Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024
Giữa đêm trường
Một
Tôi đọc bài Tạp ghi của Ký Giả Lô Răng, Bạn tù Sơn La. Cảm động
và buồn không chịu được Vì tôi cũng từng là người tù, từng chứng kiến những cảnh
đầy đọa như thế, từng ăn đói mặc rách, từng đi đào trộm khoai sắn, biết chia
nhau với bạn tù một con rết núi nướng, mơ ước một miếng cơm cháy ăn cho thơm miệng,
và điếu thuốc lào đỡ vã. Điều ấy tôi đã viết chưa nhỉ? Tôi viết rồi. Thành
nguyên một cuốn truyện dài kia. Tôi tin rằng không bị lỗi thời. Không gây hận
thù để tuyên truyền cho một thời điểm hay giai đoạn nào đó. Tôi nghĩ đến cái
lâu dài của con người với con người. Trong Bạn tù Sơn La, Ký giả Lô Răng có nhắc
đến thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo). Cũng
là một người tù. Tôi chưa từng biết vị này. Nhưng chùa mà ngài có thời gian trụ
trì tôi biết, chùa Viên Giác trong ấp Đông Ba Gia Định xưa, nghĩa là rất gần với
nhà tôi bây giờ. Nhắc đến nhà sư này, tôi không thể không nhớ đến bạn tôi, Lý
Phật Sơn, Trần Kỳ Hùng, Trần Quang Bạch, đã khuất bóng, tôi đã viết trước đây,
trong Hồi Ký Viết Trên Gác Bút. Anh đã ở trong ngôi chùa đó sau ngày 30-4-75,
khi thầy trụ trì đi học tập cải tạo ngoài Bắc Việt Nam.
Chuyến chở hàng lậu ấy của tôi trót lọt về đến Xóm Mới. Nhà
chủ banh những cuộn keo ra, cắt cắt dán dán, vô khuôn hấp mớ hàng lúc năm giờ
sáng. Lái buôn vỏ xe đã trực sẵn đầy nhà chờ lấy hàng. Tôi mệt quá vì mất gần một
đêm không ngủ nghỉ, lại đau nhức cả một bên bả vai, vì cái ngã hồi đêm. Tôi lảo
đảo ra đầu xóm ăn bát cháo lòng, đánh hết hai bát tiết canh mới thấy người khỏe
ra. Tôi còn cần một ly cà phê, điếu thuốc nữa mới đủ đô, phục hồi sức khỏe. Tôi
có tí tiền trong túi đủ nghỉ ngơi nguyên ngày. Chẳng làm giầu làm có gì nên tôi
không tranh cướp vỏ xe đi bỏ mối. Dù tôi có lấy cũng được coi là ưu tiên số một.
Tôi mệt mỏi quá rồi, đúng với nghĩa của nó. Tôi đạp xe ra cuối Xóm Mới, quán cà
phê sát mé sông mở sớm. Ly cà phê nóng hôi hổi và thơm tho làm sao, tôi tự thường
cho mình điếu thuốc có cán thơm râu, hưởng lấy không khí trong lành buổi sớm
mai. Nhìn ra mặt sông xem những thuyền câu xuôi ngược hoặc đang giăng lưới. Tôi
thường nghe người ta đồn rằng, trên bến sông này nhiều thuyền câu "giả dạng
thường dân" làm taxi đưa người Xóm Mới ra "cá lớn" đậu ngoài biển,
hoặc ếm gà ở Cần Giờ, đủ "quân số" ra biển, bỏ quê hương mà đi, kiếm
ăn xứ người, nếu may mắn thoát chết, không chui vào bụng cá thì gửi "thùng
" về cứu giúp gia đình còn kẹt lại trên quê hương. Chính tôi cũng mang
trong lòng giấc mơ đen tối ấy. Những mong mình chính là những con người đó. Được
tốt lành hay bất hạnh gửi số mệnh cho ông Trời định đoạt. Những phút giây mơ mộng
đã giúp tôi sống, dù là lây lất qua những chuyến đổ hàng lậu thập tử nhất sinh
như đêm qua. Một tiếng nói sau lưng làm tôi giật mình.
Quán rượu Mười Hai Bến Nước ở đường Trương Minh Giảng, bạn
tôi, nhà văn Dương Hùng Cường ngồi ngất ngưởng ly rượu thuốc khề khà chuyện trời
đất. Anh đã "đút bóng " trong nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu, tức Chi Lăng
xưa. ở góc đường Ngô Quyền, Vĩnh Viễn miệt Chợ Lớn kia, nhà văn Lê Xuyên đã ngồi
bán thuốc lá lẻ suốt hai mươi năm trời. Người ta đã quên anh, nhưng cũng có người
chưa quên anh.
Gặp Sao Biển ở đó, tôi hỏi:
Vẫn là những người quen biết nằm xuống. Tôi biết tin thi sĩ
Bùi Giáng mất qua một mẩu tin ngắn trên báo. Dù là tin ngắn mà khá cảm động.
Bài báo nói sơ qua thân thế của Bùi Giáng, ông thọ 73 buổi, tuổi Đinh Dần. Người
Sài Gòn ai cũng biết ông: ông điên, cái điên của ông có nhiều dạng, như thật,
như giả, như cuồng chữ. Như tác giả bài báo đã nói. Ai cũng nói thế, chung
chung là ông điên. Ông điên một mình, chẳng hại đến ai cả. Vì ông có thời gian
để điên, để rong chơi với cái điên, cái tâm thần bất ổn của mình, có lần ông đã
nói với tôi như vậy. Lần cuối cùng tôi gặp ông, không lâu lắm, thấy ông ngồi giữa
đường Lê Quang Định thuộc quận Bình Thạnh (tỉnh Gia Định xưa). Phía trước ngõ
vào chùa Già Lam, áng chừng ông tạm trú nơi đó. Ông vốn là người từ xưa đến giờ
chưa biết đến tờ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân là gì ông là người vô sản
chân chính, chẳng thèm bon chen với đời. Điều không ai có thể chối cãi được ông
là người trí thức, trí thức hơn nhiều người trí thức khác, ông là người bằng cấp
đầy mình cũng được, không cũng chẳng sao. Ông đã từng dạy học, giáo sư Việt
văn, cấp trung học và dậy cả đại học. Đại học Vạn Hạnh, thuở thầy Thích Minh
Châu làm viện trưởng. Viết sách, dịch thuật làm thơ. Thuở đó đã lâu lắm rồi, hồi
nam 1952 ở Sài Gòn, tôi là học sinh trung học trường Kiến Thiết. Tôi là học trò
của thầy Bùi Giáng. Giờ Việt văn, thầy thản nhiên đọc thơ tình, thơ của thầy
Bài thơ nào đó ca tụng người vợ đã mất của thầy rồi thầy bỏ lên núi ít năm, núi
gì đó ở Quảng Nam, quê hương của thầy. Khi đó cuối cuộc chiến Việt Pháp, Việt
Nam giành Độc Lập. Tình hình thành Phố Sài Gòn sôi động, học sinh các trường đều
tham gia, biểu tình, phá rối. Nhiều thế lực chính trị lợi dụng lòng nhiệt tình
của tầng lớp trẻ. Có phá rối, chắc chắn là chính quyền cai trị thuở đó phải đàn
áp. Sân trường Kiến Thiết hỗn loạn vì cả trung đội Công An Xung Phong, đội mũ
bê rê xanh, Bình Xuyên, của tướng Bẩy Viễn xông vào đàn áp. Các lớp học không
thể học được, thầy giáo và học sinh nào không tham dự thì đứng trên hành lang
nhìn xuống. Máu tôi cũng sôi lên, tôi đứng cạnh thầy Bùi Giáng. Tôi hỏi thầy: -
Thầy nghĩ sao về bọn công an đàn áp học sinh? Thầy Bùi Giáng cười, đôi mắt hấp
háy sau cặp kính trắng: - Em muốn tôi cho em một lời khuyên phải làm gì hả? - Dạ
thưa thầy, đúng vậy. Thầy lại cười, nụ cười dễ chịu và lần này tôi nhìn thấy rõ
hơn trên trán thầy có một vết sẹo nhỏ, tóc cắt ca rê, rất ngắn: - Vậy thì thầy
chẳng có lời khuyên nào cả vì thầy đứng ngoài những chuyện này, thầy dạy học,
làm thơ và rong chơi bất cứ trong hoàn cảnh nào. Đúng thế, thuở đó tại trường
Kiến Thiết không thiếu gì các thầy đứng lên làm chính trị, không phe này cũng
phái kia, nhân danh lòng yêu nước. Học sinh là đối lượng chính của các thầy
dùng làm công cụ củng cố cho phe nhóm của mình. Truyền đơn truyền tay nhau rồi
học sinh đi thả, đi dán trên tường đường phố. Học sinh bị bắt bớ, bị đánh hộc
xì dầu, rồi bị bỏ tù. Bạn tôi, Trịnh Nhiên bị bắt bỏ tù trong tòa Bố Gia Định,
nằm đếm lịch tới mùa hè nhìn hoa phượng nở đỏ rực ngoài song cửa tù mà buồn.
Tôi nhớ mãi nụ cười hiền lành của thầy, đôi mắt kính trắng, vết sẹo trên trán
và mái tóc cắt ngắt. Năm 1954. Hiệp định Genève, đất nước chia đôi, cuộc di cư
ào ạt. Một số bạn bè tôi ở miền Nam tập kết ra Bắc học và làm cách mạng. Tôi ở
lại Sài Gòn và tiếp tục thấy thầy Bùi Giáng cho đến tận những ngày cuối cùng của
đời thầy. Thấy và nghe nhiều về thầy và chứng điên loạn của thầy. Tôi chẳng biết
nói thế nào về thầy cho đúng, mấy ai đã đủ tư cách nói về thi sĩ
"điên" Bùi Giáng. Nay thì trên đường phố Sài Gòn đã vắng bóng lang thang
của thi sĩ điên Bùi Giáng. Có phải là một mất mát không, ở một thành phố tự hào
có lịch sử 300 năm? Thi sĩ Bùi Giáng cũng là nhân vật của Sài Gòn đó, nói theo
lối nói chuyện của cố học giả Vương Hồng Sến. Một buổi chầu mùa thu ở Sài Gòn,
trời cũng khá đẹp mặc dầu báo đài có thông báo cơn áp thấp nhiệt đới như mọi
năm. Rồi tai ương đổ xuống. Nắng vàng ánh bạc trên kinh Nhiêu Lộc ở những căn
nhà bị giải tỏa nham nhở hai bên bờ. Tôi qua cầu Công Lý xưa, đến chùa Vĩnh
Nghiêm, xác của thi sĩ Bùi Giáng quàn ở Vãng Sinh Đường hay nhà Vĩnh Biệt cũng
vậy. Ngay trên cửa vào trẹo một tấm "băng đờ rôn " màu đỏ khá lớn, chữ
sơn trắng: Lễ truy điệu thi sĩ Bùi Giáng. Tôi vào nhà rạp. Quan tài thi sĩ Bùi
Giáng khá đẹp các sư đang tụng kinh. Khách khứa đến khá đông nhưng tôi thấy lạ
hoặc, hoặc tôi kém cỏi ít giao tiếp nên không biết đến các vị ấy, những thi văn
nghệ sĩ đương thời, những sao bắc đẩu núi thái sơn, họ lia chia ghi ghi chép
chép vào sổ lưu niệm. Tôi thấy cả những bài thơ khóc Bùi Giáng. Tôi tự thấy
mình chẳng là cái thá gì mà bon chen ghi sổ. Kìa có hai vị đang ca tụng nhau lời
lời châu ngọc. Tôi có điều suy nghĩ về chuyện này, về cả con người của Bùi
Giáng. Tấm hình thi sĩ phóng thật to, có nét tiên phong đạo cốt lẩm, nhưng gầy
guộc hom hem. Thơ ông đề bên dưới: Hỏi rằng ông ớ quê đâu Thưa rằng người ở rất
lâu quê nhà Bên trong, chỗ để quan tài, nơi các nhà sư đang tụng niệm, tôi thấy
có người mặc quần áo tang, nhưng tôi không rõ là bà con thế nào với thi sĩ Bùi
Giáng. Bên ngoài, tít tận trên cao có hàng chữ đề lớn, viết tháu, kiểu thư họa:
"Chúng rồi đã bỏ quên anh " Một thông báo khác bên cạnh nhắc nhở những
người anh em văn nghệ tối hôm ấy đến họp mặt, thơ văn tự do không giới hạn. Tôi
dắt xe đạp ra khỏi Vãng Sinh Đường chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi quên cả cắm nhang cho
ông, tôi cảm thấy lạc lõng. Trong cái xôn xao của buổi chiều Sài Gòn, tôi còn
như thấy bóng hình của thầy Bùi Giáng tưng tưng giữa đời. Trên người thầy đeo đủ
thứ quái dị, nhưng mỗi thứ là một biểu tượng đấy tôi suy ra thế. Người ta nói
thầy Bùi Giáng điên, thời thượng thì người ta nói thầy bị bệnh tâm thần, khi
điên khi tỉnh, khi thật khi giả. Người bình dân khố rách áo ôm, có dịp gần gũi
thầy thì bảo rằng thầy "khùng-điên-ba trợn". Cổ người nói thầy có bệnh
cuồng. Tôi đi theo dòng người, miên man nghĩ về thầy Ngày mai người ta mang xác
thấy đi chôn ở Gò Dưa Thủ Đức. Tôi không biết vị Mạnh Thường Quân nào bỏ tiền
ra làm đám ma cho thầy. Thời buổi này chết cũng mắc mỏ lắm. Hai mươi triệu đồng
Việt Nam cho một đám ma là chuyện thường. Tôi nghĩ hoài về câu thương tiếc
chúng tôi đã bô quên anh. Ai nói câu đó thế? Nói về những cơn điên loạn của thầy
Bùi Giáng thì nhiều lắm. Tôi nghe kể lại về thầy cũng có mà chứng kiến cũng có.
Tất cả đều trở thành giai thoại. Có thật và có giả, hay người đời thêm mắm thêm
muối ra cũng nên. Nhưng chẳng có giai thoại nào có hại cho thanh danh tư cách của
thầy, một người điên hòa nhập với đời sống mà lại là đứng ngoài cuộc đời, sống
với đời mà không dính dáng gì cả, bao nhiêu năm qua rồi mà như kẻ bàng quan.
Ông thi sĩ điên chứ không phải thằng điên. Không ai rõ thầy khùng liên từ bao
giờ. Những dấu hiệu cho thấy nhưng đôi khi vẫn bị coi là thầy giả vờ, để thi vị
hóa cuộc đời mình, mà có lời giải thích nào đâu. Ông thi sĩ Bùi Giáng vẫn rong
chơi, vẫn tưng tưng giữa đời bất cứ qua chế độ nào. Thi sĩ thì phải có cuộc đời
tình ái, người ta không biết, do chính thầy "làm" ra hay thầy thấy
sao nói vậy. Thuở tôi còn học thầy, tôi nghe thầy đọc bài thơ dài lê thê ca tụng
người vợ thầy đã khuất bóng, khi đó thầy còn rất trẻ. Một ngày vào những năm
1963, thi sĩ Viên Linh, bạn tôi nói rằng anh mới đèo xe đạp chở thi sĩ Bùi
Giáng đi thăm người tình. Cô ta là ai, Viên Linh không biết, nhưng có chở thầy
đến tận nhà cô ta ở Cống Bà Xếp, đường Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng
Tám). Thi sĩ Bùi Giáng rất trang trọng trong cuộc đi thăm này. Trước khi đi,
ông mặc gần một chục chiếc sơ mi chồng lên nhau, áo sạch giặt ủi đàng hoàng. Ra
khỏi cửa ông lột chiếc sơ mi đầu tiên ném xuống đường, hối Viên Linh đi, rồi lần
lượt ném gần hết áo, tới trước nhà người yêu ông cởi đến chiếc kế chót, còn lại
chiếc chót ông mới bước vào nhà người yêu. Một lúc sau ông trở ra hí hửng. Viên
Linh hỏi ông: - Sao ông mặc nhiều áo thế rồi cứ cởi ra vứt đi vậy? Tau phải làm
thế, đến với người yêu thì phải trong sạch từ tâm hồn đến thể xác. Những chiếc
áo bận đi đường bị nhuốm bụi hồng trần, tau đến với nàng phải là chiếc áo tinh
khiết nhất như tâm hồn tau vậy... Nhà văn Cung Tích Biền, người đồng hương với
Bùi Giáng kể rằng: Thầy Bùi Giáng được một trường trung học ở Mỹ Tho mời dạy.
Trong lớp học, thầy liên miên giảng truyện Kiều. Thầy say sưa giảng dạy, ca tụng
nàng Kiều, tự cảm động về số phận nàng, thầy đau xót, thầy bật khóc tu tu trước
mặt học trò, đến đỗi thày phải ra sân trường leo lên cây ngồi khóc cho hả cơn
thương xót. Rồi thầy bỏ trường đi biến. Hiệu trưởng, học trò nháo lên đi tìm thầy,
họ tìm thấy thầy ở Sài Gòn. Hỏi thầy sao bỏ dạy học? Thầy trả lời rất đơn giản
là thầy không dậy được vì khi giảng về nàng Kiều thầy xúc động quá, yêu nàng
quá, có thế thôi. Khoảng 1967-68, thuở thịnh thời của nhật báo Sống, do nhà văn
Chu Tử làm chủ nhiệm, độc giả rất thú vị và say mê mục Ao Thả Vịt của Chu Tử. Độc
giả cười nghiêng ngửa khi ATV loan tin rằng thi sĩ Bùi Giáng yêu say đắm kỳ nữ
Kim Cương. Ông yêu đến đỗi phải làm thơ gọi Kim Cương là Mẫu thân. Kỳ nữ Kim
Cương cũng phải chới với qua tình yêu mãnh liệt, kỳ quái của thi sĩ Bùi Giáng.
Khối tình đó bền bỉ trong Bùi Giáng, có lẽ đến lúc ông nằm xuống. Giã từ cuộc đời
rong chơi của ông. Một thời gian sau tôi thấy thầy Bùi Giáng ở đại học Vạn Hạnh
của Phật giáo. Tôi không nhớ thầy có dạy ở đó không, nhưng các thầy rất nể vì sở
học của Bùi Giáng. Thi sĩ Bùi Giáng có một phòng riêng tại viện đại học này. Thầy
chuyên ăn khoai lang luộc, những củ khoai mốc xanh mốc đỏ, và thầy có lý luận
riêng khi ăn những củ khoai lên men ấy. Cái áo của thầy có rất nhiều túi, mỗi
cái túi đựng một chó con, thầy chơi với chúng. Tối, nhiều khi thầy bỏ phòng
trong viện đại học ra sạp chợ nằm ngủ với bầy chó con. Thuở đó nhiều người nói
thầy điên rồi, kể cả những bài thơ của thầy cũng kỳ quái, dù rất có duyên, đầy ấp
chất Bùi Giáng, điên điên mà phóng khoáng. Khi đó Bùi Giáng làm rất nhiều thơ kể
cả dịch thơ của một số thi sĩ nước ngoài. Văn thì dịch Hoàng Tử Bé (Le petit
prince) của Saint Exupery. Ông in nhiều tập thơ. Nghe đâu tiền tài trợ in thơ
do bác sĩ Bùi Kiện Tín, vị bác sĩ nổi danh bào chế ra dầu gió Khuynh Diệp Bác
Sĩ Tín bán chạy trên toàn quốc. Ông bác sĩ này nghe đâu là anh họ của Bùi
Giáng. Sau năm 1975, Sài Gòn kẻ ở người đi, tôi là kẻ sót lại nên gặp lại thầy
Bùi Giáng. Thời gian này thầy có vẻ điên dữ. Trong khi đó Sài Gòn sau cơn biến
loạn có nhiều người điên, các dạng điên khác nhau. Bùi Giáng cũng điên, nhưng
là cái điên có phong cách riêng của thầy. Tôi muốn nói hình như cái điên của thầy
vẫn là nói lên một điều gì ẩn ức. Tất cả những cơn điên của thầy đều là những
biểu tượng, mang một ý nghĩa nào đó chỉ có mình thầy biết. Dân Sài Gòn cũ ùa ra
đường kiếm sống, quán cà phê, chợ trời mọc lên khắp nơi để tự cứu mình thuở gạo
châu củi quế". Sĩ quan, ngụy quân, ngụy quyền lên đường đi học tập cải tạo,
đời sống khó khăn cả vật chất lẫn linh thần. Người ta nói con người đang sống
lùi lại thời đồ đá ăn lông ở lỗ. Thi sĩ Bùi Giáng là dân thành phố, ông sống
lang thang và có vẻ điên hơn. Tôi cũng bắt chước mọi người khác kiếm sống, mở một
quán cà phê nhỏ ở lề đường, dưới một gốc cây nhìn ra hồ Con Rùa, phía trước Viện
Đại Học Sài Gòn. ở đây tôi gặp lại nhiều anh cai cũ, thăm hỏi nhau, ai còn ai mất,
ai đi ai ở. Tôi hỏi về Bùi Giáng, anh em nói ông vẫn còn đó. Vẫn sống như không
có chuyện gì xảy ra. Ông đang ở nhờ một ngôi chùa ở đường Lạc Long Quân. Để khỏi
làm phiền đến sư cụ trụ trì về vấn đề cư trú ông ra ngoài vườn chùa đào một cái
lỗ chui lọt người vào nằm. Ông nói ông đang ăn lông ở lỗ. Không biết chuyện ấy
có thật hay anh em nói chơi, nhưng tôi cứ ghi lại. Tôi quan tâm đến thầy, tôi
thấy chuyện có chất của Bùi Giáng, nên cũng không hỏi lại. Ban ngày Bùi Giáng
đi lang thang, ăn mặc rách rưới, làm trò cười cho mọi người để đỡ buồn. Một hôm
ông ghé qua quán tôi, gần trần như nhộng, tóc tai bù xù. Cặp kính trắng vẫn ngạo
nghễ trên mắt. Ông nói "tau " đang ăn lông ở lỗ. Có hôm gặp ông ngoài
đường. Ông mặc quân phục chế độ cũ, lon lá huy chương đầy mình. Mọi người sợ hết
hồn, vì thời gian ấy các sĩ quan chế độ cũ phải lên đường đi học tập cải tạo kẻ
nào trốn cũng khó thoát khỏi lưới tình báo nhân dân". Kể cả những anh trước
kia đeo lon giả để lòe gái hay trốn lính cũng bị tố cáo. Có anh nằm trong trại
tù làm cả chục lá đơn minh oan vẫn chưa được phóng thích. Ông thi sĩ Bùi Giáng
lại đâm đầu vào chuyện oan nghiệt ấy, không hề sợ hãi, phom phom nhận mình là
sĩ quan quân đội chế độ cũ, sĩ quan cao cấp kia, từng "có nợ máu với nhân
dân", bây giờ "ngã ngựa" rồi xin được đi học tập cải tạo để được
trở thành người tốt đủ tư cách xây dựng đất nước đẹp bằng mười ngày xưa. Ông
lang thang khắp các chợ trời, trên người đeo lỉnh kỉnh đủ các thứ đồ. Có hôm
ông đeo cả mấy chục cái lon đồ hộp trên người. Ông nói ông là người có nhiều
"lon" nhất trên đời vậy mà ông vẫn yên ổn. Có hôm ông vào chợ cá Trần
Quốc Toán, khi ấy trở thành chợ xe đạp. Ông "thó" một cái ghi đông xe
cũ rích, rồi bỏ đi, người ta la lên ông ăn cắp. Ông trả lại liền, càu nhàu: - Mẹ
lụi bay, bị mất tất cả mà phải câm, tau chỉ ăn cắp cái ghi đông mà la rầm trời,
có kẻ đang ăn cắp đấy... làm gì nó nào? Ai mà chấp một người điên, khi biết người
đó là thi sĩ Bùi Giáng. Hình ảnh Bùi Giáng trở thành quá quen thuộc với thị dân
kể cả những người mới giữ gìn trật tự trong thành phố này. Thời gian này, Bùi
Giáng dở chứng nói bậy và nói tục kinh khủng, mà có ai làm gì đâu. Kéo dài cả
chục năm hơn, Bùi Giáng vẫn sống nhăn. Ông hiện hữu trong cái bái nháo của đời
sống, trong sự chuyển mình của đất nước. Nghe nói ông vẫn làm thơ, chẳng phải để
đăng báo, in sách, ông cóc cần điều đó. Những bài thơ ông ghi vội trên một tờ
giấy nhàu nát, hoặc một bao thuốc lá. Uống chén rượu, ăn tô phở ông điên, ông tỉnh,
ông làm trò, chẳng một ai đụng đến ông. Tôi biết rõ một điều là ai cũng quí mến
và chiều chuộng ông. Ông vẫn chung thủy với mối tình đơn phương dành cho kỳ nữ
Kim Cương như thuở nào. Có hôm ông ngất ngưởng ngồi xe xích lô đến tận nhà thăm
nàng. Ông sơn móng chân móng tay, đánh phấn thoa son cẩn thận. Gọi cửa nàng
không ra, ông lấy đá chọi rầm rầm vào nhà. Nàng phải xuất hiện để ông thấy mặt
và ông nói vài lời rồi ông ra đi, chỉ có thế thôi, cũng trữ tình ra phết. Có một
thời Hãng phim Giải Phóng ở thành phố, mời ông đóng phim, làm tài tử "xi
la ma". Báo Điện ảnh có đăng tin và in hình ảnh ông. Tôi không biết ông
đóng phim gì, nhưng ông có lãnh "cát sê" cẩn thận. Hôm ấy, ông ngồi
xích lô đi từ xưởng phim đến đường Bà Huyện Thanh Quan, rải tiền đầy đường, trẻ
con, người lớn chạy theo xe ông lượm tiền như một đám rước Bùi Giáng. Bùi Giáng
dừng lại sạp báo của nhà báo Nguyễn Kinh Châu hồi trước. Ông đề vội mấy câu thơ
tặng bạn rồi lại ra đi phát nốt số tiền còn lại. Ông tới Hội Văn Nghệ thành phố
uống bia say la đà. Thời mở cửa, kinh tế thị trường mà sao tôi vấn khổ quá vì vấn
đề cơm áo. Gặp thầy Bùi Giáng, khi đó thầy có vẻ tỉnh táo. Tôi tâm sự với thầy
về hoàn cảnh của mình, văn chương là nghề chính mà ế ẩm, bút phải gác lên mái lều,
làm nghề lao động chân tay để nuôi vợ con, sức khỏe ngày một suy yếu. nghèo rớt
mồng tơi. Tôi thật tình muốn điên, muốn tâm thần để kệ mẹ đời. Tôi hỏi thầy vì
thầy có kinh nghiệm điên: - Em muốn điên thầy ạ! Thái độ vừa bình ĩlnh vừa chậm
rãi: - Mày muốn điên thật hả? - Dạ thật! - Mày chưa đủ tư cách làm người điên
vì mày mắc míu nhiều quá. Mày không có thì giờ để điên, lâu mới có thì giờ
điên. Tau chửi mày là đồ ngu chứ không chửi mày là đồ điên. Sau đó thầy Bùi
Giáng "xuất chiêu " làm một loạt động tác điên, tôi thất kinh và thấy
lời thầy dạy có lý quá. Nếu tôi điên thì "trật giuộc" hết trơn. Đã
nhiều năm tôi tự nguyện xa lánh các cuộc vui tụ tập ăn uống hay đàn ca hát xướng.
Ngoài chuyện lo kiếm ăn tự nuôi sống mình và gia đình, tôi ở tịt nhà với vợ
con, tôi không đi đến đâu và cũng chẳng gặp gỡ ai. Tôi sợ những chuyện thị phi
nơi gió tanh mưa máu. Phải chăng tôi tự cô lập mình? Hay hoàn cảnh bắt buộc như
thế? Tôi không dự đám tang thầy Bùi Giáng sáng ngày hôm sau, nên không biết có
bao nhiêu người đưa tiễn thầy? Người ta không bỏ quên thầy, thế là mãn nguyện lắm
rồi. Câu này dành cho những người sống hơn là người chết. Thi sĩ Bùi Giáng là một
con người ngạo mạn với đời. Ông chăng cần lưu danh vì một câu an ủi. Một cuộc đời
với hơn năm mươi tác phẩm biên khảo, dịch thuật và hơn mười tập thơ Đó là một
gia tài không nhỏ ông để lại cho đời.
Tôi dừng lại ở đầu đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng) và đường
Nguyễn Trung Trực. Tại nơi này nhìn qua thư viện Quốc Gia, đại học Văn Khoa hồi
xưa, có một kiosque bán cà phê, nhìn sang bên kia đường là tòa báo Đại Dân Tộc,
phía góc đường Thủ Khoa Huân, Gia Long là báo Sống. Nói tóm lại có rất nhiều
tòa báo trên quãng đường ấy. Ký giả, phóng viên, nhà văn sáng sáng ngồi đầy các
quán cà phê lề đường, tất cả đều quen nhau, thân thiết đến độ xộc thẳng vào đời
tư của nhau, nên tình nghĩa bạn bè cũng rộn rã. Sau năm 1975, ngày đứt
phim", báo chí thuộc chế độ cũ dẹp tiệm, ký giả nhà văn có người đi mất,
người còn sót lại lêu bêu. Tôi ở trong số đó. Buồn quá đi thôi, bỗng dưng tôi
phải buông bút (mới chỉ buông chứ chưa gác), vẫn còn nghĩ mình dùng được ngòi
bút để phục vụ độc giả. Sau vài lần "vỡ mặt" mới sáng mắt ra. Nơi tôi
đứng là một lề đường rộng, cái kiosque sơn màu xám xỉn cũ kỹ nay đã biến mất.
Nơi đó tôi từng ngồi, thân thiết chủ quán đến độ có thể ghi sổ nợ từng ly cà
phê, điếu thuốc thơm trợ hứng cho lúc viết bài hay trang feuilleton đăng trên
nhật báo. Chẳng phải riêng mình tôi mà nhiều anh em đồng nghiệp cũng thế. Sau
ngày đứt phim tôi còn thấy lai rai vài người. Họ vớt vát cái gì, hay chờ đợi
như ngày anh em tụ lại với nhau khi báo được lệnh đóng cửa, hình ảnh nhà văn Lê
Xuyên, anh cai quen đùa gọi là chú Tư Cầu, tên tác phẩm nổi tiếng của anh viết
về đồng quê Nam Bộ, dĩ nhiên là có những mối tình quê mùa mà không kém đam mê,
tiêu biểu là nhân vật chú Tư Cầu. Trước ngày miền Nam bại trận, Lê Xuyên là tổng
thư ký báo Sài Gòn Mai rồi Đại Dân Tộc, anh có cái nhạy cảm của người làm báo
cùng với sự sâu sắc của người viết văn. Anh đã có cả lô tiểu thuyết ấn hành,
tôi không nhớ hết. Nhà văn Lê Xuyên hay nhà báo Lê Xuyên cũng được. Nhưng anh
em gọi anh là chú Tư Cầu cho thêm phần thân mật. Nhưng hình ảnh của nhà văn Lê
Xuyên gây ấn tượng nhất cho tôi là sau ngày chế độ Sài Gòn bại trận, tôi vẫn
còn thấy anh ngồi ở quán cà phê đó vào những buổi sáng kế tiếp. Mắt nhìn lên
tòa soạn xưa buồn rười rượi, y nguyên như ngồi uống cà phê chờ anh chen ty po
xuống báo cáo đã đủ khuôn, xin lệnh chạy máy, hay cần lấp một lỗ hổng. Bây giờ
không còn gì nữa, không vắng lặng mà có cái xôn xao của cờ quạt, biểu ngữ khẩu
hiệu và các trẻ thơ nối vòng tay lớn nhảy múa như cuồng ở góc đường, góc công
viên.
- Thôi bác đừng lên, bác hỏi thăm vậy là quí rồi, chúng tôi sợ
ông ấy không nhận ra bác đâu dù bác có là bạn thân, đến người ở trong nhà cũng
chẳng nhận ra nữa là...
Cờ cao Đế Thích chấp đôi xe
Tôi đứng trước cổng nhà Đoàn Tường tức Lý Hoàng Phong gọi cửa
một lúc lâu. Chó bị nhốt trong nhà xua rộn lên, một lát, đứng ngoài cổng tôi thấy
một người lom khom đi ra... Đúng là anh Lý Hoàng Phong. Cánh cửa ra vào được mở,
Lý Hoàng Phong gầy rộc, trắng xanh, giọng anh mệt mỏi:
Gần đây cơ quan tuyên truyền văn hóa thông tin của nhà nước
kêu gọi nên phục hồi nền cải lương mà quần chúng mộ điệu dần quên lãng. Nguy cơ
cho nền văn nghệ có một thuở vàng son ấy bị chết dấm chết dúi, rạp cải lương
thì tiêu điều xuống cấp trầm trọng, dù có hát chùa cũng chẳng ai xem. Các nghệ
sĩ nói chung, đào hát kép hát hàng đầu lui dần vào bóng tối. Lớp tài năng trẻ
chưa xuất hiện. Hãy đẩy mạnh phong trào lên. Nếu cần thì mở cửa rạp cho quần
chúng coi chùa, phục hồi thuở vàng son của sân khấu cải lương. Món ăn tinh thần
mà người Nam bộ nào cũng khoái, cũng say mê. Nhưng sao đến nay vẫn chẳng rôm rả
tí nào. Chẳng ai làm nổi nền văn nghệ cải lương phục hồi nói chi đến chuyện đi
lên.
- Như thế hệ chúng ta, cho con cái học mong cho ấm thân chúng nó, may mắn thì chúng đỗ đạt ra làm quan. Nhưng nay thì khác, làm quan rồi mới đi học. Anh không thấy bao nhiêu là lớp bổ túc văn hóa cho các quan chức đó sao. Giữ những chức vụ quan trọng về kinh tế mới học về kinh tế tại chức.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Chị tôi
Chị tôi Hai bữa nay Sài Gòn hửng nắng, đường sá khô ráo đôi chút. Thật dễ chịu… Tôi buộc miệng với câu hát quen thuộc: “Nắng Sài Gòn anh đ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét