Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024

Xứ Trầm Hương 3

Xứ Trầm Hương 3

Phần Thứ Tư - Dân Sinh
i. Dân số
Dân số tỉnh Khánh Hòa lúc người Việt Nam mới vào định cư bao nhiêu không được rõ. Trong niên hiệu Gia Long số đinh được trên 5.000 người. Sang niên hiệu Tự Đức lên 8.563 người. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) lên đến 11.218 người và năm thứ 18 (1906) thêm gần 500 người nữa, cộng trên 11.700 người. Hiện nay theo bảng thống kê Tòa Hành Chánh năm 1966, thì toàn tỉnh có 288.214 người, gồm có:
- Người Kinh: 278.724
- Người Thượng: 7.592
- Người Nùng: 1.467
- Ngoại Kiều: 431
Và theo bảng kiểm kê năm 1968 thì có 367.975 người:
- Vạn Ninh: 32.127
- Ninh Hòa: 72.770
- Khánh Dương: 5.959
- Vĩnh Xương: 103.877
- Diên Khánh: 42.948
- Cam Lâm: 8.241
- Nha Trang Đông: 42.395
- Nha Trang Tây: 59.755
Chỉ trong vòng hai năm mà dân số tăng đến gần 80 nghìn người là do các tỉnh ngoài di cư vào.
Và từ cuối đời Thành Thái đến nay mới trên 60 năm, mà số người tăng đến trên 365 nghìn người là vì xưa kia chỉ tính số người chính quán Khánh Hòa, lại chỉ tính số đàn ông. Còn nay tính cả người ngoại tỉnh, ngoại quốc, cả đàn ông lẫn đàn bà. Chớ không phải người Khánh Hòa sai con.
Diện tích toàn tỉnh Khánh Hòa là 5.432 cây số vuông. Núi rừng chiếm 15/16 diện tích, tức 5.092 cây số vuông. Đồng bằng còn được 1/16 diện tích, tức 340 cây số vuông.
Người Thượng ở núi rừng, người Kinh ở đồng bằng. Mật độ trung bình của Tỉnh là 68 người mỗi cây số vuông. So với mật số trung bình của toàn cõi Việt Nam là 79, thì Khánh Hòa không phải là tỉnh đông dân. Nhưng số người phân phối không đều. Núi rừng rộng mà người ở lại ít. Còn đồng bằng hẹp, người ở lại đông. Thành ra có sự chênh lệch rất lớn giữa hai miền. Miền rừng núi Khánh Hòa mật độ chỉ có 1,5 tức 3 người trên 2 cây số vuông. Còn miền đồng bằng thì lên đến 822 người trên một cây số vuông.
Sự chênh lệch giữa thôn quê và thành thị cũng quá lớn. Như thành phố Nha Trang diện tích chỉ có 3 km2 900 (Nha Trang Đông 200 hectares, Nha Trang Tây 190 hectares), mà dân số đến 102.050 người. Thế là trên mỗi cây số vuông ở 25.512 người, tức là đông gấp 30 lần thôn quê.
Tình trạng nầy do chiến tranh mà ra. Đến lúc thái bình, đồng bào sẽ trở về với ruộng nương vườn tược bớt.
II. SINH HOẠT
Nhân dân Khánh Hòa phần đông sống về nghề nông. Những người ở miền duyên hải sống về nghề chài lưới, nghề làm muối và làm nước mắm. Một số ở tỉnh lỵ Nha Trang và các quận lỵ sống về thương mãi. Ở thôn quê mấy năm nay mất an ninh, ruộng nương bỏ hoang nhiều. Một số đông nông dân phải tản cư xuống tỉnh lỵ, quận lỵ tìm sanh kế. Phần nhiều đi làm cho Mỹ. Nghề thương mãi có phần phát đạt thập bội. Nhiều thương gia trước kia thường thường, ngày nay đã trở thành triệu phú.
Nhìn chung quanh: Mặc dù sống trong thời loạn lạc, nhân dân Khánh Hòa yên ổn và phong lưu hơn mọi nơi. Người giàu thì sang trọng đã đành, người nghèo cũng không đến nỗi đói rách. Và ở nơi thị tứ giá sanh hoạt mỗi ngày mỗi cao, nhưng các quán ăn, các tiệm giải khát, các rạp chiếu bóng… không lúc nào thưa người. Thỉnh thoảng có gánh cải lương hay tân nhạc ở Saigon ra, thì phải mua vé chợ đen mới có chỗ tốt!
III. NGÔN NGỮ – TÁNH TÌNH
Người Khánh Hòa không có tiếng nói nào khác hơn tiếng Việt. Giọng nói giống giọng Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận. Những người không rành, không thể phân biệt được điểm khác trong chỗ lên xuống nặng nhẹ của giọng nói 5 tỉnh miền Nam Trung Nguyên Trung Phần. Không có những thổ âm riêng biệt như ở Huế trở ra.
Tiếng của đồng bào Thượng có hai thứ chính là Rhadé và Raglai. Nhưng phần đông đều nói tiếng Việt thông thạo.
Phong tục tỉnh Khánh Hòa thuần hậu. Tánh người hiền hòa, kiệm ước, không thích tranh đấu, không thích mạo hiểm phiêu lưu. Phần đông lấy chữ nhàn làm quí. Làm đủ ăn đủ mặc, học đủ hiểu đủ biết. Không ham làm giàu, không ham làm quan. Cho nên thái độ ung dung, nhàn nhã. Chẳng những lúc thái bình, cả lúc chiến tranh cũng vậy, người Khánh Hòa ít chộn rộn ồn ào. Không phải không có nhiệt huyết. Bề ngoài ngó lợt lạt nhiều khi như thờ ơ, nhưng bên trong rất thâm hậu. Không chơi với người thời thôi, chớ một khi đã làm bạn rồi thì trước sau như một.
Người Khánh Hòa cũng như người Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, tình thâm nhưng tánh thiển, cho nên thường bị những kẻ cơ tâm lợi dụng. Do đó – do thường gặp phải vỏ dưa – đối với người có vẻ khôn lanh, đồng bào Khánh Hòa ít dám gần gũi.
Về việc cúng tế, tang chế, cưới gả, đại khái cũng giống các tỉnh miền Nam Trung Nguyên Trung Phần.
Đó là nói về đồng bào Kinh. Còn đồng bào Thượng thì hầu hết chất phác thật thà. Cho nên xưa nay không có những cuộc nổi loạn. Cũng không lạ gì, vì đến cọp mà còn hiền huống hồ người, dù là người Thượng.
IV. TÍN NGƯỠNG
Phần đông đồng bào Khánh Hòa, 80% dân số chịu ảnh hưởng Khổng Giáo. Trong số nầy theo Phật giáo quá nửa. Còn lại đều có cảm tình không nhiều thì ít chớ không mấy người chống báng. Thiên Chúa giáo (Công Giáo và Tin Lành) tính về bách phân nhân số thì chiếm chừng 12, 13 phần trăm. Còn các Tôn giáo khác thì chiếm chừng một vài phần trăm. Cho nên, cũng như tất cả các tỉnh Trung Việt, đạo Phật và đạo Thiên Chúa là hai Tôn giáo chính của Khánh Hòa.
A) PHẬT GIÁO
Phật giáo từ Trung Hoa truyền sang Việt Nam từ thế kỷ thứ II, thời Bắc thuộc. Truyền sang Bắc Việt trước, rồi theo bước Nam tiến của dân tộc Việt Nam mà đi vào lần. Hạt giống bồ đề gieo vào đất Khánh Hòa sớm nhất là khoảng hạ bán thể kỷ thứ XVII, sau khi chúa Nguyễn phúc Tần đánh thắng được vua Chiêm Thành là Bà Tranh và chiếm cứ đất Kaut Hara làm bản thổ (1653). Nhưng trước khi người Việt Nam đến, trên đất Chiêm Thành đã có dấu chân của các nhà sư đi du hóa.
Sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của T.T. Thích Mật Thể, chép rằng: « Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Củ và nhiều dân lính làm tù binh. Các tù binh ấy vua Lý Thánh Tôn ban cho các quan triều làm quân hầu. Trong số quan triều ấy có một vị tăng lục. Một hôm vị tăng lục ấy đi vắng về, bỗng thấy bản « ngữ lục » của mình bị một tù binh sửa chữa lại cả. Ngài thất kinh đem việc ấy tâu vua, vua liền cho đòi tên tù binh ấy đến hỏi, thì y ứng đối rất thông, luận về những kinh điển nhà Phật rất xứng đáng. Hỏi ra thì đó là một vị Thiền sư người Tàu theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị Thiền sư ấy chính tự hiệu là Thảo Đường, đệ tử của ngài Tuyết Đậu Minh Giác bên Tàu ».
Những ngọn tháp trên Hòn Tháp thôn Đại Điền Tây, mà trước đây ai cũng tưởng là tháp Hời vì quá cổ 1, phải chăng là của các nhà sư ở Ấn Độ hay Trung Hoa sang truyền pháp trong thời kỳ Chiêm Thành còn mạnh?
Song đối với người Việt Nam, đạo Phật nhất định phải đợi khi chúa Nguyễn thắng vua Chiêm rồi mới gây được ảnh hưởng. Những di tích của Phật giáo thời xưa còn để lại trên đất Khánh Hòa là những tấm biển, những câu đối, và những quả hồng chung trong các chùa cổ. Những di vật nầy đều mang niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740) và niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) nhà Hậu Lê. 2
Như thế có thể tin rằng đạo Phật du nhập vào Khánh Hòa sớm nhất là vào hạ bán thế kỷ thứ XVII và muộn nhất là vào hạ bán thế kỷ XVIII. Đạo Phật gồm có Đại Thừa và Tiểu Thừa. Nước Việt Nam ta theo Đại Thừa. Đại Thừa lại gồm có nhiều tôn: Tịnh Độ Tôn, Mật Tôn, Thiền Tôn… Nước Việt Nam ta chỉ đặc truyền Thiền Tôn từ Trung Hoa du nhập. Thiền Tôn cũng gồm có nhiều chi phái. Nhưng ở Việt Nam thịnh hành nhất là phái Tào Động ở Bắc Việt và phái Lâm Tế ở Trung Việt và Nam Việt. Phái Lâm Tế gồm nhiều dòng: Vạn Phong, Đạo Mân, v.v… Và người đầu tiên truyền phái Lâm Tế sang Trung Việt là Thọ Ngôn Hòa thượng, húy Nguyên Thiều, sang Việt Nam năm Ất Tỵ (1665), lập chùa Thập Tháp Di Đà ở Bình Định rồi ra Huế lập chùa Quốc Ân. Ngài vốn thọ giáo hai dòng Vạn Phong và Đạo Mân, nên có hai tên húy: Siêu Bạch, theo dòng kệ của Tổ Vạn Phong, và Nguyên Thiều, theo dòng kệ của tổ Đạo Mân. Sang Việt Nam, Ngài truyền xuống cả hai dòng kệ. Dòng kệ của Tổ Vạn Phong gồm 40 chữ:
Tổ đạo giới định tông,
Phương quảng chứng viên thông,
Hạnh siêu minh thiệt tế,
Liễu đạt ngộ chơn không,
Như nhật quang thường chiếu,
Phổ châu lợi ích đồng,
Tín hương sanh phước huệ,
Tương kế chấn từ phong.
Dòng kệ của Tổ Đạo Mân có 28 chữ:
Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên,
Minh như hồng nhật lệ trung thiên.
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ,
Chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền.
Thủy Tổ phái Lâm Tế là ngài Nghĩa Huyền. Ngài Vạn Phong là vị tổ thứ 21. Ngài Đạo Mân là vị tổ thứ 31. Và ngài Nguyên Thiều về chánh thống phái Lâm Tế, thì đứng vào đời thứ 33.
Qua thế kỷ thứ XVIII, Liễu Quán Hòa thượng, húy Thiệt Diệu, người tỉnh Phú Yên, thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế chánh tông, khai sơn chùa Thiên Thai Thuyền Tôn ở Huế, lại tục bài kệ về pháp phái, rằng:
Thiệt tế đại đạo, tánh hải thanh trùng.
Tâm nguyện quảng nhuận, đức bổn từ phong.
Giới định phước huệ, thể dụng viên thông.
Vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công.
Truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tông.
Hạnh giải tương ưng, đạt ngộ chơn không.
Các vị Tổ khai sơn các Tổ Đình tỉnh Khánh Hòa đều thuộc phái Lâm Tế. Và hầu hết đều thuộc dòng kệ ngài Liễu Quán. Như:
- Ngài Thiệt Địa, chùa Kim Sơn Vĩnh Xương.
- Ngài Tế Hiển, chùa Thiên Bửu Ninh Hòa.
- Ngài Tế Dưỡng, chùa Phổ Hòa Ninh Hòa.
- Ngài Đại Bửu, chùa Linh Sơn Vạn Ninh.
Riêng ngài Phật Ấn, chùa Hội Phước Nha Trang, thuộc dòng kệ Tổ Đạo Mân.
Các vị Tổ khai sơn ở Khánh Hòa đều là người Việt Nam ở các tỉnh ngoài, Quảng Nam, Phú Yên, vào truyền pháp. Qua đến đời Nguyễn Sơ, Khánh Hòa mới có danh tăng lo việc hoằng pháp.
Bước tiến triển của Phật giáo trên đất Khánh Hòa như sao, không thấy sách vở để lại. Bằng vào số chùa cổ còn sót lại từ đời Lê và những câu chuyện truyền khẩu về các vị danh sư, thì có thể đoán rằng Đạo Phật thời vua Lê chúa Nguyễn ở Khánh Hòa rất thạnh vượng. Quận nào cũng có trên một ngôi chùa cổ. Các vị tổ khai sơn đều nổi tiếng về đạo hạnh và phần nhiều đều hóa thân trên giàn hỏa.
Đến thời Tây Sơn và Nguyễn Phúc tranh hùng thì việc truyền bá bị đình trệ.
Qua đời Nguyễn trung hung, nhờ các vị vua có lòng sùng phụng, Đạo Phật được trùng quang. Chùa cũ được sửa sang lại, chùa mới được cất thêm, và nhiều vị danh sư xuất hiện. Như:
- Hòa thượng Liễu Đức khai sơn chùa Thiên Đức năm Minh Mạng nguyên niên.
- Hòa thượng Trừng Nghệ khai cơ chùa Thiền sơn khoảng Hàm Nghi Thành Thái.
- v.v…
Hễ chùa nhiều, và người lo phật sự có tài có đức thì lẽ tất nhiên thiện nam tín nữ phải đông, Chánh Pháp được truyền bá sâu rộng.
Nhưng theo các nhà khảo cứu và Phật Giáo Việt Nam, trong đó có Thượng Tọa Mật Thể, thì từ ngày họ Nguyễn Tây Sơn và họ Nguyễn gia Miêu tranh hùng, Phật giáo bắt đầu đình đốn và lần lần suy đồi. Đến khi đã thái bình, mặc dù phần đông các vua nhà Nguyễn, nhất là vua Thiệu Trị, có lòng sốt sắn với Đạo Phật, tinh thần Phật giáo vẫn suy. Rồi lần lần đi chỗ đồi bại.
Đó là nói về tình hình trong toàn quốc. Đạo Phật đời Lý Trần cực thịnh. Đem so với đời Nguyễn thì cảnh thịnh suy rõ rệt như biển cả ao bèo.
Riêng về tỉnh Khánh Hòa, cảnh tượng đời Nguyễn không bằng đời Lê thật (bằng theo số danh sư chủ trì đạo pháp), nhưng sự chênh lệch không nhiều, tinh thần Phật giáo không đến nỗi bạc nhược vì vẫn có nhiều vị thiền sư thiết tỏa đàn trà tỳ khi nhận thấy pháp duyên đã viên mãn như ngài Liễu Đức (đã kể trên), Trừng Hoẵng trụ trì chùa Linh Quang, Trừng Thông khai sơn chùa Thiên Quang 3. Huống nữa thời thịnh, Đạo Phật ở Khánh Hòa không phát triển mạnh lắm, nên sau có thoái bộ, cũng ít thấy rõ khoảng cách biệt, mức hơn kém.
Nhưng qua đến triều Khải Định Bảo Đại thì cảnh suy đồi ở Khánh Hòa cũng như trong toàn quốc, trông thấy quá rõ rệt. Đạo Phật đã trở thành đạo « Thầy Chùa, thầy cúng ». Và thiện nam tín nữ đến chùa chỉ để phước và xin xăm bói cát hung đó thôi. 4
Rồi khoảng 1930 trở đi, nhờ ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Trung Quốc, các tăng già cư sĩ Việt Nam đứng lên hô hào vận động chấn chỉnh Phật Giáo Việt Nam. Công cuộc vận động gặp nhiều trở lực, trở lực bên chánh quyền cả Pháp lẫn Nam, trở lực về các nhà sư bấy lâu dùng chuông mõ làm kế sanh nhai, dùng chùa chiền làm gia đình riêng mà mình là tộc trưởng. Nhưng với tinh thần cương quyết của những vị « một lòng vì Chánh Pháp » mà Phật Giáo Việt Nam được chấn hưng lần lần 5. Khánh Hòa nhiệt liệt hưởng ứng phong trào.
Chùa Long Sơn thành lập để làm cơ sở cho Hội Phật Học tỉnh Khánh Hòa. Nhiều chùa thờ thánh, thần đổi làm chùa thờ Phật. Như chùa Bửu Phong ở núi Trại Thủy, chùa Hoa Tiên ở ấp Phật Tỉnh thôn Phú Ân Nam là hai chùa thờ Quan Thánh cải thành chùa thờ Phật 6, trong khoảng 1935-1940, v.v…
Trước kia một số đông người có học ở Khánh Hòa ít thích đạo Phật. Nhưng từ khi có sách báo về Phật giáo ra đời như Từ Bi Âm, Duy Tâm ở Nam, Viên Âm ở Trung, Đuốc Tuệ ở Bắc là những tạp chí rất phổ biến, có những buổi thuyết pháp do các vị cư sĩ, các vị tăng già tổ chức… một số đông trong giới Nho học và Tây học qui y Tam Bảo, và tự nhận nhiệm vụ truyền bá Chánh Pháp.
Phong trào chấn hưng Phật giáo đương lên thì xảy ra cuộc quốc biến năm Ất Dậu (1945) rồi đến cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945-1954). Việc truyền bá bị đình đốn rất nhiều.
Tuy thế, ở Khánh Hòa tương đối đỡ hơn ở các tỉnh từ Phú Yên trở ra. Ở Khánh Hòa, chùa chiền bị phá hoại, việc hoằng pháp bị ngưng trệ là do thời cuộc, do chiến tranh chớ không phải do kẻ có quyền có thế tìm cách tiêu diệt như ở các tỉnh khác.
Chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt, Phật giáo Khánh Hòa cũng như các tỉnh miền Nam Việt Nam, được chấn hưng nhanh chóng. Nhưng rồi chủ trương đàn áp Phật giáo của Chánh Phủ Ngô Đình Diệm mỗi ngày mỗi chặt chẽ mỗi rõ rệt, làm cản trở công cuộc hoằng dương Chánh Pháp không ít. Cuối cùng cuộc tranh đấu bùng nổ. Tăng, ni và Phật tử Khánh Hòa triệt để tham gia. Nhiều cuộc biểu tình, tuyệt thực, tổ chức có qui củ, gây được ảnh hưởng sâu rộng trong toàn thể nhân dân. Mặc dù bị chánh quyền địa phương thẳng tay đàn áp, chùa bị phong tỏa, những người lãnh đạo bị giam cầm, đồng bào hưởng ứng bị khủng bố, phong trào mỗi ngày mỗi lớn mạnh thêm.
Rồi Hòa Thượng Quảng Đức, người Khánh Hòa, tự thiêu ở Saigon 7, làm chấn động dư luận thế giới và đun sôi thêm nhiệt huyết của người đồng châu. Noi gương bậc tiền bối, ni cô Diệu Quang tự thiêu ở Ninh Hòa, gieo mầm hy sinh vì Chánh Pháp trong lòng cô Yến Phi, ni cô Diệu Tri, ni cô Thông Tuệ sau nầy. Trong cuộc tranh đấu, chẳng những người trong thiền môn tham dự, mà đồng bào trong các tầng lớp nhân dân, tín đồ trong các tôn giáo bạn, cũng nhiệt liệt hưởng ứng.
Sức mạnh của nhân dân mà Phật Giáo là nòng cốt, ở Khánh Hòa cũng như trong toàn quốc, một khi đoàn kết lại, thật không biết đâu mà lường! Sức mạnh ấy đã làm cho những kẻ có dã tâm muốn trọn quyền làm chủ nước Việt Nam để thi hành chính sách độc tài bóc lột phải khiếp sợ.
Có thể nói rằng tinh thần Phật Giáo toàn quốc nói chung, Khánh Hòa nói riêng lên đến cao độ. Trong cuộc tranh đấu chống cường quyền để bảo vệ Chánh Pháp, Phật Giáo Tiểu Thừa cũng tích cực tham gia.
Phật Giáo Tiểu Thừa gọi là Nam Tông. Phật Giáo Đại Thừa gọi là Bắc Tông. Quần chúng Phật Giáo Việt Nam, hầu hết thuộc Bắc Tông. Khoảng 600.000 người Việt gốc Miên sinh sống tại Nam Phần cùng một số ít người Thuần Việt theo Nam Tông. Sau khi Chánh Phủ độc tài Ngô đình Diệm bị lật đổ, Bắc Tông và Nam Tông hợp nhất dưới quyền lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Từ trước đến giờ chưa có xứ Phật Giáo nào thực hiện được sự thống nhất ấy. Tất cả mọi người có đạo tâm đều vô cùng hoan hỷ.
Nhưng đứng trước sức bành trướng mỗi ngày một gia tăng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, bọn Ma Vương sợ gây bất lợi cho chúng bèn tìm đủ cách để phá hoại. Giáo hội luôn luôn phải đương đầu với không biết bao nhiêu nỗi khó khăn trong công việc Hoằng Pháp.
Khánh Hòa cũng ở trong tình trạng chung. Song cơ sở vẫn giữ vững. Phật sự vẫn phụng hành nghiêm chỉnh và thường xuyên. Hiện nay, Phật Giáo Khánh Hòa có hai tỉnh hội: Tỉnh Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Tỉnh Hội Phật Giáo Cổ Truyền. Phật Giáo Cổ Truyền là hậu thân của Cổ Sơn Môn, một phái Phật Giáo đứng về phe Chánh Quyền trong thời Phật Giáo tranh đấu. Ở Khánh Hòa, ảnh hưởng không mấy. Quần chúng Phật Giáo, phần tử sơ cơ cũng như phần tử thuần thành, hầu hết đều hướng về Phật Giáo Thống Nhất. Và Tỉnh Hội Phật Giáo Thống Nhất lo việc bảo vệ Chánh Pháp và phát huy Chánh Pháp, theo đường lối cùng kế hoạch của Giáo Hội hoạch định: « Trên đường hành đạo không phân biệt oan thân. Bất cứ ở đâu có đau khổ, ở đấy Phật Giáo có sứ mạng cứu độ ».
Đó là đường lối miên trường của Giáo Hội, và là Tôn Chỉ bất biến của Chánh Pháp. Sứ giả Như Lai ở Khánh Hòa cũng như trong toàn quốc nguyện theo đúng tôn chỉ và đường lối ấy để viên thành sứ mạng:
Đường xa chẳng ngại đêm tăm tối,
Trong áo minh châu mở vẫn còn.
B) CÔNG GIÁO
Đạo Phật từ Trung Quốc sang Việt Nam. Đạo Thiên Chúa từ Âu Châu đến. Đạo Thiên Chúa hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có hai: Công Giáo và Tin Lành. Tin Lành mới du nhập chừng ba bốn mươi năm nay. Công Giáo bắt đầu truyền bá từ thế kỷ thứ XVI. Công Giáo trước kia thường gọi là Gia Tô giáo, ngày nay thường gọi là Ky Tô giáo.
Sách « Việt Nam Công Giáo Niên Giám 1964 » chép: « Theo nguồn sử liệu Việt Nam lần thứ nhất nói đến đạo Thiên Chúa, thì năm Nguyên Hòa (1533), tháng ba, vua Lê Trang Tôn ra chiếu chỉ cấm đạo Gia Tô do một « Dương nhân » tên là I NI KHU (tức INIGO) truyền giảng tại làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ, thuộc tỉnh Nam Định (Bắc phần)».
Đó là về Đường Ngoài tức là từ Đèo Ngang trở ra. Còn về Đường Trong tức là từ Đèo Ngang trở vào thì đến thế kỷ thứ XVII, sau khi Nguyễn Hoàng đã dựng nghiệp Chúa vững vàng, mới du nhập.
Sự truyền giáo bắt đầu từ năm 1616. Các giáo sĩ đầu tiên là Francesco Buzomi, người Ý, Diego Carvalho, người Bồ Đào Nha. Trụ sở đóng tại Cửa Hàn tức Đà Nẵng. Tiếp đến là giáo sĩ Đắc Lộ tức Alexandre de Rhodes.
Việc truyền giáo gặp nhiều khó khăn, Đường Trong cũng như Đường Ngoài. Cấm ngăn việc giảng đạo, chém giết người giảng cùng người theo đạo, thời nào cũng có. Nhưng « Máu tử đạo là hạt giống sinh giáo hữu » 8, cho nên Công Giáo tiến triển không ngừng. Tiến triển không ngừng, song chậm. Mãi đến hạ bán thế kỷ thứ 19 và thế kỷ thứ 20 mới thật thịnh hành.
Theo bảng thống kê trong « Việt Nam Công Giáo Niên Giám 1964 », thì từ khi bắt đầu truyền giáo đến năm 1840, toàn cõi Việt Nam có 420.000 giáo hữu. Đến năm 1890, thì lên tới 708.000. Và từ ấy đến nay đã lên trên hai triệu. Nghĩa là trong khoảng gần 80 năm gần đây, đã tăng thêm hơn một triệu. Thế là trong khoảng thời gian 80 năm sau nầy, sức phát triển hơn hẳn khoảng thời gian trên 300 năm ngày trước. Đó là do:
- Cách tổ chức của giáo hội mỗi ngày mỗi tinh xảo.
- Các nhà truyền giáo tận tụy cùng sứ mệnh.
- Trước kia toàn giáo sĩ ngoại quốc khó thông cảm với người bản xứ. Sau nầy có nhiều linh mục Việt Nam chung lo việc truyền giáo.
- Trước kia bị kẻ cầm quyền trong nước cấm chế. Sau nầy, thời Pháp thuộc cũng như thời Cộng Hòa, lại được ủng hộ.
Một cây có sức sống mạnh mẽ, mà rễ đã bám được vào đất rồi, thì khi được tưới nước bón phân lẽ tất nhiên là đâm chồi nẩy lộc mau chóng. Đó là lịch trình tiến triển chung của toàn quốc.
Riêng về Khánh Hòa thì Đạo Thiên Chúa truyền vào năm nào thật không biết chính xác. Có sớm lắm chắc cũng lối đầu thế kỷ thứ XIX. Tình trạng lúc ban đầu như sao, không được rõ. Trong trang lịch sử về Địa phận Nha Trang, sách Việt Nam Công Giáo Niên Giám chép: « Trong cuộc bắt đạo năm 1860-1861, nhiều giáo hữu đã bị tử hình tại Khánh Hòa, trong số đó có bà Bề Trên nhà Dòng Chợ Mới, chủng sinh Giuse Hữu, và 6 giáo hữu Bắc Việt. Chị Dần ở Bình Cang thì chết vì bị nhiều lần tra tấn… Năm 1885, một số rất đông giáo hữu khác đã bị Văn Thân tàn sát. Các chị nhà Dòng ở Phan Rang thì bị gìm cả xuống giếng nhà Dòng ở Dinh Thủy ».
Như thế thời Tự Đức, Hàm Nghi, và chắc trước kia cũng vậy, Khánh Hòa cũng chịu một tình cảnh chung với các tỉnh Đàng Trong. Và cũng mãi khi người Pháp đã đặt tòa công sứ ở Nha Trang rồi, việc truyền giáo mới phát triển mạnh.
Về hệ thống tổ chức ban đầu Khánh Hòa thuộc địa phận Qui Nhơn. Tới năm 1957 địa phận Qui Nhơn mới cắt hai tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và địa phận Saigon cắt hai tỉnh Bình Thuận, Bình Tuy để lập địa phận Nha Trang.
Hiện nay tỉnh Khánh Hòa thuộc địa phận Nha Trang. Số giáo hữu tính đến năm 1964 là 36.745 người. Trong số nầy có cả người miền Bắc di cư.
Công Giáo có nhiều Dòng Tu. Bên Nam có 22 Dòng (có một số tu hội và tu viện). Bên Nữ có 33 Dòng (có một số tu hội). Ở Khánh Hòa có 14 Dòng:
Dòng Tòa Thánh:
- Dòng Phanxicô
- Dòng Chúa Cứu Thế
- Dòng Sư Huynh
- Dòng Ci tô Mỹ Ca
- Dòng Kín Nha Trang
- Dòng Filles de la Charité
- Dòng Sœurs de St. Paul de Chartres.
Dòng Địa Phận:
- Dòng Anh Em hèn mọn Thánh Giuse
- Dòng Mến Thánh giá cải tổ
- Dòng Mến Thánh giá không cải tổ
- Dòng Mến Thánh giá Thanh Hóa
- Dòng Mến Thánh giá Vinh
- Nữ tu Kiết tâm Đức Mẹ ở Bình Cang
- Nữ tu Đa Minh Thái Bình.
Kỷ luật nghiêm minh. Tổ chức chặt chẽ. Cơ sở vững vàng. Nhìn vào thấy rõ cảnh giàu mạnh cả vật chất lẫn tinh thần vậy.
C) CÁC TÔN GIÁO KHÁC
- Đạo Cao Đài không được nhiều tín đồ. Trong toàn tỉnh chỉ mới có năm ba thánh thất nho nhỏ. Không gây được ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp Nhân Dân.
- Đạo Tin Lành có cơ sở từ thời Pháp thuộc, nhưng mới phát triển mạnh mẽ trên mươi năm nay. Ảnh hưởng chưa đi sâu vào thôn quê.
Các nhà truyền giáo rất kiên nhẫn và làm việc một cách hăng say. Hễ gặp được một người liệu có thể nghe mình thì quí vị không bao giờ bỏ rơi. Nhờ vậy mà mới một thời gian ngắn, ở Khánh Hòa tại tỉnh lỵ và các quận lỵ đã có nhiều nhà giảng, và người đến nghe giảng cũng khá đông.
1) BÀ THIÊN Y A NA
Ngoài các tôn giáo chính thức có qui củ, có tổ chức hẳn hoi, người Khánh Hòa còn thờ bà Thiên Y A Na. Theo lòng tín ngưỡng của phần đông đồng bào Khánh Hòa thì Bà là hiện thân của Trầm Hương Kỳ Nam là món lâm sản đặc biệt của địa phương, và là vị Phúc Thần phù hộ cho nhân dân sống được yên vui và no ấm. 9
Ngoài tháp Poh Nagar ở Cù Lao, đền thờ Bà ở khắp mọi nơi trong Tỉnh. Các chùa Phật ở thôn quê, thành thị, nhiều chùa thờ Phật ở giữa, thờ Quan Thánh một bên và thờ Bà một bên. Ảnh hưởng của Bà ra đến tận Huế. Các vua chúa thời trước phong tặng Thượng Đẳng Thần. Các quan Tỉnh khi đến nhậm chức phải đến bái yết, và mỗi năm phải đến tế vào dịp xuân. Đền chính thức là Đền Quá Quan ở thôn Xuân Phong 10. Còn làng thì xuân kỳ thu tế. Đồng bào lại cúng hằng tháng vào ngày sóc ngày vọng. Tháng ba âm lịch mỗi năm lại tổ chức lễ Múa Bóng tại tháp Cù Lao rất trọng thể. Gần bốn mươi năm nay, lệ múa bóng và lệ quan Tỉnh tế xuân bãi bỏ. Lệ xuân kỳ thu tế của làng cũng bãi bỏ trên vài mươi năm nay. Riêng đồng bào thì nơi nào có đền có miếu thờ Bà, lúc thái bình cũng như lúc loạn lạc, đều không bỏ khói hương, nhất là rằm và mồng một mỗi tháng. Lòng tin Bà của các thiện nam tín nữ rất vững chắc, so với đức tin Chúa, tin Phật của các giáo hữu Ky Tô, Thích Ca, chưa chắc đã thua. Đối với một số đồng bào, bà Thiên Y đã trở thành một vị Giáo Chủ.
Gần đây lại có phong trào lên đồng. Việc lên đồng lên bóng vốn có tự nghìn xưa. Nhưng chỉ thịnh hành ở Huế và các tỉnh miền Bắc. Từ ngày người miền Bắc di cư vào Nam, người Nam mới bắt chước. Ở Khánh Hòa, các bà đồng phần nhiều là người Huế, và người trong giai cấp thượng lưu. Lên đồng thường thường về ban đêm. Các bà đồng khi lên đồng trông như tiên giáng thế. Môi son má phấn, khăn áo gấm sô. Lại có người chầu văn, giọng hát du dương hòa theo tiếng đàn tiếng địch. Những khi cao hứng bà đồng đứng lên múa nhảy, điệu bộ uyển chuyển nhịp nhàng, trông đẹp không kém những khúc múa trong các đền nữ thần Ấn Độ. Trong cảnh bom dông đạn gió, nhìn vào cảnh tượng thần tiên nầy cũng có thể quên nỗi khổ đau trong một vài trống canh. Cảnh đồng bóng dành riêng cho hàng trưởng giả. Anh chị em bình dân chỉ ham cầu xăm những khi có việc lo ngại. Xăm nhiều khi rất linh ứng, khiến những người kém đức tin cũng không dám không tin.
2) ĐỨC TRẦN HƯNG ĐẠO
Đức Trần Hưng Đạo thường gọi là đức Thánh Trần cũng được nhân dân Khánh Hòa sùng bái. Song một số đồng bào sùng phụng không phải vì ngưỡng mộ vị anh hùng dân tộc đã cứu nước nhà ra khỏi ách đô hộ của người nhà Nguyên. Mà sùng phụng vì Ngài trị được tà ma, chữa được bệnh tật. Nghĩa là đồng bào thờ như thờ một vị thần linh, như thờ ngài Quan Vũ đời Tam Quốc. Thời Tiền Chiến ở Nha Trang chỉ có một đền thờ ở phường Xương Huân. Ở thôn quê không thấy có đền.
Đồng bào thường đến lễ bái vào ngày rằm mồng một. Thỉnh thoảng, nhất là ngày 20 tháng 8 âm lịch tức là ngày húy của ngài, có lên đồng. Người ngồi đồng là đàn ông, khi thì ông từ thừa, khi thì một người « hạp vía » đến lễ vái. Cũng ợ cũng ngáp, cũng múa cũng nhảy, mặt đỏ phừng phừng, mặt ngời sát khí. Người yếu bóng vía không dám đứng gần. Để cho đồng bào thêm tin sự linh hiển của đức Thánh, ông đồng hoặc dùng bùa để nơi đầu lưỡi rồi làm phép cho bùa tự nhiên chạy vào cổ họng như có bàn tay vô hình đẩy hay lôi ; hoặc dùng dây thừng cột nơi cổ mình rồi bảo hai người đàn ông lực lưỡng nắm hai đầu kéo riết thật mạnh ; hoặc lấy que nhọn đâm nơi cổ từ bên nầy lút sang bên kia mà không có tí máu rỉ, và khi rút que ra da thịt lại liền trơn! Đàn ông khiếp hồn, đàn bà vừa hít hà vừa lạy… Ban đầu thì lên đồng và làm phép một cách công nhiên. Sau tòa sứ cho là tà thuật mới sức cấm. Từ ấy ngày sóc ngày vọng, đồng bào chỉ đến xin thuốc và xin xăm.
Đền nhỏ và hiện nay đã cũ lắm. Lại cũng ít người đến lễ bái như ngày xưa. Gần đây đồng bào Bắc Việt di cư lập một ngôi đền mới tại Phước Hải, hương khói ngạt ngào. Ngoài những lễ bái thường lệ, mỗi năm tổ chức một buổi lễ kỷ niệm vào ngày húy nhật của Ngài. Buổi lễ rất long trọng. Có đại diện Hành Chánh Tỉnh và các cơ quan chánh quyền đến dự. Cho nên nghi lễ vừa theo cổ truyền có độc chúc có cử nhạc, vừa theo tân điển có diễn văn có đáp từ. Có thể nói rằng đền đức Thánh Trần vừa là nơi ghi ân vừa là nơi cầu phước vậy.
D) NHO GIÁO
Đạo Nho không phải là một tôn giáo, mà là một con đường tinh thần, thánh hiền vạch ra để người đời đi cho đúng phương hướng, khỏi vấp phải lầm lỗi làm hư thân và hại người. Ông cha ta thờ đức Khổng phu Tử, tứ phối và thất thập nhị hiền, không phải để cầu phước như thờ bà Thiên Y A Na hay thờ Quan vân Trường… mà để treo cao gương đạo đức và để tỏ lòng tri ân.
Đạo Nho truyền sang Việt Nam từ đời nhà Triệu (207-111 trước kỷ nguyên Thiên Chúa). Nhưng mãi đến đời Sỹ Nhiếp (187-226) mới được phổ biến. Và đến đời Hậu Lê (1428-1788) mới được thịnh hành. Rồi từ đời Hậu Lê trở về sau được độc tôn. Từ triều đình đến thứ dân đều coi là quốc giáo.
Đạo Nho thịnh là nhờ học chữ Hán và chữ Hán được dùng trong việc thi cử để chọn nhân tài ra trị nước yên dân. Chữ Hán bỏ, Nam Việt trước, Bắc Trung sau, đạo Nho lần lần suy, không còn cơ chấn hưng nổi. Đó là tình hình toàn quốc.
Riêng về Khánh Hòa: Khi chúa Nguyễn lấy xong đất Chiêm Thành, người Việt Nam đến định cư lập nghiệp, không biết nhà chúa có dùng Nho giáo để hóa dân chăng? Sách vở không thấy nói đến. Sang đời Tây Sơn, trong khi còn lo đánh Nam dẹp Bắc, thân không rời khỏi yên ngựa thanh gươm, thì chắc không có thì giờ nghĩ đến việc văn trị. Qua đời Nguyễn trung hưng, vua Gia Long mới theo lời Đổng trọng Thư dùng đạo Nho để giữ thiên hạ 11. Cho nên nhân dân Khánh Hòa chắc đến đời nhà Nguyễn mới thấm nhuần Nho giáo.
Theo Đại Nam Nhất Thống chí, thì triều Gia Long Khánh Hòa đã lập được hai trường phủ là Diên Khánh và Bình Hòa (tức Ninh Hòa), và hai trường huyện là Vĩnh Xương và Tân Định. Năm Minh Mạng thứ tư (1823) dùng trường Diên Khánh làm trường Tỉnh, nhưng đến năm thứ 10 (1829) vì ít học trò, nên bỏ trường Tỉnh mở trường Phủ trở lại. Năm Tự Đức thứ 19 (1866) lập trở lại trường Tỉnh và bỏ trường Phủ Diên Khánh như thời Minh Mạng.
Từ ấy, Khánh Hòa có một trường Tỉnh, một trường Phủ và hai trường Huyện. Trường Tỉnh thì có Đốc Học, trường Phủ có Giáo Thọ, Trường Huyện có Huấn Đạo trông coi việc giáo dục. Việc học đã được tổ chức thì nhất định phải có Văn Miếu ở Tỉnh và Phủ Huyện nào có người khoa mục thì lập thêm Văn chỉ. Văn miếu do quan Tỉnh đứng lập. Văn chỉ do thân hào nhân sĩ đứng lập. Văn Miếu ở Khánh Hòa dựng năm Gia Long thứ 2 (1803) tại thôn Phú Lộc, phủ Diên Khánh 12. Trùng tu năm Tự Đức thứ 2 (1849).
Ở Khánh Hòa việc học chữ Hán không được thạnh vượng. Trong tỉnh không có người đỗ đại khoa. Cử nhân tú tài cũng không nhiều lắm. Những bậc hay chữ nổi tiếng, những tay cuồng chữ, suốt đời vẫn làm anh bạch diện thư sinh, tuyệt nhiên không nghe nói đến. Đó là do tánh người Khánh Hòa không ham công danh. Lại thêm học cho giỏi rồi phải ra tận Bình Định để thi hương, ra tận Huế để thi hội, thì mất công tốn của, người Khánh Hòa không ưng. Người Khánh Hòa học để biết đọc biết viết, đủ dùng trong công việc cần thiết, học để biết đạo thánh hiền hầu xử thế cho đúng đường đúng lối. Rất ít người lấy việc học làm thang để leo lên đỉnh giàu sang. Nhờ vậy mà phần đông người Khánh Hòa hấp thụ được thực chất của đạo Nho và ít mắc bệnh « văn chương phù phiếm ».
Qua triều Khải Định chữ Hán cáo chung (1918) để nhường chỗ cho chữ Quốc Ngữ chữ Pháp. Đạo Nho ở toàn quốc lần lần đi xuống, xuống mãi không ngừng!
Từ trên nghìn năm, nước Việt Nam lấy đạo Nho làm nồng cốt tinh thần. Đạo Nho suy mà không có đạo nào thay thế cho xứng đáng, thì phong hóa tránh sao cho khỏi suy đồi! Ở Khánh Hòa tuy không đến nỗi:
Nhà kia lỗi đạo con khinh bố,
Xóm nọ quanh năm vợ chửi chồng. 13
Nhưng không làm sao tránh khỏi ảnh hưởng của thời thế. Một số thanh niên tân học, thiếu căn bản đạo đức, bị trào lưu thoái hóa làm mất bản chất thuần phác, và xem thường lời giáo huấn của ông cha. Những người giữ được nho phong thì thường bị chê là cổ hủ. Nhà Nho Thuần Phu Trần khắc Thành ở Nha Trang, và cụ cử Phan bá Vỹ, làm ký lục tòa sứ Khánh Hòa, có nhiều thơ phúng thế. Như:
Học khôn lắm chị theo đàng điếm,
Sợ dại nào ai dám thật thà.
(P.B. Vỹ)
Thầy xưa hết dạ rèn nhân nghĩa,
Đời mới nào ai học hiếu trung.
(T. K. Thành)
Một hôm nhớ là ngày lễ thanh minh năm Bính Thìn (1936) mấy thầy phán tòa sứ Nha Trang đến chơi nhà cụ cử Trần trọng Hoàng, một vị huấn đạo hưu trí, ở đường Hoàng tử Cảnh. Trong câu chuyện có bàn đến chữ Hiếu. Một thầy Phán là Trần G… người Ninh Hòa nói: « Khi cha mẹ lại với nhau là để thỏa mãn sự đòi hỏi của xác thịt. Rủi hay may sanh con ra. Sanh ra thì phải nuôi nấng. Đó là bổn phận. Tại sao lại buộc con phải có hiếu »? Cụ cử vốn là người hòa nhã và rất chiều khách. Thế mà vừa nghe hết câu nói, phừng phừng nổi giận, đứng dậy thét đuổi thầy phán ra khỏi nhà! Thuần Phu Trần khắc Thành liền ứng khẩu:
Xì xồ học chữ Tây,
Đạo nghĩa nói thêm rầy!
Không biết ơn cha mẹ,
Khác gì loài cỏ cây!
Lòng người suy đến thế,
Gốc đạo giữ sao đây?
Thương ông huấn ông giáo, 14
Mãi nhớ thuở làm thầy!
Hán học bỏ, đạo học suy, Khổng miếu cũng trở thành hoang vắng!
Thời Ngô đình Diệm (1955-1963), một số nhân sĩ trong nước đứng lên phát động phong trào chấn hưng Khổng Giáo. Hội Khổng Học toàn quốc dưới sự nâng đỡ của Chánh Quyền thành lập. Nhiều tờ tạp chí ra đời để xiển dương Nho giáo, như Cổ Học Quí San, Minh Tâm, v.v… và nhiều Khổng miếu xây cất ở các tỉnh lỵ đông người.
Ở Khánh Hòa, văn miếu ở Phú Lộc vẫn đứng đìu hiu bên dòng thệ thủy. Nhưng ở Nha Trang, một ngôi đền mới đã thành lập theo kiểu thức mới, đồ sộ khang trang. Nhìn vào, ai cũng tưởng Nho giáo ở Khánh Hòa đã có cơ quang phục. Nhưng lập được đền, đâu đã phải chấn hưng được Đạo.
Đạo đức cổ truyền hơn nửa thế kỷ bị vùi lấp, dễ gì lấy lại được ánh sáng trong một mai một chiều. Huống hồ người trong hội phần nhiều là người tuổi cao sức yếu, lại thiếu thốn đủ mọi mặt, thì dù có tận tâm tận lực, kết quả cũng chỉ là việc « dã tràng xe cát biển đông ». Đó là tình trạng chung trong toàn quốc chớ không phải riêng tỉnh Khánh Hòa.
Tinh thần Nho giáo đã ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Cho nên dù không kẻ hộ trì, Đạo vẫn không mất hẳn. Và tuy không người hướng dẫn, kẻ hậu sinh vẫn mò mẫm đi trên con đường đã lấp cỏ mờ rêu của cổ nhân. Nhiều khi đi mà vô tình không biết. Và vì không biết rõ con đường mình đi có phải là đường chính, nhiều người mất lòng tin tưởng, ngã theo những con đường tà có bóng dạng rừng mát suối trong. Bởi vậy nếu có người đủ tài đủ đức đủ phương tiện đứng ra cổ võ, thì việc phục hưng Nho giáo không đến nỗi khó khăn.
V. KINH TẾ
Cũng như hầu hết các tỉnh ở Trung Việt, nền kinh tế tỉnh Khánh Hòa chưa được mở mang. Nhân dân sống về nghề làm ruộng, nghề làm biển, nghề làm gỗ súc và tiểu công nghệ… Thể thức làm việc, kỹ thuật làm việc, phần nhiều đều theo lối cổ truyền. Xưa bày sao nay làm vậy! Do đó công sức nhiều, năng xuất ít. Tuy vậy nguồn lợi vẫn đủ nuôi sống người Khánh Hòa một cách phong lưu nếu sưu đừng cao thuế đừng nặng.
A) NÔNG NGHIỆP
1) LÚA LÀ HOA MẦU CHÍNH
Đất có nhiều phù sa rất thích hợp với lúa. Hiện có 32.100 ha ruộng đất đã cày cấy từ lâu. Ruộng chia làm hai loại: Ruộng hai mùa và ruộng một mùa. Hai mùa là mùa tháng ba và mùa tháng tám. Mùa tháng ba cấy vào tháng chạp âm lịch. Mùa tháng tám cấy vào tháng 5 âm lịch. Giống lúa thường dùng là lúa mắt cu, lúa gòn trắng, lúa ba thóc.
Chỉ những nơi có phương tiện dẫn thủy nhập điền mới làm được hai vụ. Còn những nơi ở xa sông ngòi, chỉ ăn nhờ nước trời, thì mỗi năm chỉ làm một vụ, hoặc gieo hoặc cấy vào lối tháng chín và gặt vào tháng chạp.
Giống lúa thường dùng là lúa đồng nai, lúa gòn đỏ và lúa gòn sẻ.
Người Khánh Hòa làm ruộng không dụng công bằng người Bình Định, Quảng Ngãi. Không cày sâu cuốc bẫm, phân cũng không bỏ nhiều, nước cũng không phải tát đến hai ba đợt sòng. Anh em nông dân bản tánh, cũng thích nhàn như anh em sĩ tử. Nhưng nhờ đất tốt, nước thường, nên công ít hơn Bình Định, Quảng Ngãi mà quả không thua. Nếu như bà con Khánh Hòa ra sức làm lụng như bà con Quảng Ngãi (Bình Định phải nhượng Quảng Ngãi) thì mức sản xuất tăng gấp đôi.
Mức sản xuất hiện thời là mức trung bình. Năm 1962 trở về trước mỗi năm thu hoạch trên 58.000 tấn lúa.
Trước khi có đồng bào di cư đến, thì số lúa đó đủ nuôi sống toàn dân trong tỉnh. Nhưng hiện nay phần đồng bào các nơi dồn tới, phần nhiều làng mất an ninh mùa màng phải bỏ, nên phải cần gạo tiếp tế mỗi năm vào khoảng 17, 18 tấn gạo trở lên.
2) HOA MẦU PHỤ
Ngoài lúa là nông sản chính, Khánh Hòa còn nhiều hoa mầu phụ lúc bình thường cũng đủ cung ứng cho nhu cầu địa phương. Theo bảng thống kê của Chánh quyền năm 1962 thì:
- Bắp trồng trên 972 hectares và thu được 845 tấn.
- Mì trồng trên 101 hectares và thu được 909 tấn.
- Lang trồng trên 375 hectares và thu được 2898 tấn.
- Đậu trồng trên 493 hectares và thu được 307 tấn.
3) CÂY KỸ NGHỆ
Nông sản kỹ nghệ sản xuất nhiều nhất ở Khánh Hòa là thuốc lá. Trồng trên 1.732 hectares và thu được 686 tấn mỗi năm. Thuốc phơi khô bán cho các hãng làm thuốc điếu ở Saigon. Ngon nổi tiếng là thuốc Gò Cà thôn Hội Phước (Diên Khánh) và thuốc Nam Yên (Ninh Hòa). Sau thuốc đến cao su. Trồng trên 500 ha. Mỗi năm thu được 280 tấn. Còn dừa, mía và bông vải thì chỉ đủ dùng ở trong Tỉnh chớ không bán ra ngoài như thuốc và cao su. Dừa và mía tuy thuộc về cây kỹ nghệ, nhưng ở Khánh Hòa dùng tươi nhiều hơn là dùng làm dầu, làm đường.
4) TRÁI CÂY
Đất Khánh Hòa đã tốt, khí hậu lại ôn hòa, nên vườn nào cây cối cũng sum sê. Cây ăn trái có nhiều giống. Các giống ở Trung Việt có, hầu hết ở Khánh Hòa đều có. Nhiều nhất là:
- Cam vừa lớn trái vừa ngọt.
- Thanh long, cây thì mềm yếu, phải nương vào những cây lớn mới sống nổi, thế mà trái có khi lớn bằng trái thơm. Vị rất đặc biệt. Cam thì Khánh Hòa còn nhượng một vài tỉnh, như nhượng cam Xã Đoài là một. Còn Thanh long thì chắc không đâu hơn nổi, mà dường như không đâu có là phải. Phan Rang và Bình Định mới đem giống từ Khánh Hòa về trồng nhưng trái nhỏ và thịt ở trong không được chắc, sắc ở ngoài không được tím thắm và láng bong như Khánh Hòa. Thanh long Khánh Hòa chưa ăn đã thấy mát ruột.
- Mãng Cầu và ổi cũng là giống trái cây vừa nhiều vừa lớn ở Khánh Hòa. Trước kia trong vườn chỉ trồng năm ba cây cho vui. Hiện thời trồng từng vườn từng đám. Ổi, mùi cũng như vị không khác gì các nơi. Còn mãng cầu thì phải nhượng Phan Thiết về phẩm. Bởi mãng cầu Phan Thiết chất giẻo hơn và vị ngọt thanh hơn. Nhưng có để ý mới nhận thấy, vì mức chênh lệch chỉ bên 8 bên 10.
- Thơm cũng là một thứ trái đáng kể mặc dù không có nhiều lắm. Đáng kể vì có chỗ đặc biệt, là ít mắt lại ngọt thanh, ăn nhiều không rát lưỡi. Thứ thơm đặc biệt ấy chỉ Vạn Giã mới có. Thời Pháp thuộc, lúc đường hỏa xa chưa đi suốt từ Saigon đến Hà nội, hành khách phải dùng đường ô tô, thì đi ngang qua Vạn Giã thì không mấy ai là không nếm thơm, và thơm Vạn Giã chưa hề bị mang tiếng là chua hay không ngọt. Nhưng những bạn dân thiên tri vị bảo thơm Vạn Giã còn thua thơm Tam Kỳ một bậc là mắt còn lớn, phải xắn bỏ nhiều cơm. Thơm Tam Kỳ mắt chỉ rí rí và rất thưa. Bởi thế tục có câu nói về thơm: Nhất Tam Kỳ, Nhì Vạn Giã.
- Mía vì tánh chất mà phải sắp theo thứ cây kỹ nghệ theo thông lệ xưa nay. Chớ trên thực tế thì mía Khánh Hòa chưa hề bị tay của các kỹ nghệ gia đụng đến. Hiện nay mía dùng để uống. Trước kia chưa sản xuất thứ xe nước mía, thì mía dùng để ăn. Ở các tỉnh, mía ăn trồng vườn. Mỗi vườn năm ba bụi. Mía trồng vườn đều là mía voi, vỏ hoặc vàng hoặc tía, cây lớn bằng cổ tay, cao lút đầu. Còn mía làm đường thì trồng ngoài soi và trồng từng đám. Trồng mía sẻ, cây lớn bằng ngón cẳng cái, vỏ trắng mông mốc và cứng. Ăn chơi vừa rát lưỡi vừa mỏi răng. Khánh Hòa ít ai trồng mía sả. Trồng toàn mía voi và trồng từng đám. Nhiều nơi, ruộng không thèm cấy lúa, mà chỉ trồng mía, một năm thu lợi một lần, lợi hơn lúa. Mía ở Khánh Hòa thân mướt, vỏ vàng hươm và răng ông già bà lão sáu mươi vẫn xiết được. Nước mía lại ngọt thanh. Nổi tiếng nhất là mía Phú Ân. Mía Phú Ân cùng thơm Vạn Giã đã giúp cho các nhà vận động cách mạng thời Pháp thuộc làm ra rất nhiều câu ca tuyên truyền ngọt ngào ý vị. Như:
I.
Thơm Vạn Giã ngọt đà quá ngọt,
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon.
Hỡi người chưa vợ chưa con,
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Quản bao lên thác xuống gành,
Mía ngon thơm ngọt đượm tình nước non.
II.
Ai ra Vạn Giã
Nhắn ả bán thơm:
Thế gian lắm miệng lắm mồm,
Nói đông thì ngọt nói nồm thì chua!
Thôi đừng uổng tiếng hơn thua,
Gắng sao bán được đầu mùa là hay.
III.
Mía Phú Ân trồng đám,
Đám đám như rừng…
Chợ chiều buôn gánh bán bưng,
Rủi có sâu vài đốt, khuyên anh đừng vội chê.
Trăm năm giữ vẹn lời thề,
Mưa đông vẫn ngọt, nắng hè càng thanh.
- Cũng như mía, dừa tuy thuộc vào hàng cây kỹ nghệ, song trên thực tế cũng là một món thực phẩm ưa thích của du khách đến Khánh Hòa. Dừa nấu dầu thì để già và dùng cơm (coprah). Dừa ăn trái thì hái non và dùng nước. Nước dừa rất bổ. Thời kháng chiến chống Pháp, trên nơi rừng rú thiếu thuốc, nước dừa thay thế cho sérum. Thời bình thì nước dừa dùng để giải khát. Ngon nhất là nước dừa Xiêm. Dùng nước dừa thường thường chặt vỏ rồi rót ra ly. Lắm lúc lại bỏ thêm nước đá và đường cát. Người rành uống nước dừa không làm thế. Bởi uống nước dừa cũng như uống trà uống rượu, phải biết cách uống mới thưởng thức trọn được chân vị chân hương.

Nghề chơi cũng lắm công phu! Phải biết cách chặt. Không nên lấy rựa mà bằm đến năm bảy lát. Cũng không nên chặt thẳng xuống làm cho miệng dừa quá rộng và mặt dừa bằng thiến như mặt mâm. Phải dùng dao hay rựa thật bén, vạc xiêng xiêng phía bên nầy một phát phía bên kia một phát. Mỗi bên một phát thôi, một phát ngọt lịm và thẳng băng, nhưng chỉ đứt tiện lớp vỏ xanh bên ngoài. Còn lớp cơm bên trong thì giữ nguyên vẹn. Lớp cơm mỏng và vừa trắng vừa trong, bịt kín lấy miệng dừa chỉ lớn bằng đầu ngón tay cái.
Cách chặt dừa về phần chủ dừa. Cách uống về phần người uống. Trước hết phải lựa chỗ ngồi. Nên ngồi dưới bóng dừa, tàu dừa xanh làm chiếu, gốc dừa làm lưng tựa. Rồi hai tay bưng lấy quả dừa đưa lên miệng. Miệng mình gắn vào miệng dừa, lấy lưỡi xé lớp cơm mỏng, rồi thưng thưng chậm chậm nút nước. Lòng mở rộng, mắt lim dim, để nước dừa từ từ đi vào cổ đi vào bụng… thấm vào tim gan, vào xương thịt. Một hơi mát đê mê chạy khắp châu thân. Mình không còn phân biệt rằng mình nút nước dừa vào lòng mình, hay quả dừa đã nút mình vào lòng hắn. Tất cả những gì ở ngoài thân đều quên, và trong thân chỉ còn có cảm giác mát và ngọt, dịu dịu trong trong…
Một lần mình đã tận hưởng thú uống nước dừa rồi, không cần thật sự hưởng một lần thứ hai nữa. Mỗi khi nhớ đến, chỉ nhắm mắt tưởng tượng cũng đủ khoan khoái cả người.
B) LÂM SẢN
Khánh hòa có rất nhiều rừng rú. Nhưng nhiều khu rừng già chưa được khai thác vì thiếu đường vận xuất sơn xuyên. Diện tích trong toàn Tỉnh ước độ 450.000 ha. Tám khu đã qui định thành lâm phần. Diện tích tổng cộng là 137.517 ha. Mỗi năm mức sản xuất ước lượng chừng:
- Gỗ 12.000 thước khối
- Lá kè 50.000 lá
- Mây 1.600.000 sợi
- Than 2.000 tấn
- Vỏ nâu 9.000 ký.
Số gỗ sản xuất không đủ cung ứng nhu cầu trong Tỉnh, nên phải mua thêm mỗi năm đến trên dưới 12.000 thước khối của Cao Nguyên Trung Phần.
Thứ gỗ nhiều nhất ở Khánh Hòa là Gỗ Giáng Hương, chất cây cứng chắc, sắc vàng pha đỏ, rất tươi. Rồi đến gõ, trắc, sao, son. Đều là danh mộc. Về mây thì có thứ mây hoa gọi là hoa đằng, lớn bằng cườm tay, bằng ngón chân cái. Da vàng điểm những chấm đen. Lóng vắn và nhặt. Dùng làm gậy và ghế ngồi. Ở Ninh Hòa, núi Phước Hà có nhiều mây hoa, nên có một ngọn mang tên là Hòn Hèo (gậy mây gọi là hèo), và núi có tên chữ là Hoa Đằng Sơn.
Khánh Hòa có một thứ lâm sản hết sức quí. Nhưng quí không phải là một nguồn lợi của nhân dân địa phương mà vì là một sản phẩm đặc biệt đã làm cho Khánh Hòa thơm danh trong nước và ngoài nước. Đó là: Trầm Hương.
Quí vật nầy không phải riêng Khánh Hòa mới có. Các nơi núi cao rừng rậm, như Phú Yên, Bình Định… đều có, song không nhiều và không tốt bằng Khánh Hòa. Cho nên hễ nói đến Trầm hương là nói đến Khánh Hòa, mà nói đến Khánh Hòa là nói đến Trầm hương. Do đó Thi nại Thị có mấy vần ca:
Khánh Hòa là xứ trầm hương,
Non cao biển rộng người thương đi về.
Yến sào thơm ngọt tình quê.
Sông sâu đá tạc lời thề nước non. 15
Trầm hương là kết tinh của giống cây Chử tục gọi là cây gió, và chia làm hai loại là:
- Kỳ tức là Kỳ nam.
- Trầm tức là trầm hương dùng theo nghĩa hẹp.
Người nhà nghề bảo rằng kỳ do cây gió bầu sanh ra, trầm do gió lưỡi trâu, gió cam sanh ra. Nhưng sự thật thì kỳ là thứ trầm có nhiều dầu, còn trầm là thứ kỳ có ít dầu. Trong những cây gió có trầm thỉnh thoảng vẫn có kỳ và trong những cây gió có kỳ luôn luôn có trầm bao chung quanh hoặc ở bên cạnh. Thường thường kỳ ít có, và khi có cũng có ít hơn trầm. Kỳ đối với trầm cũng như ngọc thạch (diamant) đối với đá thủy tinh (cristal de roche). Kỳ và trầm phân biệt nhau ở hình chất và khí vị:
- Trầm chất cứng và nặng, vị đắng. Kỳ nhẹ và mềm, vị lại đủ cay chua ngọt đắng.
- Trầm mùi ngát, kỳ mùi thanh. Khói trầm bay vòng quanh rồi tan ra, khói kỳ bay thẳng và cao vút.
Dược tánh của đôi bên cũng có chỗ khác:
- Trầm dùng giáng khí, tức là đem khí hạ xuống.
- Kỳ dùng trị các chứng phong đàm: Mài với nước mà uống hay đốt xông vào lỗ mũi. Trị các chứng đau bụng cũng rất hay: chỉ ngậm trong miệng cho tiêu rồi nuốt. Nhiều khi hiệu nghiệm như thần.
Trầm và kỳ còn đuổi được khí tà độc, khí ô uế. Trầm thì đốt lên. Kỳ chỉ đeo vào mình cũng đủ. Nhưng đàn bà chửa rất kỵ kỳ nam. Không nên cho uống hoặc mang theo trong người. Nếu không kiêng có khi bị sẩy thai. Còn trầm thì vô hại. Trầm và kỳ đem ví với đá thì là thủy tinh và kim cương. Còn đem ví với người thì là bình dân và trí thức.
Trí thức và bình dân chia ra nhiều hạng thì kỳ và trầm cũng chia nhiều hạng như người. Kỳ có bốn thứ, giá trị phân định rõ ràng trong câu ngạn ngữ: « Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc ».
- Bạch kỳ nam, sắc trắng chất mềm và rất nhiều dầu.
- Thanh kỳ nam, màu hơi xanh xanh, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng.
- Huỳnh kỳ nam, màu vàng như sáp ong, chất cứng và nặng. Để lâu khô dầu trở nên nhẹ.
- Hắc kỳ nam, sắc đen chất cứng. Nhưng chỗ nhiều dầu lại mềm như bạch kỳ nam.
Kỳ nam thường dùng làm thuốc. Rất đắt. Từ 1960 trở về trước giá thị trường từ 3.000$00 đến 8.000$00 một ký.
Trầm hương ít dùng làm thuốc, thường dùng để đốt trong những buổi cúng tế, trong những ngày lễ lạc, trong những khi yến tiệc chốn đài các phong lưu. Giá trị thua kỳ nam, nhưng được thông dụng hơn. Giá bán lên xuống không thường, cao nhất là 3.000$00 một ký (giá từ 1960 trở về trước). Trầm chia làm bốn loại:
- Trầm mắt kiến, có lỗ có hang do kiến đục làm tổ trước khi cây thành trầm.
- Trầm rễ do rễ cây sanh ra.
- Trầm mắt tử kết tạo trên nhánh cây.
- Trầm tốc ở nơi thân cây.
Trầm tốc có nhiều nhất và trên thị trường chia ra làm nhiều thứ giá bán khác nhau:
- Tốc hoa, màu vàng lợt có những chấm lốm đốm như hoa.
- Tốc nước, màu vàng lợt, chất ươn ướt và nặng.
- Tốc xám, màu xam xám như tro.
- Tốc lọ nghẹ, màu đen đen như bồ hóng.
- Tốc đá, nặng và trông hình sắc như đá.
- Tốc ớt, sắc vàng lợt, vị cay như ớt xiêm.
- Tốc hương, sắc vàng lợt, hương đượm, thường bao chung quanh kỳ nam, cho nên có nhiều gân nhiều điểm kỳ nam lẫn vào. Nếu dầu nhiều thêm thì tốc trở thành kỳ. Tốc hương thơm hơn các thứ tốc khác.
Trầm hương (kỳ và trầm) do cây gió sanh ra. Đó là việc trước mắt. Còn vì sao lại riêng cây gió sanh được trầm hương còn các giống cây khác lại không có, và trầm hương kết tạo cách thế nào, do tinh ba của cây kết tụ lại mà hình thành hay do một chất hương ở ngoài bay vào thân cây rồi cùng nhựa cây tạo tác, thì chưa người nào, chưa có sách vở nào giải thích cho đích đáng.
Người thì bảo rằng: Hương trời bay theo gió đáp vào thân cây, ban đầu dính ngoài vỏ rồi ăn lần vào thịt, rồi nhờ chất nhựa của cây biến chế và di chuyển đi nhiều nơi. Lâu ngày thịt cây thấm hương thành trầm. Và trầm biến thành kỳ nam do phân chim rơi nhằm, hoặc do một thứ nấm bám vào.
Người lại bảo: Cây gió sanh trầm hương cũng như con trai sanh ngọc. Nhánh cây, thân cây hoặc rễ cây bị thương tích. Chất dầu trong cây tụ tập để chống lại sự phá hoại của vết thương. Khi vết thương lành rồi thì chất dầu đọng lại đó dần dần thay tánh chất của gỗ và tạo thành trầm hương. Chỗ nào dầu đọng nhiều thì thành kỳ, chỗ nào dầu đọng ít thì thành trầm. Và do vị trí cùng « cơ cấu xã hội » của từng đoạn trong thân cây mà sanh ra nhiều thứ kỳ nhiều thứ trầm.
Đó chỉ là ức đoán chớ chưa ai ra công nghiên cứu kỹ càng. Cho nên đành biết đại khái rằng trầm hương từ nơi cây gió mà sinh ra. Nhưng không phải cây gió nào cũng sanh trầm hương. Có nhiều cánh rừng cây gió mọc đầy nhưng xưa nay chưa hề nghe nói có trầm hương. Thường thường trong một cánh rừng thăm thẳm chỉ có một vài cây gió có trầm hương. Và những cây gió có trầm hương đều là những cây sống đã lâu đời, thân cao ngó trật ót, gốc lớn đến hai ba người ôm. Những cây có trầm hương thường bị xơ xác và thân có u có nầng. Lắm cây nổi phồng ra như « ruột chửa », hoặc như bắp chuối. Trong rừng có cây trầm hương thì thỉnh thoảng có mùi hương phảng phất. Người đi điệu (tức đi tìm trầm) nhờ mùi hương và nhờ hình thù của cây mà tìm ra được trầm hương.
Tìm ra được trầm hương không phải là việc dễ. Người Khánh Hòa, nhất là người đi điệu, tin rằng trầm hương là của bà Thiên Y A Na. Bà cho ai thì người ấy được. Bằng Bà không cho thì dù đứng một bên cũng không tìm thấy. Có đôi kẻ có phước, không cố tâm đi tìm mà tự nhiên Bà cho hưởng lộc. Lại truyền rằng Bà có 4 cây trầm hương kỳ cựu trấn bốn phương:
- 1 ở Đồng Bò trấn phía Nam
- 1 ở Hòn Bà Ninh Hòa trấn phía Bắc
- 1 ở Hòn Dữ Diên Khánh trấn phía Tây
- 1 ở Suối Ngổ trấn phía Đông.
Những cây trầm nầy không còn lá không còn dác, mưa nắng không thể làm hư mục được. Và có chim rừng canh, cọp rắn giữ. Hễ ai trông thấy mà có ý muốn chiếm hữu thì liền bị « lính canh giữ của Bà » đánh đuổi.
Bởi vậy trước khi đi tìm trầm, người đi điệu phải dâng lễ cầu khấn Bà, và trong những rừng nào có nhiều cây gió đều có miếu có am thờ Bà do những người đi điệu lập, để tiện việc cúng kính trước khi nhập lâm. Người đi điệu toàn là đàn ông vì đàn bà một là không thể xông pha nơi rừng sâu núi thẳm, hai là người nhà nghề tin rằng trầm hương kỵ khí âm. Bởi dẫn thân vào nơi nguy hiểm, người đi điệu rất thận trọng. Ngày ra đi phải lựa chọn kỹ càng. Chẳng những là ngày lành mà còn phải hạp với người cầm đầu tục gọi là Điệu Bầu. Mỗi Điệu Bầu có một tốp riêng và mỗi tốp có một khẩu hiệu riêng để biết đường đi về và khỏi trùng đường cùng các tốp khác. Đi tìm trầm phải đi lâu ngày và phải vào sâu trong rừng trong núi. Nên ngoài lương thực chuẩn bị đầy đủ, người đi điệu phải mang theo thuốc trừ lam chướng, trị bịnh hiểm nghèo và phòng rắn rít. Thuốc đó gọi là Ngải.
Ngải là một loại thảo giống như cây nghệ cây huỳnh tinh, cao chừng một thước, củ giống như củ riềng, bên trong hơi vàng và bay mùi long não. Có nhiều giống. Giống người đi điệu dùng là giống ngải rừng tục gọi là Ngải mọi. Họ lấy củ về chế ra thuốc. Cách chế thế nào chỉ riêng người điệu bầu biết mà thôi. Có người bảo rằng chính điệu bầu cũng phải mua nơi người Chàm, vì chỉ người Chàm mới biết chế. Khi vào rừng, người đi điệu ngậm ngải vào miệng. Cho nên tục có câu « Ngậm ngải tìm trầm ».
Người đi điệu tìm ra trầm nhờ ngửi thấy mùi hương, và nhờ nhận thấy hình thù cây gió « có lộc ». Nhưng nhiều khi ngửi thấy mùi hương đó mà tìm không ra cây trầm hương. Lắm khi nhìn thấy dấu trầm hương phát hiện rõ ràng, mà khi đốn cây xuống, bừa ra, lại chỉ thấy dăm với gỗ gió. Cho nên nhiều khi đi không rồi cũng về không. Cũng có lắm người một đi không trở lại. Truyền rằng có người vào rừng lâu ngày hết ngải, không biết đường về, lần lần hóa thành cọp. 16
Dưới triều nhà Nguyễn, việc tìm trầm không phải là việc làm ăn tự do của người dân. Triều đình nhận thấy miền núi nào sản xuất trầm hương thì đặt các đội canh tuần và buộc những người đi điệu đi lấy về nạp. Những người lấy trộm, hoặc đi lấy được về không nạp đủ cho quan, thì bị tù tội. Mỗi năm cứ tháng 2 âm lịch thì đi vào rừng, tháng 6 trở về. Lấy được nhiều thì được thưởng nhiều, lấy ít thì thưởng ít. Có thưởng lẽ tất nhiên có phạt.
Khi thực dân Pháp đã nắm chủ quyền ở Việt Nam thì lâm chánh không còn nằm trong tay Nam triều, lệ bắt dân Khánh Hòa lấy trầm nạp cho vua quan bãi bỏ. Các người đi điệu được tự do ngậm ngải tìm trầm. Nhưng khi gặp được cây trầm đâu có được tự do đốn lấy. Phải xin phép sở kiểm lâm. Chầu chực ngày nầy sang ngày khác, cực khổ và tốn kém trăm bề! Nếu tự tiện hạ cây, rủi ro gặp lính tuần phòng thì chẳng những trầm không được lấy mà còn bị phạt bị tù là khác! Ách thực dân lại còn nặng hơn ách phong kiến bội phần.
Tuy vậy người đi điệu vẫn có trầm để bán. Thường bán cho người Tàu. Vì một là người Tàu nhiều tiền, hai là khỏi bị tiết lộ. Giá bán cho người Tàu, so với giá thị trường cũng do người Tàu định, in như « cám với vàng ». Nhưng may gặp được một cây trầm hương lơn lớn, anh em đi điệu cũng đủ no cơm ấm áo quanh năm. Vì một cây gió có trầm hương, ngoài kỳ và trầm ra, những dác ở chung quanh, gọi là hương giai, bán cũng được tiền lắm. Người ta mua về làm nhang. Nhiều khi lấy trọn cả cây không bỏ một nhánh. Có nhiều khúc trầm hương rất lớn, lớn đến ba bốn búng tay và cao đến hai ba gang thẳng. Được những bắp trầm hương như thế thì phát tài to. Có thể gọi trầm hương là mộc anh.
Chẳng những riêng người Việt Nam mới quí. Người Nhật, người Tàu, người Ấn, cả người Âu Châu cũng quí vô cùng. Nhiều quyển sách ngoại quốc đã nói về trầm hương và khen trầm hương Việt Nam tốt nhất. Giáo sĩ Đắc Lộc (Alexandre de Rhodes), người đã chỉnh đốn chữ Quốc ngữ, lại bảo rằng « Chỉ Việt Nam mới có kỳ nam » tức là gián tiếp bảo rằng các nước chỉ có thứ trầm hương hạng nhì mà thôi. 17
Chỉ có Việt Nam mới có kỳ nam. Và kỳ cũng như trầm ở Việt Nam tốt nhất lại là kỳ trầm của Khánh Hòa. Chẳng những người đi điệu bảo thế, mà sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Cao xuân Dục và sách Tạp Lục của Lê quí Đôn cũng đều công nhận là thế.
Như thế, bảo « Khánh Hòa là xứ trầm hương » tưởng không có gì quá đáng. Ở Khánh Hòa hễ quận nào có rừng già là có trầm hương. Nhưng sản xuất nhiều nhất là Ninh Hòa và Vạn Ninh. Và có tiếng nhất là trầm hương Vạn Giã, quận lỵ của Vạn Ninh. Có tiếng vì nhiều và tốt. Ca dao Khánh Hòa có câu:
Cây quế Thiên Thai mọc ngoài khe đá,
Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm.
Đôi đứa ta như quế với trầm,
Trời xui đất khiến sắc cầm gặp nhau.
Việt Nam là nơi sản xuất trầm hương, và ở Khánh Hòa nhiều khi lấy được những gốc trầm to. Nhưng chưa từng nghe có vị vua chúa nào dùng trầm hương cất đình dựng các. Có lẽ tự cổ chí kim chỉ có Đường minh Hoàng mới đủ điều kiện chủ quan và khách quan để lập trầm hương đình nơi Hoa Thanh cung cho người khuynh quốc thưởng danh hoa và mình ngồi đối tiếu.
Ở Khánh Hòa, nhà đôi vị phú trưởng giả thường có những bắp trầm hương chạm tỉa thành hình tháp, hình non bộ, và những tượng Phật, tượng bà Thiên Y bằng kỳ nam đen. Cũng có người dùng những khúc trầm, kỳ lớn, làm gối nằm, vừa thơm, vừa trị được tà khí uế khí, lại vừa giữ được kẻ gian. Kẻ gian đối với những nhà có những khúc trầm lớn thật đáng sợ. Nhưng không đáng sợ bằng những kẻ có quyền thế trong tay! Cho nên tượng, tháp, non bộ, gối nằm… có thì dấu kỹ. Chỉ với người chí thân mới dám đem cho xem.
Trầm là bạn của khách phong lưu. Nhưng ở Khánh Hòa khách phong tao cũng như đồng bào lao động chỉ dùng trầm trong việc lễ bái. Không mấy ai dùng để gây thêm sinh thú, gây thêm hứng vị cho đời sống tinh thần. Như đốt trầm ngồi đọc sách, ngồi gảy đàn, đốt trầm để cho « hương gây mùi nhớ » trong lúc « trà khan giọng tình ». Đó là do bản tánh người Khánh Hòa vốn ưa thực tế chớ không thích phù ba.
Cho nên sống trong xứ trầm hương, Khánh Hòa không có người nghiện trầm hương. Trái lại nhà thơ đất Hà Tiên là Đông Hồ lại nghiện hương trầm như người nghiện hương phù dung. Trong nhà luôn luôn trữ trầm. Lại ra công tán trầm thành bột, nắn ra những búp tháp nho nhỏ bằng ngón tay, để đốt cho xinh và cho tiện. Rất tiếc thi nhân không sống ở Nha Trang, để rủi khi khan hiếm trầm hương, khỏi bị nhức đầu sổ mũi. Bởi trong gió Khánh Hòa mùa nào cũng có hương trầm « ẩn hiện ». Người thức khuya thường hay bắt gặp lúc trời trong. Định Phong có mấy câu làm chứng:
Song khuya thoảng ngọn gió trầm,
Bàng hoàng nhớ thuở tri âm đợi chờ…
Trăng vàng lơ lửng buông mơ,
Vô tình khẽ lật đôi tờ cổ thi.
Dịu dàng gió lại bay đi,
Trầm riêng gởi bóng Dương Phi thẫn thờ.
Trăng năng lần tỉnh giấc mơ,
Hồn hương lai láng trên tờ cổ thi.
Trong núi rừng Khánh Hòa còn đôi sản phẩm nữa cũng đáng kể. Như:
- Tô Hạp Hương: Một thứ nhựa cây, cây Tô Hạp, mùi thơm như nhựa thông, dùng làm thuốc trị tà khí. Ngày xưa dùng Tô hạp hương xông ướp xiêm y, trước để tránh tà khí sau để cho thơm. Trong thơ văn về giai nhân thường nói đến. Như: « Tê châu phòng đởm khiếp ; Tô hạp tá y hương ». Nghĩa là: « Đeo ngọc tây ngu phòng lúc sợ hãi, ướp tô hạp để mượn mùi hương cho áo ». Sản xuất nhiều nhất tại Cà Tuân (Ka Tung). Ở Cam Lâm có một nơi sản xuất cũng rất nhiều nên mệnh danh là Tô Hạp. Vùng nầy thời kháng chiến chống Pháp nghĩa quân dùng làm mật khu. Hiện nay đã bị tàn phá. Tô hạp hương không biết có còn chăng.
- Mã Tiền Tử: tức là hột mã tiền (hột cổ chi) – chất đắng và độc – dùng làm thuốc trị phong. Cây mã tiền chẳng những trên núi trên rừng mới có, nơi đồng bằng cũng có nhiều, nhất là nơi chùa chiền am miếu.
- Thương Diệp hay Bối Diệp: tục gọi là lá Buôn dùng làm nệm, chiếu. Cọng bền dẻo dùng làm cán cung, vòng cung. Lá bối nhà chùa dùng chép kinh ngày xưa không biết có phải thứ nầy chăng. Ở Ninh Hòa sản xuất nhiều.
- Hoa Đằng: tức mây bông. Cây lớn bằng cổ tay, sắc vàng có những đốm đen trông như hoa. Dùng làm hèo, làm ghế, rất bền. Trong dãy núi Phước Hà có rất nhiều, cho nên Phước Hà còn có tên nữa là Hoa Đằng Sơn. Trong dãy có một ngọn mang tên là Hòn Hèo vì nhiều mây bông nhất. (Thường thường người địa phương cũng gọi dãy Phước Hà là Hòn Hèo). Núi ở Ninh Hòa.
Đó là những sản phẩm do thảo mộc sanh. Còn những sản phẩm do thú vật cung cấp khá nhiều, như:
- Mật ong, sáp ong
- Nhung nai, gạc nai
- Ngà voi
- Thỉnh thoảng có cả tê giác tức sừng tây ngu.
Xem qua cũng đủ thấy rằng lâm sản của Khánh Hòa rất phong phú. Nếu ra công khai thác, thì cũng có thể góp phần vào nền tài chánh, kinh tế của Khánh Hòa một cách « đắc lực ».
C) HẢI SẢN
Khánh Hòa là xứ non cao biển rộng. Mà non đã có nhiều lâm sản, nhiều lâm sản quí báu, thì biển tất cũng có nhiều hải sản và cũng có nhiều bảo vật như non:
Trước hết là Cá: Khánh Hòa rất nhiều cá. Cá đứng vào hàng thứ hai, sau Phan Thiết, trong các tỉnh miền duyên hải Trung Việt. Mặc dù thiếu ngư cụ tinh xảo, thiếu sự canh tân về phương pháp đánh cá, thiếu vốn để làm nghề, mức sản xuất hàng năm vẫn rất khả quan. Trung bình mỗi năm đánh được 11.000 tấn cá tươi. Trong tỉnh tiêu thụ dư dật, thường chở bán các tỉnh Cao Nguyên và Saigon. Cũng có một số giữ lại làm nước mắm, song không nhiều. Cho nên nước mắm chỉ đủ dùng trong Tỉnh. Ngoài cá là sản phẩm chính, còn nhiều thứ hải vị khác cũng đáng kể, như:
- Tôm tươi mỗi năm bắt được trên dưới 150 tấn.
- Mực tươi mỗi năm bắt được trên dưới 150 tấn.
- Cua mỗi năm bắt được trên dưới 16 tấn.
- Ghẹ mỗi năm bắt được trên dưới 50 tấn.
- Sò mỗi năm bắt được trên dưới 16 tấn.
- Ốc đụn mỗi năm bắt được trên dưới 10 tấn.
- Ruốc mỗi năm bắt được trên dưới 50 tấn.
Những thứ nầy chỉ đủ dùng trong Tỉnh.
Thứ hai là Muối: Muối là một nguồn lợi lớn ở Khánh Hòa. Nơi sản xuất là Hòn Khói, thuộc quận Ninh Hòa. Diện tích ruộng muối là 300 mẫu tây. Mức sản xuất hàng năm từ 20.000 tấn đến 40.000 tấn. Và trị giá từ 4.000.000 đến 8.000.000 đồng theo giá biểu năm 1960. Đó là hai nguồn lợi quan trọng của miền biển Khánh Hòa.
Còn một nguồn lợi thứ ba nữa cũng không kém quan trọng. Đó là: Yến Sào. Tức là tổ chim yến lót ở các hòn đảo ngoài biển. Tổ lót bằng một thứ nhựa từ trong họng chim yến khạc ra. Hình giống muổng ăn canh cụt cán. Sắc trắng đục và có từng sợi nhỏ như sợi bún tàu quấn quít lấy nhau 18. Khánh Hòa mỗi năm thu hoạch chừng 15.000 đến 20.000 tổ yến cân nặng chừng 150 đến 200 ký tức từ 250 đến 333 cân. Có 7 hòn đảo có chim yến làm tổ. Mức sản xuất khác nhau:
- Hòn Chà Là, mỗi năm lấy được chừng 10 cân.
- Hòn Hố mỗi năm lấy được chừng 20 cân.
- Hòn Dụm mỗi năm lấy được chừng 15 cân.
- Hòn Xưởng mỗi năm lấy được chừng 5 cân.
- Hòn Mun mỗi năm lấy được chừng 5 cân.
- Hòn Nội mỗi năm lấy được chừng 35 cân ;
- Hòn Ngoại mỗi năm lấy được chừng 180 cân. 19
Tổ yến lấy mỗi năm hai vụ. Vụ thứ nhất vào tháng 3 âm lịch, vụ thứ nhì vào tháng 7 âm lịch. Yến sào vụ thứ nhất tốt. Vụ thứ nhì có lẫn lông chim và rác rến. 20 Giá yến sào rất đắt. Trên thị trường chia làm bốn hạng và giá lên xuống không thường:

- Hạng nhất là Yến quan, vừa to tai vừa trắng, nặng chừng 10 đến 12 grammes một tổ, giá năm 1960 là 4.800$00 một cân ta. 21
- Hạng nhì gọi là Yến thiên, hơi nhỏ tai hơn, màu xanh nhạt hoặc hoe vàng, giá năm 1960 là 3.800$00 một cân ta.
- Hạng ba gọi là Yến địa, tai lớn như yến thiên có, yến quan có, màu xám hoặc xanh nhợt lá cây, giá năm 1960 là 1.700$00 một cân ta.
- Thượng ngoại hạng là Yến huyết, màu da cam hoặc đỏ. Rất hiếm. Mỗi năm chỉ thu hoạch được chừng một vài ký là nhiều. Sắc đỏ ấy, kẻ thì bảo là huyết của chim, kẻ thì nói là do chất sắt trong đá rỉ ra nhuộm vào tổ yến. Chưa ai biết đích xác nguyên nhân. Song ai cũng công nhận rằng thứ yến huyết tốt hơn và quí hơn yến quan. Cho nên mỗi cân bán đến 5.000$00 trở lên. 22
Từ xưa tới nay việc khai thác yến sào nằm trong tay người Trung Hoa. Chẳng những ở Khánh Hòa mới thế. Những nơi có yến sào ở Trung Việt như Qui Nhơn, Đà Nẵng, đều một tình trạng. Đó là do:
- Người Việt Nam không đủ khả năng tài chánh để tranh cùng người Tàu, mỗi khi đấu giá để thầu.
- Người Việt Nam không thạo việc khai thác, đôi khi đấu giá được, phải bán lại cho người Tàu vì bị lỗ.
Nắm lấy ưu thế, người Tàu đấu giá rất hạ. Mỗi năm bán hàng triệu bạc, mà mỗi khóa 3 năm chỉ đấu chừng ba bốn trăm ngàn là nhiều. Đó là mươi năm về trước. Còn hiện nay giá thị trường lên như thủy triều, còn số tiền đấu giá vẫn như cát bãi biển chỉ xê dịch cho có chừng.
Những sản phẩm quí ở Khánh Hòa – có lẽ ở đâu cũng vậy – đều vào tay người Trung Quốc: Trầm hương, yến sào chung một hoàn cảnh.
Và cũng như trầm hương, chưa ai biết đích xác yến sào làm bằng thứ chi:
- Người Việt Nam theo cổ truyền thì bảo yến sào làm bằng nước giãi chim yến.
- Theo người Nhật thì chim yến ăn rêu và sâu bọ ngoài biển. Những phần không tiêu trọn, chúng nhả ra làm tổ.
- Người Âu Châu lại bảo rằng thứ nhựa làm tổ, chim yến đã lấy ở trong bọt biển, ở trong rong biển là rau câu… Lại có thuyết nói rằng chim bắt những giống vật nhỏ trên mặt biển về biến chế thành chất hồ để làm tổ.
Toàn là giả thuyết. Không biết sao mà biện bạch thị phi. Chỉ biết rằng tổ yến rất bổ. Và chim làm tổ từng nhóm ở tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc, ở các quần đảo Nam Dương và Phi Luật Tân, dọc theo miền duyên hải Việt Nam từ các đảo Vĩnh Sơn ở Quảng Bình đến các đảo ở gần bờ biển Hà Tiên.
Yến Sào Việt Nam nhiều nhất và có tiếng nhất. Có ba nhóm quan trọng là Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang. Yến Đà Nẵng lớn tai hơn yến Qui Nhơn, Nha Trang. Yến Qui Nhơn có hơi nhão không ngon bằng yến Nha Trang, Đà Nẵng. Yến Đà Nẵng lại phải nhượng yến Nha Trang. Nhượng vì yến Nha Trang có mùi thơm. Mùi thơm ấy, theo giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), là mùi nhựa trầm hương chim yến đã hút được. Đó là một đặc điểm đáng nêu cao:
Trầm hương ướp vị yến sào,
Tình thâm đất nước ngọt ngào văn chương.
Cho nên khách làng văn làng thơ gọi Khánh Hòa là Xứ Trầm Hương và biển Nha Trang là Yến Hải tức là Biển Yến. Nhiều khi cũng dùng Yến Hải, hoặc Biển Yến để chỉ Khánh Hòa, Nha Trang. Cụ Đề Ngô Văn Nhượng, người Bình Thuận, ra làm việc tại phủ Diên Khánh, lúc về trí sĩ ở luôn Khánh Hòa, thơ Thuật Hoài có câu:
Trăng gió dẫu say tình Biển Yến,
Nước non dám phụ nghĩa Thành Liên.
Tố yên Thiên, một nhà thơ đất Hồng Lam, gởi thư vào Nha Trang cho bạn thơ Phạm đình Nguyên, có mấy vần lục bát:
Sông Lam mình tựa bóng mình,
Trông vời Biển Yến chạnh tình nước mây.
Gieo hồng đôi lá thu bay,
Sóng chao bóng liễu chau mày nữ lang.
Đọc thư bạn, nhà thơ Biển Yến cao hứng sáng tác được bài:
« LÁ THU »
Gió thu
Vi vu
Thổi rụng
Lá hồng
Trên dòng
Sông rộng.
Lá hồng
Mãi trôi
Theo cùng
Dòng sông
Mênh mông
Về nơi
Xa xôi…
Gieo trong
Cõi lòng
Nữ lang
Mơ màng
Bên sông
Nỗi buồn
Miên man. 23
Thật là ý vị. Ý vị như bát yến sào Nha Trang.
Yến sào cũng như thơ, ý vị là nhờ có chất ngon chất bổ trời sinh. Nhưng nếu không có công phu của người thì chất ngon chất bổ trời sinh kia cũng không trở thành ý vị được. Nghĩa là, cũng như thơ, muốn có một bát yến sào ý vị để thưởng thức phải tốn công phu, công phu khá nhiều và cũng khá tỉ mỉ:
- Phải ngâm cho nở.
- Phải rửa đi rửa lại cho thật sạch rác sạch bụi.
- Rồi phải vạch từng sợi xem coi có lông chim quến vào yến thì lấy nhíp nhặt cho hết. Lông măng ri rí, phải tỏ mắt lắm mới nhận ra.
Sửa soạn cho xong năm bảy tai yến thật mỏi cả cơ nhức cả lưng! Đến khi nấu lại phải luôn luôn thăm chừng lửa. Non lửa thì ươn, già lửa thì khê. Lửa phải rêu rêu và phải giữ đều một mực. Nấu xong một bát yến tốn công gấp bội nấu một bát cá ám hay một bát gà hầm.
Yến sào có thể nấu ngọt hay nấu mặn tùy sở thích. Ngọt thì dùng đường phèn và chưng cách thủy. Muốn thêm ý vị thì bỏ vào một ít hột sen, và một ít hoài sơn, bá hạp. Mặn thì bỏ yến sào và hột sen cùng vài ba vị thuốc bắc vào bụng gà giò hay bồ câu ra ràng, rồi hầm cho rục. Thông dụng nhất là chưng với đường phèn và hột sen. Người Khánh Hòa có câu:
Yến sào thêm ít hột sen,
Chưng với đường phèn,
Bổ lắm anh ơi…
Em khuyên anh lời đã cạn lời:
Jambon bifteck là mồi phản dân…
Mùi quê thơm ngọt vô ngần,
Anh ham chi,
Của thừa,
Của thãi,
Mà đành bỏ nhân bỏ ngãi,
Để đi làm thân tôi đòi?!
Cực lòng em lắm anh ơi!
Nhìn trong tủi thẹn trông ngoài xấu xa!
Dễ vào thời cũng dễ ra,
Anh hãy về chung gánh nước nhà cùng em.
Yến sào thêm ít hột sen,
Chưng với đường phèn, bổ lắm anh ơi. 24
Thế là yến sào đã vào văn chương. Văn chương nhờ yến sào mà thêm hương thêm vị. Và yến sào cũng nhờ văn chương mà thêm vị thêm hương. Trong văn chương yến sào lại thường đi đôi cùng trầm hương, hương vị đặc biệt của Khánh Hòa vừa cao vừa quí:
Khánh Hòa là xứ trầm hương,
Non cao biển rộng người thương đi về.
Yến sào thơm ngọt tình quê,
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.
Chung tình biển rộng non cao,
Trầm hương Vạn Giã yến sào Nha Trang.
Lỡ khi mưa gió phụ phàng,
Vàng chôn ngọc chứa sẵn sàng là đây. 25
Có thể nói rằng yến sào, trầm hương, văn chương là biểu hiện cho thể tánh tướng của dân tộc Việt Nam nói chung, nhân dân Khánh Hòa nói riêng vậy.
Ngoài yến sào, còn mấy món khác hương vị cũng rất đặc biệt như:
- Hải sâm, tức là đồn đột
- Vi cá, cước cá, bong bóng cá
- Bào ngư
- Tôm hùm.
Đó là những món ăn sang dành riêng cho những người giàu có. Có một món rất ngon mà rất bình dân, và không cần phải có tiền mới ăn được. Đó là Hàu. Hàu ở biển nào cũng có. Song ở biển Khánh Hòa vừa nhiều, vừa lớn, vừa ngon. Có thể gọi là « Hàu tam đa ». Có nhiều con lớn tày chiếc dĩa bàn, và ruột đầy đặn vừa một miếng nhai của người « không háo ăn mà cũng không làm khách ». Muốn ăn cứ việc mang dụng cụ ra biển, tìm những gành đá có Hàu mà cạy. Vừa cạy vừa ăn, hoặc cạy cho nhiều, đem lên bờ hay đem về nhà, nạy vỏ ra vắt chanh bỏ tiêu vào rồi cho vào miệng. Chưa nhai mà vị ngọt đã thấm tận cuống họng và bao tử đã ứa vị dịch như « triều dâng ».
Khánh Hòa còn một thứ hải sản nữa cũng rất quí, nhưng quí không phải vì khoái vị giác mà vì khoái thị giác. Đó là San Hô. San hô mọc từng rừng dưới đáy biển. Nhiều nhất là biển Nha Trang. Rừng San hô đẹp hơn cả rừng mai Ba Ngòi, Phước Hải. Vì đủ màu sắc của cầu vồng. Cây lại muôn hình vạn trạng. Và thủy tộc nương náu còn đông và nhiều loại hơn bướm và chim. Rừng san hô chỉ thua rừng mai ở chỗ thiếu hương, thiếu thanh, và không thay đổi sắc thái. Những cây san hô người làm biển lấy đem về bán là những thứ nhỏ. Và khi lên khỏi nước, San hô không giữ màu sắc được lâu, nên phải tẩy cho trắng để khỏi bị đen ố. Đây là một món hàng quyến khách viễn phương. San hô dùng để làm đồ trang trí chỉ là một số nhỏ. Phần lớn lấy về làm vật liệu xây cất và nung vôi. Đó là thứ san hô chết và phần nhiều hình đá chớ ít hình cây.
Khánh Hòa cũng có ốc Xà Cừ và Đồi Mồi song không nhiều lắm. Nhưng chỉ chừng nó cũng đủ thấy biển Khánh Hòa « giàu sang » lắm vậy.
D) THƯƠNG MÃI
Người Khánh Hòa phần đông sống về nông nghiệp và ngư nghiệp. Người chuyên về thương nghiệp rất có ít. Cho nên các ngành hoạt động hầu hết đều nằm trong tay người ngoại quốc, nhất là người Trung Hoa. Nha Trang là trung tâm điểm của ngành thương mãi. Đó là ngang nối giữa Sàigòn và các tỉnh ở phía Bắc Đèo Cả như Tuy Hòa, Qui Nhơn. Rồi đến Ninh Hòa là ngang nối giữa Sài gòn và Banmêthuột, giữa Banmêthuột và Tuy Hòa, Qui Nhơn. Phẩm vật Khánh Hòa bán ra các nơi là:
- Muối, nước mắm, cá tôm, yến sào
- Trầm hương, cao su
- Cát Thủy Triều là một nguồn lợi lớn, nhưng hiện nay đã thuộc về Thị xã Cam Ranh.
Khánh Hòa phải mua ở Sài gòn:
- Các vật liệu về công kỹ nghệ
- Thuốc men, hàng vải, chén bát…
- 13,14 ngàn tấn gạo mỗi năm, từ khi bị giặc quấy.
Và tuy núi rừng chiếm gần hết đất, Khánh Hòa vẫn phải mua gỗ ở Banmêthuột để dùng! Vì lâm sản chưa được khai thác một cách « hợp cảnh hợp tình ». Việc chuyên chở hàng hóa được dễ dàng vì nhờ có cả đường lục, đường thủy, đường hàng không. Trong thời chiến tranh, đường vận tải thường gặp nhiều trở ngại. Song sẵn sức vạn năng trong tay, nhà buôn vượt qua tất cả những khó khăn trong thiên hạ. Cho nên công việc lúc nào cũng chạy đều.
Đ) ĐÔI MÓN ĂN NGON
Lướt qua các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp, du khách cũng biết đại khái cảnh sinh hoạt của nhân dân Khánh Hòa. Bây giờ thử trở lại với con người nhân bản. Con người nhân bản đâu cũng như đâu đều « dĩ thực vi thiên ». Trong việc ăn có cách ăn và món ăn. Cách ăn khó nói cho rành mạch. Nên chỉ xin nói về món ăn. Bỏ ngoại đám người mất gốc đã quen với mùi vị nước ngoài, người Việt Nam nghèo cũng như giàu, Nam cũng như Trung, Trung cũng như Bắc, đều lấy gạo và nước mắm làm món ăn chính thức, món ăn căn bản.
Khánh Hòa vừa sản xuất lúa gạo, vừa sản xuất nước mắm. Mức sản xuất chưa được cao, song lúc bình thường cũng đủ tự cấp tự túc. Có cá thịt thêm càng quí, không thì cơm chan nước mắm cũng đủ sống một cuộc đời yên vui:
Giàu thời thịt cá bĩ bàng,
Nghèo thời cơm mắm lại càng thắm lâu.
Nói là nói vậy, chớ người Khánh Hòa đời sống tương đối phong lưu, vì từ biển đến rừng món ăn ngon không hiếm. Ngoài thịt cá ra, Khánh Hòa có những món ăn mà hương vị đặc biệt đã thấm vào tục ngữ phương ngôn. Như:
- Yến sào là món ăn quí phái. Chúng ta đã biết rõ. Nhưng có một điều đáng để ý là yến sào Hòn Ngoại nhiều và có nhiều yến huyết đắt giá. Nhưng được lòng những người tri vị lại là yến Hòn Nội. Cho nên có câu « Yến sào hòn Nội ».
- Tôm Hùm trước kia dễ mua. Nhưng hiện nay anh chị em bình dân phải nhịn miệng để « đãi khách nhiều tiền ». Tôm hùm Nha Trang, Vạn Giã có nhiều. Nhưng không ngon bằng tôm ở Bình Ba. Cho nên tục có câu « Tôm hùm Bình Ba »!
- Sò huyết rất dễ mua. Chợ ở các nơi gần biển đều có. Nhưng mua đươc sò Thủy Triều mới thích. Sò ở Thủy Triều đã ngọt thịt, lại ăn mấy cũng không phá bụng. Bởi vậy lời tục thường nói « Sò huyết Thủy Triều ». Đó là những món ăn (tục ngữ phương ngôn) ở biển.
Ở đồng có:
- Cá: Cá gì cũng ngon. Nhưng ngon nhất là cá tràu. Cá tràu, tục gọi là cá lóc, trong Nam da dày thịt dai. Cá tràu miền Trung mà Khánh Hòa đại diện, thịt mềm da mỏng. Cá càng lớn thịt càng ngon và da vẫn cứ mỏng. Cá tràu Khánh Hòa đã ngon, mà cá Võ Cạnh lại quán tuyệt! Thịt vừa ngọt vừa thơm. Ám ngon, nướng ngon, kho cũng ngon, nấu cháo càng ngon! Cho nên tiếng đồn « Cá tràu Võ Cạnh ».
- Vịt: Có hai thứ là vịt nuôi khô và vịt nuôi nước tục gọi là vịt lội. Vịt nuôi khô mập hơn và ngon hơn vịt nuôi nước vì vịt nuôi khô được cho ăn cả ngày, còn vịt nuôi nước thì phải đi lượm lúa đổ ở ruộng mà ăn. Nhưng ở Ninh Hòa đồng rộng lúa tốt, nên vịt nuôi nước, nhờ ăn thêm ốc thêm cua, lại mập và ngon hơn vịt nuôi trên cạn. Bởi vậy lời tục rằng « vịt lội Ninh Hòa »!
Còn ở rừng thì có:
- Heo rừng: và nổi tiếng là « heo Đất Đỏ ». 26
- Nai: Quận nào cũng có. Song chỉ có Diên Khánh và Khánh Dương thường làm khô vì quá nhiều bán tươi không hết. Khô nai hai nơi đều ngon. Nhưng vì Khánh Dương mới sáp nhập vào địa phận Khánh Hòa, nên lời tục quen nói « Nai khô Diên Khánh ». Có người bảo: Không phải vì nai khô Diên Khánh có trước nên có được tiếng thơm. Được tiếng thơm vì ướp khéo, gia vị khéo. Khánh Dương không thể bì. Sau nầy Khánh Dương có tiến bộ chăng chẳng biết, chớ hiện giờ Diên Khánh vẫn thiện nghệ về nai khô. Đứng trên « lập trường rộng » mà nói thì Khánh Dương ngon hơn hay Diên Khánh ngon hơn đều được, không cần bàn cãi, vì đều là non nước Khánh Hòa:
Nước non vẫn nước non nhà,
Khánh Dương Diên Khánh đều là nước non. 27
Ở Ninh Hòa còn hai món nổi tiếng nữa là:
- Nem chua: Vị khác hẳn nem Thủ Đức ở Nam Phần và nem Tuy Phước ở Bình Định. Nhưng khác thế nào thì phải khẩu chứng chớ khó ngôn truyền. Chỉ biết rằng ngon thật là ngon.
- Rượu bọt: tức là rượu đế, nấu toàn gạo, lấy nước cốt bán chớ không pha.
Rượu và nem thường đi đôi với nhau. Khách si tình thường mượn thú để làm khuây: « Sông Dinh có ba ngọn nguồn. Nhớ em băng đèo vượt suối, nhưng không biết đường để đến thăm em! Ghé vô chợ Ninh Hòa mua một xâu nem. Một chai rượu bọt. Uống say mèm cho đỡ nhớ thương ». 28
Cổ bàn Nhân đã mượn những tục ngữ về món ăn ngon của Khánh Hòa, sắp lại thành một bài ca để gởi vào chút tâm sự:
Yến sào hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều…
Đời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngọt sớm ngon chiều với em. 29
VI. VĂN HỌC
So với các tỉnh từ Bình Định trở ra, nền Văn Học Khánh Hòa, thời Pháp thuộc cũng như thời Phong kiến thịnh hành, thật là sút kém.
Từ đời Gia Long đến đời Tự Đức, là thời kỳ Hán học được phục hưng, ở Khánh Hòa học sinh trường Tỉnh vẫn thưa thớt. Trường Tỉnh lập từ đời Minh Mạng, vì ít học sinh, phải bãi bỏ gần 40 năm. Đến triều Tự Đức năm thứ 19 mới mở lại. 30 Và từ khi có trường học, trong tỉnh đỗ đạt không được bao lăm và tuyệt nhiên không có người đỗ đại khoa. Cũng không có người cuồng chữ nổi tiếng.
Chữ Hán cáo chung, nhường chỗ cho chữ Quốc Ngữ, chữ Pháp, cảnh học giới Khánh Hòa cũng không lấy gì làm rực rỡ. Ngót 60 năm Pháp đóng chiếm Khánh Hòa (1885-1945), và gần 30 năm chữ Quốc Ngữ, chữ Pháp lên thay thế chữ Hán (1918-1945), Khánh Hòa chỉ có được 6 trường tiểu học dạy đến lớp nhất!
Đến năm 1947, mới có trường Trung Học dạy nhờ ở trường Tiểu học Nha Trang! Mãi đến năm 1951 mới xây cất trường ốc riêng biệt tại đường Bá đa Lộc và lấy tên là Trường Trung Học Võ Tánh.
Trước 1947, học sinh đậu bằng Tiểu Học muốn lên học cấp Trung Học, phải ra trường Qui Nhơn. Đến năm 1951, người Khánh Hòa mới được thi bằng Trung Học tại Nha Trang. Từ ấy việc học ở Khánh Hòa càng ngày càng thạnh.
Năm 1959 trường Võ Tánh được nâng lên hàng Trung Học Đệ Nhị cấp. Và năm 1962, trường Nữ Trung Học Nha Trang được mở.
Theo đà phát triển của Thị xã Nha Trang, ở các quận cũng đua nhau thiết lập trường Trung Học Đệ Nhất cấp:
- Trường Trần bình Trọng ở Ninh Hòa
- Trường Diên Khánh ở Thành
- Trường Vạn Ninh ở Giã
- Trường Vĩnh Xương ở Vĩnh Châu
- Trường Cam Lâm ở Ba ngòi.
Bên cạnh các trường công lập, còn nhiều trường Trung Học Tư thục đệ nhất và đệ nhị cấp. Công tư tổng cộng là 27 trường với số học sinh trên 12.000 nam nữ.
Khánh Hòa còn một trường nữa cũng đáng kể, là trường Trung Học Kỹ Thuật Đệ Nhất cấp. Trường nầy trước kia là một xưởng kỹ nghệ do người Pháp lập năm 1946. Đến năm 1955, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa đổi tên là Trường Thực Nghiệp Nha Trang. Đến năm 1962, thấy đà phát triển của trường có vẻ khả quan, Bộ Giáo Dục mới đổi làm trường Trung Học Kỹ Thuật Đệ Nhất Cấp và cất lại trường trại đàng hoàng. Đến năm 1966, trường được nâng lên hàng Đệ Nhị Cấp, gồm hai ban: Kỹ Thuật Toán và Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp.
Ngành giáo dục ở Khánh Hòa hiện nay so với thời xưa thật thạnh vượng thập bội, và có cơ tiến đến cấp Đại Học trong tương lai gần đây.
Đó là bề nổi của nền Văn học Khánh Hòa. Hiện nay Khánh Hòa qui tụ một số đông nhà văn nhà thơ có danh trong toàn quốc. Như:
- Tương Phố, một nữ sử kỳ cựu, tên đã ghi vào Văn Học sử Việt Nam.
- Cung Giũ Nguyên đã nổi tiếng do những tác phẩm bằng Pháp văn và có nhiều tác phẩm bằng Việt ngữ chưa xuất bản.
- Võ Hồng, một cây bút viết đều, viết nhiều và rất được hoan nghênh. Đã xuất bản trên 10 tác phẩm Truyện Ngắn và Truyện Dài.
- Thạch trung Giả, một nhà thơ có tài, một nhà văn học rộng. Tác phẩm chưa xuất bản thành tập, mới đăng rải rác trên các báo chí, song đã lắm người mộ danh.
- Châu Hải Kỳ, một nhà biên khảo. Tác phẩm thường đăng ở các tạp chí Bách Khoa, Văn, Tân Văn, Giáo Dục.
Các nhà văn nhà thơ nầy âm thầm làm việc, làm việc một cách thường xuyên và liên tục. Tất cả đều thận trọng trong việc sáng tác. Không chạy theo lợi, không chạy theo danh. Và tuy sống trong vắng vẻ im lìm, họ đã gây được nhiều ảnh hưởng tốt cho con em địa phương. Nhiều học sinh, nhiều thanh niên thường đến thỉnh giáo và noi gương đào tạo cho mình một văn thái phong lưu. Trên đây là những cây bút « định đô » ở Nha Trang, và là những cây bút đương ngâm hay sắp ngâm câu thơ của Lý thương Ẩn:
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Nghĩa là:
Tịch dương cảnh đẹp vô ngần,
Riêng thương tấc bóng đã gần hoàng hôn.
Còn lắm bạn đương độ xuân thì, và thỉnh thoảng mới đến Khánh Hòa, nhưng đã sanh trưởng hoặc trước đây đã cư trú ở Nha Trang nhiều năm và chịu ảnh hưởng vùng cát trắng dương xanh không nhiều thì ít. Như:
- Phạm công Thiện
- Nguyễn thị Hoàng
- Dương nghiễm Mậu
- Nguyễn đức Sơn
- Nguyễn xuân Hoàng
- Lê văn Thiện
- Duy Năng
- v.v…
Trong các bạn trẻ đây có hai bạn quê ở Khánh Hòa là Duy Năng và Lê văn Thiện. Nhạc sĩ Minh Kỳ cũng đã từng sống ở Khánh Hòa và có một bản nhạc ca tụng Nha Trang rất phổ biến. Song song cùng các nhà văn nhà thơ cặm cụi viết sách, các nhà ký giả cũng lo làm việc hăng say. Ngoài việc lấy tin tức, viết phóng sự cho các tờ báo Thủ Đô, anh em còn lo việc mở báo chí trong tỉnh.
Ở Khánh Hòa hiện có tờ tạp chí NIỀM THƯƠNG ở Trung Tâm Bài Cùi Núi Sạn chủ trương. Tạp chí nầy trước đây mỗi tháng ra một kỳ. Nhưng vì tài chánh eo hẹp phải rút xuống hai tháng một kỳ. Trong tháng 6 năm 1969, anh em ký giả cho ra đời tờ DỰNG ĐẤT, một tạp san văn học, nghệ thuật Thời Đàm. Nhưng mới ra được một số rồi phải tạm nghỉ. Các trường Trung Học công và tư, các Tu Viện Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, thỉnh thoảng ra nội san. Nhiều tờ phổ biến được sâu rộng.
Khánh Hòa lại còn có một thi xã: Nha Thành Thi Xã. Nha Thành thi xã sáng lập từ thời Pháp thuộc. Sáng lập viên là nhà Nho Trần khắc Thành, cụ đề Ngô Văn Nhượng và cụ cử Phan bá Vỹ. Sang thời kháng chiến chống Pháp, quí cụ lần lượt quy tiên, không có người đủ uy tín để lãnh đạo, lại thêm tình hình bất ổn, nên Thi Xã bị tan rã. Đến thời Hậu Chiến, hai ông Đức Huy và Minh Trai ra công tổ chức lại. Nhưng sinh hoạt chưa được mạnh. Gần đây quí ông Ô Giang, Vân Sơn, Trường Hồ góp thêm phần bồi đắp, Thi Xã đã khởi sắc hơn nhiều. Hiện nay cũng như trước kia, Thi Xã tụ hợp được đa số thân hào nhân sĩ ưa thi văn trong tỉnh. Các cụ ra đề thi cho nhau làm và tự chấm chữa với nhau. Các thi hữu ở các tỉnh bạn và ở Huế, ở Sài gòn cũng thường có thơ xướng họa gởi đến. Trước kia tác phẩm làm ra, mạnh ai nấy chép. Gần đây trong Thi Xã có người phụ trách gom góp thành lập. Và mỗi năm cho một hoặc hai tuyển tập ra đời. Cuối năm 1968, Thi Xã đã xuất bản được năm tuyển tập, in ronéo khá dày và khá trang nhã. Nhưng chỉ lưu hành trong nội bộ chớ không phổ biến ra ngoài nhân dân.
Ngoài các nhà văn nhà thơ đã có tác phẩm hành thế, Khánh Hòa còn một số tác giả ẩn danh. Như:
- Nhà sư Thích trí Nghiêm trên đồi Trại Thủy, ngày ngày ngồi dịch những bộ kinh chưa dịch hoặc đã dịch rồi nhưng chưa được hoàn hảo.
- Nhà Nho Nguyễn đức Thắng ở thôn Phú Lộc, quận Diên Khánh, đã dày công phiên âm, diễn nghĩa và dịch thơ trọn bộ Kinh Thi mà trước kia Tản Đà mới dịch được phân nửa.
- Nhóm tăng già và cư sĩ trên Phật Học Viện Nha Trang, cặm cụi soạn bộ Tự Điển Phật Giáo rất cần thiết cho những người nghiên cứu đạo Thích và những người muốn hiểu thấu đáo các áng văn cổ nước nhà
Tình hình văn học ở Khánh Hòa so với các tỉnh bạn ở miền Nam Trung Việt, thật có phần xuất sắc. Nếu Khánh Hòa có được một thư viện công cộng có đủ sách để giúp cho các nhà viết văn trong công việc nghiên cứu, có được một nhà xuất bản hảo tâm lãnh xuất bản những tác phẩm của địa phương, có được một nhà in sách được mỹ thuật… thì nền văn học của Khánh Hòa sẽ phát triển mạnh và nhanh gấp bội.
VII. CHÁNH TRỊ
Phần đông người Khánh Hòa ít thích Cách mạng và Chánh trị. Bởi vì tánh tình người Khánh Hòa vốn ôn hòa, mà dấn thân vào đường Chánh trị Cách mạng nhiều khi phải cần đến bạo lực mới có kết quả mong muốn. Nhưng đứng trước đại nghĩa, người Khánh Hòa rất sẵn sàng hy sinh. Cho nên ở Khánh Hòa xưa nay vẫn có những phong trào cách mạng, những đảng cách mạng đáng kể. Như thời Pháp thuộc có: Phong trào Cần Vương, Việt Nam Ái Quốc Đảng.
A) PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
Năm Ất Dậu (1885) kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương. Các sĩ phu trong nước đều hưởng ứng, đứng lên dấy nghĩa binh chống Pháp. Ở Khánh Hòa lãnh đạo phong trào là ba nhà anh hùng Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh, thời nhân gọi là Khánh Hòa tam kiệt. Nghĩa quân chống cùng giặc gần hai năm. Tuy với gươm dao dáo mác, nghĩa quân đã làm cho quân giặc khiếp phục trước lòng dũng cảm đức hy sinh. Nhưng rồi không đương nổi với vũ khí tối tân, nghĩa quân bị thất bại và tam kiệt phải tuẫn quốc 31. Không thành công nhưng thành nhân. Phần đông người Khánh Hòa nhờ gương phấn dũng của tiền nhân mà khỏi bị lôi cuốn vào con đường vong bản, giữ vững được tinh thần dân tộc, biết tự trọng tự cường.
B) VIỆT NAM ÁI QUỐC ĐẢNG
Gọi tắt là Việt Ái, viết tắt là V.A.Đ. Do một nhóm nhân sĩ thành lập năm 1940, sau khi quân Nhật Bổn đến đóng ở Nha Trang.
Đảng lấy việc « Đánh đuổi thực dân Pháp, dành độc lập cho Tổ Quốc » làm mục đích ; lấy tinh thần Cách mạng Yên Bái làm lửa rèn tâm chí đảng viên ; lấy sách lược của Phan sào Nam làm xương sống xương sườn cho công cuộc cứu quốc.
Đảng được quân đội Nhật ủng hộ về mặt tinh thần và về việc luyện tập quân sự, lại hứa giúp vũ khí khi cần. Một số phú nông và phú thương ủng hộ về mặt tài chánh. Hầu hết các nhân hào thân sĩ trong tỉnh đều tham gia. Đảng viên gồm đủ mọi tầng lớp nhân dân.
Trọng tâm công tác là Quân chánh và huấn chánh. Những đảng viên có sức lực đều bí mật đưa sang bên quân đội Nhật để huấn luyện. Những đảng viên mới kết nạp đều phải qua nhiều khóa học tập, chung hay riêng tùy từng hạng người. Các cán bộ cũng luôn luôn được giáo dục. Ngoài những phần tử ở « ngoài vòng cương tỏa » Đảng còn kết nạp một số công chức, một số lính khố xanh, mấy viên cai đội và một viên phó quản trong đồn Nha Trang. Quân Pháp dò biết được ít nhiều, song sợ Nhật, không dám khủng bố.
Đảng mỗi ngày mỗi phát triển và đã gây ảnh hưởng ra đến Qui Nhơn. Song rồi viên bí thư là Vương gia Ngại và một số cán bộ nòng cốt không giữ vững tinh thần độc lập, để người Nhật chen vào nội bộ càng ngày càng thâm. Thấy rõ dã tâm của người Nhật, có mấy đồng chí lấy lời hơn lẽ thiệt cảnh cáo ban lãnh đạo, nhưng không có kết quả. Để tránh hậu hoạn, nhiều người có khả năng có uy tín trong Đảng phải xa chạy cao bay. Đồng thời Chánh quyền Pháp tìm cách đổi đi nơi khác những công chức và quân nhân có chân trong Đảng mà chúng dò biết được đích xác hoặc chúng tình nghi. Do đó mà đảng bị giảm lực lượng không ít, nên đã không thể bành trướng ra ngoài tỉnh, mà ở trong tỉnh còn phải thu hẹp phạm vi hoạt động. Cuối cùng biến thành một cơ quan bí mật của quân đội Nhật! Một cựu đồng chí gởi cho viên bí thư họ Vương một bài ca rằng:
Sông Nha Trang cát vàng nước lục,
Thảnh thơi con cá đục,
Lội dọc lội ngang.
Đã thề cùng em giữ dạ đá vàng,
Quí chi tách cà phê đen ly sữa bò trắng,
Anh nỡ phụ phàng nước non!
Khi Nhật lật đổ Pháp, 10-3-1945, họ Vương và một số anh em trong Đảng được mời ra hợp tác cùng tân Chánh Phủ. Nhưng chỉ 5 tháng sau (8-1945), họ Vương cùng một số đảng viên bị giết. Còn bao nhiêu thì lớp chạy ra tỉnh ngoài lánh nạn, lớp theo Việt Minh. Việt Nam Ái Quốc Đảng bị hoàn toàn tan rã! Không có một thành tích gì để lại, ngoài một số ca vè đã soạn ra để tuyên truyền trong lúc hoạt động cho Chính Nghĩa 32. Như bài sau đây là một:
Em nhìn xuống Động
Ròng ròng nước mắt!
Em trông ra Bắc
Ruột thắt đòi cơn
Ông cha mình gây dựng giang sơn
Biết bao nhiêu xương
Biết bao nhiêu máu
Bao nhiêu tủi, bao nhiêu hờn
mới nên…
Ơn chất chồng
Con cháu nỡ đành quên?
Để cho quân Hồ lỗ
Đem nền đô hộ
Đặt lên đất nước nhà!
Giống nòi lắm nỗi xót xa
Cắn răng nô lệ năm đà tám mươi!
Ớ bạn mình ơi!
Á Âu gió bụi tung trời
Tung lồng tháo cũi đến thời rồi đây
Tay bắt tay
Chung lòng chung sức
Quyết diệt thù
Cứu quốc
Bạn ơi!
Lòng em khôn tỏ hết lời
Kia gương phấn dũng rạng ngời nước non.
C) CÁCH MẠNG VÀ CHÁNH TRỊ HIỆN TẠI
Hiện nay tại Khánh Hòa có hai đảng Cách mạng và hai đảng Chánh trị:
- Hai đảng Cách mạng là: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng.
- Hai đảng Chánh trị là: Lực lượng Tự Do Dân Chủ, Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc.
Hai đảng Cách Mạng thành lập từ năm 1963, sau ngày Chánh Phủ Ngô đình Diệm bị lật đổ. Từ bấy đến nay hai đảng hoạt động trong vòng bí mật. Ngoài dân gian chỉ thấy bóng chớ không thấy hình. Còn hai đảng Chánh trị là hai nhánh của Saigon. Ra mắt đồng bào năm 1968. Có trụ sở với cờ biển đàng hoàng. Có tuyên ngôn hùng hồn, có chương trình hoạt động rộng lớn. Nhưng không thu hút được đa số quần chúng, vì hình ảnh của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia thời Ngô Đình vẫn còn thấp thoáng trước mắt nhân dân Khánh Hòa.
Nhân dân Khánh Hòa, tánh tình chân phác, không ưa những gì viển vông. Những lý thuyết cao xa, những hứa hẹn tươi đẹp… họ coi như những chiếc bánh vẽ nhiều màu, không kích thích nổi thị hiếu của đám trí thức cũng như anh em bình dân. Muốn thu phục nhân tâm của Khánh Hòa thì bên ngoài phải thực tế, bên trong phải thành tín. Phong trào chánh trị cũng như cách mạng không sôi nổi ở Khánh Hòa, không phải tại vì người Khánh Hòa không ưa thích, mà chính vì các nhà lãnh đạo không sát thực tế và thiếu thành tín, không gây nổi tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân.
VIII. XÃ HỘI
Công tác xã hội ở Khánh Hòa không đến nỗi chìm lỉm như công tác cách mạng chánh trị. Ngoài Ty Xã Hội của Chánh Phủ làm việc theo lề lối văn phòng, xa rời đám cùng khổ, Khánh Hòa có nhiều tổ chức từ thiện của các Tôn Giáo, như:
- Cô Nhi Viện Công Giáo do các Bà Phước dòng Filles de la Charité coi, ở gần Nhà Thờ Nha Trang.
- Cô Nhi Viện Tin Lành ở Cù Lao.
- Ký Nhi Viện Phước Điền của Phật Giáo ở Phước Hải.
- Trung tâm Bài Cùi ở Núi Sạn (Vĩnh Xương) do dòng tu Phan xi cô điều khiển.
- Dưỡng lão đường ở Rù Rỳ cũng do Dòng Tu Phan xi cô giám đốc.
- Ban Từ Thiện của Tỉnh Hội Phật giáo Khánh Hòa.
- Đoàn Từ Bi của các ni cô Khánh Hòa v.v…
Các cơ sở cứu tế xã hội trong tỉnh, đáng cao rao hơn hết là Trung Tâm Bài Cùi Núi Sạn.
A) TRUNG TÂM BÀI CÙI
Ban sơ vốn là một nhà Lạc Thiện do các tu sĩ dòng Phan xi cô thành lập năm 1948 bên cạnh nhà Dòng ở Cù Lao để dung nạp một số người hành khất, già cả, bệnh tật, tàn phế vì chiến tranh. Những người đến xin an dưỡng tại nhà Lạc Thiện mỗi ngày một đông, trong đó có len lẫn vài ba người bị bệnh cùi, mà tình cảnh đau thương hơn tất cả mọi người bất hạnh khác. Để tạo niềm yên ủi cho các bệnh nhân, vị Giám đốc là Linh mục Alix Bourgeois cùng các nhà thiện tâm tìm kiếm thuốc men và ra sức điều trị. Tiếng đồn đi xa. Nhiều bệnh nhân ở các nơi tìm đến để mong hưởng chút tình thương không còn thấy ngoài xã hội.
Con số người cùi sống lẫn lộn trong nhà Lạc Thiện hai năm sau ngày thành lập, nghĩa là đến năm 1950, lên đến 28 người. Thấy sự sống chung chạ như thế không tiện, ban Giám Đốc bèn cất hai ngôi nhà tranh riêng biệt cho 28 bệnh nhân.
Hai ngôi nhà tranh nầy được đặt tên là Viện Từ Bi. Sức hoạt động của viện Từ Bi mỗi ngày mỗi mạnh thêm. Qua năm 1952 trở đi, viện chẳng những lo săn sóc bệnh nhân trong viện, mà còn tổ chức việc tìm kiếm những người xấu số rải rác mọi nơi, để cho thuốc hoặc đem về viện nuôi dưỡng và an ủi. Đến cuối năm 1954, viện có 40 bệnh nhân nội trú và 50 bệnh nhân điều trị tại gia. Năm 1955, nhận thấy nơi Cù Lao đất đai chật hẹp không thể mở rộng phạm vi của viện được, lại thêm viện ở gần thôn xóm làm cho người lành mạnh phải e ngại, ban Giám đốc bèn vận động cùng các cơ quan đoàn thể địa phương dời viện ra đèo Rù Rỳ. Tên Viện Từ Bi đổi thành Nhà Phước Thiện Rù Rỳ.
Nhà Phước Thiện nằm trong một khoảng đất tự do nhà Dòng tạo mãi và gồm có bốn gian nhà gỗ lợp fibro-ciment, đủ sức dung nạp 100 bệnh nhân. Ra Rù Rỳ được rộng rãi mát mẻ hơn ở Cù Lao, song có lắm điều bất tiện. Xa chợ búa, xa các bệnh viện công tư. Coi sóc nhà Phước Thiện chỉ có vỏn vẹn một Linh Mục Giám Đốc, một Tu sĩ Phó Giám Đốc kiêm Quản lý và một Y tá kiêm thư ký văn phòng. Việc ăn uống của bệnh nhân phải chịu thất thường và mỗi khi xảy ra những bệnh nguy nghèo phải chạy vào Nha Trang rước Bác sĩ! Suốt ba năm đằng đẵng, từ 1955 đến 1958, ban Giám Đốc lo tự cấp tự túc lấy. Mỗi lần kêu xin Chánh quyền, thì được từ khước một cách « đúng nguyên tắc ». Nhưng nhờ hai mươi bệnh nhân đã lành bệnh tự nguyện ở lại phục vụ không công, chia bớt nỗi cực nhọc của vị Giám Đốc và Phó Giám Đốc, nhờ các tư nhân hảo tâm và các cơ quan từ thiện, mọi nỗi khó khăn đều vượt khỏi, công việc tiến hành một cách khả quan: Số bệnh nhân nội trú tăng lên hơn 70 người và số ngoại trú lên đến 350. Ban Giám Đốc lại còn xây dựng thêm được mấy trạm thuốc ở các nơi lân cận:
- Trạm Dư Khánh ở Ninh Thuận, đặt ngay trong nhà của một bệnh nhân, và chính gia chủ phụ trách mọi công tác hằng ngày thay ban Giám Đốc.
- Trạm Tuy Hòa ở Phú Yên, đặt trong một chòi tranh cất trên một gò trống nơi địa đầu thị xã, do hai bệnh nhân đảm trách.
- Trạm thuốc Khánh Dương cho đồng bào Thượng.
Các anh em đã lành bệnh lại chia nhau đi tìm đồng bào bị bệnh ở các nơi đem về Rù Rỳ nuôi nấng. Được ít lâu, những ngôi nhà của Nhà Phước Thiện, vì gỗ tạp vách đất, không chịu nổi với mối mọt gió mưa, đã bắt đầu sụp đổ!… Ban Giám Đốc cùng anh em thiện chí phải lo chạy. Và nhờ hội Chẩn tế Công Giáo Hoa Kỳ, hội Chẩn tế Công Giáo Việt Nam và Hội Bạn người cùi giúp đỡ, ba dãy nhà ngói dài được dựng lên thay thế cho mấy ngôi nhà sắp đổ. Tổn phí trên một triệu đồng. Thời gian xây cất mất ngót 5 tháng.
Và Nhà Phước Thiện Rù Rỳ đổi tên là Viện Bài Phung Rù Rỳ. Đó là vào năm 1958. Công việc tiến hành được ba năm, kết quả rất mỹ mãn: Bệnh nhân nội trú lên 120 người, ngoại trú lên 480 người. Mặc dù thiếu thốn đủ mọi mặt, ban Giám Đốc và anh em giúp việc đều lấy làm vui sướng vì được chia xẻ tình thương cùng người bạc phước và được thấy nhiều người trở lại gia đình với tấm thân khỏe mạnh trơn liền. Nhưng năm 1961, đùng một cái, cả viện người mạnh cũng như người bệnh đều sửng sốt! Nguyên vị Tỉnh Trưởng Khánh Hòa mới tới nhậm chức, một hôm đi công tác qua ngang viện thấy tấm bảng đề là Viện Bài Phung, thì hoảng kinh: « Nguy hiểm quá! Vi trùng hủi sẽ theo Quốc Lộ lan tràn khắp tỉnh. Thêm viện bài phung làm mất vẻ mỹ quan của con đường vô ra ». Liền đó một mặt ông trình điều lợi hại lên Thượng cấp, một mặt ông ra lệnh di chuyển viện bài phong. Lệnh rất gắt gao! Mọi người trong viện đều chán nản! Ai nấy đều đã tưởng công việc từ thiện phải chấm dứt và những kẻ đau khổ phải trở về cảnh thiếu thốn thuốc men, thiếu tình an ủi ngày xưa. Nhưng nhờ các hội từ thiện xa gần, các đoàn thể tôn giáo tỉnh Khánh Hòa khuyến khích và ủng hộ, viện mới dời được lên Núi Sạn.
B) TRUNG TÂM NÚI SẠN
Là một ngọn đồi có nhiều đá và nhiều sạn, nhất là sạn, nằm trong địa phận quận Vĩnh Xương, ném về phía Tây Bắc Tháp Bà, từ Quốc Lộ số 1 đi lên chừng trên một cây số. Chung quanh là gò thấp và ruộng. Xa xa núi giăng trập trùng, đứt thôi lại nối, thấp rồi lại cao. Sau lưng là những ngọn núi Cù Lao. Trước mặt thì có hòn Kho dáng chầm vầm ở phía Đông, hòn Bút hình như chiếc nón lá úp ở giữa và hòn Thơm mập nhưng thấp ở phía Tây. Ba ngọn núi nầy chân nối liền nhau do những gò đống ngổn ngang, lưng tựa vào bóng những dãy núi ở phía Bắc lớp mờ lớp tỏ. Đứng nơi Núi Sạn mà nhìn ra thì thật là ngoạn mục.
Tìm được nơi vừa cách xa thôn xóm, vừa cao ráo khoảng khoát rất hợp vệ sinh, Ban Giám Đốc liền tận tâm nỗ lực thuê người dọn rừng lấp hố, mướn thợ khai móng đắp nền. Sau hai năm trời công phu (1961-1962) với số tiền trợ cấp hai triệu đồng của Phủ Tổng Thống, Ban Giám Đốc hoàn thành một cơ sở khá đồ sộ. Mười bốn gian nhà ngói nhưng khiêm tốn mọc lên giữa cảnh mây trắng núi xanh. Một lễ khánh thành long trọng được tổ chức, và viện Bài Phung Rù Rỳ đổi tên là Trung Tâm Bài Cùi Núi Sạn. Khách làng thơ có câu:
Một sông dù lớn không thành biển,
Nhiều đá vun cao mới có non.
Cho nên tán thán công quả của ban Giám Đốc Trung Tâm Bài Cùi Núi Sạn, chúng ta không quên các hội Từ Thiện tỉnh Khánh Hòa đã góp phần vào Trung Tâm, nhất là:
C) HỘI BẠN NGƯỜI CÙI
Hội nầy thành lập từ thời Pháp thuộc, lấy tên là SALVE, do Nam Phương Hoàng Hậu làm Hội Trưởng toàn quốc. Năm 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Hội bị tan rã.
Đến năm 1948, Nhà Lạc Thiện Cù Lao mở đón người cùi, thì một số hội viên cũ ở Khánh Hòa bèn đến hợp tác cùng viên Giám Đốc. Số bệnh nhân mỗi ngày mỗi đông, số người thiện tâm cũng mỗi ngày mỗi thêm, nhờ sức vận động của các nhà thiện tâm cũ. Rồi Hội Bạn Người Cùi Tỉnh Khánh Hòa tái lập.
Hiện nay hội viên có trên trăm người. Hầu hết là con nhà Phật, và tất cả người trong ban Từ thiện của Tỉnh Hội Phật Giáo Khánh Hòa đều ở trong Hội Bạn Người Cùi. Ban Giám Đốc là người Thiên Chúa Giáo, lấy Bác Ái làm gốc. Hội Bạn Người Cùi là người Phật Giáo, lấy Từ Bi làm nền. Do đó mà lòng từ thiện đã thể hiện được trong Trung Tâm Bài Cùi Núi Sạn, thể hiện một cách thường xuyên liên tục và thể hiện một cách vui vẻ tự nhiên. Nhờ vậy mà anh chị em vào Trung Tâm lần lần lấy lại được sinh thú. Và người nào cũng hy vọng sẽ được trở về cùng gia đình với tấm thân khỏe mạnh. Bởi từ 1949 đến 1968, nhờ sự tận tâm tận lực của Ban Giám Đốc và Hội Bạn Người Cùi, về mặt tinh thần cũng như về mặt vật chất, đã có rất nhiều người lành bệnh hẳn hoi: Ngoài những người ở lại giúp việc, những anh chị em hồi hương thỉnh thoảng vẫn đến thăm người cũ cảnh cũ, ai nấy sức khỏe đều dồi dào. Đó là những ngọn gió ấm thổi vào lòng anh chị em nằm dưỡng bệnh ở Trung Tâm.
Đứng nơi Trung Tâm nhìn ra bốn mặt, thấy rõ xóm làng, xe cộ… Lòng người đối cảnh cảm thấy mình tuy ở riêng biệt một nơi, nhưng vẫn gần gũi xã hội. Và người ngoài xã hội, sẵn đường lên xuống, cũng thường đến viếng cảnh thăm người. Đó là những ngọn gió ấm thứ hai thổi vào lòng anh chị em xấu số. Nhưng ngọn gió tinh thần hòa cùng gió biển thổi từ bãi lên đồi, làm cho bầu không khí nơi Trung Tâm đã mát mẻ hiền lành lại càng thêm dịu dàng trong sạch.
Công tác xã hội của Trung Tâm Bài Cùi Núi Sạn ai ai cũng trông thấy, vì tỏ rõ như ban ngày. Ở Khánh Hòa có những công tác thực hiện một cách âm thầm, không mấy ai để ý, trừ những kẻ thọ ân. Như công tác của:
D) ĐOÀN TỪ BI
Đoàn Từ Bi thành lập năm 1961 do các học chúng tại Ni Viện Diệu Quang Phước Hải đảm trách. Các ni cô tòng học ở Viện, những ngày Chúa nhật và ngày lễ, chia nhau xuống các xóm nghèo để giúp đỡ an ủi các gia đình khốn khó. Các cô tắm rửa từng đứa bé sài chốc mà cha mẹ không có thì giờ chăm nom, trừ chấy trụng rận cho các em chưa biết phép vệ sinh và dạy cho chúng cách bảo vệ sức khỏe… Đưa đi bệnh viện, hoặc chạy thuốc men cho những người không có thân nhân. Các cô đi xin từng tấm áo tấm chăn ở những hội Từ Thiện, ở các nhà hảo tâm… đem cấp phát cho người thiếu thốn. Nhiều lúc các cô nhịn phần ăn của mình cho những người đói, dùng khăn đầu, khăn tay của mình mà lau chặm những vết thương lở của bệnh nhân. Nói tóm lại là các cô làm tất cả những gì mà mình có thể làm được theo lòng từ bi. Cặm cụi làm, lặng lẽ làm, không mong người chung quanh để ý, cũng không để ý đến người chung quanh. Và làm hết ngày thì về, không cần ghi nhớ thành tích, không cần báo cáo công tác.
Cảnh đau khổ vô cùng, mà sức các cô có hạn. Lại thêm các cô có hằng tâm nhưng không có hằng sản. Nếu các cô được số tiền bạc, số phẩm vật của Ty Xã Hội hoặc của hội Hồng Thập Tự Khánh Hòa, thì con nhà nghèo nhờ biết mấy. Tuy vậy giống bồ đề vô tâm đem gieo vãi hẳn đã gây ảnh hưởng nhiều trong u u minh minh.
Dời bệnh nhân từ đèo Rù Rỳ vào Núi Sạn, để cơ sở nơi đèo lại làm viện Dưỡng Lão. Ban Giám Đốc và anh em thiện chí tiếp tục công việc nuôi dưỡng và điều trị bệnh nhân nội trú, tìm kiếm và giúp đỡ bệnh nhân mới. Lại còn lo xây đắp đường sá để xe cộ vô ra được dễ dàng, lo tổ chức việc chăn nuôi, việc trồng tỉa để tăng phần thực phẩm cho bệnh nhân 33. Ngoài ra còn mở lớp bình dân giáo dục, và mở một lớp tạp chí lấy tên là NIỀM THƯƠNG, để giúp đỡ bệnh nhân cùng con em bệnh nhân về mặt học vấn 34. Công việc bộn bề và rất khó nhọc, nhưng mọi người đều hào hứng vì thấy đem lại những phần thưởng tinh thần.
Hiện nay Trung Tâm nuôi dưỡng trên 200 bệnh nhân nội trú, điều trị trên 600 bệnh nhân ngoại trú, chưa kể những công tác đã làm và đương làm cho các nơi phụ thuộc như Khánh Dương, Tuy Hòa, Ninh Thuận, Phan Rí Cửa mà lắm nơi đã có chẩn y viện có đủ tiện nghi. Chỉ một nhóm người nhờ lòng bác ái và đức hy sinh mà làm được những công tác to lớn như thế, thì thật đáng kính phục biết ngần nào!
IX. HÀNH CHÁNH
A) TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH
Hành Chánh Khánh Hòa, nay cũng như xưa, tổ chức y như các tỉnh trong toàn quốc, nhất là Trung Việt.
1) XƯA
Sau khi đất Kaut-Hara của Chiêm Thành sáp nhập vào địa bàn nước Việt Nam (1653) thì đổi làm trấn Bình Khang và chia làm 2 phủ là Bình Khang, Diên Ninh và 5 huyện. 35
Đến đời Gia Long (1802-1820) trấn đổi làm doanh và tên Bình Khang đổi ra Bình Hòa, Diên Ninh đổi ra Diên Khánh. Doanh cũng như Trấn, do quan Trấn thủ chỉ huy với Cai bạ và ký lục phụ tá. Cầm đầu mỗi phủ có quan Tuần Phủ. Cầm đầu mỗi huyện là Huyện quan. Huyện trực thuộc Phủ. Phủ trực thuộc Tỉnh.
Từ đời Minh Mạng trở về sau, doanh Bình Hòa đổi làm tỉnh Khánh Hòa, do quan Tuần Vũ cầm đầu, quan Án Sát phụ tá. Quan Tuần Vũ Khánh Hòa coi luôn cả tỉnh Bình Thuận, gọi Khánh Thuận Tuần Vũ. Dưới cấp phủ huyện cũng có đôi điểm thay đổi về danh hiệu và ranh giới. Quan chức cầm đầu cũng đổi danh xưng. Cầm đầu phủ gọi là Tri phủ, cầm đầu huyện gọi là Tri huyện. Viên tri phủ được quyền điều khiển và kiểm soát công việc của viên tri huyện. Quyền ấy gọi là thống hạt. Thường viên tri phủ vừa kiêm lý công việc của một huyện vừa thống hạt một hay nhiều huyện khác. Như viên tri phủ Diên Khánh vừa kiêm lý huyện Phước Điền, vừa thống hạt huyện Vĩnh Xương. Phủ Ninh Hòa kiêm lý huyện Quảng Phước và thống hạt huyện Tân Định (Huyện Hoa Châu nhập vào huyện Phước Điền, năm Minh Mạng thứ 7) 36. Mỗi phủ mỗi huyện chia ra làm nhiều xã, do Xã trưởng cầm đầu. Xã chia ra làm ấp. Thường thường mỗi ấp chỉ trên dưới một dặm vuông, nên gọi là Lý 37. Thời xưa, cơ quan chỉ huy Tỉnh đóng ở phía Bắc tại Bình Hòa, trên bờ sông Dinh. Từ đầu nhà Nguyễn trung hưng thì dời vào thành Diên Khánh. 38
Sang thời Pháp thuộc, nhân dân Khánh Hòa cũng như đồng bào toàn quốc, « một cổ phải chịu hai tròng », nghĩa là phải ở dưới quyền cai trị của hai Chánh phủ: Chánh phủ thực dân, tục gọi là Chánh phủ Bảo Hộ, Chánh Phủ phong kiến, tục gọi là Nam Triều. Ở mỗi tỉnh, viên công sứ, đại diện cho Chánh phủ thực dân. Chung quanh có nhiều cộng tác viên người Pháp, như Phó sứ, Giám binh, Mật thám, Cảnh sát, và nhân viên các Ty chuyên môn. Người Pháp trong mọi cơ quan đều giữ vai điều khiển. Dưới quyền có nhiều viên chức Việt Nam giúp việc, như phán sự, ký lục, thông ngôn, thư ký, tùy phái, v.v… Tòa sứ và các ty chuyên môn của Pháp ở Khánh Hòa đều đóng tại Nha Trang, dọc theo bờ biển.
Còn « quan An Nam » đầu Tỉnh vẫn đóng lỵ sở tại thành Diên Khánh. Người bình dân gọi cơ quan Diên Khánh là « Tỉnh », cơ quan Pháp ở Nha Trang là « Tòa ». Thành phần cấp chỉ huy Tỉnh vẫn không thay đổi. Chỉ sau khi thành lập tỉnh Ninh Thuận, thì Tuần Vũ Khánh Hòa không còn kiêm nhiệm tỉnh Bình Thuận như trước nữa.
Các huyện nhập lại và chia thành hai phủ và hai huyện. Phía Bắc một phủ là Ninh Hòa và một huyện là Vạn Ninh. Phía Nam một phủ là Diên Khánh và một huyện là Vĩnh Xương. Phủ và huyện đều trực thuộc Tỉnh. Ở hạ tầng cơ sở, Xã thâu hẹp lại thành Thôn và Ấp đổi thành Xóm. Xã trưởng đổi thành Lý trưởng. Nhưng vì thói quen, nhân dân vẫn gọi là « thầy xã » chớ ít khi gọi là « thầy lý ». Giúp việc cho Lý trưởng có viên Phó Lý cùng Lý Trưởng coi việc hành chánh, và ngũ hương coi về chuyên môn:
- Hương kiểm coi việc tuần phòng, canh gác, tức là giữ an ninh, trật tự trong làng.
- Hương bản lo việc tài chánh và thủ quỹ làng.
- Hương bộ coi việc sanh tử giá thú, tức là giữ nhân thế bộ của làng.
- Hương dịch lo kêu xâu gọi thuế.
- Hương mục coi việc đường sá, cầu kiều trong làng.
Lý trưởng do dân bầu, và được ăn một phần ruộng ngoài khẩu phần được hưởng như toàn dân. Phó Lý và ngũ hương do lý trưởng và các nhân vật có hàm phẩm có uy tín trong làng đề cử và quan địa phương chấp thuận. Những viên chức nầy chỉ được miễn xâu và miễn thuế đinh. 39
2) HIỆN NAY
Sau ngày Nhân Dân Việt Nam đã thoát khỏi ách Thực Dân và Phong Kiến, cơ cấu Hành Chánh tỉnh Khánh Hòa từ trên xuống dưới, cũng như các tỉnh khác trong nước, đều thay đổi mới. Cơ quan Hành Chánh Tỉnh dời xuống Nha Trang và đóng tại Tòa Sứ cũ từ ngày Nhật đảo chánh Pháp (1945). Cấp điều khiển toàn tỉnh gồm có: 1 Tỉnh trưởng, 2 Phó Tỉnh trưởng phân nhiệm coi việc Nội An, Hành Chánh và Kinh Tế Tài Chánh.
Tòa Hành Chánh chia ra: 1 Văn phòng do viên Chánh văn phòng điều khiển, 4 Ty:
- Nội An và Quân vụ với 2 phòng (Chánh trị sự vụ và Quân vụ).
- Hành Chánh với 2 phòng (Hành Chánh Tổng Quát và Hành chánh Xã).
- Tài Chánh với 2 phòng (Kế toán Tỉnh và Kế toán Xã).
- Kinh Xã với 3 phòng (Kinh Tế, Xã Hội, Y Tế và Giáo Dục).
Mỗi Ty có một Ty trưởng, mỗi phòng có một Chủ sự điều khiển công vụ.
Tỉnh chia làm 6 quận:
- Từ Bắc vào Nam: Vạn Ninh, Ninh Hòa, Khánh Dương, Vĩnh Xương, Diên Khánh, Cam Lâm. Mỗi quận có một Quận trưởng và một phó Quận trưởng điều khiển, Quận chia làm xã. Xã gồm một hay nhiều thôn ngày Pháp thuộc, và diện tích lớn gần bằng xã ngày xưa. Tất cả có 85 xã, nhưng vì loạn lạc nhân dân của một số xã, nhất là những xã Thượng, đã bỏ đi nơi khác hết. Hiện chỉ còn 70 xã có dân và chánh quyền địa phương.
- Nha Trang: 2 xã (Nha Trang Đông, Nha Trang Tây)
- Vạn Ninh: 9 xã (Kinh)
- Ninh Hòa: 20 xã (19 Kinh, 1 Thượng)
- Khánh Dương: 5 xã (Thượng)
- Vĩnh Xương: 12 xã (Kinh)
- Diên Khánh: 29 xã (14 Kinh, 15 Thượng)
- Cam Lâm: 8 xã (4 Kinh, 3 Thượng, 1 Nùng).
Trừ những xã Thượng, các xã Kinh đều lấy chữ đầu của quận làm chữ gối đầu. Như các xã của Vạn Ninh thì lấy chữ Vạn, như Vạn Phước, Vạn Long, Vạn Khánh… Các xã của Ninh Hòa thì lấy chữ Ninh như Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Hải… Các xã của Vĩnh Xương thì lấy chữ Vĩnh, như Vĩnh Ích, Vĩnh Lương, Vĩnh Phương… Các xã của Diên Khánh thì lấy chữ Diên, như Diên Lâm, Diên Thọ, Diên Lộc. Riêng quận Cam Lâm có nhiều xã không theo lệ như Suối Hiệp, Suối Cát, v.v…
Mỗi Xã có một Ủy Ban Hành Chánh phụ trách công việc trong xã và gồm có: một Chủ tịch, một phó Chủ tịch và ba ủy viên chuyên môn. Tất cả đều có lương bổng. Xã có quỹ riêng. Và bên cạnh Ủy Ban Hành Chánh Xã có Hội Đồng Xã do dân bầu cử. Ủy Ban Hành Chánh do Hội Đồng Xã mà ra. Bên cạnh Tòa Hành Chánh Tỉnh có Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh do dân bầu cử, và các Ty Chuyên môn, như Cảnh Sát Quốc Gia, Công Chánh, Kiến Thiết, Điền Địa, Y Tế, Giáo Dục, Trực Thu Trước Bạ, Gián Thu Công Quản, v.v… Tất cả đều đóng trụ sở tại Nha Trang.
B) CÁC KHU NHA
Ngoài các Ty chuyên môn thuộc phạm vi Tỉnh, Khánh Hòa còn nhiều Khu, Nha mà phạm vi hoạt động trùm cả vùng II Chiến Thuật hoặc cả miền Nam Trung Việt, như:
- Khu Hỏa Xa
- Khu Công Chánh
- Khu Thanh Tra Thuế Vụ
- Khu Quan Thuế
- Khu Canh Nông Công Tác
- Khu Diệt Trừ Sốt Rét.
- v.v…
Trụ sở đều đóng tại Nha Trang.
Tại Khánh Hòa còn có:
- Trung Tâm Huấn luyện Hải Quân ở Chụt.
- Trung Tâm Huấn luyện Không Quân ở Chụt.
- Trường Hạ Sĩ Quan ở Đồng Đế (Vĩnh Xương).
- Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn ở Dục Mỹ (Ninh Hòa).
- Trường Pháo Binh ở Dục Mỹ. 40
X. TƯ PHÁP
Thời Phong Kiến thịnh hành, quan cai trị địa phương nắm trọn quyền hành chánh và tư pháp trong tay. Quan Tỉnh là « Bán diện Thiên Tử » quyền hành rất lớn, muốn cho ai sống thì sống, muốn buộc ai chết thì chết.
Sang thời Pháp thuộc, quyền hành của Nam Triều bị hạn chế. Các quan « An Nam » không còn quyền tự do sanh sát nữa. Quyền tư pháp cũng như quyền hành chánh, chia làm hai: Nửa Tây, nửa Ta. Những việc thuần túy Việt Nam thuộc quyền « quan An Nam » xử. Những việc của Pháp kiều, Ngoại kiều và những việc của Việt Nam mà có dính dáng đến người Ngoại quốc, thì do Tòa Án Tây xử.
Tòa Án Pháp không có trụ sở riêng. Suốt thời Pháp thuộc Tòa án tỉnh Khánh Hòa đóng trong một phòng Tòa Sứ Nha Trang và do viên công sứ điều khiển. Viên Công sứ kiêm nhiệm luôn cả ba quyền truy tố, thẩm vấn, xét xử và gọi là Résident-Juge. Xử cả việc hộ lẫn việc hình, như một tòa án Sơ Thẩm. Tòa án gọi là Trinunal Résidentiel. Những công việc không quan trọng đều giao cho viên Phó sứ xét xử. Viên phó sứ coi việc Tòa Án gọi là Juge Suppléan. Có những việc, liệu viên Công Sứ không đủ sức đảm đương thì Tòa Thượng Thẩm Saigon cử Thẩm phán chuyên môn ra phụ trách. Viên Giám binh làm Lục Sự.
Thời Tiền Chiến ở Nha Trang chưa có phòng giấy Trạng Sư. Những vụ tố tụng cần đến Trạng sư đều phải nhờ đến các Trạng sư ở Saigon. Trạng sư thường gởi lý đoán tới Tòa Án, chỉ khi nào vụ kiện có tánh cách quan trọng lắm, mới thân hành ra Nha Trang mà thôi.
Tòa Án Ta không có Trạng sư. Và việc hình cũng như việc hộ, Quan Tỉnh xử xong phải trình Sứ duyệt rồi mới được tư bộ. Hiện nay Tòa Án độc lập.
Tòa án sơ thẩm Nha Trang đóng riêng một nơi ở cách Tòa Hành Chánh. Chưa có « nhà cửa xứng đáng », tòa đóng trong sở nhà trước kia làm trụ sở cho nhà Ngân hàng Crédit Agricole. Sở nhà chật chội cũ kỹ, không có vẻ Tòa án cho lắm. Cách tổ chức na ná như tòa án đệ nhất cấp (Tribunal de 1ère Instance) của Pháp ngày xưa: Có Chánh Án, có Biện lý, có Dự Thẩm, có Lục Sự, quyền hành hạn định minh bạch. Và các người đến Tòa có quyền nhờ Trạng sư biện hộ. Hình thức khác hẳn xưa. Nhưng câu « vô phúc đáo tụng đình » vẫn còn đậm nét trên môi người dân tới tòa án Nha Trang cũng như tòa án các Tỉnh khác trong nước.
Ngoài tòa án nhân sự của tỉnh Khánh Hòa, tại Nha Trang còn có Tòa Án Quân sự của vùng II Chiến Thuật.
Công việc tòa quân sự cũng bề bộn như tòa nhân sự. Cảnh tượng « uống giếng Đường Nghiêu, gảy đàn Ngu Thuấn » không biết rồi đây có trở lại cùng nhân dân Việt Nam nói chung, Khánh Hòa nói riêng.
XI. NHỮNG CƠ SỞ ĐẶC LẬP
A) CƠ SỞ TÔN GIÁO
Ngoài những Chùa chiền, Nhà Thờ, Nhà Giảng, Khánh Hòa còn nhiều cơ sở mà phần nhiều các tỉnh khác trong toàn quốc không có hoặc chưa có. Như:
- Phật Học Viện Hải Đức
- Tu Viện La San
- Tu Viện Phan Xi Cô
- Thần Học Viện Tin Lành
- v.v…
Những cơ sở nầy đều đồ sộ nguy nga và đều nằm trong những nơi thanh u cao khiết. Phong cảnh có thể gọi là thoát tục « lâng lâng chẳng bợn chút trần ai ». Những nơi đây, chẳng những là những nơi đào tạo những gương đức hạnh cho đời soi, mà còn là những nơi đón mời những khách tầm u phỏng thắng. Khách du quan đến Khánh Hòa, không mấy ai không tìm đến thưởng ngoạn. Và:
Đến đây viếng cảnh viếng thầy,
Không say mùi đạo cũng khuây lòng trần.
1) PHẬT HỌC VIỆN HẢI ĐỨC
Đúng tên là Phật Học Viện Trung Phần. Sáng lập năm 1956, trên cơ sở chùa Hải Đức Nha Trang. Nguyên năm Bính Thân (1956) hai Tổng Trị Sự Phật Giáo Trung Phần là Giáo Hội Tăng Già và Hội Phật Giáo quyết định thống nhất các Phật Học Đường thành một tổ chức đại qui mô về phương diện đào tạo tăng tài. Nha Trang được chọn làm địa điểm. Đứng trước lợi ích chung, vị trụ trì chùa Hải Đức là Hòa Thượng Phước Tuệ cùng các môn đồ và bạn Hộ Tự tỉnh Khánh Hòa tự nguyện làm giấy cúng chùa cùng các động sản và bất động sản liên hệ cho Phật Giáo Trung Phần để lập Phật Học Viện.
Một ban Trị sự Phật Học Viện được thành lập và ủy quyền Thượng Tọa Thích Trí Thủ đảm nhiệm chức vụ Giám Viện, thay mặt toàn ban điều khiển mọi sinh hoạt của Viện. Lễ nhập tự cử hành vào ngày 22 tháng 8 năm Bính Thân, tức 26 tháng 9 năm 1956. Cùng ban Trị sự Tỉnh Hội Phật Giáo Khánh Hòa và ban hộ tự cũ, Thượng Tọa Giám Viện xúc tiến công việc trường ốc, qui tụ học tăng các Phật Học Đường, và tổ chức Đại giới Đàn, khánh thành Phật Học Viện vào dịp lễ Thành Đạo 2.500 năm, ngày 8 tháng chạp Âm lịch tức tháng 1 năm 1957.
Số học tăng mỗi ngày qui tụ mỗi đông. Để đủ chỗ lưu trú, viện phải xây cất thêm nhà cửa. Và để đủ tiền chi dụng, phải tổ chức những cơ sở kinh tế tự túc: mở xưởng vị trai Lá Bồ Đề, xưởng làm hương, nhà in, tiệm sách, v.v… Nhờ vậy mà học tăng khỏi bị thiếu thốn về việc ăn học.
Từ 1957 đến 1968, Phật Học Viện Trung Phần đã đào tạo được trên trăm vị giảng sư, hiệu trưởng trung học, trụ trì… đi hoằng pháp khắp các tỉnh Miền Nam Việt Nam. Xuất sắc nhất là Đại Đức Thích Quảng Hương.
Đại Đức người Phú Yên. Sau khi học xong chương trình, được Viện cử đi lên Banmê thuột trụ trì chùa Khải Đoan, Tỉnh giáo hội Darlac. Năm 1963, Đại Đức hăng say tham gia cuộc tranh đấu của Phật Giáo toàn quốc. Tháng 8 năm ấy, lệnh giới nghiêm ban bố, chùa chiền bị phong tỏa, tăng ni bị bắt giam, thì Đại Đức cũng chịu chung một số phận. Sau ít lâu Đại Đức được phóng thích. Đại Đức đi thẳng về chùa Già Lam. Lúc bấy giờ tuy các vị cao tăng đều bị giam giữ, cuộc tranh đấu chống Chánh Quyền tàn bạo Ngô Đình vẫn tiếp tục. Nhiều tổ chức bí mật ra đời dưới sự lãnh đạo của sinh viên, thanh niên: « Không lẽ ngồi nhìn cảnh nhiễu nhương ».
Đại Đức noi gương Hòa Thượng Thích Quảng Đức: « Phát nguyện thiêu thân cầu Tam Bảo ; Hộ trì Phật giáo được miên trường ». 41
Trước khi thực hành tâm nguyện, Đại Đức lên Banmêthuột thăm chùa, rồi trở vào Saigon. Ngày 18 tháng 8 năm Quí Mão tức 5-10-63, Đại Đức âm thầm tẩm xăng vào quần áo, mang thêm hai đãy ni lông xăng dưới nách, khoác áo tràng ra ngoài, rồi thuê xe taxi đến Công trường Diên Hồng, trước chợ Bến Thành. Lúc bấy giờ vừa đúng ngọ. Bước xuống xe, Đại Đức liền quẹt diêm châm vào áo. Lửa phựt cháy, Đại Đức ung dung vào công trường, ngồi kiết già nhập định. Lửa cháy hừng cả ánh nắng ban trưa. Đại Đức vẫn an nhiên tỉnh tọa. Người ta kéo đến đông nghẹt cả đường lối. Liền đó lính kéo đến lấy mền ướt chụp lên trên mình Đại Đức để dập tắt lửa, rồi cướp xác mang đi. Ngọn lửa thiêng của Đại Đức làm sôi thêm dòng máu hy sinh vì Chánh Pháp Chánh Nghĩa của toàn thể Phật Giáo Đồ đã được những ngọn lửa thiêng của Hòa Thượng Quảng Đức và các Tăng Ni kế tiếp nung nấu.
Nếu không giữ gìn cẩn mật, ở Viện Phật Học Nha Trang đã có nhiều học tăng noi gương Đại Đức Thích Quảng Hương là bạn đồng môn tiền bối. Như thế chứng tỏ rằng Viện Phật Học Hải Đức đã đào tạo được nhiều người biết xả bỏ thân thể để giáo hóa chúng sanh, biết dùng tấm hình hài làm công cụ để đạt đến quả Phật.
Phật Học Viện, ngoài tổ chức giáo dục học tăng đủ các cấp Tiểu học, Trung học, Đại học, còn tùy theo nhu cầu hoằng pháp, tổ chức thêm:
- Giảng sư đoàn
- Phiên dịch kinh tạng
- Trước tác, xuất bản sách giáo khoa…
Viện lại còn dự định thực hiện nhiều công tác lớn lao, trong đó có việc thành lập một Đại Học Phật Giáo tại Nha Trang. Với hạnh nguyện tiếp dẫn tương lai, báo Phật ân đức, thì không kíp thời chầy, Viện sẽ thực hiện được chương trình đã hoạch định. Hiện nay Viện gồm có:
- Ngôi chùa Hải Đức cổ kính trang nghiêm.
- Hai dãy nhà tịnh thất gồm nhiều phòng, dùng làm văn phòng, phòng học tăng, thư viện.
- Hai dãy tăng liêu và bệnh viện.
- Một tịnh nghiệp dùng làm chỗ tu học và thọ Bát quan trai giới cho hàng cư sĩ.
- Một ngôi thiền thất dành cho các Thượng Tọa, Đại Đức cần nơi thanh tịnh nhập thất và thiền định.
Chung quanh đều có cây cối xanh mát. Tất cả nằm trên cánh phía Tây « con Ngọc bức hàm hoàn » tức là Núi Trại Thủy 42. Vọng cảnh bao la, nước mây đầy mắt. Viện nằm trong chốn phồn hoa đô hội, nhưng lại biệt chiếm một tiểu giang sang. Cảnh trí tương tợ núi Mang Sơn ở Lạc Dương:
Thành trung nhật tịch ca chung khởi,
Thử sơn duy văn tùng bách thanh. 43
Nghĩa là:
Trong thành chiều rộn sanh ca,
Nơi đây tiếng bách non hòa tiếng thông.
Viện lại có một quả hồng chung, chú tạo năm 1961, kích thước phỏng theo quả hồng chung chùa Linh Mụ Huế. Cao 1 thước 70, đường kính 1 thước 10, nặng một nghìn lẻ ký. Chuông treo nơi tiểu đình phía sau chùa Hải Đức, nơi dốc lên Tịnh Thất. Tiếng chuông nghe rất xa, và đã gây hứng cho nhiều nhà thơ nhà văn mộ đạo hay thức khuya dậy sớm ở Nha Trang. Một số tác phẩm hành thế vang vọng âm hưởng của tiếng chuông. Như:
« THÂM U »
Thoảng tiếng chuông chùa vọng
Bóng đèn khuya rung rinh
Nao nao lòng giếng quạnh
Hơi thu tràn hư linh.
« ÂM BA »
Sương xuống hồi chuông lặng
Dư âm tràn hư không
Lửng lơ vàng gợn sóng
Trăng hồ thu mênh mông. 44
2) TU VIỆN PHAN XI CÔ
Do Linh mục, Manrice Bertin sáng lập năm 1939. Đây là một Đại chủng viện của dòng gồm 2 ban Triết học và Thần học. Kiến trúc vừa kỳ vừa cổ, gồm một dãy nhà lầu và nhiều dãy nhà trệt. Tất cả đều xây bằng đá chẻ rất kiên cố, trông đồ sộ nguy nga. Mặt ngó vào Nam. Chung quanh viện có vườn rộng. Trong vườn ngoài hoa kiểng của người trồng, xanh tươi thơm thắm, còn có nhiều cây cổ thụ mọc chen trong những tảng đá núi lớp đứng lớp nằm. Quang cảnh thật ngoạn mục.
3) TU VIỆN LA SAN
Xây dựng năm 1932. Người chủ trương là Sư huynh py Joseph. Chuyên về ngành giáo dục. Qui mô cũng rộng lớn như tu viện Phan Xi Cô. Và cũng như viện Phan Xi Cô, Viện La San ngó mặt vào Nam. Viện gồm có hai dãy nhà lầu đồ sộ, xây gạch, với những nhà phụ thuộc rộng lớn đủ tiện nghi. Chung quanh viện có vườn tược xanh tốt, nhưng ít cây cao rậm hơn vườn viện Phan Xi Cô. Song lại có vườn nho, trái lớn và ngọt không kém nho ngoại quốc.
4) THẦN HỌC VIỆN TIN LÀNH
Thật tên là Thánh Kinh Thần Học Viện. Mới lập thời hậu chiến. Gồm nhiều dãy lầu cất theo kiểu tối tân, nguy nga tráng lệ. Chung quanh khoảng khoát. Đứng dưới trông lên thật giống một nhà quyền quí đứng trên diễn đàn đương chờ đón tiếng vỗ tay hoan nghênh của thính giả.
Nhìn chung cả ba viện, thì viện Phan Xi Cô và viện La San là « người đã đứng tuổi », còn Viện Thần Học là « chàng trai mới lớn lên, sức vóc đương độ nảy nở » 45. Cả ba đều nằm trong dãy đồi phía Đông Bắc thôn Cù Lao. Mỗi viện độc lập trên một ngọn đồi nửa như « tranh hùng », nửa như « tương y tương ỷ »:
- Viện Phan Xi Cô đứng trên ngọn Tây Nam.
- Viện La San đứng trên ngọn Đông Nam.
- Viện Thần Học đứng trên ngọn Đông Bắc.
Vọng cảnh bao la:
- Phía Bắc và phía Tây, núi non trùng điệp.
- Phía Đông và phía Nam, sóng nước thương mang.
- Ném về phía Tây Nam, thành phố Nha Trang ẩn hiện dưới bóng cây làn khói.
Và phía Tây phía Bắc, ruộng vườn, nhà cửa của đồng bào Vĩnh Xương trải giăng từ chân đồi đến chân núi, nơi gần nơi xa, chỗ mờ chỗ tỏ, mênh mông bát ngát, trông thật khoái mắt khoái lòng.
Ba viện Phan Xi Cô, La San, Thần Học, cũng như Phật Học Viện Hải Đức, được trở thành danh thắng Khánh Hòa, đều nhờ cảnh trí thiên nhiên. Riêng viện Phan Xi Cô có một cảnh nhân tạo rất được khách du quan tán thưởng. Đó là: Động Đá Thầy Pascal. Động cao chừng 5 thước dài, dài chừng 4 thước rưỡi, rộng chừng 4 thước. Vách toàn đá nguyên khối, ráp vào nhau, chồng lên nhau. Nóc bằng xi măng đúc tiệp theo màu đá. Mới trông, tưởng là một động đá thiên nhiên. Động đá nầy nếu là công trình của nhiều người, hoặc xây tạc với những dụng cụ tinh xảo, thì không có gì đáng cao rao. Nhưng đây là tác phẩm của một người, một người vừa tu hành vừa làm việc, làm việc trong im lặng với những dụng cụ hết sức thô sơ. Người đó là một tu sĩ dòng Áo Nâu: Thầy Pascal Nguyễn văn Ly, 58 tuổi, quán Nghệ An.
Những tảng đá dùng xây động – 9 tảng tất cả – đều to lớn nặng nề. Có một tảng cao 3 thước, rộng 1 thước 70 phân, dày 65 phân, nặng gần 9 tấn. Tất cả đều nằm rải rác trên ngọn đồi, cách xa vị trí của động đến vài ba trăm thước. Thầy Pascal đã dùng đòn bẩy để đưa đến nơi, và cũng dùng đòn bẩy để xây dựng. Đưa đá từ xa đến gần bằng đòn bẩy thì còn dễ dàng đôi chút. Chớ đưa đá từ thấp lên cao rồi còn phải sửa lại cho ngay ngắn, thì thật vô cùng khó khăn! Không biết thầy đã làm như thế nào. Thầy Pascal hiện đi truyền giáo miền Thượng. Người thuật lại không đủ sức để trình bày, người nghe thuật không đủ tài để diễn tả. Nên chỉ xin nói đại lược rằng thầy Pascal đã dùng gỗ và cây thép làm đòn bẩy, làm đường rầy, dùng trí và toán pháp để tính, dùng sức để dời những tảng đá nặng từ một tấn trở lên. Cặm cụi một mình, hết ngày nầy sang ngày khác, ròng rã mấy năm trời mới hoàn thành! Công phu bao kể xiết! 46
Để nhớ công kiến tạo, khách du quan lấy tên tác giả đặt tên tác phẩm: Động Đá Thầy Pascal. Động Đá Thầy Pascal đứng tựa lưng vào một nổng đồi nhỏ. Những khóm cây hình dáng khẳng khiu, những cụm đá hốc hỉu gồ ghề, nối liền động và đồi thành một khối. Và chung quanh có những đường nhỏ chạy quanh co, những tảng đá núi nằm rải rác, những cổ thụ tàn lá sum sê. Những cảnh nửa thiên nhiên nửa nhân tạo, nương tựa lẫn nhau, hòa hợp cùng nhau, dựng nên một « tiểu càn khôn » biệt thú. Chính nơi đây thường in đậm nét « phong quang » vào tâm khảm của phần đông du khách đến viếng các cơ sở trên dãy đồi Cù Lao.
Ở Khánh Hòa cơ sở tôn giáo còn nhiều, còn nhiều nơi quan trọng, như Tiểu Chủng viện Sao Biển ở Chụt, Tiểu Chủng viện Dòng Triều ở Đồng Đế, Nữ tu viện Dòng Filles de la Charité ở Nha Trang, Ni Viện Diệu Quang ở Phước Hải, v.v… Nhưng cảnh trí những nơi nầy không có những điểm đặc sắc như các viện ở Cù Lao, ở Trại Thủy, nên hễ đi thăm cơ sở tôn giáo, phần đông du khách Việt Nam cũng như ngoại quốc, đều tìm đến các viện Hải Đức, Phan Xi Cô, La San, Thánh Kinh Thần Học trước tiên. Và cũng vì quang cảnh, cũng vì phong thú, mà các nhà viết văn, các nhà làm thi vẫn đặt nặng ngòi bút ở những nơi nầy hơn các nơi khác vậy.
B) CƠ SỞ KHOA HỌC
Khánh Hòa chỉ có hai cơ sở khoa học. Đó là: Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải Học Cầu Đá. Hai cơ sở nầy mới thật là « đặc lập độc hành ».
1) VIỆN PASTEUR NHA TRANG
Viện nằm trên đại lộ Duy Tân, mặt ngó ra biển. Ban sơ là một phòng thí nghiệm cũ kỹ với dãy chuồng ngựa sơ sài, do Bác Sỹ Yersin cất năm 1895 để bào chế thuốc trừ dịch hạch và thuốc ngừa bệnh dịch trâu bò.
Năm 1904, sau khi phòng thí nghiệm Yersin được đổi làm Viện Pasteur Nha Trang, Chánh phủ Pháp ở Đông Dương mới xây cất lại trên một qui mô rộng lớn: Các phòng thí nghiệm, phòng bào chế tổ chức trong dãy nhà lầu một tầng, dài 55 thước. Hai bên, nối tiếp nhau những nhà giải phẫu, chuồng nuôi súc vật, lầu chứa nước, nhà máy nước đá… với đường trải đá, bồn hoa tươi, cây trùm bóng mát. Bên cạnh viện lại có những biệt thự xinh xắn làm nơi cư trú cho nhân viên người Pháp trong cấp chỉ huy, và những dãy nhà ngói cao rộng dành cho nhân viên Việt Nam. Khi phòng Thí Nghiệm Yersin mới lập thì Nha Trang còn là một bãi cát trắng mênh mông. Năm ba nóc nhà ngói nho nhỏ của người Pháp cất rải rác ven mé biển và mấy dãy nhà tranh lụp xụp của người Việt chen chúc nơi Xóm Cồn. Đường sá chưa có, phố xá chưa có. Đường liên lạc duy nhất với Huế và Saigon là con đường biển.
Khi phòng Thí Nghiệm trở thành Viện Pasteur thì Nha Trang đã có đường xe có chợ búa. Phố xá của người Hoa kiều và nhà cửa của người Việt Nam đã có được năm ba dãy ở vùng đầm Xương Huân. Công sở và công thự của Chánh quyền Pháp cất thêm cũng đã nhiều. Con đường Thuộc Địa số 1 (tức là Quốc Lộ số 1 hiện tại) đã mở. Việc giao thông đã được nhanh chóng dễ dàng. Do đó việc xây cất viện Pasteur không cực nhọc bằng việc xây dựng phòng Thí Nghiệm Yersin, mặc dù Viện lớn hơn phòng vạn bội… 47
Phòng Thí Nghiệm Yersin đổi làm Viện Pasteur Nha Trang một lần cùng phòng Thí Nghiệm Calmette đổi làm Viện Pasteur Saigon. Hai Viện gọi chung là Viện Pasteur Đông Dương (Instituts Pasteur d’Indochine), tùy thuộc Viện Pasteur Paris và do Bác Sỹ Yersin điều khiển. Có hai bản hợp đồng ký giữa Chánh quyền Đông Dương và Viện Pasteur Paris về hai viện Nha Trang Saigon. Theo tinh thần hai bản hợp đồng thì Viện Nha Trang cũng như Viện Saigon được tự trị về mặt quản trị, tài chánh cũng như về mặt chuyên môn. Hàng năm Chánh phủ Đông Dương chỉ cung ứng một số tiền phụ cấp mà việc chi tiêu không buộc phải chứng minh. Quỹ của Viện gồm món tiền phụ cấp của Chánh quyền Đông Dương và tiền bán thuốc của Viện. Sở Suối Dầu là tài sản của Viện Pasteur Nha Trang. Huê lợi thu hoạch hàng năm không ít. 48
Khi phòng Thí Nghiệm Yersin đổi làm Viện Pasteur Nha Trang thì công việc gia tăng trăm nghìn lần:
- Sản xuất thuốc: Ban đầu viện sản xuất nhiều thuốc trừ dịch hạch cho người. Nhưng sau khi viện Paris sản xuất được nhiều thuốc nầy thì viện Nha Trang chăm lo sản xuất thuốc trừ dịch trâu bò và súc vật khác.
- Đào tạo cán bộ: Để có cán bộ phục vụ, các tỉnh trong nước và mấy nước lân cận Miên, Lào, gởi người đến Viện học về các bệnh súc vật. Những viên thú y tốt nghiệp trường Đại Học Hà Nội đều phải đến tập sự ba tháng tại Viện trước khi được bổ dụng.
Ngoài ra còn phải nghiên cứu:
- Về bệnh sốt rét ở Đồng Nai Thượng.
- Về tất cả các thứ vi trùng, các thứ ký sinh trùng gây bệnh cho người cho vật và cả cho loài thảo mộc.
Sau Thế chiến 1911-1918, mức nhu cầu về thuốc men mỗi ngày mỗi tăng. Ngoài những phòng Thí Nghiệm đã mở tại Huế, Phnom-Penh, Vientiane do Viện Nha Trang bảo trợ, ở Hà Nội và Dalat phải mở thêm hai viện nữa mới đủ sức cung ứng. Viện Pasteur Nha Trang và viện Saigon cũng mấy lần tăng cường nhân viên, mở rộng phòng ốc và trang bị dụng cụ canh tân.
Sở Suối Dầu cũng theo đà của Viện mà phát triển. Năm 1940, sở đã khai thác được 1.200 mẫu tây đất trồng trỉa, trong đó có trên 300 mẫu Cao su đã lấy mủ. Còn súc vật, ngoài số ngựa và bò dùng trong việc bào chế huyết thanh (Sérum) và đậu giống (vaccin), trong sở nuôi trên hai nghìn con thịt và con giống dê, cừu, trâu, bò, ngựa… 49 Với sở Suối Dầu, Viện Pasteur Nha Trang là một cơ sở to lớn nhất Khánh Hòa.
Năm 1939, hai nhà thơ đất Hà Tiên là Đông Hồ và Mộng Tuyết, trong chuyến Bắc du, có ghé thăm Viện. Sau đây là quang cảnh của viện dưới mắt thi nhân:
« Viện Pasteur, một sở Y tế và chuyên khảo cứu về vi trùng học. Bọn khách du lịch vào xin phép và ghi tên rồi có một ông Bác sĩ đưa đi xem các nơi. Qua chỗ nhốt chó điên. Trong chuồng sắt, những con chó dại lồng lộn sủa lên một lượt. Nhiều con, nhiều giọng khàn khàn khô khan nghe ghê rợn. Lại có con chỉ nhìn người đi qua bằng đôi mắt đỏ ngầu, hậm hực mà không sủa được. Những con ấy đã bị chích thuốc cho câm. Khu nhà nuôi bọ để thí nghiệm vi trùng. Những con bọ trắng đẹp như thỏ con, to bằng chuột cống, lắt chắt khắp một dãy chuồng có ngăn lớp hẳn hoi. Qua chuồng bò, qua chỗ mổ xác thú. Đến một gian nhà, có những lò, trên kê thùng sắt to đậy kín. Trong không khí nóng bức nghe có mùi khác khác… Rành mạch và quen miệng như nhà giáo giảng bài, vẫn một giọng đều đều, Bác sĩ giới thiệu: Đây là chỗ nấu xác thú. Nấu những con vật chết vì bị chích vi trùng vào để khảo cứu. Phải hầm đến 120 nhiệt độ cho vi trùng bệnh thật chết, chắc chắn không còn truyền nhiễm được nữa rồi mới đem chôn. Vừa nghe đến câu « đây là lò nấu xác thú », rồi mùi tanh hôi khác thường đưa ra, quên hết cả lễ phép, sợ quá cô thiếu nữ chạy lùi ra sân.
« Trong lúc mọi người đi nghe giảng về sự mổ xẻ về sự phòng ngừa vi trùng thì cô tẩn mẩn ngồi nhặt những cánh hoa đỏ rơi lác đác dưới gốc phượng. Cô thầm nghĩ: Nếu là một vườn hoa thơm đẹp thì không đợi mời, thi sĩ cũng sẽ đi sâu vào. Nhưng đây là địa hạt của nhà giải phẫu học. Trông cô thiếu nữ, dưới ánh nắng hè chang chang, đang phe phẩy chiếc nón Huế cho ráo mồ hôi nhỏ giọt trên thái dương, mà thương tình, Bác sĩ đưa đến cho một sự đền bù rất thú vị.
« Ở nhà nấu xác thú ra, Bác sĩ mời cả bọn vào chơi « vùng hàn đới » 2 độ. Ba chữ trong ngoặc kép đó tôi muốn gọi cái frigidaire bằng cả một gian nhà rộng. Ở đó nuôi những giống vi trùng đã gây được.
« Đang bị thiêu đốt trên sa mạc chưa biết trốn vào đâu mà bỗng bước sang một thế giới hàn lãnh, qua một trạm lạnh vừa chừng 20 độ cho quen khí hậu. Thiếu nữ thấy mình khỏe khoắn, sung sướng và nhẹ nhàng, thiệt là một cuộc du lịch chớp nhoáng từ Phi châu, Ấn độ qua Thụy sĩ, Hòa lan. Tiếng máy chạy êm ru như tiếng gió quạt từ đâu xa đưa lại. Hàn khí thấm dần vào ; vào áo, vào da, vào thịt. Man mát, man mát… một thứ man mát thấm thía và êm đềm. Một mối vui vẻ lâng lâng hớn hở như cành hoa hồng hạnh cổ cầm theo tay từ sáng, đã héo don vì nắng, nay được hơi mát lạnh đượm cho, lại tốt đẹp xinh tươi hơn khi mới hái ». 50
Năm 1956, sau khi Pháp rút lui khỏi đất nước Việt Nam thì Viện Pasteur và sở Suối Dầu giao lại cho Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng như viện Dalat và Saigon, Viện Nha Trang đặt dưới quyền bộ Y Tế.
Công việc bào chế, nghiên cứu ở viện, và công việc khai thác sở Suối Dầu vẫn tiếp tục. Song không biết do ảnh hưởng chiến tranh hay do thiếu người chỉ huy có tài có đức, mà Viện cũng như Sở trông không được vui tươi bằng thời Tiền Chiến, nhất là Bác Sỹ Yersin chưa qui thần.
Và thời Hậu Chiến nầy, dường như Viện không cần quảng cáo, nên khách du lịch vào thăm, nhất là khách thường dân, không được đón tiếp nồng hậu như trước.
Còn nhớ buổi thịnh thời nhà Ngô, có mấy du khách ở Qui Nhơn vào xin phép thăm Viện. Một vị chỉ huy cao cấp đáp: « Đây là nơi nghiên cứu về khoa học, chớ có phải phòng triển lãm hay viện bảo tàng đâu mà xem ». Khách ra về có mấy câu tức sự:
Ghé vào thăm viện Pasteur,
Tình thương nhân loại bây giờ còn đâu!
Đoái trông trời biển một màu,
Xa xa nghe tiếng khuyển tru giật mình! 51
Và đi ngang qua Suối Dầu, Thi nại Thị có bài thơ tức cảnh:
Nghe tự ngày xưa tiếng Suối Dầu,
Quanh co suối đó, hỏi dầu đâu?
Chen càn cỏ dại nhà tranh ngói,
Ép nghẹt đồng xanh núi trước sau.
Lạnh lẽo khói hương mồ Bác Sỹ, 52
Bơ phờ mây nước sở cao su!
Tấc vàng tấc đất còn nguyên vẹn,
Con gắng hơn cha chút sở cầu. 53
2) VIỆN HẢI HỌC NHA TRANG
Viện Hải học Nha Trang do Phủ Toàn Quyền Đông Dương lập năm 1927 và giao lại cho Chánh phủ Việt Nam năm 1952. Viện tọa lạc tại xóm Cầu Đá thôn Trường Tây Quận Vĩnh Xương, cách thành Nha Trang 6 cây số về hướng Đông Nam. Phần đất dành cho Viện trùm một diện tích gần 20 mẫu tây, chạy từ bãi biển Cầu Đá lên đến đỉnh núi Trường Tây. Phía Tây giáp xóm Chụp, phía biển, phía Nam giáp ngọn đèo chạy từ Chụt sang Cầu Đá, phía Đông giáp con đường Tỉnh lộ từ Nha Trang chạy xuống Cầu Đá qua con đèo phía Nam. Phạm vi bao trùm cả « khúc đầu con Thanh long » 54 mà ngọn đèo Chụt Cầu Đá đã cắt đứt 55. Cơ sở của viện chia làm hai phần:
- Nhà ở của cấp chỉ huy gồm 5 ngôi biệt thự khang trang cất trên đỉnh núi cách mặt biển chừng 35 thước và ẩn hiện trong bóng cây xanh.
- Viện chính thức: một sở nhà lầu đồ sộ cất dưới chân núi phía Đông, trên một khoảng đất rộng, bằng phẳng và cao hơn mặt biển chừng 4 thước.
Sở nhà này gồm có:
- Một toà lầu hình khối chữ nhật ba tầng, hai tầng lầu một tầng trệt cao 12 thước, dài 40 thước. Hai tầng lầu dùng làm phòng Thí nghiệm, Thư viện và Văn phòng. Tầng trệt dùng nuôi những giống cá lạ… để cho công chúng thưởng lãm (Aquarium). Tòa lầu này ngó xuống Đông. Trước có sân rộng với bồn hoa cây kiểu, ngoài có hàng sơ ly bằng xi măng chạy dọc theo đường cái.
- Một tòa lầu thứ hai, kiểu thức giống tòa thứ nhất nhưng nhỏ thua (1 mười 1 bảy) nằm phía Nam tòa thứ nhất, sát chân đèo, mặt ngó ra Bắc dùng làm phòng nghiên cứu về Sử, Lý Hóa… trong ngành Hải học.
- Một nhà bảo tàng, rộng 400 thước vuông, cao 5 thước, nằm phía sau chính viện, và dùng cất giữ những giống thủy tộc sưu tập được (Hall des colllections).
Ngoài những ngôi kiến trúc trên đất, Viện còn một chiếc xuồng máy Breton, mạnh 15 mã lực, dài 8 thước, có đủ dụng cụ để thám hiểm dưới biển sâu.
Công tác của Viện rất nhiều:
- Nghiên cứu tất cả các vấn đề hải học về vật lý và sinh vật (Etude de tous les problèmes d’océanographie physique et biologique). Lập bảng thống kê các động vật và thực vật ở trong các vùng biển ven Việt Nam (Etablisement de l’inventaire faunistique et algologique des mers qui bordent le Việt Nam).
- Lập bảng thống kê về « Tài nguyên ngư hải học » (ressources ichthyologiques) của biển Đông Hải (Mer de Chine) và Vịnh Thái Lan, và nghiên cứu sự di cư của các giống cá « du mục » (Etude des migrations de poissons grégaires).
- Tiếp tục truy tầm các sinh vật trong nước ngọt (Poursuite de recherches relatives au domaine des eaux contimentales).
Chương trình rộng lớn lần lượt thực hiện trong lâu dài. Trọng tâm công tác là nghiên cứu các động vật có xương, không xương, có mai, có vỏ, trong các biển Việt Nam. Riêng về cá, năm 1950 Viện đã tổng kê được 1.200 giống. Những giống cá – cũng như các loại khác – một khi bắt được liền do một nhiếp ảnh viên chụp hình dáng và một họa sĩ lấy màu sắc trên thân. Trong phòng sưu tập của Viện được 837 giống ướp giữ làm kiểu. Các giống không xương như đồn đột, sứa, các giống có mai như đồi mồi, có vỏ như cua, ốc, cũng tìm được nhiều loại và cũng giữ được nhiều kiểu ở Viện. Những giống cá to lớn không thể ướp để được thì đắp hình và tô màu chưng bày làm kiểu. Còn những giống nào nuôi được thì nuôi trong những bồn thủy tinh, trong những hồ, những bể cạn…
Công tác của Viện phần nhiều đều có công bố trên các tạp chí khoa học. Và đã có nhiều sách viết về Viện bằng Pháp văn. Cho nên Viện rất có tiếng. Viện có tiếng chẳng những về mặt khoa học mà còn về mặt du lịch nữa.
Toàn thể cơ sở của Viện chiếm được một vị trí rất tốt. Trên non dưới nước, phong cảnh thật hữu tình. Lại thêm nhà cửa lâu đài cất vào những nơi thích đáng và theo những kiểu thích hợp với cảnh vật xung quanh, khiến cảnh thiên nhiên như một cô gái đã sẵn có nước da phấn, mái tóc huyền mà còn được cài thêm chiếc trâm vàng, đeo thêm đôi hoa tai ngọc, xâu chuỗi hạt trai. Phòng nuôi các loại thủy tộc và triển lãm các mẫu cá tôm đặc biệt lại bài trí rất mỹ thuật, người vào xem có cái cảm giác đương thám hiểm đáy biển sâu, hoặc đương đọc truyện thám hiểm bằng tranh ảnh. Cùng Đông Hồ đến thăm viện năm 1939 Mộng Tuyết có tả rõ quanh cảnh đã trông thấy trong bài du ký « Nha Trang bãi lục » rằng:
« Hải học viện Nha Trang, một tòa hai từng 56 dựa một trái đồi gần biển, ở Xóm Cầu Đá. Từng trên viện là chỗ nghiên cứu về khoa hải học. Từng dưới là chỗ bày nuôi đủ các loài thủy tộc. Cả một thế giới của biển sâu hiển hiện ra trước mặt. Dài theo tường, kê những lọ ngâm chất hóa học giữ còn tươi những con cá, con ốc, con trai, con cua, con hến, rắn nước, bông đá, san hô đủ màu sắc tự nhiên. Ở khoảng giữa nhà có một cái bể to. Dưới đáy bể, những hòn đá gồ ghề đóng những hào, vòm và rong rêu xanh tím. Những nhánh bông đá, những mảnh ốc xà cừ, to sắp lớn và ngổn ngang một cách cố ý. Trên mặt nước, thả tung tăng vô số những con cá con đủ các màu sắc. Muốn trang điểm cho biển khơi phải thả giống cá nhỏ nhắn xinh xinh này, cũng như phải thả những giống cỏ li ti, giống cây leo lơi lả để trang điểm cho cảnh vườn tược trên cạn. Dòm xuống đáy hồ giả, cô thiếu nữ du khách mơ màng tưởng như đã vượt trùng dương, lặn xuống đáy biển sâu.
« Lạ lùng và kỳ dị quá tưởng tưởng. Trong bồn kính, những con cá, cánh vi xòe ra như cái quạt lông phe phẩy, lại có con mang những nét dữ tợn buồn cười như mặt hóa trang của những ông tướng Phiên trên sân hát bội. Có con tròn trùng trục, có con dẹp đen đét nhưng lại có con tha thướt như cánh bướm hoa sặc sỡ.
« Lại dựa theo tường, ở một gian khác, xây những hang đá khuất khúc, lồng kính chứa nước. Bấm nút, mấy ngọn đèn điện bật sáng bên trong, bầy cá đủ hình và đủ màu giật mình lội quanh lộn theo ngách đá để tìm chốn núp. Theo kẽ đá, màu rong xanh tươi mườn mượt nổi trong màu nước có bóng đèn nhấp nhánh. Trông nghiểm nhiên là những bức tranh hoạt động.
« Một căn nhà chứa những cá đắp bằng đất nhỏ, xanh trên lưng, trắng dưới bụng, đỏ phớt theo kỳ vi, giống hệt những con cá thật. Đó là loài cá nước ngọt ở Biển Hồ trên Cao Miên hay là các loại cá to lớn quá chưa nuôi được. Người ta phải vỗ khuôn theo thân hình và tô vẽ theo màu sắc lúc mới bắt được.
« Hãy còn những bể to đang xây chưa xong. Nghe là định để nuôi các loài kình nghê, loài cá ăn thịt người. Nó sẽ là giống sư tử, giống hùm sói, ở vườn Bách thú, có lẽ ai nghe cũng khiếp và ai cũng muốn xem.
« Là người Hà Tiên, cô khách không quên đòi xem đồi mồi, một hải sản đã gây ra một công nghệ mỹ thuật, làm giàu có và danh tiếng cho tỉnh nhà. Bể nuôi đồi mồi để tận ngoài sau xa. Chỉ có hai con trong một bể nước cạn phơi giữa trời. Hình như loài này ở đây không được chăm chút đến lắm. Lại thêm dáng nó dài dài thô xấu mà bông vẩy thì đen tối không đẹp như đồi mồi ở biển Hà Tiên! » 57
Thi nhân chưa tả hết những cái lạ cái đẹp trong Viện, vì dễ gì tả hết trong khi mới xem qua một vài lần, một vài giờ. Song bấy nhiêu cũng đủ cho người phương xa thấy rằng quang cảnh của Viện ngoạn mục biết bao nhiêu. Nhưng đó là quang cảnh ngày xưa, ngày mà phần đông người còn biết trọng của công và lương tâm nhà nghề còn có giá. Hiện nay những thủy tộc, sống cũng như chết, không còn được nhiều. Những vật hiện hữu không đủ sức làm say lòng khách đến thưởng lãm.
Về thành tích công tác của Viện, trong mười mấy năm nay, nhân dân không nghe thấy sáng kiến phát kiến gì mới lạ, mà chỉ thấy:
- Những ngôi biệt thự trên đồi được sửa đi chữa lại nhiều phen và trở nên tráng lệ gấp năm gấp mười khi trước.
- Ngôi nhà lầu chính của Viện được nâng thêm một tầng nữa trông thật nguy nga.
- Một phòng bán vé vào cửa đã được tổ chức để phục vụ cho những người phong lưu, mặc dù số tiền bán vé không đủ trả tiền lương cho nhân viên phụ trách.
Tuy vậy, biển đông chưa cạn người, Việt Nam nói chung, người Khánh Hòa nói riêng, vẫn chứa chan hy vọng đối với Hải Học Viện Nha Trang.
Chú thích:
1- Xem chương « Thắng Cảnh Cổ Tích » mục « Chùa Chiền ».
2- Xem chương « Thắng Cảnh Cổ Tích » mục « Chùa Chiền ».
3- Xem mục Chùa Chiền ở trước.
4- Đây nói phần đông chớ không phải tất cả.
5- Xem Việt Nam Phật Giáo sử lược của T.T. Mật Thể.
6- Xem mục Chùa Chiền ở trước.
7- Xem tiểu sử ở phần nhân vật.
8- Lời của một người Ý tên là Tertullien.
9- Xem sự tích ở mục Tháp Bà chương « Thắng Cảnh Cổ Tích ».
10- Đền Quá Quan đã bị giặc Pháp phá hủy. Quá Quan là nơi tỉnh tế. Nhân dân xưa nay đều coi tháp Bà là nơi thờ chính.
11- Đổng trọng Thư là một danh nho đời Tần Hán. Khi Lưu Bang lấy được thiên hạ rồi, họ Đổng đến khuyên phải chấn hưng đạo Nho mới giữ được thiên hạ.
12- Xem mục Đền Miếu ở trước.
13- Thơ Tú Xương.
14- Thuần Phu tiên sinh có dạy học.
15- Về Yến sào, xin xem ở mục hải sản. Về « Sông sâu đá tạc » xin xem mục nói về « Hòn Chữ » ở trước.
16- Xem chuyện « Mẹ Bồng Con » trong chương địa lý và cảnh Suối Cát ở mục « Thắng Cảnh Cổ Tích ».
17- Trong « Đất Việt Trời Nam » tác giả Thái Văn Kiểm đã nói rất tỉ mỉ về trầm hương. Nên đây chỉ nói sơ lược những điều Thái quân đã nói kỹ, và nói thêm những điều Thái quân chưa nói.
18- Xem cách lấy tổ yến ở chương « Địa lý » mục « các Hòn Đảo ».
19- Đó là theo lời khai của người thầu. Không bao giờ họ cho biết sự thật.
20- Xem « Đất Việt Trời Nam » của Thái văn Kiểm, nói rất tỉ mỉ.
21- Hiện nay giá mắc thập bội.
22- Xem « Đất Việt Trời Nam » của Thái văn Kiểm, nói rất tỉ mỉ.
23- Bài nầy ra đời một lần cùng bài « Sương rơi » của Nguyễn Vỹ. Nhưng vì tác giả ở tỉnh nhỏ và mất sớm (1940) nên thơ không được truyền và tên ít người biết.
24- Đây là một trong những bài vận động cách mạng của các nhân sĩ Khánh Hòa thời Tiền Chiến.
25- Thi phạm của Trường Xuyên.
26- Đã nói rõ ở chương « Núi Non ».
27- Sửa lại là:
Danh thơm non nước Khánh Hòa,
Khánh Dương Diên Khánh đều là nước non.
28- Xem mục Sông Ngòi ở trước.
29- Vì heo rừng, nem, rượu đã có bài ca rồi nên không đem vào.
30- Đã nói rõ ở mục « Khổng Giáo ».
31- Xem phần « Lịch sử » ở trước và phần « Nhân Vật » ở sau.
32- Đã trích dẫn một số ở các đoạn trước, vì lắm bài mượn tên núi sông hoặc thổ sản để điểm xuyết cho lời thơ.
33- Mỗi bệnh nhân được Chánh Phủ cấp 40$ tiền ăn mỗi ngày.
34- Tạp chí Niềm Thương gởi bán khắp nơi trong Miền Nam Tự Do và gởi tặng không anh em bệnh nhân trong các viện bài phung trong nước.
35- Đã nói ở phần « Lịch Sử ».
36- Ở cấp Phủ, Huyện còn nhiều sự thay đổi khác nhưng không quan trọng.
37- Trước thời Gia Long ấp rất lớn. Ví dụ ấp Tây Sơn ở Bình Định gồm đến ba quận hiện tại.
38- Đã nói rõ ở phần « Lịch sử ».
39- Đây chỉ nói đại khái. Còn nhiều chi tiết trong việc sửa đổi từ cấp phủ huyện đến cấp xã trong thời Pháp thuộc.
40- Các Khu và các trường võ bị không thuộc phạm vi « Tổ chức Hành chánh Tỉnh ». Tạm đem vào cho gọn việc sắp xếp đó thôi.
41- Đại Đức có để lại hai bài thơ Đường luật nhan đề là « Lời tâm Nguyện ». Đây là những câu trích lục.
42- Phong cảnh đã tả ở mục « Núi Trại Thủy » và chùa Hải Đức.
43- Thơ của Thẩm Thuyên Kỳ đời Đường.
44- Trong Mộng Ngân Sơn.
45- Ba cơ sở nầy đã có sách báo của Dòng của Hội nói kỹ về kiến trúc và cách tổ chức, cách sanh hoạt trong viện nêu ở đây chỉ nói thêm về quang cảnh bên ngoài.
46- Thuật theo lời Tu sĩ Thomas Huỳnh Văn Thông.
47- Xem thêm mục nói về Bác Sỹ Yersin ở sau.
48- Xem mục « Bác Sỹ Yersin » ở sau.
49- Xem mục « Bác Sỹ Yersin » ở sau.
50- Trích trong « Nha Trang Bãi Lục » của Mộng Tuyết, Văn phẩm chưa xuất bản do tác giả gởi cho và cho phép xử dụng.
51- Tuy khuyển trong viện nhốt trong chuồng sắt, như Mộng Tuyết Đông Hồ đã tả, khách nghe tiếng tru vẫn sợ.
52- Mộ Bác Sỹ Yersin chôn tại Suối Dầu. Xem phần «nhân vật Khánh Hòa» ở sau.
53- Tục có câu: Con hơn cha nhà có phước. Ý tác giả cầu mong rồi đây có người tài giỏi thay thế để khai thác nguồn lợi sẵn có, làm lợi cho Quốc Gia.
54- Xem «Núi Long Cảnh» ở phần Địa lý ở trước.
55- Xem phần Địa lý.
56- Mới nâng thêm một từng nữa thời Hậu chiến.
57- Tài liệu của Mộng Tuyết cho mượn.
Quách Tấn
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ANH TÔI VÀ NHỮNG NGƯỜI THUỞ ẤY Thân tặng những HS đã từng học Triết với anh Nguyễn Lương Hiền tại Đà Nẵng trước 75 Cha tôi làm nghề ...