Xứ Trầm Hương 4
Phần Thứ Năm - Nhân Dân
a) Nhân vật thời xưa
Ca dao Khánh Hòa có câu:
Anh đứng Hòn Chồng,
Trông sang Hòn Yến,
Lên thăm Tháp Bà,
Về viếng Sanh Trung.
Non xanh nước biếc trập trùng,
Xiết bao liệt nữ anh hùng, em ơi!
Em hãy nhận lời,
Cùng anh kết ngãi.
Đầu ghềnh cuối bãi,
Ta hãy nương nhau.
Biển Cù nước mãi còn sâu,
Công linh chẳng trước thì sau cũng thành.
Trông thấy sông núi Khánh Hòa thanh tú chớ không hùng vĩ,
nhân dân Khánh Hòa hiền hậu chớ không khẳng khái hiên ngang, du khách hẳn có
người ngờ rằng Khánh Hòa không có anh hùng liệt nữ như câu ca dao đã nói. Thưa:
Ở đâu chẳng có anh hùng,
Ở đâu chẳng có anh khùng anh ngu.
Trước hết xin kể những người đã được ghi tên tuổi vào sử
sách:
1) BÀ PHAN THỊ ĐỐC
Về bên Liệt Nữ nổi danh nhất là bà Phan thị Đốc. Bà sinh năm
Đinh Dậu (1777), đời Lê cảnh Hưng, tại làng An Lâm, huyện Tân Định, tức thôn
Tân Lâm, xã Ninh Thượng, quận Ninh Hòa hiện nay. Tứ đức gồm đủ. Chồng là Nho
sinh Lê minh Thức, người làng Mỹ Hiệp. Vừa sinh được một trai thì chồng mất. Bà
mới 19 tuổi, nhưng quyết chí thủ tiết thờ chồng. Cha mẹ chồng cũng như cha mẹ
ruột sợ câu « khôn ba năm » thường khuyên bà tái tiếu. Để khỏi phật ý bề trên,
bà xin đợi cho lòng nguôi ngoai thương nhớ. Cha mẹ nhắc mãi, vì có nhiều nơi xứng
đáng đến cầu hôn. Nhưng bà vẫn hẹn.
Triều Gia Long (1802-1820) quan trấn thủ Bình Hòa thấy bà có
nhan sắc lại có đức hạnh muốn đòi đến làm nàng hầu. Cha mẹ đôi bên sợ uy quyền,
ép bà ưng thuận. Bà xin làm lễ tế chồng, rồi sẽ thưa dứt khoát « đi hay ở ».
Trước hương án bà khấn to đại khái rằng: « Từ ngày chàng tạ thế, lòng thiếp đã
như củi mục tro tàn. Còn sống ngày nào, thiếp nguyện giữ tròn một tiết ». Nói
đoạn lấy kéo hớt trụi tóc và thề: « Nếu nguyện « tùng nhất » không toại, thiếp
xin lấy cái chết cho sạch thân ». Quan Trấn thủ hay tin liền dẹp ý muốn. Và biết
chí con không thể lay chuyển cha mẹ bà từ ấy không còn nghĩ đến việc gả chồng.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1931), chiếu lời tâu của quan địa
phương, nhà vua ban thưởng bảng vàng « Trinh tiết khả phong » cùng vàng lụa. Bà
thọ được 72 tuổi. Tên thụy là Từ Thuận.
2) BÀ HOÀNG THỊ NGHĨA
Người thứ hai là bà Hoàng thị Nghĩa. Bà là người Huyện Quảng
Phước (tức Vạn Ninh bây giờ). Sống vào khoảng Minh Mạng-Thiệu Trị (1920-1947).
Nhà nghèo làm nghề đốn củi. Một hôm cùng chồng vào núi, bà đương đốn củi thì một
con mãnh hổ nhảy ra vồ người chồng. Không kịp trở tay, người chồng bị cọp bắt
tha đi. Nghe tiếng kêu cứu, bà thét lên một tiếng, vác rựa chạy theo đánh cọp.
Cọp thả người chồng, chống cự cùng bà. Trước sức hăng hái của người, cọp bỏ chạy.
Bà lấy lá cây nhai nhỏ và xé áo băng bó những vết thương, rồi dìu chồng về nhà
cứu chữa. Từ trước ai cũng coi bà là người đàn bà tầm thường, không ai ngờ bà
có sức mạnh và có gan đến thế. Khi nghe chuyện, thiên hạ kéo nhau đến thăm và
khen ngợi. Bà đáp: « Chỉ vì thương chồng mà trở nên mạnh mẽ và dạn dĩ đó thôi
». Câu chuyện bay đến kinh kỳ. Vua Thiệu Trị khen là người đàn bà ít có và ban
thưởng vàng lụa để làm gương. (Thiệu Trị năm thứ 4 tức 1844).
3) NHỮNG ANH HÙNG ĐÃ LẬP NHIỀU CHIẾN CÔNG
Và sau đây là những Anh Hùng đã lập được nhiều chiến công:
- Nguyễn Suyền người huyện Phước Điền (nay thuộc Quận Diên
Khánh) làm cai cơ cùng Nguyễn Ánh, lập được nhiều chiến công ở Vọng Các. Khi lấy
được đất Bình Khang (Ninh Hòa hiện thời) ông được cử làm Lưu Thủ. Sau khi mất
được tặng chức chưởng cơ, và được thờ vào miếu công thần nhà Nguyễn.
- Trần văn Nằng người huyện Tân Định (Ninh Hòa hiện thời).
Theo Nguyễn Ánh đánh cùng nhà Tây Sơn, ông làm quan đến chức Đô Thống Chế. Qua
Triều Minh Mạng làm phó Tổng Trấn thành Gia Định. Năm 1832 thăng Tiền quân Đô
Thống Chưởng phủ sự, tước Lương Tài hầu. Lãnh ấn bình Khâu Tướng quân đánh dẹp
đảng Lê văn Khôi. Sau đó, quân Xiêm lấn bờ cõi ông được lệnh đem quân đánh dẹp.
Ông đánh lui quân Xiêm, thu phục được đất Hà Tiên rồi tiến thẳng lên Nam Vang.
Vua Xiêm cầu hòa. Khi đem quân trở về đến Bình Thuận thì lâm bệnh và thất lộc,
được mông tặng Thái Phó. Phong Tân Thành Quận Công, thờ tại đền Hiền Lương.
- Nguyễn xuân Thục người huyện Quảng Phước, theo Nguyễn Ánh lập
được nhiều chiến công. Năm Gia Long nguyên hiện (1802) được bổ làm Hiệp trấn
Thanh Hóa. Năm Minh Mạng nguyên niên (1820) được triệu về Kinh làm Tham tri Bộ
Hộ, rồi vào Nam lãnh chức Tào Công và Tào Hộ tỉnh Gia Định. Được ít lâu lại được
triệu về Kinh và thăng Thượng thư Bộ Hình cải Thượng thư Bộ Lễ. Sau khi ông mất,
được thờ tại đền Hiền Lương.
- Nguyễn văn Hán người huyện Phước Điền (Diên Khánh hiện thời),
theo Nguyễn Ánh đánh giặc có công, tử trận năm Nhâm Tuất (1802), tặng Chánh Vệ
Úy, thờ tại đền Bao Trung.
- Phạm văn Chu người huyện Quảng Phước (Quận Vạn Ninh hiện thời)
theo Nguyễn Ánh làm chức Cai cơ, có chiến công, mất tại thành Qui Nhơn được
phong tặng Chưởng cơ, thờ tại đền Công thần nhà Nguyễn.
- Nguyễn văn Cống người huyện Vĩnh Xương. Theo Nguyễn Ánh lập
nhiều chiến công. Khi mất được phong tặng Chưởng cơ, và thờ tại đền Công thần
nhà Nguyễn.
- Nguyễn văn Thuận người huyện Tân Định. Theo Nguyễn Ánh làm
chức Phó Vệ Úy. Tử trận, thờ tại đền Hiền Lương.
Đó là những công thần nhà Nguyễn, tên tuổi được ghi rõ trong
Đại Nam Nhất Thống Chí. Và hai tiếng « Anh hùng » dùng ở đây theo nghĩa thông
thường: « Những người có can đảm, có sức lực… đã từng xông pha trong vòng nguy
hiểm ». Tức là những nhân vật nổi danh nhờ chiến công vậy.
4) CÁC SĨ PHU ỨNG NGHĨA CẦN VƯƠNG CHỐNG PHÁP
Ở Khánh Hòa còn nhiều bậc hào kiệt có công với Dân Tộc, mà gần
một thế kỷ nay bị Thực dân và Phong kiến coi là thù địch, cấm nhân dân không được
nhắc nhở đến thanh danh. Đó là các sĩ phu ứng nghĩa Cần Vương chống Pháp:
- Trịnh Phong tục gọi là Đề Phong, người làng Phú Vinh (thuộc
xã Vĩnh Thạnh, quận Vĩnh Xương hiện tại).
- Đậu võ cử triều Tự Đức (1847-1883), làm quan đến chức Đề Đốc.
Lúc trí sĩ thụ thức Bình Tây Đại Tướng, lãnh đạo nghĩa quân Cần Vương tỉnh
Khánh Hòa. Tuẫn quốc năm Bính Tuất (1886). Hiện có tên đường tại Xóm Mới Nha
Trang.
- Trần Đường quán làng Hiền Lương (thuộc xã Vạn Lương, quận Vạn
Ninh hiện thời). Sanh năm Kỷ Hợi (1839) triều Minh Mạng. Thông Hán văn. Thạo võ
nghệ. Làm Phó tổng dưới triều Tự Đức. Tánh khẳng khái nhưng tâm nhân hậu. Nên
quan trên nể nang, người bình dân kính mến ưa gần. Ứng nghĩa Cần Vương, ông được
phong làm Tổng Trấn. Tuẫn Quốc năm Bính Tuất (1886).
- Nguyễn Khanh người làng Võ Cạnh (thuộc xã Vĩnh Trung, quận
Vĩnh Xương hiện thời). Có tên nữa là Nguyễn Giảng, tự Quí Hiên. Sanh năm Giáp
Ngọ (1834) triều Minh Mạng. Đậu Tú Tài khoa Quí Dậu triều Tự Đức (1873). Văn
hay, chữ tốt. Người đương thời khen tặng, có câu:
Tờ mây xếp để hàng hàng phụng,
Ngọn thơ tung ra nét nét rồng.
Vào khoảng cuối đời Tự Đức, làng Mỹ Hiệp (Ninh Hòa) trùng tu
xong ngôi đình làng, mời ông ra viết dùm chữ « Thần » 神 nơi vách
tẩm để thờ. Ông nấu mực đổ vào chậu lớn, lấy dăm bào cuộn tròn lại làm bút, rồi
nhúng cuộn dăm bào vào mực, hai tay cầm viết lên vách. Nét nét to lớn mạnh mẽ.
Đến nét sổ ở giữa, ông kê một chiếc ghế đẩu, đúng lên trên, hai tay ấn chặt cuộn
dăm bào vào vách, rồi dùng chân hất mạnh chiếc ghế. Ghế ngã, ông ngã theo,
nhưng hai tay vẫn bám sát vách và nắm chặt cuộn dăm bào. Cuộn dăm bào theo đà
tay tuột mạnh xuống: Một nét sổ in lên vách, thẳng băng và rắn rỏi như một cây
mun. Và chữ 神 trông oai nghi và linh động như chữ đã hóa thần. Năm Ất
Dậu, ứng nghĩa Cần Vương, ông đảm nhiệm chức Tá Tương Quân Vụ, và tuẫn quốc
ngày 20 tháng chạp năm Bính Tuất (1886).
- Nguyễn Dị em ruột ông Nguyễn Khanh. Có tên nữa là Hoạt, sau
đổi là Dĩnh. Tự Tử Kỳ. Sinh năm Quí Mão (1843) triều Thiệu Trị. Đậu Tỉnh Học
Sanh năm Tự Đức thứ 16 (1862). Ứng nghĩa Cần Vương, giữ chức Tham Tán. Bị quân
thù bắt đày vào Cam Ranh. Sau được tha về. Mất năm Nhâm Dần, Thành Thái thứ 14
(1902).
- Nguyễn Lương. Sanh năm Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852). Em ruột
ông Nguyễn Khanh và Nguyễn Dị. Có tên nữa là Hứa. Tự Minh Khê. Nổi tiếng thông
minh và hay chữ từ lúc nhỏ. Ứng nghĩa Cần Vương, giữ chức Kiểm Biện. Bị giặc bắt
đày vào Cam Ranh. Sau được tha về. Triều Thành Thái, thi đậu cử nhân khoa Đinh
Dậu (1897), được bổ Giáo Thọ, rồi đi Tri huyện. Mất năm Mậu Thìn (1928).
- Lê Nghị người làng Phú Ân (nay thuộc xã Diên An quận Diên
Khánh). Đậu Tỉnh Học Sanh triều Tự Đức. Hoạt bát khí khái. Khoa Ất Dậu (1885)
ra Bình Định thi. Khi được tin Kinh thành Huế thất thủ, cùng phần đông thí sinh
bỏ trường về Ứng nghĩa Cần Vương, giữ chức Quản Trấn. Bị giặc bắt đày vào Cam
Ranh. Sau được tha. Hưởng thọ trên bảy chục.
- Phạm Chánh, người làng Hội Khánh (nay thuộc xã Vạn Khánh quận
Vạn Ninh). Học giỏi nhưng không đi thi. Ứng nghĩa Cần Vương, giữ chức Tham Trấn.
Bị giặc bắt, dụ hàng, khảng khái lấy cái chết đền ơn nước. Hy sinh năm Bính Tuất.
- Nguyễn Sum đồng hương cùng ông Phạm Chánh. Tánh trung trực
cương nghị. Ứng nghĩa Cần Vương, giữ chức Hiệp Trấn, cùng ông Phạm Chánh thề
cùng sống cùng chết. Bị giặc bắt. Không chịu khuất, bị tử hình một lần cùng ông
Phạm Chánh.
- Phạm Long tức Luông. Trưởng nam ông Phạm Chánh. Tuổi trẻ
nhưng chí khí hơn người. Cùng cha ứng nghĩa Cần Vương, giữ chức Nhiếp binh. Ông
Phạm Chánh bị giặc bắt. Ông và ông Nguyễn Sum nghe tin, bèn thân hành đến trại
giặc, để được cùng chết một lần với nhau. Giặc đem quyền lợi ra dụ, ông nhất định
từ khước. Tuẫn quốc một ngày cùng cha và Nguyễn Sum.
Ba ông Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh được thời nhân
tôn xưng là Khánh Hòa Tam Kiệt. Ba ông Phạm Chánh, Nguyễn Sum, Phạm Long được
tôn xưng Quảng Phước tam Hùng. Nhà họ Nguyễn võ Cạnh, ba anh em đều có công với
nước. Nếu về sau ông Nguyễn Lương không ra làm quan cùng Phong kiến Thực dân
thì danh tiết thật mười phần trọn vẹn. Và trên đây là những anh hùng liệt sĩ được
nhiều người biết. Còn nhiều vị khác công lao không kém, song chưa tìm ra con
cháu, nên chưa biết được tánh danh.
B) NHÂN VẬT TRONG PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
Năm Ất Dậu (1885) giặc Pháp đánh chiếm Kinh thành Huế. Vua
Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, xuống chiếu Cần Vương. Phần đông sĩ phu trong nước
đều hưởng ứng. Từ Bắc chí Nam tỉnh nào cũng có nghĩa binh nổi dậy.
Ở Khánh Hòa ba ông Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh đứng
lên chiêu mộ hào kiệt, dựng nghĩa kỳ bình Tây. Hầu hết thân hào nhân sĩ trong tỉnh
đều ứng nghĩa. Các quan trong tỉnh đều theo nghĩa binh.
Tỉnh Khánh Hòa chia làm hai quân khu. Khu Bắc nằm trong phạm
vi phủ Bình Khang ngày xưa và các quận Vạn Ninh, Ninh Hòa ngày nay. Khu Nam nằm
trên địa phận phủ Diên Ninh ngày xưa và các quận Cam Lâm, Diên Khánh, Vĩnh
Xương ngày nay.
- Ông Trịnh Phong được tướng sĩ tôn làm Bình Tây Đại Tướng,
lãnh đạo toàn thể nghĩa binh, và cùng Quản Trấn Lê Nghị, Tuần Vũ Khánh Hòa trấn
thủ quân khu Nam.
- Ông Trần Đường được phong làm Tổng Trấn, cùng quí ông Phạm
Chánh giữ chức Tham Trấn, Nguyễn Sum giữ chức Hiệp Trấn và Phạm Long giữ chức
Nhiếp binh, trấn thủ quân khu Bắc.
- Ông Nguyễn Khanh được phong làm Tán Tương Quân Vụ cùng hai
ông em Nguyễn Dị giữ chức Tham Tán, Nguyễn Lương giữ chức Kiểm Biện, coi việc
tuyển mộ binh sĩ, tiếp tế quân đội.
Đó là hàng chỉ huy cao cấp. Dưới cờ còn nhiều trang tuấn kiệt,
văn có võ có. Chức vụ sắp đặt theo khả năng phân minh thích đáng. Lúc sơ khởi,
binh sĩ chỉ gồm có số cơ binh của Tỉnh và số tân binh mới nhập ngũ. Tất cả chỉ
trên dưới hai nghìn người. Sau quân số gia tăng nhưng không quá năm nghìn. Còn
vũ khí thì ngoài mấy trăm cây súng hỏa mai cũ kỹ của cơ binh, chỉ có gươm trường,
dáo, mác và cung tên. Nhưng hùng khí ngất trời. Từ trên chí dưới ai cũng quyết
lòng diệt thù cứu quốc, ai cũng thề « thà chết chớ chẳng lui ».
Mùa thu năm Ất Dậu (1885), Pháp đổ bộ lên Nha Trang. Trịnh
Phong giao thành Diên Khánh cho Lê Nghị, tự mình đốc xuất ba quân đánh Pháp.
Quân Pháp tuy đông và có vũ khí tinh xảo, song vì chưa thuộc đường sá, nên bị
nghĩa binh đánh cho mấy trận tơi bời. Nhưng sau khi giặc tìm biết được địa hình
địa thế, thì dáo mác cung tên không còn chống nổi súng trường đại bác. Nghĩa
binh phải bỏ Nha Trang. Trịnh Phong chia binh, một nửa ra đóng tại núi Đá Lố giữ
đoạn đường Quá Quan, một nửa kéo về giữ thành Diên Khánh. Địch kéo quân lên
công thành. Súng trường và đại bác nổ vang trời. Song thành bằng đất lại có rào
tre sống vừa cao vừa dày bao bọc, súng đạn không thể nào hạ nổi. Chỉ có 4 cổng
thành bằng gạch có thể phá được, thì nghĩa binh đóng chặt cửa lại, ở trên vọng
lâu bắn xuống không cho địch tới gần. Nghĩa binh biết không thể thắng địch bằng
phép đánh chánh qui, nên ban ngày đóng cửa thành cố thủ, ban đêm lẻn ra đánh
úp. Mùa thu, Khánh Hòa thường mưa đêm, địch phòng bị không được chu đáo, bị tổn
thất rất nặng. Song chúng không chịu lui binh.
Thành bị vây mấy tháng trời, đường tiếp tế bị đứt. Các quan Tỉnh
húy tử lén kéo ra trại địch xin hàng. Để chuộc tội, chúng đem tất cả những bí mật
trong thành tiết lộ cho địch biết. Địch bèn đắp trước cửa Đông một ụ đất thật
cao, rồi đặt súng đại bác nhắm những yếu điểm trong thành mà bắn. Đạn rơi trúng
đích, những kho thuốc súng, những kho lương thực, lần lượt bị đốt phá tan tành!
Liệu không chống giữ nổi, Trịnh Phong cho người lén ra núi Đá Lố, hẹn thừa đêm
tối ngoài đánh vào trong đánh ra, mở vòng vây giải thoát.
Thoát khỏi thành Diên Khánh, Trịnh Phong kéo quân ra khu Bắc
hợp lực cùng Trần Đường. Ở khu Bắc, Trần Đường đóng tổng hành dinh tại núi Phổ
Đà, và chia binh làm hai đạo. Một đạo đóng ở đèo Dốc Thị do ông chỉ huy. Một đạo
đóng ở phía ngoài Tu Bông, tại vùng núi Ninh Phước do Phạm Chánh điều khiển,
Nguyễn Sum và Phạm Long phò tá. Biết thế nào giặc cũng dùng đường biển ra đánh
mặt Bắc, Trịnh Phong đem quân đến đóng tại Hòn Khói, hẹn cùng Trần Đường hễ địch
tới thì sẽ đốt lửa trên núi để báo hiệu.
Quân Pháp, sau khi đặt xong cơ sở cai trị tại Nha Trang và
Diên Khánh, liền kéo ra đánh mặt Bắc. Chúng đổ bộ lên Hòn Khói. Khí thế rất mạnh.
Nghĩa binh sau mấy trận kịch chiến, phải rút lên đóng trên Hòn Hèo, dùng thuật
du kích đối địch. Pháp phải đem hết quân ở Nha Trang ra chia đánh.
Nhờ thế núi hiểm trở và nhờ sức ủng hộ của toàn thể đồng bào,
nghĩa quân hăng hái chiến đấu. Chí tiêm cừu lòng địch khái, binh cũng như tướng,
với vũ khí thô sơ, đã làm cho địch phải khiếp đảm. Để thêm sức mạnh, Nghĩa quân
lại liên kết cùng các tỉnh lân cận Bình Định, Phú Yên… Cuộc kháng chiến kéo dài
gần một năm. Không thắng nổi về quân sự địch dùng chánh trị. Chúng lấy tiền của
chức tước ra dụ. Song lợi danh không lay chuyển nổi gan dạ anh hùng. Chúng phải
xin viện binh ở Saigon.
Tháng 6 năm Bính Tuất (1886), Thực dân Saigon sai Thiếu tá De
Lorme, Công sứ Aymonier và Đốc phủ sứ Trần bá Lộc kéo đại binh ra Khánh Hòa.
Lính gồm có lính Lê Dương và Lính tập vô lại. Trần bá Lộc lại là một tên Việt
gian vừa xảo quyệt vừa tàn nhẫn. Quân lính giết người không gớm tay. Tên Bá Lộc
dùng toàn những thủ đoạn khốc liệt độc ác nhất đối với Kháng chiến, hầu làm vừa
lòng Thực dân. Một mặt hắn sát hại lương dân để khủng bố tinh thần ái quốc. Một
mặt hắn tìm cách mua chuộc bọn người « ham danh lợi quên nước nhà » để biết rõ
những nơi đồn trú, những cơ quan bí mật của nghĩa binh. Quân Saigon vừa đến
Khánh Hòa thì bao nhiêu làng bị đốt, bao nhiêu người vô tội bị giết! Uất hận ngập
trời! Sau khi dò biết được những cơ sở trọng yếu của nghĩa quân, Trần bá Lộc tập
trung lực lượng lại đánh từng nơi một.
Tổng hành dinh của Trần Đường bị công kích trước tiên. Quân địch
đã đông lại nhắm các yếu điểm mà xung kích. Nghĩa quân liều chết kháng cự,
nhưng không sao chống nổi. Cơ sở bị đốt phá. Chiến sĩ bị tử trận quá nửa. Trần
Đường phải rút tàn quân lên đóng ở Đầm Thụ.
Thừa thắng, giặc kéo thẳng ra Ninh Phước đánh đồn Phạm Chánh.
Nghĩa binh trở tay không kịp, bị thất bại. Trại lương ở Đồng Đồn bị đốt, đồn trại
bị phá hủy. Chủ tướng cùng bộ hạ phải rút lên núi cao.
Dò biết được quê hương của Trần Đường, giặc kéo đến Hiền
Lương đốt phá nhà cửa và bắt hết nam phụ lão ấu trong làng cùng toàn gia của Tổng
Trấn, hẹn trong ba hôm nếu Tổng Trấn không ra hàng thì giết không chừa một mạng.
Không nỡ để đồng bào chịu đau khổ vì mình, Trần Đường đành phải đến nạp mình
cho giặc. Giặc dụ hàng. Ông khẳng khái từ khước và ung dung hy sinh. Để thị
oai, giặc đem ông ra giết ngay và bêu đầu đến ba ngày, rồi mới cho chôn cất.
Không chút nao núng, nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu anh
dũng. Trịnh Phong dụ địch lọt vào ổ phục kích ở khoảng giữa Hòn Hèo và Hòn
Khói, dùng hỏa công diệt trọn một toán Lê Dương và ngụy binh. (Nơi chiến trường
cây cỏ bị cháy rụi và « oan hồn uổng tử tích tụ thành tinh ». Cho nên gọi là «
Đồng Cháy » phương ngôn có câu « Ma Đồng Cháy »).
Phạm Chánh cũng làm cho địch tổn thất khá nặng trong trận đột
kích tại núi Chùa phía ngoài Dốc Thị. Song vì quân địch quá đông và súng đạn
quá đầy đủ, nên nghĩa binh không thu được toàn thắng. Lại thêm ông Nguyễn Sum bị
thương, Nghĩa binh không dám ham chiến phải rút lui về Tu Bông.
Nghĩa quân biết thế địch quá mạnh không dám công nhiên đương
đầu. Phải rút lên núi cao, chờ địch sơ hở, đánh úp. Nhưng từ khi quân Trần bá Lộc
đến, lực lượng Cần Vương yếu dần. Đồng bào bị khủng bố tàn nhẫn, không dám để
cho con em gia nhập nghĩa quân và không dám ủng hộ lương thực. Cho nên sau mấy
trận đánh xáp lá cà ở núi Đá Đen (Vạn Ninh), ở núi Tiên Du (Ninh Hòa), ở đèo Ruột
Tượng… thì nghĩa binh bị tan rã, các tướng súy lớp bị tử trận lớp bị sanh cầm.
Những người thoát được chạy lên núi lánh nạn, lần lần phải trở về « đầu thú ».
Trong vòng không đầy ba tháng, Trần bá Lộc đã dẹp yên được phong trào Cần
Vương.
Tướng lãnh và cán bộ bị bắt có gần hai trăm người. Những người
tự ra « đầu thú » và những người chịu khuất tất sự thù thì đều được tha. Còn
bao nhiêu thì bị tử hình và bị đày vào đảo Cam Ranh. Có bảy người bị xử tử:
- Trịnh Phong
- Nguyễn Khanh
- Phạm Chánh
- Nguyễn Sum
- Phạm Long
- Và hai vị chưa tìm ra tên tuổi.
Và gần 100 người bị đày vào Cam Ranh.
Phong trào tuy bị dập tắt, nhưng lòng hy sinh vì chánh nghĩa
của các sĩ phu và nhân dân Khánh Hòa vẫn sáng ngời cùng đất nước. Để biểu dương
nghĩa khí của các nhà lãnh đạo nghĩa binh Cần Vương, tiêu biểu cho tinh thần bất
khuất của nhân dân Khánh Hòa, Trường Xuyên có bài hát hò rằng:
NỮ: Tiếng đồn anh hay chữ,
Lại đây em hỏi thử,
Đôi câu lịch sử Khánh Hòa:
Từ ngày Tây cướp nước ta,
Những ông nào đã dựng cờ khởi nghĩa,
Anh hãy nói ra cho em tường.
NAM: Nghe lời em hỏi mà thương!
Thương người nghĩa liệt,
Tơ vương vấn lòng!
Vì thù non sông,
Thề không đội trời chung với giặc,
Từ Nam chí Bắc,
Thiếu chi trang dạ sắt gan đồng.
Ở Khánh Hòa thì có ba ông:
Ông Trần Đường giữ đèo Giốc Thị,
Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù,
Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu,
Ba ông một bụng, nghìn thu danh truyền.
NỮ: Ba ông là bậc anh hiền,
Gọi « Khánh Hòa Tam kiệt »,
Người người đều biết,
Đều thương đều tiếc,
Chưa thỏa nguyền núi sông!
Tấm thân xem nhẹ lông hồng,
Hỏi anh còn có nhớ,
« Quảng Phước tam hùng » là ai? 1
NAM: Dám đâu quên kẻ anh tài,
Rèn gan sắt đá khôn nài bể dâu.
Gương phấn dũng làu làu: Phạm Chánh,
Cùng Phạm Long chung gánh nước non.
Cha con trung nghĩa vẹn tròn,
Cùng Nguyễn Sum nguyện mất còn có nhau.
Bao phen cay đắng mật thù,
Tam Hùng Tam Kiệt nghìn thu trăng rằm.
C) HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC
Gần đây Khánh Hòa có một nhân vật đã làm rúng động dư luận thế
giới và làm cho làng tu Việt Nam thêm rực rỡ ánh Đạo Vàng. Hòa Thượng sanh năm
Đinh Dậu (1897) tại làng Hội Khánh, xã Vạn Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh
Hòa. Họ Lâm húy là Vạn Túc. Xuất gia năm 7 tuổi. Thụ giáo cùng Hòa Thượng Thích
Hoằng Thâm là cậu ruột và được Hòa Thượng nhận làm con chính thức, lấy tên họ
là Nguyễn văn Khiết. Năm 15 tuổi thọ Sa di, 20 tuổi thọ Cu túc, Pháp danh Thị
Thủy, Pháp tự Hành Pháp, pháp hiệu Quảng Đức. Tu ở Khánh Hòa đến năm Quí Tị
(1943), Hòa Thượng vào Nam, vân du hóa đạo. Đạo hạnh cao đạo học sâu, vào Nam
cũng như ở Trung, Hòa Thượng đã lập được nhiều công quả: kiến tạo và trùng tu
trên 30 ngôi chùa, hóa độ cho hàng nghìn đệ tử. Qua thời Ngô đình Diệm nắm
chánh quyền. Sau khi thanh toán các đảng phái quốc gia, tiêu diệt xong lực lượng
đối lập, họ Ngô ra sức củng cố địa vị và bắt đầu đàn áp Phật giáo.
Phật giáo chủ trương từ bi nhẫn nhục. Người Phật tử luôn luôn
tu dưỡng tánh ôn hòa và bền gan chịu đựng. Tưởng là nhu nhược, họ Ngô không còn
che dấu lòng kỳ thị tôn giáo: Chánh sách đàn áp Phật giáo được bộ hạ trắng trợn
thi hành. Cờ Phật giáo treo vào ngày Phật Đản 2507, tức ngày rằm tháng tư năm
Quí Mão (8-5-63) bị triệt hạ, súng đạn nã vào đám Phật tử đi dự lễ. Sau đó những
cuộc khủng bố tiếp tục. Toàn thể Phật giáo trong nước phải đứng lên tranh đấu để
bảo vệ Chánh Pháp.
Đứng trước cảnh ngửa nghiêng của Phật giáo, mệnh danh là trưởng
tử của Như Lai, không lẽ điềm nhiên tọa thị để cho Chánh Pháp tiêu vong. Hòa
Thượng Thích quảng Đức bèn phát nguyện thiêu thân giả tạm cúng dường chư Phật để
hồi hướng công bảo tồn Phật giáo.
Và lòng cương quyết ấy đã thể hiện vào buổi sáng ngày 20
tháng tư nhuần Quý Mão, tức 11 tháng 6 năm 1963. Tại ngã tư đường Phan đình
Phùng và Lê văn Duyệt Saigon, giữa vòng quanh trên 800 vị Thượng Tọa, Đại Đức,
Tăng, Ni… và hàng muôn đồng bào, Hòa Thượng tự tẩm xăng ướt mấy lớp cà sa y hậu,
rồi ngồi kiết già, ung dung tự tay châm lửa. Lửa cháy phừng phừng phủ kín cả
châu thân. Hòa Thượng an nhiên chấp tay tĩnh tọa. Ngọn lửa mỗi lúc mỗi lên cao,
từ đỏ sang vàng, rồi bốc khói đen ngụt ngụt. Hòa Thượng vẫn bình tâm nhập định.
Đến khi lửa hạ ngọn, toàn thân vẫn an trụ như một pho tượng đồng đen. Rồi như để
giã từ đồng bào, chư tăng ni và bổn đạo, Hòa Thượng cúi đầu gật ba lần, rồi từ
từ ngã xuống, hai tay vẫn quyết ấn cam lồ. Nhục thân được đưa về hỏa thiêu nơi
An Dưỡng Địa của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tại Phú Lâm. Xá lợi thu nhặt được gồm
nhiều mẩu xương không cháy có màu sắc tốt đẹp và một quả tim đốt hai lần không
cháy mà chỉ tóp nhỏ lại như một quả cam khô. Thật vừa bi vừa hùng vậy! Một Phật
tử là Lưu ky Linh có bài thơ cúng dường:
« TRÁI TIM BI DŨNG »
I.
Ngùn ngụt lửa hồng vây lớp lớp,
Chấp tay ngồi lặng niệm Nam Mô.
Ma duồng theo lửa, lòng lên gió,
Quảng Đức dâng mình giữa Thủ đô.
Niệm năm điều nguyện niệm Nam Mô,
Rực đỏ trời Nam hận Cố Đô:
Xe sắt nghiền tan xương Phật tử,
Sông Hương trào máu thuở nào khô?!
Niệm năm điều nguyện niệm Nam Mô,
Tiếng nấc vang vang rợn đáy mồ.
Gương mặt Từ Bi ngời dũng khí,
Cao Tăng quyết liệt diệt hung đồ.
Từng xanh mây trắng nở hoa sen,
Năm sắc cờ bay dáng dịu hiền.
Ríu rít chim cành hòa tiếng kệ,
Xác đen gục xuống ánh vàng lên.
Tan tác khói mù lẩn quái điên,
Tây Phương chói lọi ngự xe Thiền.
Hàng hàng đệ tử rưng rưng lệ,
Vì Đạo quên mình ai dám quên.
II.
An Dưỡng nơi nầy lại hiển linh,
Tuổi vàng càng chứng quả Vô Sinh.
Tim không ghê lửa trời nao núng,
Máu chẳng thành tro quỉ khiếp kinh.
Tuồng giả trên đời rồi biến ảo,
Cơ mầu trước mắt đã xương minh.
Mười phương dâng ngọc ta xây tháp,
Thờ trái tim Thầy: Đạo kết tinh.
Một thiên sử Phật ghi màu lửa,
Dọi chút dư quang sử Việt nhà.
Nghìn tám trăm năm ơn Pháp nhũ,
Dưỡng thành Quảng Đức giống nòi ta.
Đức hy sinh cao cả của Hòa Thượng được lan truyền nhanh
chóng, mặc dù Chánh quyền tìm đủ cách bưng bít. Toàn thể Phật giáo đồ xúc động.
Trong nước đâu đâu cũng đượm màu tang. Trừ bọn a tùng Chánh quyền tàn bạo, ai
ai cũng thương cảm tán thán đức hy sinh vì Chánh Pháp của vị cao tăng và căm phẫn
Chánh phủ Ngô đình Diệm.
Ở hải ngoại, các Đài Phát thanh, các báo chí loan tin rầm rộ.
Cảnh tự thiêu của Hòa Thượng được trưng bày bằng hình ảnh trên báo chí và trên
màn bạc khắp các nước Tự Do. Dư luận thế giới xôn xao. Các nước Phật giáo Thái
Lan, Cao Miên, Tích Lan, Ấn Độ, Nhật Bản… đều lên tiếng phản đối chính sách tàn
bạo của họ Ngô. Và Chánh phủ Cam Bốt, ngay sau ngày 11-6-63, tuyên bố đoạn giao
cùng Chánh phủ Ngô đình Diệm và đóng cửa tòa Đại Diện tại Saigon.
Ngô đình Diệm vốn coi thường cuộc đấu tranh bất bạo động của
Phật giáo và tin tưởng vào sức vững mạnh của Chánh phủ mình, phải hoảng hốt trước
ngọn lửa Quảng Đức ôn hòa nhưng hùng dũng, và vội lo tìm cách xoa dịu bớt lòng
phẫn hận của đại đa số nhân dân cùng dư luận của Thế Giới.
Noi gương hiến thân cho Đạo Pháp của Hòa Thượng, nhiều vị
tăng ni âm thầm tự thiêu để hòa tiếng nhẫn nại đau khổ của mình vào tiếng cảnh
tỉnh của bậc tiền phong trên con đường bảo vệ Chánh Pháp. Trong chư vị « Chết
vì Đạo » nầy có bên người ở Khánh Hòa, quê hương của Hòa Thượng Thích quảng Đức:
- Ni Cô Diệu Quang thị tịch tại Ninh Hòa, ngày 15-8-63.
- Nữ Phật tử Yến Phi hy sinh ngày 26-1-65 trước tòa Hành
Chánh Nha Trang.
- Ni cô Diệu Tri xả thân tại ni viện Diệu Quang ở Phước Hải
ngày 3-6-66.
- Ni cô Thông Tuệ xả thân tại góc núi Trại Thủy gần chùa Tỉnh
hội Khánh Hòa dưới chân kim thân Phật Tổ, ngày 1-1-67.
Ngọn lửa Thích quảng Đức đã soi sáng cho toàn thể Phật giáo đồ
Việt Nam thấy rõ bước đi trên con đường hành đạo và hộ pháp. Từ ngày Hòa Thượng
viên tịch, cứ mỗi lần ngày Phật Đản về, Phật giáo đồ Việt Nam nói riêng, Phật tử
năm châu nói chung, thành kính nhắc nhở danh hiệu Hòa Thượng với tất cả lòng
tri ân và ngưỡng mộ. Và thi sĩ Vũ hoàng Chương có bài thơ tán thán:
« LỬA TỪ BI »
Lửa! Lửa cháy ngất Tòa sen!
Tám chín phương
Nhục thể trần tâm hiện thành thơ, quì cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời mới mọc
Ánh Đạo Vàng phơi phới đang bừng lên dâng lên
Ôi! đích thực hôm nay Trời có Mặt
Giờ là giờ Hoàng Đạo nguy nga
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
Nhìn nhau: Tình huynh đệ bao la
Nam Mô Đức Phật Di Đà
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?
Thương chúng sanh trầm luân bể khổ
Người sẽ phăng đêm tối đất đầy
Bước ra, ngồi nhập định hướng về Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay…
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay
Không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng. Giông bão lắng từ đây
Bóng người vượt chín từng mây
Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá tượng chẳng cầu ai tạc
Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi
Chỗ người ngồi: một Thiên thu Tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét từ bi
Rồi đây… rồi mai sau… còn chi
Ngọc đá cũng thành tro lụa tre dần mục nát
Với thời gian lê vết máu qua đi…
- Còn mãi chứ? Còn Trái Tim Bồ Tát
Gội hào quang xuống tận ngục A Tỳ
Ôi ngọn lửa Huyền Vi!
Thế giới ba ngàn, phút giây ngơ ngác
Từ cõi Vô minh
Hướng về Cực lạc
Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác
Và chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo với lời Kinh
Tụng cho nhân loại hòa bình
Trước sau bền vững tình huynh đệ nầy
Thổn thức nghe lòng Trái đất
Mong thành Quả phúc về Cây
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!
Đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt
Tình thương hiện Tháp chín tầng xây. 2
D) BÁC SĨ YERSIN
Khánh Hòa còn một nhân vật rất cừ khôi, danh lừng khắp thế giới.
Tuy là người ngoại quốc, nhưng sống ở Nha Trang gần 50 năm và lấy Khánh Hòa làm
nơi « Sống gởi nạc thác gởi xương ». Tình thâm, đức hậu, khiến người Khánh Hòa
luôn luôn nhớ đến công ơn và coi như người bổn kiển. Đó là: Bác sỹ Yersin.
Bác sỹ húy là Alexandre, sanh năm 1863 tại Lavaux, một nơi
thôn quê nước Thụy Sỹ. Cha là người Thụy Sỹ. Mẹ gốc người Pháp. Lớn lên, sau
khi đậu Y Khoa Tấn Sĩ (1888) tại Paris, Bác sỹ xin nhập quốc tịch Pháp. Cuộc đời
của Bác sỹ là một cuộc đời sống động.
Sang Pháp năm 1886 với tư cách một sinh viên y khoa, Yersin
may mắn được vào làm việc tại viện Pasteur Paris mới vừa thành lập. Trí thông
minh và tài sáng kiến làm cho vị chỉ huy trực tiếp là Bác sỹ Emile Roux cùng
nhà thông thái trứ danh đương thời là Pasteur mến phục.
Hai năm sau, trình lên Đại học đường Paris luận án tiến sĩ về
đề tài: « Nghiên cứu sự phát triển chứng nhiễm trùng huyết của bệnh lao thí
nghiệm » (Etude sur le développement du Tubercule expérimental) 3.
Luận án làm vang danh Yersin và trong Y khoa phổ lục (Terminologie médicale)
ghi thêm một bệnh mới: « Bệnh lao thí nghiệm kiểu Yersin » (La tuberculose
expérimentale, type Yersin).
Cũng năm 1888, hợp tác cùng Bác sỹ Roux, Yersin lại tìm ra độc
tố của vi trùng bệnh Bạch hầu (toxinediphtérique). Kết quả này làm cho tên tuổi
Yersin thêm lừng lẫy.
Tương lai sáng lạn. Nhưng mơ ước thú phiêu lưu, thình lình
Bác sỹ bỏ phòng thí nghiệm, cùng hãng Nhà Rồng (Compagnie des Messageries
Maritimes) ký hợp đồng sang Viễn Đông làm thầy thuốc cho chiếc tàu buôn của
hãng chạy trên biển Nam Hải (Mer de Chine).
Bác sỹ sang Saigon tháng 9 năm 1890. Con tàu hãng Nhà Rồng chạy
đường Saigon Ma Ní (Phi luật Tân) được ít lâu thì đổi sang đường Saigon – Hải
Phòng. Trên những chuyến đi về trên con đường Saigon – Hải Phòng, Bác sỹ bị
phong cảnh trên bờ biển Trung Việt quyến rũ. Những bãi những ghềnh đầy màu sắc
và ánh sáng, những rừng dừa tươi thắm hắt bóng mặt trời buổi sớm, nhả khói thổi
cơm buổi chiều, những nhánh núi từ dãy Trường Sơn trùng điệp mang rừng xanh chạy
xuống tận chân sóng biển xanh… luôn luôn thúc giục Bác sỹ từ bỏ cảnh đi đi lại
lại trên mặt nước, ngày nào cũng như ngày nào, không có gì thay đổi, để lên bờ
sống với cảnh sông núi nghìn sắc muôn hình…
Và tháng 7 năm 1891, Bác sỹ đổ bộ lên Nha Trang. Với một người
Việt Nam biết tiếng Thượng do một vị Linh Mục Pháp giới thiệu, Bác sỹ định vượt
núi về Saigon. Nhưng lên đến Djiring thì gặp nhiều trở ngại không đi được nữa,
Bác sỹ phải trở lại Nha Trang: Quần áo tả tơi, chân không giày và đẫm máu.
Nhưng Bác sỹ vẫn không chán nản.
Tháng 3 năm 1892, Bác sỹ, lại vào thâm sơn một lần nữa. Lần nầy
thừa lệnh của Chánh phủ Pháp đi khảo cứu địa thế vùng núi non từ bờ biển Nam Hải
đến sông Cửu Long. Lần nầy là lần đi thám hiểm thật sự. Khởi hành tại Ninh Hòa
với ba người tùy tùng Việt Nam và một ít hành lý, Bác sỹ đã tìm được sau 45
ngày gian khổ, những phụ lưu của sông Cửu Long phát nguyên tại Trường Sơn và chảy
đến Stung Treng (Thái Lan) và khảo sát đầy đủ về địa lý, tài nguyên, nhân chủng
trong vùng sơn lâm này mà từ nghìn xưa chưa mấy ai biết đến.
Tháng 2 năm 1893, Bác sỹ được Chánh phủ Pháp giao phó việc khảo
sát vùng sơn lâm phía Nam Trung Việt để mở đường sá và khai thác thổ sản. Bác sỹ
khởi hành tại Biên Hòa và theo sông Đồng Nai đi ngược lên. Chuyến thám du này
cũng như chuyến trước, Bác sỹ chỉ có 4 người Việt Nam tùy tùng… Cảnh gian nguy
cũng không kém trước. Trong chuyến thám du này, Bác sỹ phát kiến Cao Nguyên Lâm
viên (Plateau de Lang Bian) và vùng Dalat. Sau 7 tháng Bác sỹ hoàn thành nhiệm
vụ.
Tháng 2 năm 1894, Bác sỹ lại đi thám hiểm lần thứ ba. Lần nầy
ngoài 4 người tùy tùng dân sự, có một toán lính tập 15 người theo hộ vệ. Chuyến
đi này còn gay go và cực nhọc hơn cả hai chuyến trước. Bác sỹ đã khảo sát được
vùng núi rừng từ Lang Bian đến Darlac và từ Darlac đến Attopeu. Sau khi nhiệm vụ
hoàn thành, Bác sỹ xuống Tourane vào ngày 7 tháng 5 năm 1894 và rồi vượt đèo Hải
Vân đi bộ thẳng ra Huế.
Trong ba chuyến thám hiểm, Bác sỹ đã họa đồ, chụp ảnh và ghi
chép tường tận những hình thế núi sông, những nhân chủng, phong tục, ngôn ngữ của
dân tộc thiểu số, những tài nguyên của mỗi địa phương. Nhờ vậy mà vùng Cao
Nguyên thâm u của Trung Việt lần lần bớt xa lạ huyền bí đối với người Trung
Châu, và nguồn lợi thiên nhiên bấy lâu không ai ngó ngàng, lần lần được khai
thác.
Nhưng rồi một biến cố xảy ra khiến Bác sỹ trở lại con đường
khoa học. Đầu năm 1894, bệnh dịch hạch nổi lên hoành hành tại Hoa Nam. Bệnh
phát sanh tại Quảng Đông giết chết trên 100 nghìn người rồi tràn sang Hồng Kông
giết gần 50 nghìn người nữa. Cả thế giới chấn động. Bác sỹ không thể điềm nhiên
trước tai ách khủng khiếp. Cho nên, mặc dù đã sắp đặt đi thám hiểm miền Thượng
Du Bắc Việt, Bác sỹ đành phải hủy bỏ chương trình, khi được lệnh Bộ Y Tế Pháp cử
sang Trung Hoa để nghiên cứu bệnh dịch hạch.
Bác sỹ sang đến Hồng Kông ngày 15 tháng 6. Một phái đoàn Y sỹ
Nhật Bản do Giáo sư Kitasato lãnh đạo đã đến trước mấy hôm. Nhận thấy phái đoàn
này không có mỹ cảm đối với mình, Bác sỹ không tìm cách hợp tác. « Ai lo phần nấy,
như thế còn lợi hơn, bởi bên này nếu rủi lạc lối thì bên kia khỏi bắt chước đi
theo ». 4
Chánh quyền và các nhà chuyên môn địa phương thiên hẳn về
phái đoàn Nhật Bản. Không được sự giúp đỡ, Bác sỹ phải thuê cất một túp lều
tranh bên cạnh bệnh viện để ở và làm việc… Và cố kiên trì vượt mọi khó khăn,
năm hôm sau khi đến Hồng Kông, Bác sỹ tìm ra được giống vi trùng dịch hạch. Kết
quả gởi ngay về viện Pasteur Paris để giảo nghiệm. Viện công nhận là đích xác
và công bố cho thế giới hay. Giống vi trùng dịch hạch liền mang tên là trực vi
trùng Yersin (Bacille de Yersin). Công vụ xong, Bác sỹ Yersin trở lại Saigon
vào tháng 8 năm 1894 và trở về Pháp vào tháng 10.
Công tác cùng hai bạn đồng nghiệp Calmette và Borrel tại viện
Pasteur Paris, Bác sỹ Yersin tìm ra được thuốc trị và ngừa bệnh dịch. Nhưng
không thể sống yên vui giữa cảnh phiền náo của Paris, Bác sỹ bèn trở sang Việt
Nam. Tháng 9 năm 1895 Bác sỹ đến Nha Trang lập nơi gần biển một phòng thí nghiệm
để bào chế thuốc dịch hạch. 5
Tháng 6 năm 1896, bệnh dịch hạch tái phát ở Hoa Nam, Bác sỹ
liền mang thuốc sang Hồng Kông, Quảng Đông và Áo Môn để cứu chữa. Kết quả rực rỡ:
80 phần trăm người mắc bệnh được cứu sống.
Bệnh dịch hạch xưa nay đã giết chết trên 50 triệu nhân mạng,
từ ấy không còn coi là bệnh nan y. Nhân loại mang ơn Bác sỹ Yersin về bệnh dịch
hạch cũng như mang ơn nhà thông thái Pasteur về bệnh chó dại. Bệnh dịch làm hại
người đã có thuốc chữa, còn bệnh dịch súc vật còn ở trong tình trạng nan y. Ở
Đông Dương mỗi năm bị thiệt hại không biết bao nhiêu trâu bò. Bác sỹ Yersin với
sự cộng tác cùng một số thú y sỹ, ra công nghiên cứu: Các giống vi trùng được
phân định, thuốc điều trị được sáng chế và phương pháp phòng ngừa được qui định
rõ ràng. Nhờ vậy mà bệnh dịch trâu bò lần lần giảm bớt, và công việc bào chế
thuốc ở phòng thí nghiệm Nha Trang mỗi ngày mỗi tăng.
Đến năm 1902, trong khi Bác sỹ đang hăng say trong công việc
thì quan Toàn quyền Doumer mời ra Hà Nội và giao phó việc sáng lập và điều khiển
Y khoa Học đường (Ecole de médecine) tục gọi là Trường Thuốc. Phòng thí nghiệm
tạm giao cho người phụ tá coi sóc. Nhưng không đầy hai năm, vào cuối năm 1904,
việc điều khiển Trường Thuốc trao lại cho người khác, và Bác sỹ Yersin được trở
về Nha Trang.
Lúc ở Hà Nội, Bác sỹ ra sức vận động nên khi trở về Nha Trang
thì phòng thí nghiệm của Bác sỹ cùng phòng thí nghiệm của Bác sỹ Calmette lập
năm 1890 ở Saigon, được đổi làm viện Pasteur Nha Trang và Saigon, gọi chung là
viện Pasteur Đông Dương (Instituit Pasteur d’Indochine) do Bác sỹ điều khiển với
quyền ủy nhiệm của viện Pasteur Paris 6.
Để tương xứng danh hiệu, phòng thí nghiệm sơ sài của Yersin ở Nha Trang, cũng
như của Calmette ở Saigon đều được Chánh phủ Pháp ở Đông Dương xây cất lại tử tế,
và lần lần mở rộng thêm theo nhu cầu. Bác sỹ Yersin giao trọn quyền chỉ huy Viện
Saigon cho viên phó Quản đốc để rảnh thì giờ lo cho Viện Nha Trang. Mỗi năm vào
Saigon ba bốn lần, mỗi lần ở lại vài ba hôm để thảo luận những vấn đề chuyên
môn và giải quyết, nếu có, những việc quan trọng mà viên Phó Giám Đốc không đủ
thẩm quyền.
Ngựa là giống vật được chọn lựa để dùng trong việc sản xuất
huyết thanh chống dịch hạch (Sérum antipesteux). Khi mới thành lập phòng thí
nghiệm (9-1895), Bác sỹ Yersin đã mua được 20 con. Vì Nha Trang thiếu cỏ, Bác sỹ
phải đem lên nuôi ở Diên Khánh, cách Nha Trang 10 cây số. Mua súc vật, cất chuồng
nuôi, thuê người chăn giữ, cũng như xây dựng phòng thí nghiệm, Bác sỹ phải « tự
lực cánh sinh ». Chánh quyền thực dân Pháp không nhận thấy tầm quan trọng của
công việc, nên không sẵn sàng giúp đỡ. Trong bức thư gởi cho Bác sỹ Roux, ngày
16-9-1895, trên chuyến tàu từ Hà Nội về Nha Trang, Bác sỹ kể:
« Tôi đương từ Hà Nội trở về Nha Trang để bắt tay ngay vào
công việc. Ở Hà Nội tôi có đến gặp quan Toàn quyền… Người ta không thể làm khó
dễ tôi, bởi những chỉ thị của Paris về đặc nhiệm giao cho tôi cũng khá rõ ràng
đặng người ta để cho tôi được hoàn toàn tự do. Tôi có xin quan Toàn quyền cấp
cho tôi một kinh phí 5.000$00 để chi về việc thiết bị và trả tiền nhân công
trong vài ba tháng. Ông ta viết thư cho Bác sĩ Grall, Giám đốc Y tế Bắc Kỳ để
dò xem công việc của tôi có khẩn cấp? Rồi hỏi tôi có thể bằng lòng với số bạc
100$00 chăng! Ông thông cảm cho rằng thấy ông ta, tôi không muốn bộc lộ niềm hy
vọng mà chúng ta có thể có hiệu quả của huyết thanh trừ dịch hạch và đậu chủng
phòng dịch trâu bò. Nhưng không có gì quan trọng. Tôi sẽ tự xoay xở lấy để tiến
bước, và cố gắng đi đến thành công ».
(Je redescends d’Hanoi où je viens de voir le Gouverneur
Général, pour me rendre à Nhatrang où je me mettrai de suite au travail… On n’a
pas pu me faire de difficultés car mes instructions de Paris étaient assez
nettes pour qu’on me laisse toute liberté. J’ai sollicité du Gouverneur Général
un crédit de 5.000$00 pour payer mes frais d’installation et d’entretien du
personnel pour quelques mois. Il a écrit à M. Grall, le médécin en chef du
Tonkin, pour savoir si ma mission était urgente. Puis il m’a demandé si je ne
pourrais pas me contenter de 100$00!… Vous comprenez qu’en le voyant, je n’ai
pas voulu trop m’avancer au sujet des espérances que nous pouvons avoir au
sujet de l’efficacité du sérum antipesteux et du vaçin contre la peste bovine… Enfin,
tout cela n’a pas d’importance. Je me débrouillerai pour marcher quand même de
l’avant et je tâcherai de réusir).
Bác sỹ đã thành công. Ban đầu, ngựa nuôi ở gần thành Diên
Khánh. Ở đây sẵn cỏ, sẵn lúa. Nhưng không có đất trống để lập trại và làm đồng
cỏ. Bác sỹ liền nghĩ đến việc khẩn hoang: trước đã có chỗ nuôi súc vật theo
khoa học, sau lại thu được huê lợi thêm cho phòng thí nghiệm Nha Trang. Bác sỹ
tìm được đất tại vùng Suối Dầu, ở phía Nam thành Diên Khánh, cách Nha Trang 20
cây số ngàn.
Trong thời gian Bác sỹ đến Khánh Hòa dựng nghiệp (1895) thì
Nha Trang đương còn là một bãi cát trắng mênh mông. Đồng bào sống về nghề chài
lưới ở xúm xít nơi doi đất phía Nam cửa sông Cái, tục gọi là Xóm Cồn. Nhà cửa lụp
xụp, mái tranh vách phên, luôn luôn bị gió sóng phá hủy về mùa thu mùa đông, và
che cất lại về mùa xuân mùa hạ. Một số ít nhà ngói cất rải rác dọc theo bờ biển.
Đó là các công chức Pháp: Viên Công Sứ với người phụ tá, viên Giám binh với một
số lính tập, viên Thương Chánh với năm ba nhân viên Việt Nam. Không có một nhà
buôn tạp hóa, không có một khách sạn. Một vài quán cơm nho nhỏ nấu cơm tháng
cho năm ba thầy thông thầy ký làm Tòa Sứ không đem vợ con theo. Đường sá chưa mở
mang. Chỉ có một con đường trải đá sơ sài chạy từ Nha Trang lên thành Diên
Khánh. Vật liệu xây cất và nhân công không thể tìm được tại chỗ. Đường biển là
đường giao thông duy nhất với Saigon và các thành phố phía Bắc. Thế mà Bác sỹ
Yersin thiết lập được phòng Thí Nghiệm với số tiền lương ít ỏi của mình thì thật
là tài lắm vậy.
Còn vùng đất chọn được ở Suối Dầu là một cánh rừng hoang, cây
cối rậm rạp – phần nhiều là cây dầu rái – nằm nơi giao thủy hai nhánh suối chảy
vào sông Nha Trang. Cánh rừng nầy nằm trên địa phận làng Xuân Phú và Khánh Xuân
(ngày xưa thuộc Diên Khánh, ngày nay thuộc Cam Lâm). Phía Bắc giáp ruộng đất
hai làng nầy, phía Đông và Nam giáp dòng Suối Dầu, phía Tây giáp núi. Diện tích
mênh mông, ước chừng bốn nghìn mẫu tây trở lên.
Với một số tiền « khiêm tốn » của mình và của hai bạn đồng
nghiệp Roux và Calmette góp lại, cộng với sức chịu đựng để vượt qua những trở
ngại gây nên do thú rừng (cọp, voi, heo, nai…) và muỗi sốt rét, Bác sỹ biến lần
lần cánh rừng hoang thành một cánh đồng phì nhiêu xanh dờn những bắp lúa thuốc
lá, v.v… với những bầy ngựa, bầy trâu, bò, dê, cừu… láng lông.
Công tác của Bác sỹ được chánh thức công nhận: Một nghị định
của Công Sứ Trung Kỳ ngày 17-7-1899, cho Bác sỹ tạm trưng 500 mẫu tây trong
vùng Suối Dầu nói trên. Sau khi phòng Thí Nghiệm Yersin đổi thành Viện Pasteur
thì một nghị định thứ hai ra ngày 29-5-1918 sang quyền của Bác sỹ qua Viện
Pasteur Nha Trang. Diện tích Sở Suối Dầu lúc ấy đã lên đến 1.200 mẫu tây. Đến
năm 1926 diện tích 1.200 mẫu tây ấy đã khai thác trọn và được Phủ Toàn Quyền
Đông Dương nhượng dữ vĩnh viễn cho Viện Pasteur Nha Trang, theo Nghị Định ngày
1-10-1926. Đồng thời Viện lại được phép mở rộng thêm về phía Tây một diện tích
1.600 mẫu nữa.
Thế là khởi công khai khẩn vào khoảng đầu năm 1896, Sở Suối Dầu
tiến triển không ngừng. Ban đầu chỉ nuôi súc vật và trồng ngũ cốc. Sau Bác sỹ
nhận thấy đất Suối Dầu rất thích hợp với giống cây cao su (Caoutchuoc) bèn ra
công khai thác.
Trước Bác sỹ, đã có người đem giống cao su sang trồng ở Việt
Nam. Đó là nhà Thực Vật Học tên Pierre. Năm 1877, Pierre có trồng mấy cây ở vườn
Bách Thảo Sài gòn. Nhưng vì không hạp thủy thổ nên cây bị tàn hủ. Hai mươi năm
sau, Dược sỹ Raoul gởi từ Mã Lai, 2.000 cây con sang cho viên Giám Đốc vườn
Bách Thảo Sài Gòn là Haffner. Ông nầy đem trồng ở vườn ương Hồng Yêm gần Thủ Dầu
Một và tặng cho Bác sỹ Yersin một số để trồng thử ở Suối Dầu. Kết quả tốt đẹp,
Bác sỹ bèn gởi mua hột giống ở Tích Lan về trồng.
Năm 1905, Suối Dầu đã trồng được 30 mẫu tây cao su và đã bắt
đầu lấy mủ. Đến năm 1914, diện tích trồng cao su lên đến 307 mẫu trên 1.200 mẫu
đất trồng trỉa. Số súc vật như ngựa, trâu, bò, dê, cừu… nuôi trong sở lúc bấy
giờ cũng lên đến mức khá cao: Thường thường có từ 1.500 con đến 2.000 con nuôi
trong những chuồng hợp vệ sinh. Cuối năm 1914, Suối Dầu đã trở thành một « Đồn
Điền » hoàn bị.
Lúc cuộc Thế Chiến 1914-1918 bắt đầu, Bác sỹ Yersin nghĩ: « Nếu
chiến tranh kéo dài thì Viễn Đông lấy ký ninh ở đâu mà dùng? » Nghĩ vậy là vì
thứ thuốc trị sốt rét nầy do xứ Hòa Lan độc quyền sản xuất. Bác sỹ bèn lo việc
trồng cây Ký Na (Quinquina hay Cinchona).
Cây Ký Na chỉ sống trên núi cao từ 1.500 thước trở lên ở vùng
nhiệt đới. Sau khi tìm được Hòn Bà 7 là
nơi thích hợp, Bác Sỹ liền gởi mua giống và lo lập vườn ương cùng mở đường lên
xuống Hòn Bà Suối Dầu. Nhờ số tiền về giải thưởng của Viện Hàn Lâm Khoa Học vừa
gởi tặng, Bác sỹ hoàn thành công tác một cách song suốt và khỏi phiền đến Chánh
quyền địa phương.
Tháng 9 năm 1917, cây Ký Na bắt đầu trồng trên Hòn Bà. Ban đầu
nẩy nở rất tốt. Nhưng vài ba năm sau chậm lớn dần, rồi dừng hẳn lại. Đó là do đất.
Hòn Bà là một hòn núi đá, những lớp đất trên mặt do lá mục tạo thành không được
dày bao lăm, nên cây không đủ chất nuôi dưỡng khi đã lớn.
Năm 1923, Bác sỹ đem giống Ký Na Hòn Bà lên thí nghiệm ở Dran
và Djiring, Diom, trên Cao nguyên Lang Bian. Ở các nơi nầy, cây chóng lớn và tốt
hơn ở Hòn Bà. Vì vậy diện tích trồng cây mỗi ngày mỗi mở rộng. Năm 1930-1931 đã
trồng được 671 mẫu tây, và đã bóc được 2 tấn vỏ để bào chế ký ninh. Số sản xuất
mỗi năm mỗi tăng.
Nếu đệ nhị thế chiến không xảy ra, thì chắc Việt Nam khỏi cần
nhập cảng ký ninh vậy.
Công nghiệp của Bác sỹ Yersin thật là vỹ đại. Được vậy, chẳng
những nhờ ở tài trí siêu phàm, mà còn nhờ ở chí kiên quyết, tinh thần tích cực,
sức chịu đựng dẻo dai, lòng ham thích những mới lạ, và nhất là tánh không vụ lợi,
không hiếu danh. Những đức tánh ấy biểu lộ rõ ràng trên công tác thực tế. Thật
là một gương sáng cho những người muốn xây dựng sự nghiệp to lớn và lâu dài.
Con người có một sự nghiệp vẻ vang như thế, mà lại rất giản dị, rất khiêm tốn,
rất bình dân.
Tuy làm đến chức Quan Năm Thầy Thuốc (Médecin-Colonel), rất
ít khi Bác sỹ mặc quân phục và đeo huy chương. Tứ mùa tám tiết, luôn luôn mặc bộ
đồ ka-ki vàng, cổ cao và gài kín. Ngày hai buổi đi đến viện Pasteur, và thỉnh
thoảng lên thăm Suối Dầu, phương tiện chuyên chở không có gì khác hơn là chiếc
xe đạp Peugeot cũ kỹ. Chiếc xe đạp và bộ quần áo ka-ki là hình ảnh của Bác sỹ
Yersin trước mắt và trong trí người dân Khánh Hòa. Suốt 50 năm trời ở Nha
Trang, Bác sỹ sống độc thân, trong một ngôi nhà vừa kỳ vừa cổ, tại Xóm Cồn, giữa
những túp lều tranh xơ xác vì nắng gió của đồng bào địa phương.
Ngôi nhà nầy nguyên là một lô cốt (blockhaus) bỏ hoang mà Bác
sỹ đã mua được năm 1895 khi đến thiết lập phòng Thí Nghiệm. Lô cốt xây bằng gạch
rất kiên cố và đứng trên một nền bằng đá cao rộng chạy dài ra tận mé biển ở mặt
phía Đông. Hình khối đứng, chiều rộng mỗi cạnh chừng 5 thước tây, chiều cao chừng
11 thước. Gồm một tầng trệt và hai tầng lầu. Bác sỹ xây chung quanh mỗi tầng một
hành lang rộng rãi, và sắp xếp một tầng thành một phòng: Tầng dưới hết là phòng
ăn, tầng thứ hai là phòng ngủ, tầng trên hết là phòng làm việc. Lên xuống bằng
cầu thang xây hình trôn ốc. Trên sân thượng Bác sỹ lại xây một vòm tròn
(coupole) để đặt ống viễn kính xem thiên văn. Vòm thiên văn sơn màu trắng, vách
tường quét vôi vàng. Ngôi nhà xa trông phảng phất một đền thờ của người Cổ Ả Rập.
Người hàn mặc gọi là « Tháp Ngà », người bình dân gọi là « Lầu Ông Năm » 8 với
câu hát:
Ngó ra ngoài biển thấy tàu,
Ngó vô trong bãi thấy lầu Ông Năm.
Trong nhà, ngoài những sách vở và đồ nhật dụng cùng các dụng
cụ khoa học, không có một món đồ gì thuộc loại xa xỉ phẩm. Cũng không có một bức
tranh, một bức ảnh treo tường. Kể cũng không cần thiết. Bởi còn vật gì quí bằng,
đẹp bằng những cảnh vật thiên nhiên ở ngay trước mắt:
Con sông Nha Trang lặng lẽ từ hướng Tây chảy xuống, mang những
bóng núi ở ven bờ, bóng dừa ở Vĩnh Điềm, Ngọc Hội, bóng mây trắng trên trời
xanh, đến tận cửa sông mở sát bên hông nhà, phía Tây Bắc. Trước mặt nhà, về hướng
Đông, cửa biển Nha Trang, dáng tròn tròn như mặt trăng đêm mồng chín, luôn luôn
thay đổi sắc thái theo thời gian. Bãi cát vừa trắng vừa mịn chạy cong cong trên
7 cây số, trông như một lưỡi câu liêm mới mài. Núi Cù Lao ở phía Đông Bắc và
núi Chụt ở phía Đông Nam, mường tượng hai hòn đá mài đè nơi mũi và nơi chuôi lưỡi
câu liêm bãi cát. Và ngoài khơi, những hòn cù lao xanh nhấp nhô: Hòn Yến hình
kim tự tháp, hòn Rùa hình linh qui, hòn Trẻ hình bầy cá sấu đương bò xuống biển
sâu.
Nơi hành lang phòng ngủ, những lúc thư nhàn, chủ nhân thường
đứng tựa lan can ngắm cảnh vật thay màu đổi dạng theo ngày giờ theo mùa tiết. Lắm
lúc mở rộng thêm chân trời vọng cảnh qua những sách lật khẽ trong lòng ghế xích
đu.
Phong cảnh ngắm mãi không nhàm. Nhưng ngoài sân trong nhà,
không mấy khi có bóng khách sang lai vãng, thời Nha Trang đã trở thành nơi đô hội
cũng như thời còn là một bãi cát trắng với một xóm nhà tranh.
Bởi vì Bác sỹ Yersin là người quả giao. Trừ một số rất ít bạn
chí thân, Bác sỹ không ưng tiếp người lạ, nhất là người trong giai cấp thống trị,
trong giai cấp « rầm rộ ngựa xe ». Người Pháp cũng không hơn gì người Việt.
Trái lại, đối với giới bình dân, Bác sỹ rất ưa gần gũi. Bác sỹ thường đến nhà đồng
bào Xóm Cồn để chuyện trò cùng các vị phụ lão, hoặc để giúp đỡ bà con khi có việc
cần. Những đêm trăng thong thả các ông già bà cả hay đến chơi nhà Bác sỹ. Nơi
sân nơi hành lang, nơi phòng ăn, nhà bếp… muốn ngồi đâu thì ngồi, muốn nằm đâu
thì nằm… Muốn ở chơi lâu cũng được, muốn ra về gấp cũng được. Không lễ nghi,
không khách sáo. Còn đám trẻ con thì hễ thấy bóng Bác sỹ là chúng bu đến ngay.
Đứa ôm chân đứa nắm tay, đứa kêu nội đứa kêu ngoại. Bác sỹ mua một số sách có
hình ảnh dành riêng cho trẻ em. Những lúc rảnh thường đem ra cho chúng xem và
giảng cho chúng hiểu ý nghĩa. Không bao giờ Bác sỹ rầy la chúng. Có em nào nghịch
quá trớn hoặc làm những điều quấy, thì Bác sỹ chỉ đưa ngón tay trỏ lên và chắt
lưỡi vài tiếng là sửa chữa được liền.
Đồng bào Xóm Cồn yêu quí và kính trọng Bác sỹ như cha. Không
bao giờ đồng bào gọi tên Bác sỹ. Khi nói với nhau thì gọi là « ông già » 9,
khi nói với người ngoài thì gọi là « Ông Năm ». Người Khánh Hòa ở xa Xóm Cồn, đối
với Bác sỹ cũng rất ngưỡng mộ. Phần đông cũng dùng tiếng « Ông Năm » mà gọi Bác
sỹ khi nói chuyện với nhau.
Bác sỹ rất hiền từ. Không bao giờ quở trách ai nặng lời và
không bao giờ làm cho người khiếp sợ. Một hôm Bác sỹ cỡi xe đạp đến Viện
Pasteur, bị một tài xế ô-tô vô ý lái xe tông nhằm Bác sỹ té ngã. Không có gì
quan trọng, nhưng anh tài xế hết hồn, tay chân luýnh quýnh. Thấy vậy, Bác sỹ vội
trở dậy leo lên xe đạp đi thẳng, không hề tỏ vẻ đau đớn hay bất bình. Bác sỹ lại
rất bình tĩnh. Không bao giờ hốt hoảng, bối rối trước những cảnh ngộ nguy hiểm,
khó khăn.
Nhờ lòng nhân từ và tánh bình tĩnh mà những lúc vào rừng núi,
gặp thú dữ, Bác sỹ đều tránh khỏi tai nạn như có phép thần thông. Như trường hợp
gặp rắn trong cuộc thám hiểm lần thứ ba năm 1894 là một:
Một hôm Bác sỹ đi bắn chim để làm thực phẩm. Đương ngước mặt
ngó lên đọt cây để tìm mồi thì nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại thì ngó thấy
một con rắn hổ mang to lớn đứng thẳng lên trên đuôi, phùng mang lè độc. Bác sỹ
đứng yên, thái độ bình thản. Rắn lắc lư chiếc đầu dẹp muốn nhảy đến chụp, nhưng
lại trù trừ. Hồi lâu hạ mình xuống và vụt phóng vào bụi rậm đi mất.
Nghe được câu chuyện, có người đến hỏi Bác sỹ phải nhờ thuật
thôi miên mà thoát nạn chăng? Bác sỹ đáp: « Rắn độc cũng như thú dữ, cắn người
chỉ để tự vệ. Chúng đều có linh tánh. Một khi nhận biết rằng mình không có ác
tâm ác ý đối với chúng thì không bao giờ chúng làm hại mình ».
Quả đúng như vậy. Bác sỹ Yersin vốn đã có sẵn lòng từ bi và
đã dưỡng được tánh thanh tịnh. Chính từ lực và tịnh lực đã cảm hóa được ác thú,
khiến Bác sỹ được luôn luôn bình yên trong những cuộc thám hiểm. Trường hợp
chim se sẻ sau đây cho thấy từ lực và tịnh lực của Bác sỹ thêm rõ ràng.
Để mua vui, Bác sỹ thường lấy lúa gạo vãi cho se sẻ ăn. Ban đầu
chúng đến xa xa, lần lần đến gần, cuối cùng thì đến sát bên chân. Có con nhảy đậu
cả lên lưng ghế tay ghế của Bác sỹ! Thế mà hễ thấy bóng người khác đến là chúng
vụt bay đi ngay! Đó là vì luồng điện do ác tâm do sát ý của người phát ra làm
cho chúng sợ.
Bác sỹ biết được nhiều thứ tiếng. Tiếng Thụy Sỹ và tiếng Pháp
là tiếng « mẹ đẻ » không kể, Bác sỹ rất thông thạo tiếng Đức và nói được tiếng
Quảng Đông. Còn tiếng Việt Nam thì chỉ học đủ hiểu, đủ nói. Mặc dù ở lâu năm ở
Nha Trang, Bác sỹ vẫn nói tiếng Việt với giọng Tây và nói chậm rãi như người mới
học nói. Nhưng nói rất đúng văn phạm. Có một đặc điểm là nói về loài vật, Bác sỹ
vẫn dùng chữ « người ta » như nói về người. Một hôm Bác sỹ cùng đoàn tùy tùng
lên Hòn Bà. Đến chân núi thì thấy một bầy voi kéo đến. Đoàn tùy tùng sợ hãi,
Bác sỹ nói một cách thản nhiên: « Người ta đi đường người ta, có gì mà sợ» 10.
Quả vậy, bầy voi thấy bóng người, ngước lên nhìn rồi tiếp tục đi thẳng 11.
Câu nói giản dị nhưng thâm thúy nầy cùng sự kiện xảy ra đó làm sáng tỏ thêm một
lần nữa lời nói « Mình không có ác tâm ác ý đối với chúng, thì không bao giờ
chúng làm hại mình » đã dẫn ở trước.
Đức trọng, tài cao, sự nghiệp cả, danh vọng lớn! Thế mà từ
mày xanh đến đầu bạc, Bác sỹ vẫn sống một đời sống đạm bạc thanh cao, không vợ
không con, như một nhà chân tu, một nhà ẩn dật. Cho nên người hiểu biết gọi Bác
sỹ là Thánh Nhân (Saint homme) thật không quá đáng vậy.
Bác sỹ là người Thụy Sỹ nhập tịch Pháp, nhưng rất yêu quí Việt
Nam. Bác sỹ không quyến luyến đâu bằng Nha Trang. Đi đâu thì đi, rồi cũng vội
vã trở về cùng ngôi nhà lô-cốt.
Năm 1940, trong khi phe Trục Tam Giác và phe Đồng Minh đương
độ đánh nhau dữ dội, thình lình Bác sỹ lấy vé máy bay về Paris. Thăm viện
Pasteur cùng các bạn thân ít hôm rồi trở lại Nha Trang trong chuyến máy bay cuối
cùng trên con đường hàng không Pháp Việt. Đó là chuyến đi xa cuối cùng của Bác
Sỹ. Lúc bấy giờ Bác sỹ đã 77 tuổi. Nhưng trông còn quắc thước và tráng kiện lắm.
Đi đến viện Pasteur và lên sở Suối Dầu vẫn đủng đỉnh trên chiếc xe đạp như bốn
mươi mấy năm về trước, khi mới đến Nha Trang.
Mãi đến khoảng cuối tháng 12 năm 1942, người Nha Trang mới bắt
đầu thấy Bác sỹ không dùng xe đạp nữa, triệu chứng báo cho biết Bác sỹ đã yếu lắm
rồi! Nhưng khoảng cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1943, Bác sỹ vẫn còn ngồi nơi
hành lang phòng ngủ, theo dõi với ống viễn kính mức nước thủy triều của sông và
của biển Nha Trang… Lúc ấy tinh thần của Bác sỹ vẫn minh mẫn như thường, song sức
khỏe mỗi ngày mỗi thêm thỏn mỏn. Cuối cùng Bác sỹ phải nằm nghỉ.
Rồi đến 1 giờ khuya ngày 1 tháng 3 năm ấy (1943), Bác Sỹ âu yếm
nhìn những người đứng chung quanh giường bệnh, nói một tiếng « Vĩnh Biệt »
(Adieu) rồi nhắm mắt. Thọ 80 tuổi.
Người Xóm Cồn đương đi làm biển, được tin liền kéo nhau trở về
tất cả. Ông già, bà cả, người lớn, con nít, đều kéo nhau đến khóc than thảm thiết.
Rồi theo phong tục Việt Nam, lên hương án làm cỗ bàn, thành phục. Mọi người từ
lớn chí nhỏ đều để tang. Còn đám tang chính thức do Chánh quyền Pháp tổ chức,
theo di ngôn của Bác sỹ, cử hành trong im lặng, không trống không kèn, không
vòng hoa điếu văn. Phần mộ của Bác sỹ đặt trên một nổng gò trong sở Suối Dầu.
Cây cao su tỏa bóng xanh. Xa xa núi cao suối trong bao bọc.
« Sống khôn thác thiêng » hồn Bác sỹ hẳn thường đi về với cảnh.
Và công nghiệp của Bác Sỹ còn đó thời nghìn muôn thu, thanh danh của Bác sỹ vẫn
còn vang mãi trong làng khoa học thế giới, trên đất nước Việt Nam, nhất là Nha
Trang, Suối Dầu, Hòn Bà, Dalat, Lang Bian, Darlac. Và đến Khánh Hòa, trông thấy
Viện Pasteur Nha Trang cùng sở Cao su Suối Dầu thì không mấy ai không nhắc đến
Bác sỹ:
Nha Trang biển chẳng phai xanh,
Thời danh Bác sỹ Yersin còn truyền.
Chú thích:
1- Quảng Phước là tên cũ của Vạn Ninh (Xem phần Lịch Sử ở trước).
2- Vì Tiểu sử của Hòa Thượng Thích quảng Đức đã có nhiều sách
báo nói đến, những thi văn tán thán Hòa Thượng cũng đã có nhiều sách báo lục
đăng, nên chỉ nói qua những nét chính, và trích dẫn một bài thơ xuất sắc nhất
mà thôi.
3- Nhà thông thái Đức Robert Koch tìm được vi trùng ho lao
năm 1882. Bác sỹ Yersin trước khi làm luận án tấn sĩ có sang Đức theo giõi các
lớp giảng của Koch.
4- Phỏng ý câu: « Chacun se débrouillera à part, ce qui n’en
vaudra que mieux, car si l’un part sur une fausse piste, l’autre ne saurait
l’imiter », trong tập nhật ký của Bác sỹ Yersin.
5- Xem mục « Viện Pasteur » ở phần trước.
6- Xem mục « Viện Pasteur » ở phần trước.
7- Xem phần « Địa Lý » mục nói về Hòn Bà ở trước.
8- Bác sỹ làm Quan Năm Thầy thuốc (Médecin-Colonel).
9- Ở miền Nam Trung Việt, con cái thường gọi cha mẹ là « ông
già », « bà già ».
10- Chép đúng nguyên văn.
11- Có người còn nói thêm rằng: Con voi chúa đoàn đưa vòi ra.
Bác sỹ lấy cây baton cầm nơi chuôi, đưa đầu quẹo móc vào vòi voi «bỏ sua».
Voi giục giặt mấy cái rồi mới đi.
Phụ Lục
i. Hồi ký về cuốn xứ trầm hương
A. ÐÔI NÉT VỀ TỈNH KHÁNH HÒA.
Mặc dù gồm đủ các mục cần thiết: Lịch sử, Ðịa lý, Thắng cảnh,
Cổ tích, Nhân vật..., Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa chưa có thể gọi là một địa
phương chí, vì quá sơ lược.
Ðó là một bài diễn văn, nói làm hai buổi, chỉ dày 30 trang giấy
đánh máy hàng hẹp.
Nguyên vào năm 1926, trở lại ngành hành chánh và phục vụ tại
tòa hành chánh tỉnh Khánh Hòa ở Nha Trang, tôi phụ trách soạn thảo địa phương
chí cho chánh quyền địa phương. Vốn ở Khánh Hòa đã lâu năm, công việc ấy đối với
tôi không lấy gì làm khó lắm. Huống nữa địa phương chí viết theo kiểu hành
chánh thì chẳng cần phải nhiều tài liệu. Nhưng việc viết địa phương chí tòa
hành chánh Khánh Hòa dã giao cho một nhân viên viết từ ngày người Pháp giao quyền
lại cho người Việt, ngót bao nhiêu năm qua mà chưa có được chữ nào, thì sao
mình lại làm tài khéo tài khôn viết vội.
Viết xong trong một thời gian ngắn đã gây ác cảm với người
“tiền nhiệm” lại làm cho bọn có quyền tưởng lầm rằng “ai viết cũng được”. Thêm
nữa sao lại không nhân dịp tìm thêm một số tài liệu cho mình.
Tôi bèn đề nghị ông Tỉnh trưởng cấp phương tiện để đến từng
quận khảo cứu tường tận rồi sẽ viết. Ông Tỉnh chấp thuận, nhưng hai ông phó cho
là tốn công và mất thì giờ. Ðể có tài liệu viết, họ bảo tôi đưa ra những gì cần
biết, rồi sức cho các quận lo tìm hiểu và phúc trình.
Tháng ngày qua... và tôi đợi...
Thời bấy giờ có phong trào học tập chánh trị. Mỗi tuần các
công chức nghĩ việc trong 2 giờ để học tập. Mỗi cơ quan cử ra một ban thuyết
trình. Tôi bị dính vào ban thuyết trình chung của thị xã Nha Trang. Nói mãi về
chính trị ai nấy đều ngấy cả người. Tôi đề nghị thỉnh thoảng đổi món. Toàn ban
đồng ý và tôi phải thực hiện trước tiên.
Sẵn có tài liệu trong tay(1), tôi bền lấy tỉnh Khánh Hòa làm đề tài
nói chuyện.
Tôi mất ngót một tuần nhật để viết bài - viết trong những giờ
rảnh ở sở.
Lập ý, cấu tứ, bố cục xong, tôi ngồi vào bàn đánh máy chữ với
bản đồ trước mặt, rồi lốc cốc lốc cốc...
Lắm lúc nguồn văn đang tuôn trào thì ông Tỉnh sai làm việc
này, ông phó kêu hỏi việc nọ, hoặc ông ty nhờ chút việc kia, làm tôi cụt hứng.
Khi trở lại cùng văn chương, phải vét phải bước giây lâu mới tìm được mạch trở
lại... Những buổi vào làm việc được vài giờ liên tiếp, không bị gián đoạn, thì
thích thú vô ngần. Tiếng máy đánh chữ của tôi làm át hẳn tiếng máy đánh chữ và
tiếng nói chuyện chung quanh. Tôi có cảm giác là tôi là một nhạc sĩ ngồi đánh
dương cầm (piano) và đến khi tôi tự hỏi: “tiếng máy chữ giúp cho nguồn văn mình
chảy dễ dàng hay nguồn văn mình làm tiếng máy chữ kêu êm ái”?
Ở nhà làm việc hay lúc làm việc trong một phòng riêng ở Ty Kiến
Thiết, tôi không có những cảm giác ấy, ý nghĩ ấy. Tôi chắc ở đây, sức cố gắng bật
những tiếng ồn ào chung quanh, đã gây ra để làm gia vị cho công việc sáng tác
không nhằm nơi...
Các nhà tu thiền ngồi nhập định ở giữa chợ chắc hưởng nhiều lạc
thú hơn ngồi nơi thanh vắng? Và có lẽ hứng vị của các nhà tu lúc ngồi thiền
cũng như mình lúc sáng tác mỗi khi mỗi khác, cho nên nhập định mãi, sáng tác
mãi, mà không bao giờ chán, không bao giờ nhàm...
Một đôi bạn đồng sự thấy tôi làm việc chăm chỉ, đến ghẹo để
mua vui. Nhiều khi rất bực. Song xét kỹ bực bội không có lợi chi hết, tôi bèn
“tương kế tựu kế” tìm ngay chút ít vui trên thú vui nghịch ngợm của anh em...
Một hôm một ông bạn đến đứng xem tôi làm việc thấy bên những
cảnh núi sông tôi có điểm xuyết một vài câu ca dao địa phương, hay một bài hát
do tôi soạn nhưng dấu tên, bèn nói:
- Các nhà thơ đến đâu làm hoen ố phong cảnh đến đó. Hèn chi
ca dao có câu:
“Hòn đất mà biết nói năng
Thì mồm thi sĩ hàm răng không còn.”
Nghe nói, ngước lên nhìn, tôi không ngăn nổi trận cười bộc
phát. Ông bạn ngạc nhiên hỏi:
- Anh cười gì, mà coi bộ thích thú như thế?
- Tôi cười anh là thi sĩ mà không tự biết.
- Câu ca kia đâu phải của tôi.
- Tố giác anh đâu phải câu ca, mà chính là hàm răng vàng anh
vậy.
Lại một bận khác, một ông bạn khác đếm xem bài. Lúc ấy tôi vừa
viết xong con sông Cù ở Nha Trang và bước sang con sông Dinh ở Ninh Hòa. Tôi mới
viết đến ba ngọn nguồn của con sông và đương nghĩ một bài ca trang điểm cho
phong cảnh nhưng chưa tìm ra ý. Ông bạn xem bài ca về con sông Nha Trang:
Sông Nha Trang, cát vàng nước lục
Thảnh thơi con cá đục
Lội dọc lội ngang...
Ðã nguyền cùng em giữ dạ đá vàng,
Quý chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Anh nỡ phụ phàng nước non.
hỏi tôi:
- Sông Nha Trang có thơ, sông Ninh Hòa chắc cũng có chứ?
Ông bạn là người quen biết cũ. Trước kia bị tình phụ thường
dùng rượu để giải sầu. Nghe ông bạn hỏi, tôi liền nảy tứ, đáp:
- Sông Dinh mà không có thơ thì chợ Ninh Hòa hết người đến uống
rượu. Xem đây:
Vừa dứt lời, tôi đánh lốc cốc:
Sông Dinh có ba ngọn nguồn
Anh nhớ em băng đèo vượt suối,
Nhưng không biết đường đến thăm em!
Ghé vô chợ Ninh Hòa
Mua một xâu nem
Một chai rượu trắng,
Anh uống cho say mèm để quên nỗi nhớ nhung...
Rượu không say,
Nghĩ lại ngại ngùng
Con gái 12 bến nước,
Biết thủy chung bến nào?
Nhân câu chuyện xưa của ông bạn, mà kéo được nem và rượu là
món đặc biệt ở Ninh Hòa vào để trang điểm cho sông Dinh, thì thật là thú vị!
Tôi nghĩ nếu không có ai đến, hoặc có mà là một người khác chớ
không phải ông bạn say rượu vì tình kia, thì liệu có đem được nem được rượu vào
làm gia vị cho cảnh sông Dinh không? Chắc là không... Cho nên ngoài mình ra, ai
hiểu vì sao lại có câu “vui vui” như thế (2). Thánh Thán nói: “Khi ta viết văn có con
ruồi đậu trước ngòi bút. Khi người xem văn ta không thấy con ruồi đậu trước
ngòi bút thì làm sao hiểu được ta”(3) là nói về những trường hợp như trên.
Những ý nghĩ “lạc đề” thế ấy thường nảy ra trong khi viết
lách. Thường thường, tôi phải ngừng viết, để ghi chép kẻo quên, nếu thấy hay
hay... Ðó là vài hột đậu phộng rang, vài cộng rau giá hay một hớp canh rau tập
tàn... điểm vào bữa ăn thịnh soạn..., chúng chỉ làm cho thêm thích khẩu khi trở
lại dùng những món ăn chính.
Viết Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa tôi gặp được một số đậu phộng
rang và rau giá... mà hai chuyện trên là đại biểu xứng đáng...
Ðến đoạn cuối, để chấm dứt cho ý vị, tôi dùng đến những món
ăn đặc biệt của Khánh Hòa xào nấu thành ca dao:
Thơm Vạn Giả ngọt đà quá ngọt(4)
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon(5)
Hỡi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Ở Khánh Hòa có mấy món ăn đã nhập làng tục ngữ là:
Yến sào Hòn Nội, vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba, nai khô Diên Khánh(6).
Nhân thời Pháp thuộc lên Võ Cạnh chơi, được ăn một bữa cháo
cá tràu ngon quá sức ngon. Từ ấy tôi không còn thấy cá tràu nơi nào bì kịp. Lại
sau khi hồi cư về Nha Trang, nhà tôi mua được một mớ sò huyết mà người bán nói
rằng ở Thủy Triều mới đem ra. Tôi ăn rất khoái khẩu - nên tôi bèn nhập ngay hai
món nầy vào bốn món kia, gia vị thêm chút tình của mình thành một bài hát:
Yến sào Hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều
Ðời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngọt sớm ngon chiều với em.
Ðến ngày đem ra trình làng, tôi nhờ một số văn nghệ sĩ Nha
Trang phụ trợ việc ngâm hát những thơ, ca theo nhịp đàn sáo như kỳ diễn thuyết
Hàn Mặc Tử tại Saigon.
Cuộc nói chuyện tổ chức tại rạp chiếu bóng Tân Tân. Thính giả
hầu hết là công chức (giáo viên, thư ký, ty, sở, trưởng, chủ, sự...) và các
nhân sĩ trong thị xã Nha Trang. Cuộc nói chuyện được hoan nghênh nhiệt liệt.
Ông Hiệu trưởng trường trung học Võ Tánh nói:
- Ðịa lý là môn khô khan dễ chán mà anh trình bày thế ấy, thì
thật chẳng khác chiếu phim phong cảnh. Rước anh dạy địa dư thì tuyệt.
Tôi cười:
- Ðừng bày, trước đây tôi đã bị phê bình rằng đem tánh chất
lãng mạn trộn cả vào môn địa lý, và bị đuổi ra khỏi trường rồi. Ðâu dám “tái phạm”.
Buổi nói chuyện được ghi âm và được phổ biến trên đài phát
thanh làm vui cho đồng bào địa phương không ít.
Ông bạn già Trần Thúc Lâm ở xóm Máy Nước cạnh đài phát thanh
Nha Trang, đến bảo:
- Hòn Trại Thủy ở đâu? Tôi hỏi không ai biết hết. Họ nói ở
trong thành phố Nha Trang chỉ có núi Sinh Trung chơ không làm gì có núi Trại Thủy.
Có người bảo rằng anh “đẻ” ra, nên núi chỉ nằm trong tưởng tượng.
Tôi phá lên cười:
- Vậy xóm Máy Nước của anh cũng do tôi “đẻ” ra hay sao? Bởi
hòn Trại Thủy nằm ngay trước mặt nhà anh.
- Ðó là hòn núi Chùa chớ.
- Sẽ có người cải đó là hòn Xưởng hoặc hòn Kho vì xưa kia có
kho và xưởng ở núi.
- Sao lại nhiều tên thế.
- Thì cũng như người trợ bút cho Lành Mạnh, mỗi kỳ viết bốn
năm bài mà phải lấy bút hiệu nào Cổ Bàn Nhân, nào Thi Nại Thị nào Cù Huân
Khách, nào Ðịnh Phong...
- Thế thì cũng có phần rắc rối.
- Tôi đã nói rõ vì sao người ta lại gọi là Trại Thủy, là Hòn
Kho, Hòn Xưởng, mà cũng đã nói rõ nó nằm ở núi nào. Tại người nghe không để ý
nên sanh ra thắc mắc. Nhà văn thường bị độc giả rầy oan là vậy đó...
Thượng tọa Thích Trí Thủ nói cùng đệ tử là Tràn Ðình Lạc:
- Ăn nằm vói núi đã chín mười năm, mãi nay nhờ bác Quách mình
mới biết tên là Trại Thủy!
Như vậy bài Ðôi nét vè tỉnh Khánh Hòa cũng gây được ít nhiều ảnh
hưởng trong quần chúng.
Năm 1963, nhân làm Tổng giám thị Trung tâm tu nghiệp cán bộ
Khánh Hòa tôi cho in ronéo bài diễn văn ấy phát cho anh em làm tài liệu tham khảo
khi đi phục vụ nhân dân. Tôi gởi cho các bạn quen xa gần để mua vui. Hiếu Chân
lấy làm thích thú, đăng lời cảm tạ và hẹn sẽ nói về công phu bài ấy, trong số Tự
Do ra ngày 18-4-1963. Hiếu Chân chưa kịp viết bài thì ông bạn Phan Ngọc Châu,
giáo sư Việt Văn và sinh ngữ ở Saigon gởi bài phê bình đến dăng ở số Tự Do ra
ngày 221-7-1963, Phan quân tán thán nhiều điểm.
Còn Nguyễn Ang Ca thì lấy trọn bài đem vào thiên phóng sự Miền
Trung đăng trong Tiếng Chuông, tháng 4-1963. Họ Nguyễn chỉ mào đầu vài câu rằng
ra Nha Trang gặp tôi và được tôi tặng nhiều tài liệu về Khánh Hòa, rồi cắt từng
khúc bài của tôi, đem y nguyên văn vào bài của mình mà không để trong vòng kép
(“...”) cho rõ rằng anh ta trích của tôi. Tôi viết thư phản đối. Anh ta đăng
bài công bố rằng phần nhiều tài liệu trong bài phóng sự là của tôi, chớ không
nói những đoạn nào là của tôi (thỉnh thoảng có chen năm ba câu của anh ta vào
bài của tôi...) Trong khi tặng Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa tôi lại còn cho mượn một
phiến ảnh chụp cảnh hốt cốt Hàn Mặc Tử. Anh ta đem vào Saigon làm bản kẽm in
vào đoạn nói về Quy Nhơn song không cẩn thận làm mất phứt!! Tôi bảo rằng anh ta
cố ý đoạt, anh ta lấy danh dự thề rằng không có tà tâm. Tôi đành chịu thiệt!!!
Tôi không ngờ một người có tên tuổi trong làng báo mà thiếu
thận trọng như thế. Tôi chợt nhớ đến lời nói của Tân Việt năm 1958 khi mới gặp:
“Anh nên cẩn thận, chớ nên đưa các bản thảo cho các nhà văn nhà báo xem. Nhiều
người không được liêm chính”.
Nhưng rồi tôi lại nhớ đến lời của ông bạn Nguyễn Ðồng: “Văn
mình có giá trị người ta mới ăn cắp. Chớ ai lấy trộm giẻ rách làm gì”.
Tôi cười mà bỏ qua.
Rồi nhận thấy Ðô nét về tỉnh Khánh Hòa có ít nhiều giá trị,
tôi định sẽ bổ túc các mục còn thiếu, các cảnh còn sót để làm thành một phướng
pháp diệt phiền não.
Thậy vậy. Chẳng lúc nào tâm hồn tôi được thanh thản bằng lúc
làm thơ viết văn.
Trước kia tôi tưởng chỉ làm thơ mới được đưa tâm hồn ra ngoài
và lên trên những phiền toái của cuộc sống hàng ngày, chỉ làm thơ mới khơi vợi
được những gì tích tụ, những gì âp ủ... trong lòng. Nhưng từ khi quen với văn
thì nhận thấy viết văn cũng có hiệu quả như làm thơ. Chi khác một điều là viết
văn phải ngồi và mất công viết. Song lại được cái thú là “được mỏi tay mỏi lưng
phải đi nằm cho hết mỏi”. Không mỏi mà đi nằm đâu có thú bằng mỏi mà đi nằm.
Cũng như không đói mà ăn đâu có ngon bằng đói mà ăn.
Như thế là: viết văn làm thơ đã thú mà lại còn tìm được thích
thú trong thú làm thơ viết văn. Thành ra thú sanh thú, thú cha, thú con, thú
cháu... vô tận vô cùng...
Bởi vậy nên viết mãi không chán.
Cực chẳng đã mới nghỉ viết.
(Trích hồi ký Bóng Ngày Qua)
B. XỨ TRẦM HƯƠNG
Xứ Trầm Hương là “Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa” bổ túc và nhuận
chính.
“Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa” hoài thai từ thời Pháp thuộc lúc
tôi còn làm việc tại tòa sứ Nha Trang (1935-1945). Lúc bấy giờ thỉnh thoảng
theo làm thông ngôn cho các nhà du lịch và khảo cổ ngoại quốc, tôi biết được
thêm nhiều thắng cảnh cổ tích ở những nơi xa vắng, ngoài những danh thắng gần
thành phố Nha Trang. Tôi lại được các vị tiền bối như cụ cử Phan Bá Vỹ, cụ đề
Ngô Văn Nhượng, nhà Nho Trần Khắc Thành... kể cho nghe nhiều chuyện ly kỳ, nhiều
tích lý thú.
Nhờ đó mà tôi viết “Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa”.
Vì là một bài thuyết trình cho nên chỉ viết lại những nét đại
khái. Tôi cũng có ý muốn viết kỹ lại kẻo những tài liệu đã thu thập được rủi mất
đi uổng. Nhưng chưa có dịp mà cũng chưa thấy hứng.
Nhân tôi có gởi tặng Nguyễn Hiến Lê một bản “Ðôi nét về tỉnh
Khánh Hòa” và nói qua trường hợp soạn thảo. Nguyễn quân khuyên nên viết kỹ lại.
Võ Hồng và Châu Hải Kỳ cũng đồng ý cùng Nguyễn Hiến Lê. Võ Quân bảo:
- Cảnh thiên nhiên dù có thay đổi vẫn còn dấu tích, chớ những
câu chuyện liên quan hoặc nhiều hoặc ít đến Khánh Hòa, hiện nay đã ít người biết
rồi, nếu anh không viết lại thì sau anh e không còn ai biết để viết.
Nguồn hứng vừa khơi thì tôi lại gặp Hòa Thượng Thích Trí Thủ
và Ðại đức Trừng San. Hòa Thượng hứa ủng hộ việc xuất bản. Ðại đức cho mượn xe
và hướng dẫn đi thăm các ngôi chùa cổ và đôi cảnh cần thăm lại và có thể đến
thăm.
Trong khi đi tôi lại thu thập thêm được nhiều tài liệu quý
báu.
Những sự kiện ấy kích thích tôi hăng hái viết về Khánh Hòa.
Tôi tạm gác “bóng Ngày Qua”.
Sau khi đi các quận “tạm đủ” rồi, tôi lo viết. Tôi khởi sự
vào đầu tháng 9 năm 1968, và quyết cố hoàn thành trước tháng 12, hầu kịp xuất bản
trong tết Kỷ Dậu để làm quà mừng tuần hoa giáp của tôi.
Nhưng trời chẳng chiều người! Vừa viết xong được 3/4 thì bị
ngọa bệnh.
Nguyên tôi đau nội trĩ đã gần 40 năm. Nhờ giữ vệ sinh nên
“quân bất lương” không có cơ quấy phá. Không biết có phải vì tôi ngồi nhiều quá
hay vì “kỳ hạn đã đến” mà mạch lương (fistules anales) trổ ra. Nghe tin bác sĩ
Tân-Tây-Lan ở nhà thương Quy Nhơn mổ giỏi, tôi bèn ra Quy Nhơn.
Mổ ngày 26-12-1968.
Cuối tháng 1 năm 1969, tôi về Nha Trang định ăn tết xong trở
ra trị cho thật lành. Nhưng thấy vết mổ mỗi ngày mỗi cạn dần nên nằm nhà băng
bó. Gần hai tháng rưỡi trôi qua, tưởng bệnh đã lành, ngồi viết tiếp về Khánh
Hòa. Mới mấy hôm bệnh trở phải ra Quy Nhơn trở lại (15-4-1969).
Ra Quy Nhơn bị mổ đi mổ lại đến 5 lần. Phải nằm bệnh từ nửa
tháng 4 đến nửa tháng 6-1969 mới về Nha Trang trở lại.
Sáu tháng trôi xuôi! (12-68 - 6-69)
Khi về Nha Trang thì thấy tập địa phương chí “Non nước Khánh
Hòa” của ông Nguyễn Ðình Tư đã bán ở các tiệm sách.
Ông Tư trước kia làm tại Ty Ðiền địa Nha Trang, cùng tôi là
chỗ quen biết. Tôi nghe ông ta viết tập Non nước Khánh Hòa đã lâu. Nhưng biết rằng
ông ta viết theo lối viết “Non nước Phú Yên”, nên tôi không ngại bị dẫm chân
nhau. Nhưng nghe sách ông ta đã ra, lòng tôi không khỏi nao nức muốn đọc. Ðọc
xong thật mừng vì quả như lời tôi đã đoán. Song lại có hơi bực vì ông ta đã lấy
một số “ca dao” trong “Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa”, đã không ghi xuất xứ lại còn
sửa nhiều chỗ để tỏ rằng tự mình đã tìm ra chớ không phải mượn của tôi. Những
câu ấy vốn là của tôi đặt ra, ai biết đâu mà truyền cho ông ấy?(7)
Anh Trần Thúc Lâm cùng máy anh em ký giả quen biết ở Nha
Trang muốn viết bài chỉ trích. Sợ có người hiểu lầm rằng tôi đã xúi anh em vì
ganh tị, nên tôi can:
- Không có gì quan trọng, cứ để sách tôi ra đời, bạn đọc sẽ
rõ trắng đen.
Rồi tôi tiếp tục viết Khánh Hòa bị bỏ dỡ và đã hoàn tất sau
ba tuần nhật cần cù.
Nhận thấy tên “Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa” không gọn và tên
“Non nước Khánh Hòa” ông Tư đã dùng trùng, tôi bèn lấy tên: XỨ TRẦM HƯƠNG
Vì Khánh Hòa có nhiều trầm hương nhất các tỉnh miền Trung, và
tôi có bài ca:
Khánh Hòa là Xứ Trầm Hương
Non cao biển rộng người thương đi về
Yến sào ngon ngọt tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.
Sau khi viết xong tựa bài nói rõ tính cách và mục đích Xứ Trầm
Hương. Tôi đem lên Viện Phật học Nha Trang trao cho Hòa Thượng Thích Trí Thủ để
Hòa Thượng đem vào Saigon in.
Công việc yên xong vào tiết Tiểu Thử, năm Kỷ Dậu, tức trung
tuần tháng 7 năm 1969.
Viết Xứ Trầm Hương tôi viết theo lối hồi ký. Nghĩa là tôi ghi
lại những gì tôi thấy, tôi nghe, tôi cảm trong mấy mươi năm sống cùng non nước
Khánh Hòa. Tôi chú trọng về thắng cảnh cổ tích, giai thoại huyền thoại là những
cái dễ mất. Còn những gì thuộc về địa lý thuần túy là những cái thường còn thì
nhượng cho các nhà khảo cứu, các nhà địa lý học chuyên môn.
Do đó tôi thích thú khi viết Xứ Trầm Hương cũng như khi viết
“Bóng Ngày Qua”: tôi viết lòng tôi, tôi sống lại.
Tôi sống lại và làm sống lại cho Khánh Hòa nhiều “cái” đã chết
hẳn trên mặt đất và trong lòng người địa phương. Nói là chết trong lòng người địa
phương kể cũng oan, vì người hiện thời đâu phải người cựu thời. Các vị phụ lão
đều qua đời hết. Anh chị em thanh niên bị cái “mới” lôi cuốn, ít người nghĩ đến
những “cái cũ” của cha ông, bởi những cái cũ ấy không đem lại những ích lợi trực
tiếp, những ích lợi hiện tiền. Làm sống lại những “cái vô ích” ấy, tôi lấy làm
khoái. Tôi khoái riêng cùng tôi. Và tôi cảm thấy “Xứ Trầm Hương” là một cõi
riêng biệt của tôi, và tôi làm một đại biểu của người cổ Khánh Hòa lãnh thiên
chức giữ gìn những “cái” đã mất và sắp mất trước làn sóng ngoại lai.
Viết Xứ Trầm Hương tôi “viết” bằng máy đánh chữ.
Làm xong dàn bài trong trí, tôi ngồi vào bàn máy là “viết” một
hơi. Ý theo tiếng lóc cóc của máy mà nhảy ra. Lời theo ý mà hình thành. Câu cú
suông sẻ càng tốt, què quặt cũng mặc. Viết xong một đoạn, siêng thì đọc lại,
nhác thì cho qua.
Thật chẳng khác viết hồi ký!
Bởi mục đích chính là gởi gắm chút lòng, tiêu diệt phiền não,
chớ đâu phải “làm văn”.
Tuy vậy, tánh thận trọng đã sẵn có trong người, sức uẩn nhưỡng
đã nuôi sẵn từ trước, cho nên tự tin rằng không có sự bừa bãi trong ý cũng như
ngoài lời.
Khi mới bắt đầu viết, tôi tưởng sách chỉ dày độ trăm rưỡi
trang là nhiều. Vì “Ðôi nết về tỉnh Khánh Hòa” chỉ có vài chục trương đánh máy.
Không ngờ Xứ Trầm Hương dày đến trên 300 trang đánh máy. Dày ngang “Nước non
Bình Ðịnh”.
Viết về non sông, có cái vui mà đôi khi cũng có cái buồn. Viết
về Bình Ðịnh tôi buồn cho tỉnh nhà bị mấy cay cầy và cây ké ở đèo An Khê. Hai
cây nầy là di tích lịch sử. Chúng đã chứng kiến lễ tế cờ của 3 vua Tây Sơn. Cho
nên phương ngôn có câu: “Cây ké phất cờ, cây cầy khỉ cổ”. Thời Ngô Ðình Diệm
cán bộ địa phương đã hạ cây ké để lấy gỗ làm trụ sở và gần đây cây cầy đã bị
thuốc khai quang của Mỹ làm rụng lá đen cành. Sống thác thế nào chưa rõ! Viết về
Khánh Hòa, tôi buồn về tấm bia Võ Cạnh.
Võ Cạnh là một làng thuộc quận Vĩnh Xương giáp giới quận Diên
Khánh và nằm về phía Nam Quốc Lộ số 1.
Ở đó có một tấm bia bằng đá xanh, cao lớn, khắc chữ “Khoa - Ðẩu”.
Theo các nhà khảo cổ thì bia nầy dựng từ thế kỷ thứ II, để làm biên giới của
Phù Nam và Chiêm Thành.
Bia nằm dưới một cây duối lâu đời, nửa ló lên mặt đất, nửa
chông dưới bùn ruộng. Suốt bao nhiêu đời ít ai để ý.
Năm 1936, có một nhà khảo cổ đến Nha Trang. Nhờ ông học sanh
Nguyễn Tấn ở Võ Cạnh, tục gọi là Học Bảy chỉ điểm, nhà khảo cổ đến xem và quả
quyết là tấm bia phân ranh giới của Phù Nam và Chiêm Thành. Ông sứ Lavigne định
đem bia về tòa sứ Nha Trang. Nhưng chưa kịp thực hiện thì bị đổi, ông sứ
Destenay đến thế. Tôi “làm tài khéo tài khôn; vào nhắc, bị cự cho một mớ vuốt mặt
không kịp!” Từ ấy không ai còn nghĩ đến tấm bia.
Khi viết Xứ Trầm Hương, tôi nhớ đến bia ấy... Nhưng ông Học Bảy
đã qua đời, quang cảnh trong làng lại có nhiều sự thay đổi, tôi đi tìm mấy bận
không còn thấy cây duối cổ ở chỗ nào! Nhờ người con ông Học Sanh là anh Ngộ tìm
dùm, cũng không biết nơi đâu là nơi có tấm bia và cây duối! Trên 30 năm rồi,
cây duối làm vì còn sống, bia đá chắc gì còn vùi lấp để đợi thiện duyên mà trồi
lên(8)
Ở các nước văn minh, các cổ vật được bảo tồn trân trọng. Ở nước
mình chánh quyền chỉ nghĩ đến những cái mới của nước người, phần đông nhân dân
cũng không có lòng háo cổ. Thành thử cổ tích của nước nhà bị tàn rụng lần lần.
Nếu tình hình hỗn loạn cứ kéo dài thì lúc thái bình e người Việt Nam sẽ trở
thành một dân tộc mới bắt đầu dựng nước. Trong nước sẽ không còn một mảy may gì
chứng tỏ rằng mình có một nền văn hiến bốn nghìn năm!
Lắm lúc thật là buồn!
Cầu may vớt vác được chút nào hay chút nấy, tôi ghi chép tất
cả những gì tôi thấy tôi nghe. Dù là công dã tràng, công Tinh Vệ tôi cũng tự thấy
được an ủi ít nhiều.
Cho nên khi làm việc văn chương, tôi thấy tôi sống, và tự cho
mình sống có ích, ít nhất là cho bản thân. Ngày tháng trôi qua mình không biết,
nếu biết cũng không tiếc bởi dã dùng làm việc cho văn chương, cho đời sống: Thì
giờ không mất.
(Trích hồi ký Bóng Ngày Qua)
II. BÊN LỀ CUỐN XỨ TRẦM HƯƠNG
BỨC THƯ GỞI BÁO ÐẠI ÐOÀN KẾT
Nha Trang, ngày 15 tháng 11 năm 1982
Kính gởi: Tòa soạn Ðại Ðoàn kết, 66 Bà Triệu, Hà Nội.
Trích yếu: về việc ông Nguyễn Hoàng Diệp lấy văn trong Xứ Trầm
Hương làm của mình.
Tờ Ðại Ðoàn Kết số 17 ra ngày 18/8/1982 (mà tình cờ tôi được
đọc) có đăng nơi trang 8 bài Nha Trang - Thành phố du lịch của ông Nguyễn Hoàng
Diệp.
Bài của ông Nguyễn Hoàng Diệp là một bài, từ đầu chí cuối, chắp
nối những đoạn văn lấy trong tập địa phương chí Xứ Trầm Hương của tôi soạn và
xuất bản tại Nam Việt Nam năm 1969. Ông Diệp đã chắp nối những đoạn văn lấy
trong Xứ Trầm Hương bằng đôi lời đưa đẩy, thành một bài văn ý tiếp mạch liền.
Những bạn chưa đọc Xứ Trầm Hương rất dễ lầm bài của ông Diệp là một sáng tác, một
bài sáng tác của một người đã sống ở Nha Trang lâu năm.
Xứ Trầm Hương rất được phổ biến ở Nha Trang, vì là một quyển
địa phương chí của tỉnh Khánh Hòa. Sợ nơi quý Tòa soạn không có tập văn ấy, tôi
xin ghi rõ sau đây những đoạn ông Diệp đã lấy trong Xứ Trầm Hương.
- Ðoạn đầu nói về sự giải thích sai lầm hai tiếng Nha Trang,
ông Diệp đã chép y trang 158, 159 của Xứ Trầm Hương;
- Ðoạn tiếp nói về nguồn gốc của hai tiếng Nha Trang, ông Diệp
đã chép gần y trang 106 của Xứ Trầm Hương;
- Ðoạn nói về bốn “con thú” trên cuộc đất Nha Trang, ông Diệp
đã chép gần y trang 166 của Xứ Trầm Hương;
- Ðoạn nói về các ngọn tháp Chàm, ông Diệp đã rút gọn trang
170, 175, 178, 180 của Xứ Trầm Hương;
- Ðoạn nói về bãi biển Nha Trang, ông Diệp đã tỉa lời và ý
nơi trang 163, 164, 165... của Xứ Trầm Hương;
- Vân vân...
Mượn văn người khác, văn cổ hay văn kim, là việc thường trong
làng văn từ xưa đến nay. Những người cầm bút biết tự trọng, những nhà văn chân
chính, khi trích một đoạn văn của ai, hay ở sách nào, đều ghi rõ xuất xứ, đều
không quên tác giả những câu mình trích. Nếu tác giả những câu mình trích còn tại
thế, thì theo phép lịch sự, phải xin phép trước. Nếu không biết địa chỉ của tác
giả thì phải ghi rõ ở nơi “bị chú”. Ðó là phép xã giao mà giới lao động trí óc
thường dùng để cho đời sống tinh thần thêm đẹp.
Tôi không hiểu vì sao ông Nguyễn Hoàng Diệp lại làm một việc
không được chính đáng như thế? Quyển Xứ Trầm Hương ra đời đã lâu, tất cả mọi
người đều có thể dùng làm tài liệu, mọi người đều có thể trích đăng... Việc sử
dụng đó làm tăng giá trị giá trị cho tập văn, chớ không làm thiệt hại cho tác
giả. Song người sử dụng phải tỏ thái độ đứng đắn để nêu cao tác phong và đạo đức
của giới cầm bút.
Tôi viết bức thư nầy không có mục đích gì khác hơn là đề nghị
quý Tòa soạn, nếu thấy lời nói của tôi là phải, thì yêu cầu ông Nguyễn Hoàng Diệp
nên sửa sai, hầu trở nên một nhà văn tốt về mọi phương diện.
Kính thư
QUÁCH TẤN
BÊN LỀ CUỐN “XỨ TRẦM HƯƠNG”
QUÁCH TẤN
Nhân ngày Quốc tế người có tuổi, ngày 1-10-1992 các bạn thân ở
Nha Trang: Lê Kiểm, Châu Hải Kỳ, Võ Thành Nhân, Nguyễn Ðức Linh, Hoành Sơn rủ đến
chúc tôi:
- Tơ chưa ráo ruột tằm chưa nhộng
Song vẫn còn mai, mộng vẫn hương.
Nhà tôi ở gần chợ, tôi tiếp bạn nơi phòng riêng tuy hẹp và
thiếu tiện nghi nhưng thanh tịnh và ấm cúng. Câu chuyện về ông già bà cả, xưa
có nay có, trong nước có, ngoài nước có, được các bạn thay ngẫu kể vui thật là
vui.
Bỗng có một nữ khách đến. Giao, con tôi ra tiếp nơi phòng
khách. Giây lâu, Giao vào mời tôi ra hỏi ý kiến. Vì tôi đã biết khách là ai và
có việc gì nên Giao chỉ nói vắn tắt:
- Họ bằng lòng trả nhuận bút cho 1.500 quyển, mỗi quyển trị
giá 15.000 đồng. Nhưng tiền nhuận bút không tính 6% theo hợp đồng, mà chỉ tính
5% theo Nhà xuất bản ấn định. Như vậy thì tiền nhuận bút bị cắt giảm đi 220.000
đồng,
Tôi nói nhỏ cùng Giao:
- Vì mình cô thế, nên đành theo gương ông lão ở hang Ngu
Công.
Giao tiễn khách về, rồi đưa tôi vào phòng họp bạn. Lê Kiểm vội
vã hỏi:
- Nữ khách là ai vậy?
Tôi đáp:
- Là cô Việt Dung, biên tập viên của Nhà xuất bản tổng hợp
Khánh Hòa, mang tiền nhuận bút quyển “Xứ Trầm Hương” vừa tái bản đến cho tôi.
Lê Kiểm vỗ tay cười lớn:
- Lựa ngày Quốc tế người lớn tuổi để trả tiền nhuận bút cho một
nhà thơ lão thành, lại cử một giai nhân đi thi hành nhiệm vụ. Phong độ Nhà xuất
bản tổng hợp Khánh Hòa thật đẹp quá.
Tôi cười đáp:
- Nếu tiền nhuận bút được trả sòng phẳng theo hợp đồng thì lại
càng đẹp biết bao nhiêu.
Các bạn tỏ vẻ kinh ngạc. Ai nấy cũng muốn biết rõ nội vụ.
Giao thay tôi trình bày:
- “Xứ Trầm Hương” do Nhà xuất bản Lá Bối ở Sài Gòn ấn hành
năm 1969. khoảng thượng tuần tháng 6 năm 1991, ông Nguyễn Gia Nùng, Phó Tổng
biên tập Nhà xuất bản tổng hợp Khánh Hòa cùng cô Việt Dung, biên tập viên Nhà
xuất bản, đến thương lượng với ba tôi xin tái bản cuốn “Xứ Trầm Hương”. Ba tôi
ưng thuận. Ông Nguyễn Gia Nùng nói loại sách này rất kén độc giả, nếu in số ít
thì không lời, mà in số nhiều thì bị cầm vốn. Và định cho in ít nhất là 1.000
cuốn nhiều nhất là 3.000. Giá cả không thể ấn định trước nhưng ít nhất cũng
trên 10.000 đ/cuốn. Nghề in lúc này đã tiến bộ nên cuốn sách tuy dày nhưng chỉ
trong vòng 1 tháng là in xong. Vài ngày nữa cô Việt Dung sẽ đến nhà thảo luận
chi tiết nội dung cuốn sách.
Hai hôm sau, cô Việt Dung đến cùng tôi tu sửa một vài chi tiết
không cần thiết với hoàn cảnh hiện tại. Riêng về bìa thì để thích hợp với thị
hiếu độc giả nên thêm vào hình ảnh tháp bà Thiên Y A Na. Tất cả đều được ba tôi
chấp thuận.
Sáng ngày 26-6-1991 cô Việt Dung đến với tờ hợp đồng đánh máy
sẵn và được ông Nguyễn Gia Nùng ký với tư cách là đại diện Nhà xuất bản tổng hợp
Khánh Hòa. Nội dung tờ hợp đồng rất đơn giản, không ghi những điều cần thiết
như thời hạn hợp đồng phải thực hiện, số lượng sách phải in v.v..., mà chỉ ghi
số tiền ứng trước là 300.000 đồng, số bách phân tiền nhuận bút là 6%. Vì tin
Nhà xuất bản tổng hợp Khánh Hòa là Nhà xuất bản có nhiều uy tín và ông Nguyễn
Gia Nùng làm một văn nghệ sĩ đứng đắn ở Nha Trang nên ba tôi ký hợp đồng không
chút ngần ngại.
Song nửa năm qua, từ ngày hợp đồng được ký, sách vẫn không thấy
đâu cả. Trong một buổi họp mặt tất niên của anh em văn nghệ sĩ tỉnh Khánh Hòa,
gặp ba tôi ông Nùng nói “Xứ Trầm Hương” đã in xong từ lâu, nhưng vì kẹt tiền
nên ra chậm, nay đã cho người đem tiền vào lấy rồi. Thế nào Tết này cũng ra mắt
độc giả. Nhưng rồi Tết qua, Xuân tnà, Hạ đến, Thu sang mà vẫn không thấy sách
đâu cả!
Sáng ngày 14-9-1992 cô Việt Dung vui vẻ đem đến cho tôi một
cuốn “Xứ Trầm Hương” vừa được ông Nguyễn Gia Nùng đem từ Sài Gòn về. Và hẹn tôi
sáng ngày 21-9-1992 đến trụ sở Nhà xuất bản nhận tiền nhuận bút. Ðúng ngày hẹn
tôi đến Nhà xuất bản thì không gặp cô Việt Dung.
Mấy hôm sau cô Việt Dung đến cho tôi biết:
- Sở dĩ có sự trục trặc tiền nong là do ban tài vụ bảo rằng
sách in ghi là 1.500 cuốn nhưng thực ra chỉ có 600 cuốn cho nên chi trả tác quyền
theo 600 cuốn. Ðồng thời chỉ trả 5% theo chỉ thị của ban giám đốc chớ không thể
trả theo bản hợp đồng đã ký. Nghe trái tai tôi sắp nổi giận nhưng trấn tĩnh được
bởi tôi nghĩ rằng cô Việt Dung chỉ là một sứ giả đưa tin còn ban tài vụ thì có
liên can gì đến mình nên tôi ôn tồn đề nghị cô Việt Dung đợi ông Nùng đi công
tác về rồi hãy giải quyết. Một tuần sau ông Nùng về không giải quyết được phải
đợi đến hơn một tuần nữa ông giám đốc Nguyễn Văn Tôn về mới giải quyết xong.
Châu Hải Kỳ hỏi:
- Giải quyết thế nào?
- Chịu trả tiền nhuận bút theo số sách và giá đã ghi trên
bìa. Nhưng lại bớt đi 1%. Thành ra ba tôi bị trụt mất 220.000 đồng.
Võ Thành Nhân và Nguyễn Ðức Linh tỏ ý bất bình. Nhân nói:
- Các nhà thơ tiền chiến có danh đã qua đời gần hết. Trên đất
Khánh Hòa còn sống sót thầy QUÁCH là một điều đáng mừng. Mười mấy năm nay Sở
Văn Hóa không để ý nâng đỡ cuộc sống, nay Nhà xuất bản tổng hợp Khánh Hòa lại
còn nhẫn tâm rút bớt tiền nhuận bút!
Lê Kiểm nói:
- Ðối với hoàn cảnh chật vật của anh Tấn hiện nay, 220.000 đồng
không phải là nhỏ nhưng chữ TÍN giá trọng nghìn vàng, nếu đã thể hiện trên giấy
mực mà Nhà xuất bản không thực hiện nghiêm chỉnh, như vậy là thất tín. Anh Tấn
dù có bị thiệt thòi không đáng là bao so với Nhà xuất bản tổng hợp Khánh Hòa.
Châu Hải Kỳ nói tiếp:
- Văn chương là chuyện nghìn thu (văn chương thiên cổ sự). Cuối
triều Tự Ðức hay dưới triều Thành Thái (tôi không nhớ rõ) có ông Hoàng Giáp họ
Trần làm Ðốc học tỉnh Hà Nam bóp chẹt một thí sinh lấy 3 đồng bạc. Cụ Tam
Nguyên Yên Ðổ biết chuyện bèn tặng quan Ðốc học một bài thơ trong đó có hai câu
thật đặc sắc:
“Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp
Ðè thằng mặt trắng lấy tam nguyên”.
Và thi sĩ Tản Ðà trong một bài vịnh Kiều cũng đã có câu:
“Hai mươi lạng bạc đời Gia Tĩnh
Mua lấy nghìn thu tiếng Sở Khanh”.
Câu chuyện văn chương kéo dài. Ðể làm quà lưu niệm, Giao đem
ra cho tôi 5 cuốn “Xứ Trầm Hương” mới tái bản (sách này do tôi mua lại Nhà xuất
bản được bớt 10%).
Hoành Sơn, Ðức Linh và Thành Nhân đứng dậy thưa:
- Chúng con biết hảo ý thầy, nhưng xin thầy vui lòng chấp nhận
lời thỉnh cầu của chúng con.
Hoành Sơn tiếp lời:
- Nếu thầy không bị Nhà xuất bản tổng hợp Khánh Hòa rút bớt
tiền nhuận bút thì chúng con không dám tỏ lời này: Bác Lê Kiểm trên tuổi “cổ
lai hy”, nhà đơn chiếc. Bác Châu Hải Kỳ mấy tháng nay đau ốm phải nằm bệnh viện
tốn kém không ít. Chúng con mong hai bác nhận quà tặng của thầy, còn ba chúng
con chỉ xin chữ ký của thầy trên sách mà thôi. Tiền sách chúng con xin hoàn lại
để bù vào phần nào số tiền bị rút bớt.
Thế là ngày Quốc tế người già, bên lề cuốn XỨ TRẦM HƯƠNG tôi
được hưỏng một thú vui đặc biệt.
Q.T.
(Trích trong tập hồi kỳ “Bóng ngày qua”)
(Ðăng trong Tạp chí Nha Trang số 15, tháng 12-1992 của Hội
VHNT Khánh Hòa).
ÐÍNH CHÍNH CỦA TẠP CHÍ NHA TRANG.
ÐÍNH CHÍNH
Tạp chí NHA TRANG số 65/2001 (Xuân Tân Tỵ) có một số sơ sót
xin được đính chính lại:
- Trang 86, bài “Ai ơi Tết đến ghé chơi Tháp Bà” được bạn đọc
phát hiện tác giả Hoàng Văn đã chép lại nguyên xi nhiều đoạn trong cuốn sách “Xứ
Trầm Hương” của cố nhà thơ Quách Tấn do NXB Lá Bối xuất bản năm 1970. Ban biên
tập đã kiểm tra lại thấy ý kiến phản ảnh là đúng sự thật.
...
Ban biên tập thành thật cáo lỗi cùng độc giả về những sơ sót
trên.
NHA TRANG
(Tạp chí Nha Trang số 66, tháng 3-2001)
III. NHỮNG BÀI BÁO VIẾT VỀ XỨ TRẦM HƯƠNG
NHA TRANG LÀ TÊN SÔNG LẤY ÐẶT CHO THÀNH PHỐ HAY LÀ TÊN THÀNH
PHỐ DÙNG LÀM TÊN SÔNG.
QUÁCH TẤN
Có nhiều người cạn nghĩ hễ nghe nói là tin, tin rằng Nha
Trang do hai chữ “Nhà Trắng” mà ra. Sự thật không phải thế.
Nha Trang là do tiếng Chàm Ya Tran mà ra. Ya là nước, là
sông; Tran nghĩa là câu lau, cây sậy. Ya Tran nghĩa là sông lau. Vì con sông
Cái chạy từ Diên Khánh xuống đến biển, mọc đầy lau lách ở hai bên bờ nên người
Chàm gọi là Ya Tran. Sau khi đất Chiêm Thành sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam thì
người Việt phiên âm chữ Ya Tran ra Nha Trang để gọi con sông Cái chạy từ Diên
Khánh đến biển.
Như thế, Nha Trang là tên sông.
Vì sao tên sông lại trở thành tên thành phố?
Xin đáp:
Phần đất Khánh Hòa ngày nay, khi còn thuộc về người Chiêm
Thành tức là người Chàm thì gọi là Cù Huân (Kaut Hara). Ðất Cù Huân sáp nhập
vào lãnh thổ Việt Nam khoảng đầu thế kỷ 18, thời Chúa Nguyễn, Chúa Nguyễn đổi
tên đất Cù Huân thành dinh Bình Khang, sau đổi là Bình Hòa. Dinh Bình Hòa chia
làm 2 phái là phủ Ninh Hòa và phủ Diên Khánh. Dinh quan Tổng trấn Bình Hòa đóng
tại Ninh Hòa mang tên là sông Sinh). Hậu bán thế kỷ thứ XVIII dinh Bình Hòa thuộc
về nhà Tây Sơn là Trần Quang Diệu vào làm Tổng trấn, nhận thấy Ninh Hòa không
có thể dụng binh, bèn dời dinh vào Diên Khánh. Ðể trấn giữ quân Chúa Nguyễn ở
phía Nam, Trần Quang Diệu bèn xây thành đắp lũy kiên cố nơi đóng binh và gọi là
Diên Khánh thành.
Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Ánh
đánh lấy được thành Diên Khánh, và cử tướng Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bình
Hòa. Nguyễn Văn Thành cho xây đắp lại thành Diên Khánh, và lấy tên Nha Trang của
con sông Cái mà đặt tên cho thành là Nha Trang thành.
Ðến triều Minh Mạng (1820-1840) dinh Bình Hòa đổi thành tỉnh
Khánh Hòa. Thành Nha Trang được xây lại theo kiểu Vauban và bỏ tên Nha Trang lấy
lại tên Diên Khánh: Diên Khánh thành.
Sau khi thực dân Pháp chiếm được toàn cỏi Việt Nam nói chung,
tỉnh Khánh Hòa nói riêng, thì đặt cơ quan cai trị tại miền Duyên Hải và lấy hai
chữ Nha Trang mà đặt tên cho địa phận đóng cơ quan cai trị tức là thành phố Nha
Trang hiện thời. Như thế là thành phố Nha Trang đã lấy tên sông, nhưng không phải
lấy trực tiếp mà lấy qua thành Diên Khánh. Có người không đi sâu vào bối cảnh lịch
sử, thấy sông Nha Trang chảy qua thành phố Nha Trang thì bảo sông mang tên
thành phố.
Ðể chứng minh cho những điều trình bày trên đây, tôi xin
trích vài ba câu thơ cổ còn lưu truyền.
Ðại Lãnh văn viên, cô nguyệt hạ
Nha Trang xạ hổ loạn vân gian.
Nghĩa là:
Lắng vượn trăng mờ đêm Ðại Lãnh
Bắn hùm mây loạn núi Nha Trang.
Nha Trang đây là thành phố Nha Trang ở Diên Khánh chớ không
phải là thành phố Nha Trang. Bởi vì thành phố Nha Trang mới bắt đầu xây dựng
sau ngày thực dân Pháp đặt nền đô hộ trên toàn cõi Việt Nam dưới triều Ðồng
Khánh (1885-1888). Còn câu thơ này làm vào khoảng cuối triều Tự Ðức (1848-1883
). Ðó là câu thơ của Nguyễn Tư Giản làm quan ở triều đình Huế tặng Nguyễn Thông
làm Án sát tỉnh Khánh Hòa, dưới triều Nguyễn vẫn gọi là Khánh Hòa là Nha Trang
thành:
Lưỡng ngạn lô hoa trường đáo hải
Tứ biên hoàng diệp tổng vi thu.
Nghĩa là:
Trắng ngập đôi bờ lau xuống biển
Vàng bay bốn mặt lá gieo thu.
Ðó là câu thơ của nhà chí sĩ Trần Quý Cáp đã làm năm 1905,
lúc cùng hai bạn đồng chí là Huỳnh Thúc Kháng và Phan Chu Trinh đi cổ động cho
phong trào Ðông du của chí sĩ Phan bội Châu ghé ngang qua Nha Trang. Trong câu
thơ không có chữ Nha Trang nhưng câu “Lưỡng ngạn lô hoa trường đáo hải cho
chúng ta biết đó là sông Nha Trang. Bởi “Lưỡng ngạn lô hoa” nghĩa là “hai bên bờ
sông hao lau”, mà “sông lau” tức là sông Nha Trang. Câu đó cũng cho chúng ta thấy
rằng mãi dến thừoi thực dân phong kiến Nha Trang vẫn còn đầy lau lách ở hai bên
bờ.
Như thế thì hai chữ Nha Trang quả là tên con sông Cái đã có từ
xưa. Rồi tên sông lấy đặt tên cho thành, rồi tên thành lấy đặt tên cho thành phố,
rồi thành phố và sông đều mang chung một tên.
Con sông Nha Trang đã đi vào lịch sử và đã vào văn chương, chẳng
những văn chương chữ Hán mà cả văn chương chữ Việt. Xin cử một bài chữ Việt.
Sông Nha Trang,
Cát vàng sóng lục
Nhởn nhơ con cá đục
Lội dọc lội ngang...
Ðã nguyền cùng em giữ dạ đá vàng,
Sao anh nỡ ham tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Mà phụ phàng nước non?!
Bớ anh ơi,
Nét bia Hòn Chữ chưa mòn.
Lưỡi gươm rửa hận hãy còn mài trăng.
Q.T
HÒN TRẠI THỦY TRƯỚC THỜI PHÁP THUỘC
QUÁCH GIAO
Hòn Trại Thủy là một thắng cảnh được du khách ưa đến thăm viếng
nhất ở Khánh Hòa. Có nhiều bạn thắc mắc:
- Dù là thổ sơn thì cũng vẫn là núi, cớ sao lại lấy chữ “Thủy”
là nước mà đặt tên?
Có người giải thích:
- Bởi vì trên núi có bồn chứa nước máy để phân phát cho thành
phố Nha Trang.
Ðó là câu trả lời của những người “Không biết mà làm ra vẻ biết”
cũng như bảo Nha Trang là do chữ “Nhà Trắng” mà ra. Sự thật không phải thế.
Hòn Thổ sơn nổi danh này, ngoài tên Trại Thủy còn có tên nữa
là Hòn Xưởng, Hòn Kho. Ðại Nam Nhất Thống Chí chép là “Khố Sơn” (dịch
Hòn Kho ra chữ Hán). Ðó là những tên thông dụng. Núi còn một tên nữa rất ít người
biết là Hoàng Mai Sơn gọi tắt là Mai Sơn, gọi nôm na là Non Mai. Tên này có trước
tên Trại Thủy, Hòn Xưởng, Hòn Kho... Tên của khách văn chương đặt cho núi, và vốn
coi mặt mà đặt tên.
Hòn Trại Thủy trước thời thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam,
là một hòn núi mọc toàn mai. Những khóm mai cổ thụ, cội cao tàn cả, mọc chen
vào những tảng đá hoa cương to lớn. Mỗi lần xuân đến hoa mai nở vàng cả núi. Hết
mùa hoa mai thì lá mai đậm và láng trùm lên núi một màu xanh lục lìa và anh
ánh. Sáng đông lá mai rụng hết núi trở htành một hòn núi trọc màu xám in những
nét đen nhạt của những cành khúc khuỷu, những cội u nần của những khóm mai già
rắn rỏi... Cảnh sắc mùa nào cũng đẹp đẽ nên thơ.
Tên “Hoàng Mai Sơn” đã đẹp, núi lại còn một tên nữa cũng đẹp
không thua “Ngọc Bức” tức laø “con dơi ngọc”. Mệnh danh như thế là vì đứng ở
Nam, xa xa nhìn thấy núi giống hình một con dơi nằm sải cánh, đầu hướng về Nam
và trên núi có những tảng đá hoa cương nhấp nháy ánh sáng.
Ðể vịnh Hoàng Mai Sơn người xưa có câu:
Hoàng Mai sơn hạ La Phù mộng,
Ngọc Bức danh trung Hiệp Phố tình.
Nghĩa là: Dưới núi Hoàng Mai chợp được giấc mộng La Phù;
trong tiếng Ngọc Bức có ngậm chứa tình Hiệp Phố.
Núi ở mặt ngoài thật là thanh nhã, ngờ đâu ở bên trong lại có
thể dụng binh.
Nhưng trước khi nói đến mặt quân sự của núi Hoàng Mai, tôi
xin nói qua lịch sử của đất Khánh Hòa.
- Xưa kia Khánh Hòa là đất của Chiêm Thành gọi là Cù Huân
(Kaut Hara). Cù Huân sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam khoảng đầu thế kỷ XVII, thời
chúa Nguyễn, Cù Huân đổi thành dinh Bình Khang, sau đổi thành Bình Hòa. Dinh
Bình Hòa chia làm hai phủ là phủ Diên Khánh và phủ Bình Hòa. Coi việc cai trị
toàn dinh có quan Trấn Thủ. Dinh quan Trấn Thủ đóng tại Ninh Hòa gần sông (do
đó sông Ninh Hòa mệnh danh là sông Dinh). Khoảng hậu bán thế kỷ thứ XVII, nhà
Tây Sơn thắng chúa Nguyễn, dinh Bình Hòa thuộc về nhà Tây Sơn. Tướng Tây Sơn là
Trần Quang Diệu vào trấn Bình Hòa, nhận thấy Ninh Hòa không thể dụng binh bèn dời
dinh Tổng Trấn vào Diên Khánh, xây thành đắp lũy để chống với quân chúa Nguyễn ở
mặt Nam, về đường bộ. Ðể chống giữ về mặt biển, Trần Quang Diệu lại cách một đạo
thủy binh xuống trấn miền duyên hải. Xét thấy núi Hoàng Mai Sơn vị thế hiểm trở,
bèn dùng làm căn cứ quân sự. Trên núi thì cất trại lính, dưới núi về mặt Bắc gần
sông lại đóng xưởng cất thuyền, lại đóng kho chứa lương thực. Vì vậy núi mới có
tên là Trại Thủy hay Hòn Xưởng, Hòn Kho. Cuối thế kỷ XVIII Nguyễn Ánh đánh lấy
lại được Dinh Bình Hòa. Quan trấn thủ do Nguyễn Ánh bổ nhiệm là Nguyễn Văn
Thành vẫn giữ những căn cứ quân sự của Trần Quang Diệu để chống quân Tây Sơn.
Năm 1802 Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn, nắm được toàn cõi Việt Nam, mới dẹp
bỏ những căn cứ quân sự không cần thiết. Những trại xưởng, kho ở núi Hoàng Mai
Sơn cũng bị phá hủy. Vật không còn, song danh không mất. Người địa phương vẫn gọi
núi là Trại Thủy hoặc Hòn Xưởng, Hòn Kho.
Ðến năm 1885 kinh đô Huế bị thực dân Pháp đánh chiếm. Vua Hàm
Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương kêu gọi toàn dân Việt Nam đứng dậy
chống thực dân Pháp. Nhân dân các tỉnh từ Huế trở ra và từ Huế trở vào đều ứng
nghĩa Cần Vương.
Nghĩa binh Khánh Hòa do Trịnh Phong lãnh đạo dùng Hòn Trại Thủy
làm căn cứ chiến đấu. Pháp đổ bộ lên bãi biển Nha Trang bị nghĩa quân Trịnh
Phong chặn đánh không thể tiến bước. Nhờ lòng dũng cảm của nghĩa binh và thế hiểm
trở của Trại Thủy, Trịnh Phong dã chiến thắng quân xâm lăng nhiều trận. Nhưng rồi
có người trong nghĩa quân làm phản, đem những bí mật quân sự cho địch biết, lại
bày mưu cho địch để đánh nghĩa quân. Thực dân Pháp theo lời hướng dẫn của tên
Việt gian phản quốc, dùng hỏa công đánh úp nghĩa binh. Ðể bảo toàn quân lực, Trịnh
Phong theo đường bí mật rút quân ra khỏi Trại Thủy về giữ thành Diên Khánh.
Quân Pháp. Quân Pháp dùng thuốc súng đốt rụi tất cả cây cối, lều trại trên hòn
Trại Thủy và sau khi dẹp xong phong trào Cần Vương ở mọi nơi và đặt xong cơ
quan cai trị ở Nha Trang, thực dân Pháp trổ con đường từ Nha Trang lên Diên
Khánh, dùng những tảng đá trên hòn Trại Thủy đập nát ra để lót đường. Từ ấy hòn
Trại Thủy trở thành một hòn núi đất trơ trụi. Chỉ sườn núi phía sau còn vài lớp
dá và trên núi còn vài khóm mai còi làm di tích cho những gì của núi đá có từ
nghìn xưa.
Vào khoảng 1943-1944 Ðại sư Giác Phong dời chùa Hải Ðức ở dưới
đường Hai Chùa Nha Trang lên cất ở đầu phía Tây núi Trại Thủy. Và khoảng
1955-1960 Hội Phật Học Khánh Hòa xây Kim Thân Phật Tổ ở đầu núi phía Ðông. Sau
đó những am, những cốc lần lượt xây cất và cây cối lần lần trồng ở khắp núi,
làm cho hòn Trại Thủy mỗi ngày trở nên đẹp đẽ. Hiện nay núi đã trở thành một thắng
cảnh nổi danh của Khánh Hòa.
Ðến viếng cảnh Trại Thủy mà biết được “lý lịch” của núi một
cách khá tường tận thì cái thú tham quan tưởng cũng thêm nhiều hứng vị.
Q.G.
NT, 9 -1990
ÐẦM ÉN VÀ RỪNG MAI TUY MẤT NHƯNG VẪN CÒN
QUÁCH TẤN
Cụ cử Phan Bá Vĩ ở Nha Trang, thời tiền chiến có bài thơ “Nha
Trang Xuân Cảm” mà cặp trạng rằng:
Ðầm én Xương Huân mây phủ tía
Rừng mai Phước Hải nắng đơm vàng
Và ca dao Khánh Hòa có câu:
Ðầm Xương Huân én tía
Rừng Phước Hải mai vàng
Lỡ duyên thiếp phải xa chàng
Xuân về có nhớ Nha Trang thời về.
Khách du lịch đến Khánh Hòa, sau khi xem hết thắng cảnh ở Nha
Trang, mà nghe được hai câu thất ngôn và bài ca dao trên đây thì không khỏi thắc
mắc:
“Ðầm én tía Xương Huân”, “Rừng mai vàng Phước Hải” nghe nói
trong văn chương mà soa không thấy ở ngoài thực tế?
Xin thưa:
- Hai cảnh ấy ở giữa thành phố Nha Trang:
Ðầm Xương Huân nằm ở giữa phường Xương Huân và phường Vạn Thạnh
rộng chừng vài ba mẫu tây, nước xà hai do sông và biển Nha Trang chảy vào.
Chung quanh đầm, đều xây bờ đá và trồng cây có bóng mát, dưới gốc cây có đặt ghế
đá để ngồi chơi. Nước đầm khi triều dâng thì chứa chan lai láng, những đêm có
trăng, mặt đầm long lanh ánh sáng như một tấm gương vừa rửa xong.
Trên bờ đầm phía Nam có một ngọn đồi toàn đá hoa cương, hình
thù phảng phất con voi trắng đứng uống nước, nên cổ nhân gọi là “Bạch tượng quyện
hồ”. Trên đỉnh đồi có một ngọn miếu ngói thờ công thần của nhà Nguyễn gọi là miếu
Sinh Trung. Thời Pháp thuộc, chân đồi bị đập phá để làm đường, hình bạch tượng
không còn nữa. Từ ấy người địa phương không gọi đồi là đồi Bạch Tượng mà gọi là
đồi Sinh Trung. Tuy cảnh “Bạch tượng quyện hồ” không còn nữa, nhưng đồi Sinh
Trung vẫn làm tăng cảnh thú của đầm Xương Huân nhiều lắm.
Ðầm Xương Huân còn một đặc điểm nữa là có nhiều chim én tụ tập.
Nha Trang có hai thứ én: một thứ ở biển, một thứ ở trên cạn.
Thứ ở biển gọi là én biển, gọi tắt là yến phần nhiều lông trắng và vàng.
Còn én ở trên cạn gọi là én đất lông đen nhánh như huyền, tục
gọi là én tía.
Cứ mỗi lần xuân đến, én tía ở từ phương xa bay đến đầm Xương
Huân đông vô số. Bay đến từ lúc mới tinh sương, lớp bay lượn trên không, lớp
bay là là sát mặt đầm. Ðến khi mặt trời lên cao thì tản đi nơi khác. Chiều đến
thì lại bay về đảo liệng trên đầm Xương Huân một vài vòng rồi tản ra từng tốp
kéo nhau vào những lùm lách, lùm cậy mọc ở ven sông mà ngủ. Ngày nào cũng thế.
Ðến mùa thu, khi mưa phùn gió bấc nổi lên thì lần lượt kéo nhau đi tìm nơi ấm
ráo. Suốt cả mùa đông đầm không có bóng dáng một con én tía.
Khách phương xa đến vùng chợ Ðầm không mấy ai biết rằng nơi
đây xưa có đầm sâu và có én tía.
Mai vàng Phước Hải:
Xưa kia bao trùm ngót mấy dặm từ Nha Trang đến Ðồng Bò, từ Mả
Vòng đến gần bãi biển.
Cứ mỗi năm vào khoảng cuối tháng 11 đầu tháng chạp thì rừng
mai rụng lá và đâm bông đến Tết thì hoa nở vàng rực cả một vùng rộng lớn.
Bên mé rừng có một ngọn đồi hình thù phảng phất giống một con
rùa nằm trở đầu xuống biển. Trên đầu rùa có một ngôi tháp của một vị Hòa Thượng
đến tu hành từ khi Nha Trang còn là một bãi cát mênh mông chỉ lưa thưa một đôi
nóc nhà lụp xụp. Vì đồi hình thù giống rùa, trên đồi là cổ tháp và nằm cạnh rừng
mai vàng, nên cổ nhân gọi đồi là “Kim quy đới tháp”. Thời Pháp thuộc, một con
đường mở từ Nha Trang vào hướng Nam đã cắt đứt “cổ rùa”, thành ra đầu rùa nằm ở
phía Ðông, mình nằm ở phía Tây. Sau đó ngôi nhà thờ của Cơ Ðốc giáo lại dựng
lên trên mình Rùa. Thành ra cảnh tượng “Kim quy đới tháp” không còn nữa. Tên đồi
đổi ra là núi “Một” hay núi “Nhà Thờ”.
Cũng như đồi Bạch Tượng đối đầu với đầm Xương Huân, đồi Kim
Quy đã làm tăng phong vị cho rừng mai Phước Hải rất nhiều: Mỗi độ xuân về chúng
ta lên đồi Kim Quy nhìn vào Nam thì chúng ta có cảm giác một bức gấm màu vàng
trải trùm trên mặt đất.
Thời Pháp thuộc, rừng mai Phước Hải vẫn còn. Nhưng bắt đầu từ
thập niên 1930 thì rừng mai bị phá dần để làm củi và lấy đất cất nhà. Qua giai
đoạn 1955-1975 thì rừng mai bị tàn phá sạch và vùng Phước Hải trở thành một khu
phố có đường rộng có nhà cửa khang trang. Hiện nay trong vườn hoặc bên rào của
một đôi biệt thự vẫn còn sống sót một đôi gốc mai già.
Rừng “Mai vàng Phước Hải”, đầm “Én tía Xương Huân” nay tuy
không còn trên mặt đất nhưng vẫn còn trong thi ca.
Người xưa có câu:
Cổ lai vô vật bất thành thổ
Chỉ hậu duy thi khả thắng kim.
Nghĩa là:
Xưa nay không có vật không tan ra thành đất
Chỉ thơ thắng được vàng sau khi mình nhắm mắt.
Những câu thơ, bài ca nói về rừng Phước Hải, đầm Xương Huân
đã trở thành bất hủ trên đất Khánh Hòa, thì “Rừng mai - đầm én” vẫn còn mãi
trong thi ca.
Q.T.
(Trầm Hương, số 1 - 1990)
Phụ Lục (tt)
nha trang có cọp có ma
quách tấn
Nhân dân trong các tỉnh lân cận Khánh Hòa truyền tụng: “Cọp
Khánh Hòa, Ma Bình Thuận” và trong tỉnh Khánh Hòa lại còn có câu: “Cọp Ổ Gà, Ma
Ðồng Cháy” như thế chứng tỏ rằng Khánh Hòa có nhiều cọp cũng có nhiều ma, song
ma không nhiều bằng cọp.
Chắc các bạn từ 60 tuổi trở xuống không tin vì hiện tượng ma
không thấy đã đành mà cọp cũng không thấy đâu cả.
Không thấy không phải là không có. Muốn rõ sự thật xin các bạn
thử đi một mình vào rừng sâu, bạn sẽ thấy cọp đông như “chợ trời” và ma nhiều
như các ông các bà buôn lậu. Mà chả cần đi đâu cho xa, các bạn chỉ độc kỹ những
văn thơ của Khánh Hòa, các bạn cũng sẽ nhận thấy câu “cọp Khánh Hòa...” và câu
“Cọp Ổ Gà, ma Ðồng Cháy” là đúng sự thật, mà không phải chỉ Ổ Gà mới có cọp, Ðồng
Cháy mới có ma. Cọp và ma ở ngay tại Nha Trang:
Mả Vòng đêm vắng ma trêu nguyệt
Phước Hải xuân về cọp thưởng mai.
Ðó là câu thơ của cụ Thuần Phu Trần Khắc Thành ở khóm Duy Hà,
phường Xương Huân.
Tại Mả Vòng xưa kia có một ngôi mả vôi to lớn hình tròn nằm
choán cả lối đi, khách bộ hành đi ngang qua đó đều phải đi vòng qua mộ - nên mới
gọi là Mả Vòng. Truyền rằng nơi Mả Vòng có rất nhiều ma. Ðến lúc hoàng hôn ma
thường hiện ra ngồi bên mả, đợi người đi qua thì “hớp hồn”. Do đó mà kẻ dừng lại
phải cố gắng làm sao để qua khỏi Mả Vòng lúc mặt trời chưa lặn.
Sau khi Pháp đặt nền cai trị lên đất Khánh Hòa liền mở rộng
con đường Diên Khánh - Nha Trang và dời mả ấy đi nơi khác. Tuy mả đã dời nhưng
người đi đường vẫn còn sợ và ít người dám cất nhà ở chung quanh vùng này. Mãi đến
năm 1930-1945 mới có phố xá nơi Mả Vòng.
Còn vùng Phước Hải xưa kia chỉ là một rừng mai vàng - mỗi bận
xuân về mai nở trùm cả trăm mẫu đất. Từ khi Pháp chiếm Khánh Hòa rừng mai Phước
Hải bị dân đốn làm củi nên ngày càng ít đi. Ðến thời hậu chiến (1945-1975) rừng
mai bị phá chỉ còn năm mười gốc cằn cỗi. Khi rừng mai còn rậm, cọp ở núi Huỳnh
Ngưu tức Ðồng Bò, thường xuống tìm mồi...
Hai câu thơ trên mượn cảnh thực để ngụ ý châm biếm nhân vật
Nha Trang thời Pháp thuộc.
Còn một câu nữa cũng cho chúng ta thấy cọp Khánh Hòa ẩn núp
trong rừng thơ:
Ðại Lãnh văn viên vô nguyệt hạ
Nha Trang xạ hổ loạn vân gian.
Nghĩa là:
Lắng vượn trăng mờ đêm Ðại Lãnh
Bắn hùm mây rối núi Nha Trang.
Ðó cũng là cảnh thực để gửi tâm sự. Tác giả là Nguyễn Tư Giản
làm quan dưới triều Tự Ðức (1828-1883). Hai câu đó là cặp luận bài tặng biệt cụ
Nguyễn Thông.
Cụ Nguyễn Thông là một chí sỹ đậu cử nhân, quán ở Gia Ðịnh.
Khi miền Nam bị Pháp chiếm trọn 6 tỉnh (1867) cụ không chịu “đội trời chung
cùng giặc” bèn đưa cả gia đình ra cư trú tại Bình Thuận, mở trường dạy học. Triều
đình Huế biết cụ là một nhân tài bèn mời cụ ra làm quan. Ban đầu cụ làm Dinh điền
sứ, lo việc triển khai khẩn đất hoang. Cụ hiểu rộng thấy xa, có tưt tiến bộ,
nhiều khi trái ý triều đình. Cho nên đương ngồi Án sát Khánh Hòa thì bị triệu hồi
về Huế khiển trách. Về Huế cụ lấy cớ già yếu xin về Bình Thuận làm ruộng. Triều
thần là Nguyễn Tư Giản biết rõ khí tiết và tâm sự cụ, nên có bài tặng biệt “Ðại
Lãnh.... Nha Trang”.
Thơ Khánh Hòa còn nhiều, chỉ xin đưa ra cặp có liên quan đến
“ma” và “cọp” để mua vui cùng bạn đọc Trầm Hương. Và để cho thêm vui xin hiến
các bạn mấy câu thơ về Nha Trang thời tiền chiến.
Nha Trang có cọp có ma
Có đầm én có rừng hoa mai vàng.
Q.T
(Trầm Hương, số tháng 7-1989)
MỘT THI XÃ BỊ BỎ QUÊN CỦA NHA TRANG.
QUÁCH TẤN
Các nhà nghiên cứu văn học ngày trước cũng như ngày nay,
không mấy ai biết rằng ở Nha Trang có một thi xã đã góp phần không ít vào việc
xây dựng nền văn học Việt Nam.
Ðó là Hoàng Mai thi xã.
Hoàng Mai là thi xã thành lập năm 1935. Sáng lập viên là ba
nhân sĩ có uy danh ở Khánh Hòa: Nhà Nho Trần Khắc Thành ở phường Xương Huân, cụ
cử Phan Bá Vỹ ở phường Phước Hải; cụ đề Ngô Văn Nhượng ở thôn Phú Ân Nam huyện
Diên Khánh.
Thi xã mệnh danh Hoàng Mai vì Khánh Hòa có nhiều mai vàng:
mai biển có, mai núi có, mai vườn có. Lại thêm ở Nha Trang có một rừng mai rộng
mấy trăm mẫu, giăng trùm cả vùng Phước Hải và hòn Trại Thủy trước ngày thực dân
Pháp chiếm cứ Nha Trang. Hòn Trại Thủy đầy mai cổ thụ nên có danh là Mai Sơn.
Thi xã lấy đặc điểm của địa phương để mệnh danh, chẳng những
để tỏ lòng thương yêu kính trọng quê hương mà còn để nêu cao “văn thái phong
lưu” của thi xã.
Thi xã ra đời với một bài thơ luật:
Nghiệp cũ Hoàng Mai kể Bạch Liên
Phong tao mong giữ nếp chân truyền
Vàng trau ánh mộng đơm ngòi thép
Ngọc ấm tình xuân đúc phẩm tiên
Châu thắm xạ thơm hồn Lạc Việt
Trúc nhuần tơ nhuyễn giọng Hàn Thuyên
Hỡi người đây gấm sang Nam Hải
Qua gác Ðằng Vương hãy ghé thuyền.
Bài thơ hàm súc, vừa thích thực được bốn chữ Hoàng Mai thi
xã, vừa nói lên được mục đích và tôn chỉ cùng chủ trương đường lối phải theo.
Thi xã lập ra không có tham vọng đào tạo nhân tài. Ba cụ
Phan, Trần, Ngô noi gương người đời Tống lập Bạch Liên thi xã mà lập Hoàng Mai
Thi Xã chỉ nhằm mục đích cùng bạn đồng thanh đồng khí xa gần, giữ vững truyền
thống đẹp đẻ của cha ông để lại trên nền văn học Việt Nam.
Thi xã chủ trương lấy ôn, nhu, chân, hậu làm cốt, lấy thanh
nhã tự nhiên làm cách, lấy chữ Quốc ngữ làm chữ chính, thể Ðường luật là thể
chính.
Những người muốn gia nhập thi xã, trước hết phải thông thạo
phép làm thơ, sau nữa là phải có tư cách, không thiếu lễ, nghĩa, liêm sĩ. Người
tài cao học rộng mà tác phong kém, đạo đức thiếu vẫn không được thi xã kết nạp.
Do đó xã viên không quá hai mươi người và phần nhiều là người từ bốn mươi tuổi
trở lên, tân học có, cựu học có. Trụ sở đóng tại nhà cụ cử Phan Bá Vỹ (hiện nay
ở số 24 Lý Tự Trọng, Nha Trang).
Thi xã mỗi tháng họp một lần vào sáng chủ nhật đầu tháng. Họp
để cùng nhau giảng cứu về thi pháp, hoặc phê bình những áng văn chương có danh
cổ kim trong nước, ngoài nước hoặc đề ra thơ cho xã viên sáng tác, hoặc chấm những
bài thơ của xã viên trình chính...
Lúc bấy giờ Thơ Mới nổi dậy từ Nam chí Bắc, công kích thơ Ðường
luật kịch liệt, gây một phong trào rầm rộ. Phong trào khởi đầu từ năm 1932 và
chấm dứt năm 1941. năm 1935, năm Hoàng Mai thi xã ra đời, là năm phong trào Thơ
Mới lên cao tột độ. Những anh em trong Hoàng Mai thi xã không chút nao núng.
Anh em cũng không tìm cách hoặc tỏ thái độ chống đối phong trào. Dưới sự lãnh đạo
của ba vị tiền bối Trần, Phan, Ngô, anh em ung dung sáng tác theo chủ trương đường
hướng của thi xã mình.
Ðồng thời cùng Hoàng Mai thi xã, ở Huế có Hương Bình thi xã
do cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm “Tao đàn nguyên soái”, ở Phan Thiết có Liên
Thành thi xã do cụ Phú Khê Ðoàn Tá đóng vai “chủ nhân ông”. Hai thi xã này liên
hệ mật thiết cùng thi xã Nha Trang, thường có thơ từ trao đổi ý kiến, quan điểm
và xướng họa với nhau.
Thơ của Hoàng Mai cũng như thơ của Hương Bình, Liên Thành
không đăng lên báo chí, không in thành sách, mà chỉ đánh máy hay in ronéo phổ
biến trong nội bộ. Tuy vậy những bạn yêu thơ ở ngoài thi xã vẫn được tân hưởng
những vần giai tác như:
Ân đâu phải trả nợ bằng tơ
Vô dụng đành mang tiếng sống thừa
Việc cả muốn làm không đủ sức
Lòng buồn mong tả chẳng nên thơ
Chuyện trò với một bầy con trẻ
Bè bạn còn vài bộ sách xưa
Miễn giữ trọn niềm ngay với thảo
Mặc tình ai ghét mặc ai thưa.
Ðó là bài “Thư hoài”(9) của cụ Ngô văn Nhượng. Lời thơ thanh
lão, ý thơ thuần hậu. Tác giả đã theo đúng chủ trương của thi xã. Anh em trong
thi xã phần đông dùng làm mẫu để theo.
Thơ của cụ. Phan Bá Vĩ cũng theo đúng đường hướng của thi xã.
Bài “Nha thành xuân cảm” sau đây cũng rất được bạn trong và ngoài thi xã hoan
nghênh.
Bốn mươi xuân lẻ tết Nha Trang
Xuân mới tình xuân vẫn cũ càng
Ðầm én Xương Huân mây phủ tía
Rừng mai Phước Hải nắng đơm vàng
Nghề quen bút sắt dù chăm chút
Nghĩa thắm ngòi lông dám phụ phàng
Ngoảnh lại thành sen cây lớp lớp
Hoa lan thầm trổ tóc Phan lang.
Văn chương trang nhã. Muốn thưởng thức trọn cái hay của thơ
tưởng cũng nên biết qua thân thế tác giả. Cụ Phan sanh quán ở Phan Thiết, đậu cử
nhân nhưng không làm quan với Nam Triều mà làm ký lục tòa sứ Pháp. Cụ làm việc ở
tòa sứ Nha Trang trên 40 năm, tạo lập cơ nghiệp ở Nha Trang và trở thành nhân
sĩ Khánh Hòa chính thức.
Cặp luận tả rõ thân phận, chuyển kết nói lên lòng không quên
cố hương là Liên Thành (thành sơn) tức Phan Thiết.
Toàn thể thơ cụ Phan cũng như thơ cụ Ngô đều nghiêm chỉnh.
Trái lại thơ của nhà nho Trần Khắc Thành thường là thơ châm phúng. Xin đan cử một
luật:
VỊNH GÀ QUÈ
Thôi rồi ai ném hoặc ai quăng
Chẳng lẽ gà sanh cẳng rửa răng?
Năm đức đã đành trời sở phú
Hai chân còn giận đất không bằng
Cối xay đã thạo nghề ăn quẩn
Tiếng gáy đừng đeo thói ghét xằng
Nghĩ kỹ cũng mừng cho đó chút
Ra trường chiến đấu bớt hung hăng.
Ý thông thường nhưng khéo sẻ dụng thành tạo thành những tứ mới
lạ, làm cho bài thơ có một phong cách đặc biệt chưa từng thấy trong số thơ truyền
tụng xưa nay, nhất là cặp trạng và cặp luận. Cặp trạng thích thực “gà què” như
thế là độc đáo. Cặp luận dùng phương ngôn ngữ để triển khai ý “gà què” như thế
là tài tình. Không phải tay lão luyện, học rộng biết nhiều thì khó sáng tạo nên
những vần thơ hay như thế.
Trong Hoàng Mai thi xã có ba nhà lãnh đạo có thi tài thi tâm
như vậy thì tất nhiên các xã viên học được nhiều cái hay cái đẹp trong việc lập
ý, cấu tứ, tu từ và sáng tác giai phẩm. Nếu chúng ta ra công sưu tầm, thế nào
cũng phát hiện được nhiều giai chương lệ cú.
Q.T
Nha Trang, mùa hạ năm Kỷ Tỵ (1989)
ÐÔI VẦN CA XƯA CỦA KHÁNH HÒA
QUÁCH TẤN
Ca dao Huế có câu:
Chợ Ðông Ba đưa ra ngoài dại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi moong
Hỡi người lỡ hội chồng con
Vào đây tính cuộc vuông tròn với nhau.
Khánh Hòa có câu:
Thơm Vạn Giả ngọt đà quá ngọt
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hỡi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Quản bao lên thác xuống ghềnh
Mía ngon thơm ngọt đượm tình nước non.
Bài ca Huế và bài của Khánh Hòa trùng nhua ở câu 3. câu này
chỉ khác nhau chút ít thôi. Một bên thì “lỡ hội chồng con”, một bên thì “chưa vợ
chưa con”.
Khác chút ít là khác bên ngoài chớ bên trong thì khác nhau
xa.
Bài trên ra đời Thành Thái Duy Tân, trong khoảng 1889-1916.
tác giả phải là một chí sĩ mượn lời người đàn bà để kêu gọi các bạn đồng chí đến
với mình để mưu đồ đại sự. Các bạn đồng chí đó là những chiến sĩ tướng nghĩa Cần
Vương thời Hàm Nghi (1885-1887) còn sống sót.
Cầu Trường Tiền xưa bằng gỗ thường bị lụt phá hư, nên đến đời
Thành Thái mới bắc lại bằng sắt. Cầu sắt vẫn không chống nỗi sức lụt nên phải
đúc lại bằng xi măng cốt sắt. Tác giả mượn cầu để nói lóng rằng: “Cuộc chống
Pháp trước, vì tổ chức chưa chặt chẽ vững vàng nên bị thất bại, chớ nay đã củng
cố nghiêm túc rồi thì nhất định đại sự sẽ thành công.
Bài Khánh Hòa mới xuất hiện khoảng 1942-1945, lúc Nhật đã
đóng quân ở Nha Trang, trên lưng nhân dân Việt Nam nói chung, Khánh Hòa nói
riêng phải chịu hai gánh nặng xâu thuế, một nửa thực dân Pháp, một của phát xít
Nhật. Ở Khánh Hòa lúc bấy giờ có một nhóm trí thực vận động tổ chức một mặt trận
cứu nước. Bài kia là một bài kêu gọi đồng chí vì phải chống đến hai kể thù nên
chiến sĩ phải là người “chưa vợ, chưa con” tức là chưa hề có liên hệ gì đến
Pháp, Nhật.
Mục đích kêu gọi của hai bài là một: “Chống xâm lăng cứu nước”
nhưng đối tượng kêu gọi khác nhau, một bên là người cũ, một bên là người hoàn
toàn mới.
Nếu không rõ bối cảnh lịch sử thì không thấy chỗ “úp mở”
trong hai bài ca dao.
Nhân tiện cũng xin nói thêm:
“Tổ chức chống xâm lăng ở Khánh Hòa đã thành hình, nhưng người
được cử làm “Tổ trưởng” lại manh tâm theo Nhật. Một số “tổ tiên” thấy rõ nguy
cơ liền rút lui khỏi tổ chức. Ðể lại cho tên tổ trưởng một bài ca.
Sông Nha Trang cát vàng nước lục,
Thảnh thơi con cá đục
Lội dọc lội ngang
Ðã thề cùng em giữ dạ đá vàng.
Quý chi tách cà phê đen ly sữa bò trắng
Anh nỡ phụ phàng nước non!
Nét bia hòn Chữ chưa mòn
Lưỡi gươm tiết hận hãy còn mài trăng
Trong khi vận động tổ chức cũng có lắm bài ca, sau đó trở
thành ca dao:
Anh đứng Hòn Chồng
Trông ra Hòn Én
Trở về Tháp Bà
Về lại Sinh Trung
Non xanh nước biếc trập trùng
Biết bao liệt nữ anh hùng em ơi!
Em hãy nhận lời
Cùng anh kết ngãi
Ðầu nguồn cuối bãi
Ta hãy nương nhau
Sông Cù nước mãi còn sâu
Công linh chẳng trước thì sau cũng thành.
Ở Phú Khánh, thời Pháp thuộc sản xuất nhiều thơ ca yêu nước.
Trên đây mới dẫn đôi bài ở Khánh Hòa, mong được gọp thêm vào tập thơ ca Phú
Khánh.
QT
(Trầm Hương, tháng 3-1989)
TẾT NÓI CHUYỆN TRẦM HƯƠNG
QUÁCH TẤN
Ngày Tết ngoài nhang thẻ, nhang bó, nhang vòng, những nhà khá
giả còn thắp trầm hương.
Trầm hương là khí anh tú tụ vào cây gió sống lâu năm nơi non
cao rừng rậm.
Khí anh tú kết tinh trong cây gió, gọi chung là trầm hương
nhưng sự thật có hai thứ là Trầm và Kỳ.
Trầm tức là trầm hương, kỳ tức là kỳ nam. Kỳ do cây “gió bầu”
sanh ra, trầm do “gió lưỡi trâu”, “gió cam” sanh ra. Ðó là theo lời của người
nhà nghề chớ thật sự thì kỳ là thứ trầm có nhiều dầu, còn trầm là thứ kỳ có ít
dầu. Trong những cây gió có trầm thỉnh thoảng vẫn có kỳ, và trong những cây gió
có kỳ thì trầm luôn luôn bao chung quanh hoặc ở bên cạnh. Thường thường kỳ ít
có, và khi có cũng có ít hơn trầm.
Kỳ và trầm phân biệt nhau ở hình chất và khí vị.
- Trầm chất cứng và nặng, màu hơi vàng, vị đắng. Kỳ nhẹ và mềm,
màu đen, vị lại đủ cay chua ngọt đắng.
- Trầm mùi ngát, kỳ mùi thanh. Khói trầm bay vòng quanh rồi
tan ra, khói kỳ bay thẳng và bay vút.
Ðược tánh đôi bên cũng có chỗ khác nhau.
- Trầm dùng giáng khí, tức là đem khí hạ xuống.
- Kỳ dùng trị các chứng phong đàm, mài với nước mà uống, hay
đốt xông vào lỗ mũi. Trị các chứng đau bụng cũng rất hay, chỉ ngậm trong miệng
cho tiêu rồi nuốt. Nhiều khi hiệu nghiệm như thần. Trầm và kỳ còn đuổi được tà
khí độc, khí ô uế. Trầm thì đốt lên, kỳ chỉ đeo vào mình cũng đủ.
Nhưng đàn bà chửa rất kỵ kỳ nam, không nên cho uống hoặc mang
theo trong người, nếu không kiêng có khi bị sẩy thai. Còn trầm thì vô hại.
- Kỳ có 4 thứ: Giá trị phân định rõ ràng trong câu ngạn ngữ
“nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc”.
- Bạch kỳ nam sắc trắng, chất mềm và rất nhiều dầu.
- Thanh kỳ nam, màu hơi xanh, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng.
- Huỳnh kỳ nam, màu vàng như sáp ong, chất cứng và nặng, để
lâu khô dầu trở nên nhẹ.
- Hắc kỳ nam, mùa đen chất cứng. Nhưng chỗ nhiều dầu lại mềm
như bạch kỳ nam. Kỳ nam thường dùng làm thuốc, giá rất đắt.
Trầm hương ít dùng làm thuốc, thường dùng để dốt trong những
buổi cúng tế, trong những ngày lễ lạc, trong những ngày yến tiệc nơi đài các
phong lưu, gí trị thua kỳ nam, nhưng được thông dụng hơn nhiều.
Trầm chia làm 4 loại:
- Trầm mắt kiến, có lổ có hang do kiến đục làm tổ trước khi
cây thành trầm.
- Trầm rễ do rễ cây sanh ra.
- Trầm mắt tử kết tạo trên nhánh cây.
- Trầm tốc ở nơi thân cây.
Trầm tốc có nhiều nhất và trên thị trường chia ra làm nhiều
thứ giá bán khác nhau.
- Tốc hoa màu vàng lạt, có những chấm lốm đốm như hoa.
- Tốc nước, màu vàng lợt, chất ươn ướt và nặng.
- Tốc xám, màu xam xám như tro.
- Tốc lọ nghẹ, màu đen đen như bồ hóng.
- Tốc đá, nặng và trông hình sắc như đá.
- Tốc ớt, sắc vàng lợt, vị cay như ớt xiêm.
- Tốc hương, sắc vàng lợt, hương đượm, thường bao chung quanh
kỳ nam, cho nên có nhiều điểm, nhiều gân kỳ nam lẫn vào. Nếu dầu nhiều thêm thì
tốc ký trở thành kỳ.
Trầm hương và kỳ ở Trung Việt núi nào cũng có. nhưng có nhiều
nhất là núi Khánh Hòa. Cho nên ca dao có câu:
Khánh Hòa là xứ trầm hương
Non cao biển rộng người thương đi về.
Ở Khánh Hòa nơi nổi tiếng nhất về trầm hương là Vạn Giả.
Cây quế thiên thai mộc ngoài hang đá
Trầm hương Vạn Giả ngát cả sơn lâm
Anh với em như quế với trầm
Trời xui đất khiến sắt cầm giao duyên.
Tràm là lâm sản quý nhất ở Khánh Hòa. Ðối với trầm Khánh Hòa
lại có một thứ hải sản cũng quý như trầm dó là yến sào. Hai thứ sản vật quý giá
này thường đi đối với nhau.
Khánh Hòa biển rộng non cao
Trầm hương Vạn Giả - yến sào Nha Trang.
Chẳng những đi đôi với nhau, trầm hương và yến sào lại quấn
quýt với nhau tạo cho người Khánh Hòa một tinh thần thanh cao, một tấm lòng
chung thủy.
Yến sào thấm vị trầm hương
Dù mưa dù nắng tình thương vẫn nồng
Nghĩa nhân duyên với núi sông
Ðá mòn nước cạn giải đồng không nao.
Có dịp sẽ nói kỹ về yến sào. Ở Khánh Hòa dù là nơi sản xuất
nhiều yến sào nhưng ít nhà dùng yến sào để ăn Tết. Còn trầm hương thì không nhà
nào, lúc giao thừa hay sáng mùng một mà không có một lư trầm tỏa hương nơi bàn
thờ tổ tiên, nơi bàn thờ Phật thánh.
Cho nên các cụ ngày xưa thường bảo con cháu:
Xuân về thắm đủ trăm hoa
Mùi trầm hương thiếu vẫn là chưa xuân.
IV. PHÊ BÌNH CUỐN XỨ TRẦM HƯƠNG.
TÔI ÐỌC “ÐÔI NÉT VỀ TỈNH KHÁNH HÒA CỦA QUÁCH TẤN”
“Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa của Quách Tấn” tuy chỉ là “đôi
nét” nhưng đủ cả lịch sử, địa lý, thắng cảnh, cổ tích của Khánh Hòa.
Ngoan ngoãn đi theo Quách Tấn để xem các thắng cảnh của Khánh
Hòa, để gặp tiên, dù rằng:
Người tiên cỡi hạc đi không lại,
Non đưa vắng vẻ cảnh am tiên.
Rồi hãy đứng bên am tiên mà ngậm đắng với “đôi khóm mã tiền”.
Nhưng Tiên, Phật, Ma và Cọp thuộc về những mẫu chuyện huyền ảo và rùng rợn. Xin
hãy dừng nói dến ở đây. Ta chỉ đi theo con người. Con người vừa thực vừa hư
nhưng gần với chúng ta. Con người sống bằng xương bằng thịt, bằng tâm tình, bằng
ý chí. Ta phải sống vậy! Ta theo chân Quách Tấn để nghe người dân Khánh Hòa bày
tỏ tâm tình cùng những bâng khuâng bên trong cũng như những dáng điệu và thái độ
bên ngoài:
Anh bước chân lên Ðèo Cả,
Trông sang Vạn Giả,
Ngó lại Tu Bông...
Biết lòng cha mẹ đành không,
Anh chờ em đợi uổng công hai đàng.
Hết lên đèo cùng chàng trai Khánh Hòa đương bâng khuâng về
tương lai của một cuộc tình duyên mới bắt đầu, ta lại theo chàng nhìn trăng nước
trong một đêm mới bắt đầu, ta lại theo chàng nhìn trăng nước trong một đêm thơ
mộng để nghe chàng than thở nỗi cách ngăn giữa hai tấm lòng đương xao xuyến niềm
ái ân:
Anh đứng Nha Trang
Trông sang Xóm Bóng
Ánh trăng lờ mờ, gợn sóng lăn tăn;
Gần em chưa kịp nói năng,
Bây giờ sông cách biển ngăn ngại ngùng!
Thắng cảnh, lương thời đều có đây mà thiếu lạc sự cho nên thưởng
tâm của chàng Khánh Hòa có tâm hồn thi nhân ấy biến thành mối lo âu, khiến
chàng ngại ngùng vì nỗi cách ngăn. Tuy nhiên, chàng không hoàn toàn thất vọng về
cuộc tình duyên mà chàng đương deo đuổi: Chàng biết tự an ủi và biết sống bằng
hy vọng. Chàng biết quan niệm ai tình một cách uyển chuyển, theo lối của:laton:
... Ngoài còn Vạn Giả,
Trong còn Cam Lâm,
Vẫn còn tdrăng ngọc gió trầm,
Nghìn thu nghĩa nặng tình thâm mãi còn.
Xem đấy thì, trong lúc theo chân Quách Tấn ngoạn cảnh Khánh
Hòa, “chúng ta cũng nhận thấy được phần nào cái tâm hồn của người Khánh Hòa và
lòng người tỉnh khác đến trú ngụ tại Khánh Hòa” trong đó Quách Tấn là một.
Trở lên là một vài nét về địa lý nhân văn. Chưa kể một số thắng
cảnh nho nhỏ, xinh xinh, xa xôi, khuất nẻo. Ngoài một số những địa danh có vẻ mộc
mạc, cũ kỹ gần như man rợ: Hòn Hèo, Tu Hoa, ta ghe thấy những tên xinh đẹp, cổ
kính và nên thơ Suối Ngổ, Ba Hồ, Suối Tiên... mà hiện nay du khách còn ngại
“phiêu lưu”, chưa tìm đến để tận hưởng cái thú nhàn tịch của chốn lâm tuyền. Phần
nhiều các thắng cảnh ấy đều liên hệ đến một chuyện cổ tích, thần tiên hay trần
tục mang một sắc thái địa phương đặc biệt. Ðọc đến các đoạn văn nhu nhàng và gợi
hứng ấy, chúng ta tưởng thấy mình như chàng ngư phủ kia đang vào nẻo nguồn Ðào,
hoặc như chàng Lưu Nguyễn đương thơ thẩn trên lối Thiên Thai... Du khách tương
lai trong tỉnh Khánh Hòa hãy tạm du hành trong cảnh mộng ấy cho đến ngày “rẽ
mây trông rõ lối vào Thiên Thai”. Mộng còn hơn thực!
Tuy nhiên, muốn viếng thăm cảnh thực thì ta trở lại theo chân
Quách Tấn mà làm bạn với người dân Khánh Hòa hòa mình với cuộc sinh hoạt hiện tại
của họ, chia xẻ những lạc thú cũng như những bi thương của họ. Thật vậy, cảnh
thực dù cay đắng đến đâu cũng thấy “ngon ngọt” Nếu con người đừng sống xa con
người; nhất là con người biết sống siêng năng, sản xuất không ngừng; con người
biết rõ cái giá trị những sản phẩm do chính bàn tay mình làm ra hay do Tạo Hóa
đã cống hiến cho mình và con người biết quý cái hạnh phúc ở bên cạnh một người
bạn đời đằm thắm, tình tứ và thủy chung. Dù ở địa phương nào, nếu con người chịu
khó công tác, biết lợi dụng sẳn vật thiên nhiên, biết trọng tình thân ái, nghĩa
là biết làm lụng và yêu mến như người dân Khánh Hòa, thì con người và đất đai cứ
trường tồn, mà cảnh tình có cay đắng cũng trở nên ngọt bùi. Thật vậy, ta hãy
nghe người dân Khánh Hòa tỏ lòng một cách hiểu biết và khả ai những gì thuộc về
đời sống của họ.
Yến sào Hòn Nội,
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh,
Cá tràu Võ Cạnh,
Sò huyết Thủy Triều,
Ðời anh cay đắng đã nhiều,
Về đây ngọt sớm ngon chiều với em.
Bao nhiêu sơn hào hải vị của Khánh Hòa, người dân Khánh Hòa đều
biết rõ với một tấm lòng quý mến tha thiết.
Hơn nữa cá thứ thổ sản ấy lại được gia vị bằng một thứ tình
ái mộc mạc mà đậm đà, thì đời sống của con người, sắc thái của cảnh thực lại
càng hòa hợp thành một mùi vị tinh tế và thâm thúy biết bao!
QUÁCH TẤN ơi, “Vài nét về Khánh Hòa” tuy đơn sơ mà gợi hứng
khá nhiều. Vì thế, trên kia tôi nhân hứng mà đòi hỏi thêm một bức họa đồ của tỉnh
ấy. Trong lúc đọc tôi nhớ đến một số văn nhân và triết gia Pháp đã văn chương
hóa một số tác phẩm khoa học của họ như Fuffon đã viết Vạn Vật Học, Diderot viết
về bệnh mù, Michelet viếtg sử, Rousseau về thực vật học, Taine viết văn với nhiều
thú vị về những bài có tính cách địa lý... Và vì thế tôi mong ước chúng ta có
những tập Toming Clul Victuam.
“Vài nét về tỉnh Khánh Hòa” đượm nhuần mùi vị thi ca của đất
nước. Nó rung động tâm hồn sầu xứ của người ly hương dù anh và tôi không phải
sinh trưởng ở Khánh Hòa. Nhưng Khánh Hòa là một phần của Tổ quốc cả. Người lữ
hành ở ngoại quốc, giữa trưa hè nghe tiếng ve ngâm, nửa đêm nghe tiếng trẻ con
khóc hay tiếng gà gáy xa xa,thì tưởng như mình đang đi hay dang nằm trên đất tổ.
Vì lẽ các thanh âm áy là thanh âm chung của nhân loại, nó quen thuộc với các giống
người, cho nên nó gợi lòng nhớ quê của người lưu lạc, nó làm sống động trong
tâm hồn chúng ta những kỷ niệm êm ái, những hình ảnh thânyêu của thời thơ ấu,
cái thời mà vũ trụ của ta ở trong phạm vi ruộng vườn...
Huống hồ rừng núi, sông biển, cây cỏ, chim muôn, nhân dân và
vật sản của Khánh Hòa liên hệ mật thiết với chúng ta: qua văn thơ ta phải thấy
tâm hồn ta được ràng buộc với quê hương bằng một sợi dây vô hình, thân mật,
thiêng liêng và bền dẻo biết bao.
PHAN NGỌC CHÂU
(Trích báo Tự Do số 1902, 1908, ngày 17-4, 21-7-1963)
QUÁCH TẤN
VÀ BUỔI CHIỀU VÀNG CỦA ÐÔNG PHƯƠNG
Chớp mắt ngàn thu quạnh
Về đâu chiếc lá bay?
QT..
Hồi chiều tôi vừa ghé thăm thi sĩ Quách Tấn. Trên đường trở về,
nhìn nắng xế qua thành phố, nhìn cảnh sinh hoạt buồn tẻ của một thị xã ven bờ
biển miền Trung, một ngày sắp qua. Ðiều này khiến tôi ưu phiền về Quách Tấn.
Nghĩ đến tuổi già của ông, rồi nghĩ về cõi thơ cô tịch của ông mà lòng thấy ngậm
ngùi. Tôi chợt nhớ lại hai câu thơ của Lý Thương Ẩn, hai câu thơ nói đến cuộc đời
xế bóng:
Tịch dương vô hạn hảo
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Mà Quách Tấn đã dịch trong Xứ Trầm Hương của ông như thế này:
Tịch dương cảnh đẹp vô ngần
Riêng thương chiếc bóng đã gần hoàng hôn.
Tôi tin chắc là khi dịch hai câu thơ trên Quách Tấn không nhiều
thì ít đã ký thác tâm sự của mình vào trong đó, vì tôi biết năm nay ông đã 67
tuổi, tuổi của mùa đông cuộc đời.
Dường như, nơi con người của ông, tôi luôn luôn bắt gặp một
quê hương xa xôi nào đó nằm sâu trong tiềm thức ông: Những đền đài xưa cũ, những
ngồi chùa u tịch trong rừng sâu, những chuyện nghìn lẻ một đêm thời đại xanh mộng
thuở ban đầu - Những điều này, Quách Tấn luôn luôn say sưa yêu mến kể lể trong
hầu hết những tác phẩm của ông, như bức thông điệp mà ông muốn trao đến cho thời
đại đau thương này.
Trước nhà ông có cây mận dù đã già nhưng vẫn xanh tươi hầu
như suốt bốn mùa. Sau một thời gian đi xa, khi tôi trở lại thăm ông thì thấy mận
đã mất. Tôi ngạc nhiên, chỉ ngạc nhiên mà không dám hỏi lý do vì tôi ngại gợi đến
nỗi buồn cho ông. Tôi tự hỏi không biết cây mận bị ai đốn rồi thì hằng ngày ông
tri âm với ai?- điều này chẳng có gì là lạ, vì ai đã từng đọc thơ ông thì thấy
cây mận này đã buộc chặt vào đời ông như hình với bóng. Cây mận đã trở thành
nhân chứng cho bao nhiêu là dâu bể xảy ra trong đời sống văn chương của ông.
Chính dưới gốc mận này, những thi sĩ nổi danh của Việt Nam từ tiền chiến đã từng
họp mặt như: Tản Ðà, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê... và điều cảm động nhất
mà tôi được biét là thi sĩ Tản Ðà đã từng ở lại ngôi nhà này trong mấy hôm và
đã ngồi tư lự nhiều giờ dưới gốc mận này. Sau hết là điều quan trọng mà tôi
nghĩ đến cây mận, mà chính cây mận này là nơi gợi hứng vô tận cho những vần thơ
của ông. Cây mận đã trở thành một tiểu vũ trụ riêng tư của ông. Ở đó, ông trốn
gió, trốn mưa, trốn những cơn bão của tâm hồn, và những tiếng động ồn ào huyên
náo nhất của thời đại cơ giới.
Ðọc Quách Tấn là tìm lại tiếng đập rộn ràng của trái tim vũ
trụ: ở đó thiên nhiên phơi mở. Nhất là giữa thời đại cơ giới này, chúng ta đã
đánh mất chúng ta. Chúng ta đánh mất bằng những tiện nghi dễ dãi nhất, trong
cái sinh hoạt của một ngày ta luôn luôn bận rộn, hai buổi ở công sở. Buổi chiều
trở về nhà có nhật báo, có máy phát thanh. Tối đến có ti vi. Sống như vậy ta cứ
nghĩ là sẽ chạy trốn được nỗi cô đơn, trốn được cái hoang lạnh của kiếp người.
Nhưng không, càng chạy trốn bao nhiêu thì nỗi trống rỗng càng bám chặt ta bấy
nhiêu. Bởi vì trái tim đã mất, và đời sống càng ngày càng cách ly với thiên
nhiên.
Vì vậy, Quách Tấn đem trả lại cho ta sự quay tròn theo thời
tiết điệu đời trời đất: sáng, trưa, chiều, tối. Rồi đến mùa: xuân, hạ, thu
đông.
Ðọc Quách Tấn ta tìm lại thời gian thực sự, nhưng thế nào là
thời gian thực sự? Thời gian thực sự là thời gian không do trí óc con người bịa
đặt ra, nó không được xác định bởi bất cứ cái gì của con người. Thời gian của
con người là thời gian của tấm lịch, của đồng hồ trên tay, hay trên vách tường.
Ta đã bon chen, lo lắng theo tiếng reo của đồng hồ, ta phải bon chen cho kịp đến
công sở vì sợ trễ giờ, bởi vậy mà ta hốc hác, đau khổ. Còn thời gian thực sự
thì không như thế, mà là thời gian theo thiên nhiên của vũ trụ.
Vào những thời đại xa xưa, thì thời gian đối với họ là buổi
sáng nhìn triêu dương, buổi chiều nhìn tịch dương, đêm đến nhìn sao lấm tấm
trên trời cao. Ngày rằm đến bằng mặt trăng tròn, và ngày rằm đi khi mặt trăng
khuyết.
Mùa xuân được báo hiệu bằng đóa hoa đào, mùa hè đến bằng hoa
phượng và mùa thu bằng hoa cúc hay những cây hòe trổ bông làm vàng rực cả đồi
cao. Nhất là khí trời lành lạnh vào những chiều có gió heo may:
Nắng chiều thu trở lạnh
Buồn vương ngọn heo may.
Mùa đông đến âm thầm bằng những bước chân người nông phu dắt
trâu ra đổng, và những con chim ngơ ngác bay tìm về tổ cũ để trốn tránh gió
mưa:
Lá vàng buông gió lạnh
Trơ trọi nhánh thầu đâu
Bay về thăm tổ cũ
Ngơ ngác lòng chim sâu.
...
Nhớ thương tràn gió lạnh
Làng cũ bóng mây trôi.
Ðọc hai câu thơ này khiến tôi nhớ quê hương da diết. Quê
hương ở đây không nhất định là tỉnh táo hay miền nào, mà là quê hương mơ hồ
trong tiềm thức. Ðã từ lâu rồi, trên những nẻo đường lênh đênh, ta đã vô tình
đánh mất, như ta đã đánh mất tuổi thơ. Rồi một chiều nào đó đi ngang qua một
làng quê, ta chợt nghe tiếng sáo mục đồng:
Lặng lẽ nằm nghe sóa mục đồng.
(Ðọng Bóng Chiều, tr, 42)
rồi nhớ lại vườn cau sau nhà:
Vườn xưa muôn cách trở
Phảng phất mùi hoa cau.
Nhớ tiếng cu cườm vào những trưa hè trong lũy tre xanh, nhớ đồng
lúa thơm, nhớ ngọn gió nồm:
Sóng gợn đồng lúa thơm
Hương theo ngọn gió nồm
Qua hàng tre nắng nhuộm
Dòn dã tiếng cu cườm.
(Sđd, tr. 32)
Và rồi trong một đêm cô tịch nào đó, sau khi mọi hoạt động của
con người đã bị dừng lại - giờ phút yên lặng nhất đã đến, từ xa vọng lại tiếng
chuông chùa:
Mây nước nhiễm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân.
(Sđd tr.7)
Có lẽ đã từ lâu rồi, trên những nẻo đường xuôi ngược, thi sĩ
đã không còn nghe được tiếng chuông của ngôi chùa cổ thuở nào - rồi đêm nay bất
chợt nghe lại. Niềm vui bừng dậy trong tâm hồn, thi sĩ chào đón tiếng chuông
như chào đón một người bạn lâu năm nay trở về gặp lại.
Vào “những đêm buồn tỉnh giấc” ta nằm mà nhớ mông lung, ta cảm
thấy như đã đánh mất một cái gì... tuổi thơ, quê hương trong dĩ vãng.
Ôi quê hương, sao đường trở về nghe xa xôi quá! Ðọc Quách Tấn
là miên man đi vào trong cõi mộng huyền bí của Á Ðông. Ở đó mộng và thực không
còn phân chia, mộng chính là thực và thực chính là mộng.
Trong suốt hai tập du ký của Quách Tấn: Nước non Bình Ðịnh và
Xứ Trầm Hương, mới đọc vào ta cứ tưởng là chép về địa lý. Nhưng kỳ thực Quách Tấn
không làm chuyện thông thường đó, điều mà ông muốn đạt đến là: thiên về phong cảnh,
cổ tích, giai thoại, huyền thoại... là những cái dễ mất. Còn những gì thuộc về
khoa học, thuộc về chuyên môn thuần túy, là những cái thường còn thì thường cho
các nhà học giả... (Xứ Trầm Hương, tr. 6). Với Quách Tấn, bất cứ ở đâu và lúc
nào ông cũng triền miên trong thần thoại. Trong dãy Trường Sơn chạy dọc theo miền
Trung này, ngày nay đâu là đâu có ai ngờ rằng, trước kia đã là bao nhiêu chuyện
xảy ra: Con ngựa trắng của Nguyễn Nhạc ngơ ngác vì vắng chủ, đi lang thang một
mình trong núi. Và ly kỳ hơn nữa là chuyện chàng Lía. Hồi xưa chàng sống một
nơi mà “quang cảnh man dại. Người cứng bóng vía đến đâu, lúc gió quá cũng cảm
thấy rờn người...” (Nước non Bình Ðịnh, tr. 279). Và cứ như vậy, Quách Tấn đưa
ta đi từ cảnh âm u này đến chuyện âm u khác, rợn người biết bao nhưng cũng thơ
mộng biết bao. Ở khắp núi rừng Việt Nam hiện nay làm sao ta tìm lại dấu vết của
ngôi chùa này: “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không rửa mà trong, thân không
cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón gió mát, tưởng chừng mình đã xa cách hẳn cõi
trần tục”:
Gió ru hòn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.
Nếu không có tiếng chuông lay mộng, thì mộng còn mãi chìm
trong bóng mây ráng, hoặc làm con cò vương hương bay lơ lửng trong hồ sen yên tịnh...
Nhưng mộng dù đã tỉnh, mà cơn hứng vẫn còn nồng... Tuy nhiên bóng chiều đã về
tây, bóng tối đi tìm mồi, và đôi cọp mun trong hang đá sau chùa kìa... (Nước
Non Bình Ðịnh, tr. 270). Và biết bao chuyện lạ như vậy được Quách Tấn đem ra kể
lại. hình như có lẽ Quách Tấn cảm thấy cô độc khi đem những chuyện như vậy mà
nói giữa thời này: thời đại mà sự thống trị của lý trí đã quá mãnh liệt, tất cả
đều ải chính xác, hiệu năng, nghĩa là phải hợp với khoa học. Còn mấy ai nghe
theo ông: “Hỡi ai là người đồng thanh tương khí?” (Nước non Bình Ðịnh tr. 280),
Quách Tấn vẫn thường than thở như vậy, sau mỗi lần ông nhắc đến
một chuyện hoang đường. Ðiều này chúng ta có quyền tin rằng: Quách Tấn muốn
nuôi một hoài bão. Tôi nhớ Heigegger đã nói như thế này: “Từ khi thần linh biến
khỏi mặt đất, thì thế giới bắt đầu trầm mình trong bóng tối”. Thời đại này đã
xua đổi thần linh, nghĩa là dánh mất bản lai diện mục của mình. Ðó là lý do mà
ta có thể hiểu tại sao Rimbaud bỏ Âu châu tân tiến, sống lang thang tận những
sa mạc nóng cháy của Phi châu, và luôn luôn ngóng vọng về Ðông Phương, và
Hoelderlin mơ mộng trở về tắm lại tận nguồn dòng sông Indus ở Ấn Ðộ. Vào những
thời đại xa xưa của nhân loại - thuở ấy, con người say sưa ca hát với thần
linh, đùa giỡn với mặt trời, mặt trăng. Nhưng rồi cuối cùng đã từ bỏ quê hương
của mình.
Quách Tấn muốn chỉ đường cho ta về lại cố hương xa xôi ấy.
Trên đường về ta sẽ thấy bầu trời đầy mùi thơm của mùi hương thuở nào:
Phảng phất hương trầm thoảng
Trời Thiên Y A Na
(Thiên Y A Na là nữ thần của Chiêm Thành trước kia) và núi
sông thì đầy mộng và chiêm bao:
Thanh bình câu chuyện cũ
Trời mộng bóng chiêm bao,
TRẦN HỮU CƯ
(Trích Thời tập số 15, 1974)
QUÁCH TẤN - QUÊ HƯƠNG VÀ THƠ
Con chim mộng đang tỉnh dậy trong hồn. Ðó là những gì cô kết
nhất khi tôi nghĩ về Quách Tấn. Ðó là những gì còn lại sau những giờ dài đọc
văn và thơ Quách Tấn.
Tháng trước, nhận được thư người bạn ở Việt Nam nhờ viết về
Quách Tấn cho số Văn đặc biệt dành cho anh. Tôi tự nghĩ: dễ quá. Viết về Quách
Tấn tôi có thể viết thao thao. Bởi Quách Tấn đã nằm đầu lưỡi, mười đầu ngón tay
tôi. Chỉ cần một cái búng nhảy của lời. Chỉ cần một chút run của gió. Tất cả sẽ
tuôn trào.
Nhưng không.
Những ngày rất dài đã đi qua. Dài tựa con đường ngoằn ngoèo từ
ngoại ô Nam lên ngoại ô Bắc xuyên Paris tình ái, nơi mỗi ngày tôi phải đi qua.
Tôi đã tới những nơi thầm kín nhất cho cõi lòng toang mở: con sông Marne với lá
tuôn Vỹ Dạ, Place Contrescarpe với đêm dài ma hú, đồi Montmartre dấu chôn môi đỏ,
vườn tuileries với rue d’Alger dài như ngón tay kiều diễm, và còn bao nhiêu nơi
nữa? Tất cả đều như một lằn rách dưới đêm sâu.
Bây giờ ngồi cạnh l’Étang de Cortot một ngày chúa nhật. Le
diamache à Volle d’Avray. Ngồi đọc lại tất cả những thư từ Quách Tấn gửi cho
tôi từ mười năm nay. Tôi đọc từ khi hoa súng nở cho tới khi hoa súng khép lá
non và cánh nõn trên mặt hồ, cho tới khi gia đình Faulkner gọi chở tôi về.
Tôi biết một cách rất rõ là không dễ gì viết về Quách Tấn như
đã tưởng. Ðương nhiên, tôi có thể ngồi viết một ngàn trang trong hai hay ba đem
để ca tụng hay hạ giá Quách Tấn. Nhưng viết về Quách Tấn thì không. Bởi quả thực,
chúng ta đang lãng quên Quách Tấn quá lâu ngày. Chúng ta đã lãng quên dãy núi
Trường Sơn mây mươi năm nay, dù vẫn nhìn, vẫn nói, vẫn tưởng là Trường Sơn còn
hiện hữu.
Phải rồi, chính sự lãng quên đã đưa chúng ta đi xa, quá xa, rời
khỏi dung mạo, diện mục mình.
Nếu không có Lê Thương, chúng ta chẳng bao giờ hát Hòn Vọng
Phu. Nhưng có Lê Thương rồi, chúng ta cũng chỉ nghêu ngao hát Hòn Vọng Phu mà
không biết Hòn Vọng Phu ở đâu, nó ra thế nào, nó đợi CÁI gì? Chúng ta đã quên mất
Niềm Chờ Ðợi. Và chúng ta lang thang. Lang thang là đi ngang, chớ không đi tới.
Không đi tới Niềm Chờ Ðợi. Do đó, không thể thu đất cho khoảng cách giữa mình
thực hữu với chấm sáng của niềm chờ đợi đang đợi chờ mình nhập MỘT trong nhau.
Mẹ tôi quê ở Nam Ðịnh. Thuở nhỏ, khi cha tôi gặp nạn, mẹ đưa
tôi về Nha Trang rồi Bình Ðịnh. Mấy năm trời với núi non, dừa xoài, sông, cây
trứng cá, lò gạch, lò gốm, lò đường, Tuy Phước, Cầu Ðôi... Cái thời xa đó vẫn
in hằn tâm khảm. Sau này lớn lên, tôi có dịp trở lại Nha Trang vài lần. Nhưng
tôi không biết gì về Nha Trang, Bình Ðịnh cả. Cố nhiên là tôi có thể nói như mọi
người về Tháp Chàm, về Hòn Chồng, về Chụt, về Hải Ðức, về đèo Rù Rì... Dù vậy,
tôi chỉ là khách bàng quang đứng ngắm, đứng nhìn, đứng trầm trồ, đứng cười cợt,
đứng lắc đầu. Tôi không xứng bằng giá trị một thân cây chằm rễ xuống su sâu của
sỏi đất. Tôi không hề cảm thấy thấu sự chuyển mùa theo hương gió qua thân thể
mình nơi chôn nhau cắt rún như thế nào. Tôi chỉ biết rất nhiều về xe hon đa, về
xe Peugeot 404, về tivi về các vụ đảo chánh, về hàng lụa, về ăn diện, về chuyện
nước ngoài.
Bởi chưng vì tôi đã đánh mất nơi tâm khảm “một màu vàng linh
động dính liền sắc trời xanh” của rừng hoa xoài nguyên phối.(10) Mười loài hoa
trang quý của thẩm mỹ học Trong Quốc đã khiến chúng ta rời bỏ lối nhìn bình đẳng
sâu suốt sự vật để chấp nhận những kiểu cách nhất thời. Núi, bãi, khói, sông, hồ...
dường như chỉ đẹp thực trong tranh, và là tranh tàu như tranh Tống Ðịch(11) chẳng
hạn. Kỳ dư tám cảnh đẹp như tám cảnh Tiêu Tương không hề có thực trên quê
hương!(12)
Núi rừng ta còn quên, nói chi tới bầy chập chờn đom đóm mà
Quách Tấn đã đứng trong nụ cười giữa khuya sao vằng cặc nhìn tựa “bao nhiêu sao
trên trời đều sa xuống và đọng nơi cây cối”.(13)
Bao giờ sự quên lãng thực sự bị lãng quên để cho núi rừng và
thực tại ùa về chầm nhập vào châu thân thì lúc đó ta mới thôi làm người du lịch
để tuôn tràn trên mảnh đất đứng tựa dòng sông.
Lúc đó ta sẽ thấy “núi non trông biếc thêm, sông biển trông
trong thêm. Và những chòm cây muồng hèo ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa
ở nơi bãi vắng, dầy đặc cả đom đóm.” (14) Bầy đom đóm của tìm thức chói soi giữa
lũng tối lạc đường.
Lấy máy bay đáp xuống phi cảng Nha Trang, thuê phòng ở khách
sạn, xuống được Ðộc Lập chọn mua áo tắm, một chai ambre solaire, rồi ra biển nằm
phơi tấm thân “trống mái” của Vọi. Ðó là Nha Trang của tuổi trẻ bây giờ. Ðó là
Nha Trang của Saint Trop, của Floride... Một thứ Nha Trang học làm sang, một thứ
Nha Trang đang cuốn dần vào vòng dây thép gai. Chứ không phải là Nha Trang thần
thánh dân tộc, Nha Trang của voi ở Ma Ca, của cá ở Trường Bơi, của Chà Khé ở Hồ
Ðá(15)ù, Nha Trang của “những áo xiêm lần lượt biến thành năm sắc mây chờn vờn
trên ngàn cây cổ thụ”(16), trong của “mùi hoa rừng bay theo gió, có đó rồi
không”(17).
Tôi không tin có tuổi 20 và tuổi 40 để thị oai nhau hay “dạy
bảo” nhau. Tôi không tin có hai cảm quan của hai thế hệ. Tôi không tin có hai lối
sống khác thường. Tôi không tin “hạt đậu ngày xưa to hơn bây giờ” như một nhân
vật của Lỗ Tấn đã than.
Có gì khác nhau giữa sự kiện đôi lứa đứng nhìn trăng của những
thế kỷ trước “chỉ mảnh trăng thiên hạ mà bảo rằng của đôi ta” và sự kiện bắn một
lá cờ lên nguyệt điện để giành trăng cho quốc gia mình?
Chỉ có lối nhìn khác nhau. Một lối nhìn soi vào thực tại, thấy
thực tại là thực tại. Và một lối nhìn biến thực tại thành thực tại ly thực tại.
Hai lối nhìn đó ở thời đại nào lại không có, ở lứa tuổi nào lại không có?
Cho nên chúng ta không thể đặt Quách Tấn cách lìa với thời đại
chúng ta. Sự chia gãy nền thơ dân tộc làm thơ cũ, thơ mối vào những năm 30 tuy ồn
ào vẫn không mang lại ý nghĩa gì cho bằng việc cái nền thơ đó đã mang lại gì
cho trời thơ Việt, cho nền suy tư dân tộc. Một số rất lớn các nhà thơ trẻ của
chúng ta đã thanh toán hẳn thơ Ðường, Ðỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị vẫn tiếp tục
ngự trị thi đàn thế giới và thi đàn Trung Quốc, kể cả Trung Quốc của xã hội chủ
nghĩa (năm 1962, Trung Quốc đã rầm rộ kỷ niệm 1250 năm ngày sinh đại thi hào Ðổ
Phủ). Nguyễn Du Dante Shakespeare Dostoievskh, Tolstoi, Pouchkine... cũng thế.
Bởi vì chưa có những bài thơ, những nhà thơ vượt được tiếng thơ của những nhà
thơ kỳ vĩ này, kể cả những quốc gia đã thay đổi hẳn nhân sinh và thế giới quan.
Tổ quốc ta đã kinh qua gần 30 năm lửa máu, đau đớn, uất hận, thế mà tôi đọc được
rất ít bài thơ thể hiện nỗi đau khổ trầm thống của quần chúng như khi tôi đọc Ðỗ
Phủ.
Giá trị của Quách Tấn chính là giá trị của một cái nhìn đầy
hào khí dân tộc và nhân bản rọi vào thủ đô thi ca và suy tưởng.
Khi tôi đọc “Nước non Bình Ðịnh”(18) và “Xứ Trầm Hương” của
Quách Tấn, tôi cảm giác như mình đang đọc Lê Quý Ðôn, Phan Huy Chú... Một Lê
Quý Ðôn đã được gạn lọc nền bác học Trung Quốc để thọc sâu vào mối nguồn văn
hóa Việt. Thật vậy, Quách Tấn không viết riêng những thiên đại dư chí, không
sao chép riêng truyện tiếu lâm, thần thoại hay giai thoại. Dưới ngòi bút Quách
Tấn, tất cả đều mang chủ đích nung nấu và thể hiện cái gì quý giá nhất, chân thật
nhất để tồn tại và không mất gốc: nền suy tư tộc Việt.
Giá trị của hai cuốn “Nước non Bình Ðịnh và “Xứ Trầm Hương” rất
lớn và độc chuyên. Chúng là tài liệu căn bản cho các nhà nghiên cứu dân tộc về
sử học, đại dư học, dân tộc học, nhân chủng học, xã hội học, tư tưởng học... Sử
học, bởi vì Quách Tấn vừa rọi chiếu vào một số lớn sử liệu về Tây Sơn, Cần
Vương mà sử nhà Nguyễn và sở mật thám Pháp đã ém nhẹm, phá hủy. Ðịa dư học, vì
Quách Tấn bằng hàng chục năm trường sống cái sống thực của nhà thơ đã có đủ thẩm
quyền chỉ nẻo cho các nhà địa dư học, chỉ có thước đo và ống dòm. Dân tộc học,
nhân chủng học xã hội học, vì qua Quách Tấn, những xó ngách của con người Kinh,
Thượng và làng xóm, tập tục, thông lệ, đều được ghe chép cặn kẽ. Từ cách chặt dừa
nghệ thuật và đầy hương vị cùng với nghi thức giữa chủ dừa và người uống ở
Khánh Hòa(19) cho đến việc tế lễ Miếu Lỗ Lườn ở Ninh Hòa. Từ cá nhân tướng
Rái(20) cho đến sự khám phá loài một mới hóm hỉnh trong bột xi măng(21). Từ việc
trai gái hát đối: “quây quần giữa sân tươi cười nói nói... Rồi ai về nhà nấy,
lòng xuân phơi phới đêm xuân”(22) cho tới tục hát ống(23).
Không biết vì cố ý hay vô tình mà Quách Tấn đã mô tả rất nhiều
những chuyện kể nhân gian pha lẫn màu sắc thần bí, mộng thực. Ðọc văn khí của
Quách Tấn chúng ta ngờ đây là chỗ dụng công. Hoang đường, thần bí đối với Quách
Tấn là chỗ dụng công. Hoang đường, thần bí đối với Quách Tấn vốn không có làn
ranh với thực tại khôn dò. Chúng trộn lẫn trong nhau. Và mỗi bận kể xong, Quách
Tấn đều láy đi láy lại câu “khó tin rằng có, khó ngờ rằng không”. Hoang đường,
mộng mỵ, thần bí nơ trang sách hiển hiện như một thực tại bị lãng quên quá lâu
ngày. Con người đã bỏ quên những thần linh bằng hữu, đã bở quên quê hương mình
để chạy theo hư ảo của cái tưởng là thật một cách trắng như ngân hàng, dầu
xăng, ngói gạch, đô la... Chúng ta đã thực sự quên những cây trầm hương nơi núi
rừng Khánh Hòa, bỏ lơ cho cọp mun và bà Thiên Y A Na. chúng ta đã thực sự quên
những tổ yến huyết, bỏ lơ cho người Trung Hoa mại bản. Chúng ta đã thực sự quên
cát trắng làng thủy tinh phó mặc cho thứ chủ nghĩa O.K Isme xuề xòa. Chúng ta
đã bỏ đói con ngựa trắng của Nguyễn Nhạc trong dãy núi Bình Ðịnh. Chúng ta đã
ngoảnh mặt làm lơ với người họa sĩ tài ba dân tộc Nguyễn Khanh, có tài viết chữ
thảo như thần (calligraphie) để chạy nhờ các ông thầy Tàu viết giúp(24)
Chúng ta đã bỏ quên chúng ta. Nên Quách Tấn mới dụng công gọi
thần linh trở về, gọi bản lai diện mục trở về. Với kẻ đi xa lâu ngày, hay kẻ có
tân học, ắt phải chê Quách Tấn đang manh tâm mà thư thực tại. Kỳ thực, trên giấy
mực, Quách Tấn đang bày ra cái lề lối suy tư bất khuất cố hữu của tộc Việt:
Tính tương duyên. Mộng và thực giao hòa trên thế đứng hai chân cho thực tại tựu
thành. Thực tại hiển hiện khi ý chí sâu suốt của ta thâu lấy tiềm năng và hậu
thức hầu khai thác triệt để khiến linh thiêng biến ra cảnh sống thường ngày.
Ðây có lẽ chính là điều mà các nhà tư tưởng học nên lưu tâm.
Chính Quách Tấn cũng đã nói: “Thầy cậy cây dầu, cây dầu cậy
thần”(25). Tiếng đàn ngoài dây tơ vừa hé nơi đây. Cho nên khi Quách Tấn láy đi
láy lại việc thần thánh, tiên trần, nhắc ông chỉ muốn làm việc tố cáo: nhân
tính đã mất, xã hội ly nhân, tính như u ám.
Ở Việt Nam có nhiều người theo đạo Phật. Tôi mạn phép xin
khuyên học đọc “Nước non Bình Ðịnh” và “Xứ Trầm Hương” đẻ biết thêm về thân thế,
sự nghiệp của nhiều vị Cao Tăng nơi chốn thiền lâm mà lâu nay không có người
nghiên cứu, ghi chép. Quý vị sẽ ngạc nhiên biết thêm về Hòa Thượng Rau, Hòa Thượng
Ðò. Những đièu mà tôi cầu mong họ đọc hơn cả những là những lời bình phẩm của
Quách Tấn đối với các di tích, chùa chiền, tự viện hiện có số lớn đang bị hoang
phế hay trang hoàng lố lăng. Quách Tấn rất nghiêm khắc về điểm này, dù ông là một
Phật tử. Tôi nghĩ rằng tuy không nói ra, nhưng Quách Tấn dường như cũng ôm ấp
muốn bảo tồn phục hồi nền Phật giáo dân tộc. Quách Tấn tâm niệm mong cho “đá mọc
quanh chùa biết gật đầu đảnh lễ trước Kim Thân Phật Tổ”(26)
Tôi tiếc không thể nói nhiều hơn về “Non nước Bình Ðịnh” và
“Xứ Trầm Hương” vì sở học còn sơ sài, xin dành để cho các nhà khảo cứu, đại học
có căn bản uyên thâm.
Trên đây, tôi chỉ muốn htổ lộ sự thẹn thùng và cảm giác của một
kẻ tưởng là biết nhiều về quê hương, sông núi, mà kỳ thực không biết gì cả. Phải
chi có được những Quách Tấn cho Nước Non Thừa Thiên, Nước Non Hà Hội, Nước Non
Cửu Long... để cho quê hương bừng sống dậy cùng thần linh đang bơ vơ trên sông
núi.
Thuở trước chúng ta đã sang tới bên Trung Quốc mời Từ Hải và
Kiều về ngự trị trời thơ Việt mà một Từ Hải Việt Nam là Chàng Lía(27) dã bị bỏ
quên nơi xó rừng Trung Việt! Sao Quách Tấn hay một nhà thơ nào khác không “diễn
nôm” con người dũng liệt này? Chúng ta sẽ có Tân Kiều cho thế kỷ văn học XX.
Ở đây, tôi cũng xin thổ lộ sự hỗ thẹn của tôi là chưa đọc hết
tác phẩm của Quách Tấn. Tôi chưa hề đọc “Trăng Ma Lầu Việt” và “Nghìn lẻ một
đêm” hầu gặp biết thêm chiều sâu tư tưởng và văn tài Quách Tấn. Bởi vì Quách Tấn
vừa là một nhà thơ, một nhà văn, một nhà tư tưởng. Ngày xưa tôi chỉ nghĩ Quách
Tấn là một nhà thơ. Một nhà thơ trong nghĩa do nền giáo dục quy ước định ra.
Chính nền giáo dục này đã bó rọ tôi trong lối nhìn của nó. Lối nhìn tranh chấp
và đỗ vỡ. Một con người như Quách Tấn, kinh qua trên 60 năm trời trên mảnh đất
máu lửa đầy dối trá này, đã nhúng ta vào đại sự, đã viết và tiếp tục viết, dịch,
chú... hẳn không phải là người chỉ biết ngồi đưa võng viết chuyện mây đưa gió
thổi.
Dù chưa được đọc “Trăng Ma Lầu Việt” và “Nghìn lẻ một đêm” và
một số tác phẩm khác của Quách Tấn, tôi cũng tự an ủi vì biết rằng mình là kẻ
ít đọc sách nhất, là kẻ dốt nát nhất trong số người ít đọc sách và dốt nát nhất
trên thế gian và ở xứ sở Việt Nam này.
Quách Tấn khi viết về “Ðôi nét về Hàn Mặc Tử”, về “Bích Khê”
về “Những Bức Thư Thơ”, về “Giọng Hàn Huyên”, về truyện ngắn như Con Mèo Tam Thể,
Thôn Trường Ðịnh, v.v... về “Mùa Cổ Ðiển”, về “Ðọng Bóng Chiều”, về “Mộng Ngân
Sơn”... luôn luôn giữ phong độ của kẻ mang hòa khí ngút ngàn. Mỗi hàng mỗi câu
đều thể hiện sáng sủa, uyên nghiêm mà tràn ngập thi ca, khiến cho người đọc
“lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ”. Tất cả con người Quách Tấn
là thi ca, là tiếng báo hiệu của một sự thành tựu.
... Bây giờ Quách Tấn ở đâu? Anh đang đứng bên bờ biển Thái
Bình, tại một địa điểm quê hương thường gọi là Nha Trang, “đầy áo giọt hoa
rơi”(28). Thơ Quách Tấn như Trăng phân thân thành “vàng tan sa số ảnh”(29) áo bọc
cho muôn triệu cõi lòng xa vắng quằn quại trên một đất nước đang đánh mất thi
ca.
Người thi sĩ đó đứng nhìn “Mây un trời tháng hạ”(30) để đón
đưa khách sang sông viễn du vào dòng sông đầy ắp thi ca hào hùng và bất khuất.
Làm gì đây? Nếu không là ngâm lớn tiếng thơ cho tiếng thơ cầm
tay mình dẫn vào giữa lòng thơ uyên nguyên hào khí. Quê hương và con người sẽ
không mất.
Bởi vì con chim mộng đang tỉnh dậy trong hồn.
Con chim mộng với cái nhìn ngây thơ không mất gốc khiến những
phần đất ung thối khỏi hoàn toàn ung thối, khiến cho những phố chợ lợi danh,
phiền não, như Nha Trang là một cũng phải: “đồng hóa cùng lá cây và dính liền với
làng quê đồng ruộng. Những cao ốc, biệt thự, phố xá chỉ còn là những vệt trắng,
vệt xám, vệt đỏ, thấp thoáng trong sắc xanh của cây của núi của trời...”(31)
Phải rồi, con chim mộng đang tỉnh dậy trong hồn. Cám ơn anh,
anh Quách Tấn, nhà thi hào cô đơn không nhưng không đơn độc.
NGUYỄN THÁI
TẤM LÒNG ÐÃ TRẢI CÙNG NON NƯỚC
Tuy nơi LỜI THƯA đầu sách, tác giả đã dè dặt minh xác rằng
mình không có tham vọng viết một quyển địa phương chí, mà chỉ làm công việc
“ghi chép” lại những gì đã thấy, đã nghe, đã cảm trong mấy mươi năm sống cùng
non nước Khánh Hòa, nhưng suốt cả gần 500 trang giấy, ngòi bút tài hoa, lịch
lãm của ông đã đóng trọn vai trò người hướng đạo nhiệt thành đưa đi thăm thú,
tìm hiểu hầu khắp mọi mặt của địa phương, từ địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa
đến phong tục, vật sản, các thắng cảnh cổ tích, các nhân vật hữu danh... Như vậy,
vẫn có thể coi XỨ TRẦM HƯƠNG là một quyển địa phương chí về đất nước, con người
Khánh Hòa, nhưng ở đây còn với cái nhìn và bút pháp thể hiện của một nhà thơ
giàu xúc cảm và tâm huyết.
Giá trị của Xứ Trầm Hương có lẽ không phải là ở những tài liệu
về dân số, về độ cao của núi non, chiều dài của sông suối, sản lượng khai thác
các nguồn lợi kinh tế trong tỉnh... mặc dù tất cả những điều này đều được tác
giả ghi chép công phu, cặn kẽ.
Với Xứ Trầm Hương, con người nghiên cứu của Quách Tấn dường
như đã chọn cho mình một cách tiếp cận từ góc độ văn hóa dân gian. Ông tìm về
những gì có thể chúng ta đã lãng quên, mất mát, những dấu tích, những vang bóng
một thời. Mỗi trang sách như mở ra một đoạn đường, một mảnh đất, một khoảng trời
quê hương tốt đẹp. Cả một dải non sông gấm vóc từ đèo Cả đến Cam Ranh, tưởng chừng
nới đâu cũng gặp những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, những di tích lịch sử, những
câu ca, điệu hò, chuyện kể dân gian đượm màu huyền hoặc, những ngóc ngách của
con người, làng xóm, tập tục, sinh hoạt... nói như một nhà văn, chỗ nào ta cũng
thấy phảng phất hình ảnh người xưa, văng vẳng tiếng nói của người xưa.
Hãy đọc Xứ Trầm Hương để biết rằng ngay giữa lòng thành phố
Nha Trang tòa ngang dãy dọc hiện giờ, xưa kia đã từng có một rừng mai Phước Hải
“mùa xuân hoa nở ánh cả vùng”, và bên cạnh rừng mai, còn có cả rừng dương liễu
mơ màng buông lục, để từ đấy Nha Trang còn nổi danh là một miền “thùy dương cát
trắng”.
Hãy đọc Xứ Trầm Hương để hiểu thêm về đại địa của Nha Trang
nơi sông biển bốn bề bao bọc, và đây đó “bốn ngọn núi tượng hình bốn con thú tụ
họp lại để giữ gìn anh khí” cho cuộc sống con người.
Hãy đọc Xứ Trầm Hương để giữ mãi trong tâm tưởng một đêm giao
thừa ở Tháp Bà, vào cái thời khắc đất trời giao cảm ấy “núi non trông biếc
thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hòe ở hai bên đường,
những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, dầy dặc cả đom đóm ‘tựa hồ’ bao nhiêu
sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối”.
Giữa bao nhiêu biến thiên, thay đổi của cuộc đời, Quách Tấn
giữ lại cho ta hình ảnh một Nha Trang “đồng hóa cùng lá cây và dính liền với
làng quê đồng ruộng. Những cao ốc, biệt thự, phố xá chỉ còn là những vệt trắng,
vệt xám, vệt đỏ, tháp thoáng trong sắc xanh của cây của núi của trời”, một Nha
Trang của “lá me, lá chùm ruột lác đác bay. Chiều chiều chim én lượn từng bầy đớp
chuồn chuồn trong sương mỏng”, Nha Trang của “những áo xiêm lần lượt biến thành
năm sắc mây bày chờn vờn trên ngàn cây cổ thụ”. Nha Trang của “mùi hương rừng
bay theo gió, có đó rồi liền không”.
Sinh ra và lớn lên ở Bình Ðịnh, nhưng người thi sĩ của Mùa Cổ
Ðiển của Mộng Ngân Sơn lại có hơn nửa đời người gắn bó với Nha Trang, Khánh
Hòa, vùng đất mà ông “kính yêu như bà Nghĩa mẫu”, vùng đất mà ông đã trải tấm
hình “thiết tha, thành thực” trong rất nhiều sáng tác của mình. Và không chỉ
trong thơ. Với Xứ Trầm Hương, Quách Tấn đã tiếp tục một mảng đề tài truyền thống
mà người xưa đã làm với Dư Ðịa Chí: Ô Châu Cận Lục, Phủ Biên Tạp Lục... Tấm
lòng của ông với những giá trị nhân văn cao cả của quê hương đẹp biết bao:
“Tấm lòng đã trải cùng non nước
Thương được nhờ ơn cũng chẳng nhờ”
NGUYỄN VIẾT TRUNG
(Khánh Hòa xuân Quý Dậu 93)
“RIÊNG NHỚ TÌNH XƯA GHÉ BẾN THĂM”.
Mối tình anh đối với quê hương xứ sở thật là đậm đà. Hai quyển
sách anh viết về tỉnh Bình Ðịnh nơi anh sinh ra và tỉnh Khánh Hòa nơi anh ở gần
suốt đời là hai quyển sách có giá trị không những về mặt địa lý lịch sử mà còn
về mặt văn hóa nữa. Anh đã gọi tỉnh Khánh Hòa là Xứ Trầm Hương. Tôi nghĩ, nếu mỗi
nhà văn nhà thơ chúng ta viết được một quyển sách về nơi mình sinh hay nơi mình
ở như Quách Tấn đã viết veà Bình Ðịnh và Khánh Hòa thì chúng ta đã góp phần
không nhỏ vào kho tàng hiểu biết đất nước Việt Nam rất nhiều và rất lớn.
TẾ HANH
Hà Nội đầu năm Quý Dậu (Văn Nghệ HNVVN)
VĨNH BIỆT THI SĨ QUÁCH TẤN
... Thi sĩ Quách Tấn còn là nhà văn hóa lớn. Ngoài những tác
phẩm đã xuất bản mà chúng ta đã biết như Trăng Ma Lầu Việt, Nghìn Lẻ Một Ðêm,
Nước Non Bình Ðịnh, Xứ Trầm Hương, Ðôi Nét Về Hằn Mặc Tử, Nhà Tây Sơn, Họ Nguyễn
Thôn Vân Sơn... hiện cụ còn để lại một gia tài đồ sộ có trên 50 đầu sách về đủ
loại biên khảo, lịch sử, văn hóa... kể cả sách cho thiếu nhi.
Chỉ riêng hai tập du ký Xứ Trầm Hương và Nước non Bình Ðịnh
thôi cũng đủ khẳng định Quách Tấn là một cây bút trác tuyệt đến nhường nào. Thế
nhưng ông cũng chỉ một mực khiêm tốn: “Tôi chỉ thiên về phong cảnh, cổ tích,
giai thoại, huyền thoại... là những cái dễ mất. Còn những gì thuộc về khoa học,
thuộc về chuyên môn thuần túy, là những cái thường còn thì nhường cho các học
giả” (Xứ Trầm Hương, trang 6). Những cuốn sách như thế, chắc chắn sẽ còn được
nhiều thế hệ tiếp sau trân trọng. Chỉ tiếc rằng, sinh tiền, đời cụ lắm phong ba
nên những cuốn sách dày công nghiên cứu, trải rộng tấm lòng của cụ cùng non nước
vẫn còn nằm im lìm trong ngăn tủ.
TRIỆU PHONG
QUÁCH TẤN - VÀ ÐÊM GIAO THỪA Ở THÁP BÀ
HỒNG MINH
Cứ mỗi độ giao thừa, tôi lại nhớ những câu văn ngọt ngào, và
không khí, cảnh tượng của đêm hôm ấy.
Ngày đó, 26-11-1992, Quách Tấn trong tuổi 85. Mừng thọ nhà
thơ. Câu lạc bộ Văn Hóa tỉnh Khánh Hòa tổ chức đêm bình văn mang tựa đề “Hương
Mùa Cổ Ðiển”. Nhà thơ được mời đến, ngồi ở vị trí hết sức trang trọng. Thế hệ
những nhà văn cao tủôi của miền Trung sống trên đất Khánh Hòa chẳng còn được mấy
người: 1 nhà thơ Quách Tấn, 1 nhà văn Võ Hồng, 1 nhà thơ kiêm dịch giả Ðào Xuân
Quý... Hình như, chỉ còn lại có vậy thôi!... Dĩ vãng một thời đã qua như còn bảng
lảng đâu đây trong làn sương khói của hương trầm, và cả trong dáng điệu trang
nghiêm của nhà thơ, người mà nhà phê bình Hoài Thanh đã từng gọi là “Sứ giả của
đời Ðường, đời Tống”. Tác phẩm “Mùa Cổ Ðiển” của ông có một vị trí lịch sử
trong nền văn học dân tộc: Nó là tấm bản lề “khép lại một thời đại trong thi
ca”...
Ông ngồi đó, mắt mờ, tai nặng, nhưng trên gương mặt sáng rỡ một
nụ cười. Chẳng ai ngờ rằng, chỉ hơn 20 ngày sau, ông đã từ giã cõi đời ra đi
vĩnh viễn...
Có phải bởi cái không khí, cái cảnh tượng ấy hay không, hay bởi
giọng văn đầy chất thơ được rót từ suối nguồn của trái tim nặng lòng đối với mỗi
cảnh sắc quê hương, mà nó khiến tôi xúc động đến thế. Tôi nghe đoạn văn viết về
đêm giao thừa ở Tháp Bà trích trong tác phẩm “Xứ Trầm Hương” của ông - cảm tưởng
như mình đang bước, đúng hơn là đang tuôn vào cõi mộng mơ nào. Không phải những
câu văn, mà là tâm huyết của người con thành Ðồ Bàn - Bình Ðịnh đã chinh phục
lòng người. Nó khiến ta cảm được cái tầng sâu của mỗi trang văn hóa trên đất nước
mình mà thêm trân trọng, thấm thía, nâng niu những giá trị tinh thần truyền thống.
Kỳ diệu thay cảnh những người con đất việt. Ðêm 30 Tết, không quên thắp nén
hương tưởng nhớ, phụng thờ Thánh mẫu Thiên Y A Na của xứ Cơ Lan Nha Trang đầy
huyền thoại thuở nào! Dường như từng câu, từng câu trong đoạn văn của ông vẫn
còn đọng lại trong tôi, rõ nguyên mồn một...
“Ðêm Giao Thừa ở Tháp Bà có thể gọi là kỳ thú.
(...) Phải đi bộ mới tận hưởng được những gì đáng hưởng khi
trời đất nước vào xuân. Khí trời đương lạnh tự nhiên thấy ấm, một khí ấm đặc biệt,
dìu dịu thưng thưng, trong trong lại mát mát. Lại phảng phất một mùi hương
thanh thanh: hương trầm, hương kỳ nam từ rừng sâu đưa đến, hay hương nhang
hương hoa từ trong nhà trong chùa bay ra? Tắm mình trong bầu không khí yên lặng,
vừa ấm, vừa mát, vừa trong vừa thơm, du khách cảm thấy tâm cũng như thân tự
nhiên thanh thảnh nhẹ. Bao nhiêu hận thù, bao nhiêu phiền não đều tan sạch. Cõi
lòng từ từ mở rộng để đón phút linh thiêng liêng mới bắt đầu.
Cảnh cũng như người đều giũ sạch những bợn trần của năm cũ.
Núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng
hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy đặc cả đom
đóm.
Có thể nói rằng đom đóm ngự trị cả nước non.
Và cũng có thể bảo rằng bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống
đọng nơi cây cối.
Ánh vàng làm chúa tể thay bóng tối đêm ba mươi. Nhìn trước
ánh vàng. Ngoảnh sau: ánh vàng. Trông sang tả: ánh vàng. Ngó sang hữu: ánh
vàng. Từ cầu Hà Ra qua đến Xóm Bóng, du khách có cảm giác đi ngang qua một rừng
sao.
Nhưng rừng sao ở đây không đứng yên mà luôn luôn cử động. Hễ
vùng nầy sáng thì vùng kia tắt, vùng nầy tắt thì vùng kia liền sáng. Cứ sáng, tắt,
tắt, sáng... luân phiên, liên tục, không mau, không chậm, đều đặn, nhịp nhàng.
Quanh đồi Cù Lao và trên những lùm cây ở mé sông cạnh tháp,
cũng đầy cả đom đóm. Ánh vàng cũng rực rỡ, chấp chới lung linh. Và trên tầng
ánh sáng khi khuất khi hừng, bốn ngọn tháp nửa quyến cây xanh nổi bật lên nền
trời cao, uy nghiêm nhưng hiền hậu.
Những ngọn đèn lồng ngũ sắc giăng trên cành cây, những ngọn
huyền đăng treo trước sân tháp, chập chờn trong bóng lá, rọi vào cảnh vật, chỗ
tỏ chỗ mờ, nơi thưa nơi nhặt, vui vẻ nhưng rụt rè, như cô gái quê mặc áo mới ra
chào khách.
Từ dưới chân đồi lên đến sân tháp, người đông như kiến, chen
chúc nhau, nối tiếp nhau. Người tuy đông, nhưng không ồn ào lộn xộn. Phần nhiều
các bà các cô, dường như lắng lòng mình lại, để lúc dạo vườn hái lộc, vào tháp
xin xăm, dễ cùng thần linh giao cảm.
Trong tháp chật ních người lễ bái. Hương tỏa mịt mù làm mờ cả
hàng trăm cây đèn sáp cháy cao ngọn. Những luồng khói thơm tuôn ra cửa, ra nơi
lỗ trống trên đỉnh tháp, ngạt ngào trong gió và lưởng vưởng trên đầu cây cao
như những làn sương mỏng. Những tiếng chuông tiếng trống trong tháp bay ra,
không rền vang như tiếng trống chùa miễu, tiếng chuông nhà thờ, mà vì vách tháp
dày, cửa tháp hẹp, nghe mơ hồ phảng phất như có như không.
(...) Những người râm đi bẻ những cành xanh tươi quanh tháp
là vui vẻ thảnh thơi. Ðàn ông đàn bà, con trai con gái, ai nấy đều hớn hở tươi
cười. Nhưng không một tiếng ồn, không một bước mạnh. Ði qua mặt nhau, êm đềm lặng
lẽ như bóng mây qua.
Quang cảnh thật là huyền mơ! Và bầu không khí thiêng liêng
bao trùm cả cảnh vật.
Ðứng trước cảnh có thể gọi là thần tiên ấy, con người dường
như trở nên thuần hậu, khoan hòa. Cho nên từ trước đến nay, chưa hề xảy ra những
chuyện không tốt lành mà những nơi đông người thường hay có. Và vì lòng người
đã dẹp bớt được tham sân si để hòa mình với cảnh, nên lá xăm, nắm lộc buổi đầu
năm rất linh nghiệm. Do đó, lòng tín ngưỡng bà Thiên Y A Na gia tăng. Và việc
“đi Tháp Bà” đêm giao thừa đã thành một cái lệ. Thời Tiền Chiến đã đông, thời Hậu
Chiến còn đông gấp bội”...
Ðoản văn của Quách Tấn giữa này xuân gieo nặng vào lòng ta xn
giọt tình đối với đất nước, quê hương. Ta đọc văn ông, cũng là thắp lên một nén
hương tưởng nhớ đến nhà thơ của nhóm “Bàn Thành Tứ Hữu” đã hơn nữa cuộc đời gắn
bó với mảnh đất Xứ Trầm Hương!
H.M
(Khánh Hòa chủ nhật, xuân Ất Hợi, 1995)
V. CƯỚC CHÚ.
BÀI MINH (MINH VĂN) GỌI LÀ VÕ CẠNH
Tác giả: FINJOZART
Dịch giả: Ðào Tử Khải - Trang Thị Mý
Bài minh bằng chữ Phạn (sanskrit) xưa nhất đã được phát hiện ở
bán đảo Ấn Ðộ China (Ðông Dương) và ngay ở cả trên toàn vùng Ðông Dương và cả ở
Nam Dương từ trước đến nay, là cái bài minh Võ Cạnh; đã từ bảy chục năm nay, nó
đã được nêu lên bằng hai bài báo, nhiều nhận xét và nhiều cuộc nghiên cứu khác.
Bây giờ, một bên là tầm quan trọng của nó và một bên khác là sự thiếu nguyên
lành của nó đã làm cho các nhà minh văn học luôn luôn quan tâm đến nó. Hiện nay
chúng tôi vẫn thấy cần được đem ra nghiên cứu lại dưới ánh sáng của những
“donnée” (tạm thời dịch là chứng tích) mà chúng tôi đã thu hoạch được ở Ấn Ðộ về
các nền văn hóa của các thời hoạt động nhất giữa họ với vùng Ðông Nam Châu Á.
Bài minh này, lần đầu tiên được ông Nergaigne nêu lên dưới
cái tên là Bài minh ở Nha Trang. Ðúng ra thì khối bia (ở đây dịch giả không gọi
nó là một tấm bia, mà gọi nó là một khối đá to lớn có minh văn, chứ không phải
là một tấm đá như nhiều bia khác) này được phát hiện ở vùng Nha Trang, tại làng
Võ Cạnh hay nói một cách thật đúng như ông Finot người đã viết lại về nó, thì
là ở một cái làng nằm cạnh giữa hai địa phương Phó Văn và Phú Vinh, thuộc tổng
Xương Hà, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa (nay là xã Vĩnh Trung và xã Vĩnh Thạnh,
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa). Sau rồi, ông Parmentier vào năm 1923 có
ghi thêm một số xác nhận sau đây: “ở tỉnh Khánh Hòa, trong một cuộc điều tra mới,
chúng tôi nhận thấy rằng Bài minh Võ Cạnh thường được truyền tụng là được nhìn
thấy nó nằm bẹp ở rìa phía Nam của một ngọn đồi nhỏ của người Chàm cũ, nói một
cách chung chung là nằm về phía Ðông của một ngôi nhà thờ đạo. Một cuộc khai quật
ở chỗ đó vào ngày 19 tháng 11 năm 1922 có sự hiện diện của ông Sylvain Levy chỉ
tìm thấy rải rác một vài tảng gạch ỡ to tướng (0m18 x 0m35 x 0m80). Những mảng
gạch to lớn do ông Parmentier nêu lên có thể chứng minh rằng đây là những dấu vết
của một kiến trúc cổ đại, nhưng không thể đánh giá được niên đại của chúng.
Việc nhận định vị trí của khối bia trên lãnh thổ của nước
Chăm pháp cũ, và tính chất cổ xưa của loại chữ Phạn dùng để khắc bài Minh có thể
chứng minh rằng khối bia này là của nước Chăm Pa Ấn Ðộ hóa (chịu ảnh hưởng của Ấn
Ðộ). Nhưng từ năm 1927, thì ông Finot lại cho nó là một khối bia, của một quốc
gia lệ thuộc với vương quốc Phù Nam, nhưng không loại trừ việc tiểu quốc này có
thể về sau đó đã bị nước Chăm Pa thôn tính. Cuối cùng, thì các luận điểm cho nó
là của nước Phù Nam đã đứng vững. Bài minh này có thể được khắc ở chỗ khác rồi
đem chở đến chỗ này sau khi đã khắc xong. Nó là một tảng đá cao trên hai mét
(2m 00) năm mươi phân, có hình một cây cột xù xì (thô kệch) hình chữ nhật chiều
rộng hơn là 0m72, chiều hẹp hơn là 0m67.
Phía trên đầu tảng đá ấy bị mẻ mác đi một miếng ở phía rộng
hơn, và phần chữ của mặt bia phía bên kia là gần như hoàn toàn bị mất từ trên
xuống cho đến dòng chữ thứ 06. Mặt cạnh phí bên trái của khối bia cũng bị mờ chữ
gần hết từ trên xuống dưới cho đến dòng thứ 8. Ở mặt cạnh bên phải, thì chỉ còn
lại một số viết chữ lờ mờ mà thôi.
Chữ khắc rất lớn, trùng bình là cao 1 cm, tuy chữ lớn như vậy,
nhưng chi tiết của chúng vẫn có một không được rõ ràng, vì lý do mặt đá không
được nhẵn. Một số chi tiết chữ được dịch ra sau đay là không thể chụp rõ bằng ảnh,
và không thể in rõ bằng thác bản được, nhưng chỉ là mò ra, hoặc chỉ khẳng định
bằng cách lấy các ngón tay lần theo những nét đục của các chữ trên mặt khối đá
mà thôi. Chỉ có dùng cách đó thì mới có thể nối liền được những đường khúc khuỷu
của mặt đá với những đường nét gia công của nét đục sau này.
Như ông Negaigne đã nhấn mạnh thì lối chữ này cũng giống với
lối chữ ở những bài minh Rudradâman ở Girnar và bài minh Vâsisshiputra ở
Kranheri ở vào thế kỷ thứ II kỷ nguyên Thiên Chúa. Ông ta đánh giá rằng, không
có trường hợp có thể cho phép nói rằng niên điểm của khối bia Võ Cạnh là sau thế
kỷ thứ ba (III) được.
Thế là vấn đề lâu đời của bài minh thì ai cũng đều công nhận
và không còn ai bàn cãi nữa. Nhưng trước đó, thì một số nhà minh học cũng còn
có một số ý kiến bàn cãi về cách so sánh của ông Negaigne giữa khối bai nà với
một số minh văn ở Ấn Ðộ.
Ông M.R.C Majumdar thì có lưu ý hai chữ ở khối bia Võ Cạnh là
khác với những điều ở bài minh Rudradâman và bài minh Vâsisshiputra: một là ở
đây không có loại nét ngoắc cong của những cái móc câu theo chiều dọc móc về
phái bên trái thường có trong hai loại chữ của hai bài minh văn kia, hai là ở
đây không có đường khum ngoảnh về phái trước phía trên đường kẻ dọc của hình chữ
L thường có trong 2 bài minh kia. Vả lại, một số nét cá biệt của lối viết trên
bia Võ Cạnh lại thấy giống với ở trên những bài minh Kusâna. Do đó, mà ông
Rajumdar cho rằng lối chữ viết ấy là thuộc nguồn gốc ở miền Bắc nước Ấn Ðộ.
Ông M.K.A Nilakanta Sastri thì chống lại luận điểm của ông
Rajumdar và nhấn mạnh rằng bất cứ trong trường hợp nào cũng có thể kết luận rằng
cả người Ấn Ðộ đầu tiên đến ở đất Ấn Ðộ China là nguồn gốc miền Bắc. Rồi ông
M.K.A Nilakanta cũng chứng minh một cách đúng đắn rằng lối chữ viết trên bia Võ
Cạnh là có trước lối chữ ở những bài minh Bhadravarman và bài minh Mulavarman.
Ý kiến này cũng được ông M. Chhabra đồng ý.
Ông M.D.C Sircar thì lại có ý kiến muốn bảo vệ ý kiến cho rằng
bài minh Võ Cạnh là một tác phẩm về sau này mà lâu nay chưa ai nghĩ thế. Tuy vậy
những lý lẽ mà ông nêu lên thì lại không có tính chất nghiên cứu cổ tự
(Paleographique có nghĩa là cổ tự học tức là môn học nghiên cứu về chữ cổ).
Trái lại, ông ta đã dẫn dụng “phướng pháp bảo thủ của cách viết chữ Phạn ở Ấn Ðộ
China” để giải thích cái hình thức cũ kỹ mà ông ta đã đưa ra (nghĩa là không sớm
hơn nữa đầu thế kỷ thứ IV và có thể là còn muộn hơn nữa kia). Phướng pháp bảo
thủ ấy chỉ là giả thiết nhất thời mà thôi. Chứ hiện nay không hề có thể có cứ
liệu. Ngược lại thì ông Nergaigne đã nêu lên những kiểu chữ viết ở Ấn Ðộ của thời
đại nhiều văn minh nhất thì cũng vẫn được sử dụng ngay ở Ðông Dương trước lúc
mà những kiểu chữ ấy mang thêm một số nét đặc thù cá biệt ở từng địa phương và
bắt đầu đi theo một con đường tiến triển riêng. Cái phướng pháp bảo thủ giả thiết
ấy cũng còn có thể được giả thiết rằng bản thân nó có một sự cắt quảng (gián đoạn)
trong quan hệ với nước Ấn Ðộ, nói cách khác thì người ta sẽ không hiểu được rằng
chính nó có thể đứng vững trước những thay đổi không ngừng của xứ Ấn Ðộ. Ông
Sircar còn đánh hạ bớt cái tính chân thật mà ông đã dùng để so sánh bài minh Võ
Cạnh với bài minh Bhadravarman về mặt niên điểm, điều đó chứng tỏ rằng giữa hai
bài minh có biểu lộ một sự tiến bộ rõ nét vê lối chữ viết.
Phướng pháp bảo thủ cần thiết để hình dung trong việc giải
thích tính chất cổ xưa (P’archafsne) của lối chữ viết trong giả thiết đánh giá
hạ thấp niên đại xuống có lẽ cần phải đình chỉ ngay lại một cách đột ngột, nếu
cái niên điểm bị kéo xuống thấp hơn. Luận điểm của ông Sircar thì chỉ là đặt
căn cứ vào cái việc là bài minh Võ Cạnh của chúng ta là viết bằng chữ Phạn
(Sanskrit) và trong đó có những câu theo luật (thơ) Vasantatikala, theo ông thì
đó là điều không thể phù hợp với một cái niên điểm lâu hơn, chữ Phạn
(Sanskrit), theo ông ta, thì chỉ thay thế lối chữ viết Prâkit trong phần nhiều
những bài minh từ hồi thế kỷ thứ VI về sau, và những luật thơ có niên điểm như
luật Vasantatilakala thì chỉ được sử dụng phổ biến từ thời kỳ nghệ thuật gupta
(ở Ấn Ðộ) mà thôi.
Ông Coedès thì đã đánh bại cái luận điểm ấy, và tìm cách khẳng
định tính lâu đời của bài minh của chúng ta bằng cách nêu lên rằng tên nhà vua
Crimara được ghi trong bài minh chính là tên của vua Phạm Chế Mân đã được chép
trong tài liệu lịch sử Trung Quốc vào khoảng năm 200 sau kỷ nguyên Thiên Chúa.
Ông Sircar cũng đã nhắc lại một lần nữa những điều trần về
quan điểm của ông ta, sau này ông Caspardonne thìlại tán thành ý kiến của ông
Sircar và đánh đổ cách đối chiếu tên vua Crimara với tên vua Phạm Chế Mân. Ông
Kalyan Kimar Sarkar, thì lại công nhận cách đối chiếu của ông Coedès là đúng và
đồng thời đập lại luận điểm của ông Sircar bằng cách dẫn dụng các bài minh Ấn Ðộ
bằng chữ Sanskrit xuất hiện từ thế kỷ thứ II mà cũng đã được viết bằng hình thức
thơ theo luật cổ điển.
Sau này ông Kamakeshmar Thattachaya đã nghiên cứu về cổ tự học
(môn học nghiên cứu chữ cổ đại) cũng đã chứng minh rằng bài minh của chúng ta
không những gần giống với bài minh Rudradaman ở Gujra (Ấn Ðộ) mà còn gần giống
vối những bài minh Nagarjunakonda. Ðiều đó nói lên là lối chữ viết Võ Cạnh
không cần phải tìm nguồn gốc ở miền Bắc Ấn Ðộ, và theo ông này thì nó thuộc vào
niên điểm thế kỷ thứ III sau công nguyên và có mang truyền thống của cách viết
miền Nam Ấn Ðộ. Có một sự khác biệt hết sức rõ ràng giữa bia Võ Cạnh và bia
Nagarjunakonda. Vì rằng trong lối viết của nài minh Nagarjunakonda có những cái
móc dọc dài có đường khum lớn về phía trên bên trái xuất phát từ phía dưới dòng
đi lên. Bởi vậy, theo ý chúng tôi, thì lối chữ viết ở bia Võ Cạnh là giống với
lối chữ ở các bài minh ở phía Tây Ấn Ðộ như ông Nergaigne đã so sánh.
Ngoài ra, chúng tôi có ý kiến là những nét giống nhau mà ông
Nergaigne nêu lên là có tính cách quyết định về vấn đề niên đại của khối bia Võ
Cạnh, nó phù hợp với niên đại của những bài minh ở Ấn Ðộ có kiểu chữ và lời văn
giống với nó. Nhưng nó lại không quyết định về cái mặt nguồn gốc của lối chữ được
du nhập vào Ðông Dương và nguồn gốc của những con người mang cái lối chữ viết ấy
sang nữa. Ðúng ra thì lối chữ Junâgahd tức là lối chữ ở trên bia Rudradaman và
lối chữ Kanderi tức là lối chữ ở trên bia Vasisthiputra là những lối chữ và những
biểu hiện về cách viết các biệt ở từng địa phương là không rõ rệt và cũng không
chắc chắn. Những lối chữ ở các bài minh cổ nhất ở miền Nam Ấn Ðộ là còn thuộc về
một kiểu chữ Asoka từ miền Tây Bắc xuống cho đến miền Maisâr. Trong những thế kỷ
sau thời vua Asoka, thì trong toàn cõi nước Ấn Ðộ, phướng pháp bảo thủ được tôn
trọng. Ở đây, điều dó được chứng minh và những nét đặc thù mới xuất hiện thì đều
không phải chỉ riêng cho chúng thỉnh thoảng ở xa những địa phương và những thời
điểm mà người ta thấy chúng xuất hiện đầu tiên, vì những kiểu chữ viết không phải
luôn luôn gắn bó một cách chặt chẽ với bước đường đi (hành trình) đều đặn và với
những bước tiến hóa về mặt thời điểm của nó.
Ðó là lý do khiến cho ông M. Majumdar có thể so sánh một cách
dễ dàng bài minh Võ Cạnh với những bài minh Kusana ở miền Bắc cũng như ông
Nergaigne đã so sánh nó với bài minh Mahaksatrapa ở miền Tây nước Ấn Ðộ tức là
bài minh Rudradaman. Nhưng mà những chi tiết được ông M. Majumdar dẫn dụng và
coi là có ý nghĩa hơn cả thì lại không phải là tất cả đều thế. Ví dụ sự thiếu mặt
của những nét cong phía dưới của những cái móc ngược sang phái bên trái không
phải là đặc trưng của lối viết cổ kinh của lối viết Kusana. Cái nét khum nói
trên đây thì cũng vắng mặt (không có) ở cả những bài minh ở Tonigala trên đất
Ceylan khắc vào hồi năm 88 và năm 76 trước kỷ nguyên Thiên Chúa, cũng như vắng
mặt cả ở những bài minh Tamoules trong các hang động và trên các khí vật bằng đất
nung trong thời kỳ trước hoặc sau kỷ nguyên Thiên Chúa ít nhiều, và vắng mặt
ngay cả ở những bài minh Alahabad nói về nhà vua Samudragupta (cuối thế kỷ thứ
IV sau kỷ nguyên Thiên Chúa).
Còn về những luận điểm của ông Sircar về vấn đề sử dụng tiếng
Phạn Sanskrit cùng với nhiều niêm luật cổ điển về thơ trong minh văn, thì đều
không đứng vững như các ông Coedès, ông K.K Sarkar và ông K. Bhattacharya đã
nêu rõ. Hơn nữa, ông ta không hiểu về việc nhất thiết phải sử dụng chữ Sanskrit
để làm ngôn ngữ chung trong quan hệ giữa các miền khác nhau trong nước Ấn Ðộ và
giữa người Ấn Ðộ với người nước ngoài. Ở Ấn Ðộ, trong thời kỳ đầu tiên của kỷ
nguyên Thiên Chúa giáo, chính là thời kỳ mà chữ Sanskrit đang bắt đâu thay thế
lối chữ Prakrits trong các bài minh chính thức, trong lúc đó thì chữ Sanskrit
hoặc là được dùng xen vào hoặc được pha trộn vào với các hình thức của chữ
Prakrits, vì thế trong thời kỳ này, hiện tượng pha trộn ấy cũng sản sinh ra
trong văn học Phật giáo, trước khi sử dụng một cách phổ biến chữ Sanskrit trong
các sách vở Phật giáo sau này (ngoại trừ trong lĩnh vực của truyền thuyết bằng
chữ Pâli ở bộ kinh Théravada), do đó mà đẻ ra trong nhất thời một thứ chữ
Sanskrit lai căng của Phật giáo. Ông Egerton, trong một tác phẩm thú vị nghiên
cứu về lối chữ Sanskrit ấy của Phật giáo, đã không đếm xỉa đến cái chữ Sansrit
lai căng trong minh văn học và ngoài Phật giáo, ông ta đã nêu giả thiết rằng cuộc
Phạn hóa (sau Skritisation) từng bước của những văn bản Phật giáo ở miền Trung Ấn
có lẽ là kết quả của một sự tìm kiếm về uy tín. Nhưng giả thuyết ấy là không
phù hợp với sự thật. Thử hỏi liệu một thứ chữ Sanskrit không đúng đắn có thể
gây được uy tín cho nó trong một cái xứ sở của một nền Phạn ngữ dùng theo đúng
văn phạm mà ở mọi nơi đều thông thạo, đều được học và đều được tinh thông bởi một
lớp các nhà nho học vấn uyên thâm? Nếu ở trong cái thời kỳ đó, mà giá phỏng có
sự đòi hỏi cần thiết phải viết ra những văn bản Phật giáo bằng chữ Sanskrit thật
đúng mực, thì đó là một việc không có gì là khó khăn cả. Vậy thì lẽ dĩ nhiên
trong trường hợp mà các chữ Sanskrit ngày càng trở thành không thống nhất với
nhau và ngày càng trở thành không dung hòa với nhau được, thì chữ Sanskrit ắt
được trở thành một thứ ngôn ngữ chung. Trước khi sử dụng tiếng Ba Tư, rồi đến
tiếng Anh, thì chữ Sanskrit. Tuy không phải là tiếng nói của tất cả, nhưng vẫn
trở thành một thứ tiếng của mọi người có học thức và ở khắp mọi nơi trong nước Ấn
Ðộ, dưới một hình thức chung, nó được dùng trong nền giáo dục truyền thống.
Ngay trong việc sử dụng thông thường trong quan hệ giữa nước này và nước khác
trong khu vực Ấn Ðộ Aryen, muốn được hiểu nhau một cách thông suốt người ta
cũng chọn lấy tiếng Sanskrit làm thông dụng. Nhưng trong việc sử dụng thông thường
đó, thì những hình thức quen thuộc của vùng Trung Ấn tấ nhiên phải trở thành
pha trộn với những hình thức Phạn ngữ cổ điển ngay trong ngôn ngữ của những lớp
người chưa thật sự đoạn tuyệt dứt khoát với nó (tức là với Phạn ngữ cổ điển).
Còn về những văn bản lai căng mà tính chất văn học thường được bổi bật hẳn lên,
thì nó lại trở thành tiêu biểu cho cụoc văn học hóa của cái lai căng nhật dụng
(thông thường, dùng hàng ngày), nó không phải là một tác phẩm văn học giả tạo về
mặt uy tín không được suy xét kỹ có thể không phù hợp với một thứ tiếng nói được
sử dụng thực tế các mối quan hệ thông thường, cũng có htể không phải là ngôn ngữ
cổ điển trong nền giáo dục.
Ở vùng của giống người Dravidiens (miền Nam Ấn Ðộ), thì ngoài
cái truyền thống minh văn học theo lối chữ Prakrisr bắt đầu với các bài minh từ
thời Asoka đến thời Maisur và tồn tại mãi cho đến ngày chữ Sanskrit đến nay thế
chữ Prakrist dưới triều đại hộ Pallaava, thì những minh văn cũ nhất đều là bằng
chữ Tamoule. Chữ Sanskrit và Tamoul hoặc Sanskrit lai với tiếng Malayalam như
tiếng Manippiravalam chẳng hạn, nhưng đó chỉ là một thứ thổ âm có tính chất kỹ
thuật (nghề nghiệp) chủ yếu là thứ tiếng Vaisnava thuộc thời kỳ muộn sau này,
thì nhường chỉ dùng trong các giới nhà nho thông thạo cả hai thứ tiếng mà thôi,
và nó không thể được coi như giống chữ Phạn lai của những thế kỷ đầu kỷ nguyên
Thiên Chúa giáo.
Ngoài nước Ấn Ðộ ra, thì nếu nơi nào có nhiều bài minh bằng
chữ Ấn Ðộ thì là bằng chữ Sanskrit cổ xưa. Ngoài những bài minh bằng tiếng địa
phương được xuất hiện về sau này thì thường chỉ gặp có môt loại khác là chữ
Tamoul mà thôi, nhưng phải là thời kỳ còn muộn hơn nữa. Chưa bao giờ chúng tôi
bắt gặp được những bài minh bằng chữ Phạn Sanskrit lai cả, hoặc bằng chữ
Prakrist (ngoại trừ ở vùng Trung Á thì chữ Prakrist đã xuất hiện từ những thế kỷ
đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo và đã trở thành một thứ tiếng nói địa phương rồi).
Tất cả mọi chứng cứ trên đây đều đã rõ ràng. Giá phỏng như chữ Sanskrit chỉ là
một sự Phạn hóa (Sanskritisation) của chữ Prakist thông thường để đi đến một thứ
tiếng nói chung của toàn nước Ấn Ðộ. Vậy thì điều thấy được rõ ràng là thứ tiếng
nó không thể xuất hiện một cách bình thường cả ở các vùng của giống người
Pravidiens không có sẵn một thứ chữ Prakist thông thường, và cũng không thể xuất
hiện được ở những nơi xa lạ chẳng hề nói một thứ tiếng nào trong nước Ấn Ðộ cả.
Ở Ðông Dương và ở Nam Dương thì ảnh hưởng của Ấn Ðộ là do người Ấn Ðộ ở nhiều địa
phương khác nhau trong nước Ấn Ðộ mang đến, những người Ấn Ðộ đó có thể nói nhiều
thứ tiếng khác nhau, tiếng Dravidien tiếng Indo-Aryen crh hạn, thì cái ngữ ngôn
có thể là chung cho những người Ấn Ðộ phải là tiếng Phạn ngữ Sanskrit. Họ dùng
Phạn ngữ một cách rộng rãi, và không hề dùng một thứ tiếng nào khác. Và những
người dân bản xứ của những nước chịu ảnh hưởng Ấn Ðộ cũng chỉ biết dùng chữ Phạn
Sansskrit trước khi chữ Pali được du nhập. Bài minh Võ Cạnh sẽ cho chúng ta một
tỷ dụ về việc biểu hiện bằng chữ Sanskrit của một cái mà người ta chỉ có thể giải
thích bằng một nguồn gốc Tamoul mà thôi.
Về một bản chất của nó, thì việc nghiên cứu bài minh sẽ cùng
dẫn cho chúng ta thấy rằng nó do có tính chất Phật giáo như ông Finot đã gán
cho nó và lâu nay đã được mọi người nói chung đều công nhận.
Dưới dây, chúng tôi sẽ trước tiên giới thiệu nguyên văn bài
minh mà chúng tôi đọc đường. Ngoài việc giới thiệu các bức ảnh về nó, chúng tôi
còn giới thiệu bằng các thác bản (bản tập).
Năm 1954. chúng tôi cũng đã được quan sát tận mắt khối bia bằng
đá và sờ bằng ngón tay những nét khắc của bài minh như chúng tôi đã nói trên
kia.
Từ dòng thứ 1 đến dòng thứ 5 bị mòn.
Dòng thứ 6:... phổ độ chúng sinh...
Dòng thứ 7:... đặt để... cho cuộc khải hoàn đầu tiên
Dòng thứ 8:... Ðêm rằm sáng giăng... Ðêm giăng tròn, tổ chức
thành lập cuộc nhóm họp do đức hoàng đế lòng tốt lòng lành triệu tập...
Dòng thứ 9:... Cùng với các nhà truyền giáo, thật là một nhịp
để uống lấy hàng trăm lời huấn thị của đức hoàng đế. Cùng với cả hoàng gia và
hoàng tộc của đức vua Srimara.
Dòng thứ 10:... vì sự tô điểm... vì cái con người là niềm vui
của gia đình và nàng con gái của người đích tôn của hoàng thượng Srimara... đã
được hạ chiếu (như hạ lệnh)... đẻ ra các người thân thuộc...
Dòng thứ 11:... ở chính giữa... việc ban lệnh này đưa lại hạnh
phúc cho muôn loài do vị Karin tốt lành nhất (tức là nhà vua) ban cho... đi về
về trên thế giới này...
Dòng thứ 12:... Những người được ngồi trên ngôi vua... bởi tấm
lòng muốn chia đều của cải cho con cái anh em, và con cháu sau này.
Dòng 13: Tất cả mọi thứ gì là bạc, là vàng, người người hầu,
là của cải vật chất trong kho...
Dòng 14:... Tất cả những thứ đó đều do tự tôi giao lại với
lòng vui vẻ và có ích lợi. Ðó là cái mà tự tôi cho phép và tự các nhà vua sau
này cho phép.
Dòng 15:... là đã chuẩn y... được sự chứng giám của vị quan
tư lễ của tôi là Vira (quan tư lễ tức là Ministre, là một vị quan chuyên lo về
các việc thờ cúng của nhà vua, là một vị chức sắc khá lớn trong tôn giáo Ấn Ðộ
được ở luôn bên cạnh nhà vua để giúp vua làm lễ và thay các vị thần linh của
tôn giáo Ấn Ðộ để chứng giám các buổi lễ của nhà vua).
Bề mặt bên phải của khối đá hết sức bị xói mòn, thì chỉ còn lại
một vài dấu vết của chữ khắc trên 3 dòng chồng lên nhau có thể đọc “Sa, Stho
marre”. Còn một số dấu vết khác thì càng không rõ hơn nữa, nhưng cũng chứng tỏ
hình như những bài minh còn khắc sáng cả bên mặt này nữa. Ðó là điều khiến cho
ông M. Jacques đoán rằng khối bia này đã được khắc ở cả bốn mặt do đó mà có cái
bài viết sau này của ông ta. Người ta có thể phản đối lại rằng bài minh hình
như vẫn được tiếp tục không có sự cách quảng từ dòng 14 đến dòng 15, ở hai dòng
đó người ta chỉ cần điền vào chữ raja (bhi) r là đủ, nhưng cách phản đối như vậy
không có tính cách quyết định và nếu như người ta không chịu thừa nhận rằng
nguyên lúc đầu minh văn được khắc ít nhất ở mặt phải theo chiều ngang, thì người
ta không thể nào giải thích được tại sao ở trên đó lại có dấu vết chữ thuộc
cùng một loại văn tự với nhau so với văn tự ở những mặt khác.
Dù sao thì bài minh cũng bị sứt mẻ nhiều quá, cho nên không
thể đọc được một cách đầy đủ nội dung của nó. Những phần còn lại được bảo quản,
cũng có mang lại một số donnés có ý nghĩa.
Ông Finot đã lầm tưởng đây là chứng cớ của một bài minh Phật
giáo. Ông đã phát biểu rằng: cái ý nghĩa của tính không ổn định của cáci “luân
hồi” (le va et vient) của cái thế giới này, cái lòng từ bi đối với chúng sinh,
sự hy sinh mọi thứ của cải để phân phát cho người khác, nhưng nét dùng để nói
lên đặc tính của người con của nhà vua Crimara đều là mang một sắc thái rõ ràng
là Phật giáo rồi, để khỏi phải kết luận rằng nhà vua ấy đang truyền bá cái thuyết
của đức Phật đại từ đại bi. Thực ra thì các nhà vua theo đạo Bàlamôn cũng cúng
hiến nhiều tiền của vào các đền đài. Những nhà vua này không hề có cái ý nghĩ rằng
sau khi có đủ tiền của dùng cho yêu cầu của gai đình vợ con rồi, thì còn phải lấy
phần còn lại phân phát cho các chúng sinh nói chung. Tinh thần của đại đế Asoka
vẫn còn được sống lại trong các bản chiếu chỉ đó vào ngày rằm sáng giăng, một
trong hai ngày lễ hàng tháng của đạo Phật, cũng vẫn không đủ để chứng minh cho
cái giả thuyết ấy của ông Finot.
Ðến năm 1955. ông M. Kalyan Kumar cũng phát biểu cùng một ý
kiến như thế và có nói thêm rằng phải quy kết đó là một nhà vua nào đó có một
cái tên mang ý nghĩa Phật giáo như (Sri Nara như Raja-Nula). Thực ra thì càng
có cái tên ấy lại càng không phải tín đồ Phật giáo, vì rằng chữ Nara là của một
thằng quỷ sứ trong đạo Phật bị Ðức Ðức Phật đánh bại, thử hỏi nếu là một ông
vua theo đạo Phật sao lại mang tên như vậy? Ông M.K Thattacharya đã lưu ý một
cách đúng đắn vào năm 1961 rằng cái giả thuyết của ông Finot dựa vào những luận
cứ quá yếu ớt.
Thực ra thì không có một luận cứ nào của ông Finot còn có thể
được nhắc lại cho đến bây giờ. Cái từ “lokasyasya gatagalim” là một từ ở kinh
Ramayanaz, và theo như lời của Râma, thì gatagati có nghĩa là sự đi về thế giới
bên kia, và sự trở lại thế giới bên này. Lòng từ bi (Karuna) đối với chúng sinh
thì chính là một điều răn của đạo Bàlamôn và trong cái thời có mối quan hệ giữa
Ấn Ðộ và các nước Ðông Dương, thì những nhà Bàlamôn ở miền Nam nước Ấn Ðộ cũng
công nhận rằng lòng từ bi đối với chúng sinh (phổ độ chúng sinh) là một trong
những ân đức của thần Siva đối với muôn loài. Việc cúng hiến tất cả các thứ của
cải, theo như ông M.F. Chhabra nói như đã ghi trong bài minh, chẳng qua cũng chỉ
là một thứ lễ trong tôn giáo Ấn Ðộ mà thôi, chứ có phải đâu là ở đạo Phật mới
có. Theo ông Kalidasa thì cái thứ lễ mà người ta dâng nộp tất cả mọi thứ của cải
cũng giống như là ông M. Chhabra đã nêu lên vậy. Nhưng nếu như điều đó đủ để chứng
minh rằng không phải chỉ có những người theo đạo Phật thì mới có những hành động
phóng xá như vậy, thì cũng không nhất thiết phải thấy trong sự chỉ dẫn của bài
minh võ Cạnh của chúng ta như ông M. Chhabra đã nói, chứng cớ của một cuộc cúng
hiến theo lễ Bàlamôn chính cống thường làm ở những nơi hải ngoại. Văn học
Tamoula không phải thuộc môn phái Vê-da (non védisant) và còn mang ít sắc thái
Phật giáo cũng chứng minh những điều đó trong những thế kỷ đầu của kỷ nguyên
Thiên Chúa.
Bộ kinh Tolkappiyan trong phần nói về thơ ca, có kể ra những
hành động khác nhau, trong đó có những hành động mà nó cung hiến tiếng tăm cho
người ta (sự hào phóng về tiếng tăm của một thứ danh vọng vô ngần) và “sự khước
từ danh vọng” được cộng vào với tấm lòng đại từ đại bi.
Và cũng nhờ sử dụng văn từ Tamoul, mà người ta có thể hiểu được
cái tên của nhà vua Srimara. Chữ Mara có nghĩa là chết, thường có mặt ở nhiều
tên vua bằng chữ Sanskrist, nhưng không phải là nó đứng tách rời một mình, ví dụ
nó ghép vào từ Para để thành chữ tên Paramara “có nghĩa là con người đã chết
cho kẻ thù của mình” nghĩa là tương xứng với chữ Parantaza. Còn chữ Srimara thì
lại không có nghĩa là “con người đã chết vì của cải” và cũng không có nghĩa là
của cải (giàu có) đã chết. Chữ MARAN là một chữ Tamoul để chỉ một cái danh hiệu
thông thường về nhà vua Pandya ở Naturai và chính cái danh hiệu ấy chúng ta cần
nhận rằng nếu phiên dịch ra chữ Phạn thì là Srimara vậy. Tiếng Sanskrist thì
không thể phân biệt được giữa hia chữ “r” của tiếng Tamoul, vì nó không có chữ
nào có âm thanh tương xứng với chữ Ra của tiếng Tamoul, cho nên nó không thể
nào phiên âm được chữ Maran ngoài cách phiên nó bằng Mara. Cái danh hiệu MARAN
cho các nhà vua Pandya là đã từng được dùng trong văn học Tamoul trong những thế
kỷ đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo đồng thời với niên điểm của bài minh Võ Cạnh,
đại để như trong chữ Turanamuru chẳng hạn. Trong triều đại lịch sử Pandya, thì
về thời kỳ cuối tức là từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ X có 4 nhà vua lấy tên
là Maravarman và một nhà vua lấy tên là Sri Mara Srivallabha (815-862) viết
theo tên bằng chữ Sanskrist.
Bài minh Võ Cạnh cho chúng ta biết rằng truyền thống Ấn Ðộ
giáo chứ không phải là Phật giáo miền Nam nước Ấn đã được thâm nhập sang đến tận
vùng ven biển phía Ðông xứ Ðông Dương ngay từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên
Thiên Chúa. Có những tư liệu Trung Quốc, chưa rõ ràng cho lắm, cho rằng nhà vua
Srimara đã tại vị ngay từ trước thời kỳ có bài minh Võ Cạnh, mặc dù những tư liệu
đó chưa được thật sự vững chắc. Trong bài minh có nói “cái con người là niềm
vui của gia đình của người con gái của cháu đích tôn nhà vua Srimara”, như vậy
con người này có nghĩa là một người cháu tương đối xa của nhà vua Srimara vì rằng
người ấy chỉ là niềm vui của gia đình mà thôi. Vậy thì cũng chưa hẳn đã phải là
con giai của người cháu gái của nhà vua Srimara, người này chỉ là niềm vui của
gia đình của người cháu gái nhà vua mà thôi. Do đó người ta cũng có thể tự đặt
cho mình câu hỏi là đã chắc gì nhà vua Srimara đã là tại vị vào lúc mà người
cháu của ông ta cho khắc bài minh vào khối bia và biết đâu chính ông ta lại là
một nhà vua của triều đại Pandya như cái danh hiệu MARAN đã nói lên, và chỉ con
cháu của ông ta lúc sang làm vua ở cái xứ sở mới này rồi nhắc đến tên của ông
ta lúc sang làm vua ở cái xứ sở mới này rồi nhắc đến tên của một truyền thống của
triều đại Pandya trong khi đang làm vua ở một nơi trên bán đảo Ðông Dương(32)
TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH
Sau năm 1975, hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa sáp nhập thành tỉnh
Phú Khánh (10-1975). Huyện Cam Ranh được thành lập, Huyện Khánh Ninh gồm Ninh
Hòa, Vạn Ninh. Huyện Khánh Xương gồm Vĩnh Xương (7 xã) và Diên Khánh. Các xã
thuộc huyện Khánh Dương nhập về tỉnh Ðăk Lăk.
Năm 1977, 7 xã thuộc huyện Vĩnh Xương trước đã nhập vào Khánh
Xương được tách rời để nhập vào thành phố Nha Trang, Diên Khánh trở lại huyện
cũ.
- Năm 1979, huyện Khánh Ninh lại tách ra 2 huyện cũ là Ninh
Hòa và Vạn Ninh.
- Năm 1985 huyện Cam Ranh tách ra thành hai huyện: Khánh Sơn
và Cam Ranh; huyện Diên Khánh lại tách thêm thêm thành 2 huyện Diên Khánh và
Khánh Vĩnh.
- Năm 1982 (tháng 12) quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phú Khánh
(trước 1945 thuộc tỉnh Bà Rịa, sau 1954 thuộc tỉnh Phước Tuy, 1982 thuộc tỉnh Ðồng
Nai)
- Năm 1989 tỉnh Phú Khánh được tách ra 2 tỉnh như cũ: Phú Yên
và Khánh Hòa (1-7-1989).
Ngày nay, tỉnh Khánh Hòa gồm 7 huyện (Vạn Ninh, Ninh Hòa,
Diên Khánh, Khánh Vĩnh, Cam Ranh, Khánh Sơn, Trường Sa) và thành phố Nha Trang.
Toàn tỉnh gồm 6 thị trấn, 17 phường, và 105 xã với dân số
818.863 (tính đến 1-4-1989).
Diện tích gồm 4.626 km2 trên đất liền và 180.00 km2 trên mặt
biển.
(Theo tư liệu trong tập Quê Hương Khánh Hòa - 1990)
THEO DẤU CHÂN BÁC SỸ YERSIN LÊN ÐỈNH HÒN BÀ
MAI LĨNH
Từ Nha Trang theo Quốc lộ 1A vào phía Nam chứng 20 km, rẽ về
hướng Tây đi ven theo dòng suối Dầu lên hướng thượng nguồn. Cũng con suối ấy
nhưng mỗi đoạn được gọi tên khác: Suối Lau, suối Ðá Giăng, suối Ðá Hàn... Nhiều
năm qua do việc khai thác gỗ và phá rừng trồng cây công nghiệp kể cả được phép
và trái phép - các loại xe tải nặng đã làm vỡ, sập nhiều cống được xây dựng từ
năm 1917, nhất là đoạn từ dốc “3 cua” đến suối Cá. Năm 1989, tên đoạn đường ấy
chúng tôi đếm được gần 20 cửa cống thoát nước băng qua đường; cầu Ðá Hàn còn
nguyên vẹn dù phải chịu tải quá sức thiết kế từ hơn 70 năm trước, nhưng rồi
cũng không chịu nổi.
Từ cầu Suối Cá đi lên, con đường của bác sĩ Yersin vòng vèo,
dzích dzắc hình “chữ chi” dựa vào sườn núi. Mặt đường đất rộng chừng 2 mét. Ở
nhiều chỗ cua gấp khúc “cánh chỏ”, vách ta-luy đất núi vẫn nguyên vẹn. Con đường
bỏ phế hơn nửa thế kỷ, nhưng các loại cây mọc rải rác giữa lòng đường rất nhỏ,
chiều cao chừng hơn 2 mét, đường kính không quá 5 cm; không hề có dấu tích gốc
cây lớn giữa đường bị chặt hạ. Hai bên đường, cây lớn nhỏ đủ loại chen nhau.
Khu rừng này có nhiều loại cay gỗ như sến, tô hạp, quế, dó, tùng, trắc bá diệp...
Loại cây có gốc chừng 2 người ôm rất ít, kể cả những chỗ chưa bị khai thác. Cây
dó khá nhiều, nhưng dân tìm trầm lùng sục đào tận gốc, hiện chỉ có cây trên dưới
15 năm tuổi. Ðể rút ngắn thời gian đến đích, chúng tôi chỉ theo con đường của
bác sĩ Yersin vài đoạn rồi cắt đường tắt, leo vách ta-luy băng ngang đường lên
đỉnh núi. Có 2 lối đi lên: từ cầu Suối Cá đường ngắn hơn, nhưng nguy hiểm hơn;
từ cầu Ðá Hàn đi đường vòng vèo đỡ dốc. Nhưng đi lối nào cũng phải trèo những dốc
đứng sững liên tục, người ở trên tuột chân sẽ kéo theo cả nhóm lăn xuống; hoặc
đi trên đường “lưng ngựa”, hai bên là vực sâu hun hút.
Một số tài liệu ghi rằng khu rừng này có rất nhiều khỉ và
không có voi. Nhưng trong chuyến đi năm 1989, chúng tôi gặp nhiều đống phân voi
đã khô vẫn còn nguyên vẹn. Trong cả hai chuyên đi, mỗi chuyến 3 ngày, 2 đêm -
chúng tôi không hề thấy con khỉ nào hay dấu hiệu có heo rừng, thú dữ... nhưng
muỗi vắt rất nhiều. Từ độ cao hơn 1.200 mét, suốt bốn mùa ẩm ướt, mưa nhiều,
hơi đá tỏa ra lạnh buốt. Ðêm xuống, đốt lửa quanh lán chịu khói cay mắt vì củi
ướt, chúng tôi vẫn không chịu nổi cái rét nếu không nhờ rượu mạnh và thuốc lá
dù đã quấn kín người. Giữa tiếng côn trùng rả rích, nổi lên chói tai tiếng chim
gõ kiến phá tan không khí tĩnh mịch nặng nề của đêm rừng Hòn Bà.
Dựa theo các tài liệu, bản vẻ cũ, chúng tôi phát cỏ tranh tìm
ra 2 nền nhà chính xây đá chẻ còn nguyên vẹn những bậc tam cấp, bồn hoa, hệ thống
hầm chứa nước sạch và vị trí đặt ăng-ten vô tuyến điện trên một tảng đá to lớn
có bề mặt bằng phẳng. Nhà ở đây đều dùng toàn gỗ nên đã hư hỏng hoàn toàn.
Theo truyền thuyết, Hòn Bà là hành cung của Thiên Y A Na
Thánh mẫu, vào những đêm thánh mẫu giá lâm, trên núi có hào quang tỏa sáng. Tuy
nhiên, truyền thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết. Sự lạ có thật nơi đây là một cái
mội nước (vũng nhỏ) giữa lưng chừng khe núi phía sau khu nhà của bác sĩ Yersin.
Cái mội này quanh năm có nước, ước chỉ chừng 50 lít; nhưng múc đến đâu lại đầy
đến đó, không cạn hơn cũng chẳng đầy hơn. Ngoài nước mưa, Trạm quan trắc Hòn Bà
có đủ nước dùng nhờ bơm từ mội nước ấy.
Sáng sớm tinh mơ, vừng đông rực rỡ lan tỏa nhuốm hồng màn
sương. Thoáng chốc sương tan, những tia nắng rẻ quạt xuyên mây tạo nên cảnh trí
kỳ vĩ tuyệt vời. Từ trên điểm cao nhìn xuống, mặt biển trong vịnh Cam Ranh, vịnh
Nha Trang lấp lánh, lung linh. Trời quang, có thể nhìn rõ núi, đảo quanh vịnh
Nha Trang, xa xa là núi mẹ bồng con thuộc địa phận M’Drăc (Dăklăk). Dùng ống
nhòm có thể thấy những cao ốc, lô cốt ở bến thuyền du lịch Cầu Ðá ở Nha Trang.
Dạo quanh một vòng trước khi tạm biệt Hòn Bà, cảm giác lâng lâng ngập tràn khi
chúng tôi nhặt được một chậu gốm trồng phong lan trong đám cỏ tranh trên nền
nhà cũ. Kỷ vật nằm đây, người xưa không còn. Di tích Hòn Bà liệu có còn ai lui
tới?
BIA THÁP PÔ-NA-GA CỦA PHAN THANH GIẢN
“Pô Ino Nagar là vị thần tạo lập trái đất, các hương thơm quý
giá, cây gỗ trầm, nên một hôm trong lúc tế trời, Nữ thần tung lên không trung một
hạt lúa có cánh, trắng như mây. Ân huệ của Nữ thần thật vô vàn. Phước đức của Nữ
thần ở khắp mọi nơi. Nhớ công ơn Nữ thần, người Chàm xây một ngọn tháp để thờ ở
Yjatran (Nha Trang).
“Ngày xưa, nữ thần Po Nagar do trời sai xuống, tạo ra trái đất,
trầm hương vào lúa. Hương mộc và kỳ nam, tượng trưng cho sự linh hiển của Nữ thần.
Nữ thần làm tỏa ra hương lúa, cổ võ trồng cây bồ đề. Những ai mỗi khi têm côi
trầu hay thưởng thức hương vị lúa gạo đều phải sắm sửa quả phẩm thành bánh dâng
lên Nữ thần.”
Về sự tích nữ thần, có một bản ghi chép bằng chữ Hán khắc ở
trên bia dựng tại phía Bắc tháp Pô Nagar (Thiên Y A Na) do nhà thi sĩ Phan
Thanh Giản, bấy giờ làm Ðại học sĩ bộ Lễ dưới triều Tự Ðức, đã viết vào năm
1857, dịch theo nguyên văn sau đây:
“Trong thiên hạ, những chỗ sầm uất lâu đời hay có những sự
tích ly kỳ, người ta chép vào sử truyền lại vì thấy có ích cho nước, cho dân.
Xem như chuyện Lạc-già Quan Thế Âm và Lâm Thiện Hậu ở Việt
Dương toàn là chuyện lạ thường nên vẫn được lưu sử; cũng như sự tích Liễu Hạnh
công chúa giáng sinh ở Nam Ðịnh, những khi hiển ứng đều có ghi lại thành dã sử.
Miền Nam nước ta sống trong cảnh mưa thuận gió hòa, thuần
phong mỹ tục. Phần đất của con cháu Hồng Lạc tuy đất hẹp dân ít, song lại là
nơi dân cư được thần linh ủng hộ cho nên được no ấm đầy đủ và xem xứ mình như một
cảnh Bồng Lai ở thế gian.
Cách trở với Trung Quốc, việc giao thông không thuận tiện nên
cuộc bang giao khó khăn.
Vì không có sử sách để kê cứu, tôi không biết sự tích của
Thiên Y Thánh mẫu cho tường tận, chính lúc đi qua Khánh Hòa, là nơi nguồn gốc của
Thánh mẫu, được nghe các bậc bô lão kể lại và đã đọc dã sử, cũng chỉ biết được
sơ lược mà thôi.
Người ta nói: “Bà Thiên Y giáng sinh ở núi Ðại An (cạnh núi
Cù Huỳnh) thuộc làng Ðại An, tỉnh Khánh Hòa, mé ngoài có biển bao bọc, sơn
thanh thủy tú, chính là nơi di cảnh của thần tiên. Nơi ấy có đôi vợ chồng già
không có con, nhà ở dưới chân núi ngày ngày trồng dưa độ nhật. Dưa chín thì hay
mất quả, hai vợ chồng lấy làm lạ, mới rình bắt được một nàng độ hơn mười tuổi
hái trộm dưa chơi dưới trăng. Thấy nàng còn bé, vẻ mặt dễ thương, sống trong cảnh
côi cút, hai vợ chồng mới thuận đem nàng về nuôi, thường vẫn nâng niu âu yếm chẳng
khác gì con ruột.
Một ngày kia trời làm lụt, cảnh vật buồn tênh, nàng mới sực
nhớ đến Tam Ðảo, một cảnh thần tiên cũ, liền hái hoa quả, chọn đá xây một hòn
giả sơn để ngắm; ông già thấy vậy nổi giận mắng nàng. Trong khi đang hối hận buồn
rầu, gặp lúc hồng thủy trôi nổi cây kỳ nam đến, nàng bèn biến thân vào khúc gỗ
kia, mặc cho dòng nước cuốn ra biển rồi trôi dạt vào bờ Bắc Hải (Trung Quốc).
Dân cư ở đó lấy, nhưng quá nặng không khiêng nổi. Lúc ấy có một vị Thái tử
Trung Hoa, tuổi chừng hai mươi đang buồn rầu vì đã từng trèo non lặn suối mà
chưa tìm được một ý trung nhân, nghe tin ấy liền lấy xe đi đến bờ bể, tự mình đỡ
cây kỳ nam, đưa vào nội điện, thường hay vỗ về khi nhàn rỗi. Một đêm trăng,
hương thơm ngào ngạt, Thái tử trông thấy bên cạnh cây kỳ nam một bóng người khi
ẩn khi hiện. Thái tử lấy làm lạ đến gần thì bóng người kia lại biến đi. Một đêm
kia trong khi thiên hạ đang say đắm giấc nồng, Thái tử lén ra đó chờ một hồi
lâu, khi bóng mỹ nhân hiển hiện thì ông ta ồm choàng lấy ngay, không tránh được,
nàng phải bày tỏ sự tình. Sáng hôm sau nửa mừng nửa lo, Thái tử vào tâu với Phụ
hoàng, vua cha ngạc nhiên, truyền bói một quẻ, gặp quẻ đại cát, bèn cho thái tử
kết hôn với nàng.
Hai vợ chồng thái tử ở với nhau đã lâu sinh hạ được một hoàng
nam tên là Tri và một công chúa tên là Quý. Nhưng một ngày kai nàng nhớ quê cũ
mới đem hai con đi, lại biến thân vào gỗ trầm, mặc cho dòng nước xuôi về Nam, đến
chân núi Cù Huỳnh, tìm lại ngôi nhà xưa ở mé núi. Cảnh vật đổi dời, song thân
đã khuất, từ thì Bà ở lại, sửa sang vườn tược, lập nhà thờ phụng cha mẹ. Dân
trong vùng dại dột không biết tìm kế sinh nhai hay hại lẫn nhau, bà mới đặt ra
lễ phép dạy dân làm ân, cách sinh dưỡng rồi sau khi cho chạm tượng của Bà để lại
ở chóp núi, Bà cởi chim loan lên tiên giới một ban mai.
Bên Bắc triều, thấy người yêu đi không trở lại, Thái tử cho
người chèo thuyền đi tìm. Khi gần tới nơi, thủy thủ tỏ vẻ hống hách, dọa nặt
dân trong vùng, và không biết kính cẩn tượng thần Bà, nên bị trời phạt, thổi một
trận cuồng phong đánh đắm thuyền ấy ở cửa biển Ðại An. Ngày nay nơi đó nổi lên
một gò đá khắc chữ “khoa đẫu” (chữ Hời) xem khó hiểu, và từ hồi ấy trở đi, trên
cù lao Yến thường có thần hiển linh, cứu nhân độ thế, cầu xin gì cũng được, nên
dân trong vùng khắp xa gần đều thiết bàn thờ thờ phụng Ngài.
Trên núi Cù lao kia có một ngọn tháp cao sáu trượng thờ ngài
Thiên Y, bên hữu một cái tháp nhỏ cao hai trượng thờ Thái Tử, đằng sau một nhà
nhỏ thờ hai con Ngài, bên tả một nhà nhỏ thờ song thân. Trước mặt tháp có dựng
một cái bia đá viết chữ Hời như ta thấy trên hòn đá án ngữ ngoài cửa biển.
Trong vườn của Ngài, hoa quả vẫn tốt tươi, khách ngoạn cảnh có thể hái và tha hồ
ăn tại chỗ. Hàng năm đến kỳ tế lễ, sơn thú và hải ngư về chầu ở cửa điện và người
xưa thường kính cẩn gọi Ngài là Thiên Y A Na Ðiện Bà Chúa Ngọc Thanh Phi.
Triều vua Nguyễn đã phong Ngài chức “Hồng nhơn Phổ tế Linh ứng
thượng đẳng thần”, chọn dân vùng Cù Lao làm thủ từ ở đền Ngài.
Có một điều mà tôi lấy làm lạ, nếu ngài là một Thiên nữ thời
đến đây làm chi, toan sống trọn đời núi non lại bỗng dưng vượt biển Nam qua Bắc
kết duyên âu yếm cùng Thái tử rồi lỗi hẹn trăm năm mà trở về núi cũ; đến sau cảnh
còn, người mất, gió mây trôi nổi ra oai thần thánh; như vậy thì hành động bậc
thần thánh không tự chủ nhất định được hay sao, thật tôi rất lấy làm lạ(33).”
Người ta còn kể lại rằng Thánh Mẫu có khi hiện ra trên lưng một
con bạch tượng đi du ngoạn khắp các ngọn núi. Mỗi lần nữ thần du hành là người
ta nghe rõ tiếng lệnh như tiếng thần công báo hiệu. Có khi nữ thần hiện ra
thành một dải lụa ngà lượn khúc trên không trung, dưới bầu trời êm ả, hay cởi
trên đầu một con đại-ngạc-ngư dạo chơi từ hòn cù lao đến các đảo lân cận.
Ðể thờ bà chúa Thiên Y A Na, tại Huế, có xây một ngôi đền gọi
là điện Hòn Chén (Ngọc Trản) hay là Huệ Nam Ðiện ở phía lên nguồn sông Hương.
Hàng năm vào đầu thu, người ta thường đến cúng lễ, lên đồng. Một thi sĩ ở thế kỷ
XIX, Nguyễn Văn Trinh, có làm một bài thơ dài theo lối Chầu văn kể sự tích nữ
thần còn được truyền tụng đến ngày nay, có đoạn sau đây:
Bóng trăng thấp thoáng, làn mây chập chờn,
Hương trời sắc nước nào hơn,
Bỗng đâu biến mất như cơn giấc hòe.
Hương thừa thấp thoáng còn nghe,
Trong khi gặp gỡ ai dè sắc không.
Hôm sau gió mát trăng trong,
Nhìn cây lại thấy Tiên dung ra vào...
Trong dân chúng, sự tích của Thiên Y A Na Thánh Mẫu thường
khi lẫn lộn với Liễu Hạnh - Giáng Hương Thánh Mẫu, vị nữ thần của Nội đạo Việt
Nam.
(Trích Việt Nam Văn học toàn thư của Hoàng Trọng Miên)
Chú thích:
(1) Trong bụng thì đúng hơn.
(2) Ðây là một trong bao nhiêu trường hợp khác.
(3) Chỉ nhớ đại khái.
(4) Khách đi đường bảo nhau rằng thơm có hai nơi ngon nhất là
“Nhất Tam Kỳ nhì Vạn Giả”.
(5) Phú Ân ở quận Diên Khánh.
(6) Xưa kia Khánh Dương thuọc về Ban Mê Thuột, nên Diên Khánh
nổi tiếng khô nai ở Khánh Hòa. Từ khi Khánh Dương thuộc Khánh Hòa thì người “vi
thiên” chỉ còn biết Khánh Dương.
(7) Ðôi nét về tỉnh Khánh Hòa được phổ biến bằng ronéo và
trên đài phát thanh Nha Trang.
(8) Hiện nay bia Võ Cạnh tồn trữ tại Viện Bảo Tàng lịch sử Hà
Nội. Xem phụ lục.
(9) Thư chép: hoài: nỗi niềm ôm ấp trong lòng.
(10) Nước non Bình Ðịnh, Quách Tấn, Nam Cường xuất bản, Sài
Gòn 1967, trang 95
(11) Lý Ðịch đời Tống, thường gọi là Tống Lý Ðịch gọi tắt là
Tống Ðịch (1174)...
(12) Nước non Bình Ðịnh, trang 118.
(13) Xứ Trầm Hương, Quách Tấn. Lá Bối xuất bản. Sài Gòn 1970,
trang 179.
(14) Xứ Trầm Hương trang 179
(15) Xứ Trầm Hương trang 222
(16) Xứ Trầm Hương trang 199
(17) Xứ Trầm Hương trang 189
(18) Nam Cường xuất bản, Sài Gòn 1967.
(19) Xứ Trầm Hương 354.
(20) Nước non Bình Ðịnh, trang 208.
(21) Nước non Bình Ðịnh, trang 130.
(22) Nước non Bình Ðịnh, trang 451.
(23) Nước non Bình Ðịnh, trang 455.
(24) Xứ Trầm Hương. Trang 440.
(25) Xứ Trần Hương. Trang 307.
(26) Xứ Trầm Hương,
(27) Nước non Bình Ðịnh, trang 289.
(28) Mộng Ngân Sơn trang, 130.
(29) Mộng Ngân Sơn trang, 56.
(30) Mộng Ngân Sơn trang, 61: “Mây ùn trời tháng hạ/ Dồn lạnh
khác sang sông”.
(31) Xứ Trầm Hương, trang 277.
(32) Vì không rõ đại chỉ, xin hai vị dịch giả vui lòng lượng
thứ cho việc liên hệ xin phép (B.T.V)
(33) Bản dịch của Thái Văn Kiểm.
Quách Tấn
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét