuyển màu đỏ sậm như tiết dê. Mặt trời cau có tưới nắng.
- Cô Ngần, cô có quen biết người lạ mặt dân quân ta bắt sống trong rừng mả nhà cô không?
Ngần tròn xoe mắt, cô gằn giọng:
- Đồng chí hỏi gì lạ thế? Nó là gián điệp phá hoại, chui lủi vào đất núi chúng ta, loại người ấy mà tôi biết sao?
- Có người nhìn thấy chị Ngần và người nhà lên rừng mả!- Đồng chí trợ lý công an trẻ, mái tóc húi cua, thẳng thắn nói.
Lúc này Ngần không bình tĩnh nữa, cô bặm môi tức tối:
- Nói hồ đồ! Tôi bận tối mắt, tối mũi, lúc trên trận địa, khi ra đồng bãi, lâu nay tôi chưa lên thăm mồ mả ông bà.
Dường như quá bực vì lời nói gắp lửa bỏ bàn tay của công an, cậu Va đứng bật dậy:
- Đề nghị các đồng chí cho gặp người đặt điều nói sằng, nói bậy. Tôi là đảng viên, thương binh, tôi đảm bảo người nhà tôi từ sau tết thanh minh chưa lên rừng mả, có lẽ nửa năm rồi.
Mợ Sang nước mắt lưng tròng:
- Ây la! Người ta nói lời dối bụng thế không sợ trời phạt a?
Bỗng chốc gió ào ào thổi, dắt lá khô chạy lạo xạo ngoài sân. Bụi đỏ cuộn tròn xoáy theo hình con ốc suối.
Đồng chí công an Hoái nhếch miệng, nói từ tốn:
- Tôi sẽ cho người xác minh. Không tự dưng người ta bịa ra chuyện. Mà gia đình cô có khúc mắc, mâu thuẫn gì với người bản không?
Máu nóng chạy lửa lên mặt cậu Va đỏ gay gắt, con mắt bị thương co giật, cậu đập bàn chan chát, sẵng giọng:
- Gia đình tôi không gây thù, chuốc oán với ai. Người ta ghét nhà tôi vì chuyện gì tôi sao biết được. Làm tối ngày còn ăn sắn, ăn khoai, có đâu thời gian như lũ bụng thối!
- Đề nghị bác bình tĩnh. Bác nói ai bụng thối?
- Tôi nói lũ người mặt thơn thớt, dạ ớt ngâm ấy. Bịa đặt chuyện xấu xa thế trời chu đất diệt nó thôi.
Căn phòng rộng bỗng bức bối, chật chội. Chủ tịch Khút từ đầu ngồi yên lặng, giờ lúc lắc cái đầu nhắc nhẹ:
- Ông Va nổi nóng rồi a. Các đồng chí công an huyện hỏi chi tiết xác thực chuyện thôi mà. Ông đừng vạ miệng nguyền rủa.
- Này ông Chủ tịch, tôi không ra đây để nghe ông dạy bảo. Cùng đi chiến đấu, ông lành lặn, tôi bị thương. Ông làm chức sắc ở xã, tôi người nông dân. Ông có chữ nhiều hơn về mà dạy người nhà ông. Một lũ ếch nhái trơn tru bám theo...thật kinh!
- Này, ông...ông đừng có nhả lời độc! – Chủ tịch Khút hầm hè.
Nhìn mặt phừng phừng của hai người đàn ông. Bí thư Đào Nhùng đứng dậy:
- Ô, hai ông hay thật, để các đồng chí công an làm việc.
Mọi chuyện tạm lắng xuống. Chủ tịch Khút và cậu Va nhìn thẳng vào nhau rồi quay đầu mỗi người mỗi hướng. Công an Hoái từ tốn:
- Cô Ngần, cô có đơn thư tố cáo lén lút che dấu biệt kích.
Mắt Ngần bỗng nổ hoa cải. Sao đứa nào lại ác độc thế? Đất dưới chân Ngần như sụt xuống. Không! Cô không thể rơi vào tình trạng bải hoải được. Ngần hít một hơi không khí vào lồng ngực mảnh khảnh để nén giận dữ. Cô cau có:
- Đề nghị công an cho biết người tố cáo.
Hai đồng chí công an khẽ trao đổi điều gì đó rất nhanh. Công an Hoái thận trọng, thẳng thắn:
- Đơn tố cáo thả hòm thư tố giác của công an huyện. Đơn thư nặc danh.
Như thế rõ ràng rồi, có kẻ ngầm ám hại gia đình Ngần.
Lẽ nào con người ta ác độc vậy? Liệu có phải là Khỉnh không? Hay là Khùng? Chỉ có người nhà của Chủ tịch xã thôi. Bà vợ Chủ tịch vẫn ghen ngầm với mợ Sang. Khỉnh không lấy được Ngần làm vợ chắc là tức tối, bực bội lắm. Ông Khùng kia nữa, chuyện Xa bỏ đi có phải tại Ngần đâu mà luôn miệng hằn học, đổ tội. Phải chăng Ngần có nợ nần từ kiếp trước với nhà họ Nông, cho nên kiếp này mới khổ thế.
Thoáng nhanh trong đầu Ngần mớ ý nghĩ rắc rối nghi vấn ấy. Ngần cười khẩy, nói lời nhọn như dao sắc chém búi giang, bụi nứa:
- Nặc danh mà công an huyện phải điều tra ư? Tra hỏi thế đúng không? Cơ quan công quyền phải nhìn xa, trông rõ. Không chứng cứ làm cơ sở, tố cáo xằng bậy mà khảo xét thì có sai nguyên tắc không?
- Chúng tôi không tra hỏi, khảo xét mà gọi gia đình cô xuống đây cùng hợp tác, làm rõ những điều ghi trong đơn tố giác.
- Thế a? Rõ ràng lúc đến đây tai tôi nghe người làm việc xã xì xầm toàn điều khủng khiếp. Mong các đồng chí làm rõ mọi chuyện để tôi còn làm ăn. Chuyện này đau lắm, cái tay tôi cầm súng giữ bản mường liệu có chắc không???- Ngần trì triết nói trong đau đớn.
Ông Va sau khi kìm nén cơn bực cũng nhẹ giọng:
- Lực lượng chức năng trên huyện tra hỏi thằng biệt kích kia khắc rõ. Đề nghị sớm tìm ra kẻ vu khống bịa đặt, trả lời rõ ràng cho dân Mường Vang và xã biết, để gia đình tôi yên bụng sinh sống.
Có lẽ chuyện hỏi tra còn kéo dài nếu Ngần không nhả lời nói sắc sảo, mang tính phản kháng. Đồng chí Hoái công an kết thúc buổi làm việc bằng câu nói đầy ngụ ý:
- Chúng tôi tiếp tục nhanh chóng làm rõ mọi chuyện. Trước hết vì đang trong diện bị tố cáo, tình nghi liên quan đến an ninh quốc gia, gia đình phải thực thi luật pháp. Đi đâu, làm gì gia đình cũng phải báo cáo công an xã.
Trời ngả về chiều, bầy chim đa đa kéo nhau bay vù vù như thể rừng động. Dãy nhà Ủy ban xã vắng ngắt. Công an huyện lên ngựa, quay xuống phố huyện để lại đám bụi đỏ đặc quánh, nghẹt thở.
Cậu Va, mợ Sang và Ngần bước gằn trên con đường gày guộc đá sỏi. Trước mặt mọi người là núi cao, rừng rậm mịt mùng, sau lưng là thung sâu hoang vắng. Người trong mường viết đơn tố cáo không đứng tên khiến mọi người thở cũng đau. Cái đau không dồn dập mà âm ỉ, nhói buốt.
Thật không tin nổi, từ một gia đình cách mạng, vì một cá nhân dấu mặt, ghép mặt chữ cái thành từng dòng vu oan, trong tờ giấy nghiệt ngã, biến từng người hiền lành nhà Ngần thành tội trọng. Chuyện này đâu có thể một sớm, một chiều mà giải oan. Chờ đợi nhà chức trách điều tra. Không biết đến khi nào mới giải được án treo này đây? Nước mắt Ngần lặng lẽ tuôn rơi. Mợ Sang cũng sụt sùi, nấc nghẹn. Cậu Va mím chặt môi. Con mắt bị thương ri rỉ máu.
Thời gian lặng lẽ trôi qua đêm về gần sáng. Bản yên ắng quá, nghe rõ tiếng nước đuổi nhau dưới sông Nậm Khao, tiếng ngựa lộp cộp cào móng, vấy đuôi đuổi muỗi, tiếng gió thảng thốt kéo sương về tỏa hơi lành lạnh. Ba đứa con bà Ngần thư thoảng trở mình trằn trọc. Đang tuổi ăn, tuổi ngủ mà mắt chúng không thể kéo giấc nồng về.
Mắt bà Ngần nhức khô. Nước mắt từ lâu không biết chảy trên gương mặt héo úa. Vì sao gia đình bà rơi vào tình cảnh này? Ai đó đã cầm lửa đốt cuộc sống thầm lặng của gia đình bà? Bà chợt cười gằn. Tiếng cười chua chát. Cái thằng người vu oan nhà bà có cuộc sống đủ đầy, sung sướng. Sao nó không bị trời phạt? Liệu có thần thánh, trời phật không, mà sao bà kêu cầu mãi không thấu?

Năm 1965, sau buổi công an lục vấn gia đình bà ở Ủy ban xã thì cuộc sống cả nhà đảo lộn. Bà là người thừa trong cuộc chiến bom đạn tàn khốc vãi xuống núi rừng. Bà bị đình chỉ không được tham gia lực lượng dân quân bảo vệ mường. Cái chân cỏn con làm đội phó sản xuất cũng bị xã viên hợp tác tẩy chay. Kẻng giục đi làm trên nương, ngoài các thửa ruộng bậc thang theo bốn mùa cây ngô, cây lúa... không ai muốn làm chung công điểm với bà và mợ Sang. Người ta chê bai, dè bỉu, nói thầm với nhau những lời trần trụi, cay đắng. Người bản cách ly gia đình bà. Với họ, thì các thành viên nhà bà tựa như lũ sâu mọt phá hoại.
Bà đâu giận người bản. Kệ họ thôi. Chuyện đến nước này im lặng nghe người ta khinh miệt mà sống. Cậu mợ nhiều lần thở dài, giá như cái nhà là con thuyền thì đẩy xuôi hay ngược dòng sông, cho khuất mắt người bản để yên ổn làm ăn. Nhiều lần muốn bỏ nhà cửa, đất đai để di canh, di cư, nhưng không được. Đi đâu cũng phải gặp công an xã để họ ghi sổ theo dõi. Phiền toái quá. Tình cảnh này khác gì đi tù? Muốn bỏ hết để đi chỗ khác, vào sâu trong rừng cũng không nổi. Còn mồ mả ông bà, làm sao có thể bỏ mặc mà đi. Còn tiếng xấu nhơ nhuốc kia, nếu bỏ đi thì khắc nào nhận mình là kẻ gian manh hại dân...
Gồng người lên nghe người ta xỉ vả mãi. Đi làm ghi công tính điểm chịu thiệt mọi bề. Rõ ràng chịu khó làm lụng quần quật đủ tháng, đủ ngày, sao lúc tính ra sản lượng thóc, ngô, sắn được ít thế? Nhà người ta ba thạ, nhà mình được một thạ. Đâu có dư ra để bán thóc nghĩa vụ như ngày trước? Mùa nào cái đói cũng quấn lấy. Lũ trẻ da xanh rớt, bủng beo...
Giống như con giun xéo mãi cũng quằn mình giãy giụa. Gia đình nhỏ của Ngần không chịu nổi áp lực miệt thị, ghẻ lạnh, xa lánh và chèn ép từ dân bản cũng như hợp tác xã.
Chiều tháng năm, nóng cây héo lá. Bà Sang uất ức thả đôi thạ có những bắp ngô đỏ nhỏ bé, sâu ăn vòng quanh, hạt lép, xuống dưới chân cầu thang thổn thức. Ban Chủ nhiệm hợp tác đủ công chỉ chia cho nhà bà chưa đầy hai chục cân ngô cả lõi. Vậy thì lấy gì mà ăn đây? Bà nhìn ông chồng ốm đau, nhìn ba đứa trẻ gày trơ xương xa xót...
Từ hôm ở Ủy ban xã về, ông Va ốm quặt quẹo suốt. Vết đau từ tâm khảm, lan đến những mảnh đạn còn găm trong người, túa ra ngoài, sưng đỏ, chảy nước vàng.
Ngẩng mắt lên vòm cao, nơi mặt trời bốc lửa, bà than thở:
- Ông "phạ" ới, ông ở trên cao có thấu chăng? Người nhà lãnh đạo từ tổ đội sản xuất lên đến mường, xã chả biết vì sao công điểm nhiều thế? Sản lượng gấp ba, bốn lần nhà tôi. Ầy, nhà tôi có bỏ buổi làm đâu? Cứ khắc nghĩ ra chuyện cày sót góc, bừa rối, cấy cây lúa vẹo... mà trừ hết điểm. Sao oan khiên đeo bám mãi không buông...
Cậu Va sau một tràng ho khù khụ, hắng giọng:
- Sao phải khóc lóc, kêu than làm gì hở bà? Để đấy tôi tính. Từ mai bà cứ nhẩn nha đi làm ít, chơi nhiều như người ta thôi. Việc công mà. Người ta như thế mình cũng thế. Chăm chỉ sớm tối cũng bị vùi dập. Riêng cái Ngần không đi làm hợp tác xã nữa. Làm cật lực, không trốn việc qua quít được chăng hay chớ như người khác, mà bị vùi dập điểm ít thì làm việc khác.
Trên sàn phơi, đang dở tay lúi húi băm củ "mạy dả" để kịp tối phơi sương, ngày phơi nắng làm thuốc, Ngần cố nặn nụ cười buồn rầu và nói:
- Ông cậu à, liệu con nghỉ làm, người ta có bắt ép rồi sinh chuyện khác không?
Ông Va xoa tay vào thái dương cho đỡ buốt đầu, cất giọng chắc như dao chém cột:
- Cứ nghe cậu, ở nhà làm nghề bốc thuốc. Lúc rảnh, quẩy gồng gánh thu mua phế liệu lông gà, lông vịt, nhôm sắt... được nhiều thì cho lên lưng ngựa mang xuống huyện bán, kiếm đồng ra đồng vào nuôi tụi con. Mợ mày dậy cách làm nồi kẹo kéo.
- Ông có cái đầu nghĩ hay thế sao không bày việc từ trước cho con Ngần đỡ khổ?- Bà Sang đổ sắn vào độn nồi cơm, trách nhẹ nhàng.
- Thì tôi lóe ra cái nghĩ này từ lúc bà về gục đầu dưới chân cầu thang nức nở đấy!- Ông Va nhìn vợ, nói rành rọt.
Khẽ khều than vần nồi cơm phần nhiều là sắn xuống chân kiềng, bà dịu dàng chép miệng:
- Làm gì mà kiếm được cái no vào bụng cho tụi trẻ thì tốt ông ạ. Miễn sao giữ nền nếp đói cho sạch, rách cho thơm phải không ông?
- Nhà mình mang tiếng oan, nhưng trong thâm tâm không làm việc xấu, giữ tiếng gia đình cách mạng, cho dù tạm thời không được sinh hoạt Đảng, tôi vẫn không hổ thẹn! –Nói thế nhưng con mắt còn lại của ông nhìn xa xăm xuống con đường ruộm đỏ ráng chiều.
Ông thầm nghĩ, biết bao giờ nhà ông được người có chức quyền minh oan? Ông vẫn mong đợi, dù đã gần năm qua đi chưa có hồi âm. Cứ đợi thôi, ông tin Đảng không để người dân chịu khổ, chịu thiệt. Có lẽ do tập trung vào tuyến lửa để giành độc lập đất nước, nhiều việc lo nghĩ, thế nên việc nhà của ông bé tí sẽ xem xét và trả lời sau...
Dẫu rằng trong bụng ông Va niềm tin thật nhỏ nhoi, nhưng nó giống như có ngọn lửa. Những ngày qua, ông vượt qua vết thương đau nhức, sưng tấy vì mảnh đạn thằng giặc còn găm vào người chưa thể gắp ra, cũng do đốm lửa cháy sáng rực trong tâm tưởng đấy thôi.
Trời đất không tuyệt đường sống của dân. Mặc cho bom đạn thằng giặc vãi xuống núi rừng. Ngần vừa bốc thuốc nam chữa bệnh, vừa xoay nghề đồng nát mưu sinh... Đã bị vu oan mang tiếng xấu, bây giờ thêm tội bỏ hợp tác xã, làm ăn cá thể, thế nên Ngần bị mọi người dè bỉu, miệt thị nhiều. Ra đường cúi mặt đi thôi. Người trong bản, ngoài mường nói câu khó nghe cũng lặng yên. Nén đau trong lòng, ngậm miệng kiếm thêm đồng ra, đồng vào cho con no cái bụng, khỏe chân đi lôi chữ vào người cho tinh đầu, sáng mắt.
Khổ nỗi, đi đổi đồng nát quanh Mường Vang không sao, hễ Ngần dẻo chân đi xa phải báo công an xã. Án oan chưa được giải. Ờ thì đành vậy. Vất vả nhưng nghề phụ cũng giúp gia đình Ngần không phải ăn độn nhiều như hồi làm hợp tác xã. Có miếng cơm no, tụi con Ngần đứa nào cũng phổng phao như măng nứa gặp mưa rào. Nhìn tụi trẻ lớn bổng, có da thịt là Ngần vui.
Chuyện oan khuất của nhà Ngần chưa có lời giải đáp thì cậu, mợ bỏ mé con Ngần, thác xuống âm thế.
Mùa đông năm 1966, sau hơn một năm ốm đau nằm bệt giường vì suy nghĩ uất ức chuyện nhà bị người xấu hại, những mảnh đạn còn găm trong người cậu từ hồi kháng chiến "chín năm" phát tác. Lá thuốc Ngần bốc không kìm được người ông cậu sưng phồng, rỉ nước. Bệnh viện huyện sơ tán dưới chân thác Lỉn lắc đầu chối từ, không chữa nổi. Trước lúc ra đi, cậu Va cầm tay Ngần và em Ngàng nói ngắt quãng:
- Nhà...mình...gia...đình...cách mạng...Đảng, chính quyền...không bỏ người vô tội con à...
Cậu trút hơi thở cuối vào sáng sương muối trắng trời, trắng đất. Con mắt còn lại không nhắm nổi, trợn trừng trừng ba ngày ba đêm, sang đến ngày thứ tư thì trào máu thâm đen túa đầy mặt.
Lá mác cọt rực màu đỏ, khô héo bay ràn rạt, cứa vào đầu Ngần tiếng khóc khan...
Quá đau buồn, suy sụp, mấy tháng sau, vào lúc trời đổ mưa rào rào, mợ Sang ốm quặt, ốm quẹo rồi đi theo cậu vào rừng mả.
Mưa sầm sập. Ào ào. Nước sông Nậm Khao cuồn cuộn dâng cao.
Ngần gào thét đau đớn, rền rĩ trong mưa tuôn, gió hú. Tiếng Ngần khản chìm, khuất lấp giữa núi cao, rừng thẳm: "Ơi ời, ông phạ...ông trên cao có thấu..."
Căn nhà sàn trống trải hơ hoải còn bốn mé con Ngần.
Rạng sáng. Tụi gà rừng, gà nhà đua nhau tấu lên giai điệu dõng dạc.
Nếp nghĩ thả nổi ngược về những năm tháng nghiệt ngã của bà Ngần chưa ngưng lại nếu Ri không cầm tay bà, áp vào má đẫm nước mắt của nó. Hóa ra tụi trẻ con chúng thức trắng đêm giống bà. Bà thương chúng nó mà không thể làm gì. Hai chị em con Ri tuy không do bà mang nặng đẻ đau, nhưng giờ nó là máu thịt của bà. Tụi trẻ con như gốc cây nhỏ bé, bà dựa vào gắng gỏi trước cuộc đời. Mặc cho vật đổi, sao rời, bà ngẩng đầu vững chãi, hướng về nguồn sáng phía mặt trời mọc, với trái tim can đảm và lòng tự trọng cao đến ngày hôm nay.
Tuy vậy, nước mắt của đứa con gái bao năm nâng niu, nuôi nấng, chăm sóc làm ruột gan bà có mảnh đá sắc cứa cắt. Bà nén đau, nhẹ nhàng nói với con:
- Con gái, dù xảy ra chuyện gì, con phải đi bằng đôi chân chắc. Dáng thẳng, nếp nghĩ tốt, bụng sáng.
Tay Ri ve vuốt bàn tay chai sần, đầy vết gân xanh chằng chịt, như rễ cây trên nương khô, nhìn thật lâu vào gương mặt khổ đau của mé cô thầm thì:
- Mé à, nếu không được đi học con buồn lắm. Cái buồn dày lên vì con không làm được điều mé muốn.
Bà Ngần chép miệng, an ủi:
- Vẫn chưa biết thế nào. Để lát nữa anh mày đi hỏi xem. Khổ cho các con, mé bất lực nên tụi mày vạ lây.
Ri thảng thốt, cô ôm tấm thân gày guộc của mé, khẽ lắc đầu:
- Mé à, không phải tại mé, do người ngoài thôi. Con nghĩ rồi, được đi học là tốt, nếu không thì con ở nhà nối nghề làm thuốc cứu người, lấy phúc như mé nha.
Thoáng chút tư lự, bà Ngần khe khẽ thở. Tiếng thở mỏng manh trôi theo khói bếp.
Sương mù ẩm ướt lững thững dắt díu mây xốp như bông ùa vào nhà, vờn quanh hai mé con. Trời tang tảng sáng. Tiếng gà mỗi lúc dập dồn gọi người bản.
Chương 15
Giải Mã Góc Khuất
Bước chân thằng trai mười bảy phăm phăm đi nhanh như chạy, vào lúc nắng lên, Hợp đã xuống đến con đường rộng rãi, bằng phẳng, trải đá nhỏ của phố huyện. Biết vào chỗ nào hỏi việc nhà mình bây giờ? Hỏi không đúng chỗ bị người ta phảy tay xua ra. Đầu Hợp lóe tia sáng, suy từ bản Nộc Nhùng mà ra, tiếng nói uy lực là trưởng bản. Việc lớn, việc bé của các gia đình, trưởng bản nắm rõ như xòe bàn tay ngón cao, ngón thấp. Lên xã thì ông chủ tịch Khùng càu cạu, khó tính, nói như băm, như chặt vào mặt mấy anh em Hợp hôm qua là người oai nhất. Vậy nên Hợp phải gặp Chủ tịch huyện, may ra ông ấy chỉ cho Hợp cách gỡ búi dây oan trói nhà Hợp mười mấy năm.
Sao mé Hợp khổ thế? Chuyện oan uổng đeo bám làm đôi mắt mé buồn như trời chiều. Mé âm thầm gánh chịu không biết kêu ai. Giờ thì Hợp hiểu vì sao người Mường Vang xa lánh, khinh miệt mé con Hợp. Với dân bản, người nhà Hợp là tội đồ.
Mới sáng ra, người đi lại chưa đông, Hợp giữa đường thả chân cho sướng. Lâu rồi, từ sau mấy tháng hè thi tốt nghiệp phổ thông xong, chân chưa được chạy nhảy trên đường rộng. Loáng chốc đã gần đến ngôi nhà to đẹp ngạo nghễ của thằng Sần rồi. Mắt Hợp ngước lên những cửa sổ đóng im ỉm. Không biết thằng ấy bây giờ thế nào? Hợp bỗng xòe bàn tay ra rồi nắm lại, nhớ cú đấm đuổi tình bạn hôm nào... Hợp không thấy giận nó nữa. Hôm ấy, nó không làm chuyện xấu với Ri thì Hợp không ra tay đâu. Hợp để Ri khắc lựa chọn tình cảm.
..."Ki...it...kít!"- Tiếng còi xe ô tô chói tai lừ lừ tiến ra khỏi cổng sắt làm Hợp giật bắn mình, chân khựng lại! Bác tài xế mở kính, thò đầu ra, trợn mắt quát: - Thằng "rừng mừ" kia, tai mày điếc hay sao mà không nghe tiếng còi hả? Mày muốn làm tao khổ la?
Cửa xe bật mở. Thằng trai to như cái lu nhảy phịch xuống. Hai thằng trợn mắt nhìn nhau. Ơ dá! Hóa ra nó là "cái gai" trước mắt Hợp. Nó đấy, thằng Sần tí nữa lấy mất đời con gái của Ri. Mắt Hợp vằn lên. Ngược lại thái độ của Hợp, thằng Sần nghiêng đầu, ngoác miệng cười nhăn nhở:
- A lá, thằng bạn, à thằng anh chứ nhể, đi đâu ngáo ngơ lạc xuống đây? Có biết chỗ này là nhà lãnh đạo huyện không à?
Thằng Sần này, mở miệng dở giọng oai. Trong bụng nhơ nhuốc, mặt ngoài nhẵn nhụi. Hợp chả muốn dây dưa với nó, đành nén giọng:
- Biết đấy, lên có việc, tưởng mày không còn ở đất này.
- Ô, mày biết tao đi rồi a? Ờ, giỏi như tao không đi đại học dưới thành phố to mới lạ. Tao có việc nên về thôi. Lâu không gặp hai đứa em gái mày, nhớ nó nhiều đấy! – Sần nói thế rồi đi sát đến bên Hợp hỏi: - Mày không đi học a? Thi trượt rồi a? Hóa ra tao luôn giỏi hơn mày...
Cố kìm nén cái tức, Hợp bặm môi nói:
- Mấy anh em tao thi điểm khá đấy, nhưng... nhưng tao chưa đi.
- Này, cái thằng biết uốn lưỡi gian từ bao giờ thế mày! Đủ điểm nhập học lâu rồi, bây giờ cuối tháng Chín, tụi tao á, học gần tháng rồi.
Nếu khi khác thì Hợp không bắt chuyện với nó, nhưng hôm nay Hợp chưa có cách nào hỏi chỗ làm việc của ông chủ tịch, thế nên sau giây lát lưỡng lự, Hợp nói:
- Sần à, tao chả biết chơi trò gian thế nào, nhưng nói với mày cũng như nước thả lá thôi. Mà này, mày biết chỗ làm của Chủ tịch huyện không?
Sần lúc lắc đầu, bất chợt nó bảo:
- Chủ tịch á, gan mày to bằng nào mà gặp? Xin cái gì a?- Nó vặn vẹo hỏi Hợp.
- Chẳng xin gì, chỉ hỏi chuyện thôi!- Hợp tự tin nói nhát gừng.
Nhìn vẻ mặt không vui của thằng Hợp, chắc có chuyện gì đó nên nó mới cất công xuống huyện. Dù sao thì Sần cũng thích em gái nó, biết đâu sau lần giúp này, thằng Hợp được việc, đổi ý, giúp Sần có được cái Ri thì hay. Nghĩ thế nên Sần sốt sắng, nhếch miệng:
- Mày ra ngõ gặp may. Thôi, chỗ anh em bạn học, tao đưa mày gặp mé tao nha. Chuyện lớn, chuyện bé của huyện mé tao quyết tất đấy! – Bất chợt, thằng Sần quay lại xe nói gì đó với người ngồi trong xe cùng bác tài. Chiếc xe lùi vào cổng nhà nó, đỗ dưới giàn hoa thiên lý, tỏa hương ngan ngát.
Hợp chần chừ, lưỡng lự, phân vân chẳng hiểu thằng Sần nói thế, nó có giúp được không? Sần kéo tay Hợp lôi vào trong nhà, nó bảo đưa Hợp vào gặp mé nó. Lần này Sần về nhà cùng cha nó là ông Khỉnh. Nó về lấy bằng chứng nhận tốt nghiệp cấp ba. Qui định của trường đại học thế, vào học phải có bằng hoặc giấy chứng nhận tốt nghiệp phổ thông.
Thằng Sần đưa Hợp vào căn phòng rộng, bài trí xa hoa, đẹp như cung điện. Giữa nhà là cây hoa gì mà Hợp chưa nhìn thấy bao giờ. Hoa nó to gần bằng cái bát ăn cơm, màu hồng rực rỡ, tỏa hương nồng nàn.
Từ ngoài cửa, người đàn ông to béo, ăn mặc lịch lãm bước vào. Miệng ông làu bàu điều gì Hợp không nghe rõ. Khuôn mặt to bè của ông đỏ tía như có hơi rượu bốc lên... Hợp lí nhí chào:
- Cháu chào bác.
Người đàn ông không nhìn Hợp, thả lời ngắn: - Ờ...Hừm!
Ông khó chịu, thả người ngồi ngả lưng vào thành ghế. Hợp đoán đây là ông Khỉnh, cha thằng Sần. Hình như ông ấy làm chức to lắm trên tỉnh. Hợp len lén cúi đầu, tránh cặp mắt ti hí sắc lẹm của ông.
Từ trên cầu thang lát đá, thằng Sần cùng bà Khúi, mé nó bước xuống. Chả hiểu thằng Sần nói gì với mé nó, nhìn thấy Hợp bà đon đả:
- Cháu là bạn thân với Sần a? Anh trai của Ri Rinh hả? Bác nghe Sần nói nhiều rồi...
Hợp vo xoắn hai tay vào nhau lí nhí: - Cháu, cháu chào bác.
Sần vỗ vai nói giọng kẻ cả: - Có gì cứ hỏi mé tao nha!- Nói thế rồi nó quay sang cha nó, lễ phép: - Pò à, đừng trách con, nó có việc cần, con giúp nó làm phúc mà. Đi thôi pò, mặc nó.
Người đàn ông uy quyền, dịu giọng nhìn bà Khúi nói ngọt như nước mía chảy vào bát: - Mình à, bố con anh đi nha.
Bà Khúi, đứng sát vào chồng, ngọt ngào: - Anh đi, thư thoảng mang con về với em...em nhớ...!- Ngừng lại như nén điều gì, bà xoay người vỗ nhè nhẹ vào vai Sần, bảo:- Cái thằng này, xuống đấy cố nuốt cơm tập thể, lúc nào đói bụng chạy sang cha mày hoặc mua gì ăn thêm.
Giơ tay vỗ bồm bộp vào túi chiếc áo sơ mi màu xanh da trời mới cứng, Sần vui vẻ: - Mé à, sệp dày, đủ con tiêu mấy tháng.
Nó bật cười khành khạch, chạy nhanh ra cửa. Bà Khúi tần ngần đứng nhìn theo hai cha con nó khuất sau mảnh sân. Những bóng nắng rung rinh nhảy nhót theo chân nó. Tiếng xe ô tô nổ máy giòn giã, nhả lại sau đám khói đặc quánh, khét lẹt...
Hợp ngồi trước mặt bà Khúi kể chuyện nhà. Tiếng Hợp trầm buồn tựa như có ngàn vạn tiếng nấc trong lời nói.

Có lẽ chuyện của Hợp lộn xộn lắm. Hợp nghĩ thế nào, nói như thế, không màu mè, hoa lá. Cứ nói theo mé kể. Câu chuyện ấy từ năm Hợp là thằng bé con mới bốn tuổi. Cố giữ giọng bình tĩnh rành rọt, nhưng mắt Hợp ngân ngấn nước.
Bà Khúi chăm chú nghe Hợp nói, luôn miệng lẩm bẩm:
-Sao có chuyện ấy? lâu thế mà chưa điều tra ư? Liệu có điều gì ở đây không??? Rõ là...
Hợp khẩn khoản: - Bác à, bác hỏi giúp cháu...Cháu nhờ bác.
Vốn là người đàn bà uy quyền và sắc sảo, bà Khúi nghĩ nhanh đến gia đình nhà chồng. Ừ nhỉ! May mà ông Khỉnh, chồng bà vừa đi rồi, nếu biết chuyện thì ông ấy sẽ thế nào? Mặt chả dài đuỗn ra...
Không biết bố chồng và chú chồng, hai người ấy có dính dáng chuyện lôi thôi này không? Từ hồi bà lên làm lãnh đạo sao không nghe ai nhắc tới vụ việc? Có lẽ bà không mấy khi về quê chồng nên không biết. Chuyện lâu rồi, phải hỏi bên công an huyện cho ra nhẽ. Vụ lùm xùm này từ hồi lão Hoái, Chủ tịch làm Phó Đồn trưởng Công an huyện. Biết đâu lão ngại đường núi xa xôi, đi lại khó khăn nên buông xuôi điều tra. Mà cũng có thể lão ỉm vụ này đi vì lý do nào đó... Thế thì lão hết thời đến nơi rồi. Không còn ra mặt giao giảng đạo đức dạy đời được.
Nghĩ đến lão Hoái, bà bực mình. Dù rằng lão là bố vợ của ông chú nhà bà. Ông chú thật khốn khổ với cô vợ điên điên, khùng khùng. Nhiều lần bà bóng gió xa xôi hỏi ông chú Khùng có "gửi gắm" tình cảm ở đâu không? Có đứa bé nào gọi bằng cha không, thế nhưng miệng ông chú không nói. Ông trợn mắt, đe nẹt: "Đứa cháu dâu này đừng có hỏi cha chú như thế! Dâu cái mồm có nọc buốt!". Gớm, chẳng qua họ hàng nhà chồng thì phải theo tôn ti mà gọi, thực ra thì ông chú kém bà một tuổi đấy, bà hơn chồng hai tuổi. Ô! Thế thì bà thây kệ, nếu có con với ai đó mừng cho ông chú chứ bà được gì, lại tốn kém tiền của đi lại thăm nom. Đúng là ông chú gàn dở, đầu óc bã đậu. Nếu không có bố đẻ, bố chồng và lão Khỉnh chồng bà hậu thuẫn "chống lưng", ông chú không ngồi ghế Chủ tịch xã Pù Nhài dài lâu như thế.
Bà khẽ cau mày. Lúc nãy, trước khi thằng con quí tử của bà xuống dưới trường đại học, nó bỏ nhỏ vào tai bà: "Con thích đứa gái mặt hoa đẹp nhất vùng này. Nó là em gái thằng Hợp, mé giúp chuyện nhà nó nhé". Hừ, con trai bà quý hóa thế mà thích cái đứa ở rừng xanh, núi thẳm ấy a? Nó thích mặc nó, tuổi trẻ mà, nhưng nó lấy vợ phải là đứa khác, gia đình phải môn đăng, hậu đối. Dòng giống nhà bà bề thế, cao sang mà làm thông gia với nông dân nhọ mặt ư? Có trời sụp! Thiếu gì đàn bà con gái xinh đẹp, học hành giỏi giang, con nhà tử tế. Là thằng con nó giống bà đấy thôi, tuổi trẻ thường nông nổi, bồng bột.
Bà chạnh lòng, khẽ thở hăn hắt, mơ màng... Lão Khỉnh chồng bà bao năm qua tựa như cái xác lạnh ngắt nằm cạnh bà. Cũng do bà thôi. Mà không hẳn thế, tại bố đẻ thằng Sần, ông ấy bỗng dưng xuất hiện làm đảo lộn cuộc sống hạnh phúc của bà. Thực tâm thì bà còn say đắm ông ấy lắm. Những cuộc tình mây mưa thâu đêm, bà mệt nhưng thỏa mãn, không như cái lão Khỉnh tốt mã, xấu củ...
Thật hay quá đi. Bà Khúi toan tính nhanh. Một mũi tên bắn đi, đến hai cái đích, như thế tốt quá. Bà giúp nhà thằng Hợp thì thằng con bà hể hả, mà lại được tiếng quan tâm đến dân, uy tín bà sẽ tăng cao. Và điều hay hơn nữa, nhân dịp này bà có nguyên do để hạ bệ lão Hoái, Chủ tịch huyện. Cái ghế chủ tịch lão ngồi lâu quá rồi. Lão cũng hơn năm mươi, gần sáu mươi tuổi rồi còn gì mà tham lam giữ mãi chỗ, không về hưu đi. Kinh nghiệm nhiều năm đứng chân trong Thường vụ Huyện ủy mách bảo cho bà biết, thế và lực của bà đã đến lúc vượt lên...
Bà nhìn Hợp cười đon đả, nói nhanh:
- Việc lo cho dân là của lãnh đạo huyện. Cháu kể với ai chuyện này chưa?
Vốn thật thà, Hợp bảo:
- Cháu đến huyện định hỏi bác Chủ tịch, nhưng may gặp Sần.
Người đàn bà to béo, uy quyền chợt đưa mắt nhìn ra ngoài trời nắng, rồi nhếch đôi môi dầy cười lanh lảnh... Hợp có cảm giác sờ sợ. âm sắc tiếng cười như kim khí mài siết trên đá.
Bước chân Hợp nhẹ bẫng khi ra khỏi nhà bà Khúi. Bà ân cần mà sao Hợp sờ sợ ánh mắt dao cắt của bà. Trước khi Hợp sang gặp ông Chủ tịch huyện, bà Khúi động viên:
- Cháu mạnh dạn trình bày chuyện nhà cho ông Chủ tịch rõ nhé. Đừng lo lắng, bác giúp gia đình cháu. Việc nhà cháu sẽ có văn bản dấu đỏ của huyện gửi về xã.
Thật dễ chịu khi người Hợp tắm trong ánh nắng trong vắt của trời thu. Từ trên vòm xanh, đàn chim hàng trăm con đang vỗ cánh ríu ran. Ừ. Tụi chim kia cho ta một cảm giác khoan khoái, thanh thản. Bà Khúi chỉ dẫn ta lối lên Ủy ban nhân dân huyện. May nhiều đấy, nếu bà không vẽ lối bằng miệng, ta còn phải hỏi nhiều khi đứng trước mấy dãy nhà xây cấp bốn, nhiều gian phòng, cửa gỗ xanh giống nhau như một người thợ đẽo gọt ra.
Bước chân ta tới thẳng phòng ông Chủ tịch huyện. Kết quả về nỗi oan khuất của gia đình thực hư ra sao còn chưa biết, thế nhưng dù trong mơ ta cũng không nghĩ, ông Chủ tịch huyện Pó Liểng là người công an Phó đồn trưởng Hoái năm xưa. Chính ông trực tiếp điều tra vụ việc gia đình ta.
Hiển hiện trước mặt ta là người đàn ông đứng tuổi, cương trực có đôi mắt sáng, ánh nhìn thẳng như xuyên thủng bóng tối.
Ta e dè đón một nụ cười tươi rạng và cái bắt tay ấm áp.
- Cháu chào bác Chủ tịch.
- Chào thanh niên, có việc gì gặp bác thế? – Giọng nói ông ấm áp.
Như có luồng sinh khí vô hình thổi vào người ta. Vị Chủ tịch uy quyền liệu có phải là người vô tắc trách đẩy gia đình ta trên bờ miệng vực khốn cùng? Thấp thoáng trong thắc mắc ta, bóng dáng người thân bị oan nghiệt đè nặng. Gia đình ta từ có công với cách mạng hóa thành có tội trọng. Cái chết tức tưởi của ông bà trẻ ta trong tiết trời sương sa, giá buốt, mưa gió hoang lạnh. Lên rừng mả canh cánh mang theo nỗi oan đau buồn. Cậu Ngành ta tài cao học rộng, thất vọng lối hành xử của lãnh đạo xã, không muốn cống hiến chất xám cho quê nhà. Mé ta, một dân quân xã giỏi giang, người mẹ tảo tần, hiền hậu bị qui chụp tội danh "tiếp tay che dấu gián điệp". Giờ thì chính tương lai, sự nghiệp của ba anh em ta cũng bị án oan phủ trùm, ngăn bước.
Chẳng lẽ, máu xương cống hiến cho đất nước của ba thế hệ gia đình ta nát vụn bởi bóng tối quyền lực của ai đó ư? Không! Ta phải nói, phải hỏi rõ vị Chủ tịch, vì sao công tác điều tra đơn thư nặc danh vu khống gia đình ta nút kín vào im lặng? Nếu ta không nhổ rễ độc, cắm sâu vào nhà ta, ai sẽ giải cái đau khổ tột cùng cho mé ta?...
- Cháu trai à, có việc gì nói ra đi! –Chủ tịch huyện khích lệ.
Ta bình tâm nhìn thẳng vào mắt vị Chủ tịch. Thế đấy, tại sao chứ? Ngài là người cầm cán cân công lý năm xưa, điều tra người dân bị vu oan rồi bỏ mặc. Ngài khiến gia đình ta đi vào con đường chông gai, rậm rạp. Ngài mặc nhiên nhìn ai đó cố tình trà đạp gia đình ta xuống đáy vực? Liệu đôi mắt thẳng thắn của ngài lúc ấy có bị che mờ, khuất lấp? Ngài biết rõ người dân vô tội bị luận tội không nương tay, không buông nhẹ mà không minh oan ư? Vậy thì chức Chủ tịch ngài đang ngự có xứng không? Nếu bây giờ ta gửi đơn kêu oan thì ngài có hận ta không? Đêm qua ta cắt máu viết tâm thư kêu oan. Mấy lá đơn này hút hàng chén vại máu. Ta gửi đi các cấp từ xã đến huyện, lên tỉnh và nếu cần sẵn sàng gửi đến Chính phủ, Chủ tịch nước... ta rất muốn, trước khi tung những lá đơn máu bay xa, ta được nghe câu trả lời từ chính các ngài, những người vẫn nói ra rả lo cho cuộc sống của người dân...
Ngài nhấp nhổm trên ghế mấy lần khi ta tuôn lời về gia cảnh, nhưng ngài điềm tĩnh nghe ta nói hết. Thật là một người bản lĩnh. Bây giờ ta nói hết rồi đấy. Ngài biểu lộ nét mặt đau khổ, nhăn nhúm giống như quả táo phơi khô thế kia ư? Đã bắt đầu rồi đây! Giọng nói của ngài chắc nịch:
- Liệu có gì nhầm lẫn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của xã không???
- Bác à, cháu là người dân biết sao được chuyện ấy? Vả lại khi đó cháu còn là thằng bé thôi.
Ngài đứng bật dậy như cái đinh văng ra khi đóng gỗ nghiến. Ngài bực dọc, bức xúc đi đi, lại lại mấy vòng, quanh bàn làm việc như suy xét điều gì đó. Bước chân đeo đôi dép cao su đen bóng của Ngài mấy lần như chuội đi trên sàn nhà láng bóng. Dường như ngài quên khuấy sự có mặt của ta. Ngài lẩm bẩm "Chết thật! Sao có chuyện này? Năm đó Thường vụ Huyện ủy đã kết luận rồi. Ờ, hồi đó chiến tranh ác liệt, tàu bay tàu bò của lũ giặc xăm xoi, ầm ì đêm ngày. Kết luận điều tra gửi theo đường công văn chuyển về xã rồi mà"...

Lát sau, như sực nhớ ra sự hiện diện của ta, ngài dừng lại, đi về chỗ ngồi, vẻ mặt loáng ướt mồ hôi, nhưng trở lại sự điềm tĩnh vốn có. Mắt ngài nhìn ta có chút gì đó xót thương. Không, ta không mong sự chia sẻ, ta cần câu trả lời từ ngài thôi. Tay ta nắm chặt mép túi chàm, trong đó mấy lá đơn như đang cựa quậy thúc giục ta. Khó khăn lắm ta mới thốt nên lời:
- Bác Chủ tịch à, cháu... có nên làm đơn kiến nghị không.
Mặt ngài đang bừng bừng lửa đỏ, thoắt cái chuyển màu bàng bạc. Ngài đưa tay quệt giọt mồ hôi lăn dài, khẽ lắc đầu:
- Việc này bác sẽ điều tra làm rõ, cháu không nên nóng vội. Bác nắm được tinh thần rồi.
- Bác à, gia đình cháu, mé cháu đợi mười ba năm rồi, giờ phải đợi đến bao giờ, khi nào?
- Chính quyền huyện sẽ có trách nhiệm. Ờ, không lâu đâu, chỉ nay mai thôi.
Ngài nói thế thì ta biết thế. Ta hy vọng ngài sẽ làm như lời ngài nói, dù sao bà Khúi cũng biết chuyện rồi. Thôi thì ta còn trẻ, ta học nhẫn nhịn chờ quyết định của các cấp bề trên phải không ngài? Tuy nhiên, lúc này ta nảy ra ý nghĩ muốn đi đâu đó một thời gian, đi càng xa càng tốt để sự chờ đợi qua nhanh. Chân ta muốn ra khỏi rừng. Cái mắt ta muốn vượt núi. Lòng ta nặng trĩu ưu tư, ta nén buồn để "mặc cả" số phận với ngài:
- Việc học của anh em cháu lỡ dở, bây giờ nếu anh em cháu muốn đi bộ đội hay là công nhân mà xã gây khó khăn thì làm thế nào?
Ngài nhổm hẳn người về phía trước, đôi mắt ngài nhìn thẳng vào mắt ta, không chút do dự, ngài khoát tay:
- Không lo, không lo! bác bảo đảm quyền lợi cho gia đình cháu.
- Bác à, lời suông dưới xã không nghe đâu.
Ngài thoáng cau mày khó chịu, rất nhanh, ngài bảo:
- Cháu yên tâm về đi. Gia đình cháu vô tội. Chính quyền huyện sẽ sửa sai triệt để chuyện này và chính thức trả lời gia đình cháu. Yên tâm, cháu đi đâu thì không ai có quyền ngăn cản.
Thế là rõ rồi. Gia đình ta bị oan. Lời nói uy lực của ngài thoát ra làm tâm hồn bốc khói của ta dịu lắng. Ta đón nhận tin này và hoang mang nghĩ, chắc chắn có thế lực nào đó đủ mạnh đổ tai họa xuống gia đình ta. Liệu người ác, lộng quyền ấy có bị trừng phạt không? Thôi, biết nhà mình được trả lại sự thánh thiện vốn có là tốt rồi. Ta thầm cảm ơn lãnh đạo công minh, vì sự công bằng của người dân trong xã hội đã ra tay lật lại vụ việc mười ba năm qua...
Chân ta nhẹ bẫng bước ra ngoài trời chan chan nắng vàng.
Thằng bé trẻ tên Hợp có vầng trán rộng, đôi mắt to tròn, nhìn thẳng ấy bước ra khỏi phòng khiến bụng ông Hoái không yên. Rõ ràng cái ghế ngày thường ông ngồi êm ái, vững chãi mà hôm nay như có búi gai, đám lửa? Thằng Hợp nói chuyện này với ai chưa? Nếu ai đó trong huyện biết thì có chuyện rồi đây. Bao nhiêu năm qua làm Chủ tịch huyện, ông được cán bộ và người dân coi là mẫn cán, thương dân, vậy mà... uy tín của ông ra sao khi chuyện này ầm ĩ? Năm ấy, chính ông điều tra vụ việc. Sau gần năm trời suy xét, thu thập chứng cứ, ông báo cáo Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện ra kết luận gia đình cô Ngần trong sạch, không tiếp tay, che dấu gián điệp. Cũng do đường xá lên núi xa xôi, thời điểm cuối năm 1965 chiến tranh dữ dội. Máy bay thằng giặc ùng oàng, quần thảo xé nát bầu trời. Bom phá lở núi, lửa cháy xém rừng, bản làng tan nát, người dân chết chóc tang thương... công văn thông báo về xã qua đường bưu tá. Đúng là sơ sảy chủ quan một ly, chạy đi ngàn dặm.
Nhà cô ngần cũng lạ, ngần ấy năm không ý kiến. Xã hội phức tạp. Chuyện lớn bé xảy ra, giải quyết xong không bận tâm nữa, giành nếp nghĩ lo việc khác. Tuy nhiên, mười mấy năm trước, đơn thư nặc danh tố cáo nhà cô Ngần xôn xao từ xã lên huyện, tới trung ương...thì trong tâm khảm ông vẫn hằn vết. Ông nghĩ chuyện đã giải quyết xong, người dân vô tội. Vậy mà không ngờ hôm nay xảy chuyện động trời.
Năm 1965 - 1966, Chủ tịch huyện Pó Liểng là ông Khỉnh, một cán bộ trẻ năng động, có bố vợ "nâng tầm" đặt ngồi vào cái ghế giống ông bây giờ. Điều tra, thu thập đủ bằng chứng vụ việc nhà cô Ngần là vu khống vô căn cứ, ông Hoái mang hồ sơ sang báo cáo lãnh đạo huyện. Ông Khỉnh chậm rãi nói, đọc và xem xét tình tiết kỹ lưỡng. Hơn tuần sau Thường vụ Huyện ủy họp mở rộng. Trăm phần trăm lãnh đạo nhất trí gia đình cô Ngần không có tội. Công văn soạn thảo dưới có chữ ký Chủ tịch huyện tươi rói màu xanh mực Cửu Long, cộp dấu đỏ. Thông báo lên Trung ương, tới cơ quan chức năng địa phương và xuống xã Pù Nhài... đúng qui trình. Vậy mà hôm nay xảy ra cơ sự thằng bé Hợp lên chất vấn ông?
Không lẽ thằng rể Khùng, chồng con Hợi dính líu vụ này? Năm đó Khùng trúng Thường vụ. Người dân tín nhiệm bầu làm Chủ tịch xã thay ông Khút, anh nó. Có một vài ý kiến xì xèo lên huyện "Lãnh đạo xã Pù Nhài chuyển giao quyền lực gia đình trị". Huyện chỉ đạo xã tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm cho khách quan, vô tư. Thời chiến ác liệt, tàu bay, tàu bò của tụi giặc ném bom ầm ầm. Người dân mải xuống hầm, chạy vào núi rừng trú ẩn, giữ cho gia đình không đổ máu. Chuyện "bỏ phiếu tín nhiệm" giống như nước chảy băng băng dưới suối. Ai có chữ hơn người thì làm. Nhìn mỏi mắt mấy mường trong xã chả ai hơn Khùng.
Toàn thân ông Hoái nóng ran, nỗi lo bội phần dâng lên.
Rể Khùng nhà ông làm Chủ tịch xã mười mấy năm liền, sao nó dám cả gan trái lệnh cấp trên? Nó ỉm dìm chuyện nhà cô Ngần vì lẽ gì? Trái ngang quá đi. Công lao sự nghiệp của ông bỗng chốc đổ sông vì thằng rể a? Trong mắt ông thằng rể không xấu bụng. Con gái ông, cái Hợi mắc chứng thần kinh điên điên, khùng khùng mà nó không ruồng bỏ. Đành rằng của nả ông dốc cho nó nhiều, nhưng là cho vào thuốc men cứu chữa con Hợi. Thuốc hay, thầy giỏi ở đâu mách nước cũng tìm về chữa trị mà con Hợi không khỏi. Có lần, nhân dịp kiểm tra xã, ông ghé qua nhà thằng rể. Đau xót, con Hợi lên cơn cuồng nộ, không nhận ra cha, cười sằng sặc túm ông lải nhải: "Anh.. anh à... rắn...rắn...đừng bỏ em...ha ha ha...".
Con gái ông khỏe mạnh, vâm vấp. Sang nhà chồng chưa kịp hưởng mặn nồng của tuần lễ đầu làm vợ thì đổ bệnh. Cúng bái, lễ lạt thuốc hay, thầy giỏi làm hết cách rồi, nó vẫn như thế. Ông bàn với rể Khùng đưa nó đi khám dưới bệnh viện, kết quả khám cho thấy nó bị bệnh thần kinh, do tụ máu ở não lâu ngày không chữa trị.
Nằm viện được dăm hôm, con rể đưa vợ về. Ông nói sao nó cũng lắc đầu không nghe, nó bảo hàng tháng lấy thuốc về uống. Nó làm việc xã không thể ở bệnh viện trông nom liên tục được. Con gái ông thật đấy, nhưng gả cho họ nhà người ta, ông làm sao can thiệp sâu vào chuyện nhà con rể được. Vả lại, ông không muốn nghe lời nói bực dọc của Khùng. Cái thằng ấy làm Chủ tịch xã mà tính khí lạ lùng. Lúc nói ngọt như mật ong, khi lại cục cằn thô lỗ... thôi, tránh đi thì hơn.
Mồ hôi túa ra trên gương mặt sạm nắng của ông. Mệt mỏi. Rã rời.
Không thể để chậm, ngay lúc này ông phải gọi một số ban, ngành liên quan gặp ông triển khai công việc. Đồn trưởng Công an, Chánh văn phòng Ủy ban huyện, Chủ tịch xã Pù Nhài – Thằng rể Khùng và phụ trách văn thư bảo mật lưu trữ hồ sơ... xem cụ thể ra sao rồi triệu tập cuộc họp. Chuyện lớn thế này cũng tranh thủ ý kiến Bí thư huyện Nông Văn Khiển... Ây da! Sao rắc rối đến thế? Liệu có báo cáo lên tỉnh không? Thằng thanh niên Hợp không rõ gửi đơn đi những đâu, gặp ai thì ông không biết. Ui da!
Nắng thu trong dịu mà ông vã mồ hôi như tắm. Chiếc quạt con cóc vù vù quay không thấy mát? Ừ, nóng từ trong máu lan ra, bốc hỏa toàn thân sao mát được? Một ngày chẳng ra làm sao.
Dường như những cánh gió đầu đông lạnh se không đủ sức xua tan không khí nóng của cuộc họp Thường vụ Huyện ủy Pó Liểng. Hôm nay lãnh đạo tỉnh về dự. Không ai xa lạ, là ông Khỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy. Ầy! Sao họ Nông ấy rễ dài thế? Từ xã, tới huyện, lên tỉnh đâu đâu cũng thấy anh em họ mạc. Bí thư Huyện ủy ông Khiển, bộ đội thương binh chuyển ngành về huyện vài năm, là anh trai của ông Khỉnh, Phó Bí thư tỉnh. Vị Bí thư huyện chả hiểu sao không lấy vợ. Tính tình thâm thúy, mềm mỏng. Hôm ông sang gặp báo cáo vụ việc xảy ra ở xã Pù Nhài, Bí thư mặt lạnh lùng như miếu hoang. Bí ẩn. Thái độ ấy làm ông Hoạt ngột ngạt. Trộm nghĩ, biết đâu trong tay Bí thư Khiển có lá đơn của gia đình thằng bé Hợp cũng nên...
Sau khi nghe ông trình bày, Bí thư bảo, chuyện này lớn đấy, phải báo cáo Tỉnh ủy. Ô! Báo cáo thì coi như công lao của huyện năm nay đi tong, làm sao được xét thi đua - khen thưởng nữa? Từ đầu năm cố gắng phấn đấu không xảy ra vụ việc nghiêm trọng phải xử lý kỷ luật. Hai năm vừa qua được tỉnh khen tặng Bằng khen. Mấy chục năm, bao nhiêu đời Chủ tịch huyện, hỏi rằng có ai lãnh đạo tốt như ông không? Kinh tế nông – lâm nghiệp phát triển. Đẩy mạnh trồng lúa cao sản hai vụ, tăng diện tích hoa màu, tập trung chủ yếu vào trồng ngô lai... Thu nhập bình quân đầu người tăng, số hộ đói nghèo giảm. Công lao ấy của tập thể từ lãnh đạo, đến người dân đoàn kết, đồng tâm hiệp lực. Nếu không có ông "cứng cánh" dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm thì liệu có kết quả thế không?
Bây giờ, vì vụ việc từ mười mấy năm trước mà mất thi đua thì uổng công. Nghĩ thế, Ông Hoái đề nghị với Bí thư:
- Ông xem có nên báo cáo tỉnh không? Việc xảy ra lâu rồi, mình bây giờ sửa sai cho thế hệ trước thôi.
Bí thư lặng lẽ lắc đầu:
- Việc lớn mà không báo cáo tỉnh ư? Ông suy xét kỹ chưa?
Ông Hoái nhẹ nhàng: - Là ý kiến riêng tôi thôi, nếu tỉnh biết thì năm nay mất toi thi đua, khen thưởng...
Bí thư Khiển không giữ được điềm tĩnh nữa, bàn tay trái bị thương còn ba ngón của anh miết mãi xuống mặt bàn, anh đứng dậy, bước đến trước mặt ông Hoái, khẽ nói:
- Thành tích quan trọng hay niềm tin của người dân vào lãnh đạo quan trọng? Ta không thể làm ngơ trước việc làm vô tắc trách của một số cán bộ, đảng viên. Không vì bệnh thành tích, nể nang mà né tránh, che dấu...
Biết ngay Bí thư cứng nhắc, không đồng nhất ý kiến của ông. Chưa khi nào ông Hoái bình tĩnh đến thế. Thôi thì ông tung một cú hiểm:
- Bí thư Khiển à, vụ việc rơi vào thời điểm em trai Bí thư làm Chủ tịch huyện, ông chú Khùng của Bí thư làm Chủ tịch xã.
Trán Khiển nhăn lại, không do dự, anh nhấn mạnh:
- Ai làm chủ tịch hay bí thư "ngâm" vụ việc, không giải quyết dứt điểm, làm khổ dân là có tội, phải sửa sai, chấn chỉnh. Không vì người nhà, người thân mà làm ngơ, cho qua. Chúng ta phấn đấu có một xã hội công bằng.
Bí thư nói thế, ông Hoái đành ngậm tăm, nén hậm hực. Dù sao thì Bí thư Khiển cũng nói đúng. Ông Hoái đủ khôn ngoan không gây căng thẳng. Giọng ông mềm tựa nước chảy:
- Trước đó là ý kiến thiển nghĩ của tôi. Thôi, tôi với ông bàn xem nên bắt đầu từ khâu nào, triển khai giải quyết việc sửa sai nhanh gọn, làm sao mấy hôm nữa, tỉnh về thì Thường vụ họp báo cáo kết quả là hay nhất.
Trao đổi vụ việc "nóng" với Chủ tịch Hoái xong từ lâu mà Khiển vẫn ngồi như dính chặt vào ghế gỗ. Tiếng thở của Khiển đứt gãy, méo mó sau nếp nghĩ trôi nổi. Mắt Khiển ngước mãi về phía núi Phja Bjooc rực trong màu tím xa xăm.
... Đã bao mùa nóng lạnh trôi qua, ngần ấy mùa mạy mác thay màu bung nở mà sao bóng hình, hơi thở của Xa vẫn biệt tăm?Phải tìm Xa ở đâu bây giờ? Từ trong sâu thẳm trái tim của Khiển thì Xa vẫn đang ở đâu đó, Xa không thể bỏ anh mà dấu mình đi như vậy. Khiển tin một ngày nào đó Xa cùng nụ cười ấm nồng sẽ trở về bên anh. Có gì đó se xót, cồm cộm trong tim Khiển...
Khi nãy Chủ tịch Hoái "nhắc khéo" người thân của Khiển "có công" làm khổ gia đình Ngần. Ôi chao! Chiến tranh đi qua rồi, bây giờ nước nhà thống nhất hơn ba năm. Trong thời chiến ở hậu phương có những việc vô tình làm sai, giờ đủ độ thông thoáng về thời gian để nhìn nhận, kiểm điểm và sửa sai sót. Trách nhiệm người đứng đầu Đảng bộ huyện, không để tình riêng xen vào việc chung. Vẫn biết động chạm gia đình, anh em, dòng họ. Nhưng sai nọ chồng tiếp sai kia, thì có tội với dân. Liệu rằng ở huyện còn những chuyện sai vô tình hoặc cố ý nào nữa mà lãnh đạo huyện bị che khuất tầm nhìn? Nhân chuyện này phải xin ý kiến của tỉnh để "rà soát", lấy lại niềm tin của nhân dân...Dẫu rằng, áp lực lớn trước sự trì trệ, bảo thủ cố hữu, sẽ có nhiều ý kiến trái chiều, song không im lặng làm ngơ.
Mối tình đầu vấn vít lời hát sli năm xưa tưởng chôn vùi trong đáy sâu ký ức, tan loãng theo sương gió...bây giờ bừng thức vang vang trong đầu Khỉnh. Tình yêu không thành của Khỉnh vụt trôi theo thời gian, vùi chìm, khuất lấp trước vật chất đủ đầy, cùng nhiều nhiều ánh mắt ngưỡng mộ của những người đàn bà...Vậy mà giờ đây ùa ập tựa con nước mùa lũ ào về. Muốn quên mà không thể gỡ bỏ.
Ở vùng này có ai được như Khỉnh không? Học vấn cao. Quan hệ rộng. Con đường tương lai rộng thênh. Lấy vợ con nhà thế lực. Bố vợ nói một câu, Khỉnh đã vững chãi lên vị trí mà có người phấn đấu cả đời không được. Ngôi biệt thự sang trọng. Người đàn bà vợ Khỉnh cùng thằng con tên là Sần, đã có lúc Khỉnh ngợp trong cảm xúc hạnh phúc. Tiền tài. Địa vị. Vợ khôn. Con giỏi...
Không ai biết trong gia đình Khỉnh có hố sâu toang hoác không hàn gắn nổi. Có thể từ phía Khỉnh. Khỉnh cố sức đóng vai diễn trên sân khấu hoàn hảo, giữ mô hình gia đình. Khỉnh không muốn đổ vỡ và mất mát. Khỉnh sợ người ngoài biết thì thanh danh, uy tín trôi tuột dốc. Như thế không được...Dù sao Khỉnh cũng cơi nới "cơ sở" dưới phố. Cô gái đẹp nhưng môi thắm, miệng hoa không biết thoát ra tiếng nói, đôi mắt ướt đằm, mỗi lần Khỉnh nhìn ngỡ lạc vào mắt Ngần. Hai người xa lạ mà có đôi mắt đẹp hút hồn, giống nhau. Phải chăng là cảm giác? Thằng bé con ba tuổi giống Khỉnh như đúc, là niềm vui an ủi cho những mất mát trong cuộc đời.

Chục năm trôi qua, Khỉnh không động vào người vợ. Từ hôm Khỉnh bất chợt từ tỉnh về nhà giữa tuần, gặp lão kỹ sư địa chất lạ trong nhà mình, quấn quít với thằng Sần. Tuyệt nhiên Khỉnh không ghen tuông mà hụt hẫng, đổ vỡ và khinh bỉ. Thằng Sần giống bố nó quá. Dáng đi, vẻ mặt, đôi mắt...còn gì để nói với nhau nữa đây? Khỉnh bỏ ngoài tai xì xầm về thằng con không giống mình. Lúc ấy Khỉnh cho rằng, người ngoài ghen tức với mình nói thế. Trẻ con không giống bố thì giống mẹ.
Bây giờ, sau mười mấy năm biết mình là "người thay thế" hợp thức hóa đứa con trong bụng vợ, quá muộn để phá vỡ nơi gọi là "tổ ấm" này. Hừ tình vợ chồng chị em không thể rũ bỏ. Không thể nói ra. Chuyện nhà bung bét, vỡ ra mất mát nhiều thứ lắm. Uy tín rớt xuống thảm hại. Gia đình tan nát...
Vợ Khỉnh là người đàn bà đê tiện. Ba lần cô ta quì mọp dưới mũi dép của Khỉnh cầu xin Khỉnh tha thứ...Cô ta khóc lóc, mồm leo lẻo van xin. Rằng quá khứ lầm lỗi ấy khiến cô ta căm thù bố thằng con. Trên đời này có ai tốt hơn Khỉnh đâu. Cô ta yêu chồng đến mức muốn nuốt trôi Khỉnh vào trong tim...Nếu Khỉnh không chấp nhận tha thứ thì cô ta sẽ sống mà như chết, vậy thì chọn cái chết bất đắc kỳ tử để giải thoát.
Không! Sao có thể dễ thế được? Phải giữ nguyên trạng tình cảnh gia đình trong lớp vỏ bọc hào nhoáng "hạnh phúc" chứ. Như thế sự nghiệp, quyền lực của Khỉnh và của cô ta vững chãi. Khủng khiếp hơn là để mụ vợ day dứt, đau khổ suốt đời, không dám hé răng.
Nhiều năm qua, Khỉnh lặng lẽ đi về căn biệt thự ở Pó Liểng như không có gì xảy ra. Đêm vẫn nằm bên người đàn bà vợ mình sực nức hương thơm. Chỉ nằm cạnh thôi. Nghe rõ tiếng trở mình vật vã của bà ấy. Thản nhiên chứng kiến, giữa đêm giá lạnh vợ xối nước ầm ầm trong nhà tắm, hờ hững phủ tấm khăn voan mỏng lên người. Cảm xúc gần gũi với người vợ đã chết lặng trong Khỉnh từ lâu rồi...
Thực ra, những năm tháng trước đây với vợ, cùng nhiều người tình mới lạ, bây giờ thì người tình câm kia, lần nào chìm trong ham muốn ân ái, Khỉnh cũng tưởng tượng đang ôm Ngần trong vòng tay. Sống đồng sàng dị mộng như vậy, Khỉnh mới làm được cái việc của thằng đàn ông. Bóng Ngần quây riết tâm hồn, tâm can Khỉnh không buông. Với Khỉnh, sự ham muốn phóng đãng vùi trong những thể xác mới lạ, cuộc tình chớp nhoáng là trút hận vào mối tình đầu. Cũng có lúc Khỉnh thấy mình khốn nạn. Nhưng ai đã đẩy Khỉnh đi đến tận cùng của sự chán chường ấy? Đó là Ngần đấy. Ngần bỏ rơi Khỉnh, làm vợ thằng trai khác, làm mẹ của những đứa con. Kỷ niệm buồn của mối tình đắm say, không tới bến hạnh phúc, khiến Khỉnh luôn có cảm giác bị bỏ rơi. Hận Ngần đến xương tủy găm mãi theo Khỉnh. Hận bao nhiêu thì da diết yêu Ngần bấy nhiêu. Yêu ngấm ngầm và hờn ghen quá khứ....
Nếu ở vào hoàn cảnh của Ngần lúc này, mình sẽ như thế nào nhỉ?Khỉnh bỗng nghẹt thở khi ngồi trong phòng họp dặt những gương mặt cũ mèm. Mọi người sao dồn mắt vào Khỉnh thế? Cố mà nuốt khan bức xúc. Từ miệng Khỉnh buột ra những lời nhạt thếch. "Cần nhìn thẳng vào sự thật. Ai sai? Do đâu? Lý do vì sao? Các đồng chí mạnh dạn nêu nguyên nhân khách quan, chủ quan, chỉ rõ sai phạm từ khâu nào? Do huyện hay do xã? Từng đồng chí nêu cao tinh thần trách nhiệm của người cán bộ đảng viên, thực hiện nghiêm qui chế dân chủ ở cơ sở..."
Sột soạt. Roàn roạt... Tiếng những trang giấy trước mặt từng người trong cuộc họp, nhất loạt lật giở, tạo cộng hưởng thêm không khí ngột ngạt. Cứ nói đi, phát biểu đi. Biết chắc sai phạm này từ dưới xã. Hiềm nỗi rơi vào người nhà. Oái oăm quá.
Năm ấy, ông Hoái phụ trách điều tra vụ gia đình Ngần. Khỉnh ký hồ sơ, kết luận rõ như ban ngày bị tố cáo oan sai. Khi đó ông Hoái đề xuất truy cứu tìm người viết đơn thư tố cáo nặc danh, Khỉnh gạt phắt. Ôi dào, chiến tranh bao nhiêu việc phải lo, tìm người viết đơn thư tố cáo sai ư? Rách việc! Dốc sức vào chuyện dớ dẩn ấy mà sao nhãng việc chắc tay súng, giữ vững hậu phương, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, làm ra nhiều lương thực, thực phẩm chi viện cho tiền tuyến là không được.
Bây giờ, những gương mặt vênh vang ngồi họp nhao nhao ý kiến nọ, ý kiến kia phát biểu hăng hái. Tinh thần cao, tuyệt nhiên không ban, ngành nào của huyện có lỗi.
Giọng nói chậm rãi, chắc nịch của Bí thư huyện ủy Nông Hải Khiển, kết luận cuộc họp Thường vụ Đảng ủy mở rộng, khiến suy nghĩ ông Khỉnh quay trở về thực tại.
"...Qua ý kiến khiếu nại, phản ánh của gia đình bà Ma Thị Ngần, xã Pù Nhài, về việc gia đình bà bị tố cáo oan sai mười ba năm.
Đảng ủy, Ủy ban nhân dân huyện Pó Liểng căn cứ hồ sơ gốc số... công văn thông báo số... năm 1965, kết luận: Trong những năm chiến tranh, gia đình bà Ngần trong sạch, không che giấu gián điệp, biệt kích...
Sai sót nghiêm trọng khiến cho người dân mang tiếng xấu nhiều năm, do nguyên nhân khách quan và chủ quan: Năm đó chiến tranh ác liệt, đường xá đi lại khó khăn, xã Pù Nhài ở vùng sâu, nhân viên bưu tá chuyển công văn thông báo xuống xã thất lạc...
Trên tinh thần kiểm điểm nghiêm túc, trung thực, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện thẳng thắn nhận rõ, công tác kiểm tra, giám sát cấp dưới đôi khi chủ quan, phiến diện, nghe báo cáo là chính..."
Bí thư Huyện ủy Nông Hải Khiển lướt nhìn một lượt quanh phòng họp, và cao giọng hỏi: - Các đồng chí ai có ý kiến gì không?
Mọi người lặng phắc. Người hay đưa ra ý kiến "trái chiều" là bà Khúi cũng lặng yên. Thế là tốt. Trăm phần trăm nhất trí kết luận của Bí thư huyện. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm như trút đi gánh nặng.
Ông Khỉnh giật mình. Mặt ông ngây đuỗn.
Theo báo cáo bằng tường trình trên giấy của Chủ tịch xã Pù Nhài, thời điểm năm 1965 và 1966 xã không nhận được công văn thông báo việc nhà bà Ngần. Chuyện này nghe thiếu thuyết phục quá. Kết luận công văn thất lạc ư? Có quá vội vàng không? Đúng là dịp đó giặc Mỹ đánh phá ác liệt, công văn thư từ xuống xã trao cho bưu tá chất lên lưng ngựa... Ày! Có mờ ám không nhỉ? Người đưa công văn, thư tín năm ấy bị rắn độc cắn, mất cách đây chưa lâu. Hoa khảo quang rải trên mộ đá chưa héo. Cái chết bất thình lình của anh ta vào thời điểm nhạy cảm thật rợn lạnh. Liệu có ai đó cố tình làm anh ta bị rắn cắn không? Ma cũ lấp miệng. Trời se lạnh mà trán ông Khỉnh vã mồ hôi...
Chương 16
Mây Bay Cuối Trời
Nắng trong trẻo, óng vàng. Rừng mác cọt tràn ngợp hương dịu ngọt của mùa quả đang vào độ chín. Thói quen từ mấy chục năm nay đưa bước chân Ri về bên gốc cây mác cọt đôi, chập chùng cánh võng thời thiếu nữ. Nhẹ đung đưa võng dây, chị hồi hộp tưởng như chuyện của chị và anh vừa xảy ra. Hơi anh nóng ấm trong nhịp thở của lá, của quả. Tiếng cười anh khiến cho những giọt nắng nhảy nhót vũ điệu hoan ca. Nụ hôn say đắm, ngọt ngào quấn riết còn bỏng rát môi chị. Mồ hôi anh ướt dượt ngợp người chị đấy thôi. Lần đầu, chị biết thế nào là trái ngọt thảo thơm tình yêu. Chị "ăn vụng" trái cấm trong dâng hiến đê mê. Tình yêu anh đưa chị trôi bồng bềnh trên cánh võng, du dương theo gió dưới thảm lá mục êm ái, có lúc như dập dềnh trên sóng nước... Lúc ấy, chị tin là rừng mác cọt, với những chùm quả tròn căng, anh ánh sắc vàng có ngàn vạn ánh mắt chứng kiến tình yêu say nồng của chị và anh.
...Hình bóng anh ùa về trong tâm trí. Tiếng nói anh thủ thỉ, nhẹ êm:
- Mai anh xuống núi nhập ngũ, anh nối chân ông và pò làm người lính.
- Sao anh nhất định phải làm người lính? Có gì sướng đâu anh? Như ông cậu bị thương rồi mất, cha đi mãi không về, mộ cha cũng không biết ở đâu trong Nam xa xôi. Em lo..!- Ri thảng thốt nói trong nước mắt.
Khẽ kéo đầu Ri ngả vào vai, anh bảo:
- Em à, lo gì chứ, đằng nào anh cũng lỡ dở không nhập trường đại học được rồi! – Giọng Hợp thoáng trầm tư, lát sau anh mỉm cười: - Anh hỏi trên Ban tuyển sinh huyện rồi, kết quả thi được bảo lưu mà Ri. Đất nước im tiếng súng, anh về học tiếp. Em cùng Rinh ở nhà học hộ phần anh nhé. Phải học thật giỏi...
Biết là trước lúc chia tay người đi xa, khóc thì không tốt, nhưng mắt chị ầng ầng nước. Anh ghì xiết chị trong vòng tay lực lưỡng. Môi anh mi miên lau khô nước mắt chị. Anh thầm thì, nước mắt chị không mặn như người khác. Giọt ngọt, giọt đắng đan xen, giống như ăn măng vầu đầu mùa vậy. Nghe anh nói thế, chị bất giác véo nhẹ cổ tay anh:
- Anh biết thả lời hay, câu đẹp từ khi nào thế? Làm gì có nước mắt vừa ngọt vừa đắng?
Khe khẽ lắc đầu, anh mỉm cười: - Em không tin sao? Nào hé môi ra, anh cho em nếm thử nước mắt mình!
Ơ, đúng là nước mắt chị lúc thao thảo ngọt, khi nhằm nhặm đắng thật. Lần đầu chị biết khao khát yêu, cũng là lúc chị nhận ra nước mắt mình không giống như người khác. Sao thế nhỉ? Phải chăng tình cảm nồng nàn của anh hòa tan, chưng cất nước mắt chị có vị khác người?
Đất dưới chân chị khe khẽ rung. Chị và anh đắm đuối. Người anh rắn chắc, hơi thở của anh rừng rực phả nóng vào bầu ngực tròn căng, trắng hồng của chị. Phút chốc chị nghẹt thở và chìm mãi vào miền hoa mạy mác chênh chao tím, mênh mang gió, lãng đãng sương chiều đang từ từ dâng lên... Xa xa vọng lại bản giao hưởng muôn đời của bảy tầng thác Lỉn.
Chiều. Những đốm nắng thu mình vào miệng mặt trời. Rừng mác cọt mênh mang khoác áo tím huyền diệu. Khói bếp dưới bản gọi anh và chị về nhà. Không muốn giấu mé, chị và anh dắt tay lên bậc cầu thang, qua bậu cửa, ngồi sụp xuống bếp vuông.
Đôi mắt trong veo của em Rinh thoáng chút hồ nghi.
Không nhìn chị và anh, mé dịu dàng trách:
- Hai đứa mày đi hái vài quả mác cọt thắp hương ông bà mà hết buổi. Tụi sóc nó cõng túi quả về từ lâu rồi. Tắm rửa mà đi ăn cơm, còn ngồi mọc rễ a?
Mé nói, Ri và Hợp ớ người nhớ đến túi quả. May mấy con sóc chí chóe theo lên rừng mang quả mác cọt về thắp hương, nếu không hai đứa quên khuấy. Rõ thật đoảng quá...
Nháy mắt với Ri, em Rinh ranh mãnh thầm thì: - Lưng áo mày đầy vụn lá thế hả đứa chị?- Nó cười phá lên.
Đêm ấy chị lăn ra ngủ mê mệt, không biết mé ngồi lặng suốt đêm bên ban thờ. Gương mặt mé bợt bạt, quầng mắt thâm trũng. Mé tuy không ngăn cản việc anh Hợp đi bộ đội, nhưng mé suy nghĩ nhiều.
Rạng sáng anh xuống núi. Ba mé con đưa anh xuống bờ Nậm Khao. Nước hoan hỉ vỗ ghềnh đá, tỏa sóng bạc lấp lánh dưới lòng sông. Mắt mé đỏ trên khuôn mặt trĩu buồn. Cầm tay anh mé dặn:
- Con à, gia đình mình mấy đời làm người lính. Mày đi bộ đội rèn luyện cái thân cho tốt.
Núi thả gió chạy dọc bờ lau, sà xuống mặt sông dênh dang. Anh nhìn thật lâu vào mắt mé:
- Con đi bao giờ người rắn rỏi, tâm sáng ánh đèn sẽ về...
Em Rinh ôm chầm lấy anh, nó dặn: - Anh phải viết thư về đấy nha...cả nhà chờ anh!
Chị nghẹn ngào, thổn thức. Chân chị khẽ di di khóm hoa mạy mác. Vội bứt chùm hoa tím biếc, chị ấn vào tay anh, nghẹn giọng:
- Để anh nhớ hương thơm.
Lần đầu trong đời, vì anh mà chị làm đau những khóm hoa...
Lại sắp đến mùa trẩy quả mác cọt. Không nhớ nổi tiếng thở than của chị trong cánh rừng này. Không đếm xuể có bao nhiêu quả mác cọt đã xếp vào thạ bé, sọt lớn mang xuống chợ xa, chợ gần.
Cánh võng dây thong thả đung đưa theo nhịp thở của chị.
Chị ngước mắt nhìn, thảng thốt nhận ra năm nay cây mác cọt đôi không ra nhiều quả. Mãi trên cành cao chót vót, ba quả to tròn vàng óng đung đưa. Hai quả liền kề nhau tựa như hai vòng tròn giao thoa, còn một quả bé hơn, náu mình thẹn thùng e ấp sau mắt lá.
Có điều gì chăng? Từ ngày anh đi xa, mùa mác cọt nào chị cũng ngồi trên võng dây thầm gọi anh, nhìn tụi quả trĩu trịt, nhún nhẩy trên cành. Bây giờ sự lạ của mấy chục năm trước lại tái hiện, rập khuôn như thể thời gian không trôi đi mà ngưng lại, trên cành cao lưng chừng trời.
Năm anh Hợp đi bộ đội, cây mác cọt đôi cũng có ba quả treo trên cây. Lúc ấy, anh nói vui rằng ba quả kia là một gia đình tí hon sống trên vòm cao. Giờ đây, sau mấy mươi năm nó lại lặp lại, liệu rằng có gì thay đổi không?
Ký ức giống như những chiếc lá chấp chới tái hiện...

Canh một. Sương lăn trên mái nhà, rơi xuống sân lộp bộp. Gió bấc lồng lộn hú hét, gõ trống mặt nước sông Nậm Khao. Gió hung hãn đẩy lửa bếp liêu xiêu, đuổi tàn đen, đốm đỏ tốc ngược lên gác bếp, lay tụi bồ hóng lắc lư... Chị run lên vì cái lạnh cấu xé da thịt. Những tiếng ho khan trong lồng ngực mé bị dồn ép, đẩy bật ra từng chặp, từng cơn, khiến chị lo lắng. Chắc giờ này, em Rinh vô tư cuộn tròn trong chăn ấm dưới trường đại học, say sưa giấc nồng rồi.
Chị khẽ xoa tay vào vòm bụng lùm lùm có đứa trẻ con. Đứa con tiếp thêm hơi ấm và sức mạnh cho trái tim của chị trong đêm đông thanh vắng. Chị thở sườn sượt. Vì giọt máu này mà chị lỡ dở ước mơ làm sinh viên đại học y khoa.
Niềm vui và nỗi buồn chồng chéo nhau. Vui vì tình yêu của chị và anh đã kết nhụy khai hoa, đậu quả. Chị được làm mẹ. Trái tim non bấy của đứa bé đập theo nhịp đập trái tim chị, thở theo hơi thở chị, là giọt máu hạnh phúc của anh chị đấy thôi. Chị buồn vì ước ao học cao, làm dày túi chữ, trở thành người thầy thuốc giỏi, chữa bệnh cho bà con dân bản không thành. Thư thoảng, chị lấy giấy gọi bổ xung vào trường đại học y khoa đọc đi, đọc lại... thuộc lòng từng dòng mà vẫn muốn xem mãi.
Những đêm khó ngủ, chị thả hồn, gửi lời tâm sự theo sương, theo gió cùng anh.
... Anh Hợp ơi, đêm nay là đêm thứ tám mươi bảy anh xa mái nhà sàn này rồi. Từ đâu đó nơi biên cương xa xôi, anh có nghe tiếng gọi của hai mẹ con em không?Anh đã làm cha. Không hiểu nó là con gái hay con trai. Thể nào anh cũng nheo nheo đôi mắt thông minh, tay búng nhẹ má em bảo: "Con nào cũng tốt, cũng thích...".
Anh à, mới sáng nay thôi, dòng họ Ma nhà mình họp họ, lưng mé gập cong, mắt nhìn xuống sàn nhà chịu tội thay cho em. Mé xin các ké, các bà cho con mình được sống... Mé phân trần khản đặc giọng, tuy hai đứa mình do mé nuôi dưỡng nhưng không chung huyết thống, vì thế dòng họ hãy nương tay làm phúc, cho đứa trẻ làm người...Lời mé xát muối vào bụng, đổ ớt vào thịt da em.
Em chịu hình phạt ở góc vườn là được nương nhẹ đấy anh à.
Dưới gốc cây mận rụng lá, trơ cành khẳng khiu, một cái hố tròn do chính tay mé đào sẵn để em nằm sấp, cho bụng lọt xuống. Người em đau ê ẩm, đứa bé trong bụng cũng mệt theo em. Em úp mặt, cắn chặt răng và run lên vì hơi đất thấm sương lạnh lẽo. Em gồng người để con không lạnh. Nếu em để con lạnh sẽ có tội với anh.
Sớm nay, trong màn sương ảm đạm, tụi sóc nhà mình chợt kêu váng khủng khiếp. "Chô... ốc...toốc...chô...ốc... chốc...tôc...tốc...". Não nùng. Hoang dại. thẳm sâu. Đàn sóc kêu ai oán theo lời gió hú u u, tựa như dàn hợp âm ảo lạnh... Hình như tụi sóc không kêu mà gào thét, chúng nhảy quanh em hú hét thảm thiết. Dường như lũ sóc lo cho mé và em. Chúng da diết cầu xin người trong dòng họ.
Em day dứt quắt quay, giận mình gây họa... tụi mình làm mé khổ. Lưng mé còng thêm. Tóc trên đầu sẽ trắng ra nhiều.
Dòng tộc bắt phạt mổ con lợn mé nuôi hơn năm trời để chuộc tội với họ hàng.
Khoảng gần chín giờ sáng. Trời ngợp mây. Tụi mây không theo gió bay, dùng dằng bám riết khuôn trời bản ta, tung hơi ẩm ướt, lạnh cóng.
Tiếng lợn bị trói kêu gào thảm thiết. Ba người đàn ông họ Ma nhà mình, ai cũng đeo khuôn mặt đỏ văng vì rượu ngô men lá, hằm hằm chém đầu con lợn sống. Mắt lợn trợn trừng oan khuất.
Mé đưa thủ lợn tươi, máu chảy ròng ròng lên đầu. Chân mé bước thập thững theo ông Trưởng họ từ nhà, đến dưới chân thác Lỉn, lập đàn tế lễ, cầu khấn... Mé đội thủ lợn mà quì. Sau một tuần nhang cháy đỏ, vàng mã, tờ tiền, hình nhân thế mệnh... cùng thủ lợn được mé thả xuống dòng nước, tạ tội với thần rừng, thần sông.
Khi mé về, người ruộm thẫm máu lợn tanh nồng. Theo người già trong họ, máu đầu lợn chảy nhiều, tội của em sẽ xuôi theo máu vật nuôi trong nhà mà được tha thứ. Lúc ấy, em muốn gào to lên, tội em làm em chịu, sao làm khổ mé? Nước mắt em tanh nồng. Em úp mặt vào lá mục rùng mình, nôn thốc, nôn tháo...
Chiều muộn. Người trong họ ra về, còn hai mé con trong căn nhà trống vắng, nồng nặc hơi rượu và xương xẩu vung vãi... Mé hì hụi dọn dẹp. Gương mặt mé sầu muộn, ngậm ngùi:
- Ri à, chắc cụ tổ khôn thiêng, phù hộ cho máu lợn chảy nhiều, không thì biết tìm đâu ra lợn tạ nữa mà chặt đầu...
Em khóc nức lên, nấc mãi không nói được lời nào để mé vơi buồn.Cổ họng em ắc ứ.
Lời mé nhẹ như nước nhưng xa xót. Mé bảo:
- Thôi mày đừng khóc mà đứa bé nó sẽ mang gương mặt buồn, như thế thì tội lắm. Dù sao mày thả tro vào nhà rồi, đừng bắt đứa bé mang màu tro bếp đen đủi...
Em bặm chặt môi để không trào tiếng nấc, nhưng mắt vẫn không ngưng chảy nước. Em tin chắc nước mắt em khi chiều không thao thảo ngọt, mà đắng quánh.
Mắt em sưng mọng nhìn tàn lửa. Em muốn thức với bếp vuông xem bóng đêm dài đến đâu?Em sợ phải nhắm mắt, vì mắt em khép lại thì màu đỏ của máu trên đầu con ỉn nhà mình hiện ra quay cuồng, nhảy múa, khiến em sợ. Giá như lúc này có anh ở bên, em sẽ nép đầu, vùi mắt vào vồng ngực nở nang của anh, quên lo lắng, ưu phiền... Là ước ao thế thôi phải không anh?
Lá thư duy nhất anh gửi về, em và mé nhận được cách đây mấy hôm. Một thư cho mé, một thư cho em và mấy dòng ngắn ngủi cho em Rinh. Nếu Rinh ở nhà, thể nào nó cũng dỗi hờn, ngúng nguẩy trách anh giành tình cảm cho nó ít hơn em.
Thương mé lắm anh à.Mé chưa vội đọc mà nhẹ áp lá thư của anh vào má, hít hà rất lâu. Đôi mắt thoảng vết chân chim sáng rờ rỡ, mé cười nói là thư có mùi mồ hôi nồng nắng của anh...
Trong thư, anh nói đang ở trên cao điểm "Khau Mười", có những cây thông suốt ngày rì rào ca hát và biết tung bụi phấn hoa vàng trong bạt ngàn mây bay, sương giăng, gió thổi. Nơi ấy là đâu, chỗ nào thì em không biết. Giá như anh nói rõ hơn thì tốt biết mấy. Giữa chốn xa xôi, anh nhớ em quay quắt ư?Tình yêu em là sợi dây tình cảm vô hình động viên anh chắc tay súng ư?
Anh thủ thỉ nhắc em không được làm mé buồn. Điều này em muốn cũng không thể giữ được, tụi mình làm tổn thương mé nhiều lắm! Anh bảo em thay anh học chữ nhiều ư? Cũng không được vì tụi mình có con, em không thể đi xa...
Kìa anh, mé húng hắng ho. Từ trong buồng, mé giục:
- Ri à, mày định bó gối hết đêm để đứa bé nó không thoải mái a? Đi nằm đi, đàn bà có con rồi phải biết sống vì con.
Trời về đêm, hương hoa mạy mác của bản mình nồng thơm. Nhành hoa em hái vội bên bờ sông, anh mang theo bên mình, hay gói kỹ để trong ba lô?Chiếc vòng tay đá núi Phja Bjooc của em trao anh, là hình bóng, hơi thở của em. Nếu nhớ em, anh nói chuyện với vòng nhé. Nỗi nhớ sẽ vợi đi, giống như em bây giờ. Chiếc vòng cổ anh trao đêm nay tỏa sáng rực rỡ. Bốn mắt của đôi công chớp chớp, hai chiếc mỏ tụi công ngậm đóa hoa mác cọt tỏa màu vàng rực rỡ. Lạ quá đi thôi!
Có âm hưởng đang vang lên như tiếng nhạc réo rắt. Chị dỏng tai lên nghe. Ô hay, tụi sóc theo chân chị vào rừng, con nọ ngậm miệng vào đuôi con kia ríu rít nhảy múa vũ điệu hồng hoang theo tiếng hót của bầy chim đa đa. Chị chợt bật cười. Có gì vui mà tụi mày lại làm trò hay thế?
Đến giờ phải về rồi. Chị khẽ lấy dao cứa nhẹ vào cánh võng dây đánh dấu. Từ ngày anh xuống núi đi xa, năm nào cũng vào ngày ấy, chị khứa cắt một chút đau đớn vào dây võng, đủ để thân dây chảy nhựa, sưng phồng, thành sẹo. Mấy chục cái sẹo rồi, bóng anh vẫn bằn bặt xa. Con chim qua rừng để lại tiếng hót và phân rơi dưới đất. Lá cây rừng đến mùa rụng xuống thành mùn mục... vậy mà người đi không biết để lại dấu vết.
Chị thẫn thờ nhìn núi rừng. Trên trời cao, những đám mây tím hồng mang nhiều hình tượng biến ảo, cuồn cuộn trôi về núi. Dường như trong khối mây lớn xa xăm kia có bóng người cao lớn, lưng đeo ba lô, dõi mắt nhìn về phía chị mỉm cười...
Chương 17
Định Mệnh
Tiết trời thay đổi. Mặt trời chùng chình nấp kín trong mây. Gió bấc kéo cái lạnh từ núi xuống. Sương rơi rất buốt. Mặt sông Nậm Khao mịt mờ như khói giăng. Cây trong rừng mác cọt thở dài nhẹ tênh rủ nhau trút lá. Cây vườn nhà lặng thầm dỗi hờn, trơ cành khẳng khiu. Quanh Mường Vang chỉ hoa mạy mác tung tăng chuyển sắc đỏ anh ánh tím tươi tắn. Trời mà tung rét đậm thì hoa càng rực rỡ, nhẹ nhàng thơm.
Không khí giá lạnh buông tỏa, con đường xuống núi vắng người qua lại. Người bản thích ngồi trong nhà sưởi lửa quanh bếp vuông. Da dẻ từ người già đến trẻ nhỏ nứt nẻ, phồng rộp, bong tróc. Ngồi lâu trong bếp da càng nứt tợn. Kệ thôi, miễn là ấm thân. Trời rét thì núi rừng được hong khô, thuận tiện cho chân Ri vào rừng, trèo núi hái cây thuốc mang về.
Bà Ngần vươn vai ngồi dậy. Sương sớm luồn qua khe liếp găm cái buốt vào da người. Quanh nhà nồng nàn hương thơm. Nồi nước lá tỏa khói trên bếp phả hương. Chắc là cái Ri trước khi đeo thạ lên núi, đặt lên bếp nồi nước để bà rửa mặt cho ấm. Con bé đến là hiếu thảo. Nhẩm đếm ngón tay thì bà cũng trên mươi rồi. Con Ri, con Rinh bước sang tuổi gần bốn mươi chứ ít ỏi gì.
Thời gian xuôi theo chiều nước trôi không dừng lại. Cuộc đời bà thăng trầm theo bóng tháng năm đi. Dạo này bà ngậm ngùi nhớ những chuyện trong quá khứ, len lén lau nước mắt. Bà dấu không cho cái Ri biết. Bà không muốn con nghĩ ngợi. Nó rõ xinh đẹp nhưng phận vôi trắng xóa. Hai đứa con gái bà là song sinh mà duyên kiếp khác nhau. Con Ri giỏi giang, nết na, hiền hậu mà khổ. Con Rinh giỏi, nhưng tính khí đành hanh, thích bay nhảy đi xa, ấy thế lại sướng.
Con Rinh giàu có, sang trọng. Thư thoảng từ trên tỉnh về nhà bằng cái xe to chừng bốn năm con trâu, con ngựa gộp lại. Chân nó leo bậc thang nhà sàn rón rén như thể nó quên ngày bé nhảy ầm ầm. Nó lễ mễ mang của ngon, vật lạ cả đời bà chưa nhìn thấy, chế biến cho bà ăn. Bà thở dài lắc đầu bảo đừng hoang phí, mé cả đời ăn rau nhiều thôi, không biết ăn con tôm cua to tướng ở miền biển đâu. Bụng mé quen khổ, sướng không chịu nổi. Nó cười bảo bà đừng lẩm cẩm, nó có lương, làm ra tiền. Vả lại giờ là thời nào rồi mà mé vẫn khổ thế chứ... Nó mấy lần bảo bà về dưới phố ở với nó, bà cười nói là tao sống ở núi quen, không muốn đi đâu khác. Có lúc bà trộm nghĩ, khoảng cách giữa bà với đứa gái út ngày càng giãn nở. Lúc nó là chim non thì gần gũi với bà, giờ nó đủ lông cánh bay xa xuống dưới phố, tình cảm dường như nhàn nhạt. Dẫu sao, bà vẫn thương con Ri hơn. Biết thế không công bằng, nhưng tự khắc trong bụng nghĩ vậy, biết làm sao.
Mà con Ri cũng tội. Một đời là bông hoa đẹp bị bỏ quên trong hẻm núi. Không được làm cô dâu mà có thằng con. Chịu khổ trăm bề từ ánh nhìn, đến lời mai mỉa của trong họ, ngoài mường. Cái thằng Được giống cha Hợp nó như đúc khuôn. Con Ri đặt tên là Thành, nhưng hồi nó bé, bà bực mình gọi tên cúng mụ đầy tháng là Được, quen miệng rồi, không bỏ. Gọi bằng cả hai tên. Trộm vía, nó nhớn phổng phao như thổi, chả ốm đau gì. May quá là may. Ông "Phạ" cho bà thằng cháu ngoan ngoãn, giỏi như cha mé nó, bà toại nguyện lắm. Lúc bà nhắm mắt, xuôi tay có thằng chống gậy, thế là mát mặt. Xuống dưới âm thế gặp ông Phái chồng bà, không hổ thẹn. Nòi giống phát triển vượng khí.
Bà nhìn con đường chìm trong mây. Bao năm rồi, mắt bà đau đáu ngóng đợi. Từ mỏi mòn mong hình bóng ông Phái, đến bạn toồng Xa, giờ thì ngóng đợi vô vọng dáng hình của thằng Hợp, con trai bà.
Trong thâm tâm, bà âm ỉ dằn vặt. Cái chăn, cái gối của toồng Xa bà đi nửa đời người chưa thêu thùa xong. Cứ dở dang thế. Gốc rễ, nguồn cội của hai đứa con gái cũng mãi ẩn tích. Chuyện này bà chả dám hở ra.
Bà lật đật mở nắp giương. Bao dao chạm hình con ngựa vượt núi, lẽ nào Xa để cho hai con bé tìm cha nó. Mấy chục năm rồi, từ hôm bạn toồng đem hai đứa trẻ về cho bà nuôi, nhiêu lần bà cầm bao dao lên, ngắm nghía suy nghĩ, rồi lại để vào chỗ chăn gối thêu dở của Xa. Sao bạn toồng có hai cái bao dao giống nhau thế nhỉ? Khó nghĩ ra quá. Bà để một cái trong giương, còn thì đưa một cái cho cái Ri cho dao vào đi rừng. Dấu hai cái một chỗ làm gì cho phí. Sinh ra bao dao thì phải có dao thả vào trong.
Bao dao này bà biết rõ. Do những người đàn ông họ Nông làm ra. Bà không nhầm đâu. Hồi trẻ, mắt bà, hồn vía bà nhìn lão Khỉnh, mỗi lần xuống chợ, hay là tập trung dân quân, lão Khỉnh mang theo ống sáo và bao dao giống in cái này. Nếu đúng vậy thì rõ là nhà bà có nghiệp chướng. Chẳng nhẽ bao dao này của ông Khiển ư? Con Rinh làm vợ thằng Sần, vậy thì con ông anh lấy con ông em à? Thế thì tội lớn quá. Hồi chúng nó nằng nặc đòi cưới, sao bà lú lẫn không nghĩ đến bao dao này nhỉ? Cũng do bà lo toan nhiều việc nên nhãng quên. Giờ phải làm sao?
Kể cũng lạ. Bạn toồng Xa sao có hai chiếc bao dao? Hay là hai người đàn ông họ Nông cùng đưa Xa giữ làm tin? Chẳng lẽ lão Khùng và anh Khiển cùng tặng bao dao? Không thể nào, tính Xa bà biết. Xa đẹp người, tốt nết, thẳng thắn, không làm việc trái lương tâm. Nếu Xa nhận bao dao của lão Khùng thì làm vợ lão rồi, đâu phải đi bộ đội? Tự bà khắc đặt câu hỏi, rồi khắc trả lời trong vòng quẩn quanh, rối mù. Chỉ khi nào Xa về, mới có câu trả lời. Bà càng ngóng bóng bạn, càng xa hút. Con người đâu như nước dưới sông, chỉ chảy qua một lần rồi thôi. Còn nhiều sự gắn kết ràng buộc mà.
Bà Ngần cằn nhằn một mình trước bếp lửa ôm chân kiềng.
Lão Khỉnh, bố chồng con Rinh cũng đốn kiếp, là ngựa già mà thích gặm cỏ non. Rằm tháng Bảy vừa qua, vợ chồng con Rinh về. Con bé ghé tai bà thì thầm, chồng nó có thằng em trai khác mé. Bà giật mình lấy tay che miệng con gái, mắt nhìn thằng Sần. Cứ nghĩ thằng rể bực mình, nào ngờ nó cười hơ hơ buột miệng nói đúng đấy, càng tốt. Nghe chừng chuyện nhà chồng con Rinh lắm góc khuất, nhiều khúc quẩn. Bà thông gia Khúi ghê gớm mà để im chuyện. Có điều gì xảy ra trong ngôi nhà to tướng ấy? Thôi, chuyện gia đình thông gia, không nên dòm ngang làm gì. Bà dặn con Rinh, là con dâu, chuyện tày đình coi như không biết cho lành. Con Rinh lắc đầu, hăm hở nói còn khối chuyện nực cười, nhưng mà... Nó bỏ lửng câu nói, bà cũng không nghe chuyện xấu, chả hỏi nó. Cũng may cho bà, không phải duyên kiếp làm vợ lão Khỉnh, nếu phải chứng kiến thói trăng hoa của lão, bà héo hắt thôi, không thể béo tốt, đẫy đà như bà Khúi.
Bà bằng lòng với cuộc sống thanh bạch nhà mình. Công việc bốc thuốc làm phúc là chính. Người ta khỏi bệnh tùy tâm đưa bao nhiêu cũng gật. Phần thì cúng tổ tiên, phần mang lên hang Ngườm Ngao, giờ gọi là Chùa Hang cung tiến nén nhang, ngọn khói, còn lại mua mắm muối đủ có cuộc sống bình bình. Con cháu ngoan ngoãn, giỏi giang, trong nhà đoàn kết, đấy là núi của. Nhà thông gia lắm tiền, nhiều vàng nhưng phải chia sẻ tình cảm, khổ trong tâm tư gấp ngàn lần cái khổ cơm áo.

Bà khẽ chớp mắt. Có phải bà nhầm không? Chuỗi hạt vía của thằng Hợp bỗng nhiên vàng rực. Nắng chiếu ư? Không phải, bầu trời mang màu mây trắng đục, làm gì có nắng? Vậy thì sao nhỉ? Hay là lời kêu cầu gọi vía của bà thẩm thấu để hồn thiêng thằng Hợp biết lối về nhà? Bà luýnh quýnh nhào ra dòm cầu thang. Chả có ai. Rét thế này tụi sóc cũng ngủ vùi đâu đó, chẳng nô nhau chí chóe. Hay là mắt bà nổ hoa? Không phải, dạo này chiếc vòng thư thoảng tỏa ra ánh sáng. Bà tin có điềm gì đó. Điềm may chứ không thể rủi được. Nhưng điềm báo gì còn phải xem thế nào đã.
Bà lẩn thẩn nghĩ đến hai chiếc vòng vía của thằng Hợp. Một chuỗi bảy hạt xâu chỉ đỏ, do ông cậu Va làm từ gỗ Hoàng đàn ngày nó chào đời, treo trên cây cột gỗ chính giữa nhà, thẳng xuống chân cột dưới gầm sàn nơi chôn núm nhau của nó. Từ dạo nhận được giấy báo nó hy sinh, các hạt vía trên vòng gỗ đang vàng óng, chuyển màu vàng sỉn, vằn ngang vệt đỏ sậm tựa máu khô. Không hiểu sao những ngày gần đây, vệt máu mất đi, vòng vía tỏa ánh vàng sáng lung linh rất lạ. Vừa mới đây thôi màu vàng rực lên, khiến bà ngỡ vía ngoan của thằng con về...
Còn chiếc vòng vía thứ hai của thằng Hợp bằng bạc, con Ri đeo trên chiếc cổ ba ngấn trắng tròn. Có phải tại thằng Hợp không mang theo vòng vía mà quên lối về nhà? Cho dù thân xác nó không còn, nhưng bảy vía của nó cũng phải về báo ứng vào giấc mơ cho bà chứ. Bà chưa tìm được mộ thằng Hợp chôn ở đâu trên dải đất phía Bắc, bà không tin là nó hy sinh. Nó không thể mất tên, mất mộ chí như thế. Xa xôi, khó khăn như mộ ông Phái, cha nó, mà qua thông tin của đơn vị, đồng đội bà còn tìm được, mang về để nghĩa trang liệt sĩ dưới huyện. Nó không thể bặt âm bỏ bà đi như vậy. Nước mắt bà ứa ra... mặn mòi.
Bà Ngần nhẩn nha bắc chảo gang lên bếp rờ rỡ than đỏ. Thong thả cho mẻ thuốc tầm gửi nghiến, tầm gửi mác cọt băm nhỏ vào sao suốt. Thói quen khó cưỡng, nhiều thứ rễ cây, lá thuốc con Ri hái về cần sao khô, nhưng bà bao giờ cũng chọn hai thứ cây tầm gửi này sao trước. Dạo này khách xa dưới xuôi lên lấy thuốc, đặt hàng đông lắm. Âu cũng do người âm dòng họ nhà bà khôn thiêng, phù hộ bà và con Ri mát tay. Khách đến lấy thuốc đủ thứ bệnh, nhưng phần đông là bị bệnh gan vàng da, vàng mắt; bệnh thận đi tiểu khó, đau buốt; bệnh xương khớp đau nhức; bệnh đau đầu, hoa mắt chóng mặt... nhiều không kể hết.
Con Ri thông minh, chịu khó. Sách vở cái Rinh mua dưới phố về chất đầy bàn, tối nào nó cũng chong mắt đọc đến khuya. Mắt bà nhìn chữ lấp lóa khó xem. Mắt nó tinh như mắt chim công. Nó nói, trong những quyển giấy dày cộp dạy nhiều thuốc nam chữa bệnh. Thảo nào, bà truyền nghề cho nó chừng mấy chục loại cây lá thuốc, bây giờ nó biết đến mấy trăm thứ cây chữa khỏi bệnh. Đúng là giỏi quá.
Mải mê sao thuốc và ngẫm nghĩ, tai bà Ngần không nghe bước chân trên cầu thang. Mái tóc vấn khăn chàm, miệng cười sáng rỡ của bà Dần nhô ra trước cửa làm bà giật mình. Bà Dần bước tới bếp, cười khì khì:
- Cái tay già rồi mà sao thuốc dẻo thế chị Ngần?
- Răng nhai xương gà tốt đấy, chưa già đâu.
Bà Dần phá lên cười rồi vội lấy tay che miệng để khỏi bật ra tiếng. Giọng nói vẫn như xưa, oang oang lệnh vỡ:
- Chị à, em làm đơn xin nghỉ Hội trưởng Phụ nữ xã rồi, mấy ông lãnh đạo xã lúc đầu ớ ra, ngơ ngác, sau thì lồng lộn đập bàn ghế lung tung, chán chê một lúc lại ngọt nhạt nói em cố gắng làm hết nhiệm kỳ... chèng chèng! Em chả muốn làm nữa.
Bà Ngần thở hắt ra, từ tốn hỏi:
- Sao thế? đang làm tốt mà...
- Tốt...tốt cái gì a. Em chán rồi! Em về nhà tính chuyện khác, cứ vác mãi "tù và" việc xã, chỉ khổ ông Niệm thôi, đau yếu vì vết thương lại phải kham việc lớn, bé trong nhà.
- Liệu người xã có cho cô nghỉ không?- Bà Ngần đổ mẻ thuốc ở chảo gang ra mẹt khẽ hỏi.
- Giữ người ở lại, ai giữ người đi hả chị?- Ngập ngừng, bà Dần bảo: - Chị có nghĩ bà con mường mình nên làm đồ lưu niệm bằng đá, hay mây tre đan, bán cho khách đi Chùa hang, đi du lịch không?
Mắt bà Ngần mở to ngạc nhiên: - Cô viển vông không đấy? Dăm thì, mười họa mới có đoàn người lên đây, ai mua?
Đôi tay bà Dần vung lên: - Chị không biết a, sắp tới mở đường to nhá, nhà nước đầu tư tiền đấy. Chùa hang rồi thác Lỉn thành quần thể khu du lịch... Chị thật lạ đời, em họp Đảng ủy xã, thông báo Dự án công trình này do cái Rinh con chị đề suất mà. Thời kỳ đổi mới có khác...
Giọng nói của bà Ngần có vẻ như dằn dỗi xa xôi:
- Thế a? Con bé thích chôn chân dưới phố tỉnh mà vẫn nghĩ tốt cho mường mình la? Dự án biết bao giờ mới làm. Đổi mới gì đâu, trước mắt tôi, con đường lên bản mình vẫn bé tí đấy thôi...!
Ngẫm ra điều bà Ngần nói cũng đúng. Tuy nhiên, bây giờ bước sang thế kỷ mới rồi, đất nước hòa bình mấy mươi năm rồi, các nơi đua nhau xây dựng kiến thiết, thành lập công trường này, nhà máy nọ nhanh vù vù. Ngay trong tỉnh mình đấy, các khu kinh tế mới, mô hình dịch vụ mọc lên như nấm trong mưa. A dá! Bà chị Ngần cái đầu linh hoạt bỗng "chùn" lại là sao. Ờ, ờ không trách được, bao nhiêu biến cố xảy ra, chị ấy phải gồng người gánh đỡ. Nếu là Dần thì chưa chắc đã làm được như chị. Nghĩ thế, bà Dần nở nụ cười tươi tắn:
- Chị à, chị nói phải, nhưng nếu Dự án khu du lịch triển khai, chị em mình làm du lịch cộng đồng liên kết nha.
Bà Ngần nheo nheo mắt, hỏi nhanh:
- Liên kết du lịch cộng đồng ấy là gì, nói rõ nào...
- Bản, mường mình sẵn nhà sàn, vườn rừng cây trái, nếu có khách du lịch mình gắn kết với nhau, làm du lịch văn hóa lễ hội, phát triển bản sắc hát sli, lượn, hát "hoa tình" và làm các món ăn cơm lam, xôi "đăm đeng", bánh dày, thót théc, tắm nước lá, bán thuốc nam... nghĩa là nhiều mô hình, chị em phụ nữ ta phải đồng tâm, hiệp lực mới làm nổi.
Bà Ngần hiểu ra rồi. Đầu cô Dần này rõ toàn nghĩ chuyện tốt. Gật gù ra điều rất tâm đắc, bà dè dặt:
- Cứ biết thế đã. Xã gây khó thì sao?
- Mình làm việc phát triển kinh tế, em tin xã không làm khó. Mà không lo, lúc ấy mình mang hai chữ liên kết với huyện và tỉnh. Mình đi trước, đón đầu cho kinh tế bản mường khá lên.
Bà Ngần bật tiếng cười rổn rảng:
- Ời, cô lo nghĩ cho dân tốt thì làm việc xã đi, sao nghỉ được.
Bà Dần cắn nhẹ vành môi hình trái tim, trán khẽ nhăn lại. Kể ra cũng khó. Thôi thì đến lúc ấy hẵng hay.
Mải chuyện, nhưng bà Dần không quên cái giấy quan trọng nằm trong túi vải chàm. Phải nói thế nào bây giờ? Bà Dần sợ nhìn nước mắt của người chị mà bà rất đỗi quí trọng. Thời điểm mọi người nghĩ sai về chị ngần, bà vẫn có niềm tin, chị là người tốt. Bà đã đúng. Loay hoay, nhấp nhổm mà bà Dần không biết làm thế nào nói ra cái điều khó. Không khí chùng xuống. Bà Ngần tinh ý hỏi nhỏ:
- Có chuyện gì nói ra đi, lúng túng thế?
Vòng vo không ích gì, bà Dần rào đón:
- Chị à, trong lúc dọn dẹp giá gỗ đựng giấy tờ lưu ở Ủy ban xã, tình cờ em thấy giấy này. Đảng ủy xã họp chiều qua, mãi đến tối chụp vào mắt mới xong, giờ em sang đưa chị...
Mắt bà Ngần lấp lánh:
- Giấy à, tin vui hay buồn? Vui thì mừng, buồn thì chia sẻ cùng cô.
Thoáng giây trầm ngâm, bà Dần thở dài:
- Chuyện qua lâu rồi, chị phải trải qua tháng ngày oan khuất, tuy đã được minh oan, nhưng thay mặt Đảng ủy xã, em mang giấy này về, phần nào để chị vơi buồn và khẳng định lãnh đạo cấp trên kịp thời quan tâm vụ việc! – Bà Dần chợt ngừng lời. Sau tiếng thở dài, nói xa xót: - Năm ấy, cá nhân nào đó trong Ủy ban xã làm việc tắc trách, vô trách nhiệm, hoặc vì một nguyên nhân khó hiểu, không đưa giấy quan trọng này ra trước công chúng. Phải chăng có vấn đề...
Bà Dần nhẹ cầm bàn tay nhiều vết chai dày sếp chồng lên nhau của bà Ngần, đặt vào đó tờ giấy đánh máy đã ố vàng theo thời gian:
"Ngày 29 tháng 6 năm 1966...
Đảng ủy,Ủy ban nhân dân huyện Pó Liểng
Thông báo
Qua công tác điều tra, khẳng định: Gia đình và cá nhân Bà Ma Thị Ngần trong sạch. Không tiếp tay cho gián điệp, biệt kích phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa như đơn thư nặc danh vu cáo...
Chủ tịch UBND Huyện: Nông Hải Khỉnh."
Bà Ngần tuy mắt có chút sẫm lại, nhưng rất nhanh, bà trở lại trầm tĩnh. Tay bà khẽ rung khi giót chén nước chè dây. Bà nói mà không nhìn bà Dần:
- Giá như năm ấy, giấy này có mắt biết lối về nhà, có lẽ thằng Hợp không phải ngồi trên kia...!- Mắt bà mệt mỏi hướng lên phía ban thờ.
Bà Ngần không tin thằng con trai bà hy sinh. Năm đó, tin dữ khiến bà chết sững, nhưng ngay cả lúc này bà không thể khóc. Bà không suy sụp vì bà là chỗ tựa của mẹ con cái Ri. Ít nhất thì bà cũng dứt khoát trong lòng là con trai bà đang lạc ở đâu đó thôi, rồi nó sẽ về. Bà biết nhẫn nhịn chờ đợi. Cũng như bà đếm gió thổi, sương giăng chờ minh oan cho gia đình.
Giây phút thật sự cảm động. Từ sâu thẳm trong lòng, hai người phụ nữ sát cánh bên nhau trong lửa đạn, một thời làm pháo thủ Trung đội súng máy 12ly7 gần như muốn khóc. Lòng chạnh nhớ một thời oanh liệt mà tự cảm cảnh cho nhau. Nhưng rồi họ kịp trấn tĩnh vì bản lĩnh. Bà Ngần nhẹ vỗ vào vai bà Dần:
- Thế là hai lần tôi nhận thông báo! Cái giấy đến trước về nhà sau, cái giấy sửa sai sau lại về nhà trước. Nghịch cảnh này cũng do chiến tranh thôi...Nhưng người cất nhẹm và ỉm đi là ai hả em Dần? Lương tâm họ là người hay ma quỷ.
Trong cuộc họp Đảng ủy xã chiều qua, các Đảng ủy viên sững sờ, xôn xao khi bà Dần đưa tờ Thông báo ố vàng vì thời gian này ra. Ông Khùng, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã tái bợt mặt, rồi sắt đanh, đỏ vằn lên như uống rượu nặng. Bà Dần không biết ông ấy nghĩ gì mà thay đổi sắc mặt. Gợn nhanh trong đầu bà sự nghi ngờ...
Việc này phức tạp, thời gian lâu quá rồi. Năm xưa không biết ai nhận công văn liên quan đến sinh mệnh chính trị của gia đình cách mạng này. Tại sao nó nằm im lìm trong ngút ngàn giấy tờ, công văn lưu cữu kia? Thật may nó không rơi vào phần lớn giấy tờ bị mối xông đã hủy. Phải kiên nhẫn tìm ra con người đó. Cũng vì chuyện này mà bà Dần không muốn làm việc xã nữa...
Bà Dần coi bà Ngần như chị gái ruột. Trước khi nghỉ làm việc xã, bà sẽ cố tìm ra ai làm việc đê tiện này. Chắc chắn không phải vô tình đâu, có chủ đích hủy hoại.
Vốn hiền hậu, không muốn vì chuyện nhà mình làm ảnh hưởng công việc và cuộc sống của người em gái, bà Ngần quí từ thủa tóc xanh. Bà khẽ khàng khuyên:
- Có cần thiết làm không? Liệu đi đến đâu khi có thân thích bao che? Chuyện qua lâu rồi, tôi không muốn cuốc xới, cứ để nó ngủ yên.
Trong đầu bà Dần chợt nghĩ, nếu lần này không tìm ra kẻ mặt người, bụng ác ấy trong hàng ngũ cán bộ xã, dân trong vùng, cái bụng sẽ không tin lãnh đạo, triển khai làm gì cũng khó. Biết là nói thì nhanh, nhưng làm thì chậm. Một lời cấp trên chỉ thị mất vài phút, nhưng cả guồng máy từ xã đến huyện, lên tỉnh phải trôi hàng tháng. Chưa kể có người bao che. Không, tin rằng nhiều người sẽ ủng hộ việc tìm ra sâu mọt. Bà Dần đoán biết "con sâu mọt" ấy là ai rồi, nhưng phải tìm được chứng cứ rõ ràng. Cái chết khốn khổ sùi bọt mép vì rắn cắn của nhân viên bưu tá Vần phải chăng dính líu đến chuyện này? Mới đây, "hắn" lợi dụng chức vụ, quyền hành cho bọn người hung hãn "quặng tặc" đến núi Phja Khao đào đá, moi quặng quí hiếm. Nghe nói tụi này nộp cho hắn nhiều tiền lắm...
Những cuộc họp Đảng ủy trước đây, đội ngũ lãnh đạo xã, nhiều người đưa việc khai thác quặng ra phê bình, cần phải "nhổ" sạch tụi quặng tặc đi, thế nhưng họp xong không kết luận. Tai nọ sang tai kia truyền khẩu, Bí thư xã bị hắn mê hoặc ngọt nhạt và có khi còn "dọa khéo" nữa... Thì đấy, hắn luôn miệng khoe nhà hắn có mả làm to. Cháu hắn một người làm Bí thư huyện, một người làm Chủ tịch tỉnh, hắn đứng đầu xã. Có phải vì thế mà việc hắn sai cứ mãi sai thôi...
Đang mông lung nghĩ, bà Dần bừng tỉnh khi lửa trong bếp chợt bùng lên. Bà nén day dứt, ngần ngừ một chút rồi thở dài:
- Chị Ngần à, rồi cái thằng ấy phải trả giá thôi. Đi đêm lắm khắc có ngày gặp ma. Em phải ra xã đã. Nhiều việc lắm.
Bà Ngần chép miệng, cô Dần cái số vất vả, lấy việc buộc vào người...
Trời bỗng hừng lên những vệt nắng mỏng nhẹ. Ánh nắng hiếm hoi trong mùa gió bấc. Lũ sóc chui ra khỏi ổ, kềnh cang sưởi nắng trên sàn phơi. Bà nhìn mãi theo bóng áo chàm của Dần tất tả trôi giữa sườn núi.
Thiên nhiên hoang sơ che kín bởi tấm áo sương mù khổng lồ. Từng cụm mây buồn bã, lang thang nút kín núi Phia Bjooc bí hiểm. Mặt nước sông Nậm Khao thở hơi lạnh đặc quánh. Ri đeo bao dao vào thắt lưng, nhón chân xuống cầu thang, ngược dọc bờ sông về phía thác Lỉn hái thuốc. Bầy chim bách thanh không sợ tụi gió rét, chúng gọi nhau inh ỏi, lảnh lót.
Cách đây lâu rồi, chiều tối thứ Bảy, thằng Thành con chị từ dưới trường nội trú của huyện về. Nó hớn hở khoe, nó thi học sinh giỏi toán của huyện đạt giải nhì, được vào đội tuyển của huyện đi thi học sinh giỏi toán cấp tỉnh.
Ui da! Cái thằng nói vanh vách như thóc chảy vào thành cối, chị không tin vào tai mình, hỏi nó:
- Mày nói cái chuyện hay này thật hay đùa hả con?
Nó cười ngặt nghẽo, rồi nghiêng đầu, xòe cái giấy chứng nhận học sinh giỏi cấp huyện tươi roi rói và nói rõ to:
- Thật mà mé! Con cố học giỏi, sau này đi đại học mé à!
Nó nói thế thì Ri cũng không hỏi nhiều. Việc học của nó khắc phải tự lo, chẳng ai học hộ. Muốn làm người tốt, người có ích thì cố mà họci. Cái miệng nó nói nhiều điều hay, in như cha nó ngày xưa. Nếu cha nó biết thằng con cao lớn, học giỏi thì mừng lắm đấy.
Bà Ngần từ nãy giờ thái lá thuốc, nghe thằng cháu nói về việc học tốt mà vui quá. Cái thằng thế mà sáng bụng. Sau khi hắng giọng bà nói rành rẽ:
- Được à, ờ ờ Thành à, thế là tốt nhiều đấy, nhưng đừng mải mê mỗi môn đi thi ấy nha. Phải cố biết nhiều chữ.
Thằng bé ôm ngang lưng bà, thủ thỉ: - Cháu nghe lời dặn của bà.
- Ờ, mày nghe thì ấm thân mày trước, tao với mé mày cũng ngẩng mặt khi ra ngoài đường.

Bà nói xong bê mẹt thuốc ra đặt ngoài sàn để ngậm sương đêm. Mảnh trăng đầu tháng cong hình lá tre treo lơ lửng trên cao, thả sáng mơ hồ, hòa trong tiếng rủ rỉ của tụi côn trùng, tiếng xì xào của gió, tiếng tí tách của sương rơi đang truyền đi trong đêm. Ý nghĩ của bà cũng chập chờn khi gần, khi xa... Bà chắp tay trước ngực, hướng về phía phố huyện, thì thầm gọi chín vía bạn toồng Xa và bảy vía thằng con Hợp. Bà mong hai người ấy ở đâu biết lối về nhà thôi...bạn toồng đã có cháu ngoại rồi, còn thằng Hợp làm bố về mà nhận mặt con. Một lớp người mới đang lớn lên, hai thế hệ người cũ mải mê phương nào không nhớ lối về. Bà ngày mong, đêm chờ tiếng bước chân. Bà không tin chiến tranh cướp hết những người thân yêu ruột thịt của bà.
Trong nhà, bên bếp vuông tỏa lửa ấm, thằng Hợp giúp Ri tẽ bắp, miệng nó hào hứng nói nhiều chuyện hay. Nó bảo dì Rinh nói với nó, tương lai không xa các bản Mường Vang sẽ trở thành điểm du lịch hấp dẫn. Đường điện trèo núi, lội qua sông, về đến mường, lên tới các bản. Có điện rồi thì mấy cái đèn dầu bỏ đi, không phải khêu bấc đỏ lòm, không ngửi mùi khét. Điện sáng giống dưới phố huyện, đêm cũng ngỡ ban ngày. Các nhà trong từng bản liên kết làm mô hình cộng đồng du lịch sẽ tốt nhiều lắm.
Thằng con thủ thỉ với Ri, sau này nó sẽ thi vào trường đại học kinh tế. Học xong sẽ về huyện nhà làm, cái chân không đi xa. Nó thương bà và mé lắm. Huyện nhà nhiều thứ làm kinh tế khá lên, người dân chưa nghĩ ra thôi...
Nó nói toàn những chuyện xa xôi, là nó mơ ước đấy. Cứ mơ đi con trai, làm thằng đàn ông biết nghĩ xa, lo xa thì mới là cái cây cao, cột thẳng. Thế hệ của nó chắc chắn vượt xa chị rồi. Đúng là mỗi thời, mỗi khác. Thằng con chị mới học lớp mười đã nói đến dự án, dự định rồi. Tụi trẻ khôn thế đấy. Nghĩ vậy Ri bỗng dấu nụ cười vào tay áo.
Từ xa đã nghe tiếng thác Lỉn đổ réo rắt, âm vang.
Dòng nước trong vắt từ trong ngút ngàn mây trên cao, giống như thảm bạc lớn, tung mình qua bảy thềm đá, nhả bụi nước phiêu diêu muôn màu kết hình đóa hoa rực rỡ, ào xuống thung sâu, làm nên thác Lỉn bảy tầng tuyệt đẹp. Nước từ thác Lỉn qua các mường, mềm mại ôm lấy bản lớn, bản bé trong dòng chảy con sông Nậm Khao trong vắt.
Thác Lỉn đầu nguồn ngọn nước. Nhà nào trong bản xảy ra chuyện, thường đến chân thác lập đàn cúng thần. Mé Ri cũng vì tội của Ri với bố thằng Thành mà phải quì lạy, ném đầu lợn sống xuống chân thác đấy thôi...
Cách chân thác Lỉn chừng hơn chục sải chân là rừng cây núc nác xanh thẫm. Những cây núc nác chả hiểu mọc từ thủa nào mà to chừng mấy người ôm. Bao bọc quanh gốc cây núc nác là lũ dây kim ngân hoa vàng, dây dạ cẩm...vươn tụi tay dài, quấn cành núc nác cao thấp. Đây là những cây thuốc quý. Vỏ núc nác và dây hoa kim ngân vị đắng thải loại chất độc ra ngoài người bệnh. Cây dạ cẩm làm thuốc chữa đau nhức xương khớp. Tụi cây này lấy vào sáng đầu mùa đông, lúc tụi sương ngậm chặt lá cây là tốt nhất. Thế nên hôm nay Ri phải đi vào rừng sớm.
Như là định mệnh. Vừa lèn chặt hai thạ cây thuốc, quẩy lên vai ra khỏi rừng, Ri vấp vào đám người lập đàn cúng thần dưới chân thác Lỉn. Tiếng thác réo ầm ầm làm chị không nghe thấy lời cúng của thầy tào.
Cái chân muốn lùi lại mà không thể, đành phải đi ngang sau lưng họ. Ri quày quả, cắm mắt xuống cỏ bước nhanh, không dám ngước nhìn đám người đang dâng đàn tế lễ.
Thoảng qua Ri mùi đốt vàng mã, giấy tiền khen khét. Bất chợt có người chắn ngang trước mặt chị, hậm hực:
- Lại mày à? Sao biết nhà tao làm lễ đến dòm? Ma nhà tao sẽ chọc mắt.
Chị sững sờ, run lên. Trước mắt chị là người chị không muốn chạm mặt. Đúng là oan gia xui khiến chân đi vào lối hẹp. Ông Khùng ném mắt có lửa hằn học vào người chị. Cố trấn tĩnh, chị bình tĩnh:
- Ông Chủ tịch à, cháu đi hái lá thuốc thôi, không biết dòm trộm đâu.
Rõ ràng tích tắc vừa qua, ông Khùng hầm hầm nạt nộ, giờ đứng ngây như cái cột chôn xuống đất, mắt ông ấy hết nhìn mặt chị, lại dán vào bao dao chị đeo bên sườn, miệng lắp bắp điều gì mà chị nghe không rõ.
Mặc kệ ông ta đứng đực ra đấy, chị rảo chân quẩy hai thạ thuốc về nhà. Thoát nhanh ra khỏi tầm nhìn của ông Khùng, chị thấy nhẹ người. Thật may quá đi!
Con bé gái nhà Ngần đi xa, lão Khùng vẫn ngây như tượng gỗ.
Chả lẽ cúng thần, đốt mã, thả hình nhân xuôi chiều nước chảy xong mắt lão bị quáng? Không phải, con "nộc va mì" đậu tít trên ngọn núc nác, miệng sợ người không dám hót tiếng của loài chim, lão còn nhìn thấy nó mà. Lão không thể nhìn mắt nọ xọ mắt kia được.
Dáng người thắt đáy lưng ong của con bé mặt hoa lẫn vào màu xanh cây lá, màu trắng của những đám mây, mà lão chưa định thần lại. Lão sởn gai người. Có bao giờ cúng xong oan hồn người chết nhập nhòa trước mắt lão không? Tào Slăng Ngàu chỉ rung thanh la tế lễ các vị thần thôi mà.
Quả thật, trừ cái nốt đồng xu dính má con bé, trên khuôn mặt trăng rằm trắng bột phấn, các nét của nó sao giống người đàn bà mất tích, làm hồn lão ngơ ngẩn một thời gian đến thế? Lẽ nào nó là con của Hái? Mấy chục năm qua, sự im lặng của Hái vẫn ám ảnh lão không nguôi. Mắt Hái long lanh sáng khi báo tin với lão là có đứa bé ngồi trong.
Lão vẫn dò tìm tung tích của Hái. Nếu Hái còn sống thì máu mủ của lão bây giờ cũng chạc tuổi con bé này. Lão tin Hái đã thành ma rồi. Người sống không bỏ bản đi lâu thế. Lão giật mình. Nhà Ngần lấy đâu ra hai đứa trẻ song sinh ấy. Hồi đó chiến tranh, nghe nói nuôi cho họ hàng xa bị bệnh rồi mất.
Có khi nào hồn ma của Hái nhập vào con bé kia làm lão thất thần? Lão khẽ lắc đầu. Cái bao dao nó đeo bên sườn trái là của dòng họ nhà lão. Chậc chậc lưỡi, lão lúc lắc đầu. Mớ ý nghĩ lộn xộn của lão lùi vào dĩ vãng.
Sau khi lão làm cái việc của con đực với Hái xong, trong niềm vui sướng tột cùng, thỏa mãn no nê, lão đã dúi vào tay Hái bao dao chạm khắc tinh xảo, thầm thì: "Từ giờ thì em đã là của anh rồi. Hãy giữ hồn anh thật chặt...".
Lão biến sắc mặt, xa xẩm quay cuồng lầm bầm: Không thể nào có chuyện ấy... không thể nào...
Mấy người trong đám lễ nhà Khùng trợn tròn mắt khiếp đảm. Bà chị dâu Nhòm mặt xanh màu lá, chắp tay vái tứ tung...
Tào slăng Ngàu khua khua hai bàn tay trước mặt lão, gọi:
"...Ơ hời các đấng thần linh cao cả đi mây về gió, giữ ngôi tam thai, nắm quyền tạo hóa, thể đức hiếu sinh, phù hộ độ trì cho tín chủ Nông Văn Khùng bách bệnh tiêu tán, vạn nạn tiêu trừ, tai qua nạn khỏi... Ơ này, ơ này ma già, ma trẻ, ma khôn, ma dại... Ơ này vía trai, vía gái khôn thiêng được thụ hưởng lộc từ các thần, ai ở đâu về chỗ đó, hãy buông tha giải thoát cho gia chủ Nông Văn Khùng..."
Lão Khùng cái chân khuỵu xuống tựa cây chuối đổ gục, miệng lão thôi không lắp bắp. Mặt lão nghệt ngây lúc tái dại, khi đỏ rựng. Lão mông lung nghĩ ngợi. Đúng là từ khi Hái mất dạng, nhà lão rối tung. Lão lấy bà vợ khi tỉnh là người, lúc khùng giống ma khôn nheo nhéo gọi lão là "thằng đểu cáng". Chức Chủ tịch xã bao nhiêu năm nay không ai dám ngó ngàng, mặc lão làm mưa, hô gió, người xã răm rắp nghe theo. Giờ thì khó rồi. Hai thằng mặt sắt, oắt con tí tuổi là Ủy viên ban kiểm tra Huyện ủy về bới tung vụ việc của xã. Chuyện xửa xưa lôi từ đống giấy nát ra, bới lông tìm vết nhọ thế thì mồ mả ông bà chúng nó cũng có tội, chứ không riêng lão. Việc lão cho người đến khai thác quặng và đá quí ở núi Phja Bjooc thì qui tội lão thông đồng, cấu kết "quặng tặc" rút ruột tài sản quốc gia, làm giàu không chính đáng.
Lão bỏ công nghĩ ra tiền thì lão phải được phần nhiều chứ. Điều ấy rõ như nắng ngày. Thử hỏi chức sắc trong Ủy ban xã những hôm hội họp, lễ tết hay cuối tuần, cuối tháng vẽ ra ăn uống linh đình, thịt cá ăm ắp lu bù, rượu ngô nút lá chuối kìn kìn khuân chum lớn, chum bé, cười nói oang oang hả hê lấy đâu ra? Từ cái ruột trong núi đấy. Vậy mà giờ đổ lên đầu lão chịu tất.
Đầu têu, đầu sỏ bới móc lão là con cái Dần. Nó cậy thằng chồng nó thương binh, nó có công với xã mà làm lớn chuyện ư? Đừng hòng! Khéo mày phải về ôm đít con lợn, con dê chứ không phải ông đâu nhá. Gớm, Chủ tịch Phụ nữ xã là cái gì mà dám vượt mặt? Loại vịt già nỏ mồm. Có giỏi cứ ngoạc mỏ ra quàng quạc đi. Liệu thần chừng nhá.
Tự dưng lão ngửa cổ cười khầng khậc. Có thế chứ, sáng nay lão lập đàn cúng tế, giải hạn, khấn khứa xong rồi, tụi người muốn đánh bật lão a? Dưới âm thế phù hộ, trên dương thế trợ giúp, cái số lão vẫn được vui vẻ, giàu có đấy. Có giỏi cứ thanh tra, kiểm tra mãi đi. Mà sao thằng cháu Khiển ở huyện không nể mặt chú nó, ngăn cản không cho động vào lão nhỉ? Còn thằng cháu Khỉnh trên tỉnh nữa. Lão mà cho thằng cháu biết chuyện lão bị kiểm tra á, cả lũ phải về vườn chứ không chơi.
Nghĩ đến hai thằng cháu lãnh đạo, lão có chút phân vân. Cái thằng Khỉnh lão nói gì cũng nghe, nhìn thấy tiền cười khơ khớ. Nhưng thằng Khiển anh nó thì ngược đời. Nó đi qua lửa đạn chiến trường. Tính khí thẳng thắn, cứng nhắc, gàn dở. Nó không màng đến tiền. Nhiều lần nó khuyên lão phải làm người tốt để lãnh đạo dân tốt. Gớm, nó mà dạy lão á? Cứ như nó nghèo kiết xác, không ngẩng mặt với thiên hạ.
Lão chột dạ. Hình như có gì đó bất ổn thì phải. Lẽ nào thằng Khiển chỉ đạo tụi mặt lạnh chĩa độc kiểm tra tư cách lão? Còn ra thể thống gì nữa? Vậy thì nhiều chuyện lão không lường trước. Thảo nào tụi ấy mặt câng câng như đá cuội đen.
Chân lão bước gằn trên đường mòn. Bực quá, muốn đi nhanh mà chân phảy phết ngăn lão. Chiều nay phải ngồi chường mặt trong cuộc họp, nghe tụi nó thao thao tố cáo khuyết điểm của lão ư? Lại hai thằng mặt đá cuội lạnh băng Ủy viên ban kiểm tra Huyện ủy làm việc. Thêm ai nữa thì không biết. Chưa bao giờ lão rơi vào tâm trạng mông lung thế này. Đành rằng cúng lễ, nhưng lão vẫn không vơi lo lắng.
Chiều. Tụi quạ túa xua bay liệng đen trời rền rĩ kêu váng lên "Quạ...quạ..". Lão Khùng gai lạnh sống lưng. Từ xưa người bản coi tụi quạ đen thuộc loài chim ác. Nó xuất hiện là đổ chàm vào nhà. Cả đàn kéo về thế này có gì đây?
Bước vào phòng họp đã thấy mọi người đông đủ. Lão vã mồ hôi. Thằng cháu lão ngồi lù lù kia kìa. Bí thư xã Hoàng Giỏng hôm nay mặc áo chàm mới như đi hội, cất tiếng từ tốn, trịnh trọng:
- Kính thưa các đồng chí, cuộc họp Đảng ủy xã có Đồng chí Nông Hải Khiển, Bí thư Huyện ủy; đồng chí Ma Đức, Trưởng ban Kiểm tra Huyện ủy; đồng chí... về dự. Đề nghị chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh.
Tai lão ù ù gió lùa.
- Thưa các đồng chí, hôm nay Đảng ủy xã tập trung nội dung kiểm tra đồng chí Đảng ủy viên Nông Văn Khùng...!
Giọng nói rành rọt của ông "oắt" Ma Đức bổ xuống đầu lão:
- Gần đây theo phản ánh của quần chúng nhân dân, thông qua công tác kiểm tra, Ban kiểm tra Huyện ủy phát hiện đồng chí Nông Văn Khùng có nhiều sai sót trong lãnh đạo, chỉ đạo xã thực hiện xây dựng các công trình phúc lợi, đặc biệt là công trình trạm xá xã, trường tiểu học và công trình nước sạch. Chủ tịch xã trực tiếp chỉ định và ký quyết định cho cá nhân không đủ điều kiện thi công, khiến công trình dở dang, hoang phí, gây thất thoát lớn về kinh phí ngân sách. Nhân dân xã Pù Nhài sau bốn năm chưa có nước sạch phục vụ sinh hoạt, sau ba năm trạm xá và trường tiểu học dở dang "chờ" có tiền xây dựng tiếp... Việc làm này vi phạm nghiêm trọng Qui chế dân chủ ở cơ sở, làm suy giảm niềm tin vào lãnh đạo xã của quần chúng nhân dân...
Thanh âm nhức nhối ung ung như có bầy ong bay loạn xạ trong đầu lão Khùng.
Vẫn giọng "luận tội" của Ma Đức rành rọt, chậm dãi tựa từng tảng đá nặng trịch ném xuống lòng thung. Mặt lão Khùng như thể nhúng chàm. Lão sao có nhiều tội thế? Lại còn biên bản nhắc đến chuyện lão chủ mưu vu khống gia đình bà Ngần...Lão thắt nút sự việc vào hang kín tưởng như con kiến không chui lọt mà sao vẫn lộ ra? Vanh vách, hả hê luận tội lão a? Sao mấy "ông oắt" có chứng cứ nhiều việc lão làm nhỉ? Nhăn nhó, lão Khùng nhìn Bí thư Khiển cầu cứu. Mặt thằng cháu khó đăm đăm, môi mím lại. Thế là hết rồi. Thằng cháu Khiển nó bực đến nỗi không ném mắt nhìn lão.
-...Căn cứ vào đơn thư tố cáo, khiếu nại của tập thể nhân dân Mường Vang; Hội Cựu Chiến binh; Hội Phụ nữ xã... gửi về Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Kiểm tra Tỉnh ủy... được sự nhất trí của cấp trên, qua kiểm tra, thẩm định, Ban Kiểm tra Huyện ủy kết luận đồng chí Nông Văn Khùng vi phạm trầm trọng chủ trương, chính sách khai thác khoáng sản của Nhà nước. Đồng chí câu kết với các cá nhân phức tạp trong xã hội, tổ chức khai thác trái phép quặng trên địa bàn... không những làm tổn hại kinh tế, mà còn gây tình hình bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội...
Lão còn biết nói thế nào nữa? Thì lão chuyên quyền độc đoán, lúc nào cũng ngồi trên mọi người. Lão tham tiền cũng đúng. Giàu một lúc còn hơn nghèo cả đời. Như lão đấy, có địa vị, có tiền thì tận rừng xanh, núi đỏ vẫn có kẻ tìm đến. Nếu lão mà nghèo khó, ở giữa chợ đông cũng chẳng ai dòm. Có điều, lão cậy quyền, cậy thế mà chủ quan...
Mọi người lặng lẽ rời phòng họp. Lần đầu từ khi lão làm Chủ tịch xã đến nay có một cuộc họp không ăn uống, chén tạc, chén thù...
Trời sắp tối. Con đường trước mặt lão gió hun hút lạnh. Lão bước đi miên man như kẻ mộng du trôi vào mây mù, vang rền tiếng kêu ám ảnh của bầy quạ đen.
Chương 18
Gọi Vía
Ta thích tự thân vận động, khắc đẩy xe lăn đến dưới bóng cây nhãn bên bờ hồ yên tĩnh. Lặng lẽ ngắm những bông hoa sen e ấp xòe cánh hình trái tim, vươn mình giữa đám lá lòa xòa rung rinh vào sớm tinh sương cuối hạ. Mặt hồ thoáng đãng, lăn tăn nhẹ sóng, thở đầy hơi sương mát mẻ. Trên vòm nhãn cổ thụ, những chùm quả lúc lỉu, đung đưa. Tụi chim khướu, chích chòe, chào mào... tấu vang bản nhạc hoang dã, chào đón ban mai tinh khôi. Ta thư thái và ngỡ như đang ngồi trên bờ con sông Nậm Khao, giữa rừng mác cọt quê mình.
Mùa nối mùa, năm theo năm đi qua đã hai mươi năm. Không biết mé và hai em của ta bây giờ ra sao? Quay quắt thương nhớ, nhưng ta vừa từ cõi phiêu du, hồi sinh trở lại. Thân ta mang thương tật hơn chín mươi phần trăm, ngăn bước chân ta trở về quê nhà. Ta bây giờ phụ thuộc vào thuốc men để hồi phục dần dần, thế nên thời điểm này ta bấm bụng làm đứa con bất hiếu với mé, người tình bạc của Ri thôi. Mà biết đâu, Ri không thể chờ đợi ta, em có mái ấm với người khác rồi thì sao? Dẫu vậy, ta không oán trách em. Dù tim ta đau đớn, nhưng ta mong em có cuộc sống hạnh phúc. Chiến tranh ngăn ta không mang lại niềm vui cho em.
Theo như mé nuôi ta cùng đội ngũ những người thầy thuốc và anh em thương binh, ta hôn mê trên giường bệnh trong cuộc sống "thực vật" lâu lắm rồi. Lâu đến nỗi khi tỉnh dậy, ta ngơ ngác, giật mình bởi hình hài một người tật nguyền, không hoàn hảo. Hai chân không có. Vết sẹo lõm sâu bên trán phải...
Ta nằm lặng lẽ một chỗ, mặc đất trời vần xoay. Không biết kỳ tích nào khiến tim ta thoi thóp đập, lá phổi trầy xước biết hít thở sự tinh khiết trong dịch chuyển không khí. Từng ngày, hàng đêm gắng gượng, để bây giờ ta biết lối trở lại cuộc sống thực tại, trong xã hội chuyển động không ngừng.
Cảm động xiết bao lúc ta tỉnh lại sau giấc mơ dài, rờ rỡ trước mắt ta gương mặt phụ nữ luống tuổi, đầm đìa nước mắt. Tai ta nghe tiếng reo: - Thằng trai biết cười rồi các bác sĩ à.
Qua khung cửa sổ, vòm trời trước mặt ta rực rỡ nắng vàng. Ta thấy từng đám mây nhẹ, xốp kéo nhau theo chiều gió thổi. Giữa những khóm hoa trạng nguyên khoe sắc, bầy chim vành khuyên nhỏ nhắn, tựa nắm bông vàng nhí nhảnh chơi trò đuổi bắt. Con bay lượn giữa nắng, con nhún nhẩy chuyền cành, con đậu trên khóm hoa tranh giành mật ngọt cùng bầy ong thợ, có con lấp ló náu mình giữa đám lá, cất tiếng hót véo vút. Ôi chao sao mà đẹp đến thế!
Lũ chim ơi, tụi bây nhắc ta nhớ về bản nhỏ xa lắc ở cuối chân mây. Nơi những tháng năm ấu thơ, ta vùi đầu vào bầu ngực mé, uống từng giọt sữa thảo thơm, nghe lời hát ru ngọt ngào mê mải. Đôi chân bé xíu của ta chập chững bước đi đầu tiên trên sàn nhà dát bằng cây mai. Lẫm chẫm leo bậc cầu thang. Lon ton chạy trên đá, hít căng ngực hương thơm hoa mạy mác. Ta uống nước sông Nậm Khao. Ta ăn no nê quả mác cọt ngọt lịm... Vía ta sau bao năm phiêu du, chìm đắm buồn tênh trong ngăn ngắt xa, giờ rưng rưng biết lối quay về vòng luân kiếp người, cũng vì se thắt linh thiêng quê núi non ngàn.
Hồn ta, tháng năm tha thủi, héo hắt ngấn lạnh giữa hai bờ mê lú của dòng mê giang leo lẻo trôi trong sương khói ảo huyền, tĩnh lặng. Người trắng. Sương trắng. Hơi thở trắng...màu trắng thanh khiết dẫn dụ ta vào cõi dênh dang di trú, nhưng từ xa xăm hun hút trong mê lộ, ta thắc thỏm nghe tiếng gọi êm ái, da diết:
"...Con trai à, vía ngoan ơi, đi chơi thế thôi, ngủ no mắt rồi. Sao thích ngủ nướng thế, tính ấy xấu lắm dậy đi nào, hãy mở mắt ra mà nhìn trời cao. Kìa con, sáng nay nắng vàng...vàng như tơ thế kia là mùa xuân đến rồi... hãy nghe tiếng gọi mà dậy đi con..."
... "Con trai ngoan nào, sáng rồi, để ta lau mặt bằng nước ấm cho con...Ồ, vầng trán cao thế này thì thông minh nhiều đấy. Nào vết thương đã liền sẹo, lên da non lâu rồi, không còn ngứa nữa phải không?Bụng đói rồi đấy, uống sữa nha..."
... "Hôm nay trời nóng đấy con. Nằm lâu thế có mỏi không? Ta đỡ con xoay nghiêng nhìn mặt trời nhăn nhó, cau có đổ nắng nha. Con thấy gió không? Gió về quạt mát đấy mà. Lũ chim sẻ ri ríu rít gọi con kìa, có nghe thấy chúng lích tích, ngó nghiêng mong con ra ngoài sân hít thở khí trời không?..."
Những lời tâm sự tựa điệp khúc ấy ngân nga, nhẹ nhàng kéo hồn vía ta...
Đêm này sang đêm khác, lời sli ngọt ngào, say sưa gọi ta:
"...Nhà ta trên núi cao
Ở trên núi có thác
Ở trên núi có ngựa
Trong rừng có nhiều loài cây tỏa bóng mát
Bờ đường lưng núi đâu cũng thắm hoa mạy mác
Xa hun hút, xa thăm thẳm
Ngược gió em đi cùng anh
Thương yêu nhau thì lên...
(...Rườn rà dú tẳm
Dú tềnh pù mì tát
Dú tềnh pù mì mạ
Chang đông mì lai dường mạy chỏa ngàn khăm
Rìm tàng vàn khau búng tảu tó bjooc mạy mác
Quây lin lít, quây thăm thẳm
Thất tàng lồm noọng bây đuổi có
Slương điếp căn lẻ khỉn...)
Năm nối tiếp năm, tai ta quen nghe lời thủ thỉ kể chuyện cổ tích. Trong đêm thanh vắng, ta như trở về thủa thiếu thời, được đằm mình dưới ánh trăng trong vòng tay nồng hậu của mé. Thao thiết nghe mé kể chuyện "Pịa lấy vợ tiên":
"...Ngày xửa, ngày xưa, lâu lắm rồi, chàng "Pịa" cao lớn, đẹp trai mồ côi cha và mẹ. Chàng sống trong ngôi nhà sàn giáp rừng mác cọt. Năm ấy, lúa trên nương nhà chàng được mùa. Chàng nhờ một bầy tiên nữ đi hái hoa đến gặt giúp nương lúa lớn. Các cô tiên nữ không những xinh đẹp, hát hay, múa dẻo... mà gặt lúa một loáng đã xong. Chàng "Pịa"bèn dấu đôi cánh hồng của nàng tiên xinh nhất. Nàng tìm mãi, tìm đến lúc mặt trời chui vào bụng núi cất nắng vẫn không thấy. Đêm ấy, khi tiếng con chim "từ qui" gọi đôi, chàng "Pịa"ngỏ lời xin được lấy nàng làm vợ..."
Vẫn giọng kể thân thương, rỉ rả ấy, đêm đêm dẫn dụ ta vào những tình tiết trong chuyện "Cô Quí, cô Chèn":
"...Thời xưa, Thái tử con vua Ngọc Hoàng xuống trần thế, quen một người con gái xinh nhất mường khi nàng vào rừng hái măng. Thái tử giúp nàng quẩy gánh măng về nhà. Trai bản thấy chàng khôi ngô tuấn tú nảy lòng ghen ghét, đặt bẫy chông trên đường chàng về mường trời, khiến chàng suýt thiệt mạng...Ngọc Hoàng nổi cơn thịnh nộ kéo trời và đất xa nhau...."
Trong hành trình gian nan của giấc mơ dài, ta được sưởi hơi ấm và sự tận tình chăm sóc của mé. Đúng rồi, chỉ mé ta mới ân cần, chu đáo, mong mỏi ta bỏ bến bờ mê lú mà quay trở về...Có đúng là mé đấy không? Từ sâu thẳm trong tiềm thức ta muốn gọi mé mà không cất nổi tiếng nói...
Ừ, dần dần từng ngày tích tụ, ta nhận ra nhiều, rất nhiều những người yêu thương xung quanh ta. Ồ! Sao đông thế? Ai cũng ân cần chăm sóc và mỉm cười với ta. Trong trí não khiếm khuyết của ta, những vụn vỡ từ ký ức thoắt ẩn, thoắt hiện. Rõ ràng gương mặt mé ta khác người phụ nữ đang chăm sóc ta, nhưng sự bao dung và lòng nhân hậu, yêu thương ta thì giống mé ta lắm.
Dường như thăm thẳm, hun hút chuỗi ngày ta nằm một chỗ, người đàn bà luống tuổi dịu dàng luôn túc trực bên giường ta. Chăm nom, nâng giấc, vỗ về, an ủi, nói chuyện với ta. Ngày qua ngày, ta nghe và nhận biết giọng nói hiền thục, thân thuộc ấy.
Ta trôi miên man lúc tỉnh, lúc mê. Ta độc hành vượt qua biết bao cung đường hoang lạnh chưa một lần đặt chân đến. Ta bay lơ lửng giữa tầng không bao la có những khối mây trắng như bông. Ta chuyển động trong vầng hào quang tinh khôi... cho đến hôm nay ta thấy mình nhẹ bỗng, thoát khỏi không gian hoang tưởng, trở lại thực tại.
Sau tiếng gọi mừng rỡ của bà mé bên ta, mọi người ào tới hò reo. Thoáng chốc, ta nhìn thấy mắt ai cũng hoe đỏ, trào nước. Môi ta mấp máy... sao ta vẫn chưa thể nói được? Muốn gọi, muốn hỏi mà cổ họng như có nút lớn. Làm sao lôi cái nút ấy ra bây giờ?... Ta cười, lúc lắc đầu trên gối ú ớ...
Người phụ nữ khoác áo blu trắng, đôi mắt đen lay láy, ngồi sát bên giường ta, mỉm cười:
- Thật kỳ diệu khi anh đã tỉnh. Anh từ từ rồi nói nhé, không vội làm gì. Đây là Trung tâm điều dưỡng thương binh.
Mắt ta ánh lên tia rạng rỡ. Thì ra ta bị thương trên chiến hào biên giới năm xưa. Ta đưa mắt nhìn quanh tìm đồng đội ta. Có ai cùng đến đây như ta không? Liệu rằng lưới lửa ngùn ngụt, đạn pháo và súng cối chiu chíu, đỏ rực, liên hồi ấy đại đội ta ai còn, ai mất?
...Sáng sớm. Hơi thở ấm nồng của mùa xuân bay tới điểm cao. Mưa bụi gọi lũ cỏ mềm dưới mặt đất lách tách nảy mầm... Ta dõi mắt theo mây trắng lơ đãng, vấn vít trên những cây thông, nhởn nhơ sà xuống, vờn quanh cột mốc linh thiêng trong ban mai...
Bỗng đất trời chao đảo, rung chuyển. Sương và mây hóa lưới lửa. Trước mắt ta, đạn cối 82, 60 và pháo 105ml, 130ml...rền vang, chớp giật, xé mây, xé gió bay vèo vèo. Tiếng gầm nghiến ngấu của xe tăng, tan trong tiếng nổ ùng oàng rầm rầm. Đất đá cày tung. Cây thông lớn, thông bé bị quật nát, bầm rập, gục ngã. Đá núi hất tung lên cao rồi lăn rào rào. Lửa đỏ rừng rực, ngùn ngụt bốc cháy... Nơi nơi ngập căng mùi khét lẹt. Nòng súng trên tay ta khạc lửa đỏ. Điệp khúc tiến quân ca của người lính ào ào dội vang... Đồng đội ta người này ngã xuống, người kia lao lên, tạo nên bức tường thành vững chắc. Đất đai hương hỏa tổ tiên của Tổ quốc do ông cha ta bao đời gây dựng! Đồng đội ta ơi, hãy tiếp nối sức mạnh của cha anh chắc tay súng. Lửa cháy, máu trào trong đường hào. Khói, bụi máu, tro cốt cuốn theo gió, cuộn vào mây trời đỏ rừng rực linh thiêng...
... Sao thế này? Ù...ù...ù...Người ta trùm ngợp vào biển lửa. Đầu ta tê dại loang loáng. Khát...khát quá. Cổ họng ta bỏng rát. Ta thiếp đi, trôi trong dương gian. Khi thì ta ngợp xoáy trong dòng nước đỏ bầm như máu. Lúc khác ta ngụp trùm trong đá núi non ngàn. Những tảng đá bầm rập đỏ ối đè mãi thân ta. Ta gọi to tên đồng đội trong tiểu đội: Sáng à, Nhân ơi, Hoàng ơi, Long à...Lời gọi bạn xa xót của ta chìm trôi trong dòng xoáy, giữa miền thinh không hoang vắng đến tận cùng...
Ngày chạy qua ngày. Năm nối năm. Lời gọi vía không biết mệt mỏi cùng sự ân tình, tình cảm của người thân lôi ta thoát ra mộng mị...
- Đồng chí mới tỉnh dậy, thư thả rồi sẽ bình phục. Tinh thần của đồng chí trong ngôi nhà chung này...rất cừ! Quả là một kỳ tích!- Tiếng nói ấm áp, nhân từ, cùng đôi bàn tay xoa nhè nhẹ lên ta của bác sĩ làm ta bồi hồi khôn tả.
Chao ôi đầm ấm quá. Mắt ta chớp chớp, môi ta hé vén nụ cười chưa tròn. Ngón tay của ta khe khẽ động đậy, ta muốn được cầm nắm những đôi tay thân thuộc của từng người mặc áo blu trắng...
Ta biết, nếu không có sự tận tâm chăm sóc của các bác sĩ quân y, không có tình cảm ấm êm của đội ngũ y tá, hộ lý và đặc biệt là mé Xa ngày đêm túc trực, kiên nhẫn bên ta, có lẽ ta không qua khỏi. Sau bao đêm ngày chong chong vô thức, giờ mắt ta đã biết cay xè, ướt át.
Lạo xạo. Lạt sạt. Sàn sạt...sàn sạt... Tiếng chân nhẹ bước trên lá khô, vang trong tiếng chổi quét lá, lặp đi, lặp lại giữa sân vườn, vô tình kéo ta ra khỏi dòng ký ức, đưa ta trở về thực tại. Ta nhìn dáng hao gầy, đôi mắt, đôi tay không nguyên vẹn, chân tập tễnh...của mé Xa đang nhẹ đưa chổi quét lá, lòng ta rưng rưng xúc cảm.
Bom đạn thằng giặc cướp đi một phần cơ thể mé Xa, nhưng mé nuôi ta thích làm việc. Mất cánh tay trái nhưng tay phải mé hoạt động không ngơi nghỉ. Sáng, sáng, mé nhanh nhẹn, miệt mài quét dọn sân vườn. Mé nói với ta, còn sức thì còn làm việc. Là thương binh tuy thân thể không lành lặn, nhưng ý trí, nghị lực, niềm khát khao làm việc là vô tận...
Trái tim ta dâng tràn nỗi niềm...
Ta lặng lẽ cười khi mé nuôi hỏi tình cảm ta đối với nữ y tá Hồng xinh đẹp của Trung tâm. Ta biết nói sao với mé? Trái tim, tình yêu ta thuộc về người con gái Mường Vang. Tâm trí ta, cuộc sống ta lắt lay, thẫn thờ, nhớ bóng hình dịu hiền của Ri. Vẫn biết, thân ta đầy thương tích, được Hồng quí mến, ta trân trọng và cảm động. Song, ta mong em hiểu và cảm thông. Ta như người anh trai của em thôi.
Mé nuôi thường tỉ tê nói chuyện, bác Hiền, mẹ y tá Hồng là người chị gần gũi của mé từ những năm tháng chiến tranh, đến bây giờ. Mé nuôi ao ước, ta và Hồng nên duyên. Lo mé nuôi buồn, ta dấu kín chuyện riêng. Ta hằng mong, cơ thể mau hồi phục, đầu óc ta đủ khỏe... một ngày không xa, ta sẽ về trên núi với gia đình. Nơi xa ấy, mé đẻ ta héo hắt mong đợi. Người yêu ta biết đâu đang thảng thốt gọi ta về. Ta không thể phụ tình Ri. Và càng không thể làm Hồng đau khổ.
Vẫn biết gương mặt trái xoan, đôi mắt huyền của Hồng dạo này phảng phất nét buồn xa xôi. Mỗi sáng đưa thuốc cho ta uống, nàng có phần bối rối, e thẹn...nhưng ta vờ như không biết. Ta không muốn lợi dụng trái tim nhân từ của nàng. Người con gái đẹp người, thùy thã, đoan trang ấy sẽ có cuộc sống rộng mở, hạnh phúc. Ta tin cuộc đời mỉm cười với nàng.
Mà cũng lạ thật, các cô chú, anh chị nơi đây sao hay trêu ta với Hồng? Lẽ nào mọi người không nhận ra ta rất khác em? Chẳng lẽ thằng đàn ông bầm đau những vết hoen sâu ta, thốt ra điều không phải với em ư? Rằng ta có người yêu, không thể đến với em. Rằng em đẹp, sẽ có cuộc sống tuyệt vời bên người chồng lành lặn, khỏe mạnh ư?... Sao ta có thể tự khắc mở miệng nói những chuyện ấy với nàng?
Mỗi người đều có khoảng trời riêng trong nếp nghĩ. Cũng như mé nuôi ta đấy, có nhiều chuyện không thể mở lòng.
Ta rất muốn hỏi mé nuôi những chuyện mé nén chặt trong tâm can.
Liệu linh cảm ta có đúng không? Từ sâu trong tiềm thức, ta phập phồng, hớn hở thầm nghĩ, mé nuôi ta là người bạn toồng mà mé ta mong đợi. Ta mong mỏi và đoán thôi. Tên mé nuôi là Xa, giọng nói mé mang âm sắc dân tộc ta. Trùng hợp như thế đâu phải là huyễn hoặc và ngẫu nhiên. Ta nghĩ thế mà không dám hỏi mé nuôi. Ta lo động đến vết thương từ quá khứ. Ta sợ một lần nữa trí nhớ của mé mất đi... như thế khác nào ta cầm đuốc lửa mà đốt nhà mình? Phải từ từ kiên trì thôi. Không nóng vội. Vẫn tự bấm bụng răn mình thế, nhưng đã cuối hè rồi, chỉ còn chưa đầy mươi ngày nữa đất trời sang thu. Mấy hôm nay ta thao thức nhớ rừng mác cọt và cánh võng dây ta với em chênh chao nằm trên đó.
Đã đến lúc ta muốn cùng mé nuôi ta trở về quê núi. Ta muốn thưa với tổ tiên, ông bà và mé đẻ ta chuyện dài, rất dài về nghĩa tình của mé nuôi, ân nhân ta. Biết thân ta không lành lặn, ngày ngày phải dùng thuốc để bình phục sức khỏe. Mé nuôi của ta là thương binh, hành trình trở về sẽ khó khăn, nan giải, nhưng ta muốn về nhà lắm rồi. Mỗi ngày đi qua, hiện hữu quanh ta chất chồng mơ mải ý nghĩ, một thằng trai tốt, không bỏ bản biền biệt xa. Phải về bản thôi. Núi hùng vĩ nhưng mênh mang mây, rừng bí hiểm mà thênh thang nắng. Sông bí ẩn, dung giăng nước chảy... gọi ta về.
Nắng sớm mai hừng lên màu vàng trong vắt. Hồ nước ánh ướt, loang loáng thảm vàng lung linh, thoang thoảng hương hoa sen nhẹ bay. Ta bất giác bật lên tiếng cười phấn khích. Ngày ta trở về không còn xa...
Tạo hóa khéo đặt số phận cho mỗi người. Bà Xa vừa đưa nhẹ cây chổi quét dọc sân Trung tâm điều dưỡng thương bệnh binh, bà vừa nghĩ. Là một nữ thương binh nặng trong kháng chiến chống Mỹ duy nhất ở Trung tâm điều dưỡng, bà được các bác sĩ, y tá, hộ lý và nhân viên ở đây thương quí, cảm phục, chăm sóc tận tình như người thân. Bà không yên phận tận hưởng sự phục vụ. Dù bị thương ở sọ não, đầu bà mụ mị không nhớ mình là ai, song vốn ham lao động, cái chân, cái tay ham làm, chỉ chịu buông việc khi lưng duỗi ra trên giường gỗ. Thế nên, qua cái đận hơn năm năm điều trị vết thương, khi tập đi thập thững trở lại, bà làm bất cứ việc gì hợp với sức khỏe.
Giám đốc Trung tâm điều dưỡng và nhân viên ngăn cản, động viên bà không nên làm việc, nghỉ ngơi để vết thương ổn định, nhưng bà không nghe. Bà bảo, nếu ngồi yên một chỗ, người sẽ đờ đẫn, đến bao giờ bà nhớ ra gốc rễ cội nguồn của mình? Trong đầu bà giống như đứa trẻ, thẳng băng, trắng tinh không chút gợn về quá khứ, như thế thì bà sống mà như đã chết rồi. Bà không muốn thế. Qua công việc bà có niềm vui và hy vọng sẽ nhớ ra thân phận.
Bà nói vậy, lãnh đạo và tập thể nhân viên Trung tâm điều dưỡng đành phải để bà nhúc nhắc làm việc, nhưng luôn nhắc bà làm nhẹ nhàng. Bà cười thật tươi chợt nghĩ, với cơ thể mất đi hơn tám mươi phần trăm sức khỏe, có muốn làm việc nặng cũng không được.
Ngoài việc đơn thuần quét dọn vệ sinh, bà giúp các cô hộ lý lau mặt, chăm sóc thương binh bại liệt hoặc hôn mê. Những người thương binh nơi đây, nghe không biết chán lời hát sli ngọt ngào của bà. Ngẫm ra buồn cười, bà không nhớ mình là ai, nhưng trong bộ não không lành của bà, đong đầy lời hát. Có lúc thì bà hát theo lời quen, có khi lại tự nghĩ ra ca từ mới, thế nên anh em thương binh trẻ nơi đây thường gọi bà bằng cái tên trìu mến "U Xa ca hát".
Đêm qua trời trở gió, lá khô trút đầy sân vườn và các lối đi. Những quả nhãn chín mọng, tròn căng bị gió quăng xuống sân nứt vỏ, lộ cùi trắng nõn, nhìn tiếc quá. Bà nhẹ đưa chổi gom chúng lại, chờ các cô gái trẻ phục vụ của Trung tâm hót vào thùng rác. Bà chỉ quét thôi, nếu hót rác thì sẽ rất lâu, bởi tay không còn lành lặn. Chiếc chổi trong tay bà bỗng ngưng. Con mắt còn lại của bà chợt khững sững. Thằng Hợp ngồi trên bờ hồ, giơ mãi chiếc lá nhãn vàng lìa cành lên ngắm nghía. Không biết nó nghĩ gì mà loay xoay mãi cái lá thế? Chiếc lá lúc đưa ngang, khi nằm dọc, rồi ngồi chồm chỗm trên thành ghế xe lăn, đầu nó nghiêng nghiêng ra chiều suy nghĩ nhiều lắm...
...Bà gặp thương binh Hợp vào trúng tháng Sáu, cách đây mười tám năm. Hợp được chuyển từ Bệnh viện Quân đội 108 về Trung tâm điều dưỡng này. Hôm ấy, mặt trời dội nắng đến nhức mắt. Những chiếc quạt con cóc, quạt tai voi Liên Xô quay vù vù xua cái nóng, nhưng trời vẫn oi ả.
Hợp xanh xao, mỏng manh, nằm như dán vào giường bệnh trên chiếc ga trắng muốt. Thân người còn có phần trên. Đầu quấn băng trắng toát. Hai mắt nó mở to tròn mà vô hồn. Không vui. Không buồn. Không biết trời nóng hay lạnh. Nó nằm bất động nom thương quá. Nghe các bác sĩ ở Trung tâm nói, đây là thương binh chết lâm sàng, sống đời sống thực vật, cần có chế độ chăm sóc đặc biệt. Bà ứa nước mắt. Lâu lắm rồi bà mới khóc.
Giám đốc và các nhân viên ái ngại, cảm động khi nhìn bà chăm sóc Hợp. Đấy là tình cảm của người mẹ nặng lòng với con. Trước mắt mọi người, kể cả các thương binh trong Trung tâm, bà là người nữ thương binh đặc biệt đáng kính và nhân đức trên đời này. Những khi trái gió, trở trời, thời tiết thay đổi, nhiều thương binh nam giới bị vết thương hành hạ rên rỉ, kêu ca, vật vã, đau đớn... nhưng bà không rên la, cáu gắt. Bà luôn tươi cười như chưa hề trải qua cuộc vật lộn giữa sự sống và cái chết. Mọi người ở đây được bà dành sự quan tâm không phân biệt vai vế. Bà khéo léo từ chối những món quà, dù là nhỏ nhất của các nhân viên hay người nhà thương binh.
Gương mặt tuy đã mất đi một con mắt, nhưng vẫn tỏa ra nét đẹp nền nã, đàm thắm của một thời son trẻ. Khuôn mặt nói lên thời trẻ bà là người phụ nữ mặn mà, sắc nước. Bà coi mình là người của công chúng ở Trung tâm điều dưỡng, không nghĩ đến chuyện riêng tư. Có không ít người băn khoăn hỏi:
- Sao chị không chọn cho mình một mái ấm hạnh phúc riêng ở nơi đây, như bao người thương binh khác?
Bà cười, gương mặt phảng phất nét buồn:
- Bao giờ tôi nhớ ra phận mình, lúc ấy tính chuyện... Ở đây tất cả là người nhà của tôi, hạnh phúc lắm chứ, sao phải nghĩ xa xôi?
Hạnh phúc đối với bà thật giản dị. Đó là được thở hít khí trời trong không gian ăm ắp tình người, tình thương yêu và trân trọng. Được chia sẻ và cảm nhận. Sống bằng cái tâm sáng. Đơn giản thế, nhưng thời bà có biết bao nam nữ ra mặt trận mà không trở về. Bà được sống thế này, đâu mong mỏi gì hơn?
Con người kỳ lạ, chỉ ngoài hàng rào tường xây thôi, cuộc sống xã hội muôn mặt không ngừng biến động. Người ta vốn tham, sân, si. Có thứ này, lại muốn được thứ khác... không dừng lại ở chữ"đủ", lúc nào cũng thấy "thiếu", vậy thì đâu có thể coi là hạnh phúc?
Bà thầm cảm ơn cuộc đời cho bà thêm niềm vui khi chăm nom, săn sóc Hợp. Bằng tình thương và lòng nhân ái, bà tin rằng, một hôm nào đó người mà bà coi như con, đôi mắt sẽ ánh lên tia nhìn ấm áp, miệng biết nói những điều giấu kín... Nhiều lúc, ngồi bên giường Hợp, bà mong mỏi được nghe từ cái miệng vô thức một tiếng rên khe khẽ. Dù chỉ một tiếng thôi, bà cũng thấy ấm lòng. Bởi đấy là dấu hiệu trở lại của con người biết đớn đau, vui buồn...
Mà sao trên cổ tay thằng trai có cái vòng đẹp thế. Cái vòng này nhìn quen mắt, nhưng bà không thể nhớ nổi nhìn thấy ở đâu? Bao giờ?...
Nhiều khi bà giận mình. Sao không mảy may nhớ gì về quãng đời tuổi trẻ đã qua?Có vò đầu, bứt tai cũng thế thôi. Não bà giống nắm bông trắng. Bà bứt dứt không yên.
Trí nhớ bà vẫn lưu lạc cho đến một sáng mưa cách đây hơn sáu năm...bà bị ngã. May mắn cho bà, dù ngã đau đến bất tỉnh, nhưng đầu bà được gột rửa, não bà có luồng sáng soi rọi, bà dần dần khai quang, quá khứ của bà ùa về...
Tiếng gọi nhẹ như gió thoảng của nữ y tá Hồng cắt ngang suy nghĩ của bà:
- U Xa à, u vào nhà đi, con đo huyết áp.
- Ừ, mấy giờ rồi, hôm nay làm sớm thế? U vào đây.
Ở đời không bao giờ biết trước điều gì sẽ đến. Con người như có sợi dây tình cảm vô hình níu thít vào nhau. Y tá Hồng xinh đẹp, ngoan ngoãn là con chị Hiền ở Xí nghiệp Dược phẩm. Trong một lần chồng chị Hiền ra Bắc lấy quân vào chiến trường miền Nam. Anh được cấp trên cho nghỉ tranh thủ về nhà hai ngày. Thật mãn nguyện bởi tình yêu của anh và chị kết trái. Bé Hồng ra đời trong một đêm mùa xuân lất phất mưa bay.
Hơn một năm sau ngày anh về, khi bé Hồng biết lẫy trên giường, chị Hiền nhận tin chồng hy sinh ở mặt trận Quảng Trị. Trái tim chị tưởng như bị xé nát vụn. Chị cắn chặt nỗi đau, thờ chồng nuôi con. Chị Hiền bây giờ nghỉ hưu rồi. Thư thoảng rảnh rang đi ô tô xuống Trung tâm điều dưỡng, trò chuyện với bà Xa và chơi cùng con gái.
Bà Xa thấp thỏm nghĩ, hình như con Hồng có tình cảm đặc biệt với thằng Hợp. Sau thời gian dài tận tâm cùng bà chăm nom thằng bé, nó rất quyến luyến. Nhìn vào mắt con Hồng, bà biết nó dành cho Hợp tình cảm đằm thắm, yêu thương hết mực.
Trước khi vào nhà đo huyết áp, bà nhìn về phía chiếc xe lăn của Hợp. Trong nắng sớm, nước da Hợp nhuốm màu tươi tắn làm bà Xa rất mừng. Bà ao ước, một ngày thật gần được nhìn nó cùng con Hồng xây dựng mái ấm. Lúc ấy, bà yên tâm trở về trên Mường Vang với bạn toồng Ngần, nói với người bạn về chuyện hai đứa bé gái con chị Hái.
Là mong thế, nhưng lòng bà ám ảnh về chiếc vòng tay thằng Hợp đang đeo kia. Đấy là chiếc vòng vía của mé trao khi bà oa oa cất tiếng khóc làm người. Năm xưa, bà lặn lội mang hai đứa trẻ về cho bạn toồng Ngần nuôi, bà nghĩ kỹ rồi, hai đứa gái con chị Hái phải có vòng vía. Chị Hái để lại có một chiếc vòng và một bao dao thôi. Một đứa gái đeo vòng, đứa kia không có thì vía nó biết đậu vào đâu để hay ăn, chóng lớn? Và khi lớn lên, đứa gái không có vòng sẽ tủi thân... Thấu đáo trong nếp nghĩ, thế nên bà tháo vòng tay và lấy bao dao anh Khiển tặng, hứa hẹn yêu thương nhau suốt đời, đưa cho Ngần...
Trên quê bà, tục lệ từ đời ông bà xa xưa, đứa trẻ khi lọt lòng mẹ phải có vòng vía. Thằng trai đeo vòng trên cổ, đứa gái mang vòng ở tay. Đeo vòng mãi đến độ trưởng thành sẽ rẽ sang lối ngoặt cuộc đời. Lũ trai khỏe, đứa gái xinh tìm được người yêu thương, làm đám cưới thành vợ chồng thì hoán đổi vòng cho nhau. Vợ đeo vòng cổ, chồng đeo vòng tay. Nhìn tụi nam, nữ mang vòng, người bản biết nó là đứa có tổ ấm gia đình hay đang thanh tân...
Vậy thì, bà chắc chắn một điều, thằng Hợp này đã yêu một trong hai đứa gái ấy nên trao vòng. Phải thương yêu thắm nồng, không thể chia xa thì mới trao vòng. Có lẽ nó còn lấy đứa gái rồi ấy chứ. Mà nó có trao bao dao hay nắp dao không nhỉ? Bà không dám hỏi nó, càng không dám nói cho thằng Hợp biết chiếc vòng đó là của bà. Bà lo nó suy nghĩ, vết thương cũ tái phát, nằm một chỗ như nhiều năm qua thì bà có tội với bạn toồng. Nó là con trai của bạn bà đấy. Nó giống hệt anh Phái, cha nó. Thằng bé sức sống mãnh liệt lắm mới hồi sinh.
Thăm thẳm trái tim bà cồn lên ước ao, một ngày nào đó, bà sẽ về quê núi cùng thằng Hợp. Nhất định là ngày ấy sẽ chóng thôi. Bà không để lửng lơ thân phận hai đứa bé gái. Con chim có tổ. Cái cây có gốc. Con người phải biết ông bà, tổ tiên. Bà không để bạn toồng mong mỏi. Cái chăn, cái gối thêu dở dang của bà không hiểu bạn toồng đã làm xong chưa? Thằng Hợp này chắc Ngần đỏ mắt mong nó trở về. Còn người đàn ông của bà nữa, anh có còn lành lặn trở về trên núi không?...
Bước chân bà hôm nay nhẹ bẫng. Những tiếng "kọt...kọt.." bên bàn chân nhân tạo của bà không có cảm giác nặng nề, mà như những nốt trầm trên bản nhạc không lời.
Sao đêm nay bà khó ngủ thế? Mắt cứ như lấy que chống lên. Vết thương ở đầu đau nhức, giật giật. Khắp người như có kim tiêm đâm nhức nhối. Bà thao thức không chợp nổi mắt. Trằn trọc hết trở mình bên phải, lại xoay lưng bên trái. Sao bà không thể biết mình là ai, bị thương thế nào? Bà giơ cánh tay, gõ nhẹ vào chỗ buốt nhói trên đỉnh đầu. Nếu từ giờ đến lúc già, bà không thể nhớ ra quá khứ thì đau khổ lắm. Ai cũng có nơi chôn rau cắt rốn. Một điều chắc chắn bà biết mình là người dân tộc. Bà không quên tiếng mẹ đẻ. Bà vẫn thư thoảng nhớ lời ca để hát cho thằng bé Hợp nằm ở buồng bên nó nghe. Vậy thì nhà bà phải ở trên núi, trong rừng nơi xa lắm. Thảo nào, bà thích cây xanh đến vậy.
Từ dưới bờ hồ vọng lên tiếng tụi ếch, chão chuộc kêu inh oang. Trong đêm tối, thư thoảng con tắc kè đầu hồi gióng giả than vãn: "Tác...kè...kè...tác kè...kè...". Trời oi nồng. Tắc kè kêu tiếng chẵn, không khéo sẽ mưa.
Hình như đã gần sáng. Tiếng sấm ùng oàng, kéo theo những tia chớp sáng lòa, xé rách bầu trời. Gió nổi. Nhãn, vải, mít, chuối...rập rờn khua lá kêu ràn rạt. Bầy côn trùng i ỉ, ran ran. Bà nhỏm người ngồi dậy. Thằng bé Hợp nằm gian bên cạnh bà, cái mắt nhiều đêm mở mãi, tối trời chẳng biết nhắm lại. Thật đau lòng. Bà phải sang chỗ nó, xem trời sắp mưa, gió lạnh, cái chăn đắp người nó có đủ ấm không?
Bà khe khẽ vén chăn lại cho nó. Mắt nó vẫn mở chong chong. Thầm thì bà nói với nó, trời sắp mưa đấy, tai mày có nghe thấy sấm ì ùng không hả con? Giở trời thế này chắc đau người lắm phải không? Hồn vía đi chơi xa thế, biết nhiều nơi rồi thì về thôi.
Tiếng mưa lác đác ném xuống mái ngói "bộp...bộp...bộp". Trời vãi nước xuống rồi. Ơ hay, trong ánh chớp lóa sáng, cái gì bay phấp phới ngoài dây phơi thế kia? To rộng thế chắc vỏ chăn của ai đó tối qua quên không kịp cất. Các cô hộ lý mải việc nên không để mắt tới góc sân vắng. Mặc nước mưa đang kéo về, bà tập tễnh đi ra. Quả là đúng như bà đoán, một chiếc vỏ chăn. May quá, tí nữa ướt hết. Nửa vắt vai, nửa ôm vỏ chăn trong tay, bà hơ hoảng rảo bước vào nhà. Mưa rầm rầm kéo xuống.
Còn vài bước nữa bà tới mái hiên. Phập. rụp. Sao thế? Bà lảo đảo, đau điếng, mắt tối sầm, chân bà bay lên tầng không. Tai ù ập. Choáng váng. Chìm trượt vào trong mê man...
"...U...u...ú....hú...u...u...u. Từng hồi còi báo động vang dội từ xa lắc vọng lại.
Keng...keng...keng tiếng kẻng báo động gấp gáp của đơn vị dồn dập vang lên.
Máy bay phản lực A4D, F4H của địch mang bom... từng tốp, từng đàn lồng lộn, quần thảo gầm rú man rợ, xé mây trên bầu trời. Tụi giặc trời thay nhau bổ nhào ném bom, khói lửa mù mịt.
Hàng loạt bom hủy diệt đen trũi dày đặc ném xuống. Những tiếng nổ lộng óc "Chuốt...chuốt...chuốt..." "Hực...hực...hực....rầm...rầm...rầm". Mặt đất rùng rùng, chao đảo, khét lẹt.
...Chiu...chíu...chíu... Ùng...ùng...oàng. Pháo cao xạ, súng máy phòng không, súng trường...của lực lượng bộ đội, dân quân tự vệ đồng loạt vang dội, lia lên trời chớp lửa xanh lè, nhoáng nhoàng. Từng đường đạn thẳng băng từ trận địa pháo cao xạ của Tiểu đoàn 4, Lữ đoàn Pháo cao xạ H43 vút lên, có hàng loạt dòng đạn đan chéo từ ba trận địa súng phòng không 12ly7 của Trường Quân chính Quân khu phóng lên, tạo lưới lửa khổng lồ, đan chéo, tìm máy bay địch hủy diệt, bảo vệ bầu trời tỉnh Bắc Thái.
Từ sáng sớm mờ hơi sương, đến giữa trưa nắng vàng nhức mắt, liên tục gần chục đàn máy bay địch ôm bom quần thảo, đánh phá ác liệt. Chúng rải thảm bom dọc đường quốc lộ số 3, khu vực ga xe lửa Đồng Quang, Lưu Xá, thành phố Thái Nguyên... hòng hủy diệt khu công nghiệp gang thép đầu tiên trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Lá ngụy trang liên tục gấp gáp cài lại, nòng súng nóng rừng rực. Chiến sĩ trên các trận địa dõi mắt lên bầu trời, phối hợp hiệp đồng tác chiến nhịp nhàng với Tiểu đoàn pháo cao xạ.
Rin rin rít. Rầm...rầm...rầm... Bom giặc vãi xuống dày đặc, liên tục.
Tiếng vỡ toang của đất đá, sự bung phá dữ dội của khí bị dồn nén, cùng năng lượng vụt phóng khủng khiếp bởi trăm ngàn tiếng nổ chói tai, lộng óc. Nắng ủng vàng màu nghệ trộn trong lửa đỏ, lửa da cam đùn lên cuồn cuộn. Cây cỏ, đất đá, nhà cửa, gạch ngói... tất cả bị xé nát, tung vọt lên cao rồi rầm rầm rơi xuống.
Dường như thân thể Xa cùng đồng đội bất ngờ bị hất lên sườn đồi cùng đất, đá bầm dập. Tức thở, ngột ngạt và chìm lấp...
Đá xám, đất nâu, sỏi cơm trộn vào máu đỏ. Từng bụm, từng vệt máu đỏ tươi và những mảnh thân người rừng rực nóng... loang trên cỏ lặng phắc. Không gian mang màu xỉ than xám sì sững sờ.
Xa thấy mình đang bay. Bay mãi về nơi những cây rừng xanh lá và dòng sông có những viên đá cuội phát sáng mỗi mùa trăng lên.
Xa lượn qua đám mây nhênh nhang trên bảy tầng thác Lỉn ào ào, xối xả. Kìa, giữa nắng vàng xốn xang Xa ùa vào vòng tay êm đềm nóng sực của anh Khiển...Xa và anh quấn tròn, lăn trong mây gió, giữa đại ngàn cây mác cọt cổ thụ...
Loáng thoáng, xa xôi...có nhiều tiếng người gọi... "
Bà Xa mở mắt ngơ ngác. Người bà nóng hầm hập như lửa đốt. Khát nước quá.
Bà định nhổm người ngồi dậy thì bàn tay mềm mại của nữ y tá Hồng xoa nhẹ vào người. Mắt hoe đỏ, nó nói nghèn nghẹn:
- U...u tỉnh rồi. U làm con và mọi người lo quá. U nằm yên để con vắt nước cam u uống.
Đầu óc bà nhức nhối. Bà chợt đưa mắt nhìn quanh, giọng bà xen nhịp thở đứt quãng:
- Trời... tạnh mưa.. rồi a...cái vỏ chăn...thằng Hợp...cái vòng tay...của nó...
Hồng nhẹ nhàng: - U uống nước nào, u lo cho bản thân đã, khi nào u khỏe hẳn thì chăm anh Hợp. Vỏ chăn tụi con giặt sạch và phơi khô rồi.
Bà thở phào nhẹ nhõm.
Giọng con bé Hồng êm ái, nó bảo bà bị ngã, dầu đập vào thềm gạch, mê man ngất đi bốn ngày. May có thương binh dậy sớm, thấy bà nằm bất tỉnh, mặc cho nước xối vào người, gọi bác sĩ cấp cứu kịp thời...
Thảo nào mà đầu óc bà đau buốt, sưng tấy. Người bà ê ẩm, mồm miệng đắng ngắt.
Bà Xa lúc lắc mái tóc trắng mây. Dường như có ngàn ánh đèn thắp trong đầu. Quầng sáng hoa đăng rờ rỡ, mải mê ngược trôi ký ức. Đầu óc bà tưởng như mê lú trong tấm vải chàm bưng kín, giờ quá khứ linh hoạt ùa về. Những bí mật riêng tư chảy ào ào như sông mùa lũ... từng việc, từng việc tụ lại rồi tóa ra, nhảy nhót. Bà mỉm cười. Trí não bà bừng thức, minh mẫn, khẽ khàng giở trang sách cuộc đời sống động từ thời son trẻ...
Giờ thì bà mong mình mau khỏe quá. Tâm can bà sáng ra. Bà không thể ở mãi nơi đây, phải về Mường Vang xem anh Khiển có trở về dải đất mang hình con chim công ấy không? Hay là anh cũng bị mảnh đạn, mảnh bom chém vào người như bà. Gia đình bạn toồng Ngần vất vả cưu mang hai đứa bé con ấy thế nào rồi? Bà trôi trong hoang hoải ngần ấy năm, đủ dài cho tóc phơ phất bông lau, đủ lâu để tụi trẻ con lớn lên thành một thế hệ tiếp nối. Có lẽ chúng lớn hơn con Hồng. Lúc này, bà giống như cái cây ít nhựa cỗi cằn, biết lúc nào đủ sức để về đây? Không, bà cố ăn uống, lấy lại sức vóc. Bà còn phải về để hai đứa gái con chị Hái nhận họ hàng. Thằng bố nó là lão Khùng đấy. Ơ, mà lỡ đâu lão Khùng không nhận hai đứa con rơi vãi thì sao? Chả biết thế nào. Thôi lúc ấy hẵng hay. Trời đã định số phận cho con người rồi.
Phải chi thằng Hợp nó tỉnh lại thì tốt biết mấy. Thằng bé có bảy vía lành thì đi chơi sáu vía, còn một vía trên người nó níu giữ và chăm chút phần hồn hồi sinh. Giờ thì bà bồi hồi nhớ ra, gương mặt nó xanh xao, nhưng hiển hiện nét đẹp phong trần, cương nghị, rắn rỏi của người xã đội trưởng Phái, không thể trộn lẫn. Thằng bé này là giọt máu của bạn toồng. Úi dá! Bụng bà vui như có ngàn con ong vỗ cánh, vạn con chim hót. Thảo nào mười bốn năm qua, dù nếp nghĩ bà trắng như tờ giấy, nhưng "ông phạ" đã đề tâm, sếp nếp cho bà yêu thương Hợp như máu thịt. Bây giờ, nhớ ra nó là con của bạn thân, bà để nó ở đây, một mình về quê thì có tội lớn. Bà tiếp tục chăm nó, mong nó lúc nào đó sẽ trở lại thằng người biết khóc, biết cười...
Từ trên khóe mắt bà rịn ra giọt nước nóng hổi. Mằn mặn. Xót đắng.
Đang nhẹ nhàng xoa bóp chân tay bằng gừng nóng cho bà, y tá Hồng chợt cuống quít:
- U...u nghĩ gì mà khóc? Có phải do con nắn bóp tay u đau?
Đôi môi khô héo, già nua của bà nở nụ cười:
- Hồng à, u sống lại rồi! U nhớ ra u là ai...
Hồng lặng người vì ngạc nhiên. Như một đứa trẻ còn tuổi bồng bột, Hồng vỗ tay đôm đốp, mừng rỡ reo: - Hoan hô u. Chúc mừng u!
Nắng tràn chảy đầy sân. Những giọt nắng lách qua tán nhãn, lọt qua khe lá, nhảy nhót trên cửa sổ như muôn vàn đóa hoa trong vắt. Nắng reo vang, chạy theo nụ cười lấp lánh của Hồng.
Trái tim bà Xa dưng dưng xúc cảm...
Chương 19
Ngược Gió Và Đêm Bí Ẩn
Không hẹn với người bản nhưng vào độ cuối thu là nắng chảy vàng thung cao, thung thấp, nắng bươn bả vẽ những chùm tia vàng, lia ngang mặt sông Nậm Khao. Gió heo may se se lật thổi. Bầy chim sẻ núi, đa đa, bạc má, nộc chao, nộc phầy tung hứng vỗ cánh ngân nga tiếng hót...là lúc rừng mác cọt dậy hương thơm của mùa quả chín.
Vẫn biết, năm nào cũng thế, vào thời điểm này dân bản nô nức rủ nhau lên rừng thu hoạch mác cọt, nhưng Ri không nén nổi cảm xúc hồi hộp, rưng rưng, chờ đón.
Bây giờ, người dân không hái quả mác cọt theo nếp cũ, gia đình nào hái nhiều, hưởng nhiều nữa. Rừng do thiên nhiên ban tặng làm của chung, được qui hoạch vào "Dự án hoa quả đặc sản". Mùa trẩy quả, các gia đình trong vùng tập trung thu hái, xếp đầy thạ lớn, thạ bé, đưa lên ô tô chuyên trở đi các nơi. Tiền thu hoạch từ mác cọt để lại một số ít làm quĩ khuyến học cho con em các mường, còn lại chia đều theo hộ gia đình.
Theo xã thông báo, mùa mác cọt năm nay, Công ty nông sản sẽ thu mua mác cọt. Làm ăn lớn lắm. Phân loại quả bằng giây chuyền. Đóng gói cung cấp thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Đây là phần kết trong "Dự án hoa quả đặc sản".
Dự án ấy là do thằng Thành, con Ri tâm huyết theo đuổi từ hồi mới vào học Trường đại học kinh tế quốc dân. Xuống trường nhập học gần năm là nó háo hức hì hụi làm Dự án trên giấy. Thằng bé khôn thế, nó biết kết hợp cùng Huyện đoàn Pó Liểng hoàn thành Dự án. Dịp nghỉ hè, thằng Thành và tụi trẻ mặc áo xanh tình nguyện leo núi, vào rừng đo đo, vẽ vẽ từ sáng sớm tinh sương, đến tối mịt. Cán bộ Huyện đoàn Pó Liểng gặp lãnh đạo huyện. Sau khi nghiên cứu gần ba chục trang giấy đánh máy và hình vẽ của "Dự án hoa quả đặc sản", lãnh đạo huyện hởi hả, ủng hộ, tạo điều kiện triển khai kế hoạch Dự án. Ầy! Đài báo Trung ương từ Hà Nội lên viết bài, đưa tin rầm rộ. Mát mặt quá.
Thằng Thành con Ri giống như cánh chim đủ lớn, giang cánh bay. Nó vừa tốt nghiệp đại học, về làm việc ở Phòng kinh tế của Ủy ban nhân dân huyện. Cái thằng giống cha nó như rập khuôn. Đôi mắt to sáng thông minh, cái miệng hơi trễ ra như cười. Mỗi khi nhìn vào mắt nó, chị ngỡ như thấy bóng dáng anh. Chị ao ước, giá như anh biết thằng con trưởng thành...
Mấy năm nay, đường to mở đến cửa rừng mác cọt, lên trên Chùa hang Ngưởm Nải, lượn vòng tới thác Lỉn. Các bản Nộc Nhùng, Nộc Đẻng, Nộc Tháy, Nà Mây, Nà Lảy... ôtô đi lại đông như lũ muồm muỗm nhảy ruộng tốt. Tụi xe tải thu mua mác cọt kìn kìn đậu hàng dài ở cửa rừng. Vui quá đi. Chả phải vất vả mà được chia lợi nhuận nhiều. Nhà nhà phấn khởi. Người già cười hể hả nhìn nồi cơm đầy. Trẻ con cái mặt tròn căng tung tăng.
Có đường to, đi lại thuận lợi, ngày lễ, ngày tết người lạ từ đẩu đâu cũng biết lối lên trên Chùa hang Ngườm Nải thắp hương, cúng giải hạn... lũ lượt kéo nhau ra thác Lỉn ngắm nước rơi từ mường trời xuống. Nghe nói có người còn leo tít lên trên núi Phja Bjooc, xuýt xoa: "Cảnh đẹp như động tiên".
Tiếng tăm về núi rừng hùng vĩ, hang động đẹp mê li, hoa thơm, quả ngọt... theo gió chạy xa. Dạo này liên tục từng đoàn người nước ngoài cao lớn, nói tiếng như chim líu lo, đến du lịch nườm nượp.
Cái Tết "thôi trâu" tháng Sáu vừa qua, cả nhà tề tựu đông đủ, chị nghe em Rinh và thằng Thành, hai dì cháu bàn luận sôi nổi về chuyện sang năm mới, vùng này qui hoạch, mở mang, phát triển thành điểm du lịch sinh thái mang tầm cỡ quốc gia. Thế thì người dân sẽ mở mang kinh tế nhiều. Nhớ cách đây mấy năm cô Dần đã nói với chị việc du lịch này rồi. Giờ sắp trở thành hiện thực, không viển vông xa vời nữa. Thằng Thành bảo, lúc ấy nhà mình liên kết làm du lịch cộng đồng, chị tha hồ bán chè thanh nhiệt và bốc thuốc. Ối giời, việc nhà, việc xã hội nó vẽ ra sao mà vui thế.
Ngẫm ra, chuyện gia đình Ri có nhiều sự buồn cười. Là nghĩ ra rồi tự khắc cười thích thú thôi. Chồng của em Rinh là thằng Sần đấy thôi. Hình như duyên phận của thằng Sần phải làm người dòng họ nhà chị. Chuyện một thời xa lắc thằng Sần nó say mê, tí nữa làm hại đời con gái của chị chỉ có anh Hợp, nó và chị biết. Anh Hợp đi xa thì không ai nói ra. Thằng Sần mặt trơ, tơ tưởng chị không được, nó cố theo đuổi hỏi lấy em Rinh làm vợ. Chị cạy răng không hé ra chuyện cũ. Biết đâu thằng Sần cùn lên, đổ vấy cho chị muốn phá hoại hạnh phúc của em Rinh đặt bịa chuyện, như thế thì mé đau lòng lắm.
Chị nuốt cay đắng trôi xuống bụng. Muốn can ngăn em Rinh đừng lấy thằng Sần nhưng không biết mở lời thế nào. Thôi, âu cũng do số phận. Mong cho em hạnh phúc để mé đỡ buồn đau. Chôn chặt ký ức để làm chị vợ đúng mực. Thư thoảng nghĩ chuyện cũ, chị không tránh được đôi chút muộn phiền.
Thật may bây giờ gia đình em Rinh giàu có. Thằng em rể Sần làm lãnh đạo thành phố dưới tỉnh. Em Rinh làm Phó giám đốc Sở Tài chính tỉnh. Hai vợ chồng nó mặc hệt người phố, chẳng còn tí nào là dân Tày. Thư thoảng về quê đi bằng xe ô tô đen nhoáng. Nhiều lần, em Rinh năn nỉ, chèo kéo chị cùng mé xuống nhà nó chơi. Mé ậm ừ trì hoãn năm này, năm khác. Chị không muốn đi, lấy lý do bốc thuốc cho người bệnh phải ở nhà.
Năm ngoái, em Rinh đón mé xuống nhà chơi mấy ngày. Mé đi về kể chuyện, nhà em Rinh bốn tầng to bằng hai chục cái nhà sàn đứng cạnh nhau, cả ngày đi cũng không hết các phòng. Đi mãi vẫn nhầm lối, chưa kể ra ngoài sân có bể bơi, vườn hoa, cây cảnh, cây ăn quả... khiếp, sao mà rộng đến thế. Nhà thì ít người, có hai vợ chồng với đứa con gái mà rõ rộng. Mà sao nó lạ thế chứ, sinh đẻ mỗi mình con Thảo rồi thôi. Nó không lo thằng chồng buồn a? Chịu, chị không biết được.
Có lần Ri hỏi, nó cười phá lên, ghé tai chị thầm thì:
- Cái thằng chồng em được mẽ ngoài thôi, nó hỏng hẳn rồi chị ạ! Rượu chè cho lắm vào!
Chả biết cái Rinh nói thật hay đùa nữa. Bệnh ấy của đàn ông chữa dễ, uống vài ấm lá kết hợp ngâm rượu rễ cây, tối uống một chén là khỏe. Nếu cần, bắt vài đôi chim sẻ núi, cắt tiết hòa vào chén rượu rễ cây thuốc, uống vào mạnh mẽ như thanh niên. Bệnh này chị chữa cho nhiều người rồi. Ri ốp tay lên vai em gái, thủ thỉ:
- Chị bốc thuốc cho nó nha. Chuyện này dễ mà!
Không ngờ em Rinh xua xua tay, giãy nảy:
- Không, không! Chị đừng "nối sừng cho dê"! Hắn ấy tịt em mừng lắm.
- Ơ, sao mày lạ thế Rinh?
Khẽ chép miệng, Rinh lắc đầu: - Ôi giời! Chả thích. Em sợ đẻ lắm!– Mắt Rinh có vệt màu sẫm loáng qua: - Em cũng chả thiết. Bà mẹ hắn á, như thể rắn chúa ấy. Gớm lắm! Nhiều lần xui hắn bỏ em...lấy vợ khác.
- Mỗi người mỗi cảnh. Miễn sao thằng Sần nó yêu thương vợ con.
Rinh thở dốc một cái, giọng thâm trầm:
- Hắn á, có sợ em một phép. Đố dám!- Rinh bật cười giòn tan, vẻ mặt bỗng trở nên nghiêm trọng: - Hắn không phải là con đẻ của bố chồng em.
Ri ngớ người ra: - Mày đừng liên thiên. Cái mồm cứ hay đùa.
Rinh ngước mắt lên nhìn thẳng vào Ri, nói sắc lạnh: - Em không đùa đâu. Nhà ấy phức tạp lắm.
Lúc này thì Ri ngây người ra. Miệng cứng đơ không thốt nên lời.
Thảo nào, mé xuống chơi một lần rồi không bao giờ đi nữa. Vợ chồng em Rinh gạn hỏi, mé bảo xuống phố biết nhà con rể, con gái thế là mé mừng. Cái chân mé không muốn xa bản. Mé nói thế thôi, Ri biết mé thương chị, không muốn chị buồn. Và, có lần mé than phiền, bà thông gia Khúi, tính khí đỏng đảnh, cái mắt khinh người, nếp nghĩ như nước đục. Bà ấy lo mé xuống mang của nả nhà con rể về nhà mình. Lo mé xui con gái làm chuyện không hay. Thôi, tránh đi thì hơn, đến chơi một lần đủ rồi. Mé không muốn thông gia nghĩ sai về mình.
Mé năm nay tóc trắng rừng lau. Chân bước chậm, không đi được nhanh nữa. Từ hôm hai chiếc vòng vía của anh Hợp thư thoảng phát sáng, mé bảo với chị: "Thằng Hợp nó sẽ về". Nói xong mé ra bậc cầu thang, nhìn về phía cuối con đường...
Mé mong mỏi ngóng bước chân anh đã hơn một năm rồi. Lưng mé như còng xuống, mê mải ngó đăm đăm về nơi xa. Mé vẫn thường nói, mé nghe thấy tiếng anh gọi mé, rất gần, rất rõ... Năm ngoái tiếng gọi của anh nhỏ mà yếu lắm, giờ thì nó ấm áp vang xa. Rõ ràng anh đang ở đâu đó thôi. Linh tính mé không nhầm đâu.
Chị chợt thở hắt ra cho bụng đỡ nặng trĩu.
Từ ngày giấy báo tử anh về. Chị sợ nhiều lắm, sợ cả ngôi nhà sàn của mình. Sợ nghe tiếng tụi sóc gọi nhau những sáng đẫm sương. Trong bóng tối, tụi ngựa trong chuồng gõ móng làm tâm can chị vò nát. Chị hoảng hốt khi ngày ngày mắt chạm vào tấm phản giữa nhà, nơi anh thường nằm trước lúc nhập ngũ. Chị gồng mình gắng gỏi để không làm mé buồn lo. Đêm, đêm nước mắt chị lặng thầm rơi xuống gối. Chị tự nhủ không để lộ cái buồn, mé và thằng con sẽ buồn tủi khi nhìn nước mắt chị rơi. Nhà sẽ thiếu tiếng cười. Như vậy chị có tội với anh, với cả ông bà đã khuất...
Liệu anh còn sống mà trở về không? Chẳng lẽ có sự nhầm lẫn trong giấy báo tin anh hy sinh hay sao? Chiếc vòng chị đeo trên cổ, dạo này như có lửa chiếu sáng. Ban ngày mờ ảo, nhưng tới lúc trời trùm chăn lên rừng là luồng sáng rực lên. Chị không hiểu chuyện gì nữa? Có phải hồn anh nhập vào? Chị không sợ mà cảm thấy hạnh phúc. Thế là anh lúc nào cũng ở bên chị với mé rồi. Một điều hiển hiện, dạo này nhà chị có nhiều chuyện hay lắm. Tụi sóc ngày nào cũng nô đùa ầm ầm. Chúng chạy cuổng lên từ sàn nhà, đuổi nhau xuống cuối con đường đá, lội ào ào, nhảy nhót, vẫy vùng bơi trong dòng nước Nậm Khao. Cuối buổi vui chơi, con sóc đầu đàn lông trắng muốt thường ngắt một nhành hoa mạy mác, dựa vào chân cột nhà chôn núm nhau của anh. Mé vui lắm, tiếng cười của mé không khàn khàn đùng đục, mà trong vắt tựa như mé trẻ lại chục tuổi.
Chị háo hức chờ đợi điều diệu kỳ...
Thời tiết hôm nay giống như bàn tay đang xòe lòng ra, nhìn vạch ngang, vạch dọc, đếm đốt trên ngón. Đột nhiên, chẳng cơn cớ gì lật úp sấp, dòm móng tay nhuộm màu nhựa cây. Rõ ràng sáng sớm giữa mùa đông giá buốt ngồi so ro sưởi lửa. Tụi trẻ con xuống lớp rước chữ vào người, không quên cầm theo ống than bốc khói xua lạnh. Vậy mà non trưa nắng bừng lên, vãi nóng xuống núi rừng. Đang tiết đông sao có chuyện lạ đời vậy? Bừng bừng nóng. Áo xống không bọc lớp trong, lớp ngoài trên người. Lâu rồi mới nắng, người bản tranh thủ mang chăn, màn, ngô, đỗ... ra phơi. Lũ trâu ngựa ào xuống sông thỏa thuê đằm nước.
Người già Mường Vang nếp nghĩ dài, bụng có lửa cháy, lẩm bẩm lo lắng không biết chuyện gì mà "ông phạ" xoay trái mùa. Nắng vàng nhưng nhức. Gió phả hơi nóng bức bối như mùa hè. Nóng trôi từ giữa trưa về tối. Hầm hập. Bừng bừng. Ong ong, oi ả.
Nắng cả ngày rồi cũng phải theo mặt trời lững thững chúi xuống núi. Bóng tối sập xuống. Lạ chưa kìa, núi Phja Bjooc nuốt nắng ngày căng bụng, chờ tối xẩm nhả ra hào quang muôn màu, phả lên nền trời quầng sáng kỳ ảo. Triệu, triệu những ngôi sao xanh chi chít, nhấp nhánh, dắt díu nhau kết thành dòng sông Ngân lấp lánh, mềm mại chảy xuống núi Phja Bjooc, trôi trên ngọn mác cọt, tung bụi sáng pha sương xuống bản mường. Đùng đục sáng. Lễnh loãng hạt sương tơ vàng nhẩn nhang xoay tròn, trôi ngang trong gió nóng ngột ngạt. Núi và trời rừng rực sáng. Trưởng tộc các dòng họ Nông, họ Ma, họ Đào... cùng cao niên, lão bản chưa thấy hiện tượng lạ thế này.
Nhiều người bản ăn tối qua quít, hò nhau nhìn sự lạ mắt. Đột nhiên mặt đất, nhà sàn rung rung đưa võng. Một tiếng nổ to đinh tai, nhức óc như mấy ngọn núi cùng sập. Nấm lửa khổng lồ, chói lòa tựa ngàn ngàn ngọn đuốc chập lại, bung ra từ dòng sông Ngân, thè hàng trăm cái lưỡi liếm sương và mây rồi bổ phập xuống phía bản Nộc Chao, vãi tãi mùi khét lẹt khắp xa, gần làm người dân tức con mũi, cay cái mắt.
Khoảnh khắc ấy diễn ra nhanh như thể nhát dao sắc phạt ngang cây nứa ngộ đổ gục.
Người Mường Vang chưa hết bàng hoàng, bỗng nhiên trời không sấm chớp mà mưa rầm rầm xối xuống như thác lũ. Trong mưa có những tiếng ùng ục như đá lăn, đất lở. Mưa ào ạt khoảng mấy canh giờ thì ngừng bặt như vừa trải qua giấc mơ.
Tang tảng sáng. Sương mù chăng màn, mắc võng. Gió bấc hú hét kéo lạnh ập về. Bầu trời mang màu nước đỗ xanh đùng đục. Người trong vùng xôn xao, thấp thỏm ùa về Nộc Chao.
Cảnh tượng kinh hoàng, kỳ dị không tin nổi. Căn nhà sàn năm gian vững chãi làm bằng gỗ lim to nhất bản Nộc Chao của nhà Chủ tịch Khùng, nằm trên sườn đồi cây trái xum xuê, mặt ngó xuống sông Nậm Khao mất dạng. Mọi thứ đều thành nước. Ông Khùng và bà vợ dở người, đồ vật cùng lợn, gà, ngựa...không còn hình hài. Tất cả hóa thành một vực nước hình con rắn sâu hoắm, đen xì. Từ miệng con rắn đen sủi trào bọt than nóng rừng rực. Nước trong vực xoáy quẩn nhiều vòng trong bờ đá xám, rồi len lén mang màu tro bếp, nhỏ như cành cây còi cọc, thoát thân men theo bờ trái của sông Nậm Khao, nhỏ dần, nhỏ dần rồi mất hút giữa lau sậy.
Mọi người đều sợ hãi, ngó trân trân vào vực nước và hõm đá khổng lồ mà nôn nao chóng mặt. Ai cũng lặng lẽ khẽ cúi đầu như tiễn đưa những vong hồn và chép miệng về sự lạ ma quoái. Một cái chết không đám đưa tang. Không thầy tào cúng gọi hồn, rước vía. Không nhà táng, cờ xí, giấy bản đắp mặt...không cả tiếng khóc ời ời tiếc thương. Chỉ tiếng sôi réo ùng ục của nước xoáy phả hơi nóng và dòng nước bé tí xám ngắt thoát xác.
Người ta đồn thổi chuyện hãi hùng nhanh lắm. Mỗi người thêm thắt chuyện một chút cho thêm ly kỳ. Nhưng, hầu như ai cũng nói i xì giống nhau về chi tiết, nhà ông Khùng tiền chất đầy gác mái. Vàng, bạc nhiều mấy chục gánh. Vợ chồng không có con mà chết khổ, chết sở là do "ông phạ" sai các thần trừng phạt thiêu sống. Chết chung cùng vật nuôi, tan xác thành vực nước đen xì, cáu bẩn không còn tí da thịt để làm mộ đá. Vì sao bị thế ư? Là do lão Khùng ấy, trước như ông "thánh" vùng này. Cái chân chấm phảy đi đến đâu cũng có đám người xu nịnh bu quanh. Vài ba mụ nạ dòng ham tiền xúm lấy lão như là của báu. Hôm lão Khùng dẫn lũ người "quặng tặc" lên núi Phja Khao đào quặng quí, xăng xái thục thuổng vào núi. Lúc ấy rõ ràng núi rùng mình, bật ra những viên đá đỏ rừng rực lăn mãi xuống rừng mác cọt khiến cây ngã rào rào. Lão là Chủ tịch xã mà bất nhân, đâm thuổng vào mắt núi, đốn ngã rừng cây mác cọt. Các thần nổi giận.
Chuyện cứ thế loang ra như cỏ mọc trời mưa. Mỗi năm lại thêm tình tiết rùng rợn. Vực nước ấy ban đêm hú hét tiếng người kêu gào, ngựa phi nước đại cất tiếng hí thảm thiết, lại như có tụi chó sủa điên dại vào những sáng đặc sương, khắc khoải tiếng gà gáy...
Tấm thảm kịch kinh hoàng đồn đại đi rất xa và rất rộng. Tuy nhiên chuyện lão Khùng có con gái, có cháu ngoại thì mãi kín như rễ cây cắm trong núi. Người trong cuộc không ai nói ra. Dù sao thì lão cũng không còn làm kiếp người. Lão đã đi đến một cõi rất xa, mang theo những bí mật...
Tháng Mười. Từ trên nương xuống các thửa ruộng bậc thang trơ gốc rạ. Tụi chim cu cườm nhẩn nha sà xuống nhặt thóc vãi, thóc còi từ những bông lúa lơ phơ sót lại. Khắp nẻo đường từ Mường Vang, lên bản Nộc Nhùng trải vàng rơm. Đó đây, tụi trẻ con lăn ra rơm rạ hong nắng, quấn quít chơi trò đuổi bắt, trồng cây chuối... mặt đứa nào cũng tươi hơn hớn, đầu vương rơm vàng.
Từ sáng thắp hương trên ban thờ xong, đến bây giờ non trưa, bà Ngần không làm nổi việc gì. Bụng bà tựa chảo mỡ đang sôi. Chân bà quính quáng lúc ra sàn phơi, khi lại đi vào bếp dòm bếp lửa ngun ngún, chiếc nồi đồng bốc hơi nghi ngút, tỏa mùi mật của nước làm bánh "fóng fù".
Như thói quen không thể bỏ, mắt bà hóng mãi xuống con đường. Cứ chờ trong hy vọng thôi. Biết đâu...thằng con về. Vây quanh bà, tụi sóc chạy nhảy lâng câng, trêu chọc nhau chí chóe. Con nọ ngậm tai con kia chán lại túm đuôi nhau chơi trò leo cây, nom đến buồn cười. Quanh nhà, tụi chim "nộc ho" hót vóng vót gọi niềm vui.
Hôm nay ngày giỗ ông Phái, chồng bà. Bà không rõ ngày ông hy sinh. Bà lấy ngày nhận giấy báo tử làm ngày giỗ. Ngày ấy trùng với cái Tết ăn cơm gạo mới "Mùng mười tháng mười". Mùi hương trầm từ trên ban thờ tỏa ra ngào ngạt. Trên di ảnh, mắt ông tỏa nắng ấm, môi ông mỉm cười...Khói hương vấn vít kết thành những bông hoa chụm lại, tản ra giữa rực rỡ ánh vàng tươi tắn, phát sáng từ chuỗi hạt vía của Hợp.
Chẳng hiểu sao mà bà bồn chồn thế chứ?
Vợ chồng con Rinh cùng con gái nó về nhà từ chiều qua. Đêm qua chúng nó chợp mắt ngắn lắm. Có lẽ mới canh ba đã lục đục thức dậy, hối hả đồ xôi, giã bánh dầy rộn vang. Vừa làm, chúng nó vừa thao thao kể chuyện như mưa rào.
Trời chưa sáng rõ, tụi sương rắc giá rét căm căm. Thằng chồng con Rinh nổ máy ô tô, đưa gia đình nó cùng mẹ con cái Ri và thằng Thành, mang mâm bánh dày lên Chùa hang Ngườm Nải thắp hương. Ngày tết cơm mới phải đi sớm. Nắng tỏa rộng thì đường lên chùa người đông không len chân nổi. Có lẽ tụi chúng nó còn kéo nhau ra thác Lỉn thả lộc cúng, múc nước thiêng nên về muộn.
Bà vừa lẩm bẩm nhắc, đã thấy chiếc xe ô tô đen nhoáng, thở hơi xình xình quành vào cổng đá, đỗ dưới gốc mận. Từ trong bụng xe, lũ con cháu bà lốc thốc chui ra. Mấy con sóc nhanh chân bu đến. Con sóc đầu đàn khôn thế, nó nhảy phốc lên vai thằng Thành, vòng chiếc đuôi dài quấn cổ cháu bà như chiếc khăn bông phau phau trắng.
Thằng Thành oai oái kêu:
- Con nỡm này, khéo mày làm đổ nước thiêng cúng ông nội bây giờ.
Con cái Thảo, cháu ngoại bà lớn phổng thành thiếu nữ. Nó cười thật tươi, khoe má lúm đồng tiền giống mé nó, hai tay níu hai con sóc, quay tròn tựa như chong chóng.
Mắt bà Ngần ngời sáng nhìn hút về phía xa.
Trên con đường bồng bềnh rạ rơm, hanh hao nắng, hai chiếc xe uoát màu lá cây vang rền động cơ, ngược gió, từ từ vượt dốc. Dọc con đường, hoa mạy mác khi thì biêng biếc tím, lúc lại rừng rực đỏ tươi, dưới nắng tơ vàng của mùa đông ngợp gió bấc.
Lũ sóc bông không nấp vào hốc đá, gốc cây như mọi ngày thấy sự lạ. Chúng kéo nhau, con chạy dưới đất, con đu vít chuyền cành về phía hai chiếc xe ôtô. Tụi sóc mấy chục con nối đuôi nhau như một thảm bông trắng di động đang trôi dốc. Chúng kêu váng "Cho ốc...choốc...chốc..." như bản hòa âm vang dội, loang khắp mặt sông Nậm Khao, vấn vít xôn xao lá trên những vòm xanh.

Bà Ngần ngồi thụp xuống, nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt đồi mồi nhiều nếp nhăn. Ri chạy ào ào ra ngõ, đứng dựa vào tường rào đá. Trước mắt Ri, tụi sóc xốn xang la hét, nhảy múa vũ điệu hoang dã xung quanh đoàn người mặc quân phục xanh, đẩy xe lăn ngược chiều gió thổi, giữa con đường vàng rơm, vàng nắng và ăm ắp mây bay...
Thái Nguyên, 4/3/2017
Bùi Thị Như Lan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXNgã tư hoàng hôn 2

Ngã tư hoàng hôn 2 Chương 12 Mỗi lần ông Tuân đổi chức vụ - đúng hơn là đổi địa vị - nhà ông lại tăng nhịp khách khứa viếng thăm. Tất nh...