Thứ Năm, 4 tháng 7, 2024

Tân liễu trai chí dị

Tân liễu trai chí dị

Vài lời về Liễu Trai Chí Dị
Vào khoảng đầu thế kỷ 18, thời vua Khang Hy bên Trung Quốc, tác phẩm Liễu Trai Chí Dị được ra mắt công chúng. Tác phẩm này đã mang tên tuổi tác giả của nó Bồ Tùng Linh một người rất tấm thường, vô danh trong xã hội đương thời thành một danh nhân trong nền văn hoá Trung Hoa. Thật vậy Bố Tùng Linh (1640-1715) chỉ là một nhà giáo trường làng, dù kiến thức uyên bác nhưng thi cử rất nhiều lần mà chẳng đỗ đạt gì. Mãi đến năm 1711 khi ông đã ở tuổi 71 tuổi mới đậu được bằng Cống Sinh (tú tài), nhưng 4 năm sau ông mất, thọ 75 tuổi.
Trước khi mất Bồ Tùng Linh có cho ra mắt một vài tác phẩm văn học khác nhưng chỉ có tác phẩm Liễu Trai chí Dị là có giá trị và thực sự có công mang tên tuổi, danh dự của ông vào nền văn học dân gian của Trung Quốc mà thôi.
Tác phẩm Liễu trai chí dị bao gồm 431 truyện ngắn quái dị thiên về ma quái, hồ ly tinh, cây cỏ, động vật … Những truyện được tác giả thu lượm trong văn chương truyền khẩu rồi nhân cách hoá, thần phép hoá… kèm theo những hư cấu có tính cách lãng mạn, trữ tình pha trộn với những cảm xúc cùng lối viết văn độc đáo của tác giả làm cho ngươi đọc bị lôi kéo vào những diễn tiến của cốt truyện. Trong số 431 truyện đó có truyện rất ngắn, đơn sơ với khoảng vài trăm từ. Có truyện khá dài, tình tiết éo le, phức tạp với bao nhiêu dữ kiện và nhiều nhân vật diễn biến như một truyện tình lãng mạn dài đến vài ngàn từ.
Hiện nay Liễu trai chí dị đã được phổ biến rất rộng rãi trong văn học thế giới, đã được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Đặc biệt là ở các quốc gia Á châu, Liễu trai chí dị không những được in ấn, thông dịch trên sách báo mà còn được phổ biến thành những phim truyện nhiều tập phổ biến trên đài truyền hình. Ngoài ra còn có rất nhiều tác gỉả khác trên thế giới dựa vào lối hành văn, ý tưởng của Bồ Tùng Linh để bắt chước viết ra những câu truyện giống như Liễu trai chí dị. Lối viết bắt chước này được gọi là “Liễu trai chí dị đương thời“ hay “Tân liễu trai chí dị“. Lối bắt chước này phần đông các tác giả tạo ra những cốt truyện dài hơn, phức tạp hơn và nhiều khúc mắc tình tiết hơn giữa thế giới ma quỷ và loài người.
Những truyện Tân Liễu Trai Chí Dị này của chúng tôi cũng không bước ra khỏi cái vòng bắt chước quen thuộc đó. Những câu truyện của chúng tôi hoàn toàn hư cấu chỉ nhằm một mục đích mua vui, giải trí cho người đọc. Hy vọng mang đến cho đọc giả những giây phút thư giãn hay tốt hơn nếu nó tạo được cho đọc gỉả một khoảng khắc ngắn hay dài được thả hồn vào mơ mộng, tưởng tượng mà quên đi phần nào mệt mỏi, bận rộn của cuộc sống kỹ nghệ mà chúng ta đang phải sống.
Tác giả
Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn
1. Hồ Yến Vân
Lời bàn Tân Thánh Thán

Suốt khoảng 2 năm qua, không nhận được bài Liễu Trai Chí Dị nào của Lưu tiên sinh đã làm cho ta có chút lo lắng, không biết người bạn tâm giao có mạnh khoẻ không, nhất là thời gian qua thế gian phải khổ đau với dịch bệnh Covid. Nhưng hôm nay, trong cái lạnh lẽo mùa đông lạnh giá ta ngạc nhiên khi nhận được bài Hồ Yến Vân của tiên sinh vừa gửi đến. Vui mừng làm sao vì biết rằng người bạn tri giao vẫn còn nhớ đến kẻ hủ lậu này mà gửi bài cho ta thưởng thức, cũng nhờ  ta viết cho vài lời cảm xúc mà gửi đến đọc giả làm vui.
Đọc qua bài viết lần này, ta có cảm tưởng lối văn biền ngẫu trong thể văn liễu trai của Lưu tiên sinh không còn rõ nét như trước nữa. Hình như nó đã có chút tí nào đó hoà trộn với lối viết thông thường bằng những uốn éo câu cú, ngôn từ bóng bẩy mà tiên sinh vẫn dùng trong những sáng tác truyện ngắn, truyện dài… của tiên sinh. Nhưng nghĩ cho cùng thì có hề chi về hình thức nhỉ? Cái đáng nói là làm sao cho người đọc được dìm cảm xúc vào câu truyện, mà ngẩn ngơ với sắc đẹp của mỹ nhân, dù là nàng Hồ ly biến thể, là Ma quái hiện hình hay là Tiên nữ giáng trần… Thế mới là đạt vậy!
Đọc xong câu truyện “Hồ Yến Vân“ này lại làm cho ta nhớ lại, ngày xưa, rất xa xưa khi ta còn là một thư sinh ở cái xứ VN thời tao loạn. Ta cũng đã một lần đi hoang rồi vô tình mà rơi vào một chuyện tình liễu trai. Người đẹp liễu trai đó, ta chỉ gặp thoáng qua, rất sơ sài nhưng không biết vì sao mà mỹ nhân đã cho ta một đêm ân ái mặn nồng, để cho ta nhớ mãi không quên. Sáng hôm sau, khi thức dậy, nàng đã bỏ đi lúc nào không biết, chỉ để lại trên gối cho ta một mảnh giấy vỏn vẹn chỉ một câu: “Hãy giữ lấy cảm xúc của một lần cho nhau hôm nay để nhớ nhau suốt đời!“  Đúng như vậy,  suốt nhiều năm sau đó, ta đã bao lần đi lại chốn cũ mong lại ngẫu nhiên mà gặp lại cố nhân, nhưng cũng chẳng bao giờ có được, thật buồn thay! Ta đã nghĩ rằng có thể nàng là Hồ ly, là Ma mị hay là Tiên nữ… đã thích cảm con người lang bạt nhưng vẫn có tí chút nào đó của lãng mạn, đa mê của ta mà hiện đến cho ta một đêm khoái lạc làm cho ta nhớ mãi trong đời chăng?! Viết ra đây, chẳng phải để khoe khoang mà ta muốn  đóng góp thêm vào câu truyện “ Hồ Yến Vân “ của Lưu tiên sinh coi như có thêm một tí mơ mộng mà gửi đến đọc giả thưởng thức trong giá lạnh ùa đông mà thôi.
(Tân Thánh Thán)
Chú thích:  
- Thánh Thán: Nhà bình luận văn chương nổi danh, thời nhà Thanh bên Tàu, ông đã bình luận nhiều tác phẩm nổi danh như Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc, Thuỷ Hử..v.v... 
- Tân Thánh Thán: Không có tài liệu nào viết về dòng dõi, gốc gác, tài học của ông nhưng nhiều người cho biết ông cũng là một đệ tử si dại trong tình trường. Đã từng đi chu du khắp thiên hạ nhưng Tân Thánh Thán vẫn không quên được những dấu tích, kỷ niệm xa xưa nơi cố quốc, nên hàng năm ông vẫn tìm về để đi lại, nhìn lại những con đường, góc phố, tiệm ăn, quán xá... ngày xưa với cảm giác “Đập gương xưa tìm bóng “! Đúng là một gã Đa Tình lắm ru?!
VÀO TRUYỆN
Quận Vĩnh Hoà, tỉnh Phú Nam có gia đình họ Định, được coi là danh giá, giàu có nhất nhì trong quận. Vợ chồng họ Định lại không may gặp cảnh hiếm muộn, chỉ sinh được hai người con trai. Vì lo sợ cho sự an toàn món tài sản khếch xù nên đã nhiều lần đến chùa cầu kính mong thần thánh, trời phật phù hộ mà có thêm vài đứa con nhưng cũng chẳng đến đâu. Cũng nghe người quen mách bảo, bà vợ đã phải nhún mình tìm những cô gái thuộc dòng có tiếng là mắn con về sống với chồng như dạng thê thiếp, nhưng cũng đã trải qua mấy lần mà cũng cũng chẳng ai có bầu sinh con như tính toán. Cuối cùng phải bỏ tiền ra chi trả cho những người hầu thiếp để họ tìm nơi khác mà an thân lập nghiệp.   
Hai người con trai lại không được như ý muốn. Người con trai cả tên Định Văn Văn ngay khi sinh ra đã có tật bẩm sinh, đôi chân không phát triển bình thường. Thân sinh tìm đủ danh y chữa trị nhưng vẫn phải dùng xe lăn, di chuyển vẫn cần có người giúp đỡ. Văn chỉ theo học bút nghiên xong cấp tú tài rồi ở nhà phụ giúp cha mẹ. Tuy nhiên Văn lại có di truyền của song thân, dù tàn tật nhưng lại rất có tài tính toán trong thương mại. Mới 16, 17 tuổi, đã biết giúp đỡ cha mẹ quán việc kinh doanh của gia đình rất thuần thục. Song thân dù buồn đau vì trưởng nam tàn tật, không như người bình thường  nhưng cũng có phần vui mừng, an ủi vì uýi tử có được sự khôn ngoan, nhạy bén trong thương trường. Khi Văn lên 18 tuổi, song thân đã nhờ mối lái tìm một gia đình gia giáo, ngoan hiền, nhiều đời có con đàn cháu đống mà cưới vợ cho con trai. Nhưng cũng chẳng hiểu sao, vợ chồng quí tử đã sống với nhau gần 3 năm mà cũng chẳng có động tĩnh thai nghén gì. Bố mẹ Văn đã có phần lo lắng, nhiều lần bàn bạc với nhau muốn tìm cho trưởng nam một thứ thiếp, nhưng chưa dám quyết định lý do là Văn không đồng ý, xin được chờ đợi thêm tí chút. Đã thế, gia đình con dâu cũng là bạn bè tâm giao, thân thiết trong thương trường nên cũng không dễ dàng phủi bỏ tình thân mà bạc tình với nhau. Con dâu cũng là người rất hiếu đễ với bố mẹ chồng, tận tình chăm lo cho chồng từ miếng ăn, ly nước, không chút nề nà mà giúp đỡ chồng trong những sinh hoạt hàng ngày khi chồng gặp khó khăn vì tàn tật nên càng làm cho cha mẹ của Văn khó nghĩ mà không dám tuyệt tình.  
Người con trai út, tên Định Văn Quân, dù cùng cha mẹ sinh ra nhưng bản tính của Quân hoàn toàn khác với người anh về mọi lãnh vực. Quân không có tí di truyền nào trong nghề buôn bán của cha mẹ. Vừa bước sang 19 tuổi, đã lấy xong bằng cử nhân, được người bạn thân thiết của phụ thân đang làm chức vị cao trên đế kinh tỏ ý muốn giúp đỡ Quân vào giới quan trường, còn có ý định gả ái nữ duy nhất cho Quân. Nhưng Quân lấy cớ còn trong tuổi ham chơi, cuộc sống cá nhân chưa ổn định mà khéo léo chối từ. Với việc kinh doanh của gia đình thì Quân gần như không bao giờ để mắt đến, nhiều lần song thân và anh chị cố tìm cách bắt Quân vào khuôn thước, dậy bảo từ từ mong Quân tìm được thích thú mà nhập cuộc. Nhưng cũng vô ích, có mặt bố mẹ và anh chị thì Quân cũng miễn cưỡng để mắt tí chút vào công việc, sau đó thì lơ là quên sạch. Riết rồi bố mẹ, anh chị cũng đành thở dài chán nản, bỏ qua để cho Quân được sống theo cá tính của mình. Tuy nhiên có một điều mà mọi người, từ người phục dịch trong gia đình đến nhân viên trong cơ sở làm ăn, ai ai cũng nhận thấy Quân là một người rất tốt bụng, sống chuẩn mực không ỷ nại gia thế mà hống hách với người khác, đúng nghĩa một người có tín nghĩa, đạo đức, trọng danh dự, không bao giờ quát mắng hay xiên xẹo với bất cứ ai, chính vì vậy mọi người, ai ai cũng quí mến Quân. 
Một điều nữa, rất khác biệt với mọi người trong gia đình và dòng họ, Quân có biệt tài về văn chương thơ phú, rất thích du lịch giao du với bạn bè cùng sỡ thích. Hễ nghe đâu có lễ hội liên quan đến thơ văn hay phong cảnh đẹp mà được bạn hữu mời gọi là Quân tham dự ngay. Tuy giao tế rộng rãi như vậy, nhưng Quân cũng rất biết giới hạn, không bao giờ sa đà vào những tật ách xấu xa, bệnh hoạn của xã hội. Thỉnh thoảng cũng có những lúc chiều bạn bè văn nghệ mà vào các chốn ăn chơi như kỹ viện, tửu lầu, hát xướng… nhưng Quân cũng chưa bao giờ mang tiếng bê tha quá mức  hay nhập bọn với những phường vô lại làm xấu xí gia phong. Bạn bè, quen biết của Quân hầu hết là những người có học thức, khoa bảng, gia đình danh giá trong xã hội. Đó cũng là lý do phụ thân tin tưởng mà cũng không quá kiểm soát, vẫn để cho Quân tự do liên hệ, rong chơi với bạn bè.  
Một hôm vào cuối tháng tư âm lịch, khí hậu oi nồng, tỉnh lỵ kế bên có lễ hội, nhóm bạn bè của Quân rủ nhau sang đó vui chơi, tham dự lễ hội, nhân tiện có dịp tận mắt nhìn gặp mặt một kỹ nữ nổi danh xinh đẹp, hát hay, múa đẹp đang nổi danh trên chốn ăn chơi. Quân và nhóm bạn sang giàu đã phải bỏ ra những thỏi vàng để được vào kỹ viện ngắm nhìn người đẹp múa hát. Mọi người ai ai cũng vui mừng thoả mãn, ngẩn ngơ với vẻ đẹp sắc nước hương trời của mỹ nữ nhưng với Quân, không biết có phải vì “khuôn mẫu“ sắc đẹp khác với nhóm bạn hay vì đã ngà ngà say nên Quân nhìn mỹ nữ cũng chẳng có gì để nói là nghiêng nước, đổ thành như lời thế gian đồn thổi. Ngồi một lúc, không muốn phá vỡ đam mê của bạn bè, Quân lấy cớ mệt mỏi mà bỏ ra về. Ra khỏi kỹ viện bước thấp, bước cao vì rượu, hoà mình vào đám đông trẩy hội rồi bị lạc đường, không biết đường trở về khách sạn, cứ lang thang khắp chốn, đó đây.  Cuối cùng Quân lạc vào một khu rừng bìa thành phố, càng loanh quanh càng mù mờ phương hướng mà không thể nào ra khỏi khu rừng. Đến khi trời xâm xẩm tối, Quân tỉnh rượu, thấy mình đứng giữ rừng cây um tùm mới lo sợ thú dữ rừng hoang, mong tìm nơi an toàn mà trú qua đêm chờ sáng tìm đường ra khỏi rừng! Sau một lúc  nhắm mắt đi bừa, quá mệt mỏi, trời lại đổ mưa nhè nhẹ, may mắn thay, Quân nhìn thấy một hang cụt, đúng nghĩa là một hốc đá ẩn sát vào vách núi, chỉ rộng hơn 2 mảnh chiếu nhưng có vẻ khô ráo. Vui mừng Quân như bắt được hũ vàng, Quân chui vào hang, mong có chỗ an toàn mà tránh mưa qua đêm, chờ sáng hôm sau rồi sẽ tìm đường ra rừng.  
Vào hang, đã làm Quân ngạc nhiên thấy sát vách, góc bên trong hang có một chỗ rất khô ráo trên nền có trải lớp thảm cỏ, trộn lá cây khô khá dầy. Quân mừng rỡ, nghĩ đây là nơi đã có người đến trước cư trú rồi ra đi mà bỏ lại. Quá mệt mỏi sau cả một ngày đói khát, mệt lả lang thang trong rừng nên vừa nằm xuống thảm cỏ lá cây, Quân đã ngủ thiếp đi. Buổi sáng, ánh nắng mặt trời chói rọi vào hang cùng tiếng chim chóc ca vang trong rừng đã làm Quân tỉnh giấc. Mở mắt ra thấy nằm sát bên cạnh mình là một thiếu nữ rất xinh đẹp, mặt hoa da phấn, đúng là một mỹ nhân đang say ngủ. Dù rất ngạc nhiên nhưng Quân im lặng ngắm nhìn người đẹp. Đến một lúc, nhãn quang đã chán chê, không giữ được ham muốn, Quân chồm dậy ôm mỹ nhân vào lòng mà hôn hít như vãi vạo trên mặt, trên thân thể người đẹp. Mỹ nhân ban đầu còn ngái ngủ lại bị Quân ôm chặt làm dữ nên có phần lo sợ. Nhưng chỉ khoảng khắc sau, lấy lại bình tĩnh mà rút được tay ra,  đứng bật dậy, lấy hết sức giáng một cái tát như búa bổ vào mặt Quân mà hét lên:  

- Thằng học trò khốn nạn này! Ta đã vì thương cảm cho ngươi vì đêm khuya, mưa lạnh giữa rừng mà để cho ngươi tạm ngủ qua đêm. Ngươi không biết điều mà cảm kích cô nương lại còn dám giở trò đốn mạt với ta sao? 
Có lẽ vì cái tát như trời giáng, lại thêm lời chửi mắng thậm tệ của mỹ nhân đã làm Quân tỉnh giấc. Đưa mắt nhìn người đẹp với chút ngượng ngùng mà trả lời:   
- Đây là nơi cư ngụ của nàng sao? Ta cứ tưởng là nơi hoang dã, vô chủ mà vào ngủ qua đêm…   
Không để cho Quân nói trọn lời, người đẹp, đưa tay chỉ vào góc hang với lớp cỏ, lá cây khô khô ráo mà trả lời: 
- Ngươi nghĩ rằng những lá cây, thảm cỏ khô ráo đó, chúng tự nhiên bò vào làm nệm ngủ cho ngươi sao?!  
Lúc này thì Quân đã nhìn ra vấn đề, hơi chau mày ra vẻ ân hận. Đưa bàn tay lên tát nhẹ vài cái vào mặt mình, ra vẻ ân hận nhìn người đẹp mà nói: 
- Đúng là ta đã sai rồi, mong nàng thứ lỗi mà bỏ qua! 
Rồi ngần ngừ, hơi chau cặp lông mày sâu róm, nhìn người đẹp với nụ cười thích thú, Quân nói nhẹ: 
- Nhưng cũng xin nàng hiểu cho ta, chỉ vì sắc đẹp nghiêng nước, đổ thành của nàng đã làm cho ta điên khùng như vậy đó, mong nàng rộng lòng mà thứ lỗi.  
Cũng chẳng để cho mỹ nhân trả lời, Quân sang sảng ngâm vài câu thơ trong bài “Phượng cầu hoàng“ của Tư Mã Tương Như khi tán tỉnh nàng Trác văn Quân, thời nhà Hán: 
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương biệt cương hề cộng cao tường
Dịch rằng:
Hỡi nàng mỹ nữ ở đài trang
Nhà gần người xa sầu tâm trạng
Nhờ duyên kết nối nợ uyên ương
Cùng nhau chấp cánh kiếp tang bồng
Người đẹp nghe Quân nói  lại còn ngâm nga những câu thơ đa tình dành cho mình nên ra vẻ cảm động đến nỗi nhìn Quân ngẩn ngơ. Sự tức giận hoàn toàn biến mất thay vào đó là cảm động, vui mừng. Nghĩ cho cùng, thế gian có người đẹp nào mà nỡ giận hờn, trách mắng một nam nhân, dáng dấp sang trọng, điển trai như Quân lại biết dùng văn chương thơ phú mà ca tụng sắc đẹp của mình được nhỉ? Người đẹp tỏ ra cảm động, miệng cười rất xinh mà trả lời: 
- Thiếp làm sao mà vô tình không nhìn thấy tình của chàng dành cho thiếp được? Nhưng mới gặp lần đầu mà chàng đã vồ vập quá mức như vậy,  làm sao mà thiếp không lo sợ được? Mong chàng thông hiểu mà bỏ qua.   
Thấy mỹ nhân đã có phần dễ dãi, Quân chẳng e dè  đưa tay kéo người đẹp nằm xuống thảm cỏ, lá cây khô mà hôn hít, làm tình… dù cả hai cũng chưa biết gì về nhau. Mãi cho đến lúc mệt phờ mới tách nhau ra, Mỹ nhân đưa ngón tay búp sen gõ nhẹ vào trán Quân mà nói: 
- Nhìn chàng, thiếp cứ nghĩ chàng là một tên học trò dài lưng, tốn vải chỉ biết bay bổng với văn chương, thơ phú nhưng cũng chỉ là vẻ bề ngoài. Bên trong cũng là một kẻ tinh ranh tình trường, đa tình lắm nhỉ? 
Không để cho Quân trả lời người đẹp nói tiếp: 
- Nhưng chàng có biết thiếp là ai không mà đã dám buông thả như vậy? Chàng không nghĩ thiếp sẽ hãm hại chàng sao? 
Không một tí ngần ngừ, Quân mỉm cười, nhìn giai nhân mà trả lời: 
- Dù nàng là ma quỷ, hồ ly hiện hình hay là tiên nữ giáng trần… với ta chẳng có gì đáng nói, chỉ cần nàng xinh đẹp, làm cho say mê, yêu quý là được.  
Rồi cũng chẳng để cho người đẹp  trả lời, Quân nói tiếp: 
- Tiền tài, danh vọng mà làm chi? Ta đã từng chối từ, không màng đến nó rồi. Với ta chí lớn trong thiên hạ làm sao mà sánh được vẻ đẹp của mỹ nhân?!  
Rồi Quân kể cho người đẹp biết về gia thế của gia đình cũng như tên tuổi, lối sống coi thường tiền bạc của mình. Người đẹp cũng cho Quân biết song thân là giống nòi hồ ly nhờ tu luyện mà thành người, cha là Hồ Lịch, mẹ là Hồ Thuý Hoa, nàng tên Hồ Yến Vân vừa bước sang tuổi 18, cũng là người con duy nhất. Gia đình hiện đang sống ở một làng nhỏ phía bên kia dẫy núi của tỉnh lỵ. Suốt mấy tháng  nay mẫu thân bị bệnh, nên cứ khoảng 5, 7 ngày Yến Vân phải xuống trung tâm tỉnh lỵ để lấy thuốc chữa bệnh cho mẹ. Nhà thuốc không có sẵn nên mỗi lần đi lấy thuốc, Vân phải chờ đợi 1 hay 2 ngày để nhà thuốc chế biến. Hoàn cảnh gia đình không quá dư dả nên mỗi lần đi lấy thuốc Vân không thể chi trả cho khách sạn, vì vậy đã phải tìm hang đá ở triền núi, rồi mang lá cây rừng tạo ra một chỗ ngủ tạm qua đêm trong khi chờ đợi lấy thuốc cho mẹ. Hôm nay cũng như mọi lần khi lấy thuốc xong, trên đường trở về, trời đã tối, Vân đến hang núi, định ngủ qua đêm rồi sáng hôm sau trở về nhà, nhờ vậy mới có sự gặp gỡ với Quân. Sau khi đã hiểu câu chuyện của nhau, Quân nói: 
- Ta cũng chẳng có gì bận bịu nên muốn theo nàng về nhà, trước là vấn an mẫu thân của nàng lúc ốm đau, sau là muốn cho tình thân của chúng ta bền chặt hơn. Nàng nghĩ sao? 
Đáp:  
- Thiếp rất muốn, nhưng như chàng đã biết giống nòi chúng ta khác nhau, không dễ gì gần gũi nhau được. Đã thế gia cảnh thiếp nghèo hèn không đáng cho chàng thân thiết đâu, mong chàng hãy coi cuộc gặp mặt của chúng ta như gió thoảng qua song.  
Nắm lấy tay người đẹp, kéo ra khỏi cửa hang, Quân nói: 
- Ta không muốn nói nhiều, nếu nàng không đi, ta cũng bế nàng cùng đi! 
Không làm khác hơn, Yến Vân đành phải nghe theo, rồi cả hai vui vẻ, khoác tay nhau cùng đi. Đến khoảng giữ trưa thì về đến nhà. Một căn nhà lá 3 gian đơn sơ bao quanh bởi vài luống rau, khóm hoa trong một làng nhỏ với hơn chục căn nhà lá quy tụ ở sườn đồi.  
Với vẻ ngạc nhiên khi thấy con gái dẫn Quân vào nhà kèm theo vài lời giới thiệu sơ sài. Hồ Lịch quan sát Quân một lúc rồi đưa mắt nhìn người vợ ốm bệnh nằm trên chiếc phản gổ, bà cũng đang giương mắt nhìn khách. Quân cúi đầu chào vợ chồng chủ nhân mà thưa: 
- Tiểu sinh nghe Yến Vân nói phu nhân ốm bệnh nên đường đột đến vấn an mà không báo trước, mong nhân gia tha lỗi. Nếu gia đình có gì khó khăn về tiền bạc để chữa trị bệnh cho phu nhân xin cho biết, tiểu sinh chắc chắn sẽ làm được và không chối từ.  
Nghe Quân nói, vợ chồng Hồ Lịch tỏ vẻ cảm động mà vui vẻ nói chuyện, không còn ánh mắt nghi ngại dò la nữa. Quân cũng chẳng giấu giếm nói rõ về gia thế, cơ ngơi thương mại của gia đình cho họ Hồ nghe. Khi biết rõ về gia thế của Quân, Hồ Lịch có chút ngạc nhiên: 
- Thế ra ngươi họ Định, một dòng họ nổi danh giàu có, sang trọng của tỉnh Phú Nam đó sao? Khoảng 15 năm về trước, vợ chồng chúng ta cũng đã phiêu bạt đến đó tạm cư nên cũng đã nghe biết nhiều về gia thế, tên tuổi của phụ thân ngươi. Không ngờ hôm nay lại nhờ ái nữ mà chúng ta quen biết được với ngươi. Hân hạnh lắm ru!  
Ngần ngừ tí chút, Hồ Lịch nhìn Quân nói tiếp: 
- Dĩ nhiên chúng ta rất vui mừng khi được kết thân với ngươi, một danh gia trong xã hội. Nhưng ta nói thật chúng ta không dám với cao, đã thế khi song thân ngươi biết chúng ta khác giống nòi thì không phải là điều thuận thảo đâu. Ngươi hãy tạm ngủ qua đêm nơi nhà tranh nghèo khó này rồi sáng sớm ngày mai xin ngươi rời xa chúng ta, coi như chuyện quen biết của ngươi với ái nữ của chúng ta là chuyện qua đường. 
Quân dùng đủ lời lẽ chấn an vợ chồng Hồ Lịch, không nề nà cho lão biết, dù gia đình giàu sang nhưng bản thân hoàn toàn không thèm tơ vương đến tiền tài danh vọng mà dành tất cả cho vợ chồng người anh. Với Quân hạnh phúc nhất vẫn là được sống theo những gì mà mình ước mong, xin vợ chồng lão đừng nghi ngại. Quân cũng cho lão biết chuyện khác giống nòi, nếu không nói ra thì ai biết được. Giả dụ có biết thì song thân của Quân là thương gia, không dại gì mà không tính suy cái dại, cái khôn mà làm mất đứa con trai của mình. Với những lời lẽ, quyết liệt của Quân đã làm vợ chồng Hồ lão vui vẻ ra mặt. Đưa mắt nhìn vợ con ra chiều suy nghĩ rồi Hồ lão nói: 
- Ngươi đã nói vậy, chúng ta cũng không muốn giấu giếm ngươi một điều khác, nó rất quan trọng, ta phải nói cho ngươi rõ để ngươi không phải mang cái khổ cho chính cá nhân ngươi mà có thể cho cả cho đại gia đình ngươi nữa.  

Nói xong với cái gật đầu nhẹ đồng tình của người vợ, Hồ Lịch cho biết suốt gần 20 năm nay, từ khi kết hôn với Hồ Thuý Hoa, vợ của ông ta hiện nay. Cả hai đã phải lên Bắc, xuống Nam trốn chạy kẻ thù tên là Xà Mã, người bạn đồng môn, xuất thân là kiếp rắn. Xà Mã đã cùng với vợ chồng Hồ Lịch bước vào đường tu hành rồi thành công mà biến kiếp mà thành người. Trong thời gian tu hành, Hồ Lịch và Xà Mã cùng yêu thương Hồ Thuý Hoa, nhưng khi biến kiếp thành người, Hồ Lịch đã được Thuý Hoa yêu thương kết thành vợ chồng. Từ đó Xà Mã coi nó là một sự sỉ nhục nên thề sẽ tìm cách giết hai người trả thù. Vì trí mưu của vợ chồng Hồ Lịch không thể chống đối được sự truy sát của Xà Mã nên hơn hai chục năm qua, vợ chồng Hồ Lịch đã phải trốn chạy khắp mọi nơi. Nhưng cứ đến nơi nào cũng chỉ  được vài ba năm Xà Mã lại tìm thấy và rồi lại phải tiếp tục trốn chạy. Lần này cũng vậy, gia đình họ Hồ mới đến cư ngụ tại làng này được không quá 3 năm, Xà Mã cũng tìm thấy, đúng lúc đó thì người vợ Hồ Thuý Hoa lại bị bệnh tật. Thấy không còn đường nào trốn chạy nữa, vợ chồng Hồ Lịch đã viết thư cho Xà Mã cầu xin thương cảm cho nỗi khốn khổ vì trốn chạy, mong vì tình đồng môn mà quên đi những hận thù mà tha thứ, bỏ qua. Vài tuần trước, gia đình họ Hồ đã nhận được thư hồi âm của Xà Mã cho biết chuyện tha thứ, bỏ qua thì không bao giờ có, nhưng cứ gặp nhau, việc xử sự thế nào thì còn tuỳ thuộc vào vui buồn. Xà Mã còn cho biết trong khoảng thời gian 3 tháng trời, bất cứ khi nào thích hợp sẽ tìm đến tận nhà để giải quyết ân oán với toàn thể gia đình họ Hồ.   
Sau khi nói rõ cho Quân nghe, Hồ lão nhìn Quân mà nói:  
- Chúng ta đã cho ngươi biết tất cả sự thật rồi, ta thành thật khuyên ngươi nên mau mau rời xa chúng ta càng sớm càng tốt. Tốt cho chính cá nhân ngươi mà còn tránh được những rắc rối cho đại gia đình ngươi nữa. Xin ngươi đừng nghĩ ta hù dọa mà hại đến thân. Xà Mã không phải là người dễ coi thường được đâu! 
Đáp:  
- Nói như lão nhân gia, thì phép vua, luật nước không còn nữa hay sao?   
Hồ lão mỉm cười mà trả lời: 
- Luật pháp chỉ để răn đe những người bình thường, vì ngu dại mà vướng vào tội ác mà thôi. Với những kẻ lọc lõi, khôn ngoan, tài năng, mưu lược vượt lên trên luật pháp như Xà Mã thì việc bắt được chúng đền tội không phải dễ. Nếu dễ, hoàn thiện như ngươi nghĩ thì nhân gian, xã hội này chẳng có người khốn khổ vì áp bức, bất công!  
Thấy Quân im lặng, ý lắng nghe, Hồ lão ra vẻ quyết liệt mà nói: 
- Dù sao gia đình ta cũng cám ơn thịnh tình, lòng tốt của ngươi,  nhưng dù thế nào thì sáng sớm ngày mai ngươi cũng phải rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt để khỏi sinh ra những phiền nhiễu không hay cho ngươi và ân hận cho chúng ta. Trong khoảng 2 tháng nữa, nếu may mắn mà gia đình ta thoát nạn, được Xà Mã buông tha, thì chẳng cần ngươi phải tìm đến đây, chúng ta sẽ đến tận nhà ngươi mà cầu cạnh kết thân. Áí nữ của ta mà được bước vào làm dâu họ Định của ngươi là một ân huệ cho chúng ta vậy. Xin ngươi đừng nghi ngại, mà nên nghe lời ta trở về nhà, chờ 2 tháng nữa. Ta hy vọng với sự cầu xin của chúng ta, Xà Mã sẽ nghĩ đến tình đồng môn mà tha thứ, bỏ qua, khi đó chúng ta sẽ tự mình tìm đến gia đình ngươi mà cầu thân.   
Sáng sớm hôm sau, vừa xong bữa điểm tâm sơ sài, như đã xếp đặt trước, Yến Vân nhét vài cái bánh vào bịch đưa cho Quân dành cho bữa cơm trưa rồi mọi người tiễn đưa Quân lên đường. Buồn bã, Quân theo đường cũ trở về nhà, song thân và anh chị Quân không giấu được vẻ ngạc nhiên khi thấy Quân trở về nhà với thần thái vui mừng, thích nói chuyện với mọi người. Không còn vẻ im lặng hay miễn cưỡng trong mọi sinh hoạt buôn bán của gia đình như trước kia nữa. Đã thế Quân còn mua sắm sửa những vật dụng trang trí trong phòng ngủ của mình. Song thân không giữ được im lặng mà cất tiếng hỏi lý do, Quân trả lời: 
- Con đã tìm được ý trung nhân, chẳng lâu nữa con sẽ dẫn nàng về ra mắt gia đình. Từ nay con sẽ vào khuôn thước, sẽ cùng với mọi người cùng cáng đáng việc kinh doanh.  
Nghe quý tử nói, mọi người đều vui mừng, muốn được gặp ngay người đàn bà tài năng nào đã làm cho Quân thay đổi lạ kỳ như vậy? Nhưng Quân cũng lấp lửng cho biết khi nào mọi việc rõ ràng sẽ tự dẫn người đẹp về ra mắt gia đình. Hàng ngày Quân vẫn ra vào nhà tỏ vẻ trông mong vợ chồng Hồ Lịch giải quyết xong thù hận với Xà Mã mà dẫn Yến Vân đến như đã hứa. Nhưng thấm thoát hơn một tháng đi qua, hoàn toàn không có động tĩnh gì đã làm Quân lo lắng không biết sự thù hận của gia đình Yến Vân và Xà Mã có được giải quyết trong tốt đẹp như mình mong muốn hay không? Quá bồn chồn, không muốn chờ đợi thêm nữa, Quân lại khăn gói lên đường. Hai ngày sau, trên đường đi, Quân tạt vào hang đá nơi đã gặp Yến Vân với hy vọng ngẫu nhiên mà gặp lại nhau. Nhưng hang đá không còn sạch sẽ, ấm cúng như trước nữa, nó như đã bị người ta đập phá. Lo lắng cho sự an nguy của người đẹp, Quân vội vàng tìm đến căn nhà lá của gia đình họ Hồ, nhưng nhà đã bị cháy hoàn toàn thay vào đó là 2 nấm mồ sơ sài, không mộ bia ở giữ sân, đất đắp mồ vẫn còn ẩm ướt chứng tỏ việc chôn cất cũng chỉ mới xẩy ra không lâu.  
Không biết làm sao hơn, Quân hỏi cư dân chung quanh. Mọi người cho biết khoảng hơn một tuần lễ trước, vào lúc nửa đêm, có nghe thấy một cuộc cãi vã giữa Hồ Lịch với người đàn ông nào đó từ trong nhà vọng ra. Mọi người nghĩ rằng đó là sự gây gỗ bình thường nên cũng chẳng ai để ý. Nhưng sau đó một lúc thì ngọn lửa bùng lên rất mạnh, gặp ngày gió to căn nhà lại xây cất bằng gỗ, lá giang nên khi mọi người hô hoán chạy đến thì căn nhà đã hoàn toàn thành tro bụi. Sáng hôm sau khi tro tàn đã nguội, chỉ thấy thi thể của hai vợ chồng Hồ lão đã chết cháy dưới đống đổ nát nhưng không thấy thi thể của Yến Vân. Mọi người cho rằng có thể lúc xẩy ra gây gỗ với ai đó rồi sinh ra hoả hoạn, Yến Vân đã không ở nhà hay đã bị kẻ đốt nhà bắt mang đi rồi.  
Chẳng biết làm gì hơn, buồn bã Quân chỉ thắp vài nén hương trước mộ vợ chồng Hồ Lịch vội vàng ra về để kịp đến thị trấn trước trời tối, tìm khách điếm ngủ qua đêm chờ sáng hôm sau sẽ trở về nhà. Quá mệt mỏi vì suốt mấy ngày liền vượt rừng, trèo núi, vừa vào phòng trọ, đang định tắm rửa rồi ngủ bù lấy lại sức thì có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Với vẻ bực mình, Quân mở cửa ra thì thấy Yến Vân đầu tóc rối bù, quần áo xơ xác như vừa chui từ ống cống lên. Không để ý đến sự bàng hoàng của Quân, Vân lách nhanh vào phòng, đóng vội cửa lại mà nói: 
- Hãy đóng cửa lại, không cho ai vào, thiếp sẽ nói cho chàng nghe mọi sự. 
Vân cho biết, khoảng hơn 1 tuần trước, đúng vào ngày Vân phải lên thị trấn lấy thuốc cho mẹ, vì nhà thuốc không có đủ nguyên liệu nên Vân phải nán lại hơn 3 ngày so với thường lệ. Mãi đến buổi tối khuya vài ngày trước, khi mang thuốc về đã thấy nhà đã bị cháy thành tro với 2 nấm mồ mới đắp của phụ thân. Vân biết chắc chắn là Xà Mã đã gây ra thảm cảnh này, nhờ may mắn đúng lúc đi lấy thuốc cho mẹ mà thoát nạn. Nhìn thấy mộ của song thân, Vân chỉ dám im lặng quì lạy rồi vội vàng bỏ đi vì nghĩ rằng Xà Mã vẫn còn loanh quanh, không dễ dàng gì mà bỏ qua khi biết Vân không có trong nhà. Sau khi rời nhà, Vân đoán chắc sớm hay muộn Quân sẽ đến tìm mình, sẽ ghé vào hang đá nên Vân đã đến đó phá huỷ hang mục đích báo cho Quân biết nạn kiếp đã xẩy ra mà tránh xa. Vân cũng cho biết trước khi còn sống phụ thân có đưa cho Vân một gói bột thuốc độc để phòng thân. Dặn Vân nếu không tránh xa được sự truy sát của Xà Mã hãy tìm cách đến gần mà bất thình lình vẩy gói bột lên cơ thể hắn sẽ làm hắn bất động mà chết dần dần. Phụ thân còn căn dặn thêm là Xà Mã có khứu giác rất tinh trường lại quen thuộc với mùi cơ thể của giống hồ ly nhà Vân nên từ xa nhiều trượng hắn sẽ nhận được ngay, đừng dại mà mong tiếp cận hắn. Phụ thân cũng khuyên, tốt nhất vẫn là trốn chạy, tìm cách ẩn mình càng xa càng tốt vì Xà Mã rất khôn ngoan, lòn lõi, tài trí, Vân không thể sánh với hắn được. Vẫn cũng cho biết, hiện nay Xà Mã đang ở thị trấn, hàng ngày hắn thường đến một hội quán làm từ thiện của thị trấn để diễn thuyết, kêu gọi sự đóng góp của những mạnh thường quân tham gia cùng với hắn trong hoạt động từ thiện.  
Sau khi đã kể lể tất cả sự việc cho Quân hiểu, Vân nói: 
- Đúng là may mắn mà thiếp gặp được chàng, xin chàng hãy vì thù giết cha mẹ của thiếp mà báo thù. Chàng tìm cách đến gần hắn mà dùng gói bột này giết hắn. Mong chàng hiểu là thiếp không muốn kéo chàng vào chuyện ân oán nhưng vì thiếp không thể tiếp cận với hắn được nên mới phải làm phiền mà nhờ đến chàng. Thiếp nguyện sẽ làm thân trâu ngựa trả lại nghĩa tình của chàng. 
Đáp:  
- Nàng đã nói như vậy, thì ta làm sao mà từ chối cho được! Hãy đưa cho ta gói bột, ngay ngày mai, ta sẽ đến hội quán, tiếp cận hắn và làm như nàng chỉ dẫn. Đó cũng là việc ta phải làm vì kẻ thù của nàng cũng là của ta vậy. Nàng đừng quá hạ mình mà làm cho ta phải khó nghĩ.  
Sáng hôm sau, nói với Yến Vân ngồi chờ tin vui, Quân rời khách đếm đến hội quán từ thiện tại trung tâm thị trấn đã thấy khá đông người đang lắng nghe một người đàn ông trung niên dáng vẻ sang trọng, trí thức, đội mũ Khổng Minh, giọng nói hoà thuận đầy vẻ đạo đức… Ông ta đang nói về những chương trình từ thiện như giúp đỡ người già cô nhỡ, trẻ con vô gia cư trong xã hội v.v...  Người ngồi sát bên cho biết đó chính là Xà Mã, một nhân vật nổi danh quảng đại, đạo đức trong giới làm từ thiện, có tấm lòng quảng đại đang được xã hội nể trọng. Quân cũng thấy đó là đều rất đúng, giọng nói êm nhẹ, từ tốn, dáng điệu chậm rãi lại luôn luôn nói những câu khiêm nhường mỗi khi khán thính giả vỗ tay tán thưởng. Nhìn phong thái của người diễn giả, quân tin đó là một người đáng tôn kính, không thể nào là một ác nhân được. Quân cho rằng sự thù ghét của gia đình Yến Vân là một sự lầm lẫn, mang tính đố kỵ người tài năng hơn mình mà ra. Nghĩ như vậy, Quân bỏ hẳn ý định làm hại Xà Mã mà còn lắng tai nghe, kính phục những lời nói đầy đạo đức, bao dung của ông ta. Quân ngồi nghe Xà Mã nói cho đến hết giờ mới trở về khách điếm. Với vẻ mặt vui mừng mở cửa đón Quân vào phòng, Vân nói: 
- Chàng đã trả thù cho gia đình thiếp rồi phải không? 
Nhìn thẳng vào mặt Vân, Quân không vui lắc đầu, đưa trả cho Vân gói bột mà trả lời: 
- Không! Ta yêu thương nàng thế nào thì nàng đã rõ, nhưng ta không thể vì thế mà mê muội làm chuyện bất nhân được. Dưới mắt ta Xà Mã làm một quân tử đầy lòng nhân đạo. Dáng dấp, ngôn từ của ông ta khi trao đổi với mọi người luôn luôn nhỏ nhẹ, ân cần, khiêm cung…Một người như vậy tuyệt đối làm điều xấu xa được.  
Ngừng lại tí chút nhìn vào khuôn mặt ngẩn ngơ của Yến Vân, Quân nói tiếp: 
- Đúng như vậy ta yêu nàng nhưng ta là người học sách thánh hiền, hiểu lẽ phải trái, xấu tốt… Tư cách đó không cho phép ta làm những việc hèn hạ mà hãm hại người ngay, kẻ tốt được. Xin nàng hãy hiểu cho ta. Đừng nên mang cái bả tình yêu để bắt ta làm những điều xằng bậy. 
Nghe Quân nói như bị tạt sô nước lạnh vào mặt. Vân cúi đầu, hai hàng nước mắt dàn dụa ngẩn ngơ nhìn Quân. Một lúc sau, hình như lấy được bình tĩnh, Vân nói: 
- Đúng như chàng đã nhận xét về Xà Mã, nhưng đó chỉ là khuôn mặt giả đạo đức rất cao siêu của một con quỷ khát máu. Nhưng thôi nếu chàng đã nói vậy, thiếp cũng đành cám ơn và buồn đau xa rời chàng mà thôi.  
Nói xong Vân định quay ra khỏi phòng, nhưng chợt quay lại nhìn Quân mà nói: 
- Thiếp vừa nghĩ ra một cách, khả dĩ giúp chàng nhìn thấy bộ mặt thật của tên giả đạo đức đó. Cách này có phần nguy hiểm cho thiếp và rất có thể cả cho chàng nữa nếu chúng ta sai lầm khi thực hiện.  
Vân sẽ viết một lá thư hẹn với Xà Mã vào buổi chiếu tối hôm sau tại hang núi nơi mà Vân và Quân đã gặp nhau. Trong thư Vân xin lỗi, cầu xin Xà Mã vì nghĩa đồng môn với cha mẹ mà tha thứ để Vân được sống như mọi người, không phải trốn chạy như song thân. Nhưng trước khi Xà Mã đến chỗ hẹn, Quân với túi thuốc độc, núp sát vào cửa hang, nơi kín đáo để Xà Mã không nhìn thấy được. Vân sẽ dùng lời khéo léo để cho chính miệng Xà Mã nói ra con người thật, giả đạo đức, bất nhân của hắn. Quân sẽ chính ta nghe được sự thật tốt xấu của Xà Mả rồi tuỳ ý Quân quyết định giúp hay không giúp Vân trả thù. Vân cũng nhắc nhở Quân phải rất kín đáo, tránh tuyệt đối không làm cho Xà Mã nghi ngờ mà phát hiện ra, nếu không sẽ thiệt thân đó vì Xà Mã không phải là người kém cỏi đâu. Khi đã quyết định làm, thì phải nhanh, chính xác nếu không thì chắc chắn cả hai sẽ chết. Nghe Vân nói như vậy, Quân vui vẻ trả lời: 
- Ta sẽ nghe lời nàng mà rất thận trọng, kín đáo. Nhưng ta cũng nói rõ nếu hắn không là kẻ bại hoại như nàng nói thì ta sẽ không làm cho nàng vừa ý được,  dù ta rất yêu thương nàng. Mong nàng hãy hiểu cho mà tha thứ, đừng nghĩ ta là kẻ vô tình. 

Đúng như xếp đặt, sáng hôm sau Quân lại đến hội quá từ thiện, cùng với mọi người ngồi nghe Xà Mã nói chuyện cho đến gần trưa thì cuộc nói chuyện chấm dứt. Quân đến gần Xà Mã trong thái độ rất kính trọng của kẻ hậu sinh với người trưởng thượng, rồi đưa cho Xà Mã lá thư của Yến Vân. Xà Mả có chút ngạc nhiên khi nhận lá thư, mở ra đọc xong, với giọng nói hoà thuận Xà Mã hỏi về sự quen biết của Quân với Yến Vân. Nhớ lời dặn của Vân, Quân chỉ nói với ông ta là vừa quen biết mấy ngày trước trong một dịp di dạo trong rừng mà thôi. Xà Mã nhìn quân, với nụ cười rất hiền từ, thân thiện mà nói với Quân: 
- À ra thế, công tử may mắn lắm mới quen biết với cô cháu gái ngoan hiền, xinh đẹp, rất quí yêu của ta đó. Xin công tử đừng làm cháu gái ta buồn phiền nhe!  
Rồi Xà Mã hỏi Quân có cùng đến nơi hẹn với Yến Vân không, nhớ lời dặn của Vân, Quân lấy cớ vì bận việc nên không thể cùng đi với Vân được. Ông ta cũng hỏi về khách điếm, nơi cư ngụ, Quân cũng chẳng ngại ngần mà cho ông ta địa chỉ nơi cư ngụ.  Với nụ cười hiền hoà, ông ta hứa sau khi gặp được cháu gái sẽ đến tận khách điếm cám ơn và trò chuyện với Quân. Xong đâu đấy, Quân trở về khách điếm, mở cửa vào phòng, thì Vân đã rời xa, nàng để lại gói bột thuốc độc và lá thư vắn tắt cho biết vì nàng phải đến hang núi ngay để chuẩn bị chờ đón Xà Mã. Nàng cũng dặn Quân nhanh chóng đến hang núi trước buổi xế chiều để  không bị Xà Mã bắt gặp. Đúng như lời dặn, Quân tìm được một hốc đá kín đáo được che khuất sát bên cửa hang rồi đứng sát vách im lặng chờ đợi. Khi mặt trời vừa khuất bóng, từ rừng cây xa xa ngoài cửa hang, giọng nói hiền hoà, thánh thiện của Xà Mã vang lên: 
- Con cháu gái yêu Yến Vân của ta đâu rồi? Sao không ra đón ta? 
Yến Vân từ trong hang trả lời: 
- Bá phụ Xà Mã đó ư! Tiểu nữ đang bận rộn tí chút, xin bá phụ cứ tự tiện cho. 
Xà Mã đặt chân lên cửa hang rồi dừng lại, sát gần với chỗ Quân nấp. Đưa mắt nhìn vào hang thấy Yến Vân chỉ có một mình, cất tiếng cười to, Xà đổi giọng mà nói: 
- Con quỷ con, lộn giống kia! Ngươi mau mau quì xuống để ta hoá kiếp cho mày đi theo con mẹ và thằng cha khốn khiếp của mày. 
Yến Vân cầu xin: 
- Bá phụ đã giết song thân tiểu nữ rồi, đã thoả lòng thù hận rồi. Mong bá phụ vì tình nghĩa đồng môn với song thân của tiểu nữ mà tha thứ cho tiểu nữ được sống mà hương khói cho song thân. 
Xà Mã cười vang, nhìn thẳng vào mặt Yến Vân mà nói: 
- Ngươi nói như chuyện hoang đường vậy! Với song thân và cả với ngươi nữa dù ta có giết chết năm bẩy lần vẫn không đủ thoả mãn cho lòng thù hận của ta. Làm sao ta bỏ qua cho đứa con lộn giống như ngươi được. Thôi ngươi đừng tốn công xin xỏ nữa hãy nhận chịu số phận khốn nạn của ngươi đi. Ta không muốn phải rỗi hơi mà làm chuyện phúc đức bao dung.  
Yến Vân đáp: 
- Tiểu nữ nghĩ rằng bá phụ đang làm những chuyện phúc đức, thương người nên mới tưởng rằng viết thư nhờ người bạn trình lên bá phụ mong được bá phụ mở lòng tư bi mà bỏ qua…. 
Xà Mã chẳng để cho Vân nói xong, hắn cười vang mà trả lời: 
- Con bé lộn giống ơi! Ngươi tưởng ta rỗi hơi mà bỏ thời gian, sức lực ra làm cái chuyện từ thiện vớ vẩn ấy sao? Ta cũng chẳng cần giấu gì ngươi mà cho ngươi biết sự thật trước khi ngươi về bên kia thế giới với song thân ngươi. Những việc làm từ thiện, giúp đỡ kẻ cơ khổ, chỉ là cái vỏ bọc để cho những tên dư tiền, dư của, ngu dại đóng góp cho ta mà thôi. Còn việc ta bỏ vào túi của ta hay  bỏ ra bao nhiêu làm từ thiện thì ai mà biết được?  
Nói xong Xà Mã cười vang thích thú, nhìn Yến Vân mà nói tiếp: 
- Ta cũng nói cho ngươi biết, sau khi cho ngươi đoàn tụ với song thân ngươi, ta cũng sẽ tìm đến khách điếm, tìm thằng thư sinh mặt trắng, quen biết với ngươi, rồi ta cũng cho nó cùng về đoàn tụ với ngươi ở suối vàng. Không những thế ta sẽ tìm đến cha mẹ, anh chị em của thằng học trò ngu ngốc đó mà hoá kiếp để chúng nó cùng về với gia đình ngươi cho có bạn! Với ta, bất cứ ai liên hệ, quen biết với gia đình ngươi đều được ta cho lên thiên đàng hết! 
Đứng im trong góc hang, Quân đã nghe tất cả lời nói của Xà Mã, Quân đã nhận ra bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, độc ác của một con quỷ đội lốt người. Không một chút ngần ngại, nhanh nhẹn Quân tung gói bột lên thân thể Xà Mã. Một hiện tượng kỳ lạ tức thì xẩy ra, Xà Mã run lên, tay chân, đầu cổ cứng đơ không cử động được nữa. Xà Mã nhìn thấy Quân từ chỗ nấp đi ra, hắn chi nói được vài tiếng bập bẹ trước khi mồm bị cứng ngắc: 
- Ngươi dám… giết ta ư? …
Quân nhìn hắn bình thản mà đáp: 
- Ta không ngờ ngươi là một tên ma đầu, kẻ đạo đức giả, một con quỉ đội lốt người. Ta vì chính đạo mà trừ khử ngươi thì có gì mà dám hay không dám?!  
Chẳng biết Xà Mã có nghe được lời nói của Quân không nhưng khi Quân dứt lời thì khuôn mặt và thân hình hắn đã co rúm lại rồi xụp đổ xuống. Thân xác của hắn cùng với y phục biến dần dần thành một vũng nước hôi thối mầu đen trên nền hang. Yến Vân sung sướng chạy đến, ôm lấy Quân mà nói: 
- Cám ơn chàng đã nhìn thấy rõ sự việc và đã trả thù cho song thân thiếp. Từ nay thiếp hoàn toàn thuộc về chàng dù có phải làm kiếp trâu chó để trả ơn, thiếp cũng không dám từ nan. 
Trả lời: 
- Sao nàng nói quá lời như thế! Ta đã không tin lời nói của nàng, suýt đã bị tên quỷ ma này cho vào tròng như một người ngu muội. Đó không phải nhờ nàng mà ta đã trừ khử được một kẻ bại hoại hiểm độc trong xã hội, một việc đạo đức hay sao?  
Mấy ngày sau, cả gia đình Quân thấy quí tử trở về cùng với một giai nhân, mặt hoa da phấn, tánh tình lại hiền dịu dễ thương. Rồi không lâu sau đó, một đám cưới được tổ chức rất linh đình. Khoảng hơn một năm sau Yến Vân, song sinh cho ra đời một trai, một gái kháu khỉnh dễ thương. Quân cũng không còn mặn mà với thơ văn, họp bạn, du lịch đó đây như xưa nữa mà dành thời gian cho gia đình, ghé vai cùng với song thân, anh chị lo quán xuyến việc kinh doanh. Không những thế, vợ chồng Văn Văn, người anh cả tàn tật, con trai cả của họ Định sau nhiều năm chung sống nhưng chẳng động tĩnh gì với thai nghén nhưng không biết vì sao, cũng có thai và sinh cho họ Định một thằng bé trai. Mọi người cho rằng chính Yến Vân, nàng dâu xinh đẹp đã mang may mắn cho họ Định nên ai ai cũng quý mến. 

Vài hàng về tác giả:
Lưu An là bút hiệu của anh Vũ Ngọc Ruẩn. Anh Ruẩn sinh năm 1946 tại Xuân Trường, Nam Ðịnh, Việt Nam. Bút hiệu Lưu An & Thượng Xuyên Lộ, cựu học sinh Chu Văn An 59-66, tốt nghiệp Master về Food Sciences đại học Kagoshima, Japan 1977. Anh Ruẫn hiện đang sinh sống tại Thụy Sĩ. Cảm tưởng về thơ văn của Lưu An xin gởi về  kamikawajiluan@yahoo.com
1. Hồ Yến Vân
Lời bàn Tân Thánh Thán
Suốt khoảng 2 năm qua, không nhận được bài Liễu Trai Chí Dị nào của Lưu tiên sinh đã làm cho ta có chút lo lắng, không biết người bạn tâm giao có mạnh khoẻ không, nhất là thời gian qua thế gian phải khổ đau với dịch bệnh Covid. Nhưng hôm nay, trong cái lạnh lẽo mùa đông lạnh giá ta ngạc nhiên khi nhận được bài Hồ Yến Vân của tiên sinh vừa gửi đến. Vui mừng làm sao vì biết rằng người bạn tri giao vẫn còn nhớ đến kẻ hủ lậu này mà gửi bài cho ta thưởng thức, cũng nhờ  ta viết cho vài lời cảm xúc mà gửi đến đọc giả làm vui.
Đọc qua bài viết lần này, ta có cảm tưởng lối văn biền ngẫu trong thể văn liễu trai của Lưu tiên sinh không còn rõ nét như trước nữa. Hình như nó đã có chút tí nào đó hoà trộn với lối viết thông thường bằng những uốn éo câu cú, ngôn từ bóng bẩy mà tiên sinh vẫn dùng trong những sáng tác truyện ngắn, truyện dài… của tiên sinh. Nhưng nghĩ cho cùng thì có hề chi về hình thức nhỉ? Cái đáng nói là làm sao cho người đọc được dìm cảm xúc vào câu truyện, mà ngẩn ngơ với sắc đẹp của mỹ nhân, dù là nàng Hồ ly biến thể, là Ma quái hiện hình hay là Tiên nữ giáng trần… Thế mới là đạt vậy!
Đọc xong câu truyện “Hồ Yến Vân“ này lại làm cho ta nhớ lại, ngày xưa, rất xa xưa khi ta còn là một thư sinh ở cái xứ VN thời tao loạn. Ta cũng đã một lần đi hoang rồi vô tình mà rơi vào một chuyện tình liễu trai. Người đẹp liễu trai đó, ta chỉ gặp thoáng qua, rất sơ sài nhưng không biết vì sao mà mỹ nhân đã cho ta một đêm ân ái mặn nồng, để cho ta nhớ mãi không quên. Sáng hôm sau, khi thức dậy, nàng đã bỏ đi lúc nào không biết, chỉ để lại trên gối cho ta một mảnh giấy vỏn vẹn chỉ một câu: “Hãy giữ lấy cảm xúc của một lần cho nhau hôm nay để nhớ nhau suốt đời!“  Đúng như vậy,  suốt nhiều năm sau đó, ta đã bao lần đi lại chốn cũ mong lại ngẫu nhiên mà gặp lại cố nhân, nhưng cũng chẳng bao giờ có được, thật buồn thay! Ta đã nghĩ rằng có thể nàng là Hồ ly, là Ma mị hay là Tiên nữ… đã thích cảm con người lang bạt nhưng vẫn có tí chút nào đó của lãng mạn, đa mê của ta mà hiện đến cho ta một đêm khoái lạc làm cho ta nhớ mãi trong đời chăng?! Viết ra đây, chẳng phải để khoe khoang mà ta muốn  đóng góp thêm vào câu truyện “ Hồ Yến Vân “ của Lưu tiên sinh coi như có thêm một tí mơ mộng mà gửi đến đọc giả thưởng thức trong giá lạnh ùa đông mà thôi.
(Tân Thánh Thán)
Chú thích:  
- Thánh Thán: Nhà bình luận văn chương nổi danh, thời nhà Thanh bên Tàu, ông đã bình luận nhiều tác phẩm nổi danh như Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc, Thuỷ Hử v.v... 

- Tân Thánh Thán: Không có tài liệu nào viết về dòng dõi, gốc gác, tài học của ông nhưng nhiều người cho biết ông cũng là một đệ tử si dại trong tình trường. Đã từng đi chu du khắp thiên hạ nhưng Tân Thánh Thán vẫn không quên được những dấu tích, kỷ niệm xa xưa nơi cố quốc, nên hàng năm ông vẫn tìm về để đi lại, nhìn lại những con đường, góc phố, tiệm ăn, quán xá... ngày xưa với cảm giác “Đập gương xưa tìm bóng “! Đúng là một gã Đa Tình lắm ru?!
VÀO TRUYỆN
Quận Vĩnh Hoà, tỉnh Phú Nam có gia đình họ Định, được coi là danh giá, giàu có nhất nhì trong quận. Vợ chồng họ Định lại không may gặp cảnh hiếm muộn, chỉ sinh được hai người con trai. Vì lo sợ cho sự an toàn món tài sản khếch xù nên đã nhiều lần đến chùa cầu kính mong thần thánh, trời phật phù hộ mà có thêm vài đứa con nhưng cũng chẳng đến đâu. Cũng nghe người quen mách bảo, bà vợ đã phải nhún mình tìm những cô gái thuộc dòng có tiếng là mắn con về sống với chồng như dạng thê thiếp, nhưng cũng đã trải qua mấy lần mà cũng cũng chẳng ai có bầu sinh con như tính toán. Cuối cùng phải bỏ tiền ra chi trả cho những người hầu thiếp để họ tìm nơi khác mà an thân lập nghiệp.   
Hai người con trai lại không được như ý muốn. Người con trai cả tên Định Văn Văn ngay khi sinh ra đã có tật bẩm sinh, đôi chân không phát triển bình thường. Thân sinh tìm đủ danh y chữa trị nhưng vẫn phải dùng xe lăn, di chuyển vẫn cần có người giúp đỡ. Văn chỉ theo học bút nghiên xong cấp tú tài rồi ở nhà phụ giúp cha mẹ. Tuy nhiên Văn lại có di truyền của song thân, dù tàn tật nhưng lại rất có tài tính toán trong thương mại. Mới 16, 17 tuổi, đã biết giúp đỡ cha mẹ quán việc kinh doanh của gia đình rất thuần thục. Song thân dù buồn đau vì trưởng nam tàn tật, không như người bình thường  nhưng cũng có phần vui mừng, an ủi vì uýi tử có được sự khôn ngoan, nhạy bén trong thương trường. Khi Văn lên 18 tuổi, song thân đã nhờ mối lái tìm một gia đình gia giáo, ngoan hiền, nhiều đời có con đàn cháu đống mà cưới vợ cho con trai. Nhưng cũng chẳng hiểu sao, vợ chồng quí tử đã sống với nhau gần 3 năm mà cũng chẳng có động tĩnh thai nghén gì. Bố mẹ Văn đã có phần lo lắng, nhiều lần bàn bạc với nhau muốn tìm cho trưởng nam một thứ thiếp, nhưng chưa dám quyết định lý do là Văn không đồng ý, xin được chờ đợi thêm tí chút. Đã thế, gia đình con dâu cũng là bạn bè tâm giao, thân thiết trong thương trường nên cũng không dễ dàng phủi bỏ tình thân mà bạc tình với nhau. Con dâu cũng là người rất hiếu đễ với bố mẹ chồng, tận tình chăm lo cho chồng từ miếng ăn, ly nước, không chút nề nà mà giúp đỡ chồng trong những sinh hoạt hàng ngày khi chồng gặp khó khăn vì tàn tật nên càng làm cho cha mẹ của Văn khó nghĩ mà không dám tuyệt tình.  
Người con trai út, tên Định Văn Quân, dù cùng cha mẹ sinh ra nhưng bản tính của Quân hoàn toàn khác với người anh về mọi lãnh vực. Quân không có tí di truyền nào trong nghề buôn bán của cha mẹ. Vừa bước sang 19 tuổi, đã lấy xong bằng cử nhân, được người bạn thân thiết của phụ thân đang làm chức vị cao trên đế kinh tỏ ý muốn giúp đỡ Quân vào giới quan trường, còn có ý định gả ái nữ duy nhất cho Quân. Nhưng Quân lấy cớ còn trong tuổi ham chơi, cuộc sống cá nhân chưa ổn định mà khéo léo chối từ. Với việc kinh doanh của gia đình thì Quân gần như không bao giờ để mắt đến, nhiều lần song thân và anh chị cố tìm cách bắt Quân vào khuôn thước, dậy bảo từ từ mong Quân tìm được thích thú mà nhập cuộc. Nhưng cũng vô ích, có mặt bố mẹ và anh chị thì Quân cũng miễn cưỡng để mắt tí chút vào công việc, sau đó thì lơ là quên sạch. Riết rồi bố mẹ, anh chị cũng đành thở dài chán nản, bỏ qua để cho Quân được sống theo cá tính của mình. Tuy nhiên có một điều mà mọi người, từ người phục dịch trong gia đình đến nhân viên trong cơ sở làm ăn, ai ai cũng nhận thấy Quân là một người rất tốt bụng, sống chuẩn mực không ỷ nại gia thế mà hống hách với người khác, đúng nghĩa một người có tín nghĩa, đạo đức, trọng danh dự, không bao giờ quát mắng hay xiên xẹo với bất cứ ai, chính vì vậy mọi người, ai ai cũng quí mến Quân. 
Một điều nữa, rất khác biệt với mọi người trong gia đình và dòng họ, Quân có biệt tài về văn chương thơ phú, rất thích du lịch giao du với bạn bè cùng sỡ thích. Hễ nghe đâu có lễ hội liên quan đến thơ văn hay phong cảnh đẹp mà được bạn hữu mời gọi là Quân tham dự ngay. Tuy giao tế rộng rãi như vậy, nhưng Quân cũng rất biết giới hạn, không bao giờ sa đà vào những tật ách xấu xa, bệnh hoạn của xã hội. Thỉnh thoảng cũng có những lúc chiều bạn bè văn nghệ mà vào các chốn ăn chơi như kỹ viện, tửu lầu, hát xướng… nhưng Quân cũng chưa bao giờ mang tiếng bê tha quá mức  hay nhập bọn với những phường vô lại làm xấu xí gia phong. Bạn bè, quen biết của Quân hầu hết là những người có học thức, khoa bảng, gia đình danh giá trong xã hội. Đó cũng là lý do phụ thân tin tưởng mà cũng không quá kiểm soát, vẫn để cho Quân tự do liên hệ, rong chơi với bạn bè.  
Một hôm vào cuối tháng tư âm lịch, khí hậu oi nồng, tỉnh lỵ kế bên có lễ hội, nhóm bạn bè của Quân rủ nhau sang đó vui chơi, tham dự lễ hội, nhân tiện có dịp tận mắt nhìn gặp mặt một kỹ nữ nổi danh xinh đẹp, hát hay, múa đẹp đang nổi danh trên chốn ăn chơi. Quân và nhóm bạn sang giàu đã phải bỏ ra những thỏi vàng để được vào kỹ viện ngắm nhìn người đẹp múa hát. Mọi người ai ai cũng vui mừng thoả mãn, ngẩn ngơ với vẻ đẹp sắc nước hương trời của mỹ nữ nhưng với Quân, không biết có phải vì  “khuôn mẫu“ sắc đẹp khác với nhóm bạn hay vì đã ngà ngà say nên Quân nhìn mỹ nữ cũng chẳng có gì để nói là nghiêng nước, đổ thành như lời thế gian đồn thổi. Ngồi một lúc, không muốn phá vỡ đam mê của bạn bè, Quân lấy cớ mệt mỏi mà bỏ ra về. Ra khỏi kỹ viện bước thấp, bước cao vì rượu, hoà mình vào đám đông trẩy hội rồi bị lạc đường, không biết đường trở về khách sạn, cứ lang thang khắp chốn, đó đây. Cuối cùng Quân lạc vào một khu rừng bìa thành phố, càng loanh quanh càng mù mờ phương hướng mà không thể nào ra khỏi khu rừng. Đến khi trời xâm xẩm tối, Quân tỉnh rượu, thấy mình đứng giữ rừng cây um tùm mới lo sợ thú dữ rừng hoang, mong tìm nơi an toàn mà trú qua đêm chờ sáng tìm đường ra khỏi rừng! Sau một lúc nhắm mắt đi bừa, quá mệt mỏi, trời lại đổ mưa nhè nhẹ, may mắn thay, Quân nhìn thấy một hang cụt, đúng nghĩa là một hốc đá ẩn sát vào vách núi, chỉ rộng hơn 2 mảnh chiếu nhưng có vẻ khô ráo. Vui mừng Quân như bắt được hũ vàng, Quân chui vào hang, mong có chỗ an toàn mà tránh mưa qua đêm, chờ sáng hôm sau rồi sẽ tìm đường ra rừng.  
Vào hang, đã làm Quân ngạc nhiên thấy sát vách, góc bên trong hang có một chỗ rất khô ráo trên nền có trải lớp thảm cỏ, trộn lá cây khô khá dầy. Quân mừng rỡ, nghĩ đây là nơi đã có người đến trước cư trú rồi ra đi mà bỏ lại. Quá mệt mỏi sau cả một ngày đói khát, mệt lả lang thang trong rừng nên vừa nằm xuống thảm cỏ lá cây, Quân đã ngủ thiếp đi. Buổi sáng, ánh nắng mặt trời chói rọi vào hang cùng tiếng chim chóc ca vang trong rừng đã làm Quân tỉnh giấc. Mở mắt ra thấy nằm sát bên cạnh mình là một thiếu nữ rất xinh đẹp, mặt hoa da phấn, đúng là một mỹ nhân đang say ngủ. Dù rất ngạc nhiên nhưng Quân im lặng ngắm nhìn người đẹp. Đến một lúc, nhãn quang đã chán chê, không giữ được ham muốn, Quân chồm dậy ôm mỹ nhân vào lòng mà hôn hít như vãi vạo trên mặt, trên thân thể người đẹp. Mỹ nhân ban đầu còn ngái ngủ lại bị Quân ôm chặt làm dữ nên có phần lo sợ.  Nhưng chỉ khoảng khắc sau, lấy lại bình tĩnh mà rút được tay ra,  đứng bật dậy, lấy hết sức giáng một cái tát như búa bổ vào mặt Quân mà hét lên:  
- Thằng học trò khốn nạn này! Ta đã vì thương cảm cho ngươi vì đêm khuya, mưa lạnh giữa rừng mà để cho ngươi tạm ngủ qua đêm. Ngươi không biết điều mà cảm kích cô nương lại còn dám giở trò đốn mạt với ta sao? 
Có lẽ vì cái tát như trời giáng, lại thêm lời chửi mắng thậm tệ của mỹ nhân đã làm Quân tỉnh giấc. Đưa mắt nhìn người đẹp với chút ngượng ngùng mà trả lời:   
- Đây là nơi cư ngụ của nàng sao? Ta cứ tưởng là nơi hoang dã, vô chủ mà vào ngủ qua đêm…   
Không để cho Quân nói trọn lời, người đẹp, đưa tay chỉ vào góc hang với lớp cỏ, lá cây khô khô ráo mà trả lời: 
-Ngươi nghĩ rằng những lá cây, thảm cỏ khô ráo đó, chúng tự nhiên bò vào làm nệm ngủ cho ngươi sao?!  
Lúc này thì Quân đã nhìn ra vấn đề, hơi chau mày ra vẻ ân hận. Đưa bàn tay lên tát nhẹ vài cái vào mặt mình, ra vẻ ân hận nhìn người đẹp mà nói: 
- Đúng là ta đã sai rồi, mong nàng thứ lỗi mà bỏ qua! 
Rồi ngần ngừ, hơi chau cặp lông mày sâu róm, nhìn người đẹp với nụ cười thích thú, Quân nói nhẹ: 
- Nhưng cũng xin nàng hiểu cho ta, chỉ vì sắc đẹp nghiêng nước, đổ thành của nàng đã làm cho ta điên khùng như vậy đó, mong nàng rộng lòng mà thứ lỗi.  
Cũng chẳng để cho mỹ nhân trả lời, Quân sang sảng ngâm vài câu thơ trong bài “Phượng cầu hoàng“ của Tư Mã Tương Như khi tán tỉnh nàng Trác văn Quân, thời nhà Hán: 
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương biệt cương hề cộng cao tường
Dịch rằng:
Hỡi nàng mỹ nữ ở đài trang
Nhà gần người xa sầu tâm trạng
Nhờ duyên kết nối nợ uyên ương
Cùng nhau chấp cánh kiếp tang bồng
Người đẹp nghe Quân nói lại còn ngâm nga những câu thơ đa tình dành cho mình nên ra vẻ cảm động đến nỗi nhìn Quân ngẩn ngơ. Sự tức giận hoàn toàn biến mất thay vào đó là cảm động, vui mừng. Nghĩ cho cùng, thế gian có người đẹp nào mà nỡ giận hờn, trách mắng một nam nhân, dáng dấp sang trọng, điển trai như Quân lại biết dùng văn chương thơ phú mà ca tụng sắc đẹp của mình được nhỉ? Người đẹp tỏ ra cảm động, miệng cười rất xinh mà trả lời: 
- Thiếp làm sao mà vô tình không nhìn thấy tình của chàng dành cho thiếp được? Nhưng mới gặp lần đầu mà chàng đã vồ vập quá mức như vậy,  làm sao mà thiếp không lo sợ được? Mong chàng thông hiểu mà bỏ qua.   
Thấy mỹ nhân đã có phần dễ dãi, Quân chẳng e dè  đưa tay kéo người đẹp nằm xuống thảm cỏ, lá cây khô mà hôn hít, làm tình… dù cả hai cũng chưa biết gì về nhau. Mãi cho đến lúc mệt phờ mới tách nhau ra, Mỹ nhân đưa ngón tay búp sen gõ nhẹ vào trán Quân mà nói: 
-Nhìn chàng, thiếp cứ nghĩ chàng là một tên học trò dài lưng, tốn vải chỉ biết bay bổng với văn chương, thơ phú nhưng cũng chỉ là vẻ bề ngoài. Bên trong cũng là một kẻ tinh ranh tình trường, đa tình lắm nhỉ? 
Không để cho Quân trả lời người đẹp nói tiếp: 
- Nhưng chàng có biết thiếp là ai không mà đã dám buông thả như vậy? Chàng không nghĩ thiếp sẽ hãm hại chàng sao? 
Không một tí ngần ngừ, Quân mỉm cười, nhìn giai nhân mà trả lời: 
- Dù nàng là ma quỷ, hồ ly hiện hình hay là tiên nữ giáng trần… với ta chẳng có gì đáng nói, chỉ cần nàng xinh đẹp, làm cho say mê, yêu quý là được.  
Rồi cũng chẳng để cho người đẹp  trả lời, Quân nói tiếp: 
- Tiền tài, danh vọng mà làm chi? Ta đã từng chối từ, không màng đến nó rồi. Với ta chí lớn trong thiên hạ làm sao mà sánh được vẻ đẹp của mỹ nhân?!  
Rồi Quân kể cho người đẹp biết về gia thế của gia đình cũng như tên tuổi, lối sống coi thường tiền bạc của mình. Người đẹp cũng cho Quân biết song thân là giống nòi hồ ly nhờ tu luyện mà thành người, cha là Hồ Lịch, mẹ là Hồ Thuý Hoa, nàng tên Hồ Yến Vân vừa bước sang tuổi 18, cũng là người con duy nhất. Gia đình hiện đang sống ở một làng nhỏ phía bên kia dẫy núi của tỉnh lỵ. Suốt mấy tháng  nay mẫu thân bị bệnh, nên cứ khoảng 5, 7 ngày Yến Vân phải xuống trung tâm tỉnh lỵ để lấy thuốc chữa bệnh cho mẹ. Nhà thuốc không có sẵn nên mỗi lần đi lấy thuốc, Vân phải chờ đợi 1 hay 2 ngày để nhà thuốc chế biến. Hoàn cảnh gia đình không quá dư dả nên mỗi lần đi lấy thuốc Vân không thể chi trả cho khách sạn, vì vậy đã phải tìm hang đá ở triền núi, rồi mang lá cây rừng tạo ra một chỗ ngủ tạm qua đêm trong khi chờ đợi lấy thuốc cho mẹ. Hôm nay cũng như mọi lần khi lấy thuốc xong, trên đường trở về, trời đã tối, Vân đến hang núi, định ngủ qua đêm rồi sáng hôm sau trở về nhà, nhờ vậy mới có sự gặp gỡ với Quân. Sau khi đã hiểu câu chuyện của nhau, Quân nói: 
- Ta cũng chẳng có gì bận bịu nên muốn theo nàng về nhà, trước là vấn an mẫu thân của nàng lúc ốm đau, sau là muốn cho tình thân của chúng ta bền chặt hơn. Nàng nghĩ sao? 
Đáp:  
-Thiếp rất muốn, nhưng như chàng đã biết giống nòi chúng ta khác nhau, không dễ gì gần gũi nhau được. Đã thế gia cảnh thiếp nghèo hèn không đáng cho chàng thân thiết đâu, mong chàng hãy coi cuộc gặp mặt của chúng ta như gió thoảng qua song.  
Nắm lấy tay người đẹp, kéo ra khỏi cửa hang, Quân nói: 
- Ta không muốn nói nhiều, nếu nàng không đi, ta cũng bế nàng cùng đi! 
Không làm khác hơn, Yến Vân đành phải nghe theo, rồi cả hai vui vẻ, khoác tay nhau cùng đi. Đến khoảng giữ trưa thì về đến nhà. Một căn nhà lá 3 gian đơn sơ bao quanh bởi vài luống rau, khóm hoa trong một làng nhỏ với hơn chục căn nhà lá quy tụ ở sườn đồi.  
Với vẻ ngạc nhiên khi thấy con gái dẫn Quân vào nhà kèm theo vài lời giới thiệu sơ sài. Hồ Lịch quan sát Quân một lúc rồi đưa mắt nhìn người vợ ốm bệnh nằm trên chiếc phản gổ, bà cũng đang giương mắt nhìn khách. Quân cúi đầu chào vợ chồng chủ nhân mà thưa: 
- Tiểu sinh nghe Yến Vân nói phu nhân ốm bệnh nên đường đột đến vấn an mà không báo trước, mong nhân gia tha lỗi. Nếu gia đình có gì khó khăn về tiền bạc để chữa trị bệnh cho phu nhân xin cho biết, tiểu sinh chắc chắn sẽ làm được và không chối từ.  
Nghe Quân nói, vợ chồng Hồ Lịch tỏ vẻ cảm động mà vui vẻ nói chuyện, không còn ánh mắt nghi ngại dò la nữa. Quân cũng chẳng giấu giếm nói rõ về gia thế, cơ ngơi thương mại của gia đình cho họ Hồ nghe. Khi biết rõ về gia thế của Quân, Hồ Lịch có chút ngạc nhiên: 
- Thế ra ngươi họ Định, một dòng họ nổi danh giàu có, sang trọng của tỉnh Phú Nam đó sao? Khoảng 15 năm về trước, vợ chồng chúng ta cũng đã phiêu bạt đến đó tạm cư nên cũng đã nghe biết nhiều về gia thế, tên tuổi của phụ thân ngươi. Không ngờ hôm nay lại nhờ ái nữ mà chúng ta quen biết được với ngươi. Hân hạnh lắm ru!  
Ngần ngừ tí chút, Hồ Lịch nhìn Quân nói tiếp: 
- Dĩ nhiên chúng ta rất vui mừng khi được kết thân với ngươi, một danh gia trong xã hội. Nhưng ta nói thật chúng ta không dám với cao, đã thế khi song thân ngươi biết chúng ta khác giống nòi thì không phải là điều thuận thảo đâu. Ngươi hãy tạm ngủ qua đêm nơi nhà tranh nghèo khó này rồi sáng sớm ngày mai xin ngươi rời xa chúng ta, coi như chuyện quen biết của ngươi với ái nữ của chúng ta là chuyện qua đường. 
Quân dùng đủ lời lẽ chấn an vợ chồng Hồ Lịch, không nề nà cho lão biết, dù gia đình giàu sang nhưng bản thân hoàn toàn không thèm tơ vương đến tiền tài danh vọng mà dành tất cả cho vợ chồng người anh. Với Quân hạnh phúc nhất vẫn là được sống theo những gì mà mình ước mong, xin vợ chồng lão đừng nghi ngại. Quân cũng cho lão biết chuyện khác giống nòi, nếu không nói ra thì ai biết được. Giả dụ có biết thì song thân của Quân là thương gia, không dại gì mà không tính suy cái dại, cái khôn mà làm mất đứa con trai của mình. Với những lời lẽ, quyết liệt của Quân đã làm vợ chồng Hồ lão vui vẻ ra mặt. Đưa mắt nhìn vợ con ra chiều suy nghĩ rồi Hồ lão nói: 
- Ngươi đã nói vậy, chúng ta cũng không muốn giấu giếm ngươi một điều khác, nó rất quan trọng, ta phải nói cho ngươi rõ để ngươi không phải mang cái khổ cho chính cá nhân ngươi mà có thể cho cả cho đại gia đình ngươi nữa.  

Nói xong với cái gật đầu nhẹ đồng tình của người vợ, Hồ Lịch cho biết suốt gần 20 năm nay, từ khi kết hôn với Hồ Thuý Hoa, vợ của ông ta hiện nay. Cả hai đã phải lên Bắc, xuống Nam trốn chạy kẻ thù tên là Xà Mã, người bạn đồng môn, xuất thân là kiếp rắn. Xà Mã đã cùng với vợ chồng Hồ Lịch bước vào đường tu hành rồi thành công mà biến kiếp mà thành người. Trong thời gian tu hành, Hồ Lịch và Xà Mã cùng yêu thương Hồ Thuý Hoa, nhưng khi biến kiếp thành người, Hồ Lịch đã được Thuý Hoa yêu thương kết thành vợ chồng. Từ đó Xà Mã coi nó là một sự sỉ nhục nên thề sẽ tìm cách giết hai người trả thù. Vì trí mưu của vợ chồng Hồ Lịch không thể chống đối được sự truy sát của Xà Mã nên hơn hai chục năm qua, vợ chồng Hồ Lịch đã phải trốn chạy khắp mọi nơi. Nhưng cứ đến nơi nào cũng chỉ  được vài ba năm Xà Mã lại tìm thấy và rồi lại phải tiếp tục trốn chạy. Lần này cũng vậy, gia đình họ Hồ mới đến cư ngụ tại làng này được không quá 3 năm, Xà Mã cũng tìm thấy, đúng lúc đó thì người vợ Hồ Thuý Hoa lại bị bệnh tật. Thấy không còn đường nào trốn chạy nữa, vợ chồng Hồ Lịch đã viết thư cho Xà Mã cầu xin thương cảm cho nỗi khốn khổ vì trốn chạy, mong vì tình đồng môn mà quên đi những hận thù mà tha thứ, bỏ qua. Vài tuần trước, gia đình họ Hồ đã nhận được thư hồi âm của Xà Mã cho biết chuyện tha thứ, bỏ qua thì không bao giờ có, nhưng cứ gặp nhau, việc xử sự thế nào thì còn tuỳ thuộc vào vui buồn. Xà Mã còn cho biết trong khoảng thời gian 3 tháng trời, bất cứ khi nào thích hợp sẽ tìm đến tận nhà để giải quyết ân oán với toàn thể gia đình họ Hồ.   
Sau khi nói rõ cho Quân nghe, Hồ lão nhìn Quân mà nói:  
- Chúng ta đã cho ngươi biết tất cả sự thật rồi, ta thành thật khuyên ngươi nên mau mau rời xa chúng ta càng sớm càng tốt. Tốt cho chính cá nhân ngươi mà còn tránh được những rắc rối cho đại gia đình ngươi nữa. Xin ngươi đừng nghĩ ta hù dọa mà hại đến thân. Xà Mã không phải là người dễ coi thường được đâu! 
Đáp:  
- Nói như lão nhân gia, thì phép vua, luật nước không còn nữa hay sao?   
Hồ lão mỉm cười mà trả lời: 
- Luật pháp chỉ để răn đe những người bình thường, vì ngu dại mà vướng vào tội ác mà thôi. Với những kẻ lọc lõi, khôn ngoan, tài năng, mưu lược vượt lên trên luật pháp như Xà Mã thì việc bắt được chúng đền tội không phải dễ. Nếu dễ, hoàn thiện như ngươi nghĩ thì nhân gian, xã hội này chẳng có người khốn khổ vì áp bức, bất công!  
Thấy Quân im lặng, ý lắng nghe, Hồ lão ra vẻ quyết liệt mà nói: 
- Dù sao gia đình ta cũng cám ơn thịnh tình, lòng tốt của ngươi,  nhưng dù thế nào thì sáng sớm ngày mai ngươi cũng phải rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt để khỏi sinh ra những phiền nhiễu không hay cho ngươi và ân hận cho chúng ta. Trong khoảng 2 tháng nữa, nếu may mắn mà gia đình ta thoát nạn, được Xà Mã buông tha, thì chẳng cần ngươi phải tìm đến đây, chúng ta sẽ đến tận nhà ngươi mà cầu cạnh kết thân. Áí nữ của ta mà được bước vào làm dâu họ Định của ngươi là một ân huệ cho chúng ta vậy. Xin ngươi đừng nghi ngại, mà nên nghe lời ta trở về nhà,  chờ 2 tháng nữa. Ta hy vọng với sự cầu xin của chúng ta, Xà Mã sẽ nghĩ đến tình đồng môn mà tha thứ, bỏ qua, khi đó chúng ta sẽ tự mình tìm đến gia đình ngươi mà cầu thân.   
Sáng sớm hôm sau, vừa xong bữa điểm tâm sơ sài, như đã xếp đặt trước, Yến Vân nhét vài cái bánh vào bịch đưa cho Quân dành cho bữa cơm trưa rồi mọi người tiễn đưa Quân lên đường. Buồn bã, Quân theo đường cũ trở về nhà, song thân và anh chị Quân không giấu được vẻ ngạc nhiên khi thấy Quân trở về nhà với thần thái vui mừng, thích nói chuyện với mọi người. Không còn vẻ im lặng hay miễn cưỡng trong mọi sinh hoạt buôn bán của gia đình như trước kia nữa. Đã thế Quân còn mua sắm sửa những vật dụng trang trí trong phòng ngủ của mình. Song thân không giữ được im lặng mà cất tiếng hỏi lý do, Quân trả lời: 
- Con đã tìm được ý trung nhân, chẳng lâu nữa con sẽ dẫn nàng về ra mắt gia đình. Từ nay con sẽ vào khuôn thước, sẽ cùng với mọi người cùng cáng đáng việc kinh doanh.  
Nghe quý tử nói, mọi người đều vui mừng, muốn được gặp ngay người đàn bà tài năng nào đã làm cho Quân thay đổi lạ kỳ như vậy? Nhưng Quân cũng lấp lửng cho biết khi nào mọi việc rõ ràng sẽ tự dẫn người đẹp về ra mắt gia đình. Hàng ngày Quân vẫn ra vào nhà tỏ vẻ trông mong vợ chồng Hồ Lịch giải quyết xong thù hận với Xà Mã mà dẫn Yến Vân đến như đã hứa. Nhưng thấm thoát hơn một tháng đi qua, hoàn toàn không có động tĩnh gì đã làm Quân lo lắng không biết sự thù hận của gia đình Yến Vân và Xà Mã có được giải quyết trong tốt đẹp như mình mong muốn hay không? Quá bồn chồn, không muốn chờ đợi thêm nữa, Quân lại khăn gói lên đường. Hai ngày sau, trên đường đi, Quân tạt vào hang đá nơi đã gặp Yến Vân với hy vọng ngẫu nhiên mà gặp lại nhau. Nhưng hang đá không còn sạch sẽ, ấm cúng như trước nữa, nó như đã bị người ta đập phá. Lo lắng cho sự an nguy của người đẹp, Quân vội vàng tìm đến căn nhà lá của gia đình họ Hồ, nhưng nhà đã bị cháy hoàn toàn thay vào đó là 2 nấm mồ sơ sài, không mộ bia ở giữ sân, đất đắp mồ vẫn còn ẩm ướt chứng tỏ việc chôn cất cũng chỉ mới xẩy ra không lâu.  
Không biết làm sao hơn, Quân hỏi cư dân chung quanh. Mọi người cho biết khoảng hơn một tuần lễ trước, vào lúc nửa đêm, có nghe thấy một cuộc cãi vã giữa Hồ Lịch với người đàn ông nào đó từ trong nhà vọng ra. Mọi người nghĩ rằng đó là sự gây gỗ bình thường nên cũng chẳng ai để ý. Nhưng sau đó một lúc thì ngọn lửa bùng lên rất mạnh, gặp ngày gió to căn nhà lại xây cất bằng gỗ, lá giang nên khi mọi người hô hoán chạy đến thì căn nhà đã hoàn toàn thành tro bụi. Sáng hôm sau khi tro tàn đã nguội, chỉ thấy thi thể của hai vợ chồng Hồ lão đã chết cháy dưới đống đổ nát nhưng không thấy thi thể của Yến Vân. Mọi người cho rằng có thể lúc xẩy ra gây gỗ với ai đó rồi sinh ra hoả hoạn,  Yến Vân đã không ở nhà hay đã bị kẻ đốt nhà bắt mang đi rồi.  
Chẳng biết làm gì hơn, buồn bã Quân chỉ thắp vài nén hương trước mộ vợ chồng Hồ Lịch vội vàng ra về để kịp đến thị trấn trước trời tối, tìm khách điếm ngủ qua đêm chờ sáng hôm sau sẽ trở về nhà. Quá mệt mỏi vì suốt mấy ngày liền vượt rừng, trèo núi, vừa vào phòng trọ, đang định tắm rửa rồi ngủ bù lấy lại sức thì có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Với vẻ bực mình, Quân mở cửa ra thì thấy Yến Vân đầu tóc rối bù, quần áo xơ xác như vừa chui từ ống cống lên. Không để ý đến sự bàng hoàng của Quân, Vân lách nhanh vào phòng, đóng vội cửa lại mà nói: 
- Hãy đóng cửa lại, không cho ai vào, thiếp sẽ nói cho chàng nghe mọi sự. 
Vân cho biết, khoảng hơn 1 tuần trước, đúng vào ngày Vân phải lên thị trấn lấy thuốc cho mẹ, vì nhà thuốc không có đủ nguyên liệu nên Vân phải nán lại hơn 3 ngày so với thường lệ. Mãi đến buổi tối khuya vài ngày trước, khi mang thuốc về đã thấy nhà đã bị cháy thành tro với 2 nấm mồ mới đắp của phụ thân. Vân biết chắc chắn là Xà Mã đã gây ra thảm cảnh này, nhờ may mắn đúng lúc đi lấy thuốc cho mẹ mà thoát nạn. Nhìn thấy mộ của song thân, Vân chỉ dám im lặng quì lạy rồi vội vàng bỏ đi vì nghĩ rằng Xà Mã vẫn còn loanh quanh, không dễ dàng gì mà bỏ qua khi biết Vân không có trong nhà. Sau khi rời nhà, Vân đoán chắc sớm hay muộn Quân sẽ đến tìm mình, sẽ ghé vào hang đá nên Vân đã đến đó phá huỷ hang mục đích báo cho Quân biết nạn kiếp đã xẩy ra mà tránh xa. Vân cũng cho biết trước khi còn sống phụ thân có đưa cho Vân một gói bột thuốc độc để phòng thân. Dặn Vân nếu không tránh xa được sự truy sát của Xà Mã hãy tìm cách đến gần mà bất thình lình vẩy gói bột lên cơ thể hắn sẽ làm hắn bất động mà chết dần dần. Phụ thân còn căn dặn thêm là Xà Mã có khứu giác rất tinh trường lại quen thuộc với mùi cơ thể của giống hồ ly nhà Vân nên từ xa nhiều trượng hắn sẽ nhận được ngay, đừng dại mà mong tiếp cận hắn. Phụ thân cũng khuyên, tốt nhất vẫn là trốn chạy, tìm cách ẩn mình càng xa càng tốt vì Xà Mã rất khôn ngoan, lòn lõi, tài trí, Vân không thể sánh với hắn được. Vẫn cũng cho biết, hiện nay Xà Mã đang ở thị trấn, hàng ngày hắn thường đến một hội quán làm từ thiện của thị trấn để diễn thuyết, kêu gọi sự đóng góp của những mạnh thường quân tham gia cùng với hắn trong hoạt động từ thiện.  
Sau khi đã kể lể tất cả sự việc cho Quân hiểu, Vân nói: 
- Đúng là may mắn mà thiếp gặp được chàng, xin chàng hãy vì thù giết cha mẹ của thiếp mà báo thù. Chàng tìm cách đến gần hắn mà dùng gói bột này giết hắn. Mong chàng hiểu là thiếp không muốn kéo chàng vào chuyện ân oán nhưng vì thiếp không thể tiếp cận với hắn được nên mới phải làm phiền mà nhờ đến chàng. Thiếp nguyện sẽ làm thân trâu ngựa trả lại nghĩa tình của chàng. 
Đáp:  
- Nàng đã nói như vậy, thì ta làm sao mà từ chối cho được! Hãy đưa cho ta gói bột, ngay ngày mai, ta sẽ đến hội quán, tiếp cận hắn và làm như nàng chỉ dẫn. Đó cũng là việc ta phải làm vì kẻ thù của nàng cũng là của ta vậy. Nàng đừng quá hạ mình mà làm cho ta phải khó nghĩ.  
Sáng hôm sau, nói với Yến Vân ngồi chờ tin vui, Quân rời khách đếm đến hội quán từ thiện tại trung tâm thị trấn đã thấy khá đông người đang lắng nghe một người đàn ông trung niên dáng vẻ sang trọng, trí thức, đội mũ Khổng Minh, giọng nói hoà thuận đầy vẻ đạo đức… Ông ta đang nói về những chương trình từ thiện như giúp đỡ người già cô nhỡ, trẻ con vô gia cư trong xã hội..v..v..  Người ngồi sát bên cho biết đó chính là Xà Mã, một nhân vật nổi danh quảng đại, đạo đức trong giới làm từ thiện, có tấm lòng quảng đại đang được xã hội nể trọng. Quân cũng thấy đó là đều rất đúng, giọng nói êm nhẹ, từ tốn, dáng điệu chậm rãi lại luôn luôn nói những câu khiêm nhường mỗi khi khán thính giả vỗ tay tán thưởng. Nhìn phong thái của người diễn giả, quân tin đó là một người đáng tôn kính, không thể nào là một ác nhân được. Quân cho rằng sự thù ghét của gia đình Yến Vân là một sự lầm lẫn, mang tính đố kỵ người tài năng hơn mình mà ra. Nghĩ như vậy, Quân bỏ hẳn ý định làm hại Xà Mã mà còn lắng tai nghe, kính phục những lời nói đầy đạo đức, bao dung của ông ta. Quân ngồi nghe Xà Mã nói cho đến hết giờ mới trở về khách điếm. Với vẻ mặt vui mừng mở cửa đón Quân vào phòng, Vân nói: 
- Chàng đã trả thù cho gia đình thiếp rồi phải không? 
Nhìn thẳng vào mặt Vân, Quân không vui lắc đầu, đưa trả cho Vân gói bột mà trả lời: 
- Không! Ta yêu thương nàng thế nào thì nàng đã rõ, nhưng ta không thể vì thế mà mê muội làm chuyện bất nhân được. Dưới mắt ta Xà Mã làm một quân tử đầy lòng nhân đạo. Dáng dấp, ngôn từ của ông ta khi trao đổi với mọi người luôn luôn nhỏ nhẹ, ân cần, khiêm cung…Một người như vậy tuyệt đối làm điều xấu xa được.  
Ngừng lại tí chút nhìn vào khuôn mặt ngẩn ngơ của Yến Vân, Quân nói tiếp: 
- Đúng như vậy ta yêu nàng nhưng ta là người học sách thánh hiền, hiểu lẽ phải trái, xấu tốt… Tư cách đó không cho phép ta làm những việc hèn hạ mà hãm hại người ngay, kẻ tốt được. Xin nàng hãy hiểu cho ta. Đừng nên mang cái bả tình yêu để bắt ta làm những điều xằng bậy. 
Nghe Quân nói như bị tạt sô nước lạnh vào mặt. Vân cúi đầu, hai hàng nước mắt dàn dụa ngẩn ngơ nhìn Quân. Một lúc sau, hình như lấy được bình tĩnh, Vân nói: 
- Đúng như chàng đã nhận xét về Xà Mã, nhưng đó chỉ là khuôn mặt giả đạo đức rất cao siêu của một con quỷ khát máu. Nhưng thôi nếu chàng đã nói vậy, thiếp cũng đành cám ơn và buồn đau xa rời chàng mà thôi.  
Nói xong Vân định quay ra khỏi phòng, nhưng chợt quay lại nhìn Quân mà nói: 
- Thiếp vừa nghĩ ra một cách, khả dĩ giúp chàng nhìn thấy bộ mặt thật của tên giả đạo đức đó. Cách này có phần nguy hiểm cho thiếp và rất có thể cả cho chàng nữa nếu chúng ta sai lầm khi thực hiện.  
Vân sẽ viết một lá thư hẹn với Xà Mã vào buổi chiếu tối hôm sau tại hang núi nơi mà Vân và Quân đã gặp nhau. Trong thư Vân xin lỗi, cầu xin Xà Mã vì nghĩa đồng môn với cha mẹ mà tha thứ để Vân được sống như mọi người, không phải trốn chạy như song thân. Nhưng trước khi Xà Mã đến chỗ hẹn, Quân với túi thuốc độc, núp sát vào cửa hang, nơi kín đáo để Xà Mã không nhìn thấy được. Vân sẽ dùng lời khéo léo để cho chính miệng Xà Mã nói ra con người thật, giả đạo đức, bất nhân của hắn. Quân sẽ chính ta nghe được sự thật tốt xấu của Xà Mả rồi tuỳ ý Quân quyết định giúp hay không giúp Vân trả thù. Vân cũng nhắc nhở Quân phải rất kín đáo, tránh tuyệt đối không làm cho Xà Mã nghi ngờ mà phát hiện ra, nếu không sẽ thiệt thân đó vì Xà Mã không phải là người kém cỏi đâu. Khi đã quyết định làm, thì phải nhanh, chính xác nếu không thì chắc chắn cả hai sẽ chết. Nghe Vân nói như vậy, Quân vui vẻ trả lời: 
- Ta sẽ nghe lời nàng mà rất thận trọng, kín đáo. Nhưng ta cũng nói rõ nếu hắn không là kẻ bại hoại như nàng nói thì ta sẽ không làm cho nàng vừa ý được,  dù ta rất yêu thương nàng. Mong nàng hãy hiểu cho mà tha thứ, đừng nghĩ ta là kẻ vô tình. 
Đúng như xếp đặt, sáng hôm sau Quân lại đến hội quá từ thiện, cùng với mọi người ngồi nghe Xà Mã nói chuyện cho đến gần trưa thì cuộc nói chuyện chấm dứt. Quân đến gần Xà Mã trong thái độ rất kính trọng của kẻ hậu sinh với người trưởng thượng, rồi đưa cho Xà Mã lá thư của Yến Vân. Xà Mả có chút ngạc nhiên khi nhận lá thư, mở ra đọc xong, với giọng nói hoà thuận Xà Mã hỏi về sự quen biết của Quân với Yến Vân. Nhớ lời dặn của Vân, Quân chỉ nói với ông ta là vừa quen biết mấy ngày trước trong một dịp di dạo trong rừng mà thôi. Xà Mã nhìn quân, với nụ cười rất hiền từ, thân thiện mà nói với Quân: 
- À ra thế, công tử may mắn lắm mới quen biết với cô cháu gái ngoan hiền, xinh đẹp, rất quí yêu của ta đó. Xin công tử đừng làm cháu gái ta buồn phiền nhe!  
Rồi Xà Mã hỏi Quân có cùng đến nơi hẹn với Yến Vân không, nhớ lời dặn của Vân, Quân lấy cớ vì bận việc nên không thể cùng đi với Vân được.  Ông ta cũng hỏi  về khách điếm, nơi cư ngụ, Quân cũng chẳng ngại ngần mà cho ông ta địa chỉ nơi cư ngụ. Với nụ cười hiền hoà, ông ta hứa sau khi gặp được cháu gái sẽ đến tận khách điếm cám ơn và trò chuyện với Quân. Xong đâu đấy, Quân trở về khách điếm, mở cửa vào phòng, thì Vân đã rời xa, nàng để lại gói bột thuốc độc và lá thư vắn tắt cho biết vì nàng phải đến hang núi ngay để chuẩn bị chờ đón Xà Mã. Nàng cũng dặn Quân nhanh chóng đến hang núi trước buổi xế chiều để  không bị Xà Mã bắt gặp. Đúng như lời dặn, Quân tìm được một hốc đá kín đáo được che khuất sát bên cửa hang rồi đứng sát vách im lặng chờ đợi. Khi mặt trời vừa khuất bóng, từ rừng cây xa xa ngoài cửa hang, giọng nói hiền hoà, thánh thiện của Xà Mã vang lên: 
- Con cháu gái yêu Yến Vân của ta đâu rồi? Sao không ra đón ta? 
Yến Vân từ trong hang trả lời: 
- Bá phụ Xà Mã đó ư! Tiểu nữ đang bận rộn tí chút, xin bá phụ cứ tự tiện cho. 
Xà Mã đặt chân lên cửa hang rồi dừng lại, sát gần với chỗ Quân nấp. Đưa mắt nhìn vào hang thấy Yến Vân chỉ có một mình, cất tiếng cười to, Xà đổi giọng mà nói: 
- Con quỷ con, lộn giống kia! Ngươi mau mau quì xuống để ta hoá kiếp cho mày đi theo con mẹ và thằng cha khốn khiếp của mày. 
Yến Vân cầu xin: 
- Bá phụ đã giết song thân tiểu nữ rồi, đã thoả lòng thù hận rồi. Mong bá phụ vì tình nghĩa đồng môn với song thân của tiểu nữ mà tha thứ cho tiểu nữ được sống mà hương khói cho song thân. 
Xà Mã cười vang, nhìn thẳng vào mặt Yến Vân mà nói: 
- Ngươi nói như chuyện hoang đường vậy! Với song thân và cả với ngươi nữa dù ta có giết chết năm bẩy lần vẫn không đủ thoả mãn cho lòng thù hận của ta. Làm sao ta bỏ qua cho đứa con lộn giống như ngươi được. Thôi ngươi đừng tốn công xin xỏ nữa hãy nhận chịu số phận khốn nạn của ngươi đi. Ta không muốn phải rỗi hơi mà làm chuyện phúc đức bao dung.  
Yến Vân đáp: 
- Tiểu nữ nghĩ rằng bá phụ đang làm những chuyện phúc đức, thương người nên mới tưởng rằng viết thư nhờ người bạn trình lên bá phụ mong được bá phụ mở lòng tư bi mà bỏ qua…. 
Xà Mã chẳng để cho Vân nói xong, hắn cười vang mà trả lời: 
- Con bé lộn giống ơi! Ngươi tưởng ta rỗi hơi mà bỏ thời gian, sức lực ra làm cái chuyện từ thiện vớ vẩn ấy sao? Ta cũng chẳng cần giấu gì ngươi mà cho ngươi biết sự thật trước khi ngươi về bên kia thế giới với song thân ngươi. Những việc làm từ thiện, giúp đỡ kẻ cơ khổ, chỉ là cái vỏ bọc để cho những tên dư tiền, dư của, ngu dại đóng góp cho ta mà thôi. Còn việc ta bỏ vào túi của ta hay  bỏ ra bao nhiêu làm từ thiện thì ai mà biết được?  
Nói xong Xà Mã cười vang thích thú, nhìn Yến Vân mà nói tiếp: 
- Ta cũng nói cho ngươi biết, sau khi cho ngươi đoàn tụ với song thân ngươi, ta cũng sẽ tìm đến khách điếm, tìm thằng thư sinh mặt trắng, quen biết với ngươi, rồi ta cũng cho nó cùng về đoàn tụ với ngươi ở suối vàng. Không những thế ta sẽ tìm đến cha mẹ, anh chị em của thằng học trò ngu ngốc đó mà hoá kiếp để chúng nó cùng về với gia đình ngươi cho có bạn! Với ta, bất cứ ai liên hệ, quen biết với gia đình ngươi đều được ta cho lên thiên đàng hết! 

Đứng im trong góc hang, Quân đã nghe tất cả lời nói của Xà Mã, Quân đã nhận ra bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, độc ác của một con quỷ đội lốt người. Không một chút ngần ngại, nhanh nhẹn Quân tung gói bột lên thân thể Xà Mã. Một hiện tượng kỳ lạ tức thì xẩy ra, Xà Mã run lên, tay chân, đầu cổ cứng đơ không cử động được nữa. Xà Mã nhìn thấy Quân từ chỗ nấp đi ra, hắn chi nói được vài tiếng bập bẹ trước khi mồm bị cứng ngắc: 
- Ngươi dám… giết ta ư? …
Quân nhìn hắn bình thản mà đáp: 
- Ta không ngờ ngươi là một tên ma đầu, kẻ đạo đức giả, một con quỉ đội lốt người. Ta vì chính đạo mà trừ khử ngươi thì có gì mà dám hay không dám?!  
Chẳng biết Xà Mã có nghe được lời nói của Quân không nhưng khi Quân dứt lời thì khuôn mặt và thân hình hắn đã co rúm lại rồi xụp đổ xuống. Thân xác của hắn cùng với y phục biến dần dần thành một vũng nước hôi thối mầu đen trên nền hang. Yến Vân sung sướng chạy đến, ôm lấy Quân mà nói: 
- Cám ơn chàng đã nhìn thấy rõ sự việc và đã trả thù cho song thân thiếp. Từ nay thiếp hoàn toàn thuộc về chàng dù có phải làm kiếp trâu chó để trả ơn, thiếp cũng không dám từ nan. 
Trả lời: 
- Sao nàng nói quá lời như thế! Ta đã không tin lời nói của nàng, suýt đã bị tên quỷ ma này cho vào tròng như một người ngu muội. Đó không phải nhờ nàng mà ta đã trừ khử được một kẻ bại hoại hiểm độc trong xã hội, một việc đạo đức hay sao?  
Mấy ngày sau, cả gia đình Quân thấy quí tử trở về cùng với một giai nhân, mặt hoa da phấn, tánh tình lại hiền dịu dễ thương. Rồi không lâu sau đó, một đám cưới được tổ chức rất linh đình. Khoảng hơn một năm sau Yến Vân, song sinh cho ra đời một trai, một gái kháu khỉnh dễ thương. Quân cũng không còn mặn mà với thơ văn, họp bạn, du lịch đó đây như xưa nữa mà dành thời gian cho gia đình, ghé vai cùng với song thân, anh chị lo quán xuyến việc kinh doanh. Không những thế, vợ chồng Văn Văn, người anh cả tàn tật, con trai cả của họ Định sau nhiều năm chung sống nhưng chẳng động tĩnh gì với thai nghén nhưng không biết vì sao, cũng có thai và sinh cho họ Định một thằng bé trai. Mọi người cho rằng chính Yến Vân, nàng dâu xinh đẹp đã mang may mắn cho họ Định nên ai ai cũng quý mến. 
Vài hàng về tác giả:
Lưu An là bút hiệu của anh Vũ Ngọc Ruẩn. Anh Ruẩn sinh năm 1946 tại Xuân Trường, Nam Ðịnh, Việt Nam. Bút hiệu Lưu An & Thượng Xuyên Lộ, cựu học sinh Chu Văn An 59-66, tốt nghiệp Master về Food Sciences đại học Kagoshima, Japan 1977. Anh Ruẫn hiện đang sinh sống tại Thụy Sĩ. Cảm tưởng về thơ văn của Lưu An xin gởi về  kamikawajiluan@yahoo.com
1. Hồ Yến Vân
Lời bàn Tân Thánh Thán
Suốt khoảng 2 năm qua, không nhận được bài Liễu Trai Chí Dị nào của Lưu tiên sinh đã làm cho ta có chút lo lắng, không biết người bạn tâm giao có mạnh khoẻ không, nhất là thời gian qua thế gian phải khổ đau với dịch bệnh Covid. Nhưng hôm nay, trong cái lạnh lẽo mùa đông lạnh giá ta ngạc nhiên khi nhận được bài Hồ Yến Vân của tiên sinh vừa gửi đến. Vui mừng làm sao vì biết rằng người bạn tri giao vẫn còn nhớ đến kẻ hủ lậu này mà gửi bài cho ta thưởng thức, cũng nhờ  ta viết cho vài lời cảm xúc mà gửi đến đọc giả làm vui.
Đọc qua bài viết lần này, ta có cảm tưởng lối văn biền ngẫu trong thể văn liễu trai của Lưu tiên sinh không còn rõ nét như trước nữa. Hình như nó đã có chút tí nào đó hoà trộn với lối viết thông thường bằng những uốn éo câu cú, ngôn từ bóng bẩy mà tiên sinh vẫn dùng trong những sáng tác truyện ngắn, truyện dài… của tiên sinh. Nhưng nghĩ cho cùng thì có hề chi về hình thức nhỉ? Cái đáng nói là làm sao cho người đọc được dìm cảm xúc vào câu truyện, mà ngẩn ngơ với sắc đẹp của mỹ nhân, dù là nàng Hồ ly biến thể, là Ma quái hiện hình hay là Tiên nữ giáng trần… Thế mới là đạt vậy!
Đọc xong câu truyện “Hồ Yến Vân“ này lại làm cho ta nhớ lại, ngày xưa, rất xa xưa khi ta còn là một thư sinh ở cái xứ VN thời tao loạn. Ta cũng đã một lần đi hoang rồi vô tình mà rơi vào một chuyện tình liễu trai. Người đẹp liễu trai đó, ta chỉ gặp thoáng qua, rất sơ sài nhưng không biết vì sao mà mỹ nhân đã cho ta một đêm ân ái mặn nồng, để cho ta nhớ mãi không quên. Sáng hôm sau, khi thức dậy, nàng đã bỏ đi lúc nào không biết, chỉ để lại trên gối cho ta một mảnh giấy vỏn vẹn chỉ một câu: “Hãy giữ lấy cảm xúc của một lần cho nhau hôm nay để nhớ nhau suốt đời!“  Đúng như vậy,  suốt nhiều năm sau đó, ta đã bao lần đi lại chốn cũ mong lại ngẫu nhiên mà gặp lại cố nhân, nhưng cũng chẳng bao giờ có được, thật buồn thay! Ta đã nghĩ rằng có thể nàng là Hồ ly, là Ma mị hay là Tiên nữ… đã thích cảm con người lang bạt nhưng vẫn có tí chút nào đó của lãng mạn, đa mê của ta mà hiện đến cho ta một đêm khoái lạc làm cho ta nhớ mãi trong đời chăng?! Viết ra đây, chẳng phải để khoe khoang mà ta muốn  đóng góp thêm vào câu truyện “ Hồ Yến Vân “ của Lưu tiên sinh coi như có thêm một tí mơ mộng mà gửi đến đọc giả thưởng thức trong giá lạnh ùa đông mà thôi.
(Tân Thánh Thán)
Chú thích:  
- Thánh Thán: Nhà bình luận văn chương nổi danh, thời nhà Thanh bên Tàu, ông đã bình luận nhiều tác phẩm nổi danh như Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc, Thuỷ Hử..v..v.. 

- Tân Thánh Thán: Không có tài liệu nào viết về dòng dõi, gốc gác, tài học của ông nhưng nhiều người cho biết ông cũng là một đệ tử si dại trong tình trường. Đã từng đi chu du khắp thiên hạ nhưng Tân Thánh Thán vẫn không quên được những dấu tích, kỷ niệm xa xưa nơi cố quốc, nên hàng năm ông vẫn tìm về để đi lại, nhìn lại những con đường, góc phố, tiệm ăn, quán xá... ngày xưa với cảm giác “Đập gương xưa tìm bóng “! Đúng là một gã Đa Tình lắm ru?!
VÀO TRUYỆN
Quận Vĩnh Hoà, tỉnh Phú Nam có gia đình họ Định, được coi là danh giá, giàu có nhất nhì trong quận. Vợ chồng họ Định lại không may gặp cảnh hiếm muộn, chỉ sinh được hai người con trai. Vì lo sợ cho sự an toàn món tài sản khếch xù nên đã nhiều lần đến chùa cầu kính mong thần thánh, trời phật phù hộ mà có thêm vài đứa con nhưng cũng chẳng đến đâu. Cũng nghe người quen mách bảo, bà vợ đã phải nhún mình tìm những cô gái thuộc dòng có tiếng là mắn con về sống với chồng như dạng thê thiếp, nhưng cũng đã trải qua mấy lần mà cũng cũng chẳng ai có bầu sinh con như tính toán. Cuối cùng phải bỏ tiền ra chi trả cho những người hầu thiếp để họ tìm nơi khác mà an thân lập nghiệp.   
Hai người con trai lại không được như ý muốn. Người con trai cả tên Định Văn Văn ngay khi sinh ra đã có tật bẩm sinh, đôi chân không phát triển bình thường. Thân sinh tìm đủ danh y chữa trị nhưng vẫn phải dùng xe lăn, di chuyển vẫn cần có người giúp đỡ. Văn chỉ theo học bút nghiên xong cấp tú tài rồi ở nhà phụ giúp cha mẹ. Tuy nhiên Văn lại có di truyền của song thân, dù tàn tật nhưng lại rất có tài tính toán trong thương mại. Mới 16, 17 tuổi, đã biết giúp đỡ cha mẹ quán việc kinh doanh của gia đình rất thuần thục. Song thân dù buồn đau vì trưởng nam tàn tật, không như người bình thường  nhưng cũng có phần vui mừng, an ủi vì uýi tử có được sự khôn ngoan, nhạy bén trong thương trường. Khi Văn lên 18 tuổi, song thân đã nhờ mối lái tìm một gia đình gia giáo, ngoan hiền, nhiều đời có con đàn cháu đống mà cưới vợ cho con trai. Nhưng cũng chẳng hiểu sao, vợ chồng quí tử đã sống với nhau gần 3 năm mà cũng chẳng có động tĩnh thai nghén gì. Bố mẹ Văn đã có phần lo lắng, nhiều lần bàn bạc với nhau muốn tìm cho trưởng nam một thứ thiếp, nhưng chưa dám quyết định lý do là Văn không đồng ý, xin được chờ đợi thêm tí chút. Đã thế, gia đình con dâu cũng là bạn bè tâm giao, thân thiết trong thương trường nên cũng không dễ dàng phủi bỏ tình thân mà bạc tình với nhau. Con dâu cũng là người rất hiếu đễ với bố mẹ chồng, tận tình chăm lo cho chồng từ miếng ăn, ly nước, không chút nề nà mà giúp đỡ chồng trong những sinh hoạt hàng ngày khi chồng gặp khó khăn vì tàn tật nên càng làm cho cha mẹ của Văn khó nghĩ mà không dám tuyệt tình.  
Người con trai út, tên Định Văn Quân, dù cùng cha mẹ sinh ra nhưng bản tính của Quân hoàn toàn khác với người anh về mọi lãnh vực. Quân không có tí di truyền nào trong nghề buôn bán của cha mẹ. Vừa bước sang 19 tuổi, đã lấy xong bằng cử nhân, được người bạn thân thiết của phụ thân đang làm chức vị cao trên đế kinh tỏ ý muốn giúp đỡ Quân vào giới quan trường, còn có ý định gả ái nữ duy nhất cho Quân.  Nhưng Quân lấy cớ còn trong tuổi ham chơi, cuộc sống cá nhân chưa ổn định mà khéo léo chối từ. Với việc kinh doanh của gia đình thì Quân gần như không bao giờ để mắt đến, nhiều lần song thân và anh chị cố tìm cách bắt Quân vào khuôn thước, dậy bảo từ từ mong Quân tìm được thích thú mà nhập cuộc. Nhưng cũng vô ích, có mặt bố mẹ và anh chị thì Quân cũng miễn cưỡng để mắt tí chút vào công việc, sau đó thì lơ là quên sạch. Riết rồi bố mẹ, anh chị cũng đành thở dài chán nản, bỏ qua để cho Quân được sống theo cá tính của mình. Tuy nhiên có một điều mà mọi người, từ người phục dịch trong gia đình đến nhân viên trong cơ sở làm ăn, ai ai cũng nhận thấy Quân là một người rất tốt bụng, sống chuẩn mực không ỷ nại gia thế mà hống hách với người khác, đúng nghĩa một người có tín nghĩa, đạo đức, trọng danh dự, không bao giờ quát mắng hay xiên xẹo với bất cứ ai, chính vì vậy mọi người, ai ai cũng quí mến Quân. 
Một điều nữa, rất khác biệt với mọi người trong gia đình và dòng họ, Quân có biệt tài về văn chương thơ phú, rất thích du lịch giao du với bạn bè cùng sỡ thích. Hễ nghe đâu có lễ hội liên quan đến thơ văn hay phong cảnh đẹp mà được bạn hữu mời gọi là Quân tham dự ngay. Tuy giao tế rộng rãi như vậy, nhưng Quân cũng rất biết giới hạn, không bao giờ sa đà vào những tật ách xấu xa, bệnh hoạn của xã hội. Thỉnh thoảng cũng có những lúc chiều bạn bè văn nghệ mà vào các chốn ăn chơi như kỹ viện, tửu lầu, hát xướng… nhưng Quân cũng chưa bao giờ mang tiếng bê tha quá mức  hay nhập bọn với những phường vô lại làm xấu xí gia phong. Bạn bè, quen biết của Quân hầu hết là những người có học thức, khoa bảng, gia đình danh giá trong xã hội. Đó cũng là lý do phụ thân tin tưởng mà cũng không quá kiểm soát, vẫn để cho Quân tự do liên hệ, rong chơi với bạn bè.  
Một hôm vào cuối tháng tư âm lịch, khí hậu oi nồng, tỉnh lỵ kế bên có lễ hội, nhóm bạn bè của Quân rủ nhau sang đó vui chơi, tham dự lễ hội, nhân tiện có dịp tận mắt nhìn gặp mặt một kỹ nữ nổi danh xinh đẹp, hát hay, múa đẹp đang nổi danh trên chốn ăn chơi. Quân và nhóm bạn sang giàu đã phải bỏ ra những thỏi vàng để được vào kỹ viện ngắm nhìn người đẹp múa hát. Mọi người ai ai cũng vui mừng thoả mãn, ngẩn ngơ với vẻ đẹp sắc nước hương trời của mỹ nữ nhưng với Quân, không biết có phải vì  “khuôn mẫu “ sắc đẹp khác với nhóm bạn hay vì đã ngà ngà say nên Quân nhìn mỹ nữ cũng chẳng có gì để nói là nghiêng nước, đổ thành như lời thế gian đồn thổi. Ngồi một lúc, không muốn phá vỡ đam mê của bạn bè, Quân lấy cớ mệt mỏi mà bỏ ra về. Ra khỏi kỹ viện bước thấp, bước cao vì rượu, hoà mình vào đám đông trẩy hội rồi bị lạc đường, không biết đường trở về khách sạn, cứ lang thang khắp chốn, đó đây.  Cuối cùng Quân lạc vào một khu rừng bìa thành phố, càng loanh quanh càng mù mờ phương hướng mà không thể nào ra khỏi khu rừng. Đến khi trời xâm xẩm tối, Quân tỉnh rượu, thấy mình đứng giữ rừng cây um tùm mới lo sợ thú dữ rừng hoang, mong tìm nơi an toàn mà trú qua đêm chờ sáng tìm đường ra khỏi rừng! Sau một lúc  nhắm mắt đi bừa, quá mệt mỏi, trời lại đổ mưa nhè nhẹ, may mắn thay, Quân nhìn thấy một hang cụt, đúng nghĩa là một hốc đá ẩn sát vào vách núi, chỉ rộng hơn 2 mảnh chiếu nhưng có vẻ khô ráo. Vui mừng Quân như bắt được hũ vàng, Quân chui vào hang, mong có chỗ an toàn mà tránh mưa qua đêm, chờ sáng hôm sau rồi sẽ tìm đường ra rừng.  
Vào hang, đã làm Quân ngạc nhiên thấy sát vách, góc bên trong hang có một chỗ rất khô ráo trên nền có trải lớp thảm cỏ, trộn lá cây khô khá dầy. Quân mừng rỡ, nghĩ đây là nơi đã có người đến trước cư trú rồi ra đi mà bỏ lại. Quá mệt mỏi sau cả một ngày đói khát, mệt lả lang thang trong rừng nên vừa nằm xuống thảm cỏ lá cây, Quân đã ngủ thiếp đi. Buổi sáng, ánh nắng mặt trời chói rọi vào hang cùng tiếng chim chóc ca vang trong rừng đã làm Quân tỉnh giấc. Mở mắt ra thấy nằm sát bên cạnh mình là một thiếu nữ rất xinh đẹp, mặt hoa da phấn, đúng là một mỹ nhân đang say ngủ. Dù rất ngạc nhiên nhưng Quân im lặng ngắm nhìn người đẹp. Đến một lúc, nhãn quang đã chán chê, không giữ được ham muốn, Quân chồm dậy ôm mỹ nhân vào lòng mà hôn hít như vãi vạo trên mặt, trên thân thể người đẹp. Mỹ nhân ban đầu còn ngái ngủ lại bị Quân ôm chặt làm dữ nên có phần lo sợ.  Nhưng chỉ khoảng khắc sau, lấy lại bình tĩnh mà rút được tay ra,  đứng bật dậy, lấy hết sức giáng một cái tát như búa bổ vào mặt Quân mà hét lên:  
-Thằng học trò khốn nạn này! Ta đã vì thương cảm cho ngươi vì đêm khuya, mưa lạnh giữa rừng mà để cho ngươi tạm ngủ qua đêm. Ngươi không biết điều mà cảm kích cô nương lại còn dám giở trò đốn mạt với ta sao? 

Có lẽ vì cái tát như trời giáng, lại thêm lời chửi mắng thậm tệ của mỹ nhân đã làm Quân tỉnh giấc. Đưa mắt nhìn người đẹp với chút ngượng ngùng mà trả lời:   
-Đây là nơi cư ngụ của nàng sao? Ta cứ tưởng là nơi hoang dã, vô chủ mà vào ngủ qua đêm…   
Không để cho Quân nói trọn lời, người đẹp, đưa tay chỉ vào góc hang với lớp cỏ, lá cây khô khô ráo mà trả lời: 
-Ngươi nghĩ rằng những lá cây, thảm cỏ khô ráo đó, chúng tự nhiên bò vào làm nệm ngủ cho ngươi sao?!  
Lúc này thì Quân đã nhìn ra vấn đề, hơi chau mày ra vẻ ân hận. Đưa bàn tay lên tát nhẹ vài cái vào mặt mình, ra vẻ ân hận nhìn người đẹp mà nói: 
-Đúng là ta đã sai rồi, mong nàng thứ lỗi mà bỏ qua! 
Rồi ngần ngừ, hơi chau cặp lông mày sâu róm, nhìn người đẹp với nụ cười thích thú, Quân nói nhẹ: 
-Nhưng cũng xin nàng hiểu cho ta, chỉ vì sắc đẹp nghiêng nước, đổ thành của nàng đã làm cho ta điên khùng như vậy đó, mong nàng rộng lòng mà thứ lỗi.  
Cũng chẳng để cho mỹ nhân trả lời, Quân sang sảng ngâm vài câu thơ trong bài  “ Phượng cầu hoàng“ của Tư Mã Tương Như khi tán tỉnh nàng Trác văn Quân, thời nhà Hán: 
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương biệt cương hề cộng cao tường
Dịch rằng:
Hỡi nàng mỹ nữ  ở đài trang
Nhà gần người xa sầu tâm trạng
Nhờ duyên kết nối nợ uyên ương
Cùng nhau chấp cánh kiếp tang bồng
Người đẹp nghe Quân nói  lại còn ngâm nga những câu thơ đa tình dành cho mình nên ra vẻ cảm động đến nỗi nhìn Quân ngẩn ngơ. Sự tức giận hoàn toàn biến mất thay vào đó là cảm động, vui mừng. Nghĩ cho cùng, thế gian có người đẹp nào mà nỡ giận hờn, trách mắng một nam nhân, dáng dấp sang trọng, điển trai như Quân lại biết dùng văn chương thơ phú mà ca tụng sắc đẹp của mình được nhỉ? Người đẹp tỏ ra cảm động, miệng cười rất xinh mà trả lời: 
-Thiếp làm sao mà vô tình không nhìn thấy tình của chàng dành cho thiếp được? Nhưng mới gặp lần đầu mà chàng đã vồ vập quá mức như vậy,  làm sao mà thiếp không lo sợ được? Mong chàng thông hiểu mà bỏ qua.   
Thấy mỹ nhân đã có phần dễ dãi, Quân chẳng e dè  đưa tay kéo người đẹp nằm xuống thảm cỏ, lá cây khô mà hôn hít, làm tình… dù cả hai cũng chưa biết gì về nhau. Mãi cho đến lúc mệt phờ mới tách nhau ra, Mỹ nhân đưa ngón tay búp sen gõ nhẹ vào trán Quân mà nói: 
-Nhìn chàng, thiếp cứ nghĩ chàng là một tên học trò dài lưng, tốn vải chỉ biết bay bổng với văn chương, thơ phú nhưng cũng chỉ là vẻ bề ngoài. Bên trong cũng là một kẻ tinh ranh tình trường, đa tình lắm nhỉ? 
Không để cho Quân trả lời người đẹp nói tiếp: 
-Nhưng chàng có biết thiếp là ai không mà đã dám buông thả như vậy? Chàng không nghĩ thiếp sẽ hãm hại chàng sao? 
Không một tí ngần ngừ, Quân mỉm cười, nhìn giai nhân mà trả lời: 
-Dù nàng là ma quỷ, hồ ly hiện hình hay là tiên nữ giáng trần… với ta chẳng có gì đáng nói, chỉ cần nàng xinh đẹp, làm cho say mê, yêu quý là được.  
Rồi cũng chẳng để cho người đẹp  trả lời, Quân nói tiếp: 
-Tiền tài, danh vọng mà làm chi? Ta đã từng chối từ, không màng đến nó rồi. Với ta chí lớn trong thiên hạ làm sao mà sánh được vẻ đẹp của mỹ nhân?!  
Rồi Quân kể cho người đẹp biết về gia thế của gia đình cũng như tên tuổi, lối sống coi thường tiền bạc của mình. Người đẹp cũng cho Quân biết song thân là giống nòi hồ ly nhờ tu luyện mà thành người, cha là Hồ Lịch, mẹ là Hồ Thuý Hoa, nàng tên Hồ Yến Vân vừa bước sang tuổi 18, cũng là người con duy nhất. Gia đình hiện đang sống ở một làng nhỏ phía bên kia dẫy núi của tỉnh lỵ. Suốt mấy tháng  nay mẫu thân bị bệnh, nên cứ khoảng 5, 7 ngày Yến Vân phải xuống trung tâm tỉnh lỵ để lấy thuốc chữa bệnh cho mẹ. Nhà thuốc không có sẵn nên mỗi lần đi lấy thuốc, Vân phải chờ đợi 1 hay 2 ngày để nhà thuốc chế biến. Hoàn cảnh gia đình không quá dư dả nên mỗi lần đi lấy thuốc Vân không thể chi trả cho khách sạn, vì vậy đã phải tìm hang đá ở triền núi, rồi mang lá cây rừng tạo ra một chỗ ngủ tạm qua đêm trong khi chờ đợi lấy thuốc cho mẹ. Hôm nay cũng như mọi lần khi lấy thuốc xong, trên đường trở về, trời đã tối, Vân đến hang núi, định ngủ qua đêm rồi sáng hôm sau trở về nhà, nhờ vậy mới có sự gặp gỡ với Quân. Sau khi đã hiểu câu chuyện của nhau, Quân nói: 
-Ta cũng chẳng có gì bận bịu nên muốn theo nàng về nhà, trước là vấn an mẫu thân của nàng lúc ốm đau, sau là muốn cho tình thân của chúng ta bền chặt hơn. Nàng nghĩ sao? 
Đáp:  
-Thiếp rất muốn, nhưng như chàng đã biết giống nòi chúng ta khác nhau, không dễ gì gần gũi nhau được. Đã thế gia cảnh thiếp nghèo hèn không đáng cho chàng thân thiết đâu, mong chàng hãy coi cuộc gặp mặt của chúng ta như gió thoảng qua song.  
Nắm lấy tay người đẹp, kéo ra khỏi cửa hang, Quân nói: 
-Ta không muốn nói nhiều, nếu nàng không đi, ta cũng bế nàng cùng đi! 
Không làm khác hơn, Yến Vân đành phải nghe theo, rồi cả hai vui vẻ, khoác tay nhau cùng đi. Đến khoảng giữ trưa thì về đến nhà. Một căn nhà lá 3 gian đơn sơ bao quanh bởi vài luống rau, khóm hoa trong một làng nhỏ với hơn chục căn nhà lá quy tụ ở sườn đồi.  
Với vẻ ngạc nhiên khi thấy con gái dẫn Quân vào nhà kèm theo vài lời giới thiệu sơ sài. Hồ Lịch quan sát Quân một lúc rồi đưa mắt nhìn người vợ ốm bệnh nằm trên chiếc phản gổ, bà cũng đang giương mắt nhìn khách. Quân cúi đầu chào vợ chồng chủ nhân mà thưa: 
-Tiểu sinh nghe Yến Vân nói phu nhân ốm bệnh nên đường đột đến vấn an mà không báo trước, mong nhân gia tha lỗi. Nếu gia đình có gì khó khăn về tiền bạc để chữa trị bệnh cho phu nhân xin cho biết, tiểu sinh chắc chắn sẽ làm được và không chối từ.  
Nghe Quân nói, vợ chồng Hồ Lịch tỏ vẻ cảm động mà vui vẻ nói chuyện, không còn ánh mắt nghi ngại dò la nữa. Quân cũng chẳng giấu giếm nói rõ về gia thế, cơ ngơi thương mại của gia đình cho họ Hồ nghe. Khi biết rõ về gia thế của Quân, Hồ Lịch có chút ngạc nhiên: 
-Thế ra ngươi họ Định, một dòng họ nổi danh giàu có, sang trọng của tỉnh Phú Nam đó sao? Khoảng 15 năm về trước, vợ chồng chúng ta cũng đã phiêu bạt đến đó tạm cư nên cũng đã nghe biết nhiều về gia thế, tên tuổi của phụ thân ngươi. Không ngờ hôm nay lại nhờ ái nữ mà chúng ta quen biết được với ngươi. Hân hạnh lắm ru!  
Ngần ngừ tí chút, Hồ Lịch nhìn Quân nói tiếp: 
-Dĩ nhiên chúng ta rất vui mừng khi được kết thân với ngươi, một danh gia trong xã hội. Nhưng ta nói thật chúng ta không dám với cao, đã thế khi song thân ngươi biết chúng ta khác giống nòi thì không phải là điều thuận thảo đâu. Ngươi hãy tạm ngủ qua đêm nơi nhà tranh nghèo khó này rồi sáng sớm ngày mai xin ngươi rời xa chúng ta, coi như chuyện quen biết của ngươi với ái nữ của chúng ta là chuyện qua đường. 
Quân dùng đủ lời lẽ chấn an vợ chồng Hồ Lịch, không nề nà cho lão biết, dù gia đình giàu sang nhưng bản thân hoàn toàn không thèm tơ vương đến tiền tài danh vọng mà dành tất cả cho vợ chồng người anh. Với Quân  hạnh phúc nhất vẫn là được sống theo những gì mà mình ước mong, xin vợ chồng lão đừng nghi ngại. Quân cũng cho lão biết chuyện khác giống nòi, nếu không nói ra thì ai biết được. Giả dụ có biết thì song thân của Quân là thương gia, không dại gì mà không tính suy cái dại, cái khôn mà làm mất đứa con trai của mình. Với những lời lẽ, quyết liệt của Quân đã làm vợ chồng Hồ lão vui vẻ ra mặt. Đưa mắt nhìn vợ con ra chiều suy nghĩ rồi Hồ lão nói: 
-Ngươi đã nói vậy, chúng ta cũng không muốn giấu giếm ngươi một điều khác, nó rất quan trọng, ta phải nói cho ngươi rõ để ngươi không phải mang cái khổ cho chính cá nhân ngươi mà có thể cho cả cho đại gia đình ngươi nữa.  
Nói xong với cái gật đầu nhẹ đồng tình của người vợ, Hồ Lịch cho biết suốt gần 20 năm nay, từ khi kết hôn với Hồ Thuý Hoa, vợ của ông ta hiện nay. Cả hai đã phải lên Bắc, xuống Nam trốn chạy kẻ thù tên là Xà Mã, người bạn đồng môn, xuất thân là kiếp rắn. Xà Mã đã cùng với vợ chồng Hồ Lịch bước vào đường tu hành rồi thành công mà biến kiếp mà thành người. Trong thời gian tu hành, Hồ Lịch và Xà Mã cùng yêu thương Hồ Thuý Hoa, nhưng khi biến kiếp thành người, Hồ Lịch đã được Thuý Hoa yêu thương kết thành vợ chồng. Từ đó Xà Mã coi nó là một sự sỉ nhục nên thề sẽ tìm cách giết hai người trả thù. Vì trí mưu của vợ chồng Hồ Lịch không thể chống đối được sự truy sát của Xà Mã nên hơn hai chục năm qua, vợ chồng Hồ Lịch đã phải trốn chạy khắp mọi nơi. Nhưng cứ đến nơi nào cũng chỉ  được vài ba năm Xà Mã lại tìm thấy và rồi lại phải tiếp tục trốn chạy. Lần này cũng vậy, gia đình họ Hồ mới đến cư ngụ tại làng này được không quá 3 năm, Xà Mã cũng tìm thấy, đúng lúc đó thì người vợ Hồ Thuý Hoa lại bị bệnh tật. Thấy không còn đường nào trốn chạy nữa, vợ chồng Hồ Lịch đã viết thư cho Xà Mã cầu xin thương cảm cho nỗi khốn khổ vì trốn chạy, mong vì tình đồng môn mà quên đi những hận thù mà tha thứ, bỏ qua. Vài tuần trước, gia đình họ Hồ đã nhận được thư hồi âm của Xà Mã cho biết chuyện tha thứ, bỏ qua thì không bao giờ có, nhưng cứ gặp nhau, việc xử sự thế nào thì còn tuỳ thuộc vào vui buồn. Xà Mã còn cho biết trong khoảng thời gian 3 tháng trời, bất cứ khi nào thích hợp sẽ tìm đến tận nhà để giải quyết ân oán với toàn thể gia đình họ Hồ.   
Sau khi nói rõ cho Quân nghe, Hồ lão nhìn Quân mà nói:  
-Chúng ta đã cho ngươi biết tất cả sự thật rồi, ta thành thật khuyên ngươi nên mau mau rời xa chúng ta càng sớm càng tốt. Tốt cho chính cá nhân ngươi mà còn tránh được những rắc rối cho đại gia đình ngươi nữa. Xin ngươi đừng nghĩ ta hù dọa mà hại đến thân. Xà Mã không phải là người dễ coi thường được đâu! 
Đáp:  
-Nói như lão nhân gia, thì phép vua, luật nước không còn nữa hay sao?   
Hồ lão mỉm cười mà trả lời: 
-Luật pháp chỉ để răn đe những người bình thường, vì ngu dại mà vướng vào tội ác mà thôi. Với những kẻ lọc lõi, khôn ngoan, tài năng, mưu lược vượt lên trên luật pháp như Xà Mã thì việc bắt được chúng đền tội không phải dễ. Nếu dễ, hoàn thiện như ngươi nghĩ thì nhân gian, xã hội này chẳng có người khốn khổ vì áp bức, bất công!  
Thấy Quân im lặng, ý lắng nghe, Hồ lão ra vẻ quyết liệt mà nói: 
-Dù sao gia đình ta cũng cám ơn thịnh tình, lòng tốt của ngươi,  nhưng dù thế nào thì sáng sớm ngày mai ngươi cũng phải rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt để khỏi sinh ra những phiền nhiễu không hay cho ngươi và ân hận cho chúng ta. Trong khoảng 2 tháng nữa, nếu may mắn mà gia đình ta thoát nạn, được Xà Mã buông tha, thì chẳng cần ngươi phải tìm đến đây, chúng ta sẽ đến tận nhà ngươi mà cầu cạnh kết thân. Áí nữ của ta mà được bước vào làm dâu họ Định của ngươi là một ân huệ cho chúng ta vậy. Xin ngươi đừng nghi ngại, mà nên nghe lời ta trở về nhà,  chờ 2 tháng nữa. Ta hy vọng với sự cầu xin của chúng ta, Xà Mã sẽ nghĩ đến tình đồng môn mà tha thứ, bỏ qua, khi đó chúng ta sẽ tự mình tìm đến gia đình ngươi mà cầu thân.   
Sáng sớm hôm sau, vừa xong bữa điểm tâm sơ sài, như đã xếp đặt trước, Yến Vân nhét vài cái bánh vào bịch đưa cho Quân dành cho bữa cơm trưa rồi mọi người tiễn đưa Quân lên đường. Buồn bã, Quân theo đường cũ trở về nhà, song thân và anh chị Quân không giấu được vẻ ngạc nhiên khi thấy Quân trở về nhà với thần thái vui mừng, thích nói chuyện với mọi người. Không còn vẻ im lặng hay miễn cưỡng trong mọi sinh hoạt buôn bán của gia đình như trước kia nữa. Đã thế Quân còn mua sắm sửa những vật dụng trang trí trong phòng ngủ của mình. Song thân không giữ được im lặng mà cất tiếng hỏi lý do, Quân trả lời: 
-Con đã tìm được ý trung nhân, chẳng lâu nữa con sẽ dẫn nàng về ra mắt gia đình. Từ nay con sẽ vào khuôn thước, sẽ cùng với mọi người cùng cáng đáng việc kinh doanh.  
Nghe quý tử nói, mọi người đều vui mừng, muốn được gặp ngay người đàn bà tài năng nào đã làm cho Quân thay đổi lạ kỳ như vậy? Nhưng Quân cũng lấp lửng cho biết khi nào mọi việc rõ ràng sẽ tự dẫn người đẹp về ra mắt gia đình. Hàng ngày Quân vẫn ra vào nhà tỏ vẻ trông mong vợ chồng Hồ Lịch giải quyết xong thù hận với Xà Mã mà dẫn Yến Vân đến như đã hứa. Nhưng thấm thoát hơn một tháng đi qua, hoàn toàn không có động tĩnh gì đã làm Quân lo lắng không biết sự thù hận của gia đình Yến Vân và Xà Mã có được giải quyết trong tốt đẹp như mình mong muốn hay không? Quá bồn chồn, không muốn chờ đợi thêm nữa, Quân lại khăn gói lên đường. Hai ngày sau, trên đường đi, Quân tạt vào hang đá nơi đã gặp Yến Vân với hy vọng ngẫu nhiên mà gặp lại nhau. Nhưng hang đá không còn sạch sẽ, ấm cúng như trước nữa, nó như đã bị người ta đập phá. Lo lắng cho sự an nguy của người đẹp, Quân vội vàng tìm đến căn nhà lá của gia đình họ Hồ, nhưng nhà đã bị cháy hoàn toàn thay vào đó là 2 nấm mồ sơ sài, không mộ bia ở giữ sân, đất đắp mồ vẫn còn ẩm ướt chứng tỏ việc chôn cất cũng chỉ mới xẩy ra không lâu.  
Không biết làm sao hơn, Quân hỏi cư dân chung quanh. Mọi người cho biết khoảng hơn một tuần lễ trước, vào lúc nửa đêm, có nghe thấy một cuộc cãi vã giữa Hồ Lịch với người đàn ông nào đó từ trong nhà vọng ra.  Mọi người nghĩ rằng đó là sự gây gỗ bình thường nên cũng chẳng ai để ý. Nhưng sau đó một lúc thì ngọn lửa bùng lên rất mạnh, gặp ngày gió to căn nhà lại xây cất bằng gỗ, lá giang nên khi mọi người hô hoán chạy đến thì căn nhà đã hoàn toàn thành tro bụi. Sáng hôm sau khi tro tàn đã nguội, chỉ thấy thi thể của hai vợ chồng Hồ lão đã chết cháy dưới đống đổ nát nhưng không thấy thi thể của Yến Vân. Mọi người cho rằng có thể lúc xẩy ra gây gỗ với ai đó rồi sinh ra hoả hoạn,  Yến Vân đã không ở nhà hay đã bị kẻ đốt nhà bắt mang đi rồi.  
Chẳng biết làm gì hơn, buồn bã Quân chỉ thắp vài nén hương trước mộ vợ chồng Hồ Lịch vội vàng ra về để kịp đến thị trấn trước trời tối, tìm khách điếm ngủ qua đêm chờ sáng hôm sau sẽ trở về nhà. Quá mệt mỏi vì suốt mấy ngày liền vượt rừng, trèo núi, vừa vào phòng trọ, đang định tắm rửa rồi ngủ bù lấy lại sức thì có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Với vẻ bực mình, Quân mở cửa ra thì thấy Yến Vân đầu tóc rối bù, quần áo xơ xác như vừa chui từ ống cống lên. Không để ý đến sự bàng hoàng của Quân, Vân lách nhanh vào phòng, đóng vội cửa lại mà nói: 
-Hãy đóng cửa lại, không cho ai vào, thiếp sẽ nói cho chàng nghe mọi sự. 
Vân cho biết, khoảng hơn 1 tuần trước, đúng vào ngày Vân phải lên thị trấn lấy thuốc cho mẹ,  vì nhà thuốc không có đủ nguyên liệu nên Vân phải nán lại hơn 3 ngày so với thường lệ. Mãi đến buổi tối khuya vài ngày trước, khi mang thuốc về đã thấy nhà đã bị cháy thành tro với 2 nấm mồ mới đắp của phụ thân. Vân biết chắc chắn là Xà Mã đã gây ra thảm cảnh này, nhờ may mắn đúng lúc đi lấy thuốc cho mẹ mà thoát nạn. Nhìn thấy mộ của song thân, Vân chỉ dám im lặng quì lạy rồi vội vàng bỏ đi vì nghĩ rằng Xà Mã vẫn còn loanh quanh, không dễ dàng gì mà bỏ qua khi biết Vân không có trong nhà. Sau khi rời nhà, Vân đoán chắc sớm hay muộn Quân sẽ đến tìm mình, sẽ ghé vào hang đá nên Vân đã đến đó phá huỷ hang mục đích báo cho Quân biết nạn kiếp đã xẩy ra mà tránh xa. Vân cũng cho biết trước khi còn sống phụ thân có đưa cho Vân một gói bột thuốc độc để phòng thân. Dặn Vân nếu không tránh xa được sự truy sát của Xà Mã hãy tìm cách đến gần mà bất thình lình vẩy gói bột lên cơ thể hắn sẽ làm hắn bất động mà chết dần dần. Phụ thân còn căn dặn thêm là Xà Mã có khứu giác rất tinh trường lại quen thuộc với mùi cơ thể của giống hồ ly nhà Vân nên từ xa nhiều trượng hắn sẽ nhận được ngay, đừng dại mà mong tiếp cận hắn. Phụ thân cũng khuyên, tốt nhất vẫn là trốn chạy, tìm cách ẩn mình càng xa càng tốt vì Xà Mã rất khôn ngoan, lòn lõi, tài trí, Vân không thể sánh với hắn được. Vẫn cũng cho biết, hiện nay Xà Mã đang ở thị trấn, hàng ngày hắn thường đến một hội quán làm từ thiện của thị trấn để diễn thuyết, kêu gọi sự đóng góp của những mạnh thường quân tham gia cùng với hắn trong hoạt động từ thiện.  
Sau khi đã kể lể tất cả sự việc cho Quân hiểu, Vân nói: 
-Đúng là may mắn mà thiếp gặp được chàng, xin chàng hãy vì thù giết cha mẹ của thiếp mà báo thù. Chàng tìm cách đến gần hắn mà dùng gói bột này giết hắn. Mong chàng hiểu là thiếp không muốn kéo chàng vào chuyện ân oán nhưng vì thiếp không thể tiếp cận với hắn được nên mới phải làm phiền mà nhờ đến chàng. Thiếp nguyện sẽ làm thân trâu ngựa trả lại nghĩa tình của chàng. 
Đáp:  
-Nàng đã nói như vậy, thì ta làm sao mà từ chối cho được! Hãy đưa cho ta gói bột, ngay ngày mai, ta sẽ đến hội quán, tiếp cận hắn và làm như nàng chỉ dẫn. Đó cũng là việc ta phải làm vì kẻ thù của nàng cũng là của ta vậy. Nàng đừng quá hạ mình mà làm cho ta phải khó nghĩ.  
Sáng hôm sau, nói với Yến Vân ngồi chờ tin vui, Quân rời khách đếm đến hội quán từ thiện tại trung tâm thị trấn đã thấy khá đông người đang lắng nghe một người đàn ông trung niên dáng vẻ sang trọng, trí thức, đội mũ Khổng Minh, giọng nói hoà thuận đầy vẻ đạo đức… Ông ta đang nói về những chương trình từ thiện như giúp đỡ người già cô nhỡ, trẻ con vô gia cư trong xã hội..v..v..  Người ngồi sát bên cho biết đó chính là Xà Mã, một nhân vật nổi danh quảng đại, đạo đức trong giới làm từ thiện, có tấm lòng quảng đại đang được xã hội nể trọng. Quân cũng thấy đó là đều rất đúng, giọng nói êm nhẹ, từ tốn, dáng điệu chậm rãi lại luôn luôn nói những câu khiêm nhường mỗi khi khán thính giả vỗ tay tán thưởng. Nhìn phong thái của người diễn giả, quân tin đó là một người đáng tôn kính, không thể nào là một ác nhân được. Quân cho rằng sự thù ghét của gia đình Yến Vân là một sự lầm lẫn, mang tính đố kỵ người tài năng hơn mình mà ra. Nghĩ như vậy, Quân bỏ hẳn ý định làm hại Xà Mã mà còn lắng tai nghe, kính phục những lời nói đầy đạo đức, bao dung của ông ta. Quân ngồi nghe Xà Mã nói cho đến hết giờ mới trở về khách điếm. Với vẻ mặt vui mừng mở cửa đón Quân vào phòng, Vân nói: 
-Chàng đã trả thù cho gia đình thiếp rồi phải không? 
Nhìn thẳng vào mặt Vân, Quân không vui lắc đầu, đưa trả cho Vân gói bột mà trả lời: 
-Không! Ta yêu thương nàng thế nào thì nàng đã rõ, nhưng ta không thể vì thế mà mê muội làm chuyện bất nhân được. Dưới mắt ta Xà Mã làm một quân tử đầy lòng nhân đạo. Dáng dấp, ngôn từ của ông ta khi trao đổi với mọi người luôn luôn nhỏ nhẹ, ân cần, khiêm cung…Một người như vậy tuyệt đối làm điều xấu xa được.  
Ngừng lại tí chút nhìn vào khuôn mặt ngẩn ngơ của Yến Vân, Quân nói tiếp: 

-Đúng như vậy ta yêu nàng nhưng ta là người học sách thánh hiền, hiểu lẽ phải trái, xấu tốt… Tư cách đó không cho phép ta làm những việc hèn hạ mà hãm hại người ngay, kẻ tốt được. Xin nàng hãy hiểu cho ta. Đừng nên mang cái bả tình yêu để bắt ta làm những điều xằng bậy. 
Nghe Quân nói như bị tạt sô nước lạnh vào mặt. Vân cúi đầu, hai hàng nước mắt dàn dụa ngẩn ngơ nhìn Quân. Một lúc sau, hình như lấy được bình tĩnh, Vân nói: 
-Đúng như chàng đã nhận xét về Xà Mã, nhưng đó chỉ là khuôn mặt giả đạo đức rất cao siêu của một con quỷ khát máu. Nhưng thôi nếu chàng đã nói vậy, thiếp cũng đành cám ơn và buồn đau xa rời chàng mà thôi.  
Nói xong Vân định quay ra khỏi phòng, nhưng chợt quay lại nhìn Quân mà nói: 
-Thiếp vừa nghĩ ra một cách, khả dĩ giúp chàng nhìn thấy bộ mặt thật của tên giả đạo đức đó. Cách này có phần nguy hiểm cho thiếp và rất có thể cả cho chàng nữa nếu chúng ta sai lầm khi thực hiện.  
Vân sẽ viết một lá thư hẹn với Xà Mã vào buổi chiếu tối hôm sau tại hang núi nơi mà Vân và Quân đã gặp nhau. Trong thư Vân xin lỗi, cầu xin Xà Mã vì nghĩa đồng môn với cha mẹ mà tha thứ để Vân được sống như mọi người, không phải trốn chạy như song thân. Nhưng trước khi Xà Mã đến chỗ hẹn, Quân với túi thuốc độc, núp sát vào cửa hang, nơi kín đáo để Xà Mã không nhìn thấy được. Vân sẽ dùng lời khéo léo để cho chính miệng Xà Mã nói ra con người thật, giả đạo đức, bất nhân của hắn. Quân sẽ chính ta nghe được sự thật tốt xấu của Xà Mả rồi tuỳ ý Quân quyết định giúp hay không giúp Vân trả thù. Vân cũng nhắc nhở Quân phải rất kín đáo, tránh tuyệt đối không làm cho Xà Mã nghi ngờ mà phát hiện ra, nếu không sẽ thiệt thân đó vì Xà Mã không phải là người kém cỏi đâu. Khi đã quyết định làm, thì phải nhanh, chính xác nếu không thì chắc chắn cả hai sẽ chết. Nghe Vân nói như vậy, Quân vui vẻ trả lời: 
-Ta sẽ nghe lời nàng mà rất thận trọng, kín đáo. Nhưng ta cũng nói rõ nếu hắn không là kẻ bại hoại như nàng nói thì ta sẽ không làm cho nàng vừa ý được,  dù ta rất yêu thương nàng. Mong nàng hãy hiểu cho mà tha thứ, đừng nghĩ ta là kẻ vô tình. 
Đúng như xếp đặt, sáng hôm sau Quân lại đến hội quá từ thiện, cùng với mọi người ngồi nghe Xà Mã nói chuyện cho đến gần trưa thì cuộc nói chuyện chấm dứt. Quân đến gần Xà Mã trong thái độ rất kính trọng của kẻ hậu sinh với người trưởng thượng, rồi đưa cho Xà Mã lá thư của Yến Vân. Xà Mả có chút ngạc nhiên khi nhận lá thư, mở ra đọc xong,  với giọng nói hoà thuận Xà Mã hỏi về sự quen biết của Quân với Yến Vân. Nhớ lời dặn của Vân, Quân chỉ nói với ông ta là vừa quen biết mấy ngày trước trong một dịp di dạo trong rừng mà thôi. Xà Mã nhìn quân, với nụ cười rất hiền từ, thân thiện mà nói với Quân: 
-À ra thế, công tử may mắn lắm mới quen biết với cô cháu gái ngoan hiền, xinh đẹp, rất quí yêu của ta đó. Xin công tử đừng làm cháu gái ta buồn phiền nhe!  
Rồi Xà Mã hỏi Quân có cùng đến nơi hẹn với Yến Vân không, nhớ lời dặn của Vân, Quân lấy cớ vì bận việc nên không thể cùng đi với Vân được.  Ông ta cũng hỏi  về khách điếm, nơi cư ngụ, Quân cũng chẳng ngại ngần mà cho ông ta địa chỉ nơi cư ngụ.  Với nụ cười hiền hoà, ông ta hứa sau khi gặp được cháu gái sẽ đến tận khách điếm cám ơn và trò chuyện với Quân. Xong đâu đấy, Quân trở về khách điếm, mở cửa vào phòng, thì Vân đã rời xa, nàng để lại gói bột thuốc độc và lá thư vắn tắt cho biết vì nàng phải đến hang núi ngay để chuẩn bị chờ đón Xà Mã. Nàng cũng dặn Quân nhanh chóng đến hang núi trước buổi xế chiều để  không bị Xà Mã bắt gặp. Đúng như lời dặn, Quân tìm được một hốc đá kín đáo được che khuất sát bên cửa hang rồi đứng sát vách im lặng chờ đợi. Khi mặt trời vừa khuất bóng, từ rừng cây xa xa ngoài cửa hang, giọng nói hiền hoà, thánh thiện của Xà Mã vang lên: 
-Con cháu gái yêu Yến Vân của ta đâu rồi? Sao không ra đón ta? 
Yến Vân từ trong hang trả lời: 
-Bá phụ Xà Mã đó ư! Tiểu nữ đang bận rộn tí chút, xin bá phụ cứ tự tiện cho. 
 Xà Mã đặt chân lên cửa hang rồi dừng lại, sát gần với chỗ Quân nấp. Đưa mắt nhìn vào hang thấy Yến Vân chỉ có một mình, cất tiếng cười to, Xà đổi giọng mà nói: 
-Con quỷ con, lộn giống kia! Ngươi mau mau quì xuống để ta hoá kiếp cho mày đi theo con mẹ và thằng cha khốn khiếp của mày. 
Yến Vân cầu xin: 
-Bá phụ đã giết song thân tiểu nữ rồi, đã thoả lòng thù hận rồi. Mong bá phụ vì tình nghĩa đồng môn với song thân của tiểu nữ mà tha thứ cho tiểu nữ được sống mà hương khói cho song thân. 
Xà Mã cười vang, nhìn thẳng vào mặt Yến Vân mà nói: 
-Ngươi nói như chuyện hoang đường vậy! Với song thân và cả với ngươi nữa dù ta có giết chết năm bẩy lần vẫn không đủ thoả mãn cho lòng thù hận của ta. Làm sao ta bỏ qua cho đứa con lộn giống như ngươi được. Thôi ngươi đừng tốn công xin xỏ nữa hãy nhận chịu số phận khốn nạn của ngươi đi. Ta không muốn phải rỗi hơi mà làm chuyện phúc đức bao dung.  
Yến Vân đáp: 
-Tiểu nữ nghĩ rằng bá phụ đang làm những chuyện phúc đức, thương người nên mới tưởng rằng viết thư nhờ người bạn trình lên bá phụ mong được bá phụ mở lòng tư bi mà bỏ qua…. 
Xà Mã chẳng để cho Vân nói xong, hắn cười vang mà trả lời: 
-Con bé lộn giống ơi! Ngươi tưởng ta rỗi hơi mà bỏ thời gian, sức lực ra làm cái chuyện từ thiện vớ vẩn ấy sao? Ta cũng chẳng cần giấu gì ngươi mà cho ngươi biết sự thật trước khi ngươi về bên kia thế giới với song thân ngươi. Những việc làm từ thiện, giúp đỡ kẻ cơ khổ, chỉ là cái vỏ bọc để cho những tên dư tiền, dư của, ngu dại đóng góp cho ta mà thôi. Còn việc ta bỏ vào túi của ta hay  bỏ ra bao nhiêu làm từ thiện thì ai mà biết được?  
Nói xong Xà Mã cười vang thích thú, nhìn Yến Vân mà nói tiếp: 
-Ta cũng nói cho ngươi biết, sau khi cho ngươi đoàn tụ với song thân ngươi, ta cũng sẽ tìm đến khách điếm, tìm thằng thư sinh mặt trắng, quen biết với ngươi, rồi ta cũng cho nó cùng về đoàn tụ với ngươi ở suối vàng. Không những thế ta sẽ tìm đến cha mẹ, anh chị em của thằng học trò ngu ngốc đó mà hoá kiếp để chúng nó cùng về với gia đình ngươi cho có bạn! Với ta, bất cứ ai liên hệ, quen biết với gia đình ngươi đều được ta cho lên thiên đàng hết! 
Đứng im trong góc hang, Quân đã nghe tất cả lời nói của Xà Mã, Quân đã nhận ra bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, độc ác của một con quỷ đội lốt người. Không một chút ngần ngại, nhanh nhẹn Quân tung gói bột lên thân thể Xà Mã. Một hiện tượng kỳ lạ tức thì xẩy ra, Xà Mã run lên, tay chân, đầu cổ cứng đơ không cử động được nữa. Xà Mã nhìn thấy Quân từ chỗ nấp đi ra, hắn chi nói được vài tiếng bập bẹ trước khi mồm bị cứng ngắc: 
-Ngươi dám… giết ta ư? …
Quân nhìn hắn bình thản mà đáp: 
-Ta không ngờ ngươi là một tên ma đầu, kẻ đạo đức giả, một con quỉ đội lốt người. Ta vì chính đạo mà trừ khử ngươi thì có gì mà dám hay không dám?!  
Chẳng biết Xà Mã có nghe được lời nói của Quân không nhưng khi Quân dứt lời thì khuôn mặt và thân hình hắn đã co rúm lại rồi xụp đổ xuống. Thân xác của hắn cùng với y phục biến dần dần thành một vũng nước hôi thối mầu đen trên nền hang. Yến Vân sung sướng chạy đến, ôm lấy Quân mà nói: 
-Cám ơn chàng đã nhìn thấy rõ sự việc và đã trả thù cho song thân thiếp. Từ nay thiếp hoàn toàn thuộc về chàng dù có phải làm kiếp trâu chó để trả ơn, thiếp cũng không dám từ nan. 
Trả lời: 
-Sao nàng nói quá lời như thế! Ta đã không tin lời nói của nàng, suýt đã bị tên quỷ ma này cho vào tròng như một người ngu muội. Đó không phải nhờ nàng mà ta đã trừ khử được một kẻ bại hoại hiểm độc trong xã hội, một việc đạo đức hay sao?  
Mấy ngày sau, cả gia đình Quân thấy quí tử trở về cùng với một giai nhân, mặt hoa da phấn, tánh tình lại hiền dịu dễ thương. Rồi không lâu sau đó, một đám cưới được tổ chức rất linh đình. Khoảng hơn một năm sau Yến Vân, song sinh cho ra đời một trai, một gái kháu khỉnh dễ thương. Quân cũng không còn mặn mà với thơ văn, họp bạn, du lịch đó đây như xưa nữa mà dành thời gian cho gia đình, ghé vai cùng với song thân, anh chị lo quán xuyến việc kinh doanh. Không những thế, vợ chồng Văn Văn, người anh cả tàn tật, con trai cả của họ Định sau nhiều năm chung sống nhưng chẳng động tĩnh gì với thai nghén nhưng không biết vì sao, cũng có thai và sinh cho họ Định một thằng bé trai. Mọi người cho rằng chính Yến Vân, nàng dâu xinh đẹp đã mang may mắn cho họ Định nên ai ai cũng quý mến. 
Hết  

Vài hàng về tác giả:
Lưu An là bút hiệu của anh Vũ Ngọc Ruẩn. Anh Ruẩn  sinh năm 1946 tại Xuân Trường, Nam Ðịnh, Việt Nam. Bút hiệu Lưu An & Thượng Xuyên Lộ, cựu học sinh Chu Văn An 59-66, tốt nghiệp Master về Food Sciences đại học Kagoshima, Japan 1977. Anh Ruẫn hiện đang sinh sống tại Thụy Sĩ. Cảm tưởng về thơ văn của Lưu An xin gởi về  kamikawajiluan@yahoo.com
3. Lưu Sinh
Lưu Sinh, tự Thụy Vân người nước Vọng, giòng dõi khoa bảng, tổ tiên bẩy đời tiến sĩ, hai đời Tổng đốc. Phụ thân đậu đầu tiến sĩ khoa Bính Tuất, gặp thời thế loạn ly, đạo đức suy đồi, gác ấn từ quan theo nghề dậy học được vài năm thì mất.
Lưu Sinh nhờ tài sản, ruộng vườn từ xưa để lại gia cảnh không đến nỗi túng thiếu, vẫn nhà cao cửa rộng, phong lưu. Đã mấy lần vác lều chõng đi thi nhưng bản chất phóng túng,  bài vở không vào phép tắc nên chuyện khoa danh cũng chẳng đến đâu. Tuy vậy Lưu vẫn dùi mài kinh sử mong nối chí tổ tiên. Mẫu thân không mấy vui nhưng cho rằng định số, quí tử không có duyên nợ với bảng vàng, quan tước. Nhiều lần mẫu thân tìm cách mối mai, mong có cháu nối dõi tông đường. Lưu lấy cớ danh vọng vẫn trắng tay, chưa tìm được người vừa ý mà chối từ chuyện thê tử.
Vào ngày mùa hè oi bức Lưu dạo chơi bên giòng suối bên rừng gần nhà, thấy một con ếch đang bị một con rắn bắt, sửa soạn nuốt. Lưu đánh đuổi rắn cứu ếch, chữa trị cho ếch rồi thả vào giòng suối.
Vài ba tuần lễ sau đó, một buổi tối, ánh trăng mờ chiếu qua khung cửa sổ,Lưu đang dựa án thư riu riu ngủ. Thình lình có người con gái rất đẹp, mặt hoa da phấn, diễm tuyệt như tiên nga không biết từ đâu đến đánh thức Lưu dậy. Cô gái nhìn Lưu mỉm cười như đã từng quen biết. Lưu thấy làm lạ, tưởng mình mơ ngủ, đưa tay lên dụi mắt mới biết là thật, mặt đờ đẫn si dại nhìn người đẹp không thốt nên lời.
Cô gái nhìn Lưu mỉm cười, có tí e thẹn, giọng nói êm nhẹ, trong như tấu nhạc rót vào tai:

-Mới có vài tuần lễ cách biệt, công tử đã quên thiếp rồi sao?
Chẳng chờ Lưu trả lời. nàng nói tiếp:
-Thiếp họ Long tên Yến Viên, nhà ở tỉnh kế bên về hướng đông. Vài tuần lễ trước đây trốn cha mẹ đi chơi bị nạn được chàng cứu sống. Hôm nay, sức khỏe đã tốt mạo muội đêm khuya đến gặp ân nhân, có chút quà mọn gọi là tỏ chút lòng tri ân.
Nói xong Yến Viên đưa tận tay Lưu một gói vàng. Lưu nằng nặc từ chối, cho rằng cô gái lầm người khác. Mình chưa bao giờ cứu giúp ai bị nạn gần chết cả.
Cô gái tỏ vẻ không vui, ngập ngừng đôi chút rồi nói:
-Thiếp không nhầm lẫn đâu, chỉ có điều không thể nói rõ với công tử đó mà thôi. Song thân của thiếp rất nghiêm khắc không cho ra khỏi nhà. Hôm nay song thân đi vắng, thiếp trốn nhà đến đây gặp ân nhân, mong chàng đừng nghi ngờ.
Không làm sao hơn, Lưu đành nhận gói quà.Nhìn ngắm nét đẹp như cá lặn chim sa, làn da trắng muốt như trứng gà bóc, Lưu động lòng, có vài hành động xuống xã. Cô gái ban đầu có chút miễn cưỡng chịu đựng, nhưng khi Lưu có ý làm chuyện mây mưa, nàng tỏ vẻ giận, đưa tay đẩy Lưu ra xa nghiêm trang mà thưa rằng:
-Thiếp tưởng rằng chàng là người nhân đức, thư sinh mà đến, không ngờ cũng là dạng của kẻ vô học thế sao?!
Nói xong Yến Viên phủi áo, ngoe nguẩy tức giận bước đi không thèm ngoái lại. Lưu Sinh xấu hổ chạy theo nắm tay nàng, quì gối mà rằng:
-Xin nàng tha thứ cho ta, hiểu cho mối tình si mà không nỡ ruồng bỏ. Từ nay xin chừa, chỉ mong được gặp mặt, nhìn nhau đã là mãn nguyện lắm rồi, không dám xuống xã nữa.
Yến viên nghe nói có tí vừa lòng, quay lại mà thưa rằng:
-Thiếp chẳng biết có còn dịp gặp chàng nữa không. Nhưng nếu chàng biết giữ lễ thì lo gì mà không có ngày tái ngộ.
Chẳng để cho Sinh trả lời, Yến Viên rút cây trâm vàng trên mái tóc đưa tận tay Sinh, nghiêm trang mà nói:
-Chàng hãy giữ món quà kỷ niệm của thiếp coi như đền đáp người tri kỷ. Thiếp có phải là gỗ đá đâu mà vô cảm với kẻ đa tình! Nhưng vì song thân rất nghiêm khắc, chuyện gia giáo không thể không biết đến được! Thiếp sẽ cố tìm cách gặp lại chàng.
Nói xong Yến Viên nắm tay Lưu tỏ vẻ ân cần rồi bước vội khuất sau lùm cây ở góc vườn, Lưu đứng ngớ ngẩn vân vê chiếc trâm vàng ngây ngất với mùi thơm của người đẹp còn vương lại trên tay.
Từ ngày người đẹp bỏ đi, Lưu Sinh gần như bỏ ăn, bỏ ngủ vì tương tư. Hàng đêm thở dài than vắn mong đợi nàng đến thăm. Bệnh tương tư càng lúc càng nặng. Lưu như kẻ mất hồn, chẳng nói chẳng ăn chỉ mân mê chiếc trâm vàng mà tưởng nhớ đến người đẹp. Chuyện sách đèn thi cử cũng bỏ bê không thèm đoái tưởng đến.
Mẫu thân lo lắng hỏi han nhưng Lưu chẳng nói, ngẩn ngơ như kẻ mất trí. Biết bao nhiêu thuốc thang chữa chạy cũng chẳng kết quả. Mọi người cho rằng Lưu bị quỉ ám, ma hành, mời gọi thầy pháp, thầy bùa cúng tế nhưng bệnh vẫn hoàn bệnh. Một hôm trong lúc mê sảng Lưu đứng dậy khỏi giuờng, mặt rạng rỡ tay cầm chiếc trâm vàng chạy ra vườn nói năng, cười cợt như với một người con gái nào đó! Người nhà nhìn không thấy ai mới  biết rằng Lưu bị bệnh tương tư người trong mộng mà ra mê sảng. Sau khi Lưu tỉnh lại vào giường nằm, mọi người khôn khéo gạn hỏi, Lưu mới kể lể sự tình.
Thương con, bà mẹ sắm xe ngựa, nói dối cùng Lưu đi thăm viếng người đẹp. Lưu tin là thật, bệnh tình có mòi thuyên giảm. Tìm kiếm hỏi han hàng trăm dặm đường nhưng chẳng ai biết nhà họ Long. Đến tối, đang trên đường về. Một con bé gái như dáng tì nữ không biết từ đâu đến vén màn xe nhìn thấy Sinh tiều tụy dung nhan. Con bé có tí cảm thương mà hỏi nguyên do.Người nhà kể rõ đầu đuôi cho con bé nghe, con bé im lặng nhìn Lưu có tí thương hại ra chiều suy nghĩ rồi nói với Lưu rằng:
-Tôi là thị tỳ của Yến Viên cô nương đây. Chỗ ở của cô nương tôi  không thể nói cho công tử biết được. Xin công tử cứ về nhà, tôi sẽ nói cô nương sẽ tự tìm đến thăm.
Nói xong, con bé từ biệt vội vàng bỏ đi, không thèm nghe lời cầu gọi của gia nhân. Mang niềm hy vọng về nhà, bệnh tình của Lưu Sinh cũng có phần nào thuyên giảm. Đêm nào cũng  chong đèn ngồi chờ, nhưng người đẹp cũng chẳng thấy đâu, bệnh tình lại tái phát có phần nặng hơn. Mê sảng gọi tên người đẹp suốt ngày như người mất trí. 
Một buổi tối, đang nằm trên giường nửa mơ nửa tỉnh. Lưu Sinh cảm thấy có người đến vuốt mặt mình mà khóc than:
-Chàng ơi tha thứ cho thiếp, vì vô tâm, ngại ngần với sự nghiêm khắc của mẹ cha mà thiếp đã không hiểu tình của chàng.Từ nay thiếp sẽ không phụ chàng nữa.
Sinh mở mắt thấy Yến Viên, tưởng nằm mơ. Tự cắn vào lưỡi mình thấy đau mới biết là thật. Yến Viên ôm lấy Lưu, cảm động mà nói rằng:
-Mấy tháng trời không thấy mặt mà gầy còm, héo hắt thế này ru? Thiếp đáng chết lắm.
Lưu Sinh cầm tay nàng ấp vào mặt, mừng rỡ chẩy nước mắt kể lể nỗi tương tư. Bệnh tình như biến mất., gắng gượng mà nói rằng:
-Nếu nàng hiểu rõ tình ta xin đừng ruồng rẫy!
Yến Viên cảm động, ghì lấy Sinh nói nhỏ bên tai rằng:
-Thiếp và chàng chắc có duyên nợ gì đây. Từ nay thiếp sẽ đến với chàng nhiều hơn, cố gắng không quá câu nệ với nghiêm khắc của mẹ cha như trước nữa.  Nhưng chàng hãy chóng khỏe mạnh và đừng quên chuyện sách đèn để tiến thân. Song thân thiếp cũng là giới trọng khoa bảng, chuyện khoa cử của chàng không thể không hỏi đến khi gặp mặt. Vậy xin chàng lấy làm trọng, cố lấy cho được tiến sĩ, trước là danh giá cho chàng, sau là thiếp có nơi nương tựa khi thành nghĩa phu thê.
Từ đó cứ khoảng 3, 4 ngày Yến Viên lại đến một lần. Chăm sóc Lưu Sinh rất ân cần như vợ chồng. Mỗi khi Sinh có ý cợt nhả nàng làm mặt nghiêm mà chối từ, hối thúc chàng chăm lo đèn sách.
Mẫu thân của Lưu Sinh thấy quí tử khỏi bệnh lại chăm chỉ học hành khác hẳn bản tình lơ là, nhác biếng khi xưa kia, có ý nghi ngờ, dò hỏi. Lưu mỉm cười không nói. Mãi rồi bà mẹ cũng chẳng để ý.

Gặp năm có kỳ thi Hương,  trước hôm thi một ngày, không biết vì sao Yến Viên đưa cho Sinh xem một vài chương trong cổ thi, cùng chàng thảo luận. Không ngờ lại giống y hệt đề thi, Sinh làm bài rất tốt nhờ vậy đậu thủ khoa.
Năm sau, thi đình. Trước ngày thi mấy ngày Yến Viên lục ra một số bản văn của vài đề thi ngày trước khuyên chàng chú ý. Đến khi thi, đề bài đưa xuống lại ngẫu nhiên phù hợp. Lưu lại đậu cao nhất tỉnh, Mẹ của Sinh cũng được quan tỉnh ngợi khen là hiền mẫu. Trong khi chờ đợi giấy bổ nhiệm của vua từ kinh đô, Sinh mong gặp Yến Viên để lo việc kết duyên như nàng đã hẹn.
Qua mấy hôm trông chờ,  không thấy Yến Viên đến, Lưu đã lấy làm lo. Đi ra đi vào, thở vắn than dài, chẳng biết nàng ở đâu để đi tìm. Buổi tối Lưu sai người hầu bầy tiệc rượu, ngồi độc ẩm. Lưu uống liền một hơi mấy chén rượu, mặt đỏ ké gục xuống bàn, đầu óc như tỉnh như mơ thì nhìn thấy Yến viên đầu tóc rã rượi chạy vội đến trước mặt Lưu, quì xuống khóc mà nói rằng:
-Song thân và họ hàng nhà thiếp đang mắc vạ lớn, ngoài chàng ra, không người nào có thể giúp được. Xin chàng vì thiếp mà gia ân.
Lưu Sinh đỡ nàng dậy, ôm vào lòng, kinh ngạc hỏi:
-Vì sao nàng ra nông nỗi thế này. Ta và nàng là chỗ thân tình, bất cứ việc gì nàng yêu cầu dẫu chết ta cũng không chối từ.
Yến Viên khóc thưa rằng:
-Nói thực với chàng, cả gia đình thiếp đang bị hoạn nạn sát thân Xin chàng vì thiếp mà ra ơn, thiếp nguyện sẽ yêu chàng hết đời để đền đáp! 
Nghe nàng nói đúng tâm can, Lưu Sinh mừng rỡ mà nói rằng:
-Ta yêu nàng ra sao những tưởng nàng đã biết, xin rủ lòng thương xót mà kết nghĩa phu thê. Việc gì nàng muốn nhờ vả ra sao xin nói rõ.
Yến Viên đáp rằng:
-Sáng ngày mai thật sớm, chàng đi về hướng đông khoảng 10 dặm đường sẽ gặp một người mang một chiếc lồng đựng đầy ếch đem bán cho quan huyện làm tiệc! Xin chàng tìm đủ mọi cách mua lại giỏ ếch rồi cũng đi về hướng đông, gặp một con sông mà phóng sinh. Xin chàng đừng chậm trễ. Hai ngày sau thiếp sẽ đến tìm chàng.
Nói xong nàng vội vã bước đi, biến mất sau lùm cây.Sinh ngẩn ngơ đứng nhìn theo mà lòng rối bời không biết nằm mơ hay thật. Suốt đêm trằn trọc, gà vừa gáy sáng đã vội vàng khăn gói lên đường. 
Quả thật như Yến viên nói, về hướng đông khoảng 10 dặm đường, Sinh gặp một người ra dáng nông dân xách một chiếc giỏ đan bằng tre, trong giỏ có khoảng vài chục con ếch đứng ngay cửa chợ ra vẻ chờ trông người nào. Sinh mừng rỡ, biết rằng mình không đến muộn, giấc mơ không phải sự mơ hồ. Chàng hỏi người bán ếch:
-Ếch có bán không?
Đáp:
-Khách nhân đến muộn rồi, mấy ngày trước nhà bếp của quan tỉnh đã đặt mua hết cho bữa tiệc ngày mai. Tôi đang chờ nhà bếp đến lấy đây!
Lưu Sinh móc trong bao ra một thỏi vàng đưa tận tay người nông dân mà nói:
-Tôi sẵn sàng trả cho ông nhiều tiền gấp bội nếu ông bán tất cả giỏ ếch này cho tôi.
Nhìn cục vàng sáng chói trên bàn tay. Giá trị gấp trăm lần nhiều hơn món hàng của mình. Người bán ếch chau mày có vẻ không tin, cầm lấy cục vàng đưa vào miệng cắn thử biết  không phải giả, rồi đáp rằng:
-Khách quan nói thật hay đùa giỡn thế? Chờ ngày mai tôi bắt cho khách quan giỏ khác nhiều hơn, hôm nay thì không được vì tôi đã hứa với nhà quan huyện rồi.
Lưu Sinh đáp:
-Tôi trả nhiều tiền cho ông vì cần mua hôm nay mà thôi, ngày mai không cần nữa. Nhà bếp đến mua, ông nói dối cả mấy ngày nay không bắt được con ếch nào, không lẽ họ giết người sao? Còn tiệc tùng thì nhà bếp không nấu món này thì nấu món khác, ông lo làm gì cho mệt. Thỏi vàng này không nhỏ đâu, cả năm trời không dễ kiếm được chưa?!
Người bán ếch nghe Sinh phân trần có lý, ra vẻ ngần ngừ tí chút, mân mê thỏi vàng trên tay một lúc rồi đưa chiếc giỏ cho Sinh mà nói:
-Bán cho khách quan đó, nhưng xin mang đi ngay, đừng để tôi bị khó dễ với nhà bếp quan tỉnh nhe! 
Lưu Sinh mừng rỡ, cầm lấy giỏ ếch từ giã người nông dân, theo đường mòn đi về hướng đông. Đúng như giấc mơ, gặp một con rạch nhỏ cỏ mọc um tùm. Sinh mở chiếc giỏ thả tất cả con ếch xuống rạch nước. Có một con ếch to lớn, hơi khác thường ngước mắt nhìn chàng, kêu lên vài tiếng ộp ộp như cám ơn trước khi chuổi mình biến mất vào lùm cỏ bên lạch nước.
Hai ngày sau, Sinh phấp phỏng ngồi nhà mong Yến Viên đến như lời hẹn. Mãi lúc mặt trời đã ngả về tây, dưới ánh trăng mù mờ. Không biết từ đâu một chiếc xe song mã sang trọng đến trước cổng vườn. Từ trên xe một nữ tì bước xuống đến trước mặt Sinh quì lậy mà thưa rằng:
-Long lão gia và Yến Viên cô nương vì có chút bận rộn không thể đi đón công tử được, đành nhờ tiểu tì đến đón mời công tử đến thăm tệ xá. Mọi người đang chờ, xin công tử lên xe.
Đưa mắt nhìn chiếc xe song mã sang trọng kềnh càng đậu bên đường  mà không thấy người chung quanh tò mò. Cảm thấy lạ, Lưu hỏi người nữ tì:
-Ngươi đến đây bằng chiếc xe sang trọng như vậy không ai nhìn thấy sao? mà nhà của Yến viên cô nương có xa không?
Người nữ tì nhìn Lưu mỉm cười, ỡm ờ đáp:

 -Chẳng có ai nhìn thấy cả, chỉ có công tử nhìn thấy mà thôi vì nó dành riêng để đón công tử đó. Nhà Yến cô nương cách đây hơn trăm dặm đường, nhưng chỉ cần vài khắc là đến nơi. Xin công tử đừng thắc mắc, đến gặp Yến Viên cô nương sẽ nói rõ cho công tử biết.
Lưu Sinh đã cảm thấy có cái gì khác lạ nhưng cũng im lặng lên xe.
Ngồi trên chiếc xe ấm cúng, nhìn xuyên qua tấm màn gấm sang trọng bên ngoài mù mờ như mây. Chiếc xe chạy như bay, không khập khềnh, không âm thanh lộp cộp của nhịp ngựa thông thường.
Đúng như người nữ tì nói, chỉ khoảng khắc uống hết ly trà, chiếc xe ngừng lại, một người đàn ông ra vẻ gia nhân kéo tấm màn xe, cúi đầu kính cẩn nói:
-Kính chào công tử, xin mời vào nhà, Long chủ nhân và Yến Viên cô nương đang mong chờ.
Vừa bước lên thềm nhà, dưới ánh đèn sáng trưng như ban ngày, một người đàn ông  trung niên dáng vẻ rất uy nghi, đạo mạo.Bên cạnh ông ta một vị phu nhân rất đẹp, sang trọng, cùng lứa tuổi, đứng cạnh bà ta,  Yến Viên tươi cười, đẹp đẽ như tiên nga đưa mắt kín đáo nháy Sinh ra vẻ thân tình.
Hai ông bà bước vội đến phía trước, đưa tay kính cẩn vái chàng mà nói rằng:
-Chính ra chúng tôi phải đích thân đến đón công tử để trả nghĩa ơn cứu sống toàn gia và tất cả gia nhân. Nhưng có điều bất tiện không thể làm được, xin ân nhân thứ lỗi, bỏ qua cho.
Sinh ngẩn ngơ không hiểu, khiêm tốn đáp tạ:
- Tiểu sinh chẳng biết đã làm ơn gì cho toàn gia lão trượng, xin chẳng dám nhận ân tình.
Người đàn ông mời Sinh ngồi vào chiếc ghế tràng kỷ, đưa mắt làm hiệu cho vợ con cùng ngồi xuống ghế đối diện. Rồi chậm rãi mà nói rằng:
-Có lẽ công tử không ngờ, chúng tôi không phải là người trần.Tôi trước đây là tiên trên trời, chuyên lo về chuyện nắng mưa của thế gian. Một lần phạm lỗi với thượng đế, gia đình  bị hoá kiếp làm ếch nhái ở thế gian. Yến Viên, con gái của tôi có lần trốn nhà đi chơi nhờ công tử mà không làm mồi cho rắn độc. Mấy hôm trước cả gia đình bị nạn tưởng rằng đã chết thảm cho bữa tiệc của quan đầu tỉnh, lại được công tử cứu giúp. Hôm nay muốn gặp công tử để nói vài lời cảm nghĩ tri ân và cũng muốn dâng tặng ít nhiều cho công tử coi như đề bù công lao tái tạo sinh mạng của chúng tôi. Công tử đừng chối từ, xin cứ nói những gì công tử ao ước. Vàng bạc châu báu bao nhiêu cũng có. Chức vị phong hầu nơi trần gian cũng chẳng phải là điều khó khăn, chúng tôi sẽ lo toan được tất cả.
Lưu Sinh chắp tay vái tạ, rút trong túi ra chiếc trâm vàng mà Yên Viên tặng trước đây, đưa ra trước mặt cha mẹ nàng mà nói:
-Vãn sinh chẳng có gì để ước muốn cả. Chiếc trâm vàng này đã là vật mang duyên tiền định của quí tiểu thư và vãn sinh. Vãn sinh chỉ mong được kết nghĩa vợ chồng với tiểu thư mà thôi. Xin Long lão trượng hiểu lòng thành của vãn sinh mà không chối từ.
Long chủ nhân đưa mắt nhìn vợ và Yến Viên rồi lại nhìn Lưu Sinh, ra chiều khó khăn với lời cầu xin của chàng:
-Nói thực với công tử, hạn vận của chúng tôi đã gần hết. Chẳng còn vài tuần trăng nữa chúng tôi lại trở về trời.Làm sao người trên trời, kẻ hạ giới thành duyên cầm sắt được.
Lưu Sinh nghiêm nghị, ra vẻ quyết liệt mà đáp rằng:
-Sự sống của gia đình ngài đã nhờ tiểu sinh mà có, không lẽ ngài đành lòng mà chối từ ao ức của tiểu sinh sao?. Huống chi nếu không lấy được tiểu thơ làm vợ, tiểu sinh cũng ốm tương tư mà chết. Đó không phải là ngài lấy oán trả ân sao?
Trong lúc Long chủ nhân không biết trả lời sao thì Yến Viên quì xuống trước mặt cha mẹ đáp rằng:
-Thưa cha mẹ, con cũng không dám dấu cha mẹ mà thưa rằng hơn 2 năm qua tình yêu của chàng đã làm con cảm động. Sự sống của con đã hai lần chàng cứu vớt, đó không phải là duyên nợ với chàng sao? Con nguyện sẽ không phụ chàng, bằng lòng ở lại trần gian với chàng.
Long chủ nhân đưa mắt nhìn vợ rồi ngắm nhìn Lưu Sinh rất kỹ, quay sang con gái nhỏ nhẹ nói rằng:
-Nếu vì ân nghĩa của gia đình và thật sự con yêu công tử mà ở lại trần gian thí ba mẹ cũng chằng có cách gì để cấm cản con. Nhưng con hay suy nghĩ cho kỹ, trần gian là nơi đầy xảo trá, con người sinh ra để chịu đọa đầy với những bất hạnh khổ đau, sánh làm sao với thiên đình được!. 
Đáp:
-Con vẫn biết vậy, nhưng với con, có chàng là có tất cả hạnh phúc cha mẹ à.
Lưu Sinh cảm động đến độ ngẩn ngơ, quì xuống bên cạnh Yến Viên mà nói rằng:
-Ta sẽ mãi mãi yêu nàng, chẳng bao giờ là kẻ vong tình để đền đáp lại tình yêu của nàng.
Long chủ nhân đưa tay nâng Lưu Sinh và con gái đứng dậy mà nói rằng:
-Công tử hãy về sớm lo lễ cưới hỏi trước khi vợ chồng ta về trời. Ta sẽ giúp công tử một chức quan lớn trong triều chuyên lo về chuyện nắng mưa.
Quay sang Yến Viên ông nói tiếp:
-Con đã biết phép thuật của cha để cầu mưa, gọi gíó vậy con hãy dùng để giúp chồng con trong việc quan chức. 
Mấy ngày sau một đám cưới đơn giản được tố chức. Mẹ của Lưu Sinh vui mừng vì con trai nối được chí cử nghiệp của tổ tiên lại còn cưới được người vợ đẹp như tiên nga.
Yến Viên về nhà kính yêu, chăm sóc mẹ chồng không một tí sơ xuất, xóm làng đều khen là hiếu đễ.
Gặp năm hạn hán, đã tháng sáu mà trời vẫn chưa có một giọt nước mưa, cây cỏ tiêu điều vì nắng cháy. Nạn đói ăn vì mất mùa đang đe dọa khắp nơi. Vua quan chốn đế kinh cũng lo buồn vì không biết làm sao để tránh được nạn mất mùa nếu khô hạn còn kéo dài.
Một hôm nhà vua đọc sách trên long sàng, mệt mỏi ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ một vị tiên ông từ trên trời hiện đến mà nói với vua rằng:
-Ta là tiên trên trời xuống báo cho nhà vua biết rằng ở một tỉnh hướng đông cách kinh thành 50 dặm có một tân tiến sĩ húy danh Lưu Sinh vừa đậu khoa thì Đình. Người này có liên hệ với vị quan lo chuyện khí tiết trên thiên đình. Nhà vua mau mau triệu hồi vào kinh đô mà phong cho chức quan chuyên lo về thời tiết để giúp cho dân, cho nước mưa thận gió hòa.
Nhà vua tỉnh dậy, kể chuyện giấc mơ cho quan hầu cận, xét sổ thấy đúng như giấc mơ.Nhờ vậy Lưu Sinh được triệu về kinh đô làm chức quan chuyên lo về thiên văn, thời tiết.
Thấm thoát đã 18 năm trời vợ chồng Lưu Sinh hoà hợp sắt cầm, hạnh phúc rất là tương đắc. Đúng như giấy mơ của nhà vua, suốt thời gian làm quan của Lưu Sinh nông dân được không bị một lần nào khó khăn về mưa bão. Vợ chồng Sinh được tiếng khen là vị quan liêm chính. Yên Viên sinh được một trai đầu lòng đặt tên là Duyên Minh, vừa 18 tuổi đã đậu tiến sĩ,  ai ai cũng cho rằng phúc đức tổ tiên mà có.
Một ngày kia, buổi tối Lưu Sinh đang ngồi trong thư phòng xem xét việc quan. Yên Viên đến bên cạnh mà nói rằng:
-Thiếp vừa được thiên sứ trên trời xuống báo tin là phụ mẫu thiếp vừa được thượng đế cho biết phúc đức vợ chồng ta rất tốt, thấu đến thiên đình. Thượng đế muốn rước chàng và thiếp về trời một chuyến. Trước là thăm cha mẹ thiếp, sau là cho chàng xem biết cảnh thiên đình. Nếu chàng thích thú có thể ở lại đó làm tiên trên trời, nếu không chúng ta lại về lại trần gian tiếp tục kiếp làm người hạ giới.
Sinh mừng vui mà đáp rằng:
-Ta cũng muốn một lần chiêm ngưỡng chốn thiên đình để biết thế nào là chốn tiên cung. Cũng nhân tiện cho nàng được gặp mặt mẹ cha tỏ lòng hiếu đễ.

Hôm sau, dưới ánh trăng sáng vằng vặc, cả kinh thành chợt nhìn thấy từ căn nhà của Lưu Sinh ở có một giải ánh sáng vút lên trời rồi biến mất. Nhìn kỹ thấy một chiếc xe tứ mã trên đó hai vợ chồng Sinh bay thẳng lên trời, biến mất vào lùm mây. Cũng từ ngày đó triều đình không còn thấy vợ chồng Lưu Sinh nữa, người ta cho rằng vợ chồng Sinh là người trời sai xuống giúp dân độ thế.
Vợ chồng Lưu Sinh sống trên thiên đình, đi khắp nơi thăm viếng cảnh trời, đâu cũng yên bình mỹ lệ, hạnh phúc hoan ca. Nhưng chỉ được khoảng 3 tháng Sinh cảm thấy nhàm chán, nhớ cuộc sống xô bồ của nhân gian và có ý muốn trở về, Sinh nói với vợ rằng:
-Ta cảm thấy nhớ cảnh nhân gian quá. Nơi đó ta tìm thấy thích thú với những đổi thay trong cuộc sống hơn là bình lặng nơi đây. Ta muốn trở lại nhân gian, nàng có theo cùng ta không?
Đáp rằng:
-Với thiếp nơi đâu có chàng nơi đó là hạnh phúc, chàng ở đâu, thiếp ở đó. Thiếp đã yêu chàng mà kết nghĩa phu thê xin chàng đừng nghi ngại lòng thiếp.
Hai vợ chống Lưu Sinh trở lại nhân gian, tìm đến kinh thành nhưng tất cả đã đổi khác. Căn nhà của Sinh ngày xưa không còn nữa, đã được thay bằng một dinh cơ hoàn toàn khác lạ. Ngay đứa con trai của vợ chồng Sinh cũng không tìm thấy nữa. Hỏi nhiều người nhưng chẳng ai biết gì về gia đình, nhà cửa của Sinh trước đây. Sinh đã tưởng mình đã trở về nhân gian không đúng chỗ ngày xưa. Ngẫu nhiên gặp một cụ già, có lẽ đã trên bát tuần. Cụ già cho biết:
-Ngày ta còn bé, ông nội ta kể rằng có một vị quan rất liêm khiết chuyên lo về thời tiết có tài năng gọi gíó kêu mưa, nhờ vậy mà thời đó mưa thuận gíó hoà, nông dân được mùa. Nhưng một lần vào một đêm sáng trăng cả kinh thành nhìn thấy vợ chồng vị quan gia đó lên trời bằng chiếc xe tứ mã. Người con trai của vị quan đó vẫn ở lại trần gian, làm quan học chính ở kinh thành sau lấy công chúa. Tính ra có lẽ đến nay đã cả hơn trăm năm rồi, chắc đã đến đời cháu chắt rồi.
Nghe cụ già nói, Sinh mới hiểu ra thời gian trên thiên đình khác với thời gian ở cõi nhân gian, chỉ mấy tháng trên thượng giới mà đã qua đi hàng trăm năm nơi trần thế.Trước khi chào từ giã cụ già, buột miệng Lưu Sinh nói với cụ già rằng:
-Vợ chồng vị quan đó là chúng ta đây, chúng ta vì nhớ cõi trần gian mà trở lại đây.
Ông lão nghe nói mỉm cười, nghĩ rằng chỉ là cân nói xằng bậy của khách qua đường, ra vẻ không tin.Vợ Lưu Sinh biết ý đưa bàn tay vẫy nhẹ trước mắt ông lão rồi biến mất. Ông lão biết là thật! Về nhà thuật lại cho mọi người nghe. Tin đồn đến chốn triều đình, nhà vua sai quan địa phương sai xây đền thờ cúng viếng quanh năm.
4. Vương Hân
Vương Hân tự Dục Minh thư sinh nghèo. Song thân mất, không nơi nương tựa nên phải lưu lạc chốn đế kinh làm đủ mọi nghề kiếm sống mong có dịp tiếp tục đèn sách. Có khi làm kẻ viết đơn thuê nơi quan sở. Có lúc làm phu khuân vác ở bến tầu, xa cảng. Nhiều khi không có việc làm Vương đã phải đưa chân vào những nghề hạ tiện như đưa dẫn khách làng chơi, hầu hạ quanh chiếu bạc...
Tuy vậy Vương vẫn giữa gìn nho phong, không bỏ bê kinh sử mong ngày đại đăng khoa để đổi đời, rạng danh tiên tổ. Có ngày bụng đói meo, nhọc mệt mờ đôi mắt Vương vẫn không quẩn trí mà cho rằng trời muốn thử lòng kẻ sĩ lúc vị ngộ, chưa gặp thời! Quần áo mặc dù cũ rách nhưng vẫn sạch sẽ, phải cách của người hiểu chữ nghĩa thánh hiền.
Đối với xóm làng Vương được mọi người mến trọng. Nhiều người muốn muốn gả con gái cho Vương. Trước là có người dưỡng tế thuộc giới nho gia, sau muốn giúp đỡ Vương an định để chuyên lo sách đèn khoa bảng. Nhưng Vương vẫn tự trọng tìm nhiều lý lẽ khôn khéo chối từ.
Một hôm, không biết vì sao căn nhà trọ của Vương phát hỏa. Đang lo không tìm được chỗ trú thân. Làng bên có một căn nhà hoang vô chủ, bỏ phế đã mấy mươi năm không người cư trú vì căn nhà có ma. Có người nói với Vương nếu không sợ ma thì đến đó ở tạm.Vương nghe nói, mừng rỡ mà đáp rằng:
- Quỉ, ta còn không sợ nữa là ma!
Nói xong, chẳng ngại ngần xách khăn gói đến đó mà ở. Vương đi một vòng khắp căn nhà hai tầng. Dụng cụ, bàn ghế của người cư trú trước dù cũ kỹ nhưng không đến nỗi quá hoang phế, tiêu điều cho lắm. Vương chọn một căn phòng trên lầu có vẻ khang trang nhất lại có cửa sổ ở hướng đông. Quét dọn sơ sài rồi ngả lưng xuống chiếc giường mà ngủ.
Trong lúc chập chờn nửa thức nửa ngủ. Vương loáng thoáng nghe thấy tiếng người nói từ dưới nhà vọng lại.Cố gắng lắng tai nghe, nhưng không biết vì mệt nhọc mà chỉ một lúc sau, cảm giác buồn ngủ đè nặng trên đôi mắt rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng thức dậy. Đôi giầy cỏ của mình được xếp ngay ngắn dưới gầm giường. Chiếc áo thâm cũ kỹ, bạc mầu đã được ai giặt sạch sẽ treo ngay ngắn trên đầu giường.Chiếc bàn cũ kỹ ở cạnh cửa sổ đã biến thành chiếc bàn gỗ mun sạch bóng. Trên bầy sẵn một mâm cơm khói còn nghi ngút như vừa nấu xong.
Vương lấy làm lạ, đưa mắt nhìn khắp căn phòng chẳng thấy ai. Ngẫm nghĩ một chút rồi coi như không có gì. Bình thản mặc quần áo xong rồi ngồi vào bàn ăn hết mâm cơm.  Trước khi rời nhà đi làm việc, Vương không quên để lại vài đồng tiền trên bàn coi như chi phí cho việc ăn uống.
Buổi chiều tối về nhà. Giường chiếu đã được xếp đặt ngay ngắn. Trên bàn mâm cơm  bốc khói nghi ngút. Vương cũng chẳng thèm xoi mói, yên lặng ngồi ăn, rồi xếp bát đĩa gọn ghẽ ở góc căn phòng. Sau đó mang kinh sử ra ôn luyện chờ khoá thi sang năm.
Cũng như đêm hôm trước. Vương cũng nghe thấy tiếng người nói từ tầng dưới nhà vọng lên rồi một lúc sau cảm giác buồn ngủ hơi khác lạ lại đến và lại thiếp vào giấc ngủ. Sáng hôm thức đậy cũng như lần trước. Quần áo cũng được giặt sạch treo trên đầu giường, mâm cơm nóng trên bàn. Vương cũng im lặng ăn rồi cũng để lại món tiền nhỏ trên bàn trước khi rời nhà !
Cứ như thế đã gần một tuần trăng. Vương đã có phần nào tò mò định tìm cách khám phá. Buổi sáng ăn cơm xong, cố ý để quần áo, sách vở bề bộn trong phòng trước khi xách khăn gói đi làm như thường lệ. Nhưng chỉ một lúc sau Vương kín đáo trở về nhà, nép mình vào khe cửa. Thấy một người con gái rất đẹp, mặt hoa, da phấn ra dáng con nhà trâm anh không biết từ đâu đến vừa hát vừa quét dọn căn phòng.
Vương đờ đẫn nhìn thân thể người đẹp như bị mất hồn. Mãi sau, thấy cô gái thu dọn đã gần xong, sửa soạn rời phòng. Vương mới tỉnh giấc ngây si bước vội ra khỏi khe cửa ôm chặt lấy cô gái mà hỏi rằng :
- Nàng là ai ? Tại sao vì ta mà chăm sóc như vậy ?!
Cô gái giật mình, mặt đỏ gay vì ngượng ngùng vùng vẫy cố thoát khỏi bàn tay của Vương. Vương không những không bỏ ra mà còn kéo sát cô gái vào mình, cợt nhả mà nói rằng :
-Nàng không nói thì ta không bỏ ra mà còn kéo nàng lên giường ngủ với ta đó !
Cô gái nghe Vương nói tỏ vẻ giận dỗi mà nói rằng :
-Chàng vô lý thật ! Đã chiếm phòng của thiếp lại còn giở trò hạ tiện của kẻ vũ phu như vậy sao?! 
Vương chẳng nói chẳng rằng, đưa tay cởi áo cô gái ý định làm chuyện mây mưa. Cô gái ban đầu còn chống đối nhưng thấy Vương làm dữ, buông xuôi, khóc mà nói rằng :
-Mấy tuần trăng vừa qua, cảm thông hoàn cảnh nghèo khổ không có chốn trú thân vì hỏa hoạn của chàng mà thiếp đã cưu mang, cung phụng cho chàng. Ai ngờ chàng lại đối đãi với thiếp bất nhân như vậy sao ? Huống chi, tình yêu đâu có phải là hành động cưỡng bách mà có được ! Chàng nghĩ thiếp không có tình ý với chàng mà hầu hạ như vậy sao ?! Nghe cô gái nói, Vương có tí xấu hổ. Không dám ra tuồng hung bạo nữa, buông tay người đẹp ra mà nói :
-Xin nàng tha lỗi cho ta. Chỉ vì thương yêu nàng quá mức mà như vậy đó! Từ nay xin chừa!
Cô gái ra chiều cảm động với lời lẽ dịu ngọt của Vương. Đưa đôi mắt đa tình nhìn chàng, mỉm cười, e thẹn mà thưa rằng:
-Chàng chẳng hổ là người hiểu lễ thánh hiền. Nếu thực sự chàng đoái tưởng đến thiếp thì có ngại ngần gì mà thiếp không rung cảm. Thiếp có phải là sắt đá đâu mà không trả lại tình yêu của chàng!
Người con gái cho biết tên là Linh Miên, họ Hồ. Sống với song thân tên Hồ Ông, Hồ Bà cùng với 4 người anh trong căn nhà này đã mấy mươi năm rồi. Ngày mà Vương Hân vào căn nhà, gia đình nàng đều biết nhưng cảm thông nỗi cơ khổ, không nơi của thư sinh mà không ngăn cấm. Không biết vì ngẫu nhiên hay vì đưa đẩy của tâm linh, Vương Hân lại chọn lựa đúng căn phòng của Linh Viên để tạm trú. Song thân nàng cho là duyên số tiền định mà sai nàng chăm sóc, giúp đỡ cho Vương. Chờ Vương đại đăng khoa mà kết nghĩa phu thê. 
Vương Hiển nghe người đẹp phân trần đã có phần sung sướng. Nhìn người đẹp mặt, da trắng như trứng gà bóc, dáng điệu quí phái như tiên nga giáng trần mà mê mẩn không nói nên lời.
Tuy có chút nghi ngờ về câu chuyện ngôi nhà hoang có ma, nhưng Vương vẫn chẳng lấy làm lo. Lại nghĩ rằng nếu có chết vì ma đẹp đẽ, đáng yêu như Linh Miên thì cũng đáng chết. Vẫn là cái chết phong lưu.
Buổi tối hôm đó hai kẻ đa tình quấn quýt nhau, tâm tình ra chiều rất tương đắc lắm. Vương đã nhiều lần muốn làm chuyện mây mưa nhưng thấy cô gái có vẻ giận. Vương đành nhín nhịn mà giữ lễ nghĩa trong thanh. Được khoảng một lúc cô gái từ giã. Vương ra chiều quyến luyến, không muốn rời xa, tần ngần đứng trông theo!
Cô gái trước khi bước ra khỏi phòng ngoái cổ lại dặn dò Vương rằng:
-Xin chàng đừng quên đèn sách. Thiếp mong chờ ngày đại đăng khoa của chàng để nên nghĩa vợ chồng lắm đó! Ngoài ra chàng đừng đi bất cứ đâu trong căn nhà này! nếu  không chúng ta sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau đâu. Xin nghe lời thiếp.
Sáng sớm hôm sau, khi Vương chuẩn bị khăn gói rời nhà đi làm kiếm tiền. Không biết từ lúc nào cô gái đã đứng trước cửa phòng mỉm cười nhỏ nhẹ mà nói rằng:
-Từ nay chàng chẳng cần phải đi làm những việc cực nhọc như trước nữa. Hãy dành thời gian, sức lực cho việc đèn sách, sửa soạn cho kỳ thi sắp tới. Việc nhà, ăn uống xin chàng đừng lo, hãy lấy việc học làm trọng.
Vương nghe qua, không mấy vui, nghĩ rằng chẳng có vinh hạnh gì khi phải ăn cơm nhờ gia đình người đẹp để sống. Đang định kiếm lời chối từ thì cô gái đã mau miệng mà thưa rằng:

-Thiếp biết ý của chàng rồi! Phụ thân thiếp cho biết đã tìm cho chàng một chân gia sư  của gia đình phú hộ họ Quắc nổi danh chốn đế kinh rồi. Công việc nhàn nhã, thù lao cao mà lại hợp với phong thái thu sinh của chàng hơn. Chỉ có một điều rất quan trọng, xin chàng để lòng đừng quên, đó là chàng kín đáo hộ, đừng bao giờ nói với bất cứ ai biết chỗ cư ngụ, tên họ gia đình thiếp mà thôi.
-Nếu thế thì được. Ta xin hứa với nàng mà kín miệng.
Đáp:
-Chiều tối hôm nay, thiếp sẽ dẫn chàng đến ra mắt gia đình thiếp. Trước là để chàng quen biết gia đình thiếp. Sau là cho hợp đạo lý khi chàng và thiếp nên nghĩa phu thê sau này.
Buổi tối khi về làm, Vương đã thấy Linh Miên trang điểm đẹp đẽ, đánh phấn, thoa son … dung nhan diễm tuyệt như tiên nữ giáng trần đang chờ trong phòng. Người đẹp bước đến đỡ lấy khăn gói của Vương, âu yếm mà nói rằng:
-Song thân thiếp đang chờ chàng đó. Xin chàng đi với thiếp
Vào căn phòng khách tầng phía dưới nhà, Vương Hân ngỡ ngàng vì tất cả dụng cụ, bàn ghế cũ kỹ, bề bộn của căn nhà hoang trước đây vài tuần Vương đã nhìn thấy hoàn toàn biến mất. Giờ là một phòng khách sang trọng với những chiếc bàn bằng gỗ cẩm lai bóng lộn dưới ánh đèn sáng chói. Dù rất ngạc nhiên nhưng Vương vẫn giữ nét mặt bình thản. Nghĩ rằng chẳng có gì để phải sợ!
Người đàn ông đứng tuổi, bệ vệ chắc là phụ thân của cô gái đứng dậy mà nói với Vương rằng:
-Có lẽ công tử nghe Linh nhi nói về chúng ta rồi? Ta và gia đình rất vui vẻ đón mừng công tử. Linh nhi rất có tình ý với công tử, ta mong công tử đừng phụ lòng ái nữ của ta.
Nói xong, chẳng chờ cho Vương trả lời Hồ Ông giới thiệu người đàn bà ngồi cạnh là vợ cùng với 4 người anh trai cuả Linh Viên trước khi mời Vương ngồi vào bàn ăn.
Hồ Ông cũng không quên hỏi thăm gia cảnh, việc kinh sử của Vương. Qua lời đối thoại cũng Hồ Ông tỏ ra là người thuộc giới khoa bảng. Ban đầu Vương còn giữ kẽ, không dám ăn uống quá độ. Nhưng với sự tiếp đãi nồng hậu của mọi người, nhất là với lời nói ngọt ngào như rót vào tai của Linh nhi Vương chẳng còn gì để giữa kẽ nữa.
Đôi lúc Vương cũng có tí cảm giác nghi ngờ khi nhớ đến căn nhà hoang phế có ma nhưng với chân tình của mọi người đã làm Vương an lòng mà ăn uống. 
Sau bữa cơm tối ra mắt gia đình người đẹp, Vương lại trở về với nếp sống bình thường của kẻ gia sư nhà phú hộ họ Quắc.Ban đêm về phòng lại được người đẹp chăm lo ăn uống, khuyên răn trau dồi đèn sách chờ khoa thi.
Một hôm, khi từ nhà phú hộ họ Quắc trở về, Vương có cảm tưởng có gì khang khác với mọi ngày. Mâm cơm không còn ngon lành, nấu nướng sơ sài cho xong!  Người đẹp cũng không thấy đến thăm hỏI, chăm sóc như mọi ngày.Vương lấy làm lạ nhưng nghĩ rằng cô gái bận rộn việc gì mà không đến được.
Buổi sáng và buổi tối ngày hôm sau cũng vậy! Vương lấy làm lạ, đã định nhiều lần xuống dưới nhà tìm người đẹp hỏi cho ra lẽ. Nhưng ngại ngần vì lời dặn bảo của người đẹp mà không dám đường đột! 
Đang lúc băn khoăn thì cô gái bước vào nhà, hình dong không vui tươi như thường ngày, ra chiều lo lắng, buồn bã nói nhỏ với Vương rằng:
-Phụ thân thiếp mời chàng xuống nhà dưới nói chuyện. Xin chàng đi với thiếp!
Vương ngạc nhiên đưa mắt nhìn cô gái mà hỏi rằng:
-Có chuyện gì quan trọng liên hệ đến ta chăng?
Đáp:
-Xin chàng theo thiếp, gặp phụ thân thiếp chàng sẽ hiểu.
Căn phòng khách rộng rãi sang trọng ở tầng dưới căn nhà mất hẳn đi không khí ấm cúng của lần Vương đến trước đây.  Thay vào đó là bầu không khí thê lương của tất cả khuôn mặt trong gia đình họ Hồ. Mọi người nhìn Vương buồn bả đến nỗi không thèm gật đầu. Mãi lúc sau Hồ Ông buồn bã nhìn Vương mà nói rằng:
-Gia đình ta sửa soạn gặp hoạ diệt thân đây! ngươi hãy mau rời xa nếu không sẽ bị chết oan với gia đình ta đó! 
Vương cau mày ra vẻ không hiểu mà hỏi rằng:
-Tại sao tiểu sinh phải rời xa nơi đây? Không lẽ lão trượng quên lời hứa hẹn với tiểu sinh về việc kết nghĩa phu thê với Linh Viên sao? Dù có phải chết tiểu sinh vẫn phải lấy nàng làm vợ! Huống chi việc gì mà lão trượng phải nói đến hoạ diệt thân? Việc sát nhân đâu có phải là chuyện đùa giỡn với phép vua, luật nước! Xin Lão ông cho biết, tiểu sinh có thể làm gì mà giúp đỡ được hay không?
Nghe Vương Hân nói, Hồ Ông cau mày ra chiều suy nghĩ. Đưa mắt nhìn khắp gia đình, lưỡng lự tí chút rồi hướng về Vương mà nói rằng :
-Nếu ngươi thực sự muốn gia ân cứu mạng gia đình ta, ta mới dám trình bầy. Còn không,xin mau mau rời xa căn nhà này! ngươi chỉ là kẻ vô can!
Ra vẻ quyết liệt Vương Hân đáp rằng :
-Vãn sinh sẵn sàng làm tất cả, miễn là việc làm đó trong vòng luật pháp và đạo đức. Huống chi với tiểu thư vãn sinh đã mang tình luyến ái mà!
Đáp :
-Ngươi nói vậy, ta cũng chẳng dám dấu diếm tình sự. Gia đình ta có một mối thù không đội trời chung với một kẻ đã là bạn đồng môn của vợ chồng ta. Kẻ đó đã không lấy được hiền thê của ta làm vợ cho nên đã mấy mươi năm tìm kiếm chúng ta mà sát hại ! Ta đã phải thay hình đổi dạng trốn tránh, chiếm giữ căn nhà hoang phế nay với mục đích thoát khỏi kiếp họa! Nhưng vừa đây vì hớ hênh ta đã để kẻ thù biết được tung tích. Có lẽ chỉ vài ba ngày nữa kẻ thù sẽ tìm đến đây, chúng ta chắc không thể nào thoát chết được!
Vương Hiển cau mày ngắt lời Hồ Ông :
-Không lẽ kẻ đó không coi luật pháp ra gì sao mà dám sát nhân? Hồ lão gia còn đủ thời gian để trình quan mà !
Hồ Ông thở dài buồn bã mà đáp rằng :
-Có những điều ta không thể trình bầy hết với ngươi được! Tuy nhiên ngươi chỉ nên biết rằng ta và tất cả gia đình không thể nào thoát chết nếu kẻ đó tìm đến! Nếu ngươi thực lòng luyến ái con gái ta mà muốn cứu toàn gia ta, chỉ có một cách duy nhất là ngươi theo lời ta chỉ dẫn mà thôi !
Đáp :
-Xin lão gia chỉ dậy, tiểu sinh sẽ cố gắng !
Đưa tay vào túi lấy ra một cái lọ và một viên thuốc bé như hạt gạo, đưa cho Vương, Hồ Ông chậm rãi giải thích :
-Ngày mai nhà Phú hộ họ Quắc sẽ có bữa tiệc. Rất nhiều khách, chắc chắn ngươi cũng được mời. Trong số khách có một người mặc áo vàng, đội nón mỏ quạ, đôi mắt một mí xếch ngược rất thâm hiểm. Tên là Xà Vực, đó là kẻ tử thù của ta đó. Xà Vực rất thích uống rượu, không bao giờ từ chối rượu mời của bất cứ ai. Trước khi đi dự tiệc ngươi phải bôi chai nước này lên trên quần áo để nó không nhận biết được ngươi sống ở nhà ta. Nếu không rất  nguy hiểm cho ngươi và cả cho ta nữa. Ngươi cho viên thuốc độc này vào ly rượu đem đến mời nó. Chỉ cần nó uống một ngụm là chết ngay. Gia đình ta thoát nạn, đó là ngươi đã cứu sinh mạng chúng ta vậy.
Chẳng cần để Hồ Ông giải thích thêm, Vương Hân vứt chai nước và viên thuốc xuống bàn. Với giọng giận dữ mà mắng rằng :
-Ta tưởng rằng lão gia là người biết lẽ phải mà thân cận. Ai ngờ chỉ là kẻ bất nhân xúi biểu ta làm chuyện độc ác phi nhân như vậy. Ta đâu có thể làm nhục đạo đức thánh hiền được ! Huống chi còn phép nước ta coi thường được ru ?!
Hồ ông cúi đầu ra vẻ xấu hổ ngượng ngùng với lời mắng chửi của Vương. Thấy vậy Vương cũng đem lòng ái ngại ra chiều thương xót xuống giọng mà nói rằng :
-Không lẽ chỉ có cách bất nhân bại lý đó hay sao ? Lão gia thử suy nghĩ còn cách nào khác để tiểu sinh làm hộ coi như trả nghĩa ân tình mà tiểu sinh đã nhận của lão trượng cũng như của Linh Viên bấy lâu nay không ?
Hồ Ông cau mày suy nghĩ tí chút rồi nói rằng :
-Ta vừa nghĩ ra một cách khác chắc công tử giúp ta được. Ngươi cầm chiếc khăn quàng cổ của Linh Nhi. Chắc chắn kẻ đó sẽ hỏi từ đâu ngươi có. Ngươi cứ nói dối là hôm qua trên đường cái quan có một chiếc xe song mả chạy rất vội vã lên hướng Bắc làm rơi, mà ngươi nhặt được. Với cách này kẻ thù của ta sẽ tin theo,  rời xa địa phương lên phía Bắc tức là đã cứu sống chúng ta vậy.
Đáp :
-Cách này thì chắc chắn tiểu sinh làm được. Xin lão gia đừng lo!
Đúng như lời Hồ Ông nói, ngày hôm sau Vương được họ Quắc mời dự lễ lục tuần. Cũng như lời đoán có một người khách áo vàng họ Xà tên Vực. Vương nhìn thấy, chưa kịp nói chuyện. Không hiểu sao người đó đã đến bên cạnh chàng mà hỏi rằng :
-Từ đâu công tử có chiếc khăn đó vậy ?
Vương Hân y theo lời Hồ Ông mà trả lời người áo vàng. Nghe xong người áo vàng đưa đôi mắt cú vọ nhìn Vương mà hỏi rằng :
-Công tử không dấu ta chứ ? Có chắc chiếc xe đi về hướng Bắc không ? 
Đáp :
-Vãn sinh thấy sao thì nói vậy. Huống chi vãn sinh có gì sợ mà phải dấu diếm ?! Mà lão thắc mắc về chuyện này làm gì?
-Không có gì cả. Người trên xe là bạn tâm giao của ta đó! Ta muốn gặp để thỏa lòng mong đợi đó mà thôi !
Nói xong người áo vàng đưa cặp mắt lươn đầy bí hiểm nhìn Vương rồi bỏ đi.
Tan bữa tiệc về nhà. Không biết vì đâu mà gia đình Hồ Ông đã biết rồi, hân hoan ra đón Vương ngay khi bước vào khỏi cổng căn nhà. Linh Viên cười tươi như hoa nở, ôm lấy Vương mà thưa rằng :
-Cả gia đình thiếp đội ơn cứu tử của chàng đó. Kẻ thù đã tin lời chàng bỏ địa phương này mà đi lên phía Bắc rồi !
Sau sự kiện đó. Cuộc sống của Vương lại trở về bình thường. Hàng ngày lại được người đẹp cung phụng, tâm tình.Yêu thương còn có vẻ mặn nồng hơn trước.
Một hôm, gần đến ngày thi. Buổi chiều từ nhà họ Quắc về, đang đi trên con đường cạnh khu rừng nhỏ.Không biết từ đâu một lão ông đầu bạc, râu dài ra vẻ đạo mạo như tiên ông, chặn đường Vương mà nói rằng :
-Ta xem sắc thái công tử sắp có hạn về bệnh tật. Nếu không hoá giải sẽ nguy đến tánh mạng hay ít ra cũng mang tật ách đó !
Chẳng để cho Vương trả lời, ông lão gật gù mỉm cười mà tiếp rằng :
-Nếu ngươi muốn ta có thể vì ngươi mà hoá giải hộ.
Ra vẻ không tin, Vương đứng lại mà thưa rằng :
-Việc bói toán biết đâu mà tin ! Huống chi vài ngày nữa đến ngày thi vãn sinh không dại gì mà lo chuyện viển vông. Xin lão trượng tránh đường cho ! 
Đáp :

-Ta vì thương ngươi là thư sinh mà nói thế thôi. Còn chuyện tin hay không là chuyện của ngươi. Đây ta cho ngươi một lá bùa. Ngươi đem dán vào cánh cổng căn nhà đang ở trọ thế là thoát nạn. Ngươi nghĩ mà xem, nếu đúng thì không tốt cho ngươi lắm ru ? Ngược lại, nếu hoang đường như ngươi nghĩ thì có hại gì mà ngươi phải lo lắng ?  Khi mặt trời vừa mọc ta sẽ đến nhà tìm ngươi để ngươi trả ơn ta đó. Thôi ngươi đi đi !
Nói xong, ông lão đưa tận tay Vương lá bùa mầu xanh nhỏ bằng đốt ngón tay rồi bước sang bên nhường lối cho Vương. Vương chưa kịp phản ứng thì đã thấy ông già biến đâu mất ! 
Cầm lá bùa trong tay nửa tin nửa ngờ. Thấy hình dáng ông lão râu tóc bạc phơ, đẹp như tiên ông lại biến hoá tài tình như vậy, làm cho Vương có phần nào tin nhiều hơn không! Huống chi lời nói của ông lão cũng có lý ! Nếu là chuyện hoang đường thì cũng chẳng có gì để phải lo lắng ! Nghĩ vậy Vương làm theo ông lão, đem dán lá bùa bào cánh cổng căn nhà.
Vừa dán xong thì có ngay sự biến đổi xẩy ra ! Từ căn nhà phát ra những tiếng kêu than đau đớn như người bị tra khảo! Vương ngẩn ngơ không hiểu việc gì đã xẩy ra. Chạy vội vào căn phòng khách của căn nhà. Cả gia đình Hồ Ông đang oằn oại lăn lộn kêu la ra chiều rất đau đớn!
Vương chạy vội đến đỡ Linh Viên ra vẻ không biết tại sao mà xẩy ra như vậy ?!  Cô gái cố nén đau mà nói với Vương :
-Chàng hãy đến giúp phụ thân thiếp, may ra còn cứu kịp !
Hồ Ông cũng gắng gượng ngồi tựa vào vách tường, nhịn đau mà nói với Vương rằng :
-Công tử dán lá bùa mầu xanh vào cánh cổng phải không ? Ngươi đã hại gia đình ta rồi ! Đúng là số phận ! Thôi ta cũng chẳng trách gì ngươi được. Ngươi hãy rời nơi đây ngay ! Kẻ tử thù của ta sắp đến nếu chậm trễ sẽ không thoát chết đâu !
Nghe Hồ Ông nói, Vương đã mù mờ hiểu ra ông lão đầu bạc tiên phong đạo cốt vừa gặp ở bìa rừng chỉ là kẻ tử thù của Hồ Ông biến dạng đã bất nhân mượn tay Vương để giết gia đình Hồ Ông mà thôi. Tỏ vẻ ân hận, Vương nhìn nỗi đau đớn của mọi người mà nói rằng :
-Vãn sinh không ngờ bị mắc mưu kẻ hiểm độc mà mang hại đến toàn gia lão trượng ! Xin lão gia cho biết còn cách gì để cứu mọi người được không ? Còn việc ích kỷ mà bỏ đi toàn mạng sống cho chính mình thì dù có chết vãn sinh cũng không nghe lời lão trượng được! Xin đừng phí lời vô ích ! Huống chi lỗi lầm này do vãn sinh ngu dại mà ra cả !  
Hồ Ông nghe xong, thở dài và nói với Vương Hân rằng :
-Muộn mất rồi! hơn nữa phép thuật của vợ chồng ta không đủ chống đối với nó được! Lòng tốt và tình nghĩa của ngươi với gia đình ta và con gái ta, chúng ta chỉ biết ghi sâu vào tâm cốt mà thôi ! Thời gian chẳng còn bao lâu nữa, ngươi là kẻ vô can nên rời đây mau đi !
Vương cố gắng giọng mà đáp rằng :
-Nó cho biết khi mặt trời lặn mới đến đây. Theo vãn sinh nghĩ chúng ta còn nhiều thời gian để đi trốn mà !
Nghe lời Vương nói xong, Hồ Ông có tí vui mừng mà nói rằng :
-Nếu thật mà nó đến vào lúc bình minh thì chúng ta còn tí chút hy vọng. Ngươi hãy nghe ta nói, làm ngay việc này cho ta. Trong phòng ngủ của vợ chồng ta, ở dưới dát giường có 2 cái lọ. Một cái đựng bột mầu đỏ, cái kia đựng mầu đen. Ngươi trộn đều vào nhau theo phân lượng một phần đen, hai phần đỏ. Rồi ngươi cầm hỗn hợp đó, núp vào đằng sau cánh cửa. Chờ đến khi nó sửa soạn giết chúng ta, ngươi tung hỗn hợp đó vào người nó. Hỗn hợp làm nó bất động trong khoảng khắc. Ngươi phải mau mau lấy cái trâm vàng đâm vào vòng tròn mầu đỏ đằng sau lương nó. Công việc phải làm thật nhanh và chính xác. Nếu sai lầm hay chậm trễ không những chúng ta bị hại mà ngươi cũng không sống nổi với nó đâu
Nói xong Hồ Ông lấy trong túi ra một cái trâm vàng đưa cho Vương Hân rồi nói tiếp :
-Đã đến mức này ta không thể dấu ngươi về thân phận của ta nữa. Vợ chồng ta vốn dĩ là kiếp cáo, còn Xà Vực là kiếp rắn.Ba chúng là bạn đồng môn, cùng tu luyện phép tiên mà biến đổi thành kiếp người. Nhưng vì tình hận mà vợ chồng ta và nó đã biến thành kẻ thù. Vợ chồng ta phép thuật không cao cho nên đã phải tìm cách ẩn trốn mấy chục năm mong được yên lành nhưng đến nay thì không thoát được nữa. Ta chắc chắn khi Xà Vực đến đây sẽ dùng phép biến đổi chúng ta trở lại kiếp cáo rồi mới ra tay giết! Vậy khi ngươi nhìn thấy sự biến hoá đừng lấy làm kinh hoàng ! Khi Xà Vực sắp giết chúng ta, là lúc nó không để ý ngươi hãy tung hỗn hợp vào người nó, làm như ta đã chỉ dẫn! Sau khi chết nó sẽ biến đổi lại kiếp rắn, ngươi cũng đừng lấy thế làm lạ.  Trong túi xách của nó có một cái lọ mầu vàng, ngươi lấy ra rắc lên thân thể chúng ta thì chúng ta sẽ trở lại kiếp người và khỏe mạnh như xưa. Xin ngươi vì toàn thể gia đình ta mà ra ân. 
Vương Hân làm đúng như lời Hồ Ông rồi tìm chỗ kín đáo ẩn núp. Được một lúc, mặt trời vừa ló dạng đã thấy Xà Vực từ đâu bước vào nhà. Nhìn khắp nhà ra chiều đặc ý rồi cười đắc chí mà hỏi rằng :
-Thằng học trò họ Vương, kẻ nói láo, lừa dối ta đi đâu rồi ?
Hồ Ông im lặng không trả lời. Xà Vực đi vòng quanh căn phòng khách, đưa chân đá hai vợ chồng Hồ Ông, cười thích thú mà nói rằng :
-Vợ chồng ngươi mấy mươi năm nay đã hưởng phúc quá nhiều! hôm nay ta đành cho tất cả gia đình chúng bay về với tổ tiên kiếp cáo chồn.
Nói xong Xà Vực lấy ra một cái lọ đem rắc lên 7 người trong gia đình Hồ Ông, chỉ thoáng chốc từ từ biến dạng thành 7 con cáo nằm bẹp trên nền nhà rên xiết ra vẻ đau đớn. Xà Vực nhìn sự biến đổi rũ ra cười đang định rút con dao bên hông ra để giết 7 con cáo. Vương Hân bước ra khỏi chỗ núp tung gói bột vào người Xà Vực! Tiếng cười thình lình bị tắc nghẹn, Xà Vực đứng như trời chồng! Vương nhanh nhẹn lấy chiếc trâm vàng giơ thẳng tay đâm mạnh vào vòng tròn đỏ trên lưng Xà Vực. Sự lạ lùng lại xẩy ra. Xà Vực gục xuống biến ra một con rắn mầu vàng bị cây trâm vàng đâm xuyên vào tim mà chết.
Vương lấy trong túi xách của Xà vực còn để trên sàn nhà lấy ra lọ mấu vàng đem rắc lên thân 7 con cáo. Trong khoảng khác cả 7 con cáo biến đổi trở lại với kiếp người !
Linh Viên mừng rỡ chạy lại ôm lấy Vương, không ngượng ngập mà nói rằng :
-Chàng đã là ân nhân của toàn gia đình thiếp! Từ nay thân thiếp thuộc về chàng. Thiếp nguyện sẽ vì chàng mà trả nghĩa tình cho đến chết.
Kỳ thi đó Vương đậu cao, được cử làm quan đốc học của địa phương. Rồi nhờ giúp đỡ của quan trên Vương làm đám cưới với Linh Viên ngay tại căn nhà hoang. Dân địa phương ngỡ ngàng không biết từ đâu mà Vương lại tìm được người vợ đẹp như tiên nga giáng trần như vậy, cho rằng Vương nhờ phúc đức tổ tiên. Căn nhà hoang mang tiếng có ma được vợ chồng Vương gọi thợ sửa chữa lại thành tư thất quanh năm hoa nở, chim hót. Từ đó chẳng còn ai nói đến căn nhà đó có ma nữa.
Vợ chồng Vương sống rất hoà thuận. Hàng xóm láng giềng quí mến, trọng vọng. Sau này Vương có được 3 đứa con trai xinh đẹp đều nối nghiệp cha trong đường cử nghiệp và đều thành công trong quan trường cả. Ai cũng lấy làm gương và cho là phúc đức mà ra. 
5. Hà Vương Thúy
Hôm nay thực sự ngày tết đã qua rồi, những lo lắng, buồn vui dù thế nào thì cũng đành phải khép lại để bước vào công việc kiếm sống sinh nhai( nếu ai còn ở tuổi lăn lộn với nhân gian ) hay lại tìm cách hoà mình vào lang thang tìm vui hay mơ mộng trong tuổi già hưu hỉ.
Trong cái tư thế già nua cuối đời đó ta đã bước vào văn chương,mơ mộng rồi tưởng tượng mà viết ra một câu truyện tình đầy vẻ liễu trai như một món quà đầu xuân dành riêng cho những ai muốn dìm mình vào hư ảo ( mà nghĩ cho cùng thì nhân gian đã chắc gì là có thật?). Ai thích thú thì cứ đọc cho vui! (Lưu An )
 .................
Quận Nam Hải có tú tài họ Tần, tên tự Án Sinh vốn giòng dõi thế thần, khoa bảng. Đến đời phụ mẫu của Sinh gặp đúng thời loạn ly, cướp bóc nổi lên như rươi. Cha Án Sinh đi công cán bị cướp giết chết, gia cảnh sa sút rất nhanh. Họ hàng phân tán tứ phương, ai ai cũng ngơ ngác với thời thế, chẳng giúp được nhau. Sinh đã phải bỏ ngang chuyện đèn sách cùng với mẹ tìm kế sinh nhai. Hai mẹ con phải bán dần đồ đạc, ruộng vườn, dinh thự của tổ tiên để lại mà cung ứng cho cuộc sống. Nhưng của cải có to bằng núi bán mãi cũng hết. Cuối cùng mẹ con Sinh chỉ còn lại một căn nhà nhỏ làm nơi cư trú. Nhưng cũng chỉ được hơn một năm sau ngày phụ thân mất, mẹ Sinh buồn rầu, đau ốm rồi cũng về với tổ tiên, Sinh càng rơi tình trạng khốn đốn.
Trong hoàn cảnh bi đát, tiêu điều đó Sinh đã phải bươn trải làm đủ nghề kiếm sống qua ngày. Khi thì làm kẻ viết đơn từ thuê ở chốn công nha, lúc thì làm gia sư cho con cái nhà giàu gặp thời thế. Nhiều khi không có việc làm, bụng đói meo Sinh cũng phải hạ mình làm phu khuân vác ở bến cảng, chợ đêm...

Sống trong hoàn cảnh khốn cùng, quần thô, áo vá, mặc không đủ ấm,cơm ăn không đủ no nhưng Sinh vẫn không dấu được dáng dấp quý phái của một vị công tử đã có thời phong lưu lên xe xuống ngựa. Khi ra đường, tiếp xúc với nhân gian vẫn đầy đủ phong thái của một học trò thông hiểu chữ nghĩa thánh hiền. Câu văn, tiếng nói vẫn chuẩn mực đậm nét văn chương giữ vẻ trong thanh của kẻ hàn nho đang thời vị ngộ. Không bao giờ Sinh ngửa tay xin đồ bố thí hay làm những chuyện phi nghĩa, cũng chẳng đàm đúm làm bạn với những kẻ đầu đường xó chợ. Những lúc rảnh rỗi vẫn không quên dùi mài kinh sử, lấy việc ngâm nga thi phú làm thú vui tao nhã... vẫn mong có dịp tiến thân trên con đường khoa bảng. Trước là đổi đời cho ấm thân mình sau là lấy lại danh dự cho dòng họ, tổ tiên.
Một hôm Sinh cùng với một nhóm người khuân vác cho một tiệm bán than ở bến tàu. Trong lúc nghỉ giải lao, một người đồng nghiệp nhìn Sinh ra chiều ái ngại mà nói:
- Ta xem ngươi không có vẻ gì là một kẻ bần hàn. Tại sao ngươi phải đâm đầu vào cái công việc nặng nhọc nhem nhuốc này cho khổ thân?
Sinh chưa kịp trả lời, người đó nói tiếp:
- Ta vì nghèo hàn, dốt nát lại phải nuôi vợ nuôi con, mới phải bán sức mình để kiếm sống qua ngày ở cái quận lỵ quê mùa nghèo khổ này. Ngươi là kẻ có ăn học lại độc thân dại gì mà không tìm đường lên chốn kinh thành văn minh, giàu có cho sướng thân?
Sinh nghe người bạn nói mà rướm nước mắt, bèn kể rõ sự tình, vì hoàn cảnh neo đơn mà phải cam chịu nhục nhã cho qua ngày. Người bạn nghe qua, khuyên Sinh bán nhà lấy tiền làm vốn lên kinh thành lập nghiệp. Ít ra nơi đó cũng có nhiều dịp may cho Sinh tiếp tục việc học hành tiến thân.
Án Sinh nghe lời khuyên chí tình, chí lý của người bạn. Nghĩ mình cũng chẳng còn ai ở đây để lưu luyến, lại muốn có dịp lên chốn đế kinh để mở rộng tầm mắt. Biết đâu lên đó lại gặp được may mắn mà thành danh cho phỉ lòng mơ ước. Ngay hôm sau Sinh lo việc bán nhà, lấy tiền mua một con lừa làm phương tiện di chuyển. Số lớn còn lại lận lưng dành cho việc tiêu pha lúc cần thiết. Hành lý đơn sơ với vài bộ quần áo cũ kỹ, nhưng sách vở thì Sinh coi như của quý chẳng bỏ lại một quyển nào.
Qua mấy ngày rong ruổi, đến kinh thành. Nhìn phố xá nhà cao cửa rộng, xe ngựa chen chúc nhau với khách bộ hành, ai ai cũng quần là áo lượt, Sinh nghĩ mình không lầm lạc khi rời bỏ miền quê. Nhưng nhìn vẻ thịnh vượng chốn đế kinh, Sinh lại cảm thấy lo lắng vì chẳng quen biết ai mà mong được nhờ cậy. Tiền bán nhà trong túi tưởng là nhiều nhưng xem ra chẳng đáng bao nhiêu ở chốn phồn hoa đô thị này. Bầu trời đã ngả hoàng hôn, việc đầu tiên là phải tìm một lữ quán rẻ tiền tạm trú vài hôm sau đó mới tính chuyện khác được. Nhưng đến lữ quán nào, chủ nhân nhìn thấy dáng vẻ học trò nghèo khó từ chốn quê mùa lưu lạc kiếm ăn đều bị từ chối là hết phòng. Đang lúc lo lắng, Sinh tìm được lữ quán có vẻ xập xệ, chủ nhân là một lão ông cũng như nơi khác, chẳng để Sinh nói hết lời đã nói lời từ chối. Sinh vừa quay mặt, buồn bã định từ giã ra đi, chủ nhân nắm lấy dây cương con lừa mà hỏi : 
- Nghe khẩu âm của ngươi, nếu lão không lầm thì gốc gác người Nam Hải có đúng không ?  
Sinh trả lời phải. Chủ nhân có vẻ mừng rỡ cho biết mình họ Vương, tên Khả cũng là người Nam Hải theo cha mẹ lưu lạc đến đây từ lúc mới 3,4 tuổi,đã gần hết đời mà vẫn chưa có dịp về thăm nơi chôn rau cắt rốn. Rồi Vương lão hỏi Sinh về cố hương và lý do gì mà Sinh phải phiêu bạt đến đây. Sinh thành thật trả lời cũng như trình bầy tất cả ý muốn và hoàn cảnh của mình cho Vương lão nghe. Nghe xong, ra vẻ đăm chiêu tí chút nhìn Sinh, Vương lão nói rằng:
- Hoàn cảnh của ngươi, lão nghe qua cũng có phần cảm thương. Thôi vì nghĩ tình đồng hương, lão đề nghị với ngươi một chuyện, nếu ngươi bằng lòng thì lão cũng vì ngươi mà giúp đỡ.
Chẳng để cho Sinh trả lời, Vương lão nói tiếp :
- Lão có một căn nhà khá khang trang ở bìa thành phố. Trước đây 5 năm là nhà của một vị quan nhỏ trong triều đình. Nhưng gia đình họ bất đắc kỳ tử mà chết. Căn nhà qua nhiều lần mua bán, truyền tay nhiều người, cuối cùng đã đến lão với giá rất rẻ. Lão đã tưởng rằng may mắn mà được, nhưng khi mua xong mới biết căn nhà có ma, không ai có thể xử dụng được. Đã nhiều lần lão có ý định cho thuê hay bán rẻ đi, nhưng cũng không xong vì ma phá rối, chẳng một ai yên lành khi đến sống ở đó. Người thì bị ma đánh gẫy tay, gẫy chân phải tàn tật mà ra đi. Kẻ thì bị ma làm cho cấm khẩu, nhức đầu khốn khổ cả tuần lễ sau mới bình thường. Nếu ngươi không sợ ma, lão sẵn sàng vừa bán, vừa cho, coi như giúp đỡ ngươi có chốn tạm cư mà theo đòi khoa bảng. Mỗi ngày ngươi đến đây giúp đỡ lão.Tiền công thì lão chẳng có để trả cho ngươi, coi như bù thêm vào tiền bán nhà. Ngày hai bữa thì chắc chắn ngươi không phải lo, ăn uống với vợ chồng lão, có gì ăn nấy. Bất cứ khi nào ngươi tìm được việc làm tốt đẹp hơn thì cứ ra đi, coi như xí xoá nợ nần.
Sinh mừng rỡ như buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngần ngại mà rằng :
- Quỷ vãn sinh còn chẳng sợ, huống chi là ma! Chỉ lo không có đủ tiền mà trả cho lão trượng thôi.
Chủ nhân khoắc tay mà đáp :
- Ta cũng chẳng muốn làm khó kẻ đồng hương nghèo đói như ngươi làm gì. Ngươi có bao nhiêu cũng được, thêm con lừa, ngươi để lại cho ta dùng vào việc chuyên chở. Thế cũng đã gọi là được rồi, giữa ta và ngươi chẳng đi đâu mà thiệt. Mai hậu nếu ngươi gặp thời mà thành danh, ta lại không được thơm lây với cái tiếng làm dân Nam Hải lắm hay sao ?
Sinh mừng rỡ quỳ lạy lòng tốt của lão đồng hương. Lận lưng quần đưa tất cả số tiền bán nhà và con lừa cho Vương ông. Vương lão cũng khẳng khái chẳng tính nhiều ít bỏ ngay vào túi rồi chỉ đường rành mạch cho Sinh đến căn nhà.
Đến căn nhà thì trời đã nhá nhem tối, phần vì quá mệt nhọc với cuộc hành trình quá dài Sinh chỉ đi môt vòng thoáng nhìn sơ sài căn nhà mà mình may mắn được sở hữu. Dù có phần nào hoang phế, nhưng ngôi nhà vẫn còn giữa được dáng vẻ chắc chắn. Trước nhà là chiếc vườn đầy cỏ dại mọc xen kẽ với đủ loại hoa xơ xác vì lâu năm không người chăm sóc. Trong nhà có 4 phòng riêng biệt nối với phần không gian chung giữa nhà bởi cửa ra vào của mỗi phòng. Phòng nào cũng còn đủ giường tủ nhưng xiêu vẹo hay đã ọp ẹp vì mối mọt đục khoét không thể xử dụng được.Đặc biệt căn phòng nhỏ bên cạnh phòng khách khá lớn tạm gọi là gọn ghẽ nhất Trong phòng nhỏ này có một chiếc giường ngủ, một cái bàn và hai chiếc ghế, tất cả đều bằng gỗ. Những vật dụng này phủ đầy bụi nhưng vẫn còn giữa được phần nào chắc chắn, chưa đến nỗi tàn tạ như các phòng khác.
Sinh để bao sách vở lên trên chiếc bàn, lấy tay phủi sơ sài lớp bụi trên chiếc giường gỗ rồi leo lên giường nằm. Vừa nằm chưa nóng lưng Sinh thoáng nghe có tiếng người đi lẹp dẹp cùng với tiếng nói trong căn phòng nào đó phát ra. Nhưng có lẽ vì quá mệt mỏi với hành trình mấy ngày liền, thiếu ăn, thiếu ngủ lại suốt buổi chiều vì phải lùng xục lữ quán làm Sinh không thể nào cưỡng được cơn buồn ngủ. Mí mắt như bị đè nặng đưa Sinh vào giấc ngủ mê man, chẳng còn hơi sức đâu mà chú ý đến sự khác lạ nữa.
Hôm sau, Sinh thức dậy, ngạc nhiên thấy mình nằm ngủ ở ngoài hiên căn nhà, ngay bên cạnh là bịch sách vở, vài cuốn sách như đã bị ai tò mò mở ra xem. Càng lạ lùng hơn, cũng trên hiên nhà, gần cửa ra vào không biết ai để sẵn một mâm cơm với vài món ăn đơn sơ. Sinh không cho là ma lại làm những chuyện kỳ lạ này, nhưng nghi ngờ chính mình vì mộng du mà làm ra như vậy. Sinh đứng dậy đi một vòng xem lại tất cả các phòng trong căn nhà thấy chẳng có dấu tích gì khác với ngày hôm qua mà mình đã thấy. Nếu có khác biệt thì sự âm u, ẩm ướt của buổi chiều tối đã biến mất thay vào đó là sự khô ráo, sáng sủa hơn của buổi bình minh. Căn phòng nhỏ mà Sinh nằm ngủ vẫn thế. Chiếc giường ngủ được sinh phủi bụi vẫn sạch sẽ. Trên mặt chiếc bàn gỗ dấu vết của bao sách vở vẫn còn lưu lại rõ ràng. Dưới nền nhà chỉ có dấu chân duy nhất của Sinh, không có gì chứng tỏ có người lạ vào nhà bế Sinh mà bỏ ra ngoài hiên lúc đang ngủ cả.
Suy nghĩ một hồi thấy chẳng đến đâu. Bụng đang đói cồn cào, Sinh ngồi xuống bình thản, ăn hết sạch mâm cơm. Ăn xong Sinh để gọn, mâm bát vào một góc hiên nhà coi như chẳng có gì xẩy ra,rồi khăn áo rời nhà đi làm việc cho Vương lão như đã hẹn.
Chiều tối về nhà, Sinh chẳng cần biết ai đã thu dọn đống mâm bát buổi sáng. Tắm rửa sơ sài, đem sử sách ra học hành một lúc rồi lại lên chiếc giường nằm ngủ như đêm trước. Cũng vậy, vừa nằm xuống giường là cơn buồn ngủ rã rượi lại đến. Sinh cũng thiếp vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, giống y hệt như hôm trước. Tỉnh dậy cũng thấy mình nằm ngủ ở ngoài hiên, bên cạnh là túi đựng sách vở, gần đó cũng có một mâm cơm. Sinh cũng ăn và thu dọn bát đĩa như hôm trước. 
Mấy ngày đầu tiên, bận rộn, lo lắng với chuyện định cư, Sinh cũng chẳng dư hơi mà tìm tòi thắc mắc sự khác lạ. Nhưng hơn tháng trời việc lạ lùng vẫn được lập đi lập lại …Sinh đã có phần nghi ngờ ma hay hồ ly trong ngôi nhà chọc ghẹo, quấy phá mình. Nhiều đêm cố ý không ngủ, muốn thức để dò la. Nhưng rất lạ lùng, dù cố gắng thế nào Sinh cũng không thể cưỡng được cơn buồn ngủ và sáng hôm sau lại thấy nằm ngủ ở ngoài hiên.  
Một hôm, trên đường về nhà, chợt có một lão ông, quấn sà rông mầu vàng. Nhìn bề ngoài giống như vị sư Phật giáo nhưng mái tóc bạc phơ để dài được thắt búi sau gáy chứ không cạo trọc. Đạo sĩ với vẻ tiên phong đạo cốt, tay trái bưng chiếc khay bằng gỗ nâu, tay phải bắt quyết trước ngực, đứng khất thực bên đường. Chợt nhìn thấy Sinh đi qua, đạo sĩ hơi chau mày, gật đầu chào, làm cho Sinh đi chậm lại rồi đạo sĩ đưa tay nắm nhẹ lấy Sinh. Với giọng nói chậm rãi: 
- Lão xem trên người của ngài có rất nhiều ám khí ma quái đó, ngài liệu mà trừ khử đi, xin chớ coi thường mà hại đến thân đó.  
Chẳng để Sinh trả lời, đạo sĩ tiếp : 
- Nếu ngài có lòng tin mà thỉnh cầu, lão sẽ vì ngài mà giúp đỡ. 
Nghe đạo sĩ nói, Sinh chợt nhớ đến sự lạ của căn nhà mình đang sống mà có phần lo. Sau vài câu chào hỏi giao tế, Sinh kể tất cả cho đạo sĩ nghe. Đạo sĩ nghe xong ra vẻ ngạc nhiên, nhìn kỹ khắp người Sinh một lần nữa, đưa tay bắt mạch, ngạc nhiên mà nói với Sinh rằng :
- Sinh mạch của công tử vẫn bình thường, không có dấu hiệu gì của bệnh hoạn. Nhưng dấu sắc bên ngoài cơ thể thì đầy đặc âm khí. Không lẽ ngài liên hệ với quỷ ma cả hơn một tháng mà vô hại như vậy sao ? Hay là ngài có gì khó khăn mà dấu diếm bổn nhân sao ?
Theo đạo sĩ thì quỷ ma đến với người dương thế luôn luôn mang tai hoạ đến cho người. Kẻ thì bị dụ dẫn vào dâm loạn đến khi cạn kiệt sinh khí mà về với tổ tiên. Người thì bị tật bệnh, ốm o, gầy còm, thiếu máu mà chết. Nhưng hiện trạng của Sinh không biểu lộ điều gì của kẻ bị ma theo quỷ ám. Chỉ có âm khí mù mờ dính dấp trên quần áo mà thôi. Nhưng nghe Sinh kể chi tiết, đạo sĩ không thể không tin. Sau một lúc suy nghĩ, đạo sĩ mở hồ bao đưa cho Sinh một lá bùa vẻ lằng nhằng trên trên tờ giấy bản mầu đỏ bằng nửa bàn tay mà nói rằng :
- Ngài cất lá bùa này vào túi áo, trở về nhà bình thường làm mọi việc như mọi ngày. Lá bùa sẽ làm cho ma quỷ không thể di chuyển được ngài ra khỏi giường, giúp ngài tỉnh táo, không buồn ngủ. Ngài hãy kín đáo dò la về giống loại ma quỷ đó, rồi ngày mai cho lão biết. Lão sẽ tìm biện pháp để giúp ngài tiêu diệt nó trước khi nó ra tay hãm hại ngài.
Nhớ lời đạo sĩ dặn, về nhà. Như mọi ngày, sau khi tắm rửa sơ sài, lấy kinh sử ra ôn luyện một lúc rồi lên giường nhắm mắt như dỗ giấc ngủ. Nhưng lần này Sinh không còn bị cơn buồn ngủ rũ rượi vật ngã như những lần trước nữa mà hoàn toàn tỉnh táo. Sinh giả vờ nhắm mắt, ngáy nhè nhẹ làm như đang say ngủ. Sinh nghe thấy tiếng đi dẹp lẹp xẹp từ trong nhà đi ra cùng tiếng nói cười, đùa dỡn của nữ nhân. Sinh kín đáo hé mắt ra nhìn, thấy hai nữ nhân theo nhau vào trong phòng đang ngủ.  

Người đi trước là một con bé gái nhí nhảnh khoảng 9, 10 tuổi, tóc thắt búm trên đỉnh đầu, quần áo gọn ghẽ mầu xanh chắc là con hầu. Nữ nhân đi sau tuổi chừng 18, 19, mặt hoa da phấn, xinh đẹp tựa Hằng Nga. Dáng dấp đã thanh cao, y trang lại toàn bằng gấm lụa sang trọng. Đúng là một giai nhân, sắc nước hương trời. Dù chỉ hé mắt nhìn người đẹp nhưng Sinh đã thích lắm rồi, hồn như bay bổng tận mây xanh, mê mẩn như đang rơi vào mộng ảo.  
Vừa bước vào phòng, con bé hầu cười toe toét nhìn cô chủ xinh đẹp mà nói : 
- Lần này Tiểu Yến không giúp cô nương bế chàng ra hiên nhà nữa đâu. Cô nương hãy tự làm lấy một mình đi, kẻo lại ghen mà đánh chết tiểu nữ thì tội lắm!  
Giai nhân đưa ngón tay dí vào trán con bé, làm ra vẻ giận dữ : 
- Cái con quỷ nhỏ lém miệng này. Mi không sợ ta đánh gẫy răng sao mà nói bậy, nói bạ như vậy? Không lẽ thế gian hết đàn ông rồi sao mà ta phải hạ mình để yêu tên học trò nghèo rớt mùng tơi này sao ?  
Tiều Yến cười to hơn, đưa tay đẩy nhẹ thiếu nữ đến sát chiếc giường Sinh đang nằm rồi trêu chọc : 
- Thôi mà Vương Thúy cô nương. Yêu một người trong mộng của mình có gì là xấu đâu mà cô nương cứ dẫy nẩy lên như thế ?  
Chẳng để Vương Thúy trả lời. Con bé người hầu cười nắc nẻ, nói tiếp : 
- Tiểu nữ có ngu đần cũng nhận thấy, suốt năm năm vừa qua bao nhiêu người đến cư trú tại căn nhà này đều bị cô nương cho ăn đòn. Kẻ thì sứt đầu vưu trán khi ra đi. Đứa thì gẫy chân bể miệng mà chạy lấy thân. Chỉ có chàng, chàng học trò nghèo túng của cô nương này là được cô nương ân cần chăm sóc mà thôi. Đã thế hàng ngày còn bắt tiểu nữ nấu nướng cung phụng điểm tâm cho chàng nữa. Nói cô nương đừng giận nhe, nếu Tiểu Yến lớn lên 4, 5 tuổi nữa thì là đối thủ của cô nương đó.  
Người đẹp chẳng còn miệng mép nào để đối đáp với con bé lanh miệng. Vội vàng đánh trống lảng : 
- Con tiểu yêu lắm miệng thật. Thôi hãy giúp ta bế chàng ra ngoài hiên như mọi ngày đi, xem đến bao giờ cái đầu thư sinh mọt sách đó mới tỉnh giấc mà biết ơn chúng ta. 
Nói xong thiếu nữ kéo tay con bé đến cạnh cái giường. Sinh nằm nghe, thầm cười trong bụng nhưng vẫn im lặng để xem hai nữ nhân làm gì. Với tí rụt rè Vương Thúy đưa cánh tay trắng, mềm như tuyết lòn dưới cổ của Sinh. Con bé Tiểu Yến hình như rất quen thuộc với công việc, hai tay ôm lấy đôi chân của Sinh. Cả hai bế Sinh lên, nhưng hình như cả hai đều cố gắng nhưng không nhấc Sinh lên khỏi giường được. Hai nữ nhân, cố gắng nhiều lần nhưng thân thể của Sinh vẫn bị dính chặt xuống mặt giường.
Vương Thúy cúi gần như sát vào mặt Sinh ra vẻ lạ lùng, lắc đầu nhè nhẹ rồi nhìn con bé người hầu mà nói :
- Kỳ lạ thật, không lẽ phù phép của ta mất linh nghiệm rồi hay sao kìa ?
Con bé người hầu cũng chẳng khá hơn, giương mắt nhìn cô chủ nhân rồi lại quay nhìn vào thân thể Sinh lắc đầu mà trả lời :
- Tiểu nữ cũng không hiểu ra sao nữa.…
Sinh tí hý đôi mắt nhìn rõ điệu bộ ngạc nhiên của hai nữ nhân. Mũi phập phồng như cố hít tất cả mùi thơm tho, hấp dẫn tỏa ra từ da thịt trắng muốt của mỹ nhân. Nhất là khi khuôn mặt đẹp tựa chim sa, cá lặn cúi xuống sát vào môi, vào má mình. Đến một lúc Sinh cảm thấy chẳng còn tự chủ được nữa. Những lời dặn dò của lão đạo sĩ nói Sinh phải im lặng để theo dõi diễn biến, tất cả đã bay theo với đê mê và mơ mộng. Sinh ngồi nhỏm dậy, một tay ôm ghì lấy người đẹp, tay kia rờ mó như kẻ tìm ngọc rơi trên nền nhà ban đêm. Đã thế miệng hôn như rãi gạo trên khuôn mặt trắng như tuyết đang đầy vẻ ngỡ ngàng của người đẹp.
Con bé người hầu, dù có tí giật mình với hành động bất chợt của Sinh nhưng nó đủ khôn ngoan đoán được phần nào sự việc. Nó bỏ vòng tay đang ôm đôi chân của Sinh rồi lùi lại đằng sau vừa cười vui mừng, vừa vỗ tay mà nói :
- Công tử ơi, xin chậm rãi một tí kẻo cô nương của ta ngộp thở mà chết đó. Cô nương của ta chẳng vô tình với công tử đâu.
Còn người đẹp chẳng biết xoay trở ra sao trong vòng tay như kìm kẹp của khách đa tình chỉ biết ú ớ, đôi tay đẩy ra nhưng vẫn giữ nửa chừng. Mãi một lúc sau, khi Sinh đã có phần thỏa mãn mà nới lỏng vòng tay. Người đẹp đứng bật dậy, ra vẻ xấu hổ, nổi giận mà mắng rằng :
- Tưởng chàng là người phong nhã mà thiếp đã bỏ công săn sóc hơn môt tháng qua, mong tạo được chút tình lưu luyến của kẻ văn chương, trí gỉa. Nhưng chàng làm thế có khác gì hành động của kẻ vũ phu, đầu đường xó chợ đâu ?
Sinh nghe cô gái trách, có chiều xấu hổ. Cúi đầu như biết lỗi, ngập ngừng mà thưa rằng :
- Sắc đẹp của nàng đã làm ta yêu mến mà điên khùng đó mà thôi. Đấy cũng là cái tình si quá sâu rộng của ta dành cho nàng. Không lẽ nàng vô tình với ta mà không biết sao ?
Mỹ nhân ra chiều cảm động với chân tình của Sinh. Nắm lấy tay Sinh, ân cần mà nói :
- Nào thiếp có ngu muội đâu mà chẳng thấu hiểu tình của chàng dành cho thiếp. Cả tháng trời vừa qua, thiếp cũng đã mất ngủ, quên ăn vì yêu nhớ chàng đó mà thôi.
Thế là cuộc mây mưa chẳng có gì để cách ngăn dù cả hai chưa hỏi rõ gì về nhau. Trai thì đang độ mới lớn khỏe mạnh bẻ gẫy sừng trâu. Gái thì đang tuổi trăng tròn, biết đến đâu cho đủ chuyện ái ân. Từ nay Sinh không còn sợ buổi bình minh vì gió lạnh mà thức giấc ngoài hiên, ngồi ăn một mình với bữa điểm tâm sơ sài mà đem lòng thắc mắc. Dĩ nhiên Sinh đem đốt bỏ là bùa và cũng chẳng muốn nhớ lời đạo sĩ làm phép trừ ma nữa.
Sáng hôm sau, vừa thức dậy thấy Vương Thuý ngồi bên cạnh nhìn mình, mặt đăm chiêu ra chiều suy nghĩ, Sinh lo lắng mà hỏi rằng :
- Nàng có điều gì khó nói mà dấu giếm ta chăng ?
Với tí ngập ngừng, Vương Thúy hỏi :
- Chàng có biết thiếp không phải là người dương gian mà là ma không ?
Sinh đáp :
-Biết! Nhưng ta chỉ biết rõ ràng từ tối hôm qua mà thôi. Dù có là ma hay quỷ mà xinh đẹp, đáng yêu như nàng thì không đáng để ta say đắm ư ?
- Chàng không sợ thiếp hãm hại chàng sao ?
Sinh cười mà đáp rằng :
- Ta chẳng có gì để mất khi làm kẻ phiêu du tìm đất sống, há lại sợ ma quái hãm hại hay sao? Nàng đừng lo lắng quá mà mất vui cho cuộc kỳ ngộ của chúng ta hôm nay.
Rồi Sinh kể lể hoàn cảnh khó khăn cũng như lý do mà Sinh phải tha phuơng cầu thực. Mong tìm dịp may để phục hồi danh giá của tổ tiên.
Nghe xong chuyện đời của Sinh, Vương Thúy nghẹn lời thổ lộ :
- Hoàn cảnh của thiếp bi thảm, đáng thương hơn chàng nhiều. Hôm nay ngẫu nhiên mà gặp được chàng. Dù âm dương ngăn cách nhưng thiếp đã nặng lòng lưu luyến, đem thực lòng mà trả nghĩa tri âm. Xin chàng đừng coi cuộc vui vầy chỉ là một chuyến qua đêm, thì tủi cho thiếp lắm.
Đáp :
- Sao nàng quá bi thảm như thế? Hãy nói cho ta biết mối đau trong lòng nàng, biết đâu ta lại có phần để giúp đỡ xẻ chia.
Vương Thúy cảm động, ứa nước mắt mà kể rằng :
Thiếp họ Hà, tên Vương Thúy, Phụ thân thiếp là Hà Chính Viên, một viên quan nhỏ trong triều đình chuyên lo việc lên sổ sách khen thưởng của hoàng đế cho các quan viên vào dịp tết cuối năm. Song thân thiếp có ba người con, thiếp là trưởng nữ và hai đứa em trai. Gia đình thiếp sống tại chính ngôi nhà này cùng với 2 người hầu mà Tiểu Yến là một.
Phụ thân thiếp có một người bạn nối khố họ Chu tên Vân Khiết. Dù là bạn cố tri nhưng cá tính hai người hoàn toàn trái ngược. Phụ thân thiếp yên phận, chân thật luôn lấy sự minh bạch trong quan trường làm lẽ sống cho nên cuộc sống thanh bần. Họ Chu thì ngược lại. Tiền bạc chẳng biết đến đâu cho đủ, luôn luôn tìm cách kiếm thêm. Dù đã có năm, bẩy căn nhà chốn nội kinh, ruộng vườn hàng trăm mẫu thẳng cánh cò bay mà vẫn chưa vừa ý. Chồng thì dựa vào chức vị chốn quan trường, ức ép dân đen tìm bổng lộc. Thê tử thì cho vay nặng lãi, buôn gian bán lận đủ chiều mà cũng chưa đầy túi tham.

Một ngày vào dịp cuối năm, họ Chu đến gặp phụ thân thiếp, tỏ ý nhờ giúp đỡ cho tên y vào danh sách khen thưởng của triều đình. Phụ thân thiếp vì quá thẳng thắn, không những không đồng ý mà còn có những lời xúc xiểm đến kẻ tiểu nhân. Vì xấu hổ và cũng lo sợ phụ thân thiếp tố cáo với triều đình. Chu đã kín đáo cho một tên gia nhân ban đêm leo rào vào nhà thiếp trộn thuốc độc vào thức ăn. Kết quả toàn thể gia đình thiếp cùng với hai người hầu đều bị trúng độc mà chết. Cuộc điều tra của triều đình chẳng mang đến manh mối nào, rồi thời gian đã đẩy vụ án vào quên lãng.
Xuống cõi âm gia đình thiếp mới biết mình chết oan, thủ phạm chính là tên bạn bất lương Chu Vân Khiết. Gia đình thiếp làm đơn kiện lên thiên đình kêu oan và xin xử tội kẻ bất nhân. Thượng Đế đưa lệnh xuống cho Diêm vương tra xét. Kết quả Diêm vương phán rằng gia đình thiếp trên dương gian không làm điều gì sai trái. Đúng là bị chết oan, được cho đi đầu thai làm người ngay, phúc đức được hưởng trong kiếp mới.  
Còn gia đình Chu vân Khiết chưa phải lúc suy vong chỉ vì chưa hưởng hết phúc đức của tổ tiên để lại. Ông tổ bốn đời của Khiết suốt đời làm quan là người liêm chính, làm nhiều việc phúc đức. Gia đình đã cam chịu đói nghèo để giữ kiếp thanh bần, đến nỗi có một người con trai đã chết vì đói. Đã thế còn dám đem hết tài sản của tổ tiên nhiều đời trước phân phát, nuôi sống hàng ngàn dân đen trong một năm đất nước bị thiên tai. Về già lại là một vị chân tu đã đóng góp rất nhiều công quả cho việc xây chùa, ấn in kinh sách..v..v.. Với những nhân đức to lớn đó, ông tổ bốn đời của Khiết đã lưu lại cho con cháu đời sau. Chính vì vậy đến đời Chu Vân Khiết dù làm nhiều việc thất nhân tâm nhưng vẫn chưa hết được phúc đức mà đời trước để lại. Diêm vương cho biết nếu cứ đà làm việc thất đức như hiện tại thì chẳng chóng thì chầy, ngay trong đời Chu vân Khiết cũng bị trả giá mà thôi.
Vì quá thù hận kẻ đã giết toàn gia, thiếp đã xin Diêm Vương cho thiếp và con Tiểu Yến được chậm lại, chưa vội đi đầu thai. Thiếp và Tiểu Yến bằng lòng kéo dài kiếp hồn ma lây lất cho đến ngày được chứng kiến giờ phút đền tội của kẻ thù. Đã hơn 5 năm qua dù họ Chu làm rất nhiều việc bất nghĩa, vô nhân nhưng vẫn chưa đủ tiêu trừ hết phúc đức của tổ tiên lưu lại. Thiếp vẫn trông mong từng ngày nghiệp báo của kẻ thù chóng đến để đi đầu thai thoát khỏi kiếp ma lạnh lẽo này.
Vương Thúy dừng lại một lúc, như đè nén xúc cảm, buông tiếng thở dài mà tiếp : 
- Thiếp đã tưởng được bình thản mà chờ đợi ngày đền tội của kẻ thù, nhưng chờ đợi đã quá mệt mỏi, hôm nay vì định số đẩy đưa đã đem chàng đến với thiếp. Xin chàng đừng vì tánh trăng hoa mà ruồng rẫy. Nếu thực lòng yêu thương thiếp xin chàng hãy làm giúp cho thiếp một việc.
Sinh đáp :
- Xin cứ nói, ta sẽ tận lòng giúp đỡ nàng ngay.
Vương Thúy quỳ xuống lạy tạ, vui mừng mà nói :

- Hiện nay gia đình họ Chu vẫn đâm sâu vào làm giàu bất kể đạo đức. Nếu chàng vì thiếp mà tìm cách thân cận với họ Chu, bầy đặt cho gia đình hắn làm chuyện bất nghĩa nhiều hơn. Để thiếp và Tiểu Yến được sớm nhìn kẻ thù đền tội và được đi tái sinh làm người không còn phải kéo dài kiếp ma vất vưởng trong chốn trần gian này nữa.
Sinh nghiêm mặt ra vẻ giận mà nói rằng :
- Ta đã tưởng gặp được nàng, kẻ tri kỷ mà đem lòng yếu mến. Nhưng xem ra chẳng phải rồi! Nàng muốn ta làm kẻ bất nhân, bất nghĩa. Khuyên ta làm bạn với kẻ ác, rồi xúi xiển chúng làm ác hơn. Dù sao ta cũng đã là người theo đòi chữ nghĩa nho gia, tổ tiên ta đã nhiều đời vinh hiển trong lễ giáo, khoa bảng. Không lẽ ta dám làm chuyện sằng bậy để nhục gia phong như vậy sao ? Thôi, nàng hãy tìm người khác để họ làm cái chuyện bá đạo đó cho nàng đi.
Nói xong Sinh đứng dậy, có ý từ biệt. Vương Thúy ôm vội lấy Sinh, ra vẻ ngượng ngùng vừa khóc vừa nói:
- Xin chàng hãy bớt giận. Thiếp đã nhìn ra lỗi của mình rồi. Nhờ chàng mà thiếp đã giác ngộ được chính đạo. Từ nay sẽ lấy đó làm răn mà mãi mãi nghe lời chàng.
Sinh mừng rỡ, kéo Vương Thúy vào lòng mà nói :
- Khổ thân cho nàng, chỉ vì thù hận quá mà không nhìn được rõ căn nguyên của đạo lý. Nếu nàng và ta giúp đỡ kẻ thù làm ác, thì tội phạm, kẻ làm ác không phải là chúng ta hay sao ?Theo ta, nàng hãy ở đây sống với ta, bình tâm chờ đợi ngày đền tội của họ Chu là điều đúng nhất. Ta nguyện sẽ vì yêu nàng mà đền đáp nghĩa tâm giao.
Từ hôm đó, người địa phương thấy một cặp vợ chồng trẻ cùng con bé hầu đến sống trong căn nhà bỏ hoang vì ma quái. Chồng ra dáng một công tử con quan từ viễn xứ lên kinh đô du học. Vợ, hiền thục lại đẹp đẽ như tiên nữa giáng trần, dậy sớm thức khuya chăm sóc cho chồng yên tâm lo việc đèn sách. Đúng là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Ban đầu dân địa phương lấy làm lạ, có phần lo sợ cho người hiền lành không biết nhà có ma mà dại dột đến cư trú. Nhưng bẵng đi nhiều ngày không có chuyện gì xẩy ra, nhiều người lấy làm lạ, lâu dần chuyện ma quái cũng đi vào quên lãng.
Hơn một năm sau Sinh dễ dàng giật bằng cử nhân. Hiền thê lại sinh con trai đầu lòng đặt tên là Diên Thọ. Sinh tiếp tục con đường cử nghiệp, lại ghi danh tham dự kỳ thi Hội, trúng cả bốn trường nên được xếp vào danh sách dự kỳ thi Đình rồi giật bằng Tiến sĩ. Được triều đình bổ làm quan trung nội vụ, chuyên lo việc an sinh chốn kinh đô.
Thấm thoát đã 5 năm, đứa con trai đã bập bẹ biết nói. Một hôm Sinh từ quan phủ về nhà, chưa kịp nghỉ ngơi thì Vương Thúy cùng với Tiểu Yến đến bên cạnh, buồn rầu mà rằng :
- Thiếp vừa được Diêm Vương sai Phán quan đến báo tin, kẻ thù sát gia của thiếp đã đến ngày đền tội vì nó đã hưởng hết phúc đức tổ tiên rồi. Cũng là lúc thiếp và Tiểu Yến phải sửa soạn rời xa chàng đây. Duyên phận vợ chồng của thiếp và chàng chỉ có thế mà thôi. Xin chàng chẳng nên lấy chuyện chia ly mà quá buồn đau. Hãy mừng cho tụi thiếp vì từ nay thiếp sẽ không là hồn ma vất vưởng nữa. Hôm nay, thiếp sẽ phải xa chàng và con, trở về với cõi âm, để nhìn thấy kẻ thù đền tội rồi sẽ đi đầu thai trở lại chốn trần gian với kiếp làm người.  
Sửng sốt, ôm lấy vợ, Sinh ứa nước mắt mà nói : 
- Nàng không thể vì con của chúng ta còn bé bỏng mà lưu lại với ta vài ba năm nữa hay sao ? 
Đáp : 
- Chàng lại không hiểu được lẽ vô thường sao? Chuyện thiếp rời xa chàng hôm nay hay ngày mai cũng chỉ khác nhau là sớm và muộn thôi. Huống chi việc này không phải theo ý muốn của thiếp mà định được. Chàng tưởng rằng với hơn 5 năm sống mặn nồng tình nghĩa phu thê, lúc phải chia ly thiếp không đau đứt ruột hay sao ? Thôi đành vậy, chàng ở lại với con. 
Nói xong, Vương Thúy đưa ngón tay chỉ vào phía trong nhà, đằng sau Sinh mà nói : 
- Con đã thức rồi kìa, chàng đem con cho thiếp bế một tí! 
Sinh quay lại, thấy đứa con vẫn đang ngủ say sưa trên giường. Ngạc nhiên quay lại thì vợ và Tiểu Yến đã biến mất. Sinh biết vợ và Tiểu Yến đã tránh cảnh đau lòng lúc rời xa mà đã im lặng ra đi.  

Vài ngày sau cả kinh thành ồn ào vì tên gia nhân của Chu Vân Khiết, bị bệnh, trước khi chết đã viết thư lên triều đình tố cáo hành vi đen tối của Khiết. Vụ án dùng thuốc độc giết toàn gia họ Hà được đem ra xét xử lại. Thêm vào đó biết bao nhiêu đơn tố cáo những việc bất lương, sai trái của cả gia đình Khiết cũng được bới móc ra. Đây là vụ án quan trọng nên chính quan thượng thư bộ hình làm chánh án xét xử. Tất cả tài sản của gia đình họ Chu bị tịch biên, xung vào công quỹ. Vân Khiết bị tước quan tịch và xử tội chém đầu. Con trai bị đầy xuống biên giới miền Nam làm lính thú. Vợ và con gái đem bán cho thổ binh vùng thượng du làm tỳ thiếp.  
Đứa con trai cuả Sinh càng lớn càng khôi ngô, minh mẫn. Tuổi mới 12 đã nhiều lần cùng phụ thân đàm luận về tứ thư. Mười bốn tuổi đã đã được triều đình cho tham dự cùng với các quan văn trong buổi hội thảo về kinh Xuân Thu trong ngũ kinh của Nho giáo. Thấy con đĩnh ngộ Sinh càng quý nhưng lại càng thương nhớ vợ mà ở vậy không nghĩ đến việc cưới thứ thiếp. 
Một hôm vào dịp tiết Thanh Minh, Sinh dẫn con đi tảo mộ. Nhìn ánh nắng chiều xuyên qua hàng liễu bên sông, lấp lánh trên làn song lăn tăn. Sinh chợt nhớ đến Nam Hải, quê cha đất tổ của mình bao năm cách biệt, chưa một lần về thăm. Nghĩ đến mồ mả tổ tiên đã mấy mươi năm nguội lạnh khói hương mà đau lòng. Tự nhiên Sinh chảy nước mắt khi nhớ đến bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu mà ngâm rằng : 
 Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu  
(Nhìn hoàng hôn xuống mà tự hỏi đâu là quê hương mình nhỉ? Thấy sóng nhấp nhô trên sông lại cảm thấy lòng buồn đau) 
Dịch rằng :  
Hoàng hôn mờ bóng quê hương.
Ai nhìn sóng vỗ lòng vương vấn buồn ? 
Trở về nhà, Sinh viết thư lên triều đình, nói rõ ý định muốn về quê nhà làm quan. Triều đình đồng ý, cử Sinh làm Thái thú quận Nam hải. Sinh nổi tiếng là hiền thần, biết lo lắng cho lương dân. Con của Sinh 20 tuổi đã đỗ tam trường trạng nguyên được triều đình vời về kinh đô làm chức quan đại học sĩ. Lo việc dậy học cho con cháu của hoàng thân trong hoàng tộc. Thật là một gia đình khoa bảng, làm rạng rỡ tổ tiên.
6. Chung Tài Đạo
Vài Lời Dẫn Truyện Của Tân Thánh Thán.(*)
Vài lời dẫn truyện của Tân Thánh Thán.(*)
Hôm nay dưới cái lạnh lẽo, buồn tẻ giữ đông của đất trời Thuỵ sĩ, ta dành chút thời gian đọc lại bài tân liễu trai chí dị “ Chung Tài Đạo “ của Lưu tiên sinh, đã cho ta cảm giác thích thú khi hoài nhớ đến câu truyện tình lãng mạn, đầy thi tứ của hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhà Hán bên Tầu, một hôm đi hái thuốc mà lạc vào Thiên Thai rồi kết duyên với hai tiên nữ. Họ sống với nhau được khoảng nửa năm, hai chàng Lưu Nguyễn vì nhớ nhân gian xin trở về thăm, nhưng khi muốn trở lại nơi tiên cảnh thì không được nữa. Hai người vào rừng tìm lại chốn xưa, nhưng chỉ còn là dấu tích rêu phong:
Đào hoa lưu thuỷ y nhiên tại,
Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân.
(Tào Đường)
Dịch rằng: 
Hoa đào nước cuốn như xưa,
Đâu người chuốc rượu tiễn đưa dạo nào!?
(Đỗ Chiêu Đức) 
Rồi cũng thế, trong giai thoại nước Nam ta cũng có chàng Từ Thức năm Bính Tỵ (1396 ) thời Trần, bỏ áo từ quan mà theo kiếp lãng du. Một lần đến một ngôi chùa (người đời cho là chùa Phật Tích) đã dám bỏ áo khoác của mình ra chuộc lỗi cho một cô gái vì lỡ tay làm gẫy một cành hoa mẫu đơn của nhà chùa. Sau này trong một chuyến rong chơi, đi lạc vào một hang động đến chốn tiên cảnh gặp tiên nữ Giáng Hương, cũng là người con gái mà Từ Thức đã cứu giúp trước kia. Hai người kết nghĩa phu thê được khoảng một năm trời, Từ Thức cũng như hai chàng Lưu, Nguyễn nhớ nhà, xin về thăm chốn nhân gian để rồi cuộc chia tay cũng lại là vĩnh biệt!  
Câu truyện Liễu trai của Lưu An tiên sinh cũng vậy nhưng chỉ khác tâm thế của kẻ may mắn lạc vào chốn thiên thai. Hai chàng Lưu Nguyễn và Từ Thức mang sắc thái của những kẻ lang thang, kỳ ngộ mà gặp tiên nga. Còn nhân vật họ Chung trong truyện của Lưu tiên sinh mang tư chất của một kẻ sĩ, sinh ra trong nghèo hèn đã dựa vào xã hội, sự may mắn và dĩ nhiên từ sự cố gắng, tâm tư thiện lương của chính mình mà thành danh. Rồi cũng vì tao ngộ gặp nàng Thuỷ tiên, công chúa Thuỷ Vương Cung mà lên nghĩa vợ chồng.  
Nhưng với tâm tư cao ngạo của một kẻ sĩ, họ Chung đã không quên món nợ mà mình đã may mắn có được từ những ân hưởng của nhân gian mà xin trở lại với xã hội loài người 10 năm để trả món nợ ân tình cho nhân thế! Đó không phải sắc thái đầy cao ngạo, sáng trong như nước suối mùa thu của một kẻ sĩ biết đền đáp, hoàn trả món nợ nhân gian mà mình đã may mắn có được hay sao??? Đúng là: 
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ sau là khanh tướng.
NCT
Đó là cái hay, cái đáng suy tư làm cho ta thích thú, trầm ngâm khi đọc câu truyện Liễu trai Chung Tài Đạo của Lưu tiên sinh vậy.

Hôm nay dưới cái lạnh lẽo, buồn tẻ giữ đông của đất trời Thuỵ sĩ, ta dành chút thời gian đọc lại bài tân liễu trai chí dị “ Chung Tài Đạo “ của Lưu tiên sinh, đã cho ta cảm giác thích thú khi hoài nhớ đến câu truyện tình lãng mạn, đầy thi tứ của hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhà Hán bên Tầu, một hôm đi hái thuốc mà lạc vào Thiên Thai rồi kết duyên với hai tiên nữ. Họ sống với nhau được khoảng nửa năm, hai chàng Lưu Nguyễn vì nhớ nhân gian xin trở về thăm, nhưng khi muốn trở lại nơi tiên cảnh thì không được nữa. Hai người vào rừng tìm lại chốn xưa, nhưng chỉ còn là dấu tích rêu phong:
Vào truyện
Chung Tài Đạo người làng Kim Biện tỉnh Chí Đông, nhà nghèo. Gia phả truyền nghiệp là nông dân. Dù biết mình là giới lao động ít học, chân lấm tay bùn nhưng Đạo vẫn có ý hướng vươn lên, mong đổi đời, hoà nhập vào giới thượng lưu, chữ nghĩa. Trước là ấm thân mình sau là làm rạng danh dòng họ. Ngay khi lên 5,6 tuổi ngoài những lúc giúp cha mẹ lo việc đồng áng, Đạo luôn luôn tìm cách lân la chơi đùa, kết bạn với những trẻ có ăn học trong làng để học vẻ đài các, phong lưu.
Song thân của Đạo thấy con ham học, có chí tiến thủ cũng mừng, ráng nhịn ăn, nhịn mặc cho con đến trường. Dù ý chí mạnh mẽ nhưng đầu óc Đạo lại kém thông minh vì thế so với bạn bè cùng lớp có phần lết bết. Tuy vậy nhờ tánh chăm chỉ, kính thầy, mến bạn, nhất là tính chuẩn mực của kẻ tự trọng, không ỷ nại vào kẻ khác nên Đạo được mọi người quý mến, thân cận mà giúp đỡ.
Dù học hành muộn màng so với trẻ cùng lứa vài năm, Đạo cũng xong được cấp sơ học trường làng. Đang lúc buồn rầu vì gia cảnh nghèo túng không có điều kiện lên tỉnh tiếp tục việc học. May mắn gặp một người cùng làng có căn nhà để hoang trên tỉnh, bằng lòng cho tạm trú để học hành nhân tiện trông coi hộ. 
Đạo vui mừng từ biệt gia đình khăn gói lên tỉnh, ngày ngày ra phố chợ tìm đủ mọi việc làm, từ khu khuân vác đến hầu bàn, đổ rác...miễn là kiếm được tiền ăn học, nếu dư thừa gửi về quê giúp đỡ mẹ cha. Thấm thoát gần 4 năm, lẹt đẹt Đạo cũng giật được bằng tú tài. Dù biết mức học chưa đến đâu so với xã hội nhưng cũng có chút mừng vui vì ít ra cũng đã hoà nhập vào giới cử nghiệp. Tuổi đã ngoài hai mươi, nhưng Đạo chưa hiểu gì về chuyện trai gái, vẫn là gã trai tân ngờ ngệch trong chuyện gối chăn.
Một hôm, sau khi làm hầu bàn cho một nhà hàng ăn đặc sản thịt rừng ở trung tâm tỉnh lỵ. Trên đường về nhà, thình lình có một người đàn ông tuổi trên dưới lục tuần, quần áo thẳng nếp, đầu chớm bạc đội một chiếc khăn nỉ mầu nâu đen,bề ngoài ra vẻ giàu sang. Hình như đã chờ từ trước, thấy Đạo, ông ta tiến đến gần, nở nụ cười, gật đầu chào ra vẻ thân quen biết mà nói rằng:  
-  Công tử hôm nay làm việc có mệt không?  
Đạo giật mình, nhưng cũng cúi đầu trả lễ, ngạc nhiên hỏi: 
-  Lão nhân gia có lầm người chăng? Vãn bối chưa bao giờ có dịp quen biết với ai sang trọng như tôn lão cả.  
Ông lão cười thành tiếng, thân thiện trả lời: 
-  Làm sao mà lão phu lầm lẫn được? Công tử không phải họ Chung tên Tài Đạo đang làm cho tửu lầu Lâm Vị chuyên bán thịt rừng trong thành phố hay sao?  Có chăng là công tử làm việc nhiều quá không nhớ lão phu mà thôi. Lão phu là người khách vừa ăn uống tại tửu lầu hồi xế trưa. Chính công tử cung phụng món ăn cho lão phu mà quên rồi sao?  
Rồi ông lão tự giới thiệu tên là Phong An, họ Quân có việc quan trọng muốn nhờ Đạo giúp đỡ. Nghe ông lão nói, Đạo có tí ngạc nhiên nhưng vẫn khẳng khái, thật thà mà trả lời: 
-  Vãn bối chỉ là kẻ hầu bàn trong tửu lầu, không biết có gì quan trọng mà Quân lão trượng phải nói đến chữ nhờ vả. Nếu không có gì trái với đạo lý, trong khả năng của kẻ hầu bàn thì vãn bối nguyện hết mình phúc đáp. Xin đừng ngại ngần, cứ cho vãn bối biết.  
Đáp: 
-  Công tử thật là người có đức hạnh. Lão phu làm sao mà dám nhờ vả chuyện vô lương. Xin công tử cứ an tâm. Chuyện lão muốn nhờ công tử chẳng có gì khó khăn cả, hôm qua chủ nhân tửu lầu có mua được từ người thợ săn một số thú rừng, trong đó có 4 con chồn, vẫn chưa kịp giết thịt. Lão phu muốn nhờ công tử mua lại cho lão phu cả 4 con chồn đó.  
Nói xong ông lão đưa mắt kín đáo dò la ý tứ Đạo, rồi chậm rãi thò tay vào túi móc ra 4 thỏi vàng đưa tận tay Đạo. Thân thiện mỉm cười nói tiếp: 
-  Số kim lượng này có giá trị gấp trăm lần so với việc đem xẻ thịt mấy con chồn bán cho khách ăn nhậu. Công tử hãy cầm lấy hỏi mua cho lão cả 4 con chồn đó. Sau đó công tử đem cả 4 đến bìa rừng mà phóng sinh cho lão phu. Việc chỉ có thế, chắc không có gì làm xấu xí hai chữ đạo lý của công tử đâu! 
Đẩy 3 thỏi vàng về phía ông già, Đạo vui vẻ thưa: 
-  Việc đơn giản như thế, vãn bối hứa sẽ lo tròn việc lão trượng giao phó, nhưng chỉ  một thỏi vàng này cũng quá nhiều rồi, số còn lại vãn sinh xin hồi trả lại.  
Ông già nằng nặc không nhận lại 3 thỏi vàng. Cố nhét vào tay Đạo mà nói: 
-  Sao Công tử rắc rối thế? Lão phu thông hiểu cảnh nghèo khó của học trò mà có lòng giúp đỡ thì đã sao? Huống chi đây là việc trao đổi mà. Công tử làm được việc cho lão, còn lão vui lòng trả công chứ có ai chèn ép, lừa gạt ai đâu mà phải lo. Công tử cứ cố kèo nài với chủ nhân mua cho được lồng thú rồi đem phóng sinh. Số kim lượng còn lại coi như món quà dành cho kẻ hiếu học. 
Nhìn vẻ mặt chưa hết ngạc nhiên của Đạo, ông lão nói tiếp: 
-  Việc phóng sinh 4 con thú rừng với lão phu rất quan trọng, xin công tử đừng coi thường mà hỏng việc của lão phu.  
Sáng sớm hôm sau, Đạo đến gõ cửa nhà chủ quán nói ý định muốn mua lồng thú với một thỏi vàng, chủ nhân tửu lầu mừng rỡ bằng lòng ngay. Nghe mua để làm việc phúc đức, phóng sinh, chủ quán không những đưa cho Đạo chiếc lồng nhốt 4 con chồn, còn tặng thêm một chiếc lồng khác chứa 6 con rắn mà ông ta mua cùng với đàn chồn.  
Như lời dặn của ông lão họ Quân, Tài Đạo đem cả hai lồng thú đến bìa rừng phóng sinh y như lời dặn. Làm xong việc mới nhớ là mình đã quên không hỏi nhà ông lão để báo tin và nói lời cám ơn. Nghĩ đến cha mẹ và lũ em đang sống cơ cực với căn nhà dột nát, Đạo khóa cửa nhà trọ, dằn kỹ ba thổi vàng trong túi mang về làng cho cha mẹ xây nhà mới. 
Sau khi xây nhà xong, Đạo lại lên tỉnh làm việc, tiếp tục việc học hành. Đang trên đường cái quan chợt nghe tiếng ai gọi, quay lại thấy một nữ nhân khoảng 18, 20 tuổi từ bên kia đường, miệng cười tươi như hoa nở đang tiến đến gần mình. Dù quần áo bình dị nhưng nữ nhân cũng không che dấu được nét đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Đạo mê mẩn ngắm nhìn người đẹp chẳng nói nên lời. Nữ nhân nắm lấy bàn tay của Đạo ra vẻ đã quen biết từ lâu mà rằng:
-  Chung công tử đi đâu mà lâu thế? Mấy ngày qua, ngày nào thiếp cũng đến nhà trọ của công tử nhưng thấy cửa khoá, then cài. Hôm nay gặp nơi đây, không phải may mắn cho thiếp lắm sao? Gia đình thiếp đang trông mong công tử để tạ ơn cứu mạng đó.  

Có lẽ thấy Đạo vẫn còn ngẩn ngơ nhìn mình, cô gái lẳng lơ, đưa tay bá lấy cổ Đạo, kéo sát vào ngực mình, giở giọng nũng nịu, nói tiếp: 
-  Ô hay, có nghe thấy thiếp nói gì không? Ngớ ngẩn như vậy thiếp đi đây! 
Nói xong cô gái làm như muốn đẩy Đạo ra mà đi. Lúc này thì Đạo chẳng còn gì để ngượng ngập nữa. Đưa cả hai tay ôm chặt lấy cô gái hít lấy, hít để, miệng lắp bắp: 
- Chẳng biết gia đình nàng quen với ta ra sao nhưng có phải chết ta cũng xin làm con ma si tình đây! 
Cô gái cười như nắc nẻ, tát nhẹ vào má Đạo: 
- Khiếp thật, coi bề ngoài ra vẻ đạo mạo, nho gia lắm nhưng ai ngờ cũng là con quỷ dâm dục đây!  
Thấy cô gái đùa cợt có vẻ dễ dãi, Đạo càng được thể. Tay sờ soạn, vuốt ve khắp thân mình cô gái, miệng thì hôn như rãi gạo trên khuôn mặt vui tươi, đẹp như trăng rằm của người đẹp. Được một lúc, coi vẻ đã thỏa mãn mới nới vòng tay, đắm đuối mà hỏi rằng: 
-  Ta có bao giờ vỗ ngực xưng danh là kẻ đạo mạo đâu mà trách mắng. Bây giờ cho biết ta phải làm gì để được gần nàng đây? 
Lần này thì cô gái đẩy Đạo ra thật, ra vẻ nghiêm giọng: 
-  Thôi, chuyện đó tính sau. Bây giờ chàng phải đi gặp phụ thân thiếp đã, mọi người đang chờ ở nhà. 
Đáp: 
-  Ta là kẻ nghèo hèn, tìm sống mà lưu lạc đến đây, quen biết thế nào với phụ thân nàng? Nàng có lầm lẫn chăng?  
Thiếu nữ khoác vai Đạo âu yếm mà trả lời: 
-  Thiếp lầm lẫn hay không thì khi chàng gặp song thân thiếp sẽ biết. Còn việc chàng nghèo hèn thì đã sao? Thiếp cũng có phải dòng dõi trâm anh đâu mà chàng phải lo cho bận lòng.  
Nghe người đẹp nói thế, Đạo chẳng còn biết trả lời ra sao, cứ như kẻ mất hồn để cho người đẹp dẫn vào con đường mòn trong khu rừng bên đường. Cuối cùng đến trước một ngôi nhà gỗ khá khang trang ẩn mình dưới chân núi. Nữ nhân bỏ tay Đạo ra, mở cánh cổng tre, lên tiếng gọi: 
-  Cha mẹ ơi, đã đón được Chung công tử rồi đây. 
Gọi xong, chẳng cần ai ra đón, cô gái đi trước dẫn Đạo vào căn phòng khách chính giữa nhà, kéo ghế mời: 
-  Công tử ngồi chơi để thiếp vào mời phụ thân ra ngay.  
Chẳng cần mời gọi, ngay lúc đó từ trong nhà bước ra hai lão ông, một lão bà cùng với một thanh niên khỏe mạnh khoảng 24, 25 tuổi. Vừa trông thấy Đạo, lão ông đầu quấn khăn nỉ mừng rỡ nói: 
-  Chung công tử còn nhớ lão hủ Phong An này không nhỉ?  
 Nghe ông lão nói, Đạo nhìn lên, giật mình, ngạc nhiên mà rằng: 
-  Quân lão trượng sao lại ở đây? Vãn sinh đang muốn gặp để báo cho lão trượng biết, vãn bối đã làm y như lời dặn và cám ơn lòng tốt của lão trượng vừa qua. 
Quân lão xua tay, cười thành tiếng, trả lời: 
-  Công tử lầm lẫn rồi, chính lão mới phải nói lời cám ơn công tử đó. Nhờ công tử mà 4 người của gia đình ông anh của lão còn sống đến ngày nay đó. 
Nghe Quân lão nói, Đạo giương mắt nhìn ra vẻ chẳng hiểu. Quân lão đưa tay chỉ từng người mà giới thiệu: 
-  Đây là bào huynh của lão tên gọi Phong Dư. Đây là chị dâu của lão tên gọi là Thuý Cơ. Kia là con trai của anh chị ấy, cháu ruột của lão, tên là Kỳ Chân. Còn Dung Thi, em gái của Kỳ Chân, người vừa dẫn công tử đến đây đó.  
Chẳng để cho Đạo thắc mắc nhiều hơn, Quân lão tiếp: 
-  Công tử chắc không ngờ 4 con chồn mà lão nhờ công tử phóng sinh, chính là  4 người trong gia đình của bào huynh lão đó. Giống nòi của anh em lão là loài cáo, nhờ tu luyện mà thành hồ ly,  có thể dùng phép biến hoá mà thành người được. Một lần vì lầm lẫn phép biến hoá mà cả gia đình bào huynh của lão bị trở lại kiếp chồn. Đúng lúc lầm lẫn đó bị người thợ săn giăng lưới bắt được. Nếu không nhờ công tử cứu giúp thì đã thành món ăn vào bụng thế gian rồi. Đó không phải là ơn nghĩa tái sinh của công tử dành cho gia đình bào huynh lão sao? 
Nghe lão Phong An giải thích, Đạo đã rõ sự việc, biết mình đang thân cận với hồ ly. Nhưng đưa mắt nhìn thấy họ chẳng khác gì người nhân gian, mà còn có phần đạo mạo, phú quý hơn là khác. Đúng lúc Đạo đang suy nghĩ vẩn vơ, Dung Nhi đến gần ôm lấy Đạo vui vẻ mà hỏi: 
-  Biết thiếp là hồ rồi còn dám sờ mó, hôn hít người ta như vừa rồi nữa không, hay lại sợ bị hớp hồn mà chết? 
Đang lúc Đạo ngượng cứng người trước đám đông không biết trả lời ra sao thì bà mẹ, Thúy Cơ đã nhanh nhẹn: 
-  Cái con mất nết này, mày không sợ nói như vậy làm công tử khinh rẻ mà tránh xa sao? 
Cười to hơn, cô gái trả lời mẹ: 
-  Mẹ đừng xem mã bề ngoài hiền lành, đạo mạo của người ta mà lầm lẫn. Trên đường về nhà mấy lần con tưởng phải ngộp thở vì hôn và không có quần áo lành lặn mà về đó. Người ta chẳng hiền lành như mẹ nghĩ đâu. 
Hình như nhìn thấy vẻ khó xử của Đạo, Phong Dư đánh trống lảng: 
-  Mời Chung công tử vào phòng ăn để Quân mỗ được hồi đáp ơn cứu mạng, cũng là dịp tâm tình cho tình thân thắm thiết hơn.  
Bữa tiệc kéo dài đến gần chiều tối mới chấm dứt. Trong bữa ăn Đạo được mọi người săn đón nồng hậu, như muốn vun vào cho Dung Nhi. Đạo không nói ra nhưng vừa ý lắm, nhiều lần muốn ôm ngay lấy người đẹp mà nuốt ngay vào bụng Lúc giã từ ra về, chân bước đi mà hồn như còn gửi lại cho người đẹp. Chẳng biết vô tình hay hữu ý bà mẹ của người đẹp vồn vã mà nói: 
-  Con Dung Nhi nhà tôi vẫn còn dại khờ, chắc phải nhờ dến công tử dậy bảo nhiều lắm đó.  
Nói xong, quay sang con gái mà ra lệnh: 
-  Con hãy thay cha mẹ tiễn công tử một đoạn đường. 
Đạo mừng như mở cờ trong bụng, chưa kịp nói lời cám ơn thì người đẹp đã chạy đến ôm chặt lấy Đạo sung sướng kéo ra khỏi nhà: 
-  Đúng ý chàng muốn rồi phải không? Thiếp cũng đang nóng lòng với chàng đây.  
 Ngôi nhà gỗ vừa khuất tầm mắt, không gian vắng vẻ lại thêm bầu trời đã nhá nhem tối. Đạo chẳng còn đợi chờ được nữa, chụp ngay lấy người đẹp muốn đè ngay ra mà ái ân. Thấy Đạo hung dữ quá, cô gái đã có phần sợ hãi, cố day mình rút được cánh tay ra, lấy hết sức tát một cái như trời giáng vào mặt Đạo rồi hét lên mà mắng:  
-  Đồ vũ phu! Ta tưởng gặp được kẻ có chữ nghĩa mà yêu đương, hoá ra chỉ là loại du thử, du mục thế này sao?   
Cái tát như búa đập lại thêm câu chửi bới khinh khi của người đẹp làm Đạo tỉnh giấc, vội vàng quỳ xuống chân người đẹp mà ăn năn: 
-  Ta đã biết tội rồi, xin nàng khoan dung mà tha thứ. Từ nay xin chẳng dám làm bừa như vậy nữa. 
Thấy Đạo đã biết điều, cô gái có phần đoái thương, đưa tay nâng dậy ôn tồn nói rằng: 
-  Sao chàng không chịu suy xét một tí để hiểu rằng, thiếp không động lòng vì chàng thì há gì thiếp lại tranh lấy việc đưa tiễn chàng cho khổ? Chuyện gối chăn, thiếp có dám chối từ chàng đâu nhưng không lẽ giữa chốn rừng hoang mà làm chuyện ấy được sao? Đã thế tiễn chàng mà đi quá lâu cũng khó giải bầy với song thân thiếp lắm. Mong chàng nén lòng mà chia tay, tối mai thiếp sẽ tự tìm đến với chàng để thỏa lòng mong ước.  
Đáp:  
-  Xin nàng đừng thay lòng đổi dạ để cho ta phải sầu tương tư mà chết.   

Tối hôm sau, khi làm việc ở nhà hàng trở về nhà Đạo tắm rửa sạch sẽ chong đèn ngồi chờ. Khoảng giữa đêm Dung Nhi y hẹn đến, Đạo mừng rỡ kéo lên giường mà ngủ, khi trời vừa sáng nàng nói vài lời từ biệt mà đi. Từ đó cứ độ hai, ba ngày lại đến một lần, nhiều khi ở lại cả ngày nấu cơm, giặt quần áo cho Đạo như vợ lo cho chồng. Đạo dò hỏi ý tứ cha mẹ về chuyện vắng nhà, đến ở với mình, nhưng Nhi chỉ cười không nói hay tìm cách đánh trống lảng. Thấy vậy Đạo cũng chẳng để ý, coi như bình thường, muốn đến đâu thì đến.   
Một hôm, Đạo đang nằm với Nhi trên giường, chợt nghe tiếng ai đập cửa gọi tên mình. Ra mở cửa, thoáng thấy bóng một nữ nhân mặc toàn trắng đặt vội một gói nhỏ trước cổng nhà rồi biến mất sau lùm cây bên đường. Mở gói ra thấy một chuỗi ngọc trai, một chiếc nhẫn đính hồng ngọc và mảnh giấy hoa tiên với dòng chữ rất đẹp: “Ngọc trai dành tặng phu nhân, hồng ngọc trả ơn chàng cứu tử.“ Cuối mảnh giấy viết 4 câu thơ với tên người tặng là Long Thuỷ Tiên. 
Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong!?  (*)
 (*) Ái tư văn  (Ngọc Hân công chúa) 
Đạo không hiểu đưa cho Nhi xem, nhưng Nhi cũng mù tịt, chẳng biết Long Thuỷ Tiên là ai, tại sao lại trả ơn cứu tử? Để khỏi phụ kẻ tốt lòng, Đạo làm y lời đưa cho Dung Nhi chuỗi ngọc trai còn mình giữ chiếc nhẫn hồng ngọc.  
Thấm thoát đã gần nửa năm quen biết Nhi, Đạo cũng xong được bằng cử nhân, nghĩ rằng đã đến lúc mài chữ nghĩa ra kiếm ăn nên bỏ hẳn việc hầu hạ tửu lầu. Đệ đơn nhờ quan tổng đốc xin triều đình bổ nhiệm đi làm quan. Quan Tổng Đốc thấy Đạo xuất thân bần hàn nhưng có chí tiến thủ lại chữ đẹp văn hay nên tận tình giúp đỡ. Trong khi chờ chiếu tuyển dụng của triều đình, quan mướn Đạo làm gia sư cho mấy đứa của quan. Nhờ tánh tình hoà nhã, làm việc giỏi giang nên rất được gia đình quan quý mến tin cậy như người ruột thịt trong nhà. 
Một hôm Dung Nhi đến cho biết song thân muốn mời Đạo đến nhà ăn cơm tối nhân tiện có điều quan trọng nhờ cậy. Đạo hỏi chuyện gì nhưng nàng nói không biết, cứ đến gặp song thân tức khắc sẽ hiểu. Khi đến nhà có cả lão Phong An, thấy mọi người ra vẻ săn đón chiều chuộng mình khác thường, Đạo đoán có chuyện gì quan trọng nên cảm thấy bất an nhưng không tiện hỏi. Sau bữa ăn khi quây quần quanh chiếc bàn khách, Dư lão nhìn Đạo mà hỏi: 
-  Ta nghe Dung Nhi cho biết ngươi đang làm gia sư cho con của quan tổng đốc, rất được quan tin dùng, coi như người trong gia đình phải không?  
Đáp: 
-  Đúng vậy, Dư lão có chuyện gì quan trọng muốn hỏi vãn sinh? 
-  Giữa ta và tên tổng đốc có mối thù giết dòng tộc. Ta muốn nhờ ngươi giúp ta trả được mối thâm thù này. 
Đạo ngạc nhiên, hỏi: 
-  Xin Dư lão cho biết về mối thù và muốn nhờ vãn bối làm gi? 
Đáp: 
-  Như ngươi đã biết dòng tộc ta là loài cáo, chúng ta sống nhờ thức ăn, nước uống từ núi rừng. Thời gian gần đây sinh xuất tăng mạnh thực phẩm của rừng núi không đủ cung ứng, chúng ta đã phải vào làng xã loài người ở chung quanh bắt gà vịt, gia súc để ăn. Tên tổng đốc tỉnh đã chỉ dẫn dân làng cách săn bẫy, thậm chí còn giúp phương tiện, quân lính tìm cách tiêu diệt loài cáo chúng ta. Đây là mối thù mà loài cáo chúng ta phải báo, chính vì vậy ta muốn ngươi giúp đỡ. 
Hỏi: 
-  Vãn sinh chỉ là gia sư thấp hèn trong phủ tổng đốc. Dư lão có lầm lẫn mà nhờ vả không đúng người chăng? 
Đáp: 
-Không, ta không lầm đâu. Ta chỉ cần ngươi mang một số tài liệu có tính phản nghịch kín đáo để vào thư phòng của tên tổng đốc. Còn việc tố cáo với triều đình, kết tội hắn sẽ có người khác lo toan. 
Tài Đạo không ngần ngại, thẳng thắn trả lời: 
-  Việc này thì vãn bối không thể giúp Dư lão được.  
-  Tại sao không? 
Đáp: 
-  Vãn sinh thấy đây là hành động dối trá, phản bội, hãm hại người khác một cách thiếu quang minh, vô đạo đức… Dù sao vãn bối cũng là người hiểu rõ chữ nghĩa thánh hiền, vãn sinh không thể làm kẻ điều ti tiện như vậy được. Hơn nữa quan tổng đốc cũng là người có chút ơn tình với vãn bối, không lẽ vãn bối lấy oán để trả ân sao?! Nếu lộ ra, danh dự, tội lỗi nơi công đường ai chịu cho vãn bối? 

Suốt nẫy đến giờ lão Phong An im lặng, nhưng khi nghe Đạo nói, hắn cau mày: 
- Thế ngươi quên ngôi nhà của song thân ngươi ở vùng quê được xây dựng lại là tiền ai cho ngươi sao? Còn việc ngươi giúp chúng ta ai biết mà ngươi phải lo lắng? 
Tài Đạo nhìn lão An mỉm cười, trả lời: 
- Lão gia nói mà không suy nghĩ rồi. Với 4 thỏi vàng mà cứu sống được cả gia đình bào huynh của lão là quá mắc sao? Có lẽ con người tính toán khôn ngoan như lão trượng, nếu cần đến 10 lần nhiều hơn mà được việc lão trượng vẫn bằng lòng. Tóm lại đây đúng nghĩa là việc trao đổi mà lão trượng là người vừa lòng nhất vậy. 
Ngần ngừ chút, Đạo tiếp lời:  
-  Sao lão gia nói không ai biết? Gia đình họ Quân của lão gia biết, vãn bối biết, trời đất biết và cả lương tâm ngay thẳng, danh dự người sĩ phu của vãn bối biết…Vãn bối không thể làm việc này cho lão gia được đâu.  
Lão Phong Dư không còn giữ được bình tĩnh khi nghe Đạo trả lời, đứng bật dậy đưa tay chỉ Tài Đạo, lão hét: 
-  Ngươi hãy cút ra khỏi nhà ta ngay! Từ nay, cấm ngươi liên hệ với con gái ta. Ngươi hãy chờ đó để xem ta đối xử với ngươi ra sao. 
Nói xong lão xừng xộ đẩy Đạo ra khỏi nhà trước những cặp mắt đồng cảm của mọi người trong gia đình lão. Với thái độ dữ dằn đó, Đạo đành cúi đầu im lặng  bước ra khỏi nhà. Rời khỏi căn nhà được một quãng, Dung Nhi chạy theo nắm lấy tay Đạo buồn bã hỏi: 
-  Chàng nhất định không vì thiếp mà nghe lời phụ thân thiếp sao?  
-  Không! Ta đã nói hết ý của ta với phụ thân nàng rồi. 
Lại hỏi:  
-  Không lẽ duyên tình của thiếp và chàng đến đây là chấm dứt sao? 
Đạo chưa hết bực mình vì lời đe dọa của lão Phong Dư, phụ thân nàng nên thẳng giọng trả lời:  
-  Nàng đến đây tiễn đưa ta hay muốn khuyên ta vì nàng mà phải làm điều vô nhân? 
Dung Nhi thở dài: 
-  Nói vậy thì ý chàng đã quyết rồi. Trước khi chia tay thiếp xin chàng đừng coi thường lời đe dọa của phụ thân thiếp mà mang khổ vào thân. Xin chàng bảo trọng! 
Nói xong bỏ cánh tay Đạo, quay mình đi trở lại ngôi nhà. Từ ngày đó, Nhi không đến nữa. Rồi nhờ sự tiến cử chân thành của quan tổng đốc, Đạo được triều đình cho làm chức quan đốc học chuyên lo về việc giáo dục của tỉnh, dưới quyền quan tổng đốc. 
Bẵng đi khoảng vài tháng, vào một đêm, Đạo đang ngồi trong thư phòng mơ màng nhìn ra ngoài cửa sổ. Không biết từ đâu Dung Nhi từ hàng hiên đi vào nhà nhìn Đạo mỉm cười mà hỏi: 
-  Chàng đã làm ông quan lớn, có còn nhớ đến thiếp không? 
Đạo mừng rỡ, đứng dậy đưa tay ôm lấy Nhi vuốt ve mà nói: 
-  Nàng lại đến với ta đó sao? Làm sao ta quên được nàng. 
Dung Nhi đẩy bật Đạo ra, gằn giọng: 
-  Thiếp đến không phải để nối lại duyên tình, thiếp muốn chàng nghĩ lại mà giúp gia đình thiếp báo thù đây. 
Đáp: 
-  Sao nàng cứ khăng muốn ta làm kẻ bất nghĩa như thế? Huống chi ngày nay ta đã là vị quan chuyên lo về giáo dục, không lẽ ta lại dám làm cái chuyện vô giáo dục đó ư?  
Đưa tay chỉ vào mặt Tài Đạo, tức giận sẵng giọng Dung Nhi nói: 
-  Ta đã nhiều phen hạ mình xin xỏ ngươi giúp gia đình ta trả mối thù sát tộc. Nhưng ngươi vẫn ngoan cố mà chối từ. Từ nay, ta và ngươi đã đến lúc phải vĩnh biệt rồi. 
Nói xong, quay mặt bỏ đi không thèm ngó lại.  
Sáng hôm sau, đang trên đường đi làm việc. Thình lình có hai kẻ lạ mặt từ phía sau chụp lấy Đạo quăng lên chiếc xe song mã rồi chạy mất. Đến khoảng hoàng hôn, chiếc xe dừng lại ngay tại bãi biển. Chẳng nói một câu gì, hai kẻ bắt cóc, trói chân tay Đạo kỹ lưỡng đem lên một chiếc thuyền khá to đang thả neo bên bờ biển. Sau đó chiếc thuyền tách bến, chạy ra ngoài biển xa. Từ căn phòng dưới sàn thuyền, lão Phong An, gia đình Phong Dư cùng với một vài người khác bước ra. Với vẻ mặt tự mãn, lão Phong Dư nhìn Đạo mỉm cười, nói: 
-  Có lẽ ngươi đã thấy lời đe dọa của ta không phải là trò đùa cợt? Ngươi chết xuống âm phủ cũng đừng trách chúng ta độc ác, mà nên tự trách ngươi ngu đần, không biết thức thời để làm trái lời yêu cầu của chúng ta.  
Đạo tức giận trả lời: 
-  Ta không ngờ các ngươi lại lấy oán trả ân như thế. Với loại người bất nhân, bất nghĩa như chúng bay thì trời cũng chẳng buông tha đâu. 
Nghe Đạo nói, Phong An cười to: 
-  Tên học trò ngu ngốc, gần chết kia. Chúng ta có là người đâu mà ngươi nói đến chữ bất nhân?! Thôi, cũng là số phận của ngươi.  Hãy yên lòng mà xuống biển làm bạn với Hà Bá. 
Nói xong, lão đưa tay ra lệnh cho vài tên nô dịch liệng Đạo xuống biển. Tay chân bị trói chặt dù có dẫy giụa cũng vô ích cho nên Đạo đành để thân mình chìm dần xuống đáy biển. Nhưng trước khi ngộp thở đến mê man, Đạo thoáng nghe thấy tiếng người đối đáp:  
-  Không biết tại sao thằng này có được chiếc nhẫn này? Bây giờ phải làm sao đây?  
Đáp: 
-  Theo ý ta nên đem nó đến cho Hà Bá tướng quân để ngài định đoạt là tốt nhất. 
Sau đó Đạo không còn biết chuyện gì xẩy ra, nhưng khi mở mắt dậy thấy mình đang nằm ẹp trên một chiếc bục bằng đá trong một toà đại sảnh. Một tấm biển đính sát trên vách sau đại sảnh viết năm chữ to mầu đỏ:  “Hà Bá Tướng Quân Phủ”. Ngay trước bục đá nơi Đạo đang nằm, một nam nhân phương phi oai nghiêm với bộ râu quai nón cắt tỉa rất gọn ghẽ trong bộ quần áo tướng quân ngồi trên chiếc ghế bành to lớn khảm xà cừ. Ngay dưới đế của ghế bành viết bốn chữ cũng mấu đỏ: “Hà Bá tướng quân”. Hai bên là hai tên lính hầu to lớn nghiêm trang đứng cầm 2 cây giáo bằng đồng bóng láng, lấp lánh dưới ánh đèn. Vị tướng quân thấy Đạo đã tỉnh, hất đầu hỏi: 
-  Nói tên họ, nghề nghiệp trên nhân gian của ngươi, rồi cho ta biết vì đâu ngươi có cái nhẫn khảm hồng ngọc. 
Đạo ngồi dậy, quỳ lạy mà thưa: 
-  Bẩm tướng quân, tiểu sinh họ Chung, tên Tài Đạo, người làng Kim Biện, hiện đang làm chức tiểu quan chuyên lo việc giáo dục của tỉnh Chí Đông. Tiểu sinh không chịu làm việc bất nghĩa mà bị hồ ly hãm hại, trói liệng xuống biển. Về chiếc nhẫn, tiểu sinh ngẫu nhiên được một nữ nhân tặng cho khoảng một năm về trước. 
Hà Bá cau mày hỏi rõ: 
-  Nữ nhân đó là ai? Tại sao lại tặng cho ngươi?  
Đáp: 
-Tiểu sinh không biết rõ lý do, cũng như chưa thực sự nhìn thấy dung dạng của nữ nhân. Chỉ thấy thoáng qua, cùng với vài chữ đề tặng của nữ nhân mà thôi. 
Rồi Đạo kể chi tiết cho Hà Bá nghe. Nghe xong Hà Bá ra vẻ đăm chiêu một lúc, rồi bước xuống tự tay nâng Đạo đứng dậy, thân mật mà nói: 
-  Việc này nếu đúng như tiên sinh nói thì bổn quan đành phải mời tiên sinh đến thăm Thủy Vương Cung để gặp Hoàng gia mới minh bạch được mà thôi.  
Nói xong Hà Bá quay sang tên lính hầu nói vài tiếng xi xô mà Đạo chẳng hiểu gì, rồi quay sang Đạo: 
-  Tiên sinh là người nhiều phúc đức lắm đó! Người tặng nhẫn cho tiên sinh là đệ tam công chúa của bản quan đó. 

Tài Đạo được đưa lên chiếc xe rất sang trọng được kéo bởi một cặp thú giống như rùa nhưng chân dài hơn, đi nhanh hơn. Chiếc xe đi vòng vèo xuyên qua nhiều núi đồi, khoảng thời gian đốt hết nén hương thì đến một khu vực rất xầm uất, nhiều ngôi nhà cổ xưa cao lớn xen kẽ nhau. Kẻ buôn bán, người rong chơi đông đảo như một đô thị trên nhân gian. Sau cùng đến một lâu đài rất đồ xộ, bao quanh bởi dẫy tường thành có những tháp canh, trên đó lô nhô lính vác gươm, dáo làm nhiệm vụ gác thành. Phía trên chiếc cổng rất to mầu xám có một tấm bảng bằng đồng đen khắc 3 chữ rất to: “Thủy Vương Cung “  
Chiếc xe theo đường trải sỏi đến trước trước lâu đài thì dừng lại. Một tên lính mặc quần thuần đen, áo thắt eo sát vào người, thêu nhiều hình sắc nhanh nhẹn chạy ra mở cửa xe, rất lễ độ mời Tài Đạo xuống xe rồi đi trước dẫn đường đến thẳng đại sảnh. Giữa đại sảnh có hai chiếc ghế bành to lớn, bằng vàng khảm ngọc trai đủ mầu sắc, xếp ngang nhau. Trên ghế có hai người tuổi trung niên tóc đốm bạc uy nghi ngồi. Người ngồi trên chiếc ghế bành bên trái là nam nhân đầu đội mũ Khổng Minh, mặt phúc hậu, râu ba chòm dài xuống tận ngực, phong thái rất uy nghi. Người ngồi trên ghế bành phải là nữ nhân, đeo khăn, dù đã đứng tuổi nhưng khuôn mặt trắng mịn, hiền hậu vẫn còn vướng vấn rất nhiều nét đẹp quý phái của một giai nhân thời son trẻ. Đằng sau hai người có khoảng trên 10 người khác, trai có, gái có yên lặng nhưng có vẻ vui mừng đứng nhìn khi thấy Tài Đạo theo người lính hầu đi vào. 
Chỉ nhìn thoáng qua Đạo cũng đoán đây là hoàng gia của Thủy vương cung. Hai người ngồi ghế bành là Thủy vương và hoàng hậu, đằng sau là con cháu trong hoàng gia. Bước đến bậc thềm, Đạo quỳ, đập đầu xuống đủ ba lần rồi mới lễ phép thưa: 
-  Tiểu nhân xin kính chào hoàng thượng, hoàng hậu và hoàng gia. Kính chúc hoàng thượng, hoàng hậu và hoàng gia mọi sự an lành, vạn vạn phúc. Xin tha lỗi cho tiểu nhân nếu vì ngu ngốc mà có điều gì sơ sót.  
Thủy vương ra dấu cho Tài Đạo đứng dậy, hiền lành hỏi: 
-  Ta đã được tướng quân Hà Bá cho biết sơ sài về việc ngươi đã quen biết ái nữ của ta rồi. Ngươi có thể kể cho ta nghe thêm một lần nữa nhưng phải rất rõ ràng, tất cả các chi tiết liên quan đến cuộc tao ngộ giữa ngươi và ái nữ của ta được không? 
Tài Đạo lần lượt kể tường tận tất cả những sự việc từ khi là đứa học trò nghèo lên tỉnh học, làm việc kiếm sống ở tửu lầu, vô tình cứu sống gia đình hồ ly họ Quan rồi quen biết thân tình với Dung Nhi. Sau khi xong cử nhân được quan tổng đốc tỉnh Chí Đông tin dùng cho vào nội dinh làm việc, rồi bị hồ ly họ Quan bắt ép phải làm chuyện bất nhân để trả thù quan tổng đốc. Nhưng không chịu làm theo mà bị bắt trói liệng xuống biển … 
Nhà vua và hoàng gia lắng nghe xong, vẻ mặt vui mừng mà hỏi: 
-  Nói như vậy thì ngươi chưa có gia thất sao? Không lẽ ái nữ ta lầm lẫn? 
Đáp: 
-  Bẩm nhà vua, tiểu nhân vẫn là kẻ độc thân, chưa bao giờ kết hôn. Tiểu nhân cũng chưa bao giờ biết mặt hay quen biết công chúa thì làm sao tiểu nhân làm ơn cứu mạng công chúa được? Theo tiểu nhân thì công chúa đã lầm lẫn tiểu nhân với người khác. Xin nhà vua và hoàng hậu truy xét tường tận để tiểu nhân không mang tiếng là kẻ lừa dối.  
Nhà vua quay lại đằng sau nhìn vào một cô gái, tuổi khoảng 18, 20, mặc đồ toàn trắng, xinh đẹp như tiên nga, với giọng vui mừng nhà vua nói: 
-  Sao? Con gái yêu của ta, còn để ta phải bế ngươi ra đặt vào lòng tình nhân của ngươi hay sao? Hãy ra cám ơn người ta đi.  
Những tiếng cười khúc khích kèm theo vài tiếng thúc dục của đám đông đã đẩy cô gái ngượng ngập bước ra, đến trước mặt Đạo, cô gái quỳ xuống mà thưa rằng:  
-  Thiếp xin cám ơn chàng đã có lòng tốt cứu mạng thiếp. 
Đạo lách mình sang bên, như không muốn nhận lời cám ơn của giai nhân: 
-  Xin công chúa hãy đứng dậy, tiểu nhân chắc chắn có sự hiểu lầm rồi!  
Công chúa vẫn quỳ, ngước mắt lên nhìn Đạo, nhỏ nhẹ nói:  
-  Thiếp không lầm lẫn đâu, chàng làm phúc mà không biết đó mà thôi. Chàng còn nhớ lần chàng mua 2 sọt thú rừng. Một sọt có 4 con cáo, sọt kia có 6 con rắn đem ra bìa rừng phóng sinh không? 6 con rắn đó là thiếp và 5 nữ tỳ vì ham vui chơi trên nhân gian rồi bị lạc đường chưa kịp về thì bị thợ săn bắt được đem đi bán cho tửu lầu. Nếu không có chàng thì chúng thiếp đã trở thành món ăn cho kẻ phàm phu rồi! Đấy không phải là ơn tái sinh của chàng dành cho chúng thiếp sao? 
Chẳng chú ý đến nét mặt ngẩn ngơ, ngoài sức tưởng tượng của Đạo, công chúa quay sang đám nữ tỳ đứng gần mà nói: 
-  Các ngươi không quỳ xuống khấu đầu tạ ơn cứu tử của Chung công tử đi còn đứng đó nhìn sao?  
Năm cô nữ tỳ như cái máy cùng quỳ xuống trước Đạo lạy như tế sao, nói liên tục những câu cám ơn. Đúng lúc đó, Hoàng hậu đến nâng Đạo đứng lên cùng với công chúa, rồi nhỏ nhẹ hỏi công chúa: 
-  Thuỷ Tiên, vì đâu mà con nói công tử đã có gia thất, lại đem tặng vợ công tử chuỗi ngọc trai của mẹ?  
Thuỷ Tiên ngượng ngùng kể lể: 
-  Sau khi thoát chết con và mấy nữ tỳ tìm đến nhà trọ của công tử, nhưng cửa khoá nên con đành trở về lại thủy cung. Sau đó khoảng vài tuần sau con đi một mình đến nhà công tử do la một lần nữa. Lần này con thấy công tử và một nữ nhân thân cận như vợ chồng, con nghĩ công tử đã có gia thất. Trong lúc thất vọng vì vỡ mộng, con không muốn gặp lại công tử nữa, nhưng đã mang ơn mà không trả cũng không được, vì vậy con đành tháo chuối ngọc trai và chiếc nhẫn đính hồng ngọc của mẹ mà làm quà trả ơn. Cũng vì buồn đau khi nghĩ công tử đã có vợ nên gọi cửa rồi để hộp quà tặng trước cửa nhà mà bỏ đi.  
Đạo nghe Thuỷ Tiên nói, hiểu rõ ngọn ngành. Đưa mắt kín đáo nhìn công chúa, vừa xinh đẹp, sang trọng quý phái lại nặng tình với mình… Cảm động, vui mừng không nói nên lời. 
Thuỷ vương, suốt nẫy đến giờ im lặng theo dõi câu chuyện. Nhà vua phá lên cười, ra lệnh cho đám cận vệ: 
-  Đặt yến tiệc cho ta tiếp đãi con rể khác giống nòi của ta mau. 

Quay sang Tài Đạo thủy vương thân cận nói: 
-  Ngươi có biết không, con gái ta đã bỏ ăn bỏ ngủ, buồn đau vì nghĩ ngươi đã có vợ đó. Hôm nay thì mọi điều đã rõ ràng, vậy ngươi có muốn làm con rể của ta không?  
Đạo sung sướng như mở cờ trong bụng, quỳ xuống lạy tạ mà thưa: 
-  Thưa bệ hạ, vãn bối được công chúa hạ mình mà thương yêu, lại được bệ hạ rộng lòng chấp nhận thì đúng là điều vạn vạn phúc cho vãn bối rồi, làm sao vãn bối dám chối từ. Nhưng vãn bối chỉ xin bệ hạ cũng như công chúa nên suy nghĩ rất kỹ trước khi quyết định gia ân cho vãn bối. Dòng dõi của vãn bối là một kẻ quê mùa, nghèo túng. Còn chức phận cũng chỉ là một viên quan thấp kém ở một địa phương hẻo lánh trên nhân gian… Những thua kém, thấp hèn đó của tại hạ có phải là những điều mà bệ hạ và công chúa không nhìn thấy khi ban ân cho tại hạ không?  
Thủy vương chẳng cần suy nghĩ: 
-  Dòng dõi của ngươi chẳng phải là điều ta để ý. Vấn đề quan trọng nhất là con gái yêu của ta có yêu thương ngươi, bằng lòng lấy ngươi làm chồng hay không và cuối cùng ngươi có bằng lòng rời bỏ nhân gian để làm con rể ta không? Nếu có hai điều đó thi đám cưới sẽ thành hình trong nay mai. 
Quay sang công chúa, Thủy vương hỏi: 
-  Thuỷ Tiên, cha muốn biết ý của con thêm một lần nữa. 
Công chúa ngượng ngùng, cúi mặt nói rất nhỏ: 
-  Con nguyện sẽ không phụ tình yêu của chàng. Xin cha mẹ hãy vun xén cho con được toại nguyện. 
Thủy vương đến nắm tay hoàng hậu đứng dậy, cười vui vẻ: 
-  Thế là đã xong. Từ nay bà và tôi không phải lo lắng cho đứa con gái cứng đầu nữa nhé. 
Quay sang Đạo, nhà vua hỏi: 
- Sau khi chính thức thành rể của gia đình ta, ngươi sẽ có một vị trí trong thuỷ vương cung đúng với tài năng của ngươi. Ngươi nghĩ sao? 
Tài Đạo quỳ xuống, kính cẩn mà thưa rằng: 
-  Thưa bệ hạ, tiểu bối có một điều cầu xin, mong bệ hạ thương tình mà chấp nhận cho. Như bệ hạ đã biết tiểu bối sinh ra, lớn lên trong một gia đình nghèo hèn. Nhờ có được bao nhiêu những may mắn trong đời nên mới có ngày hôm nay. Tiểu bối tự cảm thấy mình mang những món nợ của xã hội nhân gian, phải có trách nhiệm trả lại một phần nào món nợ ân tình may mắn đó cho nhân gian. Vậy tiểu bối sau khi kết hôn với công chúa, xin bệ hạ cho phép tiểu bối cùng công chúa trở lại nhân gian khoảng 10 năm trời. Với thời gian đó tiểu bối sẽ mang tất cả tài năng của mình ra để phục vụ, đền bồi cho xã hội nhân gian, coi như trả món nợ mà tiểu bối đã may mắn nhận được từ nhân gian. Sau đó tiểu bối sẽ trở về thủy vương cung vĩnh viễn sống và làm việc như lệnh của bệ hạ. 
Nghe Tài Đạo nói xong, thuỷ vương quay sang Thuỷ Tiên, hỏi:   
-  Con gái ta nghĩ sao? Ngươi có dám theo chồng ngươi để chịu đựng những khổ sở trên nhân gian không? 
Thuỷ Tiên chẳng môt tí lưỡng lự, quỳ xuống trước mặt cha mẹ mà thưa rằng: 
-  Thưa cha mẹ, lấy chồng thì phải theo chồng là lẽ đương nhiên rồi. Xin cha mẹ đừng lo lắng, khi rời xa cha mẹ theo chàng con đã mang theo một thứ khí giới rất chắc chắn đó là tình yêu của chàng và con dành cho nhau.  
Rồi một đám cưới đình đám, vương giả được tổ chức, Tài Đạo chính thức thành phò mã của Thủy vương cung. Sau đó Tài Đạo dẫn Thuỷ Tiên trở về ra mắt cha mẹ anh em cũng như quan tổng đốc. Nhiều người thắc mắc về việc Đạo bị bắt cóc, Đạo tìm cách nói thác cho qua rồi lại trở về cơ quan tiếp tục làm việc. Thuỷ Tiên xinh đẹp, nhu mì, chăm lo việc nhà bất cứ việc gì cũng làm đâu ra đó, lại ăn nói rất khéo léo nên được lòng tất cả mọi người. Từ anh em cha mẹ của Đạo ở làng quê cho đến hàng xóm, láng giềng cũng như nơi công sở, ai ai cũng quý mến.  
Đạo cũng là một vị quan rất chuẩn mực, làm việc rất siêng năng, liêm khiết. Luôn luôn lấy việc gương mẫu làm tiêu chuẩn. Thông hiểu hoàn cảnh nghèo khổ thủa hàn vi của chính mình nên Đạo cố gắng tìm đủ mọi dịp để nâng đỡ người nghèo khó hiếu học, có ý chí vươn lên. Đạo lập ra hiệp hội những nhà hảo tâm giàu có trong tỉnh, hô hào đóng góp xây dựng trường sở, ký túc xá hay cấp học bổng cho những gia đình nghèo. Chỉ trong vài năm dưới sự làm việc của Đạo ngành giáo dục của tỉnh Chí Đông đã phát triển rất mạnh. Triều đình đã nhiều lần tuyên dương và lấy những thành quả, hoạt động của Đạo làm tiêu chuẩn cho các địa phương khác noi theo.  
Thấm thoát gần 5 năm trôi qua, Thuỷ Tiên sinh cho Đạo 2 đứa con một trai, một gái, cả hai đều xinh đẹp, ngoan ngoãn. Một hôm vào mùa xuân nắng ấm, cây cỏ xanh tươi, gia đình Đạo dẫn nhau đi dạo ở khu rừng bìa thành phố. Đạo chợt nghe thấy tiếng rên nho nhỏ, loáng thoáng như gọi tên mình từ lùm cỏ dại bên dòng suối dọc đường. Đạo chạy đến vạch lùm cây thấy một nữ nhân bị thương tích khắp người, mái tóc bị cháy đen, khuôn mặt dính đầy máu. Vợ chồng Đạo đỡ nữ nhân ngồi dậy, lấy khăn tay lau chùi vết máu trên mặt. Đạo ngạc nhiên la lên:  
-  Dung Nhi đây sao? Tại sao nàng ra nông nỗi thế này?  
Dung Nhi mở mắt nhìn vợ chồng Đạo, khóc mà nói: 
-  Xin chàng tha thứ cho thiếp đã đối đãi không tốt với chàng ngày xưa. Bây giờ hối hận thì đã quá muộn rồi. Đúng là quả báo đã dành cho cái tội lấy ơn trả oán của gia đình thiếp đối với chàng vậy. Mấy ngày trước dân làng vì không chịu được sự phá phách của họ cáo nhà thiếp, dân làng bảo nhau tìm cách dồn họ cáo của thiếp đến chân núi rồi dùng cây cỏ khô vây lại mà đốt. Thúc phụ Phong An, gia đình thiếp cũng như phần lớn họ cáo nhà thiếp đều bị chết cháy. Thiếp may mắn hơn thoát được ra đây, ngẫu nhiên nghe thấy tiếng chàng nói mà gọi cầu may mong gặp được chàng để nói lời xin lỗi trước khi chết.  
Nói xong Dung Nhi cố mở mắt nhìn Đạo lần cuối trước khi chết. Đúng lúc tắt thở, phép biến hoá mất đi, thân hình Dung Nhi co nhỏ lại dần dần biến trở lại kiếp cáo. Vợ chồng Đạo thương tình đào hố bên đường, khi nhắc xác con cáo lên thấy chuỗi ngọc trai vẫn còn đeo trên cổ cáo. Đạo đưa tay định tháo lấy lại nhưng Thuỷ Tiên gạt tay ra mà nói: 
-  Hãy để lại cho cô ta, dù sao cũng là một kỷ vật giúp cô ta mãi nhớ đến chàng và thiếp. 

Thời gian như chim bay ngoài cửa sổ, mười năm hạn kỳ trở về Thủy vương cung đã đến. Một hôm quan tổng đốc được tin không thấy Đạo đến cơ quan làm việc, quan lại lo Đạo bị bắt cóc như lần trước nên đến nhà Đạo tìm hiểu. Vào trong nhà thấy lá thư của Đạo viết gửi quan tổng đốc. Đại khái lá thư cho biết đã để lại tất cả tài sản, bổng lộc của 10 năm làm việc nhờ tiết kiệm, thanh liêm mà có, Đạo nhờ quan tổng đốc đem dùng vào việc giáo dục của tỉnh như xây trường học, cư xá cho học sinh.  
Sau khi gia đình Đạo ra đi được vài ngày, có người tìm thấy chiếc xe ngựa của gia đình Đạo ở bãi biển. Có người nói đã chính mắt trông thấy Đạo và gia đình xuống một chiếc tàu rất đẹp, rất to nhắm hướng đông nam mà đi. Có người lại nói vào một đêm mưa bão họ đã trông thấy cả gia đình Đạo được một chiếc xe kéo bởi đôi chim hạc từ trời hạ xuống đón đi mất. Lại có nhóm người đi biển cho biết trong một lần gặp gió bão ngoài biển khơi, tàu của họ sắp chìm thì thấy Đạo hiện lên từ đáy biển giúp đỡ mà thoát nạn.... Tất cả toàn là những câu truyện thêu dệt của thế nhân. Đúng hay sai chẳng ai kiểm chứng được. Nhưng dân cư của tỉnh Chính Đông ngày nay vẫn còn nhớ đến công lao của vị quan chuyên lo về giáo dục rất liêm chính tên là Chung Tài Đạo.  
(*) Kim Thánh Thán (1608 -1661) nhà phê bình văn học kiệt suất của TQ thời cuối nhà Minh, với lối văn phê bình rất ấn tượng và được hậu thế coi là ông vua của lối văn bạch thoại. Ông đã phê bình rất nhiều tác phẩm nổi danh của nền văn hoá TQ như Thuỷ Hử, Sử ký Tư Mã Thiên, Tây Sương ký, thơ Đỗ Phủ... Năm 1661 ông bị nhà Mãn thanh xử tử vì một chuyện vu vơ. Trước khi chết ông vẫn giữ sắc thái ung dung với lời tiếu ngạo:“ Chém đầu thì đau đớn lắm, tịch biên thì thê thảm lắm, thế mà ngờ đâu Thánh Thán ta lại gặp cảnh này, kỳ lạ lắm thay!“

 

7. Lấy vợ hồ ly
Chiêu Mã Đông tự Hoàn Giang người nước Việt, tánh tình hào phóng, rất siêng năng, làm việc gì cũng đến nơi đến chốn, nhưng chỉ có tội hơi kém thông minh vì vậy học hành rất chậm chạp. Dùi mài kinh sử mãi nhưng rớt lên, rớt xuống, hai mươi lăm tuổi mới giật được bằng tú tài.Tuy vậy Đông lại có tài văn chương thơ phú, thích ngao du sơn thủy, thích bạn bè cho nên đến đâu cũng có bạn tâm giao. Phụ mẫu thuộc giới kinh doanh, muốn Đông bỏ việc sách đèn, thơ phú mà thiên về thương mại, nhưng xem ra Đông không có ý hướng làm giàu mà chỉ thích rong chơi. Phụ thân chán nản đành để cho Đông làm theo sở thích. 
Một hôm Đông lên miền Bắc thăm bạn. Đang lúc ngồi uống rượu, bạn cho biết có người em trai vừa mua được một căn nhà trong phố, nhưng không thể xử dụng được vì nhà có hồ ly đến quấy phá. Gia đình người em đã làm đủ cách mong được yên thân nhưng cũng chẳng đến đâu. Nhiều lần phải mua bánh trái, xôi thịt cúng bái hồ ly nhưng cũng chỉ yên được vài ngày rồi đâu vẫn hoàn đấy. Chịu không được người em đã thỉnh đạo sĩ chuyên bắt quỷ ma cũng như các vị đạo đức chân tu đến cầu khấn nhưng cũng chẳng được yên. Vài đạo sĩ còn bị hồ ly trêu chọc, gây thương tích xấu hổ mà bỏ đi. Cuối cùng gia đình người em đã phải bỏ hoang căn nhà mà dọn đi nơi khác. 
Nghe bạn nói, Đông có ý không tin mà còn muốn đến ngôi nhà để được gặp mặt hồ ly. Bạn chần chừ vì sợ hồ ly gây tai hại cho Đông sinh rắc rối. Biết ý, Đông mỉm cười mà nói rằng: 
- Huynh đài cứ lo cho tôi một con gà thiến luộc thật to, một đĩa xôi gấc, một chai rượu nếp ngon và vài nén hương. Tôi sẽ tìm cách mời hồ ly đến, nếu hồ ly đàng hoàng thì tôi làm bạn, khuyên răn mà rời xa. Ngược lại, hồ ly hung dữ, không biết điều tôi sẽ ra tay trừ diệt cho huynh xem. 
Thấy Đông nói chắc và có vẻ tự tin, người bạn y lời làm đúng những gì Đông muốn. Trời vừa tối, Đông đem xôi gà, rót rượu ra ly rồi bầy tất cả trên chiếc bàn ở giữa phòng khách, thắp hương rồi khăn áo chỉnh tề lễ độ mà khấn rằng: 
- Mỗ họ Chiêu tên Mã Đông từ xa xôi nghe tiếng hồ hữu mà đến. Chẳng biết mặt mũi, sở thích hồ hữu ra sao, nhưng mỗ vẫn bỏ tiền ra mua vài món ăn và chai rượu ngon coi như lễ vật để ra mặt, mong được kết tâm giao với hồ hữu. Nếu hồ hữu không chê mỗ là kẻ thấp hèn, đáng làm bạn với mỗ thì xin cứ đến mà thưởng thức, uống với mỗ vài chén rượu xoàng cho ấm bụng. 
Khấn xong, Đông khoanh gối ngồi ra vẻ đợi chờ. Một lúc lâu chẳng thấy động tĩnh gì, sốt ruột đứng dậy bực bội mà nói rằng: 
- Hồ hữu đã chê mỗ mà không đến, thôi thì mỗ đành ăn uống một mình vậy. Nhưng mỗ có vài lời nói thẳng với hồ hữu là đừng có giở cái trò bắt nạt gia đình chủ nhà, vốn là bạn tâm giao của mỗ mà phải hối tiếc. Mỗ chẳng phải là đạo sĩ, cũng chẳng phải là kẻ tu hành đắc đạo... Nhưng nếu hồ hữu mà đụng chạm vào thì đừng trách mỗ không lịch sự. Mỗ sẽ réo gọi cả giòng họ, tổ tiên nhà hồ hữu lên mà mạt sát đó. Nếu cần mỗ không từ nan làm bất cứ gì để để cho hồ huynh phải khốn đốn, không yên lành mà sống đâu. Với mỗ không có chuyện dễ bắt nạt được đâu. Dù là hồ ly, ma quỷ hay là thánh thần...cũng chẳng thể bước qua chữ đạo lý. Xin hồ huynh suy xét cho tường tận để không làm mất chữ trọng nhau.  
Nói xong, Đông thản nhiên bẻ con gà trống thiến ra nhắm rượu một mình. Sau khi đã no nê, Đông xếp đặt phần thức ăn và rượu còn lại gọn ghẽ vào chiếc mâm rồi thắp hương mà khấn rằng: 
- Nếu hồ hữu cảm thấy đói bụng mà không e ngại đồ ăn dư thừa, xin cứ tự nhiên ngồi vào mà ăn. Bây giờ thì mỗ đi ngủ đây.  
Khấn xong Đông vào phòng bên cạnh nằm trên giường vắt chân lên thành giường ngâm thơ oang nhà coi như chẳng có chuyện gì xẩy ra, được một lúc thì ngủ thiếp đi.  
Chẳng biết ngủ được bao lâu, vài tiếng động cùng tiếng nhiều người bàn cãi nhau từ căn phòng khách kế bên vọng sang làm cho Đông thức giấc. Đông nằm im, hé mắt nhìn xuyên qua khung cửa thấy thấp thoáng có khoảng năm, sáu người, nam có, nữ có. Tất cả đều quần áo chỉnh tề ra vẻ phong lưu khá giả chứ không phải là giới nghèo hèn, cả đám đang quây quần chung quanh mâm cơm của Đông vừa ăn vừa nói chuyện. Một giọng nói đàn ông còn trẻ với vẻ bực bội vang lên: 

- Theo con thì chúng ta chẳng phải sợ hãi tên học trò điên khùng này. Cứ như mọi lần, phụ thân để con cầm khúc cây đập cho gẫy chân nó xem sao? 
Một giọng nói, già lão hơn đáp: 
- Không được! Có những người lấy vũ lực mà trị được. Với loại người như thằng này không đùa được đâu. Con đừng làm liều mà khổ thân, lại làm cho thêm rắc rối nữa. 
Rồi cứ thế, nhóm người bên phòng khách mỗi người nói một câu. Người thì muốn thân thiện, êm nhẹ mà giải quyết. Kẻ thì muốn cứng mạnh như đã làm với những người đến trước Đông rồi đến đâu thì đến. Cuối cùng giọng nói êm nhẹ của một cô gái còn trẻ, ấp úng thưa rằng:
- Cha mẹ cứ để con dàn xếp với người ta xem sao. Con nghĩ rằng người này không đến nỗi là kẻ dễ nhát sợ và không biết phải trái đâu. Vấn đề là làm sao gia đình chúng ta có được chỗ an thân, không phải ăn nhờ ở đậu như hiện nay. Xin phụ thân cứ để cho con tìm cách mà giải quyết.
Hình như lời phân trần của cô gái làm mọi người suy nghĩ. Một lúc sau giọng đàn ông, chắc là chủ nhân và cũng là cha của gia đình phát ra:
- Lai Sương, nếu con nói vậy thì cha mẹ để cho con gặp người ta tùy ý mà giải quyết. Miễn là đừng để gia đình phải quá thiệt thòi là được.
Sau đó không ai nói với ai nữa, hình như họ đã hợp ý để cho cô con gái tên Lai Sương gặp Đông mà tìm cách giải quyết. Rồi Đông thấy loáng thoáng bóng người di chuyển, có lẽ họ chia tay nhau đến các phòng khác trong nhà thì phải. Đông nhắm mắt, giả bộ ngáy nho nhỏ ra vẻ đang ngủ say, muốn chờ xem cô gái tên Lai Sương sẽ làm gì với mình.
Một lúc sau, có tiếng chân người đi vào phòng của Đông rồi vài tiếng đập tay nhè nhẹ lên vai Đông mà gọi:
- Công tử thức dậy đi, thiếp có vài điều muốn nói với công tử đây.
Đông giả vờ còn ngái ngủ đưa tay lên che mặt, nhưng hé mắt kín đáo nhìn thấy một thiếu nữ dung mạo thật mỹ lệ đang đứng bên cạnh giường nhìn mình. Sắc đẹp của nữ nhân đã làm Đông thích lắm rồi, nhưng vẫn cố nằm im. Cô gái tưởng Đông chưa tỉnh ngũ, vẫn lay gọi nữa. Bất thình lình Đông nắm tay cô gái kéo xuống sát mình rồi choàng tay kia ôm chặt lấy cô ta mà cợt nhả, sờ mó khắp người cô gái. Miệng thì lầu bầu như vẫn còn mơ ngủ mà ngâm rằng:
Em là tiên nữ người trong mộng
Ta khách giang hồ gã tình si
Gặp nhau hư ảo tình lưu luyến
Mong chẳng bao giờ nói biệt ly  
Cô gái vẫn tưởng Đông vẫn còn mê ngủ cho nên cũng chẳng muốn làm mạnh. Dù có tí ngượng ngùng bởi hành động cợt nhả, thô tục của Đông, cô ta cũng chỉ đẩy tay nhè nhẹ mỉm miệng cười mà gọi tiếp:
- Chàng đồ nho ơi, dậy đi! Chẳng có ai là cô tiên trong mộng của chàng đâu mà thơ với thẩn!  
Đông lại càng được thể, ghì chặt hơn miệng hôn như vãi trên mặt, trên môi cô gái, vẫn giả vờ mà đáp: 
- Nàng tiên trong mộng của ta không phải tên là Lai Sương đó sao? 
Lúc này thì cô gái đã biết mình mắc nỡm rồi, cô ta dùng hết sức mạnh vuột ra khỏi vòng tay của Đông, đứng bật dậy ra vẻ tức giận đưa ngón tay nhấn vào trán Đông, ngượng ngùng hét lên: 
- À ra thế, tên học trò dâm dật này đã nghe tất cả chuyện bàn bạc của gia đình ta rồi mà còn làm ra vẻ mê ngủ phải không? 
Đáp: 
- Nghe hết thì đã sao? Không lẽ nàng đã quên lời phụ thân dặn là phải đối xử tốt với ta sao?  
Cô gái chẳng biết trả lời thế nào, nhưng thấy Đông nói cũng có lý nên đổi nét mặt thành vui vẻ mà nói: 
- Thôi được, ngươi hãy xuống đây để nói chuyện đàng hoàng với ta. Đừng sờ mó lung tung trên người ta nữa! 
Đông không xuống, vẩn nằm trên giường, đưa tay nắm lấy tay mỹ nhân kéo sát vào mình âu yếm mà nói rằng: 
- Ta đã biết rõ ý định của nàng rồi còn gì mà nói? Chuyện đó ngày mai sẽ tính. Ta hứa vì nàng mà lo cho mọi chuyện đều tốt đẹp, vừa lòng. Bây giờ nàng phải trả món nợ cho ta đã.  
Đáp: 
- Ơ kìa, ta thiếu nợ ngươi cái gì? 
Đưa mắt liếc tình, mỉm cười, chẳng ngần ngại Đông trả lời: 
- Thì món nợ tình yêu trong mộng của ta đó! Ta đang mơ màng, âu yếm người ta yêu xinh đẹp như tiên nữ, xa hoa quí phái như hoàng hậu tên là Lai Sương... Vì nàng mà ta vỡ mộn, không phải là món nợ phải trả hay sao?  
Có phụ nữ nào mà không thích người khác khen mình đẹp, lại đẹp như tiên nữ đâu? Dù là người hay hồ ly, quỷ ma cũng thế mà thôi. Cô gái sung sướng gần như đờ đẫn vì được khen nên để mặc cho Đông kéo lên giường mà ngủ với nhau. 
Sáng hôm sau khi mặt trời mới lấp lánh đàng đông, cô gái đẩy Đông sang một bên, bước xuống giường âu yếm nhìn Đông mà nói: 
- Chàng còn nằm đó ăn vạ nữa hay sao? Lời hứa đêm qua với thiếp có còn trong đầu không hay đã bay theo bước chân lang bạt của kẻ sở khanh rồi? 
Đông ngồi dậy thấy nhà im ắng, ngạc nhiên hỏi rằng: 
- Ta không quên đâu, dẫn ta đến gặp song thân nàng để ta nói chuyện phải trái đây. 
Đáp: 
- Đêm hôm qua gia đình thiếp đã rời nhà đến ở nhờ nhà người bạn rồi. Nghĩ chàng là người quân tử biết lẽ phải nên dặn thiếp nói rõ sự việc, mong chàng lấy lẽ công bằng mà tìm cách giải quyết hộ.  
Đông ôm Lai Sương vào lòng, âu yếm mà rằng: 
- Ta sẽ nguyện vì nàng mà làm mọi việc đâu ra đó. Xin nàng đừng ngại mà cho ta biết những gì mà gia đình nàng mong muốn. 
Lai Sương cảm động, sung sướng hiện ra nét mặt mà kể rằng: 
- Trước đây khu vực này còn là rừng rậm hoang dã, là nơi cư trú của giống chồn nhà thiếp. Mấy năm trước thì bị người đến chiếm cứ, xây nhà, vì thế gia đình thiếp không có chỗ trú thân, phải đi ở nhờ họ hàng. Phụ thân thiếp tức giận, mỗi đêm đều dẫn gia đình và bạn bè đến đây quấy phá nhất định không để cho bất cứ ai được sống yên ổn trong căn nhà này. Hôm qua, gia đình thiếp đã nghe lời nói thân thiện và biết điều của chàng nên sai thiếp thân cận với chàng. Mong chàng vì lẽ công minh mà giải quyết hộ cho gia đình thiếp không bị thiệt thòi quá đáng đến nỗi là kẻ vô gia cư.  
Đông hỏi: 
- Ta chỉ là kẻ vì bạn, chủ nhân ngôi nhà mà đến đây tìm cách giải quyết. Nếu nàng và gia đình có cách nào ổn thỏa đều có lợi cả đôi đường, cứ nói ra, ta sẽ vì nàng mà giúp đỡ. 
Lai Sương suy nghĩ một lúc, rồi thưa rằng: 
- Xin chàng nói với chủ nhân ngôi nhà, nhờ thợ hàng mã làm cho một ngôi nhà năm gian cùng với một trăm lượng vàng và một xấp mười vạn tiền giấy. Dĩ nhiên toàn là hàng âm phủ. Rồi 2 ngày sau, vào đúng đêm trăng tròn, chủ nhân ngôi nhà làm một bàn thờ, quay mặt về hướng nam mà khấn thổ thần nơi đây chứng giám cho việc trao đổi giữ bạn của chàng và gia đình thiếp. Cúng xong rồi đốt tất cả hàng mã đó. Làm như vậy gia đình thiếp sẽ có có tài sản và căn nhà mới để cư trú không phải là kẻ phải đi ở nhờ, ở đậu như hiện nay nữa. 
Đông vui vẻ hứa chắc mọi sự sẽ làm đúng như yêu cầu. Nhưng ngập ngừng mà hỏi rằng: 
- Sau đó ta tìm gặp nàng nơi đâu? Tình của ta đối với nàng ra sao chắc nàng đã rõ, không lẽ xong việc rồi ta phải vĩnh viễn xa nàng sao?
Đáp: 
- Chuyện này xin chàng đừng quá lo, thiếp đã xếp đặt đâu vào đấy rồi. Huống chi thiếp đã gửi thân cho chàng rồi. Ngay sau khi sắp xếp xong công việc ở nhà mới, thiếp sẽ tự tìm đến với chàng ngay.
Hai ngày sau việc cúng tế, hoá vàng mã đã được làm như dự tính. Lai Sương dẫn Đông ra bìa rừng, nắm tay Đông, khóc mà nói nhỏ:
- Đã đến lúc thiếp tạm biệt chàng rồi đây.Chuyện tái ngộ với chàng, thiếp xin ghi nhớ trong lòng, xin chàng bảo trọng. 
Nói xong nàng lủi thủi đi vào rừng. Đông thẫn thờ buồn bã nhìn theo mà ngâm rằng: 
Tạm biệt đây rồi lệ chứa chan
Rời nhau bốn mắt cùng quay lại
Chẳng thấy hình ai, mờ nước mắt
Lời thề xin nhớ nhé tình nhân. 
Từ giã người bạn, trở về nhà, hàng ngày Đông chẳng làm gì, suốt ngày chỉ đi ra, đi vào mong đợi người đẹp tìm đến với mình như lời hẹn. Nhưng thấm thoát đã gần tháng trời mà bóng tình nhân vẫn biệt tăm, Đông đã có chiều thất vọng. Nghĩ mình đã bị người đẹp lừa dối, buồn rầu, bỏ ăn bỏ uống vì tương tư, sinh ra ngớ ngẩn như kẻ mất hồn. Ai hỏi cũng chẳng nói, chỉ im lặng mà thở vắn than dài ra chiều chán nản. Song thân lo lắng rước nhiều danh y, tìm thuốc quý chữa trị cho Đông nhưng vẫn chẳng đến đâu. Có người nói Đông bị ma hành, quỷ ám khuyên nhờ thầy cúng, thầy bùa làm phép mong giải nạn, nhưng làm nhiều lần mà bệnh vẫn hoàn bệnh. Thân thể Đông càng ngày càng tiều tụy nằm liệt trên giường lúc thức, lúc ngủ... hồn như bay bổng đâu đâu.  
Một hôm vào khoảng nửa đêm, đang nằm trên giường mơ mơ, màng màng, Đông cảm thấy như có ai nắm lấy tay mình mà vuốt ve. Giật mình mở mắt ra thấy Lai Sương đứng bên cạnh giường buồn bã đang nhìn mình. Trong khi Đông còn ngơ ngẩn, tưởng đang nằm mơ mà không nói nên lời, Lai Sương đưa tay gạt nước mắt mà nói: 
- Vì nhớ thiếp mà chàng đến nông nỗi này sao? Thiếp có lỗi với chàng lắm! 
Nghe Lai Sương nói, Đông biết là thực, mừng rỡ nắm chặt lấy tay người đẹp ra ý muốn ngồi dậy mà nói: 
- Nàng đến với ta đó sao? Thân thể ta đến cớ sự này cũng chỉ vì nhớ yêu nàng mà ra đó. Xin đừng bỏ ta nữa nhé! 
Đáp: 
- Biết được chàng yêu thương hết mực như vậy, thiếp còn lòng nào mà bỏ đi được nữa. Từ nay xin đến với chàng mãi mãi. 
Từ hôm đó Lai Sương săn sóc và ăn ở với Đông, thâm sâu như tình nghĩa vợ chồng. Thỉnh thoảng nàng mới xin phép về quê thăm cha mẹ vài ba ngày rồi lại trở về với gia đình Đông. Hỏi quê quán, cha mẹ ở đâu, Sương chỉ cho biết phụ thân họ Hồ Minh tên Phước Đa người vùng Kinh Bắc rồi cười mà đánh trống lảng. Song thân Đông ban đầu cũng ngạc nhiên, nhưng thấy nàng ngoan ngoãn, chăm chỉ việc gia đình. Tính tình lại mềm mỏng rất được lòng các em của Đông nên củng chẳng muốn thắc mắc hay lấy đó làm phiền lòng. Đã thế từ ngày có Sương trong nhà, việc thương mại của gia đình càng ngày càng thịnh vượng. Đông bỏ hẳn tính giang hồ vặt, đàng đúm bạn bè, cùng với Sương chăm lo việc thương mại của gia đình. Song thân Đông lại càng vừa lòng hơn. 
Thấm thoát đã gần hai năm, Sương sinh cho Đông một đứa con trai xinh đẹp. Song thân Đông vui mừng có cháu đích tôn càng cưng chiều con dâu hơn. 
Một hôm như mọi lần Sương cho biết muốn về thăm cha mẹ. nhưng khi trở lại không có vẻ vui tươi như những lần trước.Vẻ mặt buồn rầu, im lặng Sương bế con vào phòng khoá trái cửa không muốn nói chuyện với ai. Đông và gia đình có phần lo lắng, chưa kịp hỏi nguyên do thì buổi tối, Sương kéo Đông vào phòng, buồn rầu mà nói rằng: 
- Ân tình của chàng làm sao thiếp báo đáp được đây? Nhưng duyên số của chúng ta đến đây là hết rồi! Tối ngày mai thiếp phải chia ly với chàng và con, việc tái ngộ có lẽ chỉ là vô vọng mà thôi. 
Đông hỏi: 
- Sao nàng phải chia ly với cha con ta? Không có thể làm khác được hay sao? 
Đáp: 
- Vị thổ vương của địa phương nơi gia đình thiếp cư trú vừa tuyển thiếp làm cung nữ trong vương phủ. 
Đông giận dữ mà nói: 
- Sao lại như thế được? Dù có là hoàng đế cũng phải tôn trọng phép nước, chứ đâu lại dùng cường quyền mà ép người ta phải bỏ chồng con để làm thê thiếp cho mình được sao? Cho ta biết tên thổ vương của địa phương nào để ta dạy cho lão hiểu về luật lệ của trời đất mà không dám làm càn. 
Sương tỏ vẻ thất vọng, khóc mà nói: 
- Ở đâu cũng có phép tắc không dễ một sớm, một chiều mà đổi thay được. Kiếp dân đen thì chỉ biết dựa vào đó mà sống, kẻ trên tốt thì hưởng an lành, ngược lại thì đành cắn răng mà chịu đựng cho qua. Xin chàng hãy nhìn vào thực tế, đừng mơ mộng hão huyền mà lầm lẫn. Nếu cứ như chàng nghĩ thì thế gian đều là thiên đường hay sao? Huống chi thưa kiện rồi đi đến đâu khi tất cả đều như vậy. Nó đã thành nề nếp rồi. Nếu chàng không hiểu mà làm to chuyện chỉ làm khổ sở cho gia đình thiếp mà thôi  
Đáp: 
- Con của chúng ta còn nhỏ, lấy ai nuôi nấng trông nom? Còn ta làm sao sống cô quạnh mà không có nàng được … Không lẽ nàng đành tâm mà bỏ cha con ta mà đi sao?  
Với chút ngập ngừng Sương nhìn Đông mà rằng: 
- Chuyện này thiếp đã có xếp đặt đâu vào đó rồi. Tối mai trước khi xa chàng, thiếp sẽ giới thiệu chàng với cô em họ tên là Hồ Minh Yến Châu, con của chú ruột thiếp. Yến Châu sẽ thay thiếp hầu hạ chàng và săn sóc cho con của chúng ta. 
Hỏi: 
- Hình dung, tuổi tác so với nàng ra sao? 
Đưa ngón tay gõ nhẹ vào trán Đông, miệng mỉm cười mà thưa: 
- Cô em nhà thiếp tuổi vừa đôi chín, xinh đẹp như Tây Thi giáng thế, thiếp làm sao mà sánh nổi? Chàng thấy rồi sẽ chẳng còn buồn phải xa thiếp nữa đâu. Xin đúng tối mai, chàng chuẩn bị khăn áo chỉnh tề mà đón giai nhân. 
Quả nhiên tối hôm sau, dưới ánh sáng đèn mờ ảo, không biết từ đâu, một cô gái phấn son rất hài hoà, dáng dấp kiêu kỳ đúng là một giai nhân khuynh quốc, nghiêng thành từ ngoài hành lang đẩy cửa bước vào. Người đẹp quỳ lạy vợ chồng Đông, giọng nói thoáng nhẹ như chim, thỏ thẻ mà thưa rằng: 
- Thiếp là Yến Châu đây, vì lời nhắn của chị thiếp mà đến ra mắt chàng, mong chàng không phải thất vọng mà xuống xã thiếp. 
Đông nhìn cô gái, mê mẩn đến đờ đẩn như muốn nuốt ngay mỹ nhân vào bụng cho thỏa lòng ham muốn. Chẳng cần chú ý đến vợ, Đông đưa tay nâng cô gái dậy, kéo xà vào lòng mà âu yếm. Cô gái hình như cũng đã được bà chị họ nói cho biết về Đông cho nên cũng có phần dạn dĩ, đưa tay tát nhẹ vào má Đông, cười nắc nẻ mà nói: 
- Mới vài phút trước làm ra vẻ buồn rầu cách biệt với chị của thiếp, mà bây giờ đã mê mẩn quên đời với cô em rồi. Thế mới biết đàn ông đều cùng một giuộc, ai ai cũng là kẻ bạc tình mà thôi!  
Nói xong người đẹp đẩy nhẹ Đông, ra vẻ giận hờn mà nói tiếp: 
- Thế chàng không từ giã bà chị bất hạnh của thiếp hay sao? 
Đông giật mình, quay lại sau đưa mắt tìm kiếm, không biết vợ đã đi đâu, không còn trong phòng nữa. 
Người đẹp mỉm cười, giải thích: 
- Chị ấy đã đi từ lâu rồi. Chàng cứ yên tâm mà vui vầy với thiếp đi. 
Từ hôm đó, gia đình Đông không còn thấy Lai Sương nữa, nhưng lại có một nữ nhân khác,trẻ đẹp hơn đến thay thế, sống với Đông và chăm sóc, dậy dỗ đứa con của Đông như tình mẹ con. Nhiều người thắc mắc, nhưng Đông chỉ cho biết loáng thoáng là Lai Sương không trở lại nữa, phải về quê phụng dưỡng cha mẹ. Yến Châu là em sẽ thay chị mà sống với Đông.  
Cuộc sống cứ bình thản đi qua, thấm thoát đã hơn 10 năm, Yến Châu sinh thêm cho Đông một đứa con trai. Cơ sở thương mại của Đông càng lúc càng phát triển, phần lớn nhờ tài năng buôn bán của vợ chồng Đông. Ít lâu sau, cha mẹ Đông tuổi già muốn hưu nghỉ, nhường lại tài sản cho Đông, được vài năm thì mất.  
Một hôm gia đình đang quây quần bên mâm cơm tối, Vợ chồng Đông chợt thấy Lai Sương miệng mỉm cười từ ngoài cửa đi vào, nhìn hai người mà nói: 
- Chẳng biết hạnh phúc như vậy có còn nhớ đến cố nhân này mà thương xót không nhỉ?  
Vợ chồng Đông chạy đến ôm lấy Sương, mừng rỡ mà rằng: 
- Vợ chồng ta có bao giờ quên được ân tình của nàng đâu? Dù đến chết cũng chưa đủ báo đáp. Hôm nay nàng đến đây không phải là một kỳ ngộ để chúng ta đoàn tụ sao? 
Đáp: 
- Thiếp vừa được thổ vương cho về với kiếp thứ dân. Thiếp đến đây để được nhìn lại chàng, xin chàng cho thiếp nhận lại đứa con của chúng mình. 
Đông chưa kịp trả lời thì Yến Châu đã kéo Lai Sương vào nhà, vui vẻ thưa rằng: 
- Điều đó có khó gì đâu. Chị em ta cùng chung một duyên phận với chàng không lẽ có điều bất tiện hay sao? Huống chi, em có chàng cũng từ chị mà ra mà! 
Nói xong ôm lấy Sương kéo lên giường, lấy tay sờ mó khắp thân hình bà chị rồi cười nắc nẻ mà nói: 
- Hơn mười năm mà da thịt chị còn mịn màng như thế này thì làm sao ông chồng của chị em ta bỏ đi cho nổi? Em nói thật, nếu chị mà bỏ đi chàng sẽ giận em đó!
Rồi từ đó người ta thấy Lai Sương trở về, sống chung với vợ chồng Đông. Chẳng ai rỗi hơi đâu mà thắc mắc, dò hỏi về cuộc sống của gia đình Đông vì nó đã có quá nhiều điều kỳ lạ rồi. Mọi người chỉ thấy một gia đình rất hạnh phúc, hai đứa con trai càng lớn càng khôi ngô tuấn tú. Đứa lớn nối nghiệp cha theo ngành thương mại giàu có nổi danh toàn quốc. Con trai thứ theo đường võ nghiệp làm đến chức kỵ binh đại tướng quân. Thật là một gia đình hạnh phúc. Đông thọ đến hơn 80 tuổi mới mất. Ngày đưa đám được vợ con, cháu chắt tổ chức thật rầm rộ. Thỉnh mời hàng chục vị chân tu thay phiên nhau tụng kinh đêm ngày mong cho linh hồn chóng siêu thoát.
Hôm giỗ 49 ngày sau ngày chết của Đông cũng được con cháu tổ chức rất đàng hoàng, rồi cả đại gia đình cùng nhau ra thăm mộ của Đông. Sau đó không thấy hai bà nội trở về nhà nữa. Sáng hôm sau con cháu ra mộ tìm, thấy hai con chồn nằm ôm lấy ngôi mộ mà chết, bên cạnh có mấy lọ độc dược. Lúc đó con cháu mới biết rằng hai bà nội Sương và Châu là giống chồn tu luyện mà thành hồ ly. Hai bà sau khi lo việc ma chay cho chồng đâu vào đó mới uống độc dược để tìm đến cái chết cho trọn nghĩa phu thê.  
Con cháu Đông cảm động với lòng chung thủy của Sương và Châu, sai lập hai ngôi mộ nhỏ để an táng hai con chồn bên cạnh mộ của Đông để hàng năm tiện việc cúng tế. Mộ bia bên phải khắc: Hồ thiếp Lai Sương, bia bên trái khắc: Hồ thiếp Yến Châu.
8. Đánh bạc với ma
Tặng Cho T.
Dẫn truyện (Lời bàn của Tân Thánh Thán)
Bao nhiều kẻ muốn che dấu cái hư tật xấu của mình trong trò đỏ đen mà cho rằng cờ bạc là cái thú tiêu khiển thanh nhã của giới phong lưu, lắm tiền nhiều bạc. Nhưng với ta, hàng ngày phải chứng kiến biết bao nhiêu thảm cảnh chướng tai, gai mắt trong xã hội dư thừa vật chất đương thời mà cảm thấy buồn đau. Ngoái nhìn lại cái cổ xưa, ngăn nắp của người xưa dù nghèo túng nhưng vẫn có cái thanh cao của đạo lý mà buông tiếng thở dài chán ngán. Ngày nay, kẻ làm quan thì tham ô, móc ngoặt, hại dân bán nước. Chốn công đường thì vênh râu vỗ án đe doạ dân đen, mang cái khôn ngoan, trí tuệ ra tìm vui đêm ngày quanh chiếu bạc, thì làm sao trọn vẹn chữ” phụ mẫu chi dân “?. Quan đã thế, dân thì tan gia bại sản, bán vợ, đợ con chỉ vì cái trò đổ bác, quân xanh, quân đỏ, số đề, cá độ… mà mang thân vào tù tội xấu hổ xóm làng, nhục nhã mẹ cha. 

Hôm nay, trong cái thoáng khoát chớm đầu thu. Nằm dài trên chiếc ghế trường kỷ mà thưởng thức cái mờ ảo, nặng phần đạo đức  trong cốt truyện liễu trai “Đánh bạc với ma“ của Lưu tiên sinh gửi tặng. Ta cảm thấy lòng mình bức xúc cho xã hội đương thời dù ăn no mặc ấm nhưng biết bao nhiêu tật ách đau lòng mà viết ra đây vài cảm xúc gửi lại tiên sinh, coi như góp thêm một tiếng “hoà vang“ cho cái nhìn cùng chí hướng với kẻ tri âm vậy.
Bái tạ
(Tân Thánh Thán)
Vào truyện
Họ La một trong vài dòng họ nổi tiếng tỉnh Dư Thiên. Suốt mấy trăm năm qua, thời nào cũng có những kẻ tài danh, độc đáo trong mọi lãnh vực, từ văn chương, nghệ sĩ đến quan tước triều đình, đại gia chốn thương trường. Đến đời La Thành Nghệ thời thế thay đổi, dòng họ di chuyển xuống tỉnh Sài Đô chốn phồn hoa bậc nhất ở phương nam đã có phần nào suy giảm. Con cháu chạy theo kinh tế, coi nhẹ giá trị đạo đức, không màng đến danh dự dòng họ, tổ tiên. Làm bất cứ việc gì miễn là có nhiều tiền để cung phụng cho nhu cầu vật chất thấp hèn.   
Thành Nghệ dù vẫn còn tí chút liêm sỉ từ tổ tiên truyền lại nhưng lại bị cái tính nể vợ, sợ con cho nên cũng chỉ biết thở dài, buồn bã đứng nhìn chuyện vô lương xẩy ra trước mắt. Vợ Thành Nghệ kinh doanh kỹ viện, đúng vai tú bà chốn lầu xanh. Con gái lăng loàn bán buôn đồ quốc cấm, cho vay nặng lãi xiết cổ người cô thế, lỡ vận không tí nương tay. Con trai lúc còn bé thì phá làng,phá xóm, lớn khôn một tí thì kết bè kết đảng lấy cờ bạc làm kế sinh nhai, chẳng việc gì mà ngán sợ, chùn tay.   
Thành Nghệ có người bạn nối khố đồng hương tên Kỳ Oanh, hiểu rất rõ hoàn cảng gia đình Nghệ. Kỳ Oanh biết thuật coi tướng, đoán mệnh rất tinh, thường được nhiều quan nhân trong triều kính nể, mời gọi. Đã nhiều lần Nghệ có ý nhờ xem cho gia đình, nhưng Oanh luôn nài cớ này, cớ khác hay đánh trống lảng mà chối từ. Một hôm Nghệ bị bệnh nằm liệt giường, vợ con bỏ bê không ai chăm sóc nghĩ mình đã đến số chết. Đang lúc cô đơn, nhân có Oanh đến thăm, gắng gượng ngồi dậy mà nói: 
-Ông không nói ra nhưng tôi biết số phận của mình bạc bẽo lắm. Thôi thì trước khi chết muốn được nghe đôi lời xét đoán của ông về vợ con, mong ông đừng chối từ.  
Oanh ngẫm nghĩ rồi đáp: 
-Theo tướng mà đoán thì mệnh của ông vẫn chưa hết, bệnh đến rồi lại đi, đừng nói gở. Ít ra ông còn phải sống 2, 3 năm nữa, không dễ mà ra đi. Vợ con của ông, tôi xin nói thật, là một đám quỷ ma phá hủy họ tộc nhà ông mà thôi. Đến đời ông phúc đức họ La được coi là chấm dứt rồi! Xin ông hiểu trung ngôn nghịch nhĩ mà tha thứ hộ. 
Hỏi: 
-Vợ đã thế, không lẽ cả bảy đứa con đều bỏ đi sao? Có cách nào cứu vớt xin ông giúp đỡ mà chỉ dậy, Tôi đâu ngu đần mà dám phiền trách kẻ tri giao. 
Oanh lắc đầu buồn rầu, đáp rằng: 
-Chính kẻ làm ác quay đầu hối thiện mới mong chuyển dịch được ít nhiều định số, nhưng với vợ con ông chuyện hối cải có lẽ khó như lấp biển vá trời.Trong đàn con của ông, thằng thứ ba, Không Hiến qua tướng số là đứa ngỗ nghịch, tàn phá gia phong nhà ông nhiều nhất. 
Oanh ngẫm nghĩ ra chiều ngại ngần một lúc nói tiếp: 
-Thằng này có cánh tay dài quá khổ, bàn tay nhỏ mỏng, ngón tay dài lại ít thịt, nhiều xương. Đấy là bàn tay khéo léo trong chuyện ăn cắp, bài bạc. Cặp mắt sáng như điện,  tròng đen nhỏ hơn tròng trắng, luôn luôn chuyển động mang tính lanh lợi gian xảo. Đã thế nó còn có  nốt ruồi đen phá cách ở chân môi dưới. Thằng này nhờ gian ngoan mà giàu nứt vách đổ tường nhưng không bền lâu, chết không toàn thây. Theo tôi ông nên mau chóng tận dụng 2,3 năm cuối đời còn lại mà tìm cách khuyên răn, giải họa cho nó, mong vớt vát được phần nào phúc đức tổ tông.   
Lời đoán của Oanh quả thật đúng, hơn 2 năm sau, một hôm vào buổi sáng không thấy Thành Nghệ dậy uống trà ăn sáng như mọi ngày. Người nhà lay gọi thấy đã chết từ lâu. Khi Nghệ còn sống bị vợ con bạc đãi nhưng lúc xuôi tay, đang lúc giàu có nên đám táng được tổ chức rất hoàng tráng. Nhiều sư sãi danh tiếng đến cầu siêu ngày đêm, kéo dài cả tuần lễ. Vợ con khóc lóc thảm thiết ra chiều thương xót lắm. Người không hiểu cho rằng nhờ phúc đức  để lại đến lúc xuôi tay vẫn được vợ con thương tiếc chu toàn đến nơi đến chốn. Người hiểu rõ ngọn ngành chỉ biết im lặng ngán ngẩm thương xót cho Nghệ vì những dối trá của người thân.  
Lúc Thành Nghệ chết, Không Hiến, đứa con thứ ba mới chớm 30 tuổi đã làm chủ hàng chục tửu lầu kiêm sòng bạc trên khắp nước. Ngày còn bé Không Hiến là đứa trẻ ngỗ nghịch, nhiễm đủ thói xấu. Mới 14, 15 tuổi đầu đã bỏ học theo phường vô loại nhiễm thói trăng hoa. Lớn hơn một tí chẳng kỹ viện nào không biết mặt nghe danh. Về lãnh vực cờ gian, bạc lận nhờ lanh tay, mắt sáng chưa bao giờ nói đến chữ thua thiệt mà về tay khôn. Đúng là thiên tài trong nghề đổ bác.  
Một hôm Không Hiến có việc đi lên phương bắc, gặp hôm trời tối đen như mực lại mưa bão đường xá lầy lội. Mong tìm một tửu điếm hay lữ quán để nghĩ đỡ qua đêm nhưng kiếm mãi cũng chẳng có. Đang có ý lo, Hiến chợt thấy xa xa có ánh đèn lấp lánh. Đến gần là một làng nhỏ với khoảng vài chục căn nhà tranh xen kẽ nhau trên suờn đồi bên đường. Mừng rỡ, Hiến đến ngôi nhà có ánh đèn hắt ra từ khung cửa sổ ở ngay đầu làng. Sau vài tiếng gõ cửa, tiếng người nói chuyện cười đùa từ căn nhà chợt im lặng. Rồi vài tiếng lịch kịch mở cửa, một phụ nhân tuổi khoảng 20, 21 trang y đơn giản nhưng khuôn mặt đều đặn, da trắng mịn như trứng gà bóc. Chưa thể gọi là giai nhân, diễm lệ nhưng giữa chốn làng quê heo hút mà có nét đẹp như vậy phải là  điều rất hiếm hoi. Nhìn thấy Hiến, nữ nhân hỏi ngay: 
-Đêm khuya mưa gió như thế này, không biết quan nhân hỏi ai? Có việc gì? 
Đáp: 
-Vãn bối lỡ đường, không tìm được lữ quán mà đến đây quấy quả. Xin phu nhân gia ân mà cho tá túc qua đêm, sáng mai nguyện sẽ đền bồi xứng đáng. 
Nữ nhân đưa mắt nhìn kỹ Không Hiến ra vẻ ngại ngần chưa quyết định thì từ trong nhà tiếng đàn ông vọng ra: 
-Đêm hôm mưa gió như thế này, nàng hãy mở cửa cho khách quan vào đi. 
Nữ nhân im lặng mở rộng cánh cửa cho Hiến vào rồi chậm rãi đi trước dẫn Hiến vượt qua căn phòng nhỏ đầu tiên của ngôi nhà đến căn phòng liền kề phía sau, nơi đó đang chói chang ánh đèn. Bước qua khung cửa căn phòng Hiến thấy 4 người đàn ông đang ngồi quanh chiếu bạc trên chiếc phản bằng gỗ khá lớn. Trông thấy Hiến, người đàn ông trung niên, có lẽ là phu quân của nữ nhân, người vừa ra lệnh cho nữ nhân cho Hiến vào nhà, cũng là chủ nhân căn nhà đã vui vẻ lên tiếng: 
-Khách quan từ phương nào lỡ đường qua đây, xin thứ lỗi cho bản mỗ vì đang dở dang thù tiếp vài ván bài với mấy ông bạn nên không đón tiếp khách quan chu đáo được. 
Không Hiến vội vàng vui vẻ, trả lời: 
-Vãn bối họ La, tên gọi Không Hiến từ Sài Đô có việc lên phương Bắc, lạc đường lại gặp mưa gió mà đến đây. Xin lão huynh tha lỗi cho sự đường đột, phiền nhiễu này.  
Không Hiến trả lời xong, chủ nhân giương mắt ra vẻ rất ngạc nhiên mà nói: 
-Không phải là La tiên sinh, đại chủ nhân hàng chục tửu lầu sang trọng bậc nhất thế gian đây sao? Đúng là đại hân hạnh cho kẻ nghèo hèn này rồi! Cầu khẩn để ngài dời gót ngọc đến chơi đã là kỳ tích với bản mỗ rồi.  Xin ngài đừng bêu xấu mỗ này mà nói đến chữ phiền nhiễu, ân tình cho trái tai. 
Đưa tay chỉ nữ nhân, ba người ngồi cùng quanh chiếu bạc, người đàn ông nói tiếp: 
-Kia là tiện nội tên gọi Thúy Diên. Đây là khách làng kế bên tên gọi là Tần Kỳ, Dư Thanh Các và Chu Thiên Đức. Còn mỗ họ Tào tên Chính Vu chính quán người tỉnh Sơn Tây này. Gia đình mỗ vẫn là nơi tổ chức đỏ đen cho khách địa phương. Trước là sưởi ấm nhà cho bớt tịch mịch, sau là kiếm tiền xâu cho tiện nội lo chuyện chợ búa. Hôm nay được gặp danh nhân trong nghề đen đỏ như ngài, chẳng biết lũ hèn này có được hân hạnh thù tiếp với ngài vài ván để học hỏi tài năng không?  
Câu nói của chủ nhân như gãi đúng vào chỗ ngứa của Không Hiến, vui mừng mà trả lời: 
-Việc đỏ đen không những là thú vui,còn là cái nghiệp đa mê, kiếm sống của tại hạ.Việc tham gia cùng mọi người đúng là điều mong muốn của tại hạ, còn phải xin xỏ các huynh cho nhập cuộc mới đúng vậy.  
Thế là chẳng có gì để ngăn cách trong chiếu bạc khi người ta có kim tiền trong túi. Bất cứ ai có kim tiền đều được hoan nghênh. Túi càng nặng càng được trọng vọng. Rồi với tài năng phủ trùm thiên hạ. Đôi bàn tay thông thạo, ánh mắt sáng như điện kèm theo tài khôn ngoan tính toán, làm bùa, hóa phép của Hiến, làm sao bốn kẻ vô danh nơi làng xã vùng sơn cước thắng cho nổi. Hiến để họ thắng rồi lại làm họ thua như con mèo vờn chuột trước khi ăn thịt! Cuối cùng cả 4 người đều sạch túi. Cái lẽ cờ bạc luôn giống nhau một điểm, đó là kẻ ăn thì khoác lác cười vui. Đứa thua thì cay cú tìm đủ cách có tiền để tiếp tục chơi hòng gỡ vốn. Đây cũng vậy, bốn kẻ thua mặt đỏ tía tai, đứa móc từng đồng trinh ra cá cựa, đứa tháo nhẫn vàng kỷ niệm ngày cưới ra không chút run tay. Đến một lúc chẳng còn gì để bán, chủ nhà vẫn chưa muốn rời chiếu bạc, nhìn Không Hiến ngần ngừ mà nói: 
-Khách quan có thể cho mỗ mượn lại một ít để tiếp tục sát phạt cho hết đêm không?  
Không Hiến kẻ lừng lẫy trong nghề đổ bác làm sao không hiểu rõ ý nghĩa của chữ vay mượn, hứa hẹn quanh chiếu bạc? Chẳng ngần ngại vai vế của kẻ lỡ đường, tạm trú qua đêm. Nhìn chủ nhân, Hiến trả lời thẳng: 
-Khi đã ngồi vào chiếu bạc, người ta chỉ có thể cho tặng một ít rồi chấm dứt cuộc chơi chứ không thể cho mượn để tiếp tục ăn thua được. Điều này chủ nhân không hiểu sao? Họa chăng chủ nhân có cái gì đem ra bán cho ta thì lại khác! 
Đáp: 
-Nhưng ta chẳng còn gì để bán nữa. 
Không Hiến làm như vô tình, đưa cặp mắt lòng đen nhỏ như hạt đậu liếc nhanh về hướng nữ nhân. Với giọng đểu giả, mỉm cười, nói: 
-Huynh đài còn có món hàng có thể bán được mà không biết đó thôi. 
Với giọng nói ẫm ờ kèm sau ánh mắt của Hiến, dù là kẻ ngu đần, chủ nhân vẫn hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Thừ người ra môt chút, chủ nhân ngước mắt nhìn nữ nhân ra chiều đắn đo rồi nhìn thẳng mặt Không Hiến mà nói: 
-Khách quan trả cho ta bao nhiêu?  
Đáp: 
-Vãn bối chi biết mặc cả giá lên xuống khi mua hàng mà thôi. Đó là nghề kinh doanh của tại hạ vậy. Các hạ cứ ra giá đi. 
Thế là cuộc chơi lại tiếp tục, kết quả cũng lập lại y hệt như trước, đồng tiền cuối cùng bán vợ của chủ nhà họ Tào cũng đội nón ra đi, vào trong túi Không Hiến. Cũng đúng lúc trời gần sáng, Không Hiến chẳng còn gì để ngồi lại nữa. Đứng dậy vuốt ve lại y trang, nắm lấy tay người đẹp Thúy Diên, nhìn chủ nhà Hiến từ giã: 
-Đã đến lúc vãn bối phải đi lo công việc rồi, xin cám ơn thịnh tình của huynh đài nhờ đó mà vãn bối có chỗ trú thân lại còn may mắn trong đổ bác để có thêm người đẹp sửa áo nâng khăn nữa.
Nói xong, Không Hiến đưa tay vào hầu bao móc ra một nắm tiền để lên bàn, rồi nói tiếp: 
-Dù sao vãn bối cũng phải nhớ đến lời hứa tối hôm qua, xin gửi lại huynh đài tí chút xem như trả cho tiền lữ quán. 
Tào Chính Vu đưa mắt ái ngại nhìn Thúy Diên, lịm người khi nhìn thấy khuôn mặt đẫm lệ của vợ. Với giọng buồn bã: 
-Thuý Diên, ta nguyện sẽ chuộc lại nàng nay mai. Hiện tại xin nàng hãy tạm thời nhún mình phục dịch La tướng công như nàng đã phục dịch ta. Xin hãy tha lỗi cho ta. 
Trước khi khoác vai Thúy Diên bước ra khỏi ngôi nhà, Không Hiến còn ngoái lại nói với Chính Vu: 
-Vãn bối lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi huynh đài gầy cuộc đỏ đen để tạo dịp cho huynh đài chuộc lại phu nhân.  

Rồi ba ngày tiếp theo, Thuý Diên đi bên Hiến đúng nghĩa người vợ đi theo chồng trong công việc. Nàng phục vụ cho Hiến từ miếng ăn, giấc ngủ. Hiến nói gì nàng luôn luôn vui vẻ làm, không một lời than van, phản đối.Những lúc rảnh rỗi hay ôm ấp nhau trên giường ngủ, Hiến có ý dò hỏi về gia cảnh hay những điều liên quan đến cuộc sống giữa nàng và Chính Vu, Thúy Diên thường ậm ừ cho qua hay tìm cách đánh trống lảng. Không Hiến lấy làm lạ, nghĩ mình không bằng phu quân của nàng trong vấn để giường chiếu mà hỏi:   
-Ta có điều gì không vừa ý xin nàng cứ nói ra. Không lẽ ta không được như phu quân nàng sao? 
Đáp: 
-Xin chàng đừng quá lo xa mà làm mất đi những ngày hạnh phúc. Thiếp có tí không vui, không muốn nói về mình chỉ vì nghĩ đến tấm thân bạc bẽo đã bị họ Tào đối đãi bất nhân mà thôi. Với chàng thiếp chẳng có gì để chê trách, đúng là người mà thiếp chờ mong, may mắn được nâng khăn, sửa túi đó. Chàng có thể thương yêu thiếp mà giảng giải cho thiếp vài thắc mắc chăng? 
Không Hiến ôm Thúy Diên vào lòng, âu yếm trả lời: 
-Làm cho nàng vui là điều ta mong lắm. Có điều gì không hiểu về ta xin nàng cứ nói ra, ta nguyện sẽ vì nàng mà đáp ứng. 
Thúy Diên liếc mắt đưa tình, nũng nịu mà thưa: 
-Tào Chính Vu  không phải là kẻ thấp tài trong nghề đổ bác. Chưa bao giờ thiếp thấy hắn bị thua ai trên chiếu bạc nhục nhã như vừa rồi. Chàng có thể cho biết vì đâu mà hắn phải tâm phục, khẩu phục chàng như vậy không?   
Hiến cười to,với giọng đầy tự hào:  
-Khi nói đến trò đỏ đen, vận hạn hên xui chỉ dành cho những kẻ ngờ nghệch tìm vui trong chốc lát.Với kẻ chuyên nghiệp như ta, kỹ năng trong gian xảo được coi là tối cần. Không có kỹ năng này thì đừng bao giờ nói đến chữ sinh nhai với trò đen đỏ.Chính Vu chỉ là tên gian xảo chốn quê mùa, rừng rú. Một kẻ hạ cấp trong làng bài bạc thì làm sao có thể sánh với ta nổi? Nhưng cái ngu đần của hắn không phải là duyên kỳ ngộ đem nàng đến cho ta sao?   
Người đẹp ép tấm thân mền, mát như sợi thạch vào Hiến, với giọng cảm phục bên tai: 
-Thiếp đã không lầm lẫn để nương tựa vào người tuyệt tài như chàng vậy. Không biết thiếp có đủ thông minh để chàng chỉ dậy cho những mánh lới, khôn ngoan nhờ đó thiếp có thể giúp chàng được phần nào công việc làm giàu hay chăng? 
Đáp: 
-Ta hứa sẽ truyền đạt cho nàng tất cả những gì ta có. 
Đúng như lời hứa, Không Hiến ra sức chỉ dậy tất cả những mánh lới, gian xảo trong nghề đỏ đen cho Thúy Diên. Ngược lại nàng cũng tận lực học hỏi, luôn luôn tìm mọi cách đón ý Hiến mà chiều chuộng nên rất được Hiến thương yêu. Ngoài những lúc theo Hiến học nghề hay giúp đỡ việc thương mại, Diên luôn luôn quanh quẩn ở các cơ sở chỉ bảo nhân viên hay lo việc sổ sách, nhờ vậy nàng biết hoàn toàn ngõ nghách công việc làm ăn của Hiến.. Thi thoảng Diên xin phép vắng mặt một, hai ngày, nếu có ai thắc mắc nàng cười mập mờ cho biết vì nhớ cha mẹ mà đi thăm. Đối với vợ con của Hiến, nàng luôn luôn dùng những câu nói nhẹ nhàng, có thứ bậc ra vẻ hiểu rõ thân phận tỳ thiếp nên được vợ Hiến thương yêu coi như chị em. 
Thấm thoát đã gần nửa năm trôi qua, việc làm ăn của Không Hiến càng lúc càng phát đạt. Nhiều người đều nói nhờ tài năng và sự chuyên cần của Diên đã  mang đến sự thịnh vượng cho Không Hiến. Nhưng sự phát triển không kéo dài được lâu, những tin xấu, thất bại từ các chi nhánh được gửi về liên tục. Các cơ sở lần lượt được bán đi hay đóng cửa vì thua lỗ. Cuối cùng chỉ trong khoảng vài tháng trời tài sản kếch xù của Không Hiến đều không cánh mà bay theo bài bạc. Hiến mất tất cả, từ vai vế một chủ nhân ông giàu nứt vách đổ tường đã trở thành kẻ vô sản đến nỗi cả gia đình phải sống chui rúc, ăn đói, mặc rách trong căn nhà lá xập xệ.  
Một hôm vào buổi tối nhá nhem Không Hiến cùng với vợ con và Thuý Diên đang ngồi trước bữa ăn nghèo nàn. Không biết từ lúc nào có 4 người khách ăn mặc rất sang trọng bước vào nhà. Vừa thấy Hiến, một khách nhân vui mừng nói lớn: 
-La đại chủ nhân có còn nhớ Tào mỗ và lũ bạn nghèo hèn của mỗ này không? 
Không Hiến giật mình ngước nhìn đám khách, ngượng ngùng mà đáp: 
-Không phải là Tào Huynh tìm đến ta để đòi lại Thúy Diên đó chăng? Thật đúng lúc, ta đang cần kim lượng để sống đây.  
Chính Vu lắc đầu mỉm cười mà nói: 
-Ta đến đây chẳng phải để đòi Thuý Diên mà muốn chuộc lại nàng bằng kim lượng để cho ngươi cùng với chúng ta gây bàn đỏ đen đây.  
Với con mắt tinh ranh, tính toán của kẻ đã một thời vinh hiển vì cờ bạc. Chỉ nhìn thoáng qua vẻ sang trọng của 4 người khách, Không Hiến đã nghĩ đây là con mồi béo bở, mình phải chụp lấy ngay để thoát khỏi nghèo khổ. Càng chắc hơn khi Hiến nghĩ rằng, chính những con mồi này đã có lần thất bại trước tài năng của mình. Việc thắng họ, lấy hết tiền của họ là chuyện đương nhiên. Với ý nghĩ đó, Không Hiến mừng rỡ trả lời: 
-Nếu Tào huynh muốn như vậy thì ta cũng chẳng sợ gì mà không chiều khách. 
Thế là cuộc đỏ đen thành hình. Nhưng kết quả không như lần cách đây gần năm trời về trước. Lần này kẻ thua sạch túi không phải Chính Vu, mà là  Không Hiến. Sau khi thu gom hết cả tiền trên chiếu bạc vào bao, Chính Vu đưa tay kéo Thúy Diên đến bên cạnh mình, âu yếm nói: 
-Thế là ta đã làm trọn lời hứa với nàng rồi đó.   
Quay sang Không Hiến, Vu mỉa mai : 
-La đại chủ nhân còn gì đem ra bán để tiếp tục chơi với ta không ? 
Không Hiến ngượng ngùng trả lời : 
-Ngươi hãy đi đi, ta chẳng còn gì để bán nữa. 
Chính Vu liếc mắt nhìn hai đứa con của Hiến. Đưa tay chỉ người bạn của mình, rồi cười mà nói : 
-Ông bạn của ta đang làm chủ cơ sở khai thác hầm than vùng tây bắc, thằng con của ngươi dù mới 16 còn hơi bé, nhưng bạn ta chẳng chối từ nếu ngươi muốn bán.  
Chỉ tay sang người bạn thứ hai, Chính Vu nói tiếp :  
-Ông bạn kia của ta, chủ nhân kỹ viện, vẫn thường than với ta thiếu kỹ nữ! chắc rất vui tiếp nhận đứa con gái vừa tuổi cập kê của ngươi. Biết đâu ngươi lại gặp vận may để trở lại danh dự của một đại gia, hãy can đảm lên. 
Với lời khích bác của Chính Vu, chiếu bạc lại được mở ra và sát phạt. Dịp may vẫn đứng xa Không Hiến! Hai đứa bé dù chưa thực sự trưởng thành nhưng cũng đủ khôn ngoan hiểu rằng thân phận của nó đã được xác định bởi chính bố đẻ ra chúng trên chiếu bạc. Với khuôn mặt dàn dụa nước mắt hai đứa bé đến bên người mua thân xác chúng, cũng là người làm chủ thân xác chúng.  
Cái lẽ của trò đỏ đen là cay cú và liều lĩnh, nhất là khi đã liều lĩnh đến mức độ không thể gượng lại được nữa. Không Hiến cũng vậy, chẳng cần lời nói khích bác nào khác nữa của Chính Vu, Hiến đưa tay chỉ vào người vợ của mình mà nói: 
-Đây là món hàng cuối cùng, ngươi hãy thu lấy rồi chúng ta lại gầy cuộc chơi. 
Chẳng có gì thay đổi khi bầu trời chưa thực sự bình minh, cuộc đỏ đen chấm dứt. Không Hiến vẫn là kẻ sạch túi.Cũng là lúc 4 người khách đứng dậy ra về, dĩ nhiên họ dẫn theo Thúy Diên và cả vợ con của Không Hiến. Trước khi từ giã căn nhà lá ọp ẹp, Chính Vu ôm sát Thúy Diên vào mình, âu yếm mà nói to cho tất cả nghe rằng: 
-Thuý Diên, ta phải cám ơn nàng đã vì ta mà phải chịu đựng học hỏi những mánh lới, gian xảo của hắn rồi truyền dậy cho ta. Ngày nay chúng ta được gần nhau, hàng chục tửu lầu, sòng bạc của hắn bị đóng cửa, chiếm hữu, hoàn toàn nhờ công lao nàng vậy. Ta hứa với nàng từ nay sẽ không bao giờ cầm đến con bài mà chỉ biết yêu thương nàng mà thôi. 
Quay sang Không Hiến, Vu nói tiếp: 
-Chắc ngươi cũng chẳng có gì để ân hận khi biết sự thật như vậy. Cờ bạc là thế! Bản chất của nó là tàn nhẫn, bất lương và hủy hoại tất cả. Ta đã vì nó mà bán vợ cho ngươi! Hôm nay ngươi cũng vì nó mà bán vợ, bán con, tiêu tán cả tài sản sự nghiệp.  
Nhóm khách ra đi cũng là lúc Không Hiến nhìn lại mình trong căn nhà lá trống không. Viễn tượng tối đen kèm theo nỗi nhục nhã của kẻ đã bán vợ, bán con vì cờ bạc làm cho Hiến xấu hổ, chẳng còn gì để lưu luyến địa phương này, nơi mà quá nhiều người đã quen biết Hiến. Rồi Hiến nhắm hướng bắc ra đi với cái túi trống không của kẻ nghèo hèn. Chẳng bao lâu  Hiến thực sự thành kẻ ăn xin, đầu đường xó chợ. Giấc ngủ êm ái bên người đẹp ở tửu lầu, khách sạn xa hoa ngày trước chỉ còn là hoài tưởng. Tất cả đã biến mất, được thay thế bằng những đêm ở hè phố, góc chợ đầy rác rưởi hay lùm cây bìa rừng… Trong tình trạng đó chỉ vài tháng sau thân hình của Hiến bị lở loét như người bị bệnh phong cùi. 
Một hôm Hiến trôi nổi đến tỉnh Sơn Tây, chính địa phương này Hiến đã gặp Chính Vu để khởi đầu cho cuộc sống bi đát của đời hắn. Không biết vì vô tình hay có gì vô hình đưa đẩy đã dẫn Hiến đến khu vực của ngôi làng nhỏ với vài chục căn nhà trong đó có nhà của Chính Vu. Nhưng kỳ lạ, dù Hiến cố ý tìm kiếm cũng không thấy ngôi làng, chỉ thấy một nghĩa trang trong đó có một ngôi mộ như vừa được xây mới, rất hoàng tráng. Hiến tưởng mình lầm lẫn nên hỏi nhiều người sống gần đó. Người nào cũng tỏ vẻ ngạc nhiên cho biết chẳng có ngôi làng nào ở đó cả, nghĩa trang đó đã có từ xa xưa. Khi hỏi về Tào Chính Vu, mọi người cho biết khoảng 5, 6 năm về trước có cặp vợ chồng họ Tào, chồng tên Chính Vu, vợ tên Thúy Diên, người Sơn Tây sinh sống bằng nghề tổ chức cờ bạc lấy tiền xâu tại nhà. Một hôm, có lẽ vì ăn chia không minh bạch mà vợ chồng họ Tào bị giết chết. Hàng xóm thấy họ Tào không có thân nhân nên giúp đỡ đem chôn ở nghĩa trang này. Gần đây không biết từ đâu có một người ra vẻ giàu sang đến nhận là thân nhân của họ Tào bỏ tiền ra xây cất lại ngôi mộ của vợ chồng họ Tào đẹp đẽ như hiện nay. 
Nghe người dân nói, Không Hiến vào nghĩa trang đến ngôi mộ to lớn, mới xây, nhìn thấy tấm bia mộ ghi rất rõ tên vợ chồng Tào Chính Vu. Lúc này thì Hiến mới biết Chính Vu và Thúy Diên là ma. Dù biết thế nhưng Hiến cũng chẳng làm được gì để đổi thay số phận của tên ăn mày lở loét mà mình đang hứng chịu!  
Một hôm  trên đường xin ăn, Không Hiến trèo lên nhánh cây ở bìa rừng để làm chỗ ngủ qua đêm. Vào lúc giữa đêm Hiến thấy có vật gì mát lạnh quệt vào da mặt, giật mình thức dậy thấy một con rắn khá to đang định cắn mình. Sợ quá, Hiến quẫy mình rơi xuống đất. Không may lúc đó có đàn chó sói đang kiếm ăn, chúng nhẩy đến xâu xé Hiến mà ăn. Sáng hôm sau người ta phát giác thì thân thể Hiến chỉ còn sót lại vài khúc xương. 
Ngẫm lại lời đoán của Thẩm Kỳ Oanh, người bạn tâm giao của phụ thân Không Hiến rất đúng vậy.
9. Bảo Chấn Khanh
Tác Giả Lưu An Và Nguyễn Thị Thu
Lời nói đầu

Vào khoảng đầu thế kỷ 18, thời vua Khang Hy bên Trung Quốc, tác phẩm Liễu Trai Chí Dị được ra mắt công chúng. Tác phẩm này đã mang tên tuổi tác giả của nó Bồ Tùng Linh một người rất tấm thường, vô danh trong xã hội đương thời thành một danh nhân trong nền văn hóa Trung Hoa. Thật vậy Bố Tùng Linh ( 1640-1715) chỉ là một nhà giáo trường làng, dù kiến thức uyên bác nhưng thi cử rất nhiều lần mà chẳng đỗ đạt gì. Mãi đến năm 1711 khi ông đã ở tuổi 71 tuổi mới đậu được bằng Cống Sinh ( tú tài ), nhưng 4 năm sau ông mất, thọ 75 tuổi.
Trước khi mất Bồ Tùng Linh có cho ra mắt một vài tác phẩm văn học khác nhưng chỉ có tác phẩm Liễu Trai Chí Dị là có giá trị và thực sự có công mang tên tuổi, danh dự của ông vào nền văn học dân gian của Trung Quốc mà thôi.
Tác phẩm Liễu Trai Chí Dị bao gồm 431 truyện ngắn quái dị thiên về ma quái, hồ ly tinh, cây cỏ, động vật …Những truyện được tác giả thu lượm trong văn chương truyền khẩu rồi nhân cách hoá, thần phép hoá… kèm theo những hư cấu có tính cách lãng mạn, trữ tình pha trộn với những cảm xúc cùng lối viết văn độc đáo của tác giả làm cho người đọc bị lôi kéo vào những diễn tiến của cốt truyện. Trong số 431 truyện đó có truyện rất ngắn, đơn sơ với khoảng vài trăm từ. Có truyện khá dài, tình tiết éo le, phức tạp với bao nhiêu dữ kiện và nhiều nhân vật diễn biến như một truyện tình lãng mạn dài đến vài ngàn từ.
Hiện nay Liễu Trai Chí Dị đã được phổ biến rất rộng rãi trong văn học thế giới, nó đã được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Đặc biệt là ở các quốc gia Á châu, Liễu Trai Chí Dị không những được in ấn, thông dịch trên sách báo mà còn được phổ biến thành những phim truyện nhiều tập phổ biến trên đài truyền hình. Ngoài ra còn có rất nhiều tác giả khác trên thế giới dựa vào lối hành văn, ý tưởng của Bồ Tùng Linh để bắt chước viết ra những câu truyện giống như Liễu Trai Chí Dị. Lối viết bắt chước này được gọi là Liễu Trai Chí Dị đương thời hay tân liễu trai chí dị. Lối bắt chước này phần đông các tác giả tạo ra những cốt truyện dài hơn, phức tạp hơn và nhiều khúc mắc tình tiết hơn giữa thế giới ma quỷ và loài người.
Tập Tân Liễu Trai Chí Dị này của chúng tôi cũng không bước ra khỏi cái vòng bắt chước quen thuộc đó. Những câu truyện của chúng tôi hoàn toàn hư cấu chỉ nhằm một mục đích mua vui, giải trí cho người đọc. Hy vọng mang đến cho đọc giả những giây phút thư giãn hay tốt hơn nếu nó tạo được cho đọc giả một khoảng khắc ngắn hay dài được thả hồn vào mơ mộng, tưởng tượng mà quên đi phần nào mệt mỏi, bận rộn của cuộc sống kỹ nghệ mà chúng ta đang phải sống.
Tác giả
(Lưu An & Nguyễn Thị Thu)
VÀO TRUYỆN
Bảo Chấn Khanh được người quen biết gọi là Khanh tú tài, không rõ cha là ai và chính quán ở đâu, chỉ biết hai mẹ con của Khanh tránh nạn binh đao mà đến thôn Hà Kiều một địa phương lao động nghèo ở ngoại ô kinh thành sinh sống. Lúc đến Hà Kiều, Khanh mới là đứa trẻ lên 5, mẹ con Khanh sống lây lất trên đường phố, làm đủ mọi việc để sinh nhai. Được vài năm thì mẹ bị bệnh mà chết, hàng xóm thương tình trẻ mồ côi không nơi nương tựa, cùng nhau người ít kẻ nhiều gom góp tiền bạc dựng cho Khanh một chòi lá ở gần sông. Khanh ngày ngày bắt tôm cá, rau cỏ ở ven sông đem ra chợ bán lấy tiền độ nhật.
Mặc dầu nghèo đói liên miên, Khanh vẫn mong mỏi có dịp cắp sách đến trường như những đứa trẻ khác để tìm dịp đổi đời. Nhờ giúp đỡ của vài người tốt trong thôn, nhất là có ý chí tiến thủ mạnh mẽ nên Khanh cũng lấy được bằng tú tài dù muộn màng khi đã trên 20 tuổi. Nhờ có tí văn hóa, lại chăm chỉ, biết giữ tín nghĩa, chân thật cho nên Khanh được dân địa phương quý mến. Sinh ra, lớn lên trong khổ cực nhưng Khanh có dung mao rất bảnh, ăn nói có duyên lại thêm nhiều năng khiếu bẩm sinh. Ngoài tài xuất khẩu thành thi, còn có tài thổi tiêu và hội họa không mấy ai bì.
Biết khả năng của Khanh, thương gia họ Đàm, buôn bán đồ cổ nổi tiếng trong kinh thành mướn Khanh làm quản lý cho cơ sở kinh doanh. Công việc là giúp chủ xác định giá trị của cổ vật trước khi mua vào hay bán ra. Tiền lương cùng bổng lộc phụ trội đến từ công việc, chẳng mấy lúc mà Khanh đã có tiền dư, tiền để. Đời sống đã có phần phong lưu, quần là áo lượt trông ra mẽ công tử làm cho nhiều nữ nhân trong vùng yêu thầm nhớ trộm. Nhiều người mối mai,gá nghĩa vợ chồng cho Khanh với nhiều nơi giầu có cao sang, nhưng Khanh vẫn tìm đủ lý do mà chối từ. Lấy làm lạ có người cho rằng Khanh không bình thường trong vấn đề gối chăn. Khanh mỉm cười không nói gì.
Vợ thương gia họ Đàm có đứa cháu trai ở cùng nhà, tánh tình lêu lổng chơi bời, đi tối về khuya, thường lấy trộm tiền của chú thím để đánh bạc, chơi bời. Sau bị lộ ra lại phao ngôn đổ thừa cho Khanh xúi dục để chia chác. Ban đầu vợ chồng họ Đàm không tin nhưng thằng cháu nói mãi cũng sinh nghi ngờ, vài lần dùng lời bóng gió chê trách Khanh. Khanh nghĩ nếu còn làm việc ở đây không chóng thì chầy cũng xẩy ra rắc rối, oan ức chưa biết ra sao, nhưng nếu không may lại còn bị vướng vào vòng tù tội nữa là khác. Nghĩ như vậy, Khanh gặp hai vợ chồng họ Đàm phân trần rõ ràng sự ngay ngắn của mình rồi xin nghỉ việc. Họ Đàm tỏ vẻ ân hận, xin bỏ qua mà ở lại, nhưng Khanh không vui mà trả lời:
-Chủ nhân đã tin tưởng vãn sinh mà gọi đến, nhưng rồi không tin mà nghĩ xấu cho ta. Trong xóm, ngoài làng ai ai cũng đã vì sự nghi ngờ của chủ nhân mà cho ta là kẻ ăn trộm, thử hỏi ta còn mặt mũi nào ở lại đây được nữa?
Mấy ngày sau, Khanh đem chòi lá trả lại cho thôn xã rồi mang lương khô, khăn gói rời bỏ Hà kiều mà đi. Từ nhỏ chưa một lần đi xa, lại chẳng có thân thích nên cũng không biết đi đâu. Nghe đồn miền Nam khí trời ấm áp, phong cảnh hữu tình cho nên cứ nhắm hướng nam mà đi. Gặp đâu ăn đấy, chẳng màng đến sang hèn, ngon dở, miễn no bụng là được, đúng là kẻ lãng du. Khi nào túi tiền sắp cạn, gặp khu thị tứ, đông người, Khanh mang giá vẽ ra phố vẽ truyền thần cho khách vãng lai, kiếm đủ tiêu dùng trong một thời gian rồi lại đi nơi khác.
Thấm thoát đã hơn một năm sống kiếp giang hồ. Một hôm vì quá ham mê với phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà chẳng biết trời đã tối. Lại gặp ngày mưa dầm, gió lạnh đường xá lầy lội, vắng tanh, tìm mãi chẳng gặp quán ăn, nhà trọ nào để nghỉ chân. Bụng đói meo giữa chốn hoang liêu, cô tịch càng làm cho Khanh lo sợ. Cố đi thêm một lúc nữa nhưng càng lúc càng mệt, đôi chân muốn xụi không còn đủ sức kéo lên khỏi bùn lầy, mong tìm một gò đất khô ráo ở bìa rừng để nghỉ ngơi qua đêm. Đang lúc tuyệt vọng, nhìn thấy một tấm gỗ, coi vẻ vẫn còn khá mới dựng sát lề đường,với hàng chữ: “Tri Kỷ quán “ dưới tên quán viết hai câu thơ:
Nào ai duyện nợ tái sinh
Hữu duyên hạ nét sửa hình kiếp sau
Khanh chẳng còn hơi sức đâu mà suy nghĩ ý tứ hai câu thơ, nhưng vẫn nhận thấy nét chữ thảo rất đẹp lại uyển chuyển cho biết người viết phải là nữ nhân trong giới khoa bảng hay ít ra có khiếu về thư họa.
Mừng như sắp chết đuối vớ được phao, Khanh chẳng ngại ngần mà bước theo mũi tên chỉ dẫn rẽ vào con đường nhỏ bên cạnh bìa rừng. Đi được vài trăm mét đã thấy ánh đèn lấp lánh từ đàng xa chiếu lại. Đến gần hơn, hiện ra một thôn xóm nhỏ ở vùng quê nằm sát chân núi, có khoảng năm ba chục nóc nhà, to lớn xen kẽ nhau. Vài nhà còn lập lè ánh đèn, còn phần lớn im lìm trong bóng đêm. Vừa bước qua chiếc cổng bằng tre của thôn, thấy đằng trước một căn nhà có vẻ còn mới, cắm một tấm gỗ “ Tri Kỷ quán “ giống như tấm gỗ ngoài bìa rừng nhưng không có 2 câu thơ.
Khanh bước lên thềm nhà, giũ quần áo, giầy dép cho sạch đất cát, nước mưa rồi đập vào tấm cửa ra vào. Gọi chủ quán nhiều lần nhưng chẳng có ai trả lời hay ra đón khách. Khanh lấy làm lạ, cho rằng vì trời mưa gió, chủ quán nghĩ không có khách mà đóng cửa sớm chăng? Nhưng không lẽ, cũng không có ai nghe tiếng đập cửa sao?
Khanh ghé mắt nhìn vào nhà thấy chiếc đèn dầu lạc treo giữa nhà vẫn bập bùng cháy, nhưng chẳng có ai trong nhà, đánh bạo đẩy cửa bước vào. Căn nhà có hai phòng khá khang trang và rất sạch sẽ. Phòng ngoài kê vài chiếc bàn, loe que vài chiếc ghế gỗ cũ kỹ nhưng cũng rất sạch. Trên bàn để một mâm cơm, không biết có gì vì được đậy kín bởi cái lồng bàn đan bằng tre.
Bước vào nhà, ngồi ngay vào chiếc bàn có mâm cơm, Khanh đập tay lên bàn gọi chủ quán vài tiếng nữa, nhưng cũng vẫn im lặng! Khanh lấy làm lạ đứng dậy bước đến cửa ăn thông với căn phòng đàng sau nhìn vào. Dù không có ánh sáng nhưng Khanh cũng thấy một cái giường ngủ chăn màn đầy đủ nhưng cũng chẳng có ai. Cuối phòng có một cái cửa nhỏ cài then, chắc nối với nhà bếp.
Đoán là chẳng có ai ở nhà, bụng thì quá đói. Khanh chẳng biết làm sao, đành bước lại chỗ cũ, mở chiếc lồng bàn ra, thấy một mâm cơm không lấy gì làm thịnh soạn lắm, nhưng rất tinh khiết sạch sẽ. Có đủ 3 món canh, xào, mặn, một tô cơm trắng lại kèm theo một chai rượu nhỏ. Nhìn mâm cơm mà cồn cào ruột gan vì đói, không thể kiềm chế được. Khanh móc hầu bao lấy ra một lạng bạc, để lên góc bàn coi như trả tiền cho cho mâm cơm rồi xúc cơm ăn ngon lành.
Chẳng mấy chốc Khanh đã làm sạch sẽ mâm cơm và chai rượu. Bên ngoài trời vẫn mưa rả rích. Nghĩ tới con đường lầy lội, lại vào lúc đêm hôm khuya vắng vẻ ở chốn khỉ ho, cò gáy này, không ở đây thì biết đi đâu cho qua đêm. Khanh làm liều cởi khăn gói trải xuống nền nhà mà nằm ngủ. Có lẽ lúc mới vào quán vì quá đói, quá mệt Khanh không để ý đến sự trang hoàng trong nhà, nhưng khi sửa soạn nằm xuống ngủ. Khanh đưa mắt nhìn lên vách nhà thấy treo một chiếc đàn tam nước sơn bóng nhoáng. Bên vách đối diện treo một bức vẽ truyền thần, vẽ một nữ lang hết sức phong nhã, trang phục quý phái, diễm tuyệt về mọi mặt. Đúng là trang quốc sắc, thiên hương. Nhìn kỹ nét vẽ, pha trộn mầu sắc cũng như kỹ thuật vẽ của họa sĩ không thể nào chê trách được. Nhưng khi nhìn vào đôi mắt người con gái trong tranh, hình như có thoáng nét buồn buồn! Khanh tự hỏi người đẹp như vậy, giầu có, sang trọng như vậy, tại sao lại buồn được? Không lẽ họa sĩ không có tài điểm chấm ánh mắt khi vẽ hay sao? Nghĩ như thế nhưng nhìn kỹ những đường nét điêu luyện của tác giả thì không thể nào tin được một họa sĩ tài năng đến mức này mà lại không đủ tài điểm chấm cho ánh mắt hợp với phong độ, hình dáng của giai nhân được. Khanh cho rằng chắc có lý do nào đây?
Khanh ngồi dậy, đứng gần, đứng xa, quay phải, quay trái để nhìn kỹ bức tranh, mong khám phá ra cái ngụ ý của tác giả. Mãi một lúc sau mới nhận thấy đôi chân của cô gái, dù được che phủ bởi tà áo dài quá gót, nhưng để ý thấy chân trái của mỹ nhân hơi ngắn hơn chân phải tí chút. Với sự dài ngắn đó chắc chắn giai nhân phải có tật đi khập khiễng, có lẽ đó là lý do làm cho giai nhân buồn, không vui vì cái tật ách đó chăng?
Tìm ra nguyên nhân rồi, Khanh cảm thấy thương hại cô gái, muốn mang tài hội họa của mình để sửa đổi tật đi cà nhắc cho cô ta cũng như điểm lại ánh mắt buồn thành vui sướng hạnh phúc. Nghĩ là làm, Khanh giở đồ nghề, bút vẽ, pha mực rồi hết sức thận trọng sửa lại đôi chân của nữ lang cho cân bằng, đồng thời dùng mầu sắc chuyển đổi ánh mắt u buồn thành ánh mắt hoan lạc, lãng mạn của một giai nhân nghiêng núi đổ thành!

Sau khi sửa bức tranh xong, Khanh như bị hút vào vẻ đẹp của giai nhân đến độ ngẩn ngơ ngắm nhìn mãi mà không chán. Mê si mà nói với người đẹp trong tranh rằng:
-Ta chẳng biết thực tế nàng ra sao, nhưng ta không thể không đau lòng khi nhìn thấy nét buồn trong ánh mắt nàng được. Bây giờ nàng đã là một giai nhân hoàn mỹ, người ta yêu trong mộng rồi. Nếu nàng có thật trong trần gian xin hãy cảm thương mà đoái hoài đến kẻ si tình này nhé.
Đúng lúc Khanh đang đờ đẫn ngắm nghía dung mạo người đẹp trong tranh, không biết từ đâu một thiếu phụ ước chừng khoảng 50 tuổi, quần áo sạch sẽ. Nhìn bề ngoài không có vẻ đài các nhưng phong thái không phải là giới lao động, quê mùa. Bà ta đứng ngay ngưỡng cửa quán, đưa mắt nhìn chăm chăm vào bức họa mà Khanh vừa sửa đổi, rồi nói với Khanh rằng:
-Thật là không ngờ, bức họa đã được chính tay công tử sửa đổi đó ư?
Khanh giật mình, quay lại nhìn thiếu phụ, cho rằng thiếu phụ là mẹ của giai nhân trong tranh, nên rụt rè trả lời:
-Xin phu nhân thứ lỗi nếu vì tài mọn mà tiểu sinh làm hỏng dung nhan của tiểu thư.
Thiếu phụ, không nóng giận mà còn tỏ ra hoan hỉ ca ngợi tài năng hội hoạ của Khanh, rồi nói rằng:
-Lão tên là Chu Nương, là người hầu hạ tiểu thư mà thôi, xin công tử đừng hiểu lầm. Việc công tử sửa đổi bức họa là điều mà tiểu thư mong đợi đó. Bây giờ xin công tử quá bộ theo lão gia sang dinh thự cách đây không xa để tiểu thư của lão được hầu tiếp.
Khanh nghĩ rằng vì lỗi lầm mà phải sang gặp chủ nhân để đối chất, ra vẻ ân hận mà nói:
-Tiểu thư của Lão bà là ai? Đây chẳng phải là quán ăn hay sao? Tiểu sinh vì quá đói đã ăn hết mâm cơm, lại còn hứng tài hội họa mà gây ra rắc rối. Tiểu sinh đã để một nén bạc trên bàn trả cho mâm cơm rồi. Còn việc sửa đổi bức họa, xin lão bà nói với tiểu thư tha lỗi cho tiểu sinh vì quá mê vẻ đẹp toàn vẹn của giai nhân mà ngứa ngoáy chân tay!
Lão bà đáp:
-Công tử hiểu sai ý của lão rồi. Tiểu thư đang hoan hỉ đợi chờ công tử đó. Xin công tử đừng quá nghi ngờ mà chậm trễ mất duyên may gặp gỡ.
Khanh theo Lão Nương đi khoảng vài trăm mét đến một căn nhà khá lớn, đã cũ nhưng vẫn có dáng vẻ một dinh thự sang trọng đủ cả non bộ, vườn cây bao quanh. Bước vào nhà Khanh tưởng như lạc vào hoàng cung, ghế bành, tủ trà, thư kệ, bàn ghế... đều làm bằng gỗ quý mầu nâu đen, bóng loáng sạch sẽ không có một hạt bụi. Tất cả các vật dụng, bàn ghế được xếp đặt rất hài hoà đầy nghệ thuật. Trên tường treo đây đó vài loại nhạc cụ, đàn tranh, tỳ bà, ống tiêu, quản sáo xen kẽ vài họa phẩm cùng với bức thư họa, nét viết tung phá như phượng múa, rồng bay. Chỉ nhìn vào vật thể và cách trình bầy của chủ nhân, kẻ phàm phu cũng biết chủ nhân phải là phú gia, đa tài về nghệ thuật.
Lão Nương mời Khanh ngồi rồi đi vào báo với chủ nhân. Lát sau một nữ lang, dung tư diễm tuyệt, đẹp chẳng khác gì tiên nữ từ trong nhà chậm rãi đi ra, nhìn Khanh với ánh mắt thân thiện, miệng hoa mỉm cười, với giọng nói êm nhẹ như rót vào tai:
-Thiếp hân hạnh biết bao khi được công tử hạ cố đến thăm còn là tri kỷ ân nhân, người mà thiếp đã bao tháng chờ đợi đó.
Khanh như bị sắc đẹp diễm lệ của nữ lang thu mất hồn phách, nhưng vẫn còn nhận thấy cô gái trước mặt giống y hệt nữ lang trong bức họa mà minh vừa sửa đổi ở quán ăn. Ngoài ra Khanh cũng thấy cô gái dù cố gắng kín đáo di chuyển đôi chân thật chậm rãi nhưng cũng không dấu được vẻ đi cà nhắc. Điều này cho biết bức họa truyền thần trong quán cơm chính là cô ta. Khanh làm ra vẻ không biết gì đến khiếm khuyết của nữ nhân mà đáp rằng:
-Tại hạ đã ăn ở quán cơm rồi, xin nàng đừng bận lòng. Nhân tiện cũng xin nàng tha lỗi cho tại hạ vì ngứa tài năng thô thiển mà đụng chạm đến bức họa chân dung của nàng.
Nữ nhân mỉm cười đáp:
-Sao chàng lại tự khắt khe với mình đến như vậy? Chàng đã ban ơn tái sinh mà còn sửa chữa khiếm khuyết dung nhan cho thiếp, chàng không biết đó là điều thiếp hằng ước nguyện, chờ mong.
Thấy Khanh ngơ ngẩn ra chiều không hiểu người cô gái thân thiện kéo Khanh đến ngồi chung với nhau trên chiếc tràng kỷ, và nói:
-Thiếp thật khiếm nhã, vì sung sướng được tao ngộ mà chưa kịp hỏi quý danh của chàng. Thiếp họ Biên tên Tố Vân, người phủ Kiên An cách đây khoảng vài trăm dặm đường. Vì kẻ nô tỳ gia hại mà thiếp phải lưu ngụ nơi đây đến nay đã gần nửa năm nay rồi.
Khanh đáp:
-Ta họ Bảo, tên gọi Chấn Khanh,vì mẹ chết sớm ta cũng không biết nguyên quán của mình nơi đâu, nhưng sống từ bé ở chốn đế kinh. Gần một năm trước, vì bị người đời nghi kỵ là kẻ ăn trộm mà thành kẻ không nhà. Hôm nay ngẫu nhiên mà ta gặp được nàng nơi đây, chẳng biết có phải là một nhân duyên hy hữu để được nàng hạ mắt đoái thương cho kẻ tình si này không?
Nói xong Khanh làm bừa, khoác tay lên vai Vân, kéo sát vào người hít lấy hít để mùi thơm từ thân thể người đẹp. Vân đẩy tay cho có lệ, liếc mắt đưa tình mà đáp:
-Coi bề ngoài chàng có vẻ một anh đồ nho chỉ biết ngâm thơ, vịnh phú, vào thưa, ra gửi, đâu ngờ chàng cũng là người từng trải thế ư? Nhưng làm như vậy không quá vội vàng mà sai ý nghĩa chữ tri kỷ sao?
Khanh thấy người đẹp có phần dễ dãi, ôm cứng hơn, hôn nhẹ vào má người đẹp mà trả lời:
-Nàng không biết sao “ hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng “ huống chi ta đã phải nhịn đói, đội mưa, dẫm bùn gần một ngày trời rồi may mắn gặp được nàng hôm nay. Đó không phải là cái duyên tiền định sao?
Tố Vân đẩy Khanh ra xa, làm ra vẻ quan trọng:
-Chàng nói cũng có lý, nhưng thiếp có điều nhờ chàng đây!....
Chẳng để cho Vân nói xong, Khanh mau mắn trả lời:
-Chẳng có gì để ta từ chối cả, vì yêu nàng mà ta làm tất cả, dù phải xuống dưới chín tầng địa ngục. Xin nàng cứ nói, chớ ngại ngần.
Tố Vân ra chiều cảm động với nhiệt tình của Khanh, chậm rãi cho biết. Phụ thân của Vân tên là Biên Viễn Khoa là quan đầu phủ Kiên An. Gia đình Tố Vân thuộc hàng danh giá, khoa bảng, nổi tiếng liêm chính, lấy đức trị dân, được dân địa phương rất mến mộ. Cha mẹ Vân hiếm hoi chỉ sinh được một mình Vân, cho nên rất cưng chiều. Dù là con gái nhưng vẫn cho học đủ nghề thi hoạ, văn chương, âm nhạc. Bản chất Vân thông minh lại thêm sự dậy bảo của phụ mẫu nên ngành nghề nào Vân cũng suất sắc hơn người. Tuy thế, tạo hoá thường đố kỵ với kẻ đa tài. Ngay từ khi sinh ra Vân có tật đi cà nhắc vì đôi chân không cân xứng. Ngoài tật ách này, sắc đẹp của Vân được coi là chim sa cá lặn không dễ ai bì. Cha mẹ Vân cũng buồn phiền nhưng khi nhìn dung nhan yểu điệu như tiên, tài năng quán chúng của con gái nên cũng có phần nào an ủi.
Một hôm cha mẹ Vân sai lão Chu Nương cùng với hai vợ chồng người nam bộc tên là Đàm Vụ cùng với Tố Vân về quê ngoại ăn giỗ. Vợ chồng Đàm Vụ thấy Tố Vân mang theo nhiều tiền bạc, động lòng tham, sinh lòng bất nhân. Lập mưu cho độc dược vào thức ăn giết chết Vân và Lão Nương, lấy tài vật, vứt xác hai người xuống sông rồi bỏ trốn đến địa phương khác làm ăn. Cha mẹ Vân lâu không thấy con gái và ba người tùy tùng trở về, cho người đi tìm kiếm nhiều tháng trời không có dấu tích, nghĩ rằng tất cả đã bị cướp giết chết, dấu xác phi tang.
Sau khi chết, linh hồn Tố Vân không siêu thoát được, nghĩ mình chết oan. Dòng họ không có ai làm việc bất nhân, cha mẹ làm nhiều việc phúc đức mà mình lại bị chết thê thảm, không người khói nhang. Vân làm đơn kiện lên thiên đình, xin thẩm xét lại nỗi bất công. Thiên đình đòi Diêm vương tra hỏi, mới biết trên dương thế có hai người con gái cùng tuổi tác, cùng hình dung y hệt như Tố Vân. Chỉ khác nhau một điểm duy nhất là Vân bị tật đi cà nhắc, còn người kia bình thường. Phán Quan đã lầm lẫn, thay vì bắt người con gái lành lặn lại bắt lầm Vân.
Khi biết sự lầm lẫn, Diêm Vương muốn cho Vân trở lại dương thế, nhưng vì thời gian qua đã lâu, thân xác Vân đã thối rữa không thể nhập hồn vào được nữa. Diêm Vương đành nghĩ ra cách cho hồn Vân tái sinh vào xác người con gái lành lặn, còn hồn người con gái lành lặn sẽ phải về diêm cung để đi đầu thai kiếp khác. Nhưng có sự khác biệt đôi chân giữa Vân và cô gái lành lặn nên cũng không được. Diêm vương biết Vân có tài hội họa, cho Vân tự vẽ chân dung mình rồi tự tạo duyên cơ để gặp được một người đàn ông nào trên trần thế, xem bức truyền thần, tìm ra được khuyến khuyết đôi chân của Vân rồi sửa chữa lại. Khi bức họa được sửa lại, Vân sẽ hợp cách để tái sinh vào xác người con gái lành lặn kia mà trở lại dương gian.
Riêng Chu Nương đúng là hết số, không có gì để kiện cáo, nhưng vì thương tình cho hoàn cảnh oan ức của Vân, Chu Nương xin Diêm Vương được ở lại hầu hạ Vân cho đến khi Vân được tái sinh sẽ đi đầu thai kiếp khác.
Khi vợ chồng Đàm Vụ giết hai người rồi liệng xác xuống sông, xác của Vân và Chu Lão Nương trôi dạt vào một làng nhỏ bên bờ sông. Dân làng thương tình kẻ bạc mệnh, thu nhặt tử thi đem táng ở nghĩa trang của làng. Thổ thần coi nghĩa trang cảm thương tài sắc của Vân cho đến cư ngụ trong cơ dinh sang trọng của một phú hào, người đã chết và đã đi đầu thai từ lâu.
Mong cho mau được tái sinh, Tố Vân sai Lão Nương mở “Tri Kỷ quán “ mục đích để dẫn dắt khách qua đường vào quán, coi tranh mong tìm được người tri kỷ, có tài hội họa mà sửa chữa bức tranh để được trở về dương gian. Suốt gần nửa năm, biết bao nhiêu khách qua đường đã đến quán Tri Kỷ quán, nhưng phần đông là phường phàm phu, tục tử chẳng biết gì về nghệ thuật. Đôi khi cũng gặp kẻ nho gia, nghệ sĩ phong lưu nhưng lại không trong ngành hội hoạ, nên cũng chẳng ai nhìn ra khuyết tật đôi chân của Vân mà sửa chữa.
Hôm nay, gặp được Khanh, không những nhìn được khiếm khuyết đôi chân mà còn nhìn thấy ánh mắt buồn kín đáo của Vân mà sửa chữa. Vân sung sướng vô ngần, nghĩ rằng giữa mình và Khanh có một duyên kỳ ngộ hơn mức mình mong ước.
Tố Vân kể xong, quý lạy Khanh, chảy nước mắt mà nói rằng:
-Giờ thì chàng đã hiểu tất cả rồi, thiếp chẳng phải là người mà là ma, nhờ chàng mà thiếp được trở lại nhân gian. Thiếp nguyện yêu thương chàng hết mực, xin chàng vì tình duyên của hai ta mà không nỡ chối từ.
Nói xong Vân rưng rức khóc, làm Khanh không cầm nổi lòng, đưa tay nâng Vân đứng dậy, ôm vào lòng, nhỏ nhẹ mà nói rằng:
-Ta hiểu nỗi khổ sở của nàng rồi, nàng là người hay ma cũng vậy mà thôi, miễn là chúng ta có được niềm hạnh phúc. Ta nguyện sẽ vì nàng mà làm tất cả để thành nghĩa phu thê, xin cho ta biết những gì ta phải làm.
Nghe Khanh nói thế, Vân cảm kích lộ ra mặt:
-Lang quân, xin chàng vì tình của chúng ta mà cố gắng. Ngay sáng mai, thiếp và chàng đã phải chia tay rồi. Thiếp sẽ tái hồi dương gian trong hình hài của cô gái mà thiếp không biết gì về gia đình, nơi chốn, tài năng, phúc phận của cô ta trên dương thế. Chỉ biết cô ta có hình hài giống y hệt thiếp nhưng đôi chân lành lặn. Còn chàng sáng mai cũng phải trở về thực trạng, xin chàng làm cho thiếp ba việc sau đây:

Việc thứ nhất, đến phủ Kiến An tìm gặp cha mẹ thiếp, nói rõ tội bất nhân, giết người của vợ chồng Đàm Vụ đòi thường mạng cho thiếp. Hiện vợ chồng kẻ sát nhân đang kinh doanh kỹ viện ở tỉnh Hạ Giang, cách phủ Kiến An khoảng 200 dặm đường về phía bắc. Vợ Đàm Vụ vẫn còn đeo chiếc vòng vàng có khắc tên thiếp, đó là chứng cớ để buộc tội kẻ sát nhân.
Việc thứ hai, xin chàng tìm cách nói khéo với cha mẹ thiếp cải táng mộ của thiếp và Lão Nương đến nghĩa trang của dòng họ để thờ cúng cho tươm tất. Thật ra từ nay thể xác là của thiếp nhưng hồn lại là của cô gái mà thiếp sẽ tái sinh. Nhưng nghĩ cho cùng thì cô ta cũng là kẻ đáng thương, tài sắc vẹn toàn, mệnh yểu mà xây cho cô ta ngôi mồ đẹp đẽ.
Việc thứ ba, sau khi chia tay, chàng trở lại với trần thế, xin chàng hãy mau đi tìm cô gái có hình dung giống như thiếp. Đó chính là thiếp tái sinh để chúng ta được tái ngộ, nên nghĩa phu thê. Xin chàng đừng lơ là mà phụ lòng yêu thương của thiếp. Nếu không gặp được nhau hay gặp nhau quá muộn, khi tuổi đã già thì uống phí xuân xanh. Xin chàng lấy làm trọng mà cố gắng.
Nghe Tố vân căn dặn xong, Khanh thắc mắc:
-Hai việc đầu tiên thì ta chắc chắn chẳng có gì khó khăn, xin ái thê đừng lo. Nhưng việc thứ ba, ta có vài điều chưa rõ. Thế gian bao la ta biết đi đâu mà tìm được ái khanh, vậy nàng có thể cho ta biết địa phương, tên họ của cô gái để ta tìm gặp. Khi gặp nhau, nếu ta không nhận biết, xin ái khanh đừng quên nhắc nhở cho ta biết.
Tố Vân lắc đầu:
-Sao chàng ngờ nghệch như thế? Nếu nhân gian khi tái sinh, chuyển kiếp mà còn nhớ được việc tiền kiếp thì dương gian đâu còn sự chết sống nữa. Thiếp cũng không biết cô gái đó ở đâu, gia cảnh ra sao, phần số của cô ta trên dương trần hiện nay ra sao. Khi nhập hồn vào cô ta thiếp sẽ mang theo tất cả thể chất, cá tính của cô ta. Tuy nhiên, theo thiếp suy nghĩ thì cô gái có sắc đẹp diễm lệ như vậy, có lẽ cũng là một tiểu thư thuộc gia đình trâm anh, phú quý nào đó. Cô ta chắc cũng có tài năng về nghệ thuật như âm nhạc, thi phú, hội họa. Ví dù cô ta không là nghệ sĩ, nhưng ít ra cô ta cũng tiềm tàng tâm hồn nghệ thuật trong người, nhờ thế khi tái sinh thiếp cũng sở hữu được cái cảm ứng nghệ thuật của cô ta.Thiếp nghĩ rằng những con người có tâm hồn lãng mạn, giàu cảm xúc với nghệ thuật như chàng, như thiếp, như cô gái chắc chắn giữa chúng ta phải có ít nhiều đồng cảm. Nhờ những đồng cảm nghệ sĩ đó chúng ta sẽ có những cảm nhận siêu linh để nhận ra nhau bằng những rung cảm trong tiềm thức. Nghĩ như vậy, ngay đêm nay, còn ít thời gian nữa trước khi trời sáng chàng và thiếp sẽ cùng nhau làm ra một tiêu khúc của riêng chúng ta. Khi gặp cô gái đó chàng thổi lại tiêu khúc, biết đâu thiếp sẽ nhận ra chàng để chúng ta không bị ngỡ ngàng khi tái ngô. Đó không phải là điểm thích thú, lãng mạn trong tình yêu của chàng và thiếp sao!?
Sau đó Tố Vân và Khanh cùng nhau để hết tâm sức để làm ra một bản tiêu phổ mô tả mối tình ngẫu hợp kỳ lạ, để lại lòng họ những nhớ thương khi xa nhau, mong chờ kỳ tích để gặp lại nhau. Rồi Khanh lấy tiêu thổi lại lần cuối cùng bản nhạc của hai người trước khi phải xa nhau. Ngồi nghe Khanh trình tấu bản tiêu phổ, dù đã hiểu trọn âm vận của từng đoản khúc nhưng Vân cũng dàn dụa nước mắt vì cảm động.
Mặt trời đã thoáng hiện phương đông, tiếng hót níu lo của vài con chim tìm mồi trên cành cây báo hiệu bình minh gần đến. Tố Vân buồn bã ôm lấy Khanh vào lòng mà nói:
-Đã đến lúc lang quân và thiếp giã biệt nhau rồi. Chỉ vài khắc thời gian nữa thiếp sẽ phải đi tái hồi dương thế! Chẳng biết số phận ra sao, nhưng tình thiếp thế nào chàng đã biết. Một đêm bên chàng tưởng như hạnh phúc thiên thu. Xin chàng nhớ kỹ lời thiếp để chúng ta còn được bên nhau.
Nói xong Vân đưa tận tay Khanh một cái túi khá lớn và một cây sáo mà nói:
-Trong bịch này thiếp để sẵn một số kim hoàn và vài tập ngân phiếu cho chàng để cần khi hữu dụng trên chốn dương gian.
Khanh có ý không muốn nhận, từ chối:
-Tại sao nàng làm thế? Tiền bạc chẳng có nghĩa gì khi ta không có nàng...
Vân nhấn tận tay Khanh, ngắt lời:
-Nào thiếp có dám coi thường lang quân mà làm như thế đâu. Tiền bạc đó cũng chẳng phải của thiếp, đó là do gia đình phú hào chôn trong nghĩa trang, họ đã đi đầu thai chẳng mang theo được. Chàng cứ cầm lấy tiêu dùng khi cần thiết. Sau này khi đã thuận thông mọi việc, chúng ta dùng vào việc phúc đức không phải là việc tốt ư? Xin chàng đừng ngại.
Nói xong, Vân ôm lấy Khanh mà nói:
-Thôi thiếp đi đây, xin chàng đừng quên lời thề ước mà gắng tìm gặp thiếp.
Nói xong lấy tay đẩy Khanh ngã xuống đất mà chạy đi. Đầu Khanh đập vào chân ghế, hét lên tiếng nhỏ mà tỉnh dậy, thấy mình không phải nằm trong căn nhà cổ sang trọng mà đang nằm trên nền gạch một nhà mồ xây cất rất hoàng tráng. Đưa tay sờ lên đầu thấy một nốt u do đập vào thành ngôi mộ. Nhưng trong không gian hình như mùi thơm của da thịt, quần áo từ cơ thể Vân vẫn còn phảng phất, chưa mất. Bên cạnh chỗ nằm có một bao nhỏ chứa toàn vàng ngọc và xấp ngân phiếu còn dính cuống. Ngay chỗ nằm một ống tiêu bằng trúc sáng bóng đè lên tấm giấy hoa tiên ghi bản tiêu phổ kèm theo dòng chữ:“ Thiếp mong đợi lang quân từng ngày, xin chàng đừng quên lời thề ước!“ nét thảo đúng như nét chữ viết hai câu thơ trên tấm bảng tri kỷ quán.
Khanh đứng dậy tò mò đến trước ngôi mộ hoàng tráng mà mình vừa nằm ngủ qua đêm thấy trên tấm bia bằng đá khắc rất rõ tên tuổi, ngày chết người phú hộ. Bên cạnh ngôi mộ này, ngay gần cổng nghĩa trang có hai ngôi mộ đất, cỏ hoang đã phủ xanh. Trước mỗi ngôi mộ có một miếng tre, viết sơ sài. Một miếng viết:“ Vô danh phu nhân chi mộ “, miếng thứ hai viết: “Vô danh tiểu thư chi mộ “ Khanh đoán rằng người trong thôn, tưởng lầm Lão Nương và Tố Vân là hai mẹ con mà viết như vậy.
Thấm thoát đã gần nửa năm trôi qua, hai việc đầu tiên chẳng có gì khó khăn, đã được Khanh hoàn tất dễ dàng. Mộ của Tố Vân và Lão Nương đã được gia đình cải táng đem về nghĩa trang của dòng họ ở phủ Kiến An để tiện việc cúng tế. Vợ chồng tên nam bộc Đàm Vụ với chứng cớ rành rành đã bị đền tội.
Khanh đi khắp mọi nơi, từ thành thị sầm uất, chốn ăn chơi đến vùng thôn dã, nghèo hèn để tìm Vân dưới hình dạng cô gái giống y hệt nàng nhưng đôi chân nguyên vẹn. Tốn kém cũng nhiều nhưng cũng may nhờ túi vàng bạc, xấp ngân phiếu mà không gặp gì khó khăn. Đến đâu Khanh cũng mang tiêu phổ ra trình tấu, kèm theo họa hình của Tố Vân để hỏi han đủ dạng khách qua đường. Vài lần cũng có những chỉ dẫn, nhưng khi tìm đến lại thất vọng vì sai lầm. Có khi vài kẻ muốn xin tiền ăn nhậu mà tìm cách chỉ dẫn vu vơ.
Một hôm, trời đã hơi xế chiều, sau một ngày mệt nhọc du hành, Khanh ngồi nghỉ chân dưới tàng cây cổ thụ, gần một ngôi chùa nữ ở một vùng thôn dã. Ngước mắt nhìn vài con chim lạc lõng giữa trời xanh, buồn nhớ đến người đẹp rồi tự hỏi chẳng biết bao giờ mới gặp được nhau. Khanh đem tiêu ra thổi, tiếng tiêu buồn bã của Khanh lan rộng trong không gian tịch mịch của buổi hoàng hôn nơi thôn dã như cảm thán cho nỗi cô đơn, nhớ thương cố nhân mà bi thương.
Đúng lúc Khanh đang đổ hết nỗi buồn của mình vào tiếng tiêu, một tiểu ni cô từ ngôi chùa nữ Pháp Minh ngay đằng sau chỗ Khanh đang ngồi, mở cổng đi ra đến chỗ Khanh ngồi, tiểu ni cô cúi đầu lễ pháp chào Khanh mà thưa rằng:
-Kính thư chú, Sư bà của con cho mời chú vào chùa có chút việc.
Khanh ngưng thổi tiêu, nhìn tiểu ni cô với tí ngạc nhiên nhưng cũng theo chân vào trong chùa. Một vị sư bà phong thái đạo đức hiền từ trong bộ áo mầu trắng đục bước ra đón Khanh ngay thềm chánh điện, rồi cùng với Khanh đến ngồi trên tấm chiếu trải trên nền bên góc trái chánh điện, nhỏ nhẹ nói với Khanh:
-Xin thí chủ tha lỗi cho bần ni đã làm đứt quãng cảm hứng âm nhạc của thí chủ.
Chẳng chờ Khanh nói vài lời giao tế, sư bà nói tiếp:
-Sở dĩ bần ni muốn gặp thí chủ vì có sự lạ lùng liên hệ đến bản tiêu phổ mà thí chủ vừa thổi. Nếu không có gì khó nói, xin thí chủ vui lòng cho bần ni biết tí chút về tiêu khúc đó được không?
Nghe vị ni sư già nói, Khanh linh cảm có gì khác lạ, mà thưa rằng:
-Đây là tiêu khúc do chính tiểu sinh và một nữ lang hợp sức mà soạn ra, chẳng hay nó có gì khác lạ với ni sư?
Sư bà nhìn rất kỹ Khanh, thấy dáng dấp phong nhã, chính nhân không phải là kẻ gian trá, ngần ngừ tí chút rồi trả lời:
-Không biết lý do tại sao, một nữ đệ tử của bần ni khi nghe thấy tiếng tiêu của thí chủ như bị kích thích lạ thường, tỏ vẻ dớn giác đến nỗi không thể tụng kinh, gõ mõ được. Bần ni thấy kỳ lạ, dò hỏi, nó cho biết khi nghe thấy tiếng tiêu, có cảm tưởng như quen thuộc với tiêu khúc. Nó có thể đoán biết âm điệu và ký âm của từng đoản khúc mà thí chủ chưa thổi đến. Nếu không có gì khó khăn, xin thí chủ vui lòng nói rõ hơn về tiêu phổ đó cho bần ni hiểu được không?
Khanh cũng chẳng dấu diếm, kể rõ tất cả những gì đã xẩy ra trong lần tao ngộ với Tố Vân vừa qua. Nghe xong vị sư bà trầm lặng một hồi lâu ra chiều suy nghĩ, buông tiếng thở dài mà nói với Khanh:
-Âu cũng là một tình nghiệp đã có giữa thí chủ và đệ tử của bần ni. Bần ni cũng xin kể thí chủ nghe những dữ kiện liên quan đến câu chuyện của thí chủ vừa qua.
Sư bà cho biết, hơn 18 năm về trước, gặp lúc loạn lạc, dân tình đói khổ, chết chóc đầy đường. Lúc đó Sư bà còn ở tuổi trung niên, một lần đi hành đạo lên phía bắc. Trên đường sư bà bắt gặp một đứa bé gái khoảng 2 tuổi, ốm giơ xương chỉ còn thoi thóp thở nằm bên cạnh bà mẹ đã chết từ lâu. Thương tình đứa trẻ côi cút, sư bà đem về chùa nuôi dưỡng sau khi chôn cất người mẹ.Vì không biết gốc gác đứa bé, sư bà nhận nó làm con nuôi và đặt tên là Hà Thục Quyên, theo họ Hà của mình. Sau đó sư bà cho đứa bé qui y với pháp hiệu là Diệu Hạnh cho đến ngày nay. Diệu Hạnh càng lớn càng xinh đẹp và rất thông minh, học đạo cũng như hành đạo đều vượt xa các đệ tử khác của sư bà.
Cách đây khoảng nửa năm, không biết vì sao Diệu Hạnh thình lình bị một trận ốm rất nặng, rồi mê man không còn hơi thở nữa! Sư bà đã nghĩ đến việc ma chay, nhưng không hiểu sao chỉ vài khắc đồng hồ sau, Diệu Hạnh tự nhiên sống lại, dần dần hồi tỉnh và khỏe mạnh như thường. Sau lần ốm chết đó, bản chất của Diệu Hạnh chẳng có gì thay đổi, việc tu đạo vẫn như bình thường. Nhưng khả năng về âm thanh có phần sắc bén hơn, phân biệt rất chính xác âm độ của từng tiếng chim hót. Khi gõ mõ cũng tạo được nhịp điệu, âm vang rất hoà hợp với tiếng tụng kinh làm cho người nghe như bị trầm lắng hoà quyện vào tiếng mõ, tâm hồn như được lâng lâng, thanh thản.
Bất thình lình hôm nay, khi nghe tiếng tiêu của Khanh, Diệu Hạnh không thể nào tập trung được nữa, tiếng gõ mõ và cầu kinh không còn ăn khớp với nhau, sự hoà nhập bị xáo trộn. Sư bà thấy kỳ lạ hỏi han và hiểu nguyên do bởi tiếng tiêu mới sai tiểu ni cô ra mời Khanh vào để biết nguyên nhân.

Kể cho Khanh nghe xong, sư bà sai cô tiểu ni gọi Diệu Hạnh ra. Khanh thẩn thờ khi nhìn thấy Diệu Hạnh, mặc dù trong bộ áo nữ tu mầu xám tro đơn giản nhưng cũng không dấu được nét đẹp kinh hồn của một nữ lang. Hình dung giống y hệt Tố Vân từ khóe mắt hiền hậu, đến đôi môi mọng đỏ trên khuôn mặt trắng hình trái xoan... Diệu Hạnh cũng nhìn Khanh trong vẻ ngơ ngác như tìm thấy nét quen biết nào đó trong ký ức!
Sư bà im lặng quan sát sắc diện khác thường của người nữ đệ tử và người khách thổi tiêu. Bà đã cảm nhận được câu truyện của Khanh là sự thật, sự thật liên quan đến nghiệp duyên của người đệ tử của mình. Sư bà điềm đạm hỏi nhỏ Diệu Hạnh:
-Con có nhận ra thí chủ này không? Người quen của con đó.
Diệu Hạnh hơi chau mày ra vẻ không chắc mà trả lời:
-Thưa thầy, con cảm thấy ngờ ngợ như đã quen biết thí chú này ở đâu đó thì phải? Nhưng điều này hoàn toàn không thể có được vì ngoài việc tu đạo ở chùa, con chưa bao giờ du hành đâu xa hay quen biết ai mà thầy không biết.
Nghe Diệu Hạnh nói, sư bà ngẫm nghĩ tí chút rồi ra dấu cho Diệu Hạnh ngồi xuống bên cạnh:
-Ta tin con, nhưng tất cả không thoát ra khỏi chữ duyên được. Ta vừa nghe thí chủ đây nói về chữ duyên đó, liên hệ đến chữ nghiệp của đời con.
Nói xong sư bà lần lượt kể tất cả những gì mà Khanh vừa kể cho bà ta nghe. Sau đó bà kết luận:
-Diệu Hạnh con, từ nay con sẽ trở về với cái tên gọi của trần thế Hà Thục Quyên mà ta đã đặt cho con hơn 18 năm về trước. Cũng từ hôm nay con phải trở về đường đời cùng thí chủ đây để cho trọn chữ duyên tình mà cái nghiệp của đời con đã xếp đặt.
Nghe sư phụ nói thế, Diệu Hạnh khóc mà thưa rằng:
-Thưa sư phụ hãy nghĩ lại cho con, đã hơn 18 năm qua với sự chỉ dậy của sư phụ trong đường tu đạo, con đã tìm thấy niềm vui trong Phật pháp. Thêm vào đó chính sự sống của con cũng do sự phụ mà có được. Con không muốn rời xa sư phụ, làm dang dở con đường mà con từng tâm niệm nó đã được thành hình từ những kỳ duyên may mắn trong đời con…
Sư bà nở nụ cười hoà ái, ngắt lời:
-Diệu Hạnh, con là người đệ tử thông minh nhất mà ta đã dậy dỗ, thương yêu. Con lại là đứa con nuôi mà ta dưỡng dục từ ngày con còn ẵm bế. Ta mãi mãi là người mẹ nuôi yêu quý con, Phật cũng mãi mãi mở cửa nhận con là Phật tử, nhưng từ nay chỉ đổi thay hình thức mà thôi. Phật duyên của con với Phật pháp, nhân duyên giữa con và ta trong đường tu đạo đã được biến đổi sang một cái duyên khác, đưa con trở lại với cuộc sống bình thường của nhân gian. Con không thể miễn cưỡng mà đi ngược lại được vì nó là cái duyên tiền nghiệp của con.
Dừng lại tí chút, sư bà nói tiếp:
-Con hãy nghe ta mà chấp nhận, bất cứ lúc nào con cũng có thể đến đây thăm viếng chùa như là một Phật tử, thăm viếng ta như đứa con mà ta yêu thương.
Không lâu sau đó người ta thấy một cặp vợ chồng trẻ đem bán túi vàng bạc cùng với xấp ngân phiếu lấy tiền giúp trùng tu chùa Pháp Minh. Xây dựng cho chùa mấy dẫy nhà dưỡng tế để nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người già đơn độc không nơi nương tựa. Ngoài ra còn mua nhiều ruộng vườn từ những người dân chung quanh tặng cho chùa để làm cơ sở sinh lợi dành cho việc điều hành cứu tế.
Ở phủ Kiến An, vị quan đầu phủ họ Biên vui mừng tìm được một cặp vợ chồng làm dưỡng tử để nương tựa khi về già. Đặc biệt người vợ có hình dung giống y hệt cô con gái vắn số của họ Biên xưa kia, chỉ khác là người con gái nuôi này không đi cà nhắc và cặp mắt rất hoan lạc không buồn như cô con gái vắn số ngày xưa. -/-
Hết
10. Tống Tiểu Kiên
Tống Tiểu Kiên người tỉnh Hà Trung, miền bắc nước Âu Việt dòng dõi khoa bảng ông nội làm đến chức Thái Phó, giúp Thái Sư và nhà vua điều hành khối quan văn trong triều. Đến đời cha, đã có phần suy sút chỉ đạt đến chức quan Thị Lang rồi thời thế loạn lạc xin về ở ẩn, dậy học kiếm sống. Sang đời Tống Tiểu Kiên dù không còn thế lực như cha ông nhưng gia sản, ruộng vườn vẫn thẳng cánh cò bay, thuộc hàng khá giả trong xã hội.
Kiên là con trai út trong 4 anh chị em, vừa tuổi 20, vẻ người đẹp đẽ, ăn nói có duyên lại có tài thơ văn, nhưng không muốn tiến thân trong giới khoa bảng như cha ông, chỉ lấy xong bằng tú tài rồi bỏ ngang việc học. Phần lớn thời gian dành cho việc kết bạn, du lịch thăm quan đây đó không màng đến danh vọng, tiền bạc. Song thân và anh chị khuyên nhủ mãi chẳng được, nhiều lần tìm mối mai mong Kiên có vợ con, gia đình mà lo làm ăn. Nhưng cũng chẳng kết quả, mọi người chán nản đành bịt mắt làm ngơ cho Kiên tự do sống theo sở thích.
Một hôm vào mùa xuân, khí tiết ấm áp Kiên khoác ba lô một mình lên Hà Khẩu, tỉnh lỵ miền cao nguyên, toàn là núi đồi, phía bắc Hà Trung rong chơi. Tạm trú tại một khách điếm khá bề thế nằm sát sườn núi để tiện cho việc di dạo, tối trở về, hoà mình với khách trọ tứ phương đổ đến cùng ăn uống, kể lể chuyện giang hồ của những kẻ lãng du. Hôm đó Kiên cùng với 4 người khách, chén chú chén bác, nói chuyện về đủ mọi đề tài, từ món ăn, loại rượu đến những phong cảnh thiên nhiên… rồi đề tài về ma quái được mọi người nói đến.
Có người cho biết đã từng gặp ma nữ xinh đẹp rồi bị vướng vào lưới tình mà khốn khổ nhiều năm. Có người thì lạc vào rừng sâu đang lúc lo lắng, đói ăn lại được người đẹp hồ ly cứu giúp, sống với nhau như vợ chồng rồi nhớ cha mẹ, anh em mà bỏ về để rồi tiếc nuối, đi tìm lại thì chỉ còn là dấu tích hoang vu rừng núi. Người khác thì lang thang trong lễ hội, vô tình gặp giai nhân, trở về nhà ốm o, khốn khổ vì tương tư, đang lúc hấp hối thì giai nhân xuất hiện, và cuộc tình yêu lãng mạn khởi đầu, khi hết duyên phận giai nhân buông bỏ rời xa mà chán nản buồn đau!
Ngồi nghe các bạn bốn phương kể lể, chẳng biết đúng sai ra sao, hay chỉ là những câu truyện, tưởng tượng làm vui bạn giang hồ? Cũng có thể người phiêu lãng muốn nhét vào cuộc đời lang bạt của mình một vài sắc mầu lãng mạn, tô điểm cho cuộc sống làm say mê những những ai ôm mộng hải hồ mong được đi gió về mây. Trong tâm trạng có chút nghi ngờ nhưng cũng mang đầy cảm giác thích thú, Kiên nói với họ rằng:
-Chẳng biết những câu truyện của các vị đúng sai ra sao, nhưng nói rất thật là mỗ ước ao có dịp may nào đó được diện kiến người tình nhuốm đầy liễu trai để trọn vẹn thú lang thang. Hân hạnh hơn nữa nếu được làm tình, được yêu đương si đắm một giai nhân. Dù nàng là tiên nữ lạc lối xuống trần mà quên đường về, là ma quái xinh đẹp hiện hồn vì thương nhớ nhân gian hay ma mị hơn nữa là hồ ly tinh tu luyện thành người để được nhấn mình vào lãng mạn của tình yêu..v..v.. Tất cả với mỗ là những mong chờ, ước vọng vậy.
Thấy các bạn giang hồ im lặng, Kiên nói tiếp:
-Tóm lại, với mỗ thì may mà gặp được giai nhân dù có là ma hiện hình, là hồ ly tinh tu luyện thành người hay là tiên nữ giáng phàm… vẫn là những cuộc hôi ngộ tuyệt vời đáng trân trọng. Cũng theo mỗ cuộc hội ngô đó đẹp hay xấu, đơn sơ hay lãng mạn, tuỳ thuộc vào cá nhân mình mà thôi. Riêng với mỗ, mỗ tin rằng mình sẽ tìm được niềm vui nếu có kỳ tích để gặp gỡ giai nhân. Bất cứ ai trong quý vị nếu biết rõ đường đi, lối bước xin chỉ dẫn cho mỗ, cám ơn lắm thay. Biết đâu nhờ đó mà mỗ gặp được kỳ tích, thì hạnh phúc biết bao.
Rồi cuộc chuyện trò cứ thế mà tiếp diễn cho đến khuya, mọi người chia tay. Kiên là người cuối cùng định đứng lên, rời bàn đi ngủ. Không biết từ đâu một lão nhân, tóc hoa râm dáng vẻ thanh thoát trong bộ quần áo bằng gấm quý phái đến gần Kiên, miệng nở nụ cười rất dễ mến, mà nói:
-Công tử đã buồn ngủ rồi sao?
Chẳng chú ý đến thái độ ngạc nhiên của Kiên, lão nhân thân thiện nói tiếp:
-Bổn lão ngồi góc bên kia nghe lời bàn luận chân tình của công tử mà thích thú, muốn giúp công tử tìm đường đến kỳ tích tình yêu đây. Công tử có muốn nghe không?
Nghe ông lão nói, Kiên tưởng là lời nói đùa, nhưng nhìn kỹ thái độ nghiêm nghị của lão, Kiên lễ độ trả lời:
-Thật ư? xin cho biết tôn danh, vãn bối đang vểnh tai, sung sướng mà chờ sự chỉ dẫn của lão đây.
Lão ông cho biết họ Hồ tên Nam, cư dân địa phương, vô tình vào khách điếm mà nghe được cuộc đàm thoại của Kiên và khách giang hồ, cám mến cá tánh khoáng đại, nhiễm mầu lãng mạn của Kiên mà muốn giúp đỡ. Rồi ông lão lấy giấy bút ra vẽ từng chi tiết con đường, hướng đi cho Kiên nếu có ý định muốn gặp những gì mà Kiên mong muốn. Sau khi chỉ dẫn Kiên rất tỉ mỷ, Hồ lão vui vẻ mà nói:
-Công tử cứ theo chỉ dẫn của lão mà đi, lão hy vọng công tử sẽ có được những điều mà công tử ước ao. Nếu nhờ lão mà công tử có được duyên kỳ ngộ nhớ đừng quên trả ơn lão hủ này nhe.
Nói xong, chẳng cần để cho Kiên hỏi thêm hay ngỏ lời cám ơn, Hồ lão vẫy tay từ giã bước ra khỏi khách điếm, hoà nhập vào bóng đêm đi mất. Sáng sớm hôm sau, ăn vội bữa điểm tâm, nhờ khách điếm làm cho một phần cơm hộp rồi theo chỉ dẫn mà theo con đường mòn dẫn vào dẫy núi.
Cứ vậy, đi mãi len lỏi vào những con đường mòn ngoằn ngèo trong khu rừng đúng như chỉ dẫn. Đến trưa có tí mệt mỏi, Kiên tìm một lùm cây bên đường định ngồi nghỉ, ăn cơm, ngẫu nhiên nhìn ra con đường mòn, xa xa thấy một nữ nhân choàng chiếc khăn đỏ, đẹp tựa tiên nga, đang đi trên đường vừa nhún nhẩy vừa hát như đang vui thú điều gì. Sau một thoáng ngẩn ngơ, đờ đẫn vì sắc đẹp ma mị của nữ nhân, Kiên đứng dậy, vội vàng ra khỏi lùm cây, bỏ cả hộp cơm lại mà chạy hướng đến người đẹp. Có lẽ tiếng động của Kiên làm cho nữ nhân phát hiện, người đẹp im ngay tiếng hát rồi chạy nhanh vào bụi cây phía bên kia con đường. Kiên chạy đến vừa lục xục những lùm cây bên đường vừa ơi ới gọi người đẹp nhưng hoàn toàn im lặng. Được một lúc, tìm kiếm vô vọng, biết giai nhân không muốn gặp mình mà trốn tránh nên chỉ biết ngẩn ngơ trở lại lùm cây nghỉ mệt, ăn cơm xong rồi lại tiếp tục theo chỉ dẫn của Hồ lão mà đi tiếp.
Đi được một lúc, mặt trời đã hơi ngả về Tây thì đến một xóm nho nhỏ nằm sát chân núi, có khoảng hơn mười căn nhà, đại loại khá giống nhau. Theo lời dặn của Hồ Lão thì căn nhà khang trang nhất ở giữa xóm là nơi Kiên phải đến, xin ra mắt làm quen với chủ nhân, chắc chắn sẽ có những kỳ ngộ. Đứng nhìn kỹ căn nhà một chút rồi Kiên cất tiếng gọi:
-Có ai trong nhà không?
Chờ một lúc, một phụ nhân khá lớn tuổi, trang phục thô sơ ra vẻ nô gia chậm rãi đi ra nhìn Kiên mà hỏi:
-Khách là ai? đến đây có việc gì?
Đáp:
-Bản mỗ là Tiểu Kiên, qua giới thiệu của Hồ Nam lão gia, xin đến để thỉnh an Hồ phu nhân đây.
Đưa mắt nhìn kỹ Tiểu Kiên, với tí ngậm ngừng, phụ nhân trả lời:
-Khách muốn gặp Hồ phu nhân nào? Nếu là Hồ Tam phu nhân thì bà không có nhà xin khách trở về lần sau trở lại…
Bà ta đang định nói tiếp thì từ trong nhà một phụ nhân tuổi khoảng 50, dáng vẻ sang trọng đi ra, đưa mắt nhìn Kiên rồi ra lệnh cho nô phụ:
-Cao bà, mở cửa cho khách, đừng vô lễ!
Theo Cao lão bà vào nhà, chưa kịp nói lời chào, phụ nhân sang trọng hơi chau mày nhìn Kiên mà hỏi:
-Công tử quen biết thế nào với Hồ Nam hiền đệ của ta? Mà công tử muốn gặp ta có việc gì?
Tiểu Kiên nói rõ tên họ và cuộc gặp mặt thoáng qua của mình với Nam lão, rồi cũng chẳng giấu giếm gì về mục đích của cuộc du hành mà đến đây. Phụ nhân hơi chau mày đưa mắt quan sát Tiểu Kiên một lúc rồi mỉm cười ra vẻ thích thú:
-Nhị đệ của ta lại muốn tìm chồng cho nữ nội điệt đây!
Lại quét mắt ngắm nhìn Kiên kỹ lưỡng hơn, phụ nhân tươi cười, nói tiếp:
-Không hề tệ tí nào! vóc sáng xinh đẹp, ăn nói chững chạc, rất xứng đôi với cô cháu gái xinh đẹp của ta.
Nghe phụ nhân khen, Kiên luôn mồm cảm tạ. Chủ nhân quay sang phía Cao lão mà nói:
-Ngươi vào lo việc cơm núc để đãi cháu rể tương lai của ta. Cũng vào trong nói với con Yến Hoa phấn son cho đẹp đẽ mà ra mắt phu quân tương lai.
Khi Cao lão bà đi vào trong, Chủ nhân mới tuần tự kể lể cho Kiên nghe về gia cảnh, gốc nguồn họ Hồ nhà bà, vốn dĩ là giống Cáo, nhờ tu luyện mà thành người. Song thân đã mất từ lâu khi chị em bà còn bé. Bà là trưởng nữ, danh tự là Hồ Đại Cô, phu quân của bà mất năm vừa rồi, bà có 2 con trai đã thành thân hiện đang sống ở một tỉnh cực nam xứ Âu Việt. Vì không hợp với phong thổ nóng ấm phương nam nên bà sống nơi đây cùng với người em gái tên gọi là Hồ Tam Cô. Hồ Tam có 2 người con gái sinh đôi, vừa đúng 17 tuổi, giống nhau như hai giọt nước, chị tên là Hồ Yến Vân, em là Hồ Yến Hoa. Mấy ngày trước Yến Vân theo mẹ xuống miền Nam thăm gia đình cháu trai nên ở nhà chỉ có em gái Yến Hoa. Đại phu nhân còn có người em trai tên Hồ Nam, mà Tiểu Kiên gặp trong khách điếm, người đã chỉ dẫn đường cho Kiên đến với gia đình họ Hồ vậy.
Sau khi kể hết tất cả cội nguồn và thành phần của đại gia đình, Hồ Đại phu nhân nhìn Kiên mà hỏi:
-Sau khi ngươi biết rõ cội nguồn Cáo Hồ của gia đình ta, ngươi có còn can đảm làm bạn với giống nòi Cáo và kết nghĩa phu thê với con cháu gái xinh đẹp của ta không?
Chẳng cần suy nghĩ, Kiên mạnh mẽ trả lời:
-Có gì mà phải sợ?! Đó không phải là mong ước của vãn bối ư? Vãn bối đang chờ xem phẩm hạnh và nhan sắc cô cháu gái của phu nhân đây!
Hồ phu nhân cười vui thành tiếng mà nói:
-Cái đó thì ngươi khỏi cần lo lắng cho mệt. Cháu gái của ta nếu xét về phẩm hạnh cũng thuộc hàng khó kiếm. Còn về nhan sắc, nếu đứng bên Điêu Thuyền, Chiêu Quân, chắc cũng không thua kém mà còn có phần hơn là khác. Ta nghĩ cậu em Hồ Nam của ta cũng không ngu dại gì mà vẽ chuyện, chỉ đường cho ngươi đến đây đâu.
Nghe Hồ phu nhân tôn vinh cô cháu gái của mình, làm Kiên xốn xang muốn được gặp ngay người đẹp để biết đúng sai. Đúng lúc đó cửa phía sau của căn phòng mở ra, một nữ nhân quàng khăn đỏ, đẹp tựa Hằng Nga với vẻ rụt rè nép sát bên Cao lão bà bước vào đại sảnh. Vừa nhìn thấy nhau Kiên và nữ nhân ra vẻ hoảng hốt. Kiên chưa kịp nói gì thì người đẹp đã chỉ tay về hướng Kiên mà hét:
-Ra là ngươi! Tên vũ phu, dâm dật! nếu ta không nhanh chân mà chạy thoát thì đã bị ngươi làm nhục rồi.
Kiên vội đáp:
-Ơ kìa, ta đã đụng chạm gì đến nàng đâu mà nàng dám nói oan cho ta như vậy?!
Hồ Đại phu nhân ban đẩu có chút ngẩn ngơ không hiểu, nhưng qua vài lởi đối đáp của 2 đứa trẻ, bà đã đoán ra được phần nào vấn đề. Cười to ra vẻ thích thú, bước đến nắm tay cô cháu gái, vỗ về vài cái ra vẻ cảm thông, bà nói:
-À, thì ra hai đứa đã gặp nhau rồi! Hãy kể tường tận cho ta nghe để ta giải quyết cho! Đúng là số phận vậy.
Thế là chỉ qua vài lời khuyên can, hoà giải của Đại phu nhân, mọi chuyện yên lành. Cả hai liếc mắt đưa tình ra chiều thích thú, vừa lòng nhau lắm rồi. Cuối cùng Yến Hoa chỉ ngón tay vào trán Kiên mà nói:
-Khiếp thật, bề ngoài có vẻ đạo mạo, thư sinh nhưng dữ dằn như quỉ sứ! Làm cho người ta sợ hãi mà chạy muốn rơi cả tim ra khỏi lồng ngực.
Cũng chẳng ngại ngần, trước mặt Đại phu nhân và Cao lão bà, Kiên vòng tay kéo sát người đẹp vào lòng mình hôn nhẹ lên mặt, mà nói:
-Cũng may, nàng nhanh chân mà chạy thoát, chứ nếu ta mà bắt được lúc đó, thì nàng có còn nguyên vẹn mà về nhà không?
Hồ Đại phu nhân nhìn cháu gái cười thành tiếng mà nói:
-Lâu nay ta cứ nghĩ mi là đứa con nít, chẳng biết gì, nhưng hôm nay thì nhìn thấy rõ rồi, cũng là một “ nữ quái” đây! Thôi có mau bỏ nhau ra mà lo cho bữa ăn mừng, ta đói lắm rồi!
Thế là mọi chuyện xẩy ra chẳng có gì hoàn hảo hơn. Kiên và giai nhân cứ xoắn lấy nhau ra chiều mê mệt lắm rồi. Sau bữa cơm, Đại phu nhân nhẩm tính ngày tháng tốt, nói với Kiên:

-Việc cưới hỏi, ngươi không cần phải lo. Ta đứng ra chủ trì được tất cả. Theo ta thì vào cuối mùa xuân này rất tốt cho việc cưới hỏi. Tính ra đến ngày đó còn khoảng hơn 2 tháng nữa, ngay ngày mai ngươi hãy trở về tâu trình với song thân ngươi đem trầu cau dạm hỏi rồi làm lễ rước con cháu yêu của ta về nhà ngươi, thế là ổn. Chắc khoảng vài ba ngày nữa Hồ Tam mẹ vợ tương lai của ngươi, cũng là em gái của ta cùng với Yến Vân chị vợ tương lai của ngươi sẽ trở về đây để chờ ngươi và gia đình đến lo việc cưới xin đó. Hãy làm cho mau, chẳng nên rườm rà lại sinh ra rắc rối..
Sáng sớm hôm sau, đúng như lời dặn của Đại phu nhân, Kiên nói vài lời từ giã mọi người, không quên ôm hôn từ giã mỹ nhân rồi trở về Hà Trung bàn luận với song thân và anh chị tính toán ngày cưới xin như Đại phu nhân ấn định. Khi nghe cậu quý tử tỏ ý muốn lấy vợ, mọi người trong gia đình Kiên có phần ngạc nhiên nhưng cũng rất vui, nhất là song thân ngỡ ngàng, sung sướng vì thấy quý tử đã chịu dừng bước lãng du, điều mà mọi người mong đợi từ lâu.
Chỉ sau khoảng mươi ngày, mọi chuyện chuẩn bị cho việc cưới xin đã xong, chỉ chờ ngày dẫn cha mẹ đi dạm hỏi và rước dâu nữa là xong. Hàng ngày đi ra đi vào mong chờ cho chóng đến ngày cưới. Thời gian chờ đợi lê thê, Kiên đã có phần nhớ mong người đẹp. Chịu không được Kiên thu xếp khăn gói lên đường đi thăm người đẹp. Rồi cũng theo con đường cũ Kiên tìm đến con xóm nhỏ sát chân núi, nơi cư trú của ý trung nhân. Khi đến nơi, phong cảnh xóm nhỏ với hơn chục căn nhà trước đây hoàn toàn biến mất, thay bằng cảnh tượng hoang tàn với đất đá, cây rừng gẫy đổ từ triền núi đổ xuống, chứng tỏ nơi đây vừa xẩy ra một trận lở đất kinh hoàng. Kiên lục xục chung quanh tìm người hỏi thăm, khi đến một ngôi miếu thờ gần đó được người quản sự cho biết thiên tai xẩy ra đúng một tuần lễ trước. Hôm đó trời mưa như trút nước, kéo dài suốt ngày đêm, nước lũ từ núi đổ xuống kéo theo đất đá, cây cối phủ trùm lên hơn chục căn nhà phiá dưới, nằm sát chân núi. Mọi người đang trong giấc ngủ nên không một ai trốn thoát được. Sáng hôm sau, dân cư quanh vùng đến thu dọn đào bới mong tìm kẻ sống sót nhưng không tìm thấy một thi thể người nào, mà chỉ thấy hơn hai chục xác cáo, lớn nhỏ khác nhau. Lúc đó mọi người mới biết khu nhà là quần thể sinh sống của giống cáo đã tu luyện thành người. Dù biết là người gốc cáo nhưng dân địa phương vẫn thu gom tất cả xác cáo chết đem đi hoả thiêu đúng nghi lễ như dành cho con người.
Kiên như người mất hồn khi nghe xong lời kể của người quản sự đền, nói lời cám ơn từ giã ông ta rồi trở lại khách điếm, nơi đã gặp lão Hồ Nam mong tìm được tin vui nào từ lão ta, nhưng hàng xóm cho biết Hồ lão mấy ngày trước đã rời xa và chẳng ai biết lão đi đâu. Chẳng còn cách nào hơn, Kiên trở về nhà báo tin cho gia đình biết chuyện cưới xin coi như không thành vì toàn gia bên nhà gái đã bị thiên tai mà chết, rồi buồn rầu suốt ngày than vắn, thở dài, bỏ ăn, bỏ ngủ. Mọi người trong gia đình Kiên, nhất là song thân thấy sức khoẻ của quý tử càng lúc càng sa sút đã tìm đủ mọi cách khuyên nhủ, nhưng tất cả đều vô ích. Cuối cùng thấy sinh mạng quý tử có phần nguy hiểm. Theo lời chỉ dẫn đến các kỹ viện danh tiếng trong tỉnh tìm những kỹ nữ nổi danh tài sắc, khéo chiều chuộng nam nhân đến săn sóc, làm vui, khuyên răn mong quý tử quên đi người đẹp bất hạnh mà ăn uống nhưng cũng chẳng tác dụng gì. Mùa hè gần qua, đúng vào ngày lễ hội của địa phương, song thân nghĩ nên cho quý tử ra ngoài ngắm nhìn nhân gian lần cuối trước khi về với tổ tiên. Song thân sai hai nô gia đẩy xe cho quí tử xuống phố trước là để tìm vui cho quý tử sau là để giải nhiệt của mùa hè nóng bức.
Ngồi trong xe đẩy, qua khung cửa, bâng quơ nhìn người khách du xuân bên ngoài, bất thình lình Kiên giật mình khi nhìn thấy một nữ nhân quàng chiếc khăn đỏ, dáng dấp đúng như Yến Hoa. Dù nghi ngờ nhưng Kiên cũng thúc dục người đẩy xe nhanh hơn để bắt kịp nữ nhân, khi đến sát bên nữ nhân, nhìn kỹ hơn. Kiên không còn nghi ngờ thị giác của mình nữa. Đúng là người đẹp trong mộng, mà mình nghĩ đã chết trong thiên tai vừa qua, quá vui mừng kiên thò hẳn đầu ra khỏi xe mà hét lên:
-Yến Hoa, nàng đấy sao?Nàng quá vô tình mà ruồng bỏ ta sao?Hãy thương cho kẻ si tình này mà đến với ta.
Nữ nhân giật mình khi nghe lời than van như hét của Kiên, quay lại giương mắt nhìn ra vẻ xa lạ, không hiểu, hơi chau mày tí chút nữ nhân vôi vàng bỏ chạy, lẫn vào đám đông. Kiên như một kẻ điên, vừa hét, vừa la bắt người đẩy xe chay theo. Nhưng làm sao mà xe đẩy lòn lách nhanh bằng nữ nhân giữ phố đông người, cuối cùng hai người nô bộc đành thất vọng đứng lại thở dốc vì mệt và không biết giai nhân biến đi đâu.
Cuộc gặp mặt ngẫu nhiên đã cho Kiên tin là Yến Hoa,người mình yêu thương vẫn còn sống chung quanh đây, nhưng vì lý do nào không muốn gặp lại mình mà thôi. Với ý nghĩ như vậy, bệnh tình càng nặng hơn. Đứng trước sự chết sống của quí tử, song thân đã phải phác hoạ chân dung nữ nhân quàng khăn đỏ, mô tả tình trạng nguy kịch bệnh tình của Kiên, mong chờ nữ nhân đoái thương mà cứu giúp rồi đem dán khắp mọi nơi trong địa phương.
Mấy ngày trôi qua vẫn im lặng, Kiên thì vẫn nửa mê, nửa tỉnh, than khóc, kêu tên Yến Hoa như một kẻ cuồng điên. Bất chợt vào khoảng giữa trưa, từ trên chiếc một xe ngựa kéo, hai nữ nhân giống nhau như 2 giọt nước, cùng khoác chiếc khăn đỏ cùng bước xuống xe. Hai người đẹp không chào hỏi ai, bước vào nắm bàn tay Kiên. Một nữ nhân khóc mà nói:
-Chàng đã vì thiếp mà thê thảm đến thế sao? chị em thiếp nguyện sẽ vì mối tình thâm sâu của chàng mà chăm sóc, mong chàng tha thứ cho thiếp.
Mở mắt nhìn thấy người đẹp, như có một liều thuốc kích thích, Kiên mừng rỡ mà nói:
-Yến Hoa, nàng đến với ta đó sao? Xin hãy hiểu tình của ta mà đừng ruồng rẫy!
Tiếp theo là những lời ngọt ngào, nhớ thương. Đến một lúc Kiên ngẩn ngơ hướng mắt về nữ nhân thứ hai, đang im lặng nhìn mình và Yến Hoa, mà hỏi:
-Nàng là ai? Không lẽ lại có người giống người đến thế sao?
Yến Hoa trả lời:
-Đó là chị song sinh Yến Vân của thiếp đó! Hai chị em thiếp giống nhau không những giống về hình thái mà cả về cá tính, lời nói, dáng điệu… ngay cha mẹ, chú bác của thiếp đôi khi còn nhầm lẫn. Người mà chàng đã gặp trên phố vừa quá đó.
Yến Hoa cho biết vào đêm xẩy ra thiên tai chùi đất, hai chị em nhờ đi thăm bá phụ Hồ Nam rồi ngủ lại qua đêm mà thoát chết. Hai chị em không có chỗ dung thân nên phải theo bá phụ đi xuống miền Nam mong tìm Kiên và gia đình để báo tin việc cưới xin không thể làm theo như dự tính được. Nhưng vì cả 3 bác cháu không biết chính xác địa chỉ mà chỉ biết Đại Kiên người Hà Trung, xứ Nam Việt thuộc hướng Nam. Suốt nhiều tháng qua chỉ biết quanh quẩn khắp tỉnh Hà Trung mong tìm được Đại Kiên, nhưng vẫn chẳng kết quả. Cho đến mấy ngày trước, đang lúc đi dạo, Yến Vân ngẫu nhiên vô tình gặp Kiên, nhưng đã giật mình, hoảng sợ vì thái độ hung hãn, dữ tợn của Kiên khi nhìn thấy mình. Tưởng đã gặp phải kẻ điên khùng nên lo sợ mà bỏ chạy. Khi chạy thoát về nhà, kể lại cho em gái nghe, Yến Hoa có vẻ nghi ngờ người mà chị mình cho là điên khùng chính là Kiên, người mà mọi người đang muốn gặp. Suốt mấy ngày qua, hai chị em cùng bá phụ chia nhau đi tìm, rồi nhờ những bức hoạ chân dung của gia đình Kiên dán khắp đường phố mà tìm được nhau.
Đứng im lặng nhìn và nghe cô em gái và Kiên nói chuyện, sau khi mọi chuyện đã thông suốt, Yến Vân đưa tay vuốt má Kiên, cười thành tiếng mà hỏi:
-Bây giờ thì rõ ràng rồi, có còn để mắt đến cô chị này nữa hay không?
Chẳng để cho Kiên trả lời, Yến Hoa đưa tay khoác vai chị, kéo sát vào mình mà nói:
-Chẳng có gì khác biệt giữa chị em chúng mình cả. Chị em chúng ta sẽ thay phiên nhau săn sóc cho chàng mau chóng khỏi để cùng sống với nhau.
Từ hôm đó hai mỹ nhân thay nhau chăm nom, săn sóc cho Kiên, chỉ sau một tuần lễ Kiên đã khoẻ lại bình thường. Không lâu sau đó một đám cưới được tổ chức, rất đơn giản về thủ tục nhưng lại rất đặc biệt, khác thường về việc chú rể rước cùng lúc 2 cô dâu. Bên nhà trai thì ồn ào đông đúc vui mừng vì chú rể đã trở lại vui tươi khoẻ mạnh, đã thế còn đem về 2 nàng dâu xinh đẹp như tiên nữ giáng trần. Bên nhà gái chỉ duy nhất có duy nhất một người là bá phụ Hồ Nam, nhưng cũng chẳng phút nào không có cười vui. Thêm một điều đáng nói khác đó là, 2 cô dâu giống nhau như cùng khuôn đúc,không dễ dàng phân biệt chị em, để tránh rắc rối cho đại gia đình, bạn bè và cả giới gia nô, song thân của Kiên đã phải thêu vào tay áo của của 2 cô con dâu xinh đẹp, chữ Vân cho vô dâu chị, chữ Hoa cho cô dâu em.
Thành gia thất được hơn một năm Yến Vân sinh con trai, Yến Hoa sinh con gái, hạnh phúc gia đình không dừng lại ở đó, ba năm tiếp theo Vân sinh thêm con trai thứ 2, Hoa cũng chẳng kém, vượt qua mặt chị, sinh đôi 2 con gái. Yến Vân tài năng trong buôn bán, giao tế trên thương trường còn Yến Hoa lại tuyệt tài trong nấu nướng, giáo dục các con lo phần nội trợ. Chính nhờ sự hoà thuận và tài năng bổ túc cho nhau đó, Kiên đã dựa vào tài sản có sẵn ruộng vườn nhà cửa của song thân mà bước vào thương mại, chỉ sau 5, 6 năm đã trở thành một phú gia tên tuổi khắp Âu Việt. Đúng là phúc đức vậy.
11. Hồng Tố Hoa
Vài lời khai lộ:
Hàng năm vào khoảng đầu xuân cho đến khoảng cuối thu ( tháng 3 đến tháng 10 âm lịch ) khu vườn nhà tôi gần như được che phủ bởi hàng chục loại hoa hồng. Có loại hồng nguyên thuỷ xưa cũ, Đúng nghĩa hoa hồng cổ điển, loại hồng này có từ ngàn xưa và luôn luôn không thay đổi dù bị chiết ra nhiều lần.
Bên cạnh đó có những loại hoa hồng do lai tạo giống bằng kỹ thuật thay đổi genes (genes technics) mà có. Nhóm hồng lai tạo này có mầu sắc, cao lớn khác nhau, có loại thấp lè tè khoảng 50cm nhưng có loại cao lớn 5- 7m, bò khắp vách tường hay hàng dậu. Các loại hoa hồng lại tạo này thường rất đẹp, có nhiều sắc mầu và mùi thơm ngạt ngào. Nhưng bản chất của hoa hồng này thường không ổn định với thời gian. Mua về trồng, sau vài lần chiết giống hay ra hoa, có thể sau 5, 7 năm hay chục năm phát triển rất mạnh mẽ, hoa tươi sắc, mùi thơm ngạt ngào nhưng bất thình lình nó bị biến đổi ra một loại hoa hồng hoàn toàn khác, khác đến lạ lùng! Năm nay, đang là giàn hoa hồng nhung với những bông hoa hồng, cánh hoa tím xẫm, làm cho bất cứ ai ngắm nhìn mà không mang cảm giác mê si, muốn vuốt ve. Nhưng kỳ lạ làm sao! đôi lần người trồng tưởng như không tin vào thị giác của mình! Chỉ sau một mùa đông năm trước, sau thời gian yên ngủ với tuyết băng lạnh giá nó đã biến đổi thành một cây hoa hồng khác. Thân cây to lớn, đầy gai, cánh hoa đen xậm dầy mịn màng như nhung đã biến thành những nhánh hoa hồng trắng nhỏ bé xinh xinh e ấp xen lẫn vào những lùm lá xanh tươi hơn, gai nho nhỏ, mềm mại hơn.
Sự biến đổi genes kỳ lạ đó nếu là sự biến đổi toàn diện, nghĩa là giống hoa hồng nhung đen nguyên thuỷ bị biến mất hoàn toàn, cho ra những lùm hoa hồng mầu khác, nhỏ bé không đẹp như xưa và tôi thường chán nản chặt bỏ ( rất dễ hiểu vì nó đã bến đổi một nàng tiên thành ra một cô gái quê mùa hoang dã!!!)! Nhưng đôi khi, vẫn có chút ngoại trừ, nó chỉ biến đổi vài ba nhánh trong lùm hồng, lại cho tôi một điều rất thú vị! Đúng như vậy, còn gì đẹp hơn khi một nhánh hồng nhung đen tuyền xen kẽ vào đó những cánh hoa hồng trắng nho nhỏ, cành hoa ẻo lả, lá mong manh như những chấm phá làm nổi bật cái vẻ vương giả, kiêu kỳ của những cánh hồng nhung quý phái cao sang?!
Viết ra đây vài cái nhã thú trồng hoa, làm vườn, xen vào những câu văn, chữ nghĩa cái mê say của mình với những đoá hồng nhung dưới dạng thức một lối văn liễu trai cổ xưa mà nhân cách hoá, đúng ra là tiên nữ hoá một loại hoa mà tôi rất thích. Hy vọng dẫn tha nhân, bạn đọc vào cái thú của làm vườn, yêu hoa trong cái khung cảnh liễu trai của một câu truyện thần thoại vậy.
Vào truyện:
Phạm Chính Dư tự Tồn Xích, bạn hữu thường gọi là Tiêu Sanh người Định Thành. Gia cảnh chỉ thuộc giới trung lưu nhưng được nhiều người mến trọng vì dòng họ đã nhiều đời làm quan liêm chính. Tiêu Sanh là con một, dung mạo xinh đẹp, văn chương thơ phú hơn người. Vừa 18 tuổi đã đậu cử nhân song thân rất nuông chiều, cho hẳn một căn nhà riêng biệt khang trang có đầy đủ vườn hoa, giả sơn với suối nước chảy róc rách... Mùa nào cũng đầy hoa nở, hương thơm ngào ngạt khắp không gian thật là nơi trang nhã của kẻ phong lưu.
Trong vườn trồng đủ loại hoa, nhưng đặc biệt Sanh rất thích hoa hồng, thường tự cho mình và hoa hồng là tri kỷ. Bất cứ nghe đâu có giống hồng đặc biệt Sanh tìm cách đến chiêm ngưỡng, hỏi han cách trồng rồi mua cho bằng được.
Trong số hàng chục giống hồng trong vườn, có một loại hồng nhung mà Sanh mê nhất. Loại hồng này song thân đã phải trả cho một thương gia ngoại quốc nhiều lạng vàng để nhờ họ đem từ miền viễn tây về làm quà mừng đại đăng khoa của quý tử. Loại hồng nhung này hoa có đến 16 cánh hoa thay vì chỉ có 6 đến 10 như loại thường thấy trên thị trường. Ngoài vẻ mềm mại như nhung, cánh hoa còn có đặc tính thay đổi mầu sắc mà không có loại hoa hồng nào có được. Buổi bình minh cánh hoa có mầu đỏ đậm hơi nâu, mùi thơm thoáng nhẹ thấm vào khứu giác cho người ta có cảm giác lâng lâng dễ chịu. Lúc hoàng hôn, ánh nắng dìu dịu cánh hoa lại có mầu đen đậm, mùi thơm tỏa ra khắp một góc vườn. Mùi thơm của hoa không gay gắt nhưng lại làm bay hết những mùi hoa khác ở chung quanh.
Một hôm, khi ánh mặt trời sửa soạn biến mất sau dẫy núi, bầu trời đã chớm vẻ nhá nhem. Sanh vẫn còn ngây ngất với mùi hương, chưa muốn rời những bông hoa hồng mầu tím đậm đang e ấp dưới ánh nắng chói đỏ buổi hoàng hôn. Không biết vì cảm xúc quá độ với hương thơm ngào ngạt hay vì đê mê với nét đẹp cao kỳ của những cánh hoa mà Sanh lầm bầm trong miệng:
- Hồng Hoa nàng ơi, ta đã vì hương sắc của nàng mà làm kẻ si mê, sao nàng không hiện ra cho ta được chiêm ngưỡng, ái ân?
Nói xong Sanh đưa bàn tay âu yếm sờ nhẹ lên cánh hoa ra vẻ tận hưởng cái cảm giác mềm mại da thịt của giai nhân. Đúng lúc đó, không biết từ đâu một cô gái, tuổi khoảng mười bẩy, mười tám, tư dung tuyệt trần, da trắng, tóc mây, đẹp chẳng khác gì tiên nữ giáng trần. giai nhân tiến lại gần Sanh chắp tay vái chào, giọng thỏ thẻ như chim quyên buổi bình minh, thưa rằng:
- Chàng đa tình đến thế sao? Thiếp đã vì chàng mà đến với chàng đây.
Sự xuất hiện bất thình lình của cô gái, đúng vào lúc mình đang mê mẩn với sắc hoa đã làm cho Sanh đờ đẫn nhìn cô gái như kẻ mất hồn. Dù thế, Sanh vẫn còn đủ lý trí để nghĩ rằng cô gái chẳng phải là người thường, có gì thần bí trong sự xuất hiện của cô ta. Sanh mới gặng hỏi họ tên, quê quán, cô gái ỡm ờ mà đáp rằng:

- Sao chàng lại đãng trí như thế nhỉ? Vừa mới gọi tên thiếp, mà đã vội quên mất rồi sao?
Thấy Sanh vẫn chưa hiểu, cô gái đáp:
- Thiếp họ Hồng tên Tố Hoa, tỳ nữ của một vương phi trên thiên đình. Vương phi ngẫu nhiên đi qua đây nghe thấy lời than thở của chàng mà sai thiếp nhập vào bông hoa hồng nhung để xuống vun vầy với chàng đây.
Nghe cô gái nói, Sanh mừng lắm, văn chương dào dạt trong lòng, làm bừa đưa tay kéo nàng vào lòng ra chiều âu yếm mà tán rằng:
- Đấy tấm lòng lãng mạn đa tình của ta đã khiến vương phi trên thiên đình đoái thương mà làm mối nàng cho ta. Ví dù có phải chết đi sống lại chín lần để được kết nghĩa trăm năm với nàng ta cũng chẳng dám từ nan. Xin nàng hiểu lòng ta mà đừng chối từ.
Tố Hoa đưa ngón tay đẩy nhẹ vào trán Sanh, mỉm cười mà nói:
- Khiếp! Mồm mép kẻ văn chương bôi mỡ có khác. Chẳng biết mức học chàng ra sao, nhưng nghe chàng nói mà thiếp tưởng mình đang là cô gái ngây ngô, mới lớn trong một vở kịch gái quê ra tỉnh vậy.
Nghe cô gái nói thế, Sanh cũng có ý thẹn, đỏ mặt, cười gượng mà đáp:
- Nào ta có dám coi thường nàng đến thế đâu, chỉ vì yêu nàng quá đỗi mà vội vàng phát ngôn có chiều buông thả mà thôi.
Hình như nhìn thấy vẻ ngượng ngùng của Sanh vì lời bắt bẻ quá lời của mình, Tố Hoa dịu giọng:
- Thiếp có vô tình đến nỗi không hiểu rõ lòng của chàng đâu? Nhưng nói đến chữ duyên kiếp trăm năm chàng đã sai lầm lắm ru? Duyên tình của thiếp và chàng làm sao dài hơn được ba ngày kiếp sống của một bông hoa. Xin chàng hãy lấy chữ tình chân chính mà dành cho nhau để chẳng phụ lòng thiếp.
Sanh sửng sốt, nét buồn rời rợi hiện trên khuôn mặt, ôm ghì người đẹp vào lòng như sợ mất đi, mà nói:
- Không lẽ bi thảm đến thế sao?
- Đó là cái kiếp ngắn ngủi của đời hoa vậy. Chàng đừng vì quá bi quan mà quên đi cái lẽ của thiên nhiên. Dù thế nào gặp được chàng không là điều ân huệ của tạo hoá lắm ru?
Mấy ngày sau đó biết sao mà kể xiết những giây phút hoan ca bên người đẹp. Lúc thì nhạc phách, âm vang hoà điệu. Khi thì bên nhau đàm luận văn chương, ngâm nga thi phú. Cùng nhau ngắm hoa tươi nở rộ buổi bình minh, rồi thả hồn theo cánh bướm, chim bay trong nắng vàng hoàng hôn. Lúc hứng khởi cùng nhau gối chăn vần vũ, đúng là cảnh chim hồng, chim sáo hoan ca, không có một tiếng thở dài khác ý.
Vui vẻ, hạnh phúc lứa đôi như vậy, thoáng một cái đã bước sang ngày thứ ba. Mặt trời còn mãi tận xa xa hướng đông chưa vượt lên khỏi chân núi, Tố Hoa phấn son trang điểm xong, đánh thức Sanh dậy, buồn bã nước mắt đọng mi mà nói rằng:
- Lang quân ơi, giờ đã đến lúc thiếp xa chàng rồi đây!
Sanh cũng chẳng hơn gì, khóc thầm, buồn đau như đứt ruột, ghì chặt Tố Hoa vào lòng mà đáp:
- Ái thê ơi, nàng thật tình muốn bỏ ta mà đi ư? Không có cách gì để chúng ta gần được nhau nữa hay sao?
Đáp:
- Thú thực với lang quân thiếp cũng tan nát cõi lòng, nhưng đành vậy mà thôi. Vì chữ duyên mà thiếp đã may mắn gặp được chàng. Nhưng từ nay chẳng còn trinh nguyên để làm người tỳ nữ cho Vương Phi trên chốn thiên đình nữa. Chắc chắn thiếp sẽ trở lại trần gian trong kiếp người nào đó, nhưng chẳng biết có kỳ tích để chúng ta tái ngộ không?
- Nàng cho ta biết nơi nào mà nàng tái sinh để ta đến tìm gặp, nối lại duyên xưa không được sao?
Lắc đầu ra vẻ thất vọng, Tố Hoa đáp:
- Trời đất mênh mộng vô định thì biết đâu là nơi đến của kiếp sau? Tình thương yêu, nghĩa vợ chồng giữa chàng và thiếp vẫn còn nhiều, nhưng duyên vợ chồng đã hết thì đành vĩnh biệt nhau mà thôi.
Nói xong Tố Hoa quay gót định bước ra khỏi nhà, Sanh ôm ghì lấy, không muốn cho đi mà rằng:
- Ta nhất định không cho nàng đi nếu không có gì để ta có thể tìm lại nàng.
Tố Hoa cầm lòng không đặng, khóc mà nói:
- Tiêu Sanh chàng ơi, thiếp có là gỗ đá đâu mà không hiểu lòng chàng? Nhưng chuyện xa nhau không còn là chuyện cản ngăn được nữa! Tuy nhiên trước khi xa nhau, thiếp mong chàng cố gắng bình tâm mà trau dồi kinh sử, dành lấy chức vụ, làm rạng danh trong chốn nhân gian. Biết đâu nhờ tiếng tăm đó mà thiếp tìm được chàng dễ dàng hơn là tìm kẻ vô danh chui nhủi trong trần gian bao la này.
Nói xong, Tố Hoa lấy ngón tay nạy viên ngọc của chiếc nhẫn đang đeo, đưa tận tay Sanh, ân cần dặn dò:
- Lang quân hãy giữ viên ngọc này làm bằng chứng cho tình nghĩa vợ chồng chúng ta, nó cũng là kỷ vật để chúng ta nhận ra nhau khi tái ngộ. Xin chàng đừng coi thường mà làm mất!
Nói xong chẳng để cho Sanh phản ứng, Tố Hoa đẩy nhẹ chồng, lách mình qua khung cửa căn nhà mà biến mất. Sanh chạy theo mong nói vài lời giã biệt, nhưng chẳng thấy đâu. Nhìn thấy trên cành cây hồng nhung ở góc vườn, có một bông hoa héo khô rũ xuống. Biết đó là thể chất của ái thê, Sanh đưa tay định hái bông hoa héo làm kỷ vật, nhưng vừa đụng vào nụ hoa thì những cánh hoa tự nhiên rơi ra, đúng lúc đó một luồng gió mạnh thổi cuốn lấy những cánh hoa đi mất.
Thời gian như chim bay qua cửa sổ, năm sau Sanh dự khóa thi hội được lọt vào tam giáp rồi dành dật được vị trí bảng nhãn của học vị Tiến sĩ, làm vinh hạnh cho gia đình và địa phương. Với gia thế uy phong của tổ tiên, Sanh được triều đình bổ làm quan đốc học nơi nguyên quán, chẳng bao lâu được thăng lên quan phụ tá tham tri bộ hình ở kinh đô. Hiện nay đang làm quan án sát coi việc xét xử một tỉnh trù phú miền bắc đất nước. Dù với chức vị gì Sanh vẫn được nổi tiếng là vị quan liêm chính, làm việc cần mẫn, đúng nghĩa “phụ mẫu chi dân “. Trong bất cứ vụ án quan trọng hay rắc rối nào Sanh luôn luôn lấy chữ công minh làm gương mẫu. Tội phạm có chức lớn, quyền cao mà ức hiếp kẻ nghèo hay giết người cướp của Sanh vẫn chẳng nể sợ mà không dám thẳng tay trừng trị.
Dù đã bước đến ngưỡng cửa tuổi tứ tuần, nhưng Sanh vẫn là ông quan gối chiếc, phòng đơn. Song thân của Sanh đã về hưu, vẫn mong quý tử thành gia thất để có cháu nối dõi tông đường, nhờ vả biết bao nhiêu người mối mai nhưng Sanh lửng lơ tìm cách chối từ. Hàng năm vào dịp nghỉ hè, không nói với ai nhưng Sanh vẫn tìm cách chu du thiên hạ, tham gia vào chốn thị tứ đông người với hy vọng tìm được cố nhân trong mộng.
Một hôm có một vụ án giết người gây đàm tiếu khắp địa phương của Sanh. Một viên hạ quan trong địa phương trong một lần đi săn không biết vì lý do gì mà giết chết một người tiều phu đang lấy củi trong rừng. Vợ của người tiều phu cho rằng vì thù ghét gì đó mà chồng bà bị giết oan, bà ta đệ đơn lên Sanh đòi kẻ ác phải trả mạng cho chồng bà ta. Ngược lại phạm nhân lại cho biết không có thù án gì cả mà chỉ là tai nạn do lạc mũi tên mà làm chết người. Sanh đang ngồi trong sảnh đường đọc bản cáo trạng của vụ án để tuần tới mang ra công đường xét sử, thì vợ của phạm nhân xin vào yết kiến, khóc lóc nói với Sanh:
- Xin thượng quan thông hiểu mà phê chuẩn cho chồng tiện thiếp chỉ vì vô tình mà gây ra án mạng để khỏi phải tội chết.
Đáp:
- Ta chỉ biết lấy lòng công minh mà xét xử. Nhà ngươi có chứng cớ gì biện minh cho việc chết người vừa qua là tai nạn không? Nếu không có, ta không thể vì ngươi mà làm sai lệch án trạng được. Làm như thế không phải là điều bất công, gây đau đớn cho gia đình nạn nhân lắm ru? Ngươi đừng nhiều lời với ta vô ích.
Nói xong, Sanh đứng dậy tỏ ý muốn đuổi khách ra khỏi sảnh đường. Người đàn bà tỏ vẻ ngần ngừ rồi móc trong túi áo ra một gói giấy nhỏ đưa tận tay Sanh, mà nói:
-Trước khi đến đây, ái nữ của tiện thiếp có dặn rằng nếu không xong việc, cứ đưa cho thượng quan xem cái vật nhỏ bé này sẽ được giúp đỡ ngay.
Sanh giật mình, khi nhìn thấy đúng là chiếc nhẫn khiếm khuyết hạt ngọc của Tố Hoa ngày xưa. Chẳng cần hỏi người đàn bà, Sanh thò tay trong túi áo lấy viên ngọc của mình ra để nhẹ trên mặt nhẫn. Lạ lùng làm sao, viên ngọc như bị hút dính đúng khớp vào chỗ khiếm khuyết. Sanh gặng hỏi nguyên do, người đàn bà cho biết, cách đây hơn 18 năm khi vợ chồng bà ta làm lễ ăn mừng đầy tháng của đứa bé gái vừa sinh ra. Không biết từ đâu có một người khách chưa hề quen biết đến thăm, đưa tặng bà ta cái nhẫn khiếm khuyết này, dặn rằng hãy cất giữ cẩn thận cho đứa con sau này sẽ có việc dùng đến. Bà ta thấy cái nhẫn cũng xinh đẹp cho nên làm y lời dặn, giữ gìn rồi đưa cho đứa con lúc nó lên 16 tuổi.
Nghe bà mẹ giải thích, Sanh cầm chiếc nhẫn lên ngắm nghía một lúc. Muốn tách viên ngọc của mình ta nhưng không thể được. Linh cảm thấy sự lạ, Sanh đưa trả chiếc nhẫn có đính ngọc cho bà mẹ, dặn rằng:
- Ngươi hãy đem chiếc nhẫn đính ngọc này trả lại cho ái nữ của ngươi, nói với nàng rằng, ta chưa biết đúng hay sai nhưng nếu là người ta muốn gặp, hãy đến tìm ta, dù thế nào ta cũng tìm cách lo toan mà giảm tội đôi phần cho chồng ngươi được.
Ngày hôm sau, cũng đang làm việc ở sảnh đường, nhân viên dẫn vào một nữ lang tự xưng là người quen cũ đến thăm. Vừa nhìn thấy người khách, Sanh có cảm tưởng như đã từng quen biết. Chẳng cần chú ý đến vẻ ngạc nhiên, bàng hoàng của Sanh, nữ lang tiến đến gần, đưa bàn tay có đeo chiếc nhẫn nạm ngọc cho Sanh nhìn thấy rồi vừa khóc vừa nói:
- Chàng bạc tình đến thế sao? Thế mới biết hơn mười tám năm thiếp mong đợi chàng chỉ là uổng phí. Thiếp đã lầm lẫn thương yêu, hẹn ước với kẻ vô tâm rồi.
Đáp:
- Tố Hoa, nàng đó chăng? Sao nàng vội mà trách ta như thế? Mấy chục năm qua ta vẫn là kẻ độc thân, hàng năm ta vẫn đi khắp đó đây để tìm nàng… Đó không phải ta đã vì nàng mà tìm kiếm, đợi chờ, trong cuộc sống tẻ nhạt như thế sao?
Nữ lang nghe Sanh nói, cỏ vẻ cảm động, trả lời:
- Nhưng sao chàng còn nghi ngờ kỷ vật của thiếp mà không giúp đỡ phụ thân thiếp qua nạn sát thân?
Sanh mỉm cười đưa tay kéo cô gái đến gần, nhỏ nhẹ, an ủi:
- Nếu không có lời nghi ngờ giả dối thì làm sao nàng đến đây với ta hôm nay? Còn về việc giúp đỡ phụ thân của nàng hãy để ta tính toán xem sao đã. Nhưng dù thế nào thì sự thật vẫn cần được tôn trọng, ta không thể vì nàng mà biến đen thành trắng được. Ta yêu nàng vì nàng ta đã sống đơn độc mấy mươi năm qua. Ta cũng có thể phủi bỏ sự nghiệp đi bất cứ đâu nếu nơi đó có nàng. Nhưng danh dự của một vị quan án sát cầm cân nẩy mực chốn công đường ta nào dám bông lung, làm chuyện bất công, vô đức được. Huống chi còn danh dự gia thế, tổ tiên ta dám làm càn ư! Xin nàng hiểu cho, đừng ép ta phải làm việc mất tiết tháo như vậy.
Nữ lang đẩy Sanh ra xa, tháo chiếc nhẫn nạm ngọc liệng lên án thư,giận dỗi mà nói:
- Kỷ vật này chẳng còn ý nghĩa gì nữa thì giữ làm chi. Thiếp chắc chắn phụ thân thiếp không có gì thù án với nạn nhân mà chỉ là vô tình gây ra chết người mà thôi. Thiếp mong chàng chưa nên xét xử vội, hãy thẩm xét kỹ hơn về vụ án rồi tìm một giải quyết nào đó để cho phụ thân thiếp thoát được tội chết.
Nói xong nữ lang, quay bước ra khỏi sảnh đường, không thèm chú ý đến nỗi khó xử của Sanh. Ngay hôm sau Sanh đến hiện trường thẩm xét, tìm thấy trên một phiến đá to nơi hiện trường còn ghi đậm vết tích mũi tên xượt qua, làm sai lệch đường tên mà trúng vào nạn nhân. Sau đó Sanh đến gặp vợ nạn nhân, muốn giải thích cho bà ta hiểu rõ sự việc. Đúng lúc đó vợ nạn nhân cũng cho biết đang định làm đơn xin bãi nại vì đêm hôm trước người chồng về báo mộng cho biết đã hết số, không phải chết oan, xin đừng nghi oan cho phạm nhân mà bị khó khăn trong việc tái sinh.
Với chứng cớ như vậy, Sanh đã chuyển cáo trạng thành một vụ ngộ sát. Nhờ vậy phạm nhân thoát tội chết, nhưng phải cung cấp tiền bạc để nuôi sống gia đình nạn nhân.
Mấy tháng sau địa phương được chiêm ngưỡng đám cưới của quan án sát, phu nhân là một người trẻ đẹp có tên là Đàm Ái Trinh, tên gọi là Tố Hoa. Năm sau Tố Hoa song sinh được hai đứa bé trai xinh đẹp. Song thân của Sanh vui mừng, dù hơi muộn màng nhưng có một lúc hai cháu trai nối dõi tông đường mà cúng tế, ăn chay tạ ơn trời phật.
Lưu An - Vũ Ngọc Ruẩn
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vĩnh biệt anh Hai Nghĩa

Vĩnh biệt anh Hai Nghĩa Ông Trương Vĩnh Trọng, tức Hai Nghĩa, sinh ngày 11.11.1942, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị - Phó Thủ tướng Chính phủ,...