Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Bà Chúa Hòn 2

Bà Chúa Hòn 2

- 7 -
Thằng Thừa thức suốt đêm không ngủ được. Theo lịnh Bá Vạn, nó lãnh trách nhiệm theo dõi những ghe xuống từ phía núi Còm tới Hòn Chông. Dưới tay nó, còn hơn hai chục tên hộ vệ. Đa số bọn nầy đều theo Bá Vạn và bà chánh thất. Hôm qua, Bá Vạn thết tiệc, đãi đằng cả bọn hộ vệ. Cậu Hai Điền thì qua Hòn Đất để theo dõi ông đạo Đất.
Ghe xuống từ phía núi Còm và Lung Tràm đến dường như thưa thớt hơn mọi ngày. Thằng Thừa đã hiểu lý do. Những người đi đường đã truyền tin cho nhau. Họ muốn tránh sự kiểm soát vì nói chung bọn hộ vệ của ông Chúa Hòn rất hách dịch, thích chọc ghẹo gái tơ hoặc xin dừa, chuối.
Anh ta ngồi dưới bến, trong ngôi nhà mát. “Nhà mát” là tiếng gọi nôm na để chỉ kiểu nhà thủy tạ mà ông Chúa cho xây cất ở bên sông, nhà hình lục giác, lợp ngói men xanh, mua từ Triều Châu bên Trung Hoa.
Anh ta rót rượu uống rồi dựa lưng vào cột mà ngủ. Bỗng đâu có tiếng gọi:
– Ngủ hoài vậy! Nghe chuyện gì lạ không?
Đó là Bá Vạn tới thăm. Anh ta trả lời:
– Từ sáng tới giờ, bọn hộ vệ lục soát ở đằng kia. Nếu gặp chuyện lạ thì bọn nó cho tôi biết lập tức!
Bá Vạn nhìn ra xa. Đằng kia, bọn hộ vệ ngồi dụm bên gốc cây, múa men tay chân. Một đứa nâng bầu rượu lên rồi đứng thẳng người mà uống. Cả bọn vỗ tay, đứa nọ uống cạn bầu rồi vung tay, ném mạnh. Cái bầu chìm lỉm, mặt nước gợn sóng…
Bá Vạn cằn nhằn:
– Bữa nay phải có tin tức ở Lung Tràm. Lẽ nào…
Thằng Thừa cau mày vì hai ngày qua, thái độ của Bá Vạn quá úp mở. Ông ra vào nhà bà chánh thất bất chấp dư luận. Bọn hộ vệ tung ra dư luận cho rằng Bá Vạn không nịnh bợ cô Huôi và ông Chúa Hòn như trước, có lẽ Bá Vạn thấy ông Chúa già nua, sắp cỡi hạc qui tiên nên lo xa. Ai nấy cho rằng Bá Vạn thiếu khí phách, quên mối hận ngày nào do cậu Hai Điền gây ra.
Thằng Thừa cau mày, nhớ đến đứa em là thằng Thiếu đứng lãnh trách nhiệm quá nguy hiểm ở Lung Tràm.
– Thưa ông, tôi không hiểu rõ, cứ ngồi chờ. Riết rồi muốn sanh bịnh. Vái trời cho đâu đó xong xuôi, tôi về vườn lo cày sâu cuốc bẫm để nuôi mẹ già.
Bá Vạn nói gắt:
– Đừng nói bậy bạ. Đêm rồi, tao nằm chiêm bao thấy nhiều chuyện lạ. Khi thức dậy quên ráo trọi. Tao nhớ thằng Thiếu quá chừng. Hổm rày, tao giả dại qua ải. Mầy đừng hiểu lầm.
Thằng Thừa ngước lên. Gương mặt Bá Vạn khá nghiêm nghị. Bá Vạn nói tiếp:
– Hai đêm rồi, ta không ngủ. Thằng Hai Điền qua Hòn Đất để tìm ông đạo Đất, nhờ xem một quẻ. Bữa nay nó vắng nhà…
Thằng Thừa không kịp trả lời vì bọn hộ vệ đằng kia chợt la lên bài hãi:
– A Mách!
A Mách là một trong hai đứa hộ vệ trung thành nhứt của ông Chúa. Đúng là A Mách đang về phía Bá Vạn và thằng Thừa. Bá Vạn hơi run giọng:
– Chắc là …xong rồi! Nhưng thằng Thiếu để thằng Mách chạy thoát về đây. Coi chừng nó nói bậy bạ.
Khi đến gần nhà mát, A Mách vuốt mồ hôi trán. Bá Vạn đưa tay ngoắc:
– Lại đây! Trên nhà không có ai đâu.
– Chuyện động trời! Ông ơi! Phải làm sao…bây giờ?
– Mầy cứ nói.
– Thằng Thiếu giết thằng bạn của tôi rồi toan giết tôi. Tôi chạy thoát về đây.
Rồi A Mách chỉ tay vào mặt thằng Thừa:
– Thằng nầy xài không được, đồ sớm đầu tối đánh. Ông bắt nó.
Bá Vạn nói to:
– Ngoài ra, còn chuyện gì nữa không?
A Mách đáp:
– Tui nghe đâu ở núi Còm nói rằng ông Chúa…mất rồi. Bị heo rừng đánh ngay đùi. Cô Huôi đang làm đám ma.
Bá Vạn lườm thằng Mách:
– Đừng nói giỡn. Mầy có tới đó hay không?
– Dạ, làm sao tôi dám tới đó. Thôi! Tôi sợ rồi. Chuyện nầy hệ trọng lắm, tôi phải cho bà chánh thất và cậu Hai biết.
Nói xong, A Mách chạy thẳng vào cổng. Thằng Thừa hỏi:
– Ông tính sao?
– Đáng lý thì mình phải giết thằng Mách. Nhưng nên để nó sống vài ngày. Mầy cứ bình tĩnh ở đây, tao lên nhà để….lèo lái bà chánh thất. Đừng lo. Nhiều khi bà ta thích nghe cái tin hung dữ nầy. Tao nói là bả nghe.
– Nhưng còn cậu Hai Điền?
Bá Vạn đáp:
– Thằng con nít đó quá nóng nảy. Tao trừng trị nó dễ dàng. Nó hất tô thịt kho lên đầu tao, cái áo đó tao còn để, chưa giặt sạch mà! Cứ ngồi đây.
Nói xong, Bá Vạn bước ra khỏi nhà mát. Ông ta vào sân. Thằng Mách vẫn còn đứng lóng nhóng vì chưa ai mở cửa. Nó gào lên:
– Bà! Ông Chúa mất rồi!
Cánh cửa hé mở. Bà chánh thất trố mắt, chưa tin lời nên hỏi kỹ:
– Mầy nói sao? Trời ơi! Ông mất rồi, tôi sống với ai…
– Dạ, khó nói quá!
Mách liếc về phía Bá Vạn. Bá Vạn bèn giả đi xa nơi khác, kỳ thật là ông ta qua phòng bên cạnh để nghe ngóng. Thằng Mách và bà chánh thất nói chuyện quá nhỏ, Bá Vạn không nghe rõ được. Bá Vạn tức mình, nhìn qua kẽ vách ván. Thằng Mách đang sờ vào túi, đem ra lá thơ nhỏ.
Bà chánh thất hỏi:
– Cái gì vậy? Gởi cho ai? Ai đưa cho mầy?
Thằng Mách đáp:
– Dạ, dọc đường tôi gặp cậu Cẩu. Cậu chận đường, bắt buộc tôi đem lá thơ nầy.
– À! Cái thằng Cẩu, hèn gì mẹ nó là con Ngó trốn mất dạng. Tại sao mầy không giết thằng Cẩu? Cái gì trong nầy, tao không biết chữ, làm sao đọc được?
Rồi bà đổi giọng:
– Ông Bá Vạn ơi! Đọc giùm.
Bá Vạn ra ngoài rồi lên tiếng:
– Dạ, tôi đây.
Bà chánh thất nói nhanh:
– Ông vô đây đọc giùm. Thật là chuyện ngạo ngược, làm sao tha thứ bọn đó được. Tôi hiểu rồi, con Huôi bày ra chuyện sát nhơn nầy. Tôi kêu thằng Điền về, tới núi Còm để xé xác con nhỏ Huôi.
Bá Vạn liếc về phía thằng Mách. Nó cúi mặt xuống, hai tay đưa ra như toan giựt lá thơ. Nó đoán chắc rằng thằng Thiếu là tay sai trung thành của Bá Vạn, người bày mưu kế thâm độc chính là Bá Vạn chớ nào phải cô Huôi và thằng Cẩu. Bà chánh thất đưa lá thơ tới:
– Ông đọc thử. Tôi nóng nghe thơ. Rồi còn lo tống táng cho ông Chúa. Thằng Điền phải đi Lung Tràm để chịu tang cha nó. Thằng Cẩu là cái gì chớ?
Bá Vạn tỏ ra do dự. Nếu thằng Mách gặp cậu Hai Điền thì cơ mưu bất thành, ông sẽ bị cậu Hai bắt giữ. Bởi vậy ông lườm thằng Mách:
– Mầy làm gì vậy? Tại sao mấy nhìn tao lấm lét? Nếu là đứa ngay thẳng thì không có gì giấu diếm cả. Tại sao mầy không ở lại coi cho biết ông Chúa đã chết vì săn heo rừng hay vì lý do khác?
Vì quá tin và quá yêu Bá Vạn, bà Chúa bèn mắng thằng Mách:
– Mầy ra ngoài. Hồi nào, ông Chúa nuôi mầy mập xác. Gặp lúc hoạn nạn thì mầy chạy trốn.
A Mách lầm lũi bước ra. Đề phòng nó chạy qua Hòn Đất để cấu kết với cậu Hai Điền, Bá Vạn nói khẽ với bà chánh thất:
– Đừng cho nó ra ngoài. Coi chừng nó chạy trốn.
Bà chánh thất mở cửa tìm bọn hộ vệ để sai cầm giữ thằng Mách trong khi Bá Vạn đọc thơ. Đại ý, thằng Cẩu nhắn với bà chánh thất rằng trước khi nhắm mắt, ông Chúa có lời trăn trối giao cho nó kế vị thay vì giao cho cậu Hai Điền. Thằng Cẩu ghi chú thêm rằng tang lễ ông Chúa Hòn được cử hành tại núi Mo So. Nó mời bà chánh thất và cậu Hai Điền tới đó…
Khi trở vô, bà chánh thất thở dài mà nghe Bá Vạn thuật lại nội dung lá thơ. Bà ôm ghì lấy Bá Vạn:
– Ông đừng quên tôi. Hèn gì mấy bữa nầy tôi ăn cơm không được, con mắt cứ giựt lia lịa. Theo ý ông thì tôi nên làm cách nào? Thằng Hai Điền còn nhỏ, nếu ông không giúp tôi, ở bên cạnh tôi thì chắc là tài sản nầy không còn. Ai chủ mưu việc nầy? Con Huôi, thằng Cẩu, hay là Mười Hấu, con Ngó?
Bá Vạn mừng thầm vì công việc đã thành tựu. Tuy cậu Hai Điền là đứa võ phu ngang ngược nhưng ít ra cậu cũng phải nể nang người mẹ ruột, Bá Vạn đủ uy thế để điều khiển bà chánh thất, trong những ngày sắp tới. Ông ta đóng kịch khá khéo léo:
– Bà tin cậy tôi thì tôi mừng, nhưng việc nầy quan trọng, không nên nóng nảy.
Bà chánh thất đáp:
– Để trễ thì tụi nó qui tụ bè lũ lâu la, kéo tới Hòn Chông để giết mẹ con tôi!
Bá Vạn nói:
– Nếu bà chết thì mạng tôi cũng không còn. Hiện giờ, bà có nhiều kẻ thù: cô Huôi, Mười Hấu và thằng Cẩu. Phải giết bọn nó, giết từng đứa như bẻ đũa vậy.
Lập luận ấy khiến bà chánh thất sáng mắt:
– Giết con Huôi trước! Đũa mà bó lại khó bẻ gãy, mình bẻ từng chiếc một.
Bá Vạn cau mày:
– Nếu giết con Huôi thì bà mang tiếng là tiểu nhân. Thủng thỉnh rồi hãy giết. Người ta nói bà giết vì ghen.
– Vậy ông muốn giết ai?
– Giết thằng Cẩu, vì nó đòi làm ông Chúa con.
– Phải lắm. Giết thật gấp. Tôi nhắn thằng Hai Điền trở về. Nhưng làm sao tôi dám đi dọc đường! Ông đi giùm tôi, kêu nó về. Bọn thằng Cẩu nhiều hay ít vậy ông?
Bá Vạn đáp:
– Nhiều hay ít, điều đó không quan trọng. Ít mà làm được việc tày trời, nhiều mà lắm khi làm không xong chuyện nào cả.
– Sao vậy?
– Đời bây giờ, mọi việc đều do bọn dọ thám. Phải nhốt thằng Mách, chờ cậu Hai về quyết định.
Lập tức, bà chánh thất chấp nhận ý kiến ấy. Để được yên tâm, Bá Vạn theo sát cạnh. Nãy giờ, thằng Mách bị bọn hộ vệ cầm giữ, nó ngồi cú rũ trong góc nhà.
Bà chánh thất nói:
– Nhốt nó sau hè!
Mách chắp tay xá, đoán chừng rằng đó là cơ mưu của Bá Vạn để giết anh ta. Nhưng van nài bằng cách nào bây giờ! Nếu lỡ lời thì Bá Vạn sẽ giết anh ta lập tức, qua bàn tay bà chánh thất. Trong lúc bối rối, anh ta hối hận vô cùng, vì trước đó không lâu, anh ta nghi ngờ Bá Vạn chủ mưu việc ám sát.
Bá Vạn cười hề hề:
– Mầy nhỏ mà phách lối. Hồi nãy mầy muốn ăn thịt tao! Mầy làm…khổ nhục kế, phải không? Thằng Cẩu biểu mầy đem thơ tới đây để dọ thám.
– Tức chết đi! Thưa bà….
Rồi anh ta quì lạy bà chánh thất. Bá Vạn nói:
– Bà con thấy chưa? Nó không nhìn mặt tôi.
Để làm đẹp lòng Bá Vạn, bà chánh thất quát to:
– Mai chiều, mầy lạy cậu Hai Điền! Ra ngoài cho mau.
Bá Vạn bèn từ giã bà chánh thất:
– Lát nữa, tôi đi Hòn Đất kiếm cậu Hai.
– Còn lá thơ?
– Bà cứ giữ, mang theo trong mình, rủi gặp bất trắc thì sao!
Trong khi bà chánh thất vào phòng, Bá Vạn ra sân, đưa tay ngoắt thằng Thừa.
Như hiểu ý, thằng Thừa chạy nhanh tới:
– Thưa ông?
– Lát nữa, tao đi Hòn Đất kiếm cậu Hai báo tin. Mầy ở lại coi chừng thằng Mách.
Rồi Bá Vạn nói rỉ vào tai thằng Thừa:
– Sáng mai tao mới về. Giao cho người khác là hư việc. Mầy nên tìm cách nào…
Thừa gật đầu khi nghe rõ kế hoạch của Bá Vạn. Anh ta theo sau thằng Mách. Bá Vạn bèn nói với bọn hộ vệ:
– Mấy chú nên canh phòng cẩn thận, bắt giữ bất cứ người quen kẻ lạ từ phía núi Còm, núi Mo So tới. Thằng Thừa đứng ở nhà mát làm gì? Mầy nên san sẻ cực nhọc với anh em. Coi chừng thằng Mách. Hễ nó chạy trốn thì tao giết mầy.
- 8 -
Cậu Hai Điền ngồi giữa chiếc ghe, với cái tật cố hữu là chống nạnh. Cậu liếc mắt. Dường như dân chúng đóng cửa lại khi thấy cậu và bọn hộ vệ đi ngang qua. Nhà của Tư Thính, cha ruột cô Huôi, hiện ra giữa chòm cây xanh um. Cậu ra lịnh cho bọn hộ vệ:
– Lên bờ, bao vây xung quanh nhà.
Bọn hộ vệ tuân lời rồi hỏi thêm:
– Thưa cậu, nếu ai kháng cự, chúng tôi đối phó thế nào:
– Cứ bắt sống, bắt nhưng đừng trói, lúc trói thì đừng nói nặng lời. Cô Huôi, Tư Thính hay bất cứ ai cũng đáng bị bắt. Tụi nó làm lộng!
Bọn hộ vệ kéo nhau đi từng hàng dài. Dọc đường ai nấy đều chán nản vì hôm trước bọn họ tới một lần rồi, nhà để trống, không đóng cửa nhưng tuyệt nhiên bên trong chẳng thấy một bóng người. Hôm nay là lần thứ nhì chưa ắt thâu được kết quả.
Cậu Hai nói vọng, từ dưới ghe:
– Mau lên. Tụi bây chậm chạp quá!
Bọn hộ vệ bao vây ngôi nhà. Cậu Hai nhảy lên bờ ra dấu hiệu như ngầm bảo:
– Siết vòng vây!
Cậu chỉ ngón tay vào cửa cái như ra lịnh lục soát. Lát sau, một tên chạy trở ra, đến gần cậu.
Cậu hỏi nhanh:
– Có ai không?
– Dạ, nhà bỏ trống nhưng dưới bếp than lửa còn cháy.
– Lạ thật. Tụi bây dại quá, nó lẻn ra ngoài mà không hay biết.
Tên hộ vệ trả lời:
– Dạ, chắc là xảy ra chuyện gì quan trọng. Trên bàn, tôi thấy tấm giấy viết chữ lăng nhăng.
Câu Hai chạy nhanh vào nhà, chụp miếng giấy rồi đọc. Đại ý, Tư Thính cho biết rằng ông ta tới núi Mo So để dự lễ an táng ông Chúa Hòn, đồng thời ra mắt “cậu Ba Cẩu”.
Dè đâu tình thế biến chuyển quá nhanh! Ai giết cha cậu? Tại sao thằng con nít bị bỏ rơi lại được gọi là “Cậu Ba”! Cậu co chân, đạp nhanh cái bàn, xé nát tấm giấy nọ.:
– Tụi nó giết ba tao! Tao hiểu rồi, chắc là ba tao bị thiệt mạng tại Lung Tràm. Tao phải trả thù, giết thằng Cẩu với con Huôi. Con Huôi…là con nít, bấy lâu nay lấn quyền hạn của mẹ tao. Tao phải cho ông Bá Vạn hay biết.
Ra khỏi nhà, cậu Hai trợn mắt rồi ra lịnh:
– Đốt nhà thằng Tư Thính. Cha con nó muốn soán ngôi vị của tao! Tao không nhịn đâu.
Lửa bốc cháy mù mịt. Dân trong xóm chạy tán loạn, bồng bế nhau, đuổi trâu ra ruộng. Bụi quỳnh hoa run phần phật, nhà cháy khiến gió nổi lên, xoay tròn. Nhớ tới giai thoại xưa, cậu Hai đến gần bụi hoa. Chẳng còn nụ nào cả! Cậu vung tay, nhổ sạch, ném mấy lá quỳnh hoa vào đống lửa. Bọn hộ vệ nhìn nhau ngơ ngác, nêu câu hỏi thầm kín mà chính họ không trả lời nổi:
Ông Chúa chết, đồn điền nầy chia ra hai phần. Họ sẽ theo ai? Rồi đây chắc cuộc tranh chấp sẽ quyết liệt…Cậu Hai và bà chánh thất đứng một phía, thằng Cẩu và cô Huôi, cô Ngó đứng một phía. Nếu đổ máu thì chính họ phải xả thân…
Cậu Hai Điền lập tức xuống bến:
– Tao kiếm ông Bá Vạn mới được. Ông già đó nhiều mưu mô lắm. Ổng sẽ bày kế hoạch cho tao giết thằng Cẩu. Tao thưởng cho ổng một số tiền.
Bọn hộ vệ xuống mấy chiếc ghe lườn, cầm dầm mà chờ. Cậu Hai vỗ trán rồi nói:
– Còn chuyện nầy nữa! Chưa đi được!
Rồi cậu khoát tay:
– Hộ vệ đâu? Kiếm thằng đạo Đất cho tao. Tao xé xác nó. Nó nói toàn là chuyện xui xẻo cho gia đình tao!
Bọn hộ vệ hơi bực dọc vì nhảy lên bờ rồi nhảy xuống ghe quá nhiều lần. Nhưng tất cả đều yên lặng. Phía sườn đồi, là khói trắng bốc lên, lửa cháy vàng hực, đúng ngay hướng nhà ông đạo Đất. Cậu Hai lẩm bẩm:
– Nguy rồi! Đây là việc sắp đặt trước. Tại sao Tư Thính biết tao tới đây? Chắc là Tư Thính và thằng đạo Đất đốt lửa để chọc tức tao! Lên đó làm gì cho mất công! Thôi! Trở về Hòn Chông…
Rồi cậu dậm chân thật mạnh, chiếc ghe nghiêng qua nghiêng lại, suýt chìm:
– Đi qua núi Mo So! Tao muốn gặp thằng Tư Thính, con Huôi, thằng Cẩu. Toàn là quân bất nhơn chiếm đoạt tài sản ông cha tao mấy đời để lại.
Bọn hộ vệ nhìn nhau chưa biết cho đoàn ghe đi về hướng nào vì cậu Hai thay đổi ý kiến như chong chóng. Ai nấy cứ ngậm miệng. Nếu lỡ thốt ra lời sai quấy, cậu Hai sẽ trừng trị gắt gao, đánh đập hoặc giết chết.
Cậu Hai khoát nước dưới rạch để rửa mặt cho tỉnh táo rồi nói:
– Cũng tại con heo rừng ở Lung Tràm! Đi núi Mo So rồi đi Lung Tràm! Tụi bây dám ăn thua với bọn không? Ở đó, đâu có thợ săn, đâu có võ sĩ!
Nhưng, một tên hộ vệ chỉ ngón tay phía Hòn Chông mà reo lên:
– Ai kia, thưa cậu Hai!
Thoạt tiên, cậu Hai không nhận rõ. Trên con rạch, một chiếc ghe độc mộc phóng tới, trước mũi và sau lái có ba người đang dùng sào mà chống. Giữa ghe, một ông lão đứng lom khom, cứ đứng một chập, lại ngồi, như sợ té.
– Ai vậy tụi bây?
Một tên hộ vệ đoán:
– Dường như người quen. Ông già đó hơi giống ông Bá Vạn.
– Phải rồi! Bá Vạn. Chắc tin quan trọng. Tụi bây chống ghe cho tao gặp ổng.
Nói xong, cậu Hai đưa tay ngoắt. Đằng kia, Bá Vạn cũng đưa tay lên trời, để trả lời. Trong phút giây, cậu Hai thương mến Bá Vạn hơn bao giờ hết.
Đúng là người lão bộc gương mẫu của gia đình!
Đằng kia, Bá Vạn mừng thầm khi gặp cậu Hai. Để chuẩn bị tình cảm, ông ta chờ khi gần gặp mặt mới khóc rống lên:
– Cậu ơi! Ông mất rồi. Thằng Cẩu làm phản, chiếm cứ đất đai ở núi Mo So. Cậu cho phép tôi giết nó. Như vầy nhục nhã cho tôi quá. Nó là đứa con rơi, nó là…con chó.
Cậu Hai hỏi:
– Ai đem tin cho ông biết? Chắc như vậy không? Tôi mới vô nhà Tư Thính gặp lá thơ. Thằng đạo Đất đốt chòi để khiêu khích tôi.
Bá Vạn đáp:
– Chuyện hơi dài và hơi bí mật. Tôi muốn nói riêng với cậu. Rủi người khác nghe thì bất lợi. Hay là tôi với cậu lên bờ…
Trước biến cố nầy, thật ra chẳng ai cảm động cả. Cậu Hai hơi mừng vì nay mai sẽ thừa hưởng gia tài, sự chống đối và tranh giành của thằng Cẩu không đáng kể. Bá Vạn thì ra vẻ xúc động để cậu Hai đừng nghi ngờ. Ông ta vuốt mồ hôi trán. Mồ hôi chảy ra vì ông ngồi suốt buổi trên chiếc ghe nhỏ không mui, bị nắng thiêu đốt. Nhưng nó được cậu Hai hiểu là những giọt mồ hôi lo âu của người tôi tớ già.
Bá Vạn thuật chuyện thằng A Mách từ núi Mo So và Lung Tràm trở về với bức thơ.
Cậu Hai hỏi:
– Nó đâu rồi?
– Nó bị bà chánh thất nhốt sau hè. Dường như nó lôi thôi lắm, dính líu tới thằng Cẩu.
– Tại sao lôi thôi?
– Nó nói không ra lời, mặt mày tái mét. Phải chăng nó muốn gieo tin thất thiệt? Làm hộ vệ mà tới lúc nguy nan nó đành bỏ ông Chúa, tội ấy thật đáng đánh.
Cậu Hai tức giận vô cùng.
– Về nhà, tôi giết nó. Bây giờ, theo ý ông, tôi phải làm gì?
– Cậu nên tới núi Mo So để rước linh cữu ông Chúa đem về Hòn Chông mà mai táng. Ngày nay thằng Cẩu với cô Ngó, cô Huôi còn giữ được linh cữu thì dân chúng tin lời họ.
– Phải lắm. Nhưng đi bằng cách nào? Bọn thằng Cẩu đông đảo không? Dao mác, cuốc xuổng nhiều hay ít?
Để thúc giục cậu Hai lên đường, Bá Vạn đáp:
– Cậu cho tất cả số hộ vệ đi theo. Hơn nữa, tôi tình nguyện phò cậu mà. Tụi nó làm sao hơn tôi được? Bấy lâu nay, tôi chưa làm mất lòng ai. Luôn luôn, tôi nhẫn nhịn.
Cậu Hai bèn vỗ vai Bá Vạn:
– Chuyện xưa ông cứ bỏ qua…
Bá Vạn hiểu ý nên nói thẳng ra:
– Hồi xưa, tôi bị cậu làm nhục, nhứt định thằng Cẩu sẽ dạy tôi, để tôi theo nó. Nhưng tôi ngu dại gì! Bây giờ cậu về Hòn Chông gấp chớ.
Chạng vạng tối, cậu Hai và Bá Vạn tới Hòn Chông. Bà chánh thất chạy ra sân, khóc lóc với cậu Hai. Bá Vạn lo lắng vô cùng, chưa biết thằng Mách ra sao. Ông ta nói:
– Cậu nằm nghỉ giây lát, tôi về nhà tắm rửa rồi trở lại.
Không chờ sự đồng ý của bà chánh thất, Bá Vạn ra sân sửa đoạn đi vòng ra phía sau nhà. Lúc bấy giờ, bọn hộ vệ dụm năm dụm ba trước bến, Bá Vạn lên tiếng để thị oai:
– Tụi bây đề phòng kỹ lưỡng, bắt giữ tất cả những người lạ mặt.
Rồi ông ta đến gian nhà ẩm thấp gần cầu xí. Thằng Thừa hỏi:
– Ai đó?
Bá Vạn đáp:
– Tao mà! Xong chưa?
– Dạ, xong mà chưa xong. Tôi đưa chén cơm mà thằng Mách không chịu ăn. Nó cứ la lên. Tôi nhét nùi giẻ trong miệng nó.
Bá Vạn bực tức vô cùng:
– Cậu Hai về tới rồi mà nó còn sống thì chết cả bọn. Tại sao không giết nó? Mầy tệ quá. Giao phó một công việc nhỏ xíu, quá dễ dàng như vậy mà mấy làm không xong. Để tao coi. Đốt đèn lên!
Bị rầy oan ức, thằng Thừa trả lời:
– Làm sao tôi giết nó lúc ban ngày được? Bây giờ mà đốt đèn lên thì lộ bí mật.
Cánh cửa hé mở, thằng Thừa bước vào, đạp mạnh vào ngực A Mách. Thằng Mách thở hồng hộc, đập hai tay xuống nền. Bá Vạn bước theo sau, chân ông đá nhằm chén cơm:
– Mầy lôi thôi quá!
Thằng Thừa hỏi:
– Ông cứ dạy tôi. Siết cổ nó, phải không?
– Để tao coi. Ừ! Phải rồi! Mầy đập cái chén nầy ra, lấy miểng chén mà cắt cho đứt mạch máu ở cườm tay. Rồi mầy tri hô lên. Nhớ bịt mũi, nhét thêm nùi giẻ vô miệng cho nó nghẹt thở. Khi tao trở lại thì mầy rút nùi giẻ ra…
Bá Vạn ra sân, về nhà để rửa mặt rồi thay quần áo. Chưa chi đứa nữ tỳ chạy tới gọi:
– Thưa ông! Cậu Hai mời ông.
– Tao tới bây giờ.
Khi đến sân, ông ta đứng chậm rãi chờ đợi thằng Thừa thi hành kế hoạch. Ông chắt lưỡi chửi lầm thầm:
– Cái thằng chậm lụt quá.
Cậu Hai hỏi:
– Ông tới đó hả? Chừng nào đi núi Mo So? Má tôi cản lại, e gặp rủi ro dọc đường. Vả lại, nếu bọn hộ vệ theo tôi thì nhà nầy còn ai giữ gìn. Thằng Cẩu kéo chừng vài chục tên cướp tới thì sao?
Đột nhiên, từ sau nhà giọng thằng Thừa vang lên:
– Nó chết! Nó đánh tôi nè! Nó tự vận.
Cậu Hai Điền hỏi:
– Cái gì vậy?
– Thằng Mách tự vận rồi. Bậy quá. Tôi muốn nói với cậu nên đánh đập nó để hiểu thêm chuyện ở Lung Tràm. Đúng là nó muốn chạy tội.
– À! Hộ vệ đâu! Đốt đuốc lên, theo tao.
Ánh đuốc chói sáng rực. Thằng Thừa chắp tay thưa:
– Mấy ông ơi! Nó tắt thở rồi.
Cậu Hai Điền vì quá nông cạn nên xông vào nhà giam nắm lỗ tai thằng Mách, xách đầu nó lên mà chửi liền miệng:
– Thằng phản phúc. Nó tự tử bằng cách nào? Tại sao máu me chảy linh láng vậy?
– Nó cắt mạch máu cườm tay, nó đập cái chén ăn cơm, để lấy miểng…
Đôi mắt thằng Mách như mở trao tráo, chỉ còn tròng trắng, miệng hả ra. Cậu Hai đứng dậy:
– Quăng nó xuống sông cho diều quạ rỉa xác. Nó ăn tiền của thằng Cẩu để giết hại ba tôi, còn ai xa lạ nữa!
Cậu Hai trở ra trước sân, hỏi Bá Vạn:
– Làm sao?
Bá Vạn nói:
– Để tôi cho đứa nào đó đi núi Mo So dọ dẫm trước, sáng mai khi mặt trời mọc, cậu với tôi hãy đi.
Nói xong, Bá Vạn gọi thằng Thừa:
– Mầy đáng tin cậy. Chuyện nguy hiểm lắm, mầy phải lo cho tròn. Nuôi quân ba năm, dụng quân một ngày, mầy hiểu chưa?
Thấy cậu Hai Điền còn đứng gần, Bá Vạn đến sát bên cậu mà nói:
– Thằng Thừa võ nghệ cao cường lắm. Nó là đứa khôn lanh. Cậu Hai có sẵn trong mình chút ít vàng bạc thì cho tôi mượn để ban thưởng cho nó.
Cậu Hai Điền tháo chiếc nhẫn, gọi to:
– Thằng Thừa lại đây. Mày nhớ dò xét kỹ lưỡng nơi thằng Cẩu ẩn núp để tao giết nó, trong ngày mai, trễ lắm là ngày mốt. Tao không tiếc với mầy bất cứ món gì. Chiếc nhẫn nầy có nhận hột ngọc bích, trị giá ba bốn lượng vàng ròng.
Thằng Thừa mừng ra mặt:
– Cám ơn cậu.
– Chừng nào mầy trở về?
– Dạ, trong đêm mai.
– Để trễ thì tao giết mầy.
Bá Vạn nói cố ý cho cậu Hai Điền nghe:
– Thừa à! Ai hỏi thì mầy trả lời rằng cậu Hai đang đi săn heo rừng ở Hòn Đất.
Cậu Hai bị chạm tự ái nên cằn nhằn:
– Đáng lý thì nói rằng tao tới núi Mo So để xé xác thằng Cẩu. Tại sao cha tao chết mà thằng Cẩu tự ý chôn cất ở nơi quê mùa hoang vắng? Ông nội tao chôn ở Hòn Chông thì nó phải đưa linh cữu về Hòn Chông. Nó muốn xin tiền bạc thì tao cho nhưng tao không tha thứ cái tội soán ngôi đó được.
Bá Vạn van nài:
– Thằng Thừa dọ thám, làm sao nó dám nói lại đúng theo ý của câu. Vả lại, tôi ngăn cấm không cho nó gặp mặt thằng Cẩu.
– Tại sao vậy?
Bá Vạn nói khẽ vào tai cậu Hai:
– Nó theo dõi thằng Cẩu, chờ cậu tới mà giết để trả thù. Chắc rằng thằng Cẩu đang mướn nhiều đứa hộ vệ. Nếu bọn hộ vệ của hai bên đánh nhau thì đổ máu vô ích, chi bằng cậu tới núi Mo So thình lình để bắt thằng Cẩu vào lúc ban đêm. Hôm sau, cậu đem nó ra xử trước mặt để thị oai với dân chúng.
Cậu Hai vỗ vai Bá Vạn:
– Ông nói phải. Chẳng lẽ tôi giết tất cả dân chúng ở núi Mo So. Dân chết hết, còn ai là tá điền cho tôi. À! Còn con Huôi?
– Cậu giết thằng Cẩu thì cô Huôi sẽ quì lạy cậu, xin tha tội. Cậu bắt buộc cô ta vô chùa tu, thế là xong chuyện.
Cậu Hai Điền trông theo, mãi đến khi thằng Thừa khuất bóng sau rằng cây tràm.
- 9 -
Đám tang ông Chúa Hòn vẫn chưa xong xuôi. Theo ý kiến của cô Huôi thì linh cữu ông Chúa phải quàn lại để chờ cậu Hai Điền và bà chánh thất tới. Địa điểm quàn tạm là sườn núi Mo So. Thoạt tiên ông Mười Hấu và cô Ngó hơi lo ngại. Ông Mười nói:
– Nên chôn gần nhà tôi, để canh phòng.
Cô Huôi cãi lại:
– Rủi bọn Hai Điền tới đào mồ, đem xác ông Chúa Hòn về Hòn Chông thì cậu Cẩu làm sao xưng là ông Chúa được?
Mười Hấu và cô Ngó đều khen cô Huôi là người thông minh sáng suốt. Cô Huôi vẫn bực vì thằng Cẩu quả là đứa trẻ ăn chưa no, lo chưa tới. Chưa chi nó đã xin tiền để đá cá thia thia và bày kế hoạch cất tại Hòn Chông một sòng bạc, ai vào sòng thì tha hồ đá gà, đá cá, đánh me. Biết rằng để thằng Cẩu ở bên cạnh thì hư hỏng việc lớn, cô Huôi tặng cho nó vài lượng vàng rồi gọi thằng Thiếu đến mà căn dặn:
– Chú mầy lo thật gấp hai chuyện: Đừng cho cậu Cẩu đi chơi xa và giết thằng Lục Nhét.
Thằng Thiếu đáp:
– Tôi giết nó hồi hôm qua rồi, chỉ còn chờ lịnh cô.
Cô Huôi sửng sốt:
– Tại sao giết rồi mà còn chờ lịnh?
– Tôi trói tay chân nó, để trong chòi giữa rừng. Thằng Lục Nhét quả thật là đứa có gồng, da thịt cứng như cây nhưng tôi có cách trị. Dùng cây cau vạt nhọn mà đâm.
– Cứ đâm cho gấp. Nhưng tại sao mầy buồn bực như vậy?
Nỗi lo âu của thằng Thiếu vẫn là việc A Mách còn sống, trốn thoát. Mấy đêm rồi, thằng Thiếu ăn ngủ không yên. Nó chẳng dám tiết lộ chi tiết ấy cho cô Huôi biết. Cô Huôi đã hỏi, nó trả lời rằng đã giết trọn hai tên hộ vệ rồi. Hôm qua, nó dạo chung quanh núi, gặp cậu Cẩu đang điều khiển một bọn hơn mười người hớt cá thia thia cho cậu tuyển lựa lại. Cậu Cẩu đã nói khóac lác:
– Tao viết thơ cho thằng Mách cầm đem về Hòn Chông mà tại sao thằng Hai Điền chưa tới để ăn thua với tao!
Chờ khi Mười Hấu ra ngoài, cô Huôi hỏi:
– Thiếu! Mầy buồn rầu việc gì? Hay là mầy sợ cậu Hai Điền? Ông Bá Vạn đang theo sát cậu Hai, cậu Hai không qua mặt ông ta được đâu!
– Dạ, hôm nọ tôi để sống sót một đứa hộ vệ. Cậu Cẩu lại tha tội nó, viết thơ cho nó đem về Hòn Chông khiêu khích cậu Hai…
– Đừng lo. Mấy cứ giết thằng Lục Nhét.
Vầng trán cô Huôi bỗng nhăn nheo. Cô thở dài. Quả thật thằng Cẩu là đứa ngu dại, liều lĩnh. Nó dám làm nhiều chuyện to lớn mà không cần hỏi ý kiến của bất cứ ai.
Nếu thằng A Mách còn sống thì tình thế ra sao? Liệu Bá Vạn có đủ tài trí để giựt dây, điều khiển mọi hành động của cậu Hai Điền không? Hay là Bá Vạn đã bị cậu Hai giết?
Cô vừa nằm xuống để nghỉ trưa là Mười Hấu chạy vào, mặt mày hơ hãi:
– Cô ơi! Tụi nó đánh mõ, đánh trống ở đằng xa.
Cô Huôi lồm cồm ngồi dậy:
– Tụi nào?
– Dạ, tụi dân trong xóm tôi bố trí canh phòng dọc theo bờ rạch, đề phòng cậu Hai Điền đem bộ hạ tới bao vây.
Cô Huôi ra trước sân, lấy tay che mắt. Đằng xa, chỉ có một bóng chạy lại, theo sau là năm bảy người dân làng. Cô Huôi reo lên:
– Thằng Thừa chớ ai đâu lạ!
Lập tức, cô nói với Mười Hấu:
– Biểu họ ngưng tiếng trống, đừng làm náo động dân chúng.
Khi thằng Thừa đến sân nhà, cô Huôi gọi:
– Vô đây. Thủng thỉnh hãy nói chuyện.
Rồi cô và Mười Hấu vào trong, đóng cửa lại. Thằng Thừa bước vào, gương mặt nghiêm nghị:
– Thưa cô, ông Bá Vạn nhắn tin. Vì sợ lộ bí mật nên ông nhắn miệng. Tôi tới đây để dọ thám.
Mười Hấu vì chưa kịp suy nghĩ nên vung tay:
– Mầy làm phản?
Cô Huôi trầm tĩnh hơn, bèn trấn an Mười Hấu:
– Thằng Thừa là đứa đáng tin cậy. Nếu là dọ thám của cậu Hai Điền thì nó ngu dại gì mà thú nhận.
Thằng Thừa trình bày:
– Cậu Hai tới Hòn Đất để đốt nhà ông Tư. Ông Tư đã trốn từ lâu…
Cô Huôi tức giận vô cùng. Đã đến lúc quyết liệt, vì hành động đốt nhà của cha cô đúng là vô lễ và có nghĩa là tuyên chiến.
– Còn gì nữa? – Cô hỏi – Chừng nào cậu Hai Điền tới đây?
Bỗng dưng mà Mười Hấu tái mặt. Là người quê mùa, ông ta sợ một cuộc tấn công bất ngờ. Nếu cậu Hai Điền cho vài chục võ sĩ tới thì làm sao ông ta chạy kịp. Tại núi Mo so nầy, hổm rày ông ta chỉ tuyển chọn được chừng mười thanh niên trai tráng để canh phòng mà thôi. Cô Huôi khoát tay:
– Ông Mười đừng lo, nên tin tài trí ông Bá Vạn. Sao nữa?
Thằng Thừa nói khẽ:
– Hai ngày nữa là cậu Hai và ông Bá Vạn tới. Cô và ông Mười nên chạy trốn cho cậu Hai hứng chí sanh chứng kiêu ngạo. Ông Bá Vạn sẽ dẫn cậu Hai lên núi để bắt cậu Cẩu. Chừng đó, sẽ làm như vầy…
Cô Huôi gật đầu từng chập. Thằng Thừa nói:
– Bây giờ tôi phải trở về Hòn Chông, vì tôi tới đây để dọ thám mà.
Cô Huôi vỗ vai thằng Thừa:
– Cám ơn chú. Ở lại ăn cơm.
– Dạ, tôi về gấp với mặt mày hốc hác để cho cậu Hai tin lời tôi. Còn thằng em tôi?
– Thằng Thiếu mạnh khoẻ, chú đừng lo.
Thằng Thừa ra ngoài sân. Cô Huôi căn dặn ông Mười Hấu:
– Cứ đánh trống đánh mõ rồi rượt thằng nầy. Ruợt nhưng đừng giết nó.
Cô Huôi nói thêm:
– Giựt cái áo thằng Thừa, cho rách một vạt.
Thằng Thừa phục thầm sự bố trí của cô Huôi. Ra khỏi khu vực núi Mo So, anh ta xuống xuồng, bơi một mạch về tới Hòn Chông.
Trời nhá nhem tối, thằng Thừa đến chân Hòn. Bọn hộ vệ chạy tới ngăn cản. Thằng Thừa bèn giả vờ nổi giận:
– Người như tôi mà anh em dám nói là do thám của ông Mười Hấu! Nếu chưa tin, anh em mời ông Bá Vạn tới để lãnh tôi về.
Dụng ý thằng Thừa là muốn nói chuyện riêng với ông Bá Vạn, không cho cậu Hai Điền nghe. Lát sau, Bá Vạn tới nói với bọn hộ vệ của cậu Hai:
– Mấy chú cẩn thận như thế, nghĩ cũng phải. Nhưng chú nầy là người thân tín của cậu Hai.
Bá Vạn đi bên cạnh thằng Thừa:
– Nói cho mau. Xong chưa?
– Dạ, cô Huôi mừng lắm. Ngày mai, trễ lắm là ngày mốt, trên núi Mo So sẽ có một căn nhà rộng rãi, giống như trường đá cá thia thia. Khi tới núi, tất cả mọi người đều chạy trốn. Ông Bá cứ đưa cậu Hai tới đó là xong chuyện.
Trước sân nhà, cậu Hai Điền đi tới đi lui rồi cằn nhằn:
– Tao mổ ruột thằng Cẩu, bêu đầu nó dưới bến cho thiên hạ trông thấy.
Chợt nhìn thấy Bá Vạn và thằng Thừa, cậu Hai Điền hỏi:
– Sao? Tụi nó ở đâu? Canh phòng thế nào? Ngày mai tao tới núi Mo So được chưa?
Thằng Thừa giả vờ như sắp nói chuyện quan trọng:
– Cậu ơi! Chuyện nầy mà đổ bể ra, chắc tôi bị giết. Tôi về đây, suýt chết mấy lần. Bọn hộ vệ của thằng Cẩu nắm áo tôi. Tôi liều chết chạy thật lẹ…
Nhìn cái vạt áo rách của thằng Thừa, cậu hai không nghi ngờ gì cả. Cậu hỏi:
– Sao? Thằng Cẩu ở đâu?
– Dạ, trên núi. Mỗi ngày nó lo đá cá thia thia. Nếu bao vây hoặc giả dạng thường dân, lên núi thình lình thì giết nó tại trận.
– Ngày mai lúc mặt trời đứng bóng, chắc là thằng Cẩu không còn sống.
Bá Vạn đáp:
– Chắc chắn như vậy, nhưng dọc đường cậu nên cẩn thận. Chuyến đi, cậu đừng cho ai biết nhiều. Chuyến về thiên hạ sẽ khâm phục, cho cậu là “chơn mạng đế vương” có tài xuất quỉ nhập thần. Cậu nghỉ sớm để dưỡng sức.
Cậu Hai Điền lẩm bẩm
– Giết thằng Cẩu xong rồi thì Tư Thính, cô Huôi phải hàng phục thôi.
Bá Vạn nói thêm:
– Nhưng Mười Hấu và cô Ngó thì phải đền tội. Mẹ và ông ngoại gánh tất cả trách nhiệm của con, làm sao chối cãi được. Chừng đó xong xuôi, chắc cậu ban thưởng tôi.
– Đừng lo. Tôi cho ông một ngôi nhà cao ráo, ở gần tôi. Căn nhà của ông hư nát rồi. Lúc tôi săn heo rừng, ông coi chừng tiền bạc, rầy la bọn tá điền…
Bá Vạn cười hiền lành, tưởng rằng thế gian nầy chẳng còn ai đóng trò khéo hơn được:
– Tôi không màng danh lợi, chỉ dám mong cậu xuất tiền xây cất một kiểng chùa để thỉnh thoảng tôi tới đó tụng niệm.
Sau khi từ giã cậu Hai Điền, Bá Vạn qua nhà bà chánh thất ở bên cạnh. Đứa nữ tỳ đưa ông vào trong. Bà chánh thất đóng cửa lại rồi ra lịnh:
– Ra ngoài mà chờ. Ta nói chuyện riêng. Thằng Hai Điền tính sao? Trăm sự đều nhờ ông. Tôi bây giờ như người goá phụ…
Bá Vạn ngồi xuống rồi mở nút áo:
– Xin lỗi bà, nực nội quá. Hồi chiều tới giờ, tôi chưa ăn cơm. Cậu Hai hơi nóng nảy, muốn đem tất cả bọn hộ vệ tới núi Mo So. Tôi ngăn cản, vì làm vậy thì còn ai bảo vệ bà, rủi bọn thằng Cẩu tới bao vây thình lình.
– Tôi dạy thằng Điền, chắc nó nghe lời tôi. Nhưng mà làm cách nào để giết thằng Cẩu? Theo ý tôi thì con Huôi là đứa lợi hại hơn. Còn con Ngó? Chẳng lẽ tha tội cho nó? Từ ngày hai đứa nó về nhà nầy, bao nhiêu chuyện lộn xộn xảy ra.
Rồi bà đến ngồi sát Bá Vạn:
– Ông đừng bắt chước ông Chúa Hòn ngày xưa làm khổ vợ con. Bấy lâu, ngồi trên đống vàng mà tôi khổ sở, buồn bực không kém gì cô gái quê mùa.
Bá Vạn cười dòn:
– Tôi muốn đi tu, sống an nhàn. Lâu lâu, nếu bà nhớ tưởng thì gọi tôi tới để dạy việc.
Bà chánh thất nói giọng tình tự:
– Ông dạy tôi, chớ tôi biết gì mà dạy ông. Ông nói phải. Nếu yên mọi việc thì tôi cất nhà ở xa, hoặc trên chót Hòn mà ở cho yên tịnh. Nhà nầy cất theo kiểu xưa, tối om om. Bọn nữ tỳ quá đông đảo, sớm muộn gì bọn nó cũng nói xấu chủ.
Uống cạn chén rượu, Bá Vạn giả vờ đòi về. Nhưng bà chánh thất cầm giữ khéo léo:
– Ông ở đây cho vui, vắng ông tôi buồn. Thằng Điền không giận ông đâu.
– Tôi sợ tới hừng sáng thức dậy không kịp. Cậu Hai nóng nảy muốn đi sớm.
– Dễ quá, để tôi biểu một đứa nữ tỳ qua nhà thằng Điền mà chờ. Hễ nó thức thì con nữ tỳ qua đây báo tin.
Suốt đêm ấy, tuy nằm bên cạnh bà chánh thất nhưng ông Bá Vạn suy nghĩ chuyện đâu đâu. Trong số ba người vợ mà ông Chúa để lại, ông thích nhất là cô Huôi nhưng làm sao ông với tới. Ông cười thầm:
– Mình đã chiếm được hai bà rồi!
Nhưng hình ảnh cậu Hai Điền cứ hiện ra chập chờn. Hai Điền là đứa khá gan dạ, khôn lanh. Liệu ngày mai anh em thằng Thừa thằng Thiếu đủ sức giết cậu Hai? Làm cách nào cho cậu ta đừng đem tên hộ vệ nào lên núi Mo So? Nếu kế hoạch thất bại, ông sẽ bị Hai Điền giết tại trận. Trong phút giây, ông nghĩ đến chuyện phản bội cô Huôi và thằng Cẩu, nhưng ông sực nhớ đến cái áo lem lấm thịt kho mà ông còn cất giấu kỹ lưỡng.
Rồi đây khi nắm trọn quyền hành, Hai Điền sẽ hách dịch bội phần và một trong những đứa hộ vệ giỏi nghề săn sẽ nắm vai trò “quân sư”. Biết đâu, Hai Điền sẽ trừng trị ông vào dịp khác. Và hổm rày có điều đáng chú ý là cậu ta thắc mắc việc ông giao thiệp thân mật với mẹ ruột của cậu! Đó là bản án treo mà sau nầy cậu được quyền xét xử, bất cứ lúc nào!
Đang ngủ say, Bá Vạn bị đánh thức:
– Ông ơi! Cậu Hai kêu..
Đứa nữ tỳ gõ nhẹ vào cửa, lập tức ông ngồi dậy.
Bà chánh thất ôm Bá Vạn mà hôn:
– Ông giúp giùm tôi. Thằng Điền còn trẻ lắm. Nhớ đem linh cữu chồng tôi về đây. Tôi hứa đền ơn ông.
Bá Vạn đáp:
– Bà nên dạy cậu Hai vài lời. Tôi nói, nhiều khi cậu không tin.
– Dạy điều gì?
– Cậu Hai nên giả dạng thường dân, đừng đem theo bất cứ tên hộ vệ nào cả. Tôi cũng ăn mặc xuề xoà.
Trong lúc Bá Vạn rửa mặt, bà chánh thất đến gặp cậu Hai, lát sau trở lại:
– Ông ơi! Nó chịu rồi. Sẵn đây, tôi đem bộ quần áo đen cho ông.
– Cậu Hai vui vẻ chớ?
– Lúc đầu, nó nhăn nhó mặt mày. Tôi cắt nghĩa rằng giết thằng Cẩu giống như giết heo rừng, nếu ăn mặc sang trọng thì làm tăng giá trị thằng Cẩu.
Bá Vạn ra ngoài. Công việc đầu tiên của ông ta là đánh thức thằng Thừa. Vắng thằng Thừa là hư chuyện. Tuy nhiên, ông dè dặt đến gặp cậu Hai Điền.
Cậu Hai đứng sẵn dưới bến. Hai tên hộ vệ lui cui đánh quai chèo. Thấy Bá Vạn tới, cậu hỏi:
– Như vậy được chưa? Giống như thằng đốn củi.
Bá Vạn trấn an cậu Hai:
– Được rồi, nhưng cậu nên mang theo hai cây dao nhỏ, giấu kín trong áo.
– Thì tôi mang theo hai cây với hai thằng hộ vệ.
Bá Vạn đáp:
– Hai đứa nầy không rành đường sá, mặt mày coi dữ tợn quá. Cho tụi nó ở nhà. Tôi với cậu thay phiên nhau mà chèo chống..
Cậu Hai Điền trố mắt:

– Như vậy mệt lắm. Ông tính sao? Rủi bị chận dọc đường làm sao chống cự được. Phải chi ông mạnh khoẻ…
Bá Vạn vỗ trán rồi nói nhanh:
– Tôi nhớ rồi! Thằng Thừa là đứa hộ vệ của tôi, nó rành đường sá, võ nghệ nào kém ai. Cậu với tôi cứ ngồi để nó chèo sau lái. Chiều nay mình tới Mo So là vừa. Thằng Thừa đã dọ thám hôm qua.
– Kêu nó đi theo. Nhưng tôi muốn làm chuyện bất ngờ. Thay vì đi êm thấm thì mình cho bọn hộ vệ chừng vài chục đứa đốt đuốc, cầm dao mác. Thằng Cẩu là con heo rừng, nên giết nó như giết heo.
– Đó là chuyến về. Nếu gây động, nó trốn thì dễ gì bắt sống nó mà xử cho hả dạ?
Cậu Hai đang do dự. Bá Vạn bèn ngoắt thằng Thừa.
Mặt trời xuống thấp, muỗi kêu vo vo. Thằng Thừa cầm cây sào, xuống chiếc ghe lườn nhỏ. Đó là kiểu ghe độc mộc, tuy nhỏ hẹp nhưng di chuyển nhanh chóng, bị đụng thì không bể, rủi chìm thì cứ nâng lên rồi tát nước cho cạn.
Cậu Hai hỏi:
– Muỗi cắn, mình làm sao bây giờ? Phải un khói trước mũi ghe chớ.
Biết rằng nếu sơ suất một tiếng nói thì kế hoạch bị gãy đổ, Bá Vạn đáp:
– Dạ, un khói thì muỗi tan, nhưng có đóm lửa chập chờn, mình chưa tới là dân chúng hay biết…
– Phải đem rượu theo thật nhiều. Mình uống say thì hơi rượu thấm vô máu, muỗi cắn hút cũng say rượu luôn.
Thằng Thừa lên nhà đem hũ rượu xuống. Bá Vạn nháy mắt rồi khoát tay. Chưa chi thằng Thừa đã trổ tài chống ghe. Với cây sào dài, nó điều khiển khéo léo, chiếc ghe không lúc lắc vì di chuyển quá nhanh. Cậu Hai Điền bắt đầu vui vẻ:
– Ghe đi lẹ thì bớt muỗi, làm sao muỗi bay theo kịp? Uống rượu chớ!
Bá Vạn mở hũ rượu, rót ra chén mời cậu Hai uống trước. Uống cạn chén, cậu trố mắt:
– Tại sao cây cối hai bên bờ hơi lạ?
Bá Vạn đáp:
– Dạ, mình đi tắt trên bưng, đừng lo thiên hạ thấy. Núi Mo So hiện ra kìa!
– Phải chỗ hôm trước không mậy? Mầy còn nhớ chỗ thằng Cẩu đá cá lia thia không?
Thằng Thừa đáp:
– Dạ tôi nhớ. Ban đêm cậu Cẩu ngủ tại trường đá cá không ai canh phòng cả. Mình chỉ sợ phía chân núi, chỗ nhà Mười Hấu và cô Huôi đang trú ngụ. Luôn luôn, trước sân có năm bảy đứa cầm dao.
Lý lẽ ấy chưa thuyết phục được cậu Hai Điền:
– Tại sao thằng Cẩu ngủ trên sườn núi một mình? Ban đêm, cá thia thia cũng ngủ chớ đâu có thức mà đá. Mầy nói hơi vô lý. Nẫy giờ tao muốn trở về!
Bá Vạn rùng mình lo sợ, nhưng cậu Hai vội nói tiếp:
– Tao trở về kêu vài chục đứa hộ vệ tới đốt nhà Mười Hấu, đốt luôn con Huôi thử coi nó có sống mãi không? Cái thứ bông quỳnh hoa thì lâu lâu nở một lần. Cha tôi lầm tưởng con Huôi là nữ thần hộ mạng.
Để tranh thủ thời giờ, Bá Vạn cứ nhắc nhở:
– Mầy chống cho lẹ kẻo muỗi cắn cậu Hai.
Bỗng dưng cậu Hai la hoảng:
– Con gì vậy?
Một con cá thát lát trắng bạch từ ngoài bưng nhảy vào chiếc ghe lườn, ngay trước mặt cậu Hai. Cậu cằn nhằn:
– Điềm xui xẻo. Đêm nay tôi sao giận trong bụng quá. Hay là mình về?
Bá Vạn đưa tay ra sau lưng như khuyên thằng Thừa đề phòng cẩn thận. Cậu Hai rút ngọn dao ra mà nói tiếp:
– Bá Vạn nghĩ sao? Con cá nhảy vô ghe rồi nằm im. Chắc là có kẻ rình mọ.
Bá Vạn đáp:
– Cậu đừng lo ngại. Ban đêm bọn tay em của Mười Hấu uống rượu rồi ngủ hết rồi.
– Chống xuồng ra ngoài rạch, mát mẻ hơn. Mầy cho chiếc ghe quẹo ra. Trong bưng u ám quá. Hay là con cá nầy là điềm của Trời Phật khuyên bọn mình nên theo con đường khác?
Thằng Thừa tức giận vô cùng, muốn nhảy tới giết cậu Hai Điền cho rảnh. Nó thắc mắc không hiểu tại sao Bá Vạn chưa giết cậu Hai. Nhưng Bá Vạn lại suy nghĩ cách khác. Đến giờ phút nầy, tánh mạng cậu Hai Điền đã nằm trong tay lão. Nếu giết quá nhanh chóng vội vàng thì thằng Cẩu, Mười Hấu và cô Huôi đều sẽ xem thường công việc, sau nầy khi nắm quyền hành thì họ cho rằng lão chẳng góp công lao đáng kể. Mười Hấu và cô Huôi đều là người tham tiền bạc, địa vị. Thằng Cẩu nuôi nấng nhiều cao vọng. Với cái tật ngang tàng, phách lối, rồi đây cậu ta sẽ chửi lão như cậu Hai đã từng làm. Được chim bẻ ná, đước cá quăng nơm. Là người tôi tớ già, lão hiểu trò đời hơn ai hết. Lão nhớ cái tráp, trong đó đựng cái áo dính thịt kho chưa giặt sạch. Khi Hai Điền chết, lão sẽ sung sướng mở tráp ra, ném cái áo cho mọi người xung quanh thấy. Dù sao đi nữa, bà chánh thất vẫn hiền lành, khả ái và vô tội. Nếu có dư luận không đẹp cho rằng lão giết Hai Điền thì còn mặt mũi nào lão nhìn bà chánh thất. Chẳng lẽ lão giết luôn bà ta! Làm như vậy thì Tư Thính và Mười Hấu sẽ cho rằng lão gian ác, sẵn sàng phản bội tất cả mọi người. Họ sẽ giết lão sau khi họ thắng thế để ngừa hậu hoạn.
Thằng Thừa lên tiếng:
– Xuồng ai bơi ngược về phía nầy kìa.
Bá Vạn nhắc nhở khéo léo:
– Có tao. Chắc là xuồng mấy người đốn củi đặt trúm.
Nhà hai bên bờ đều đóng kín cửa. Đã đến địa phận chân núi Mo So. Quả thật cô Huôi đã bố trí khéo léo, dọc đường cậu Hai không gặp ai xét hỏi cả. Cậu Hai Điền thích chí:
– Đêm nay tao cho tụi nó chết. Thừa à! Nhớ kỹ nhà Mười Hấu không?
– Dạ nhớ. Chỗ có mấy cây cau lão đằng trước.
– Mầy ghé lại, tao ngồi chờ. Mầy tới đó rình thử rồi cho tao biết.
Thằng Thừa lên bờ, bước nhanh. Vài con hạc kêu oang oác trên bầu trời đầy sao thưa. Cá đớp bọt sát mé cỏ. Bên kia bờ, nhà nọ còn thức. Có tiếng trẻ con khóc và tiếng hát ầu ơ.
Cậu Hai mò tay, lấy hũ rượu uống cạn một chén rồi căn dặn Bá Vạn:
– Đừng nói chuyện.
Ngồi trên ghe với cậu Hai, Bá Vạn lo sợ vô cùng. Nếu cậu trở mặt dùng dao nhọn mà giết lão thì ai che chở giùm.
Thời khắc trôi qua chậm chạp. Phía núi Mo So vài đốm sáng chập chờn. Mây đen kéo tới nườm nượp che khuất trăng sao. Bỗng dưng mà Bá Vạn ngờ mình đang bị chôn sống trong cái hố sâu thẳm. Ếch nhái kêu inh ỏi bên tai. Bầy đom đóm từ xa bay lại như những oan hồn, đều bắt đầu làm quen với Bá Vạn.
Cậu Hai tằng hắng:
– Nó về kìa!
Thằng Thừa chạy hổn hển, đứng lại thở phào:
– Dạ xong rồi. Nhà Mười Hấu đóng cửa kín.
Cậu Hai nói:
– Mầy kiếm một mớ nhánh cây khô để tao đốt. Nó chạy ra là gặp tao. Tao giả dạng như người chòm xóm tới coi đám cháy. Làm sao nó biết trước được.
Cả ba người lên bờ, đến nhà Mười Hấu. Bầy chó sủa vang nhưng lạ thay, họ chẳng nghe ai lên tiếng cả. Cậu Hai hỏi:
– Sao vậy?
Thằng Thừa đáp:
– Dân chúng ngủ mê hoặc là xóm nầy chó cứ sủa từng chập, chẳng ai thèm chú ý.
Cậu Hai đến trước sân rồi đạp mạnh cánh cửa:
– Chủ nhà đâu?
Thừa lúc ấy, Bá Vạn hỏi thằng Thừa:
– Mầy gặp ai lúc nãy?
– Dạ, cô Huôi. Cô bảo rằng cứ tới…rồi lên núi.
Cánh cửa mở tung, bên trong thắp đèn leo lét. Một người lồm cồm ngồi dậy trên bộ ván. Cậu Hai xông vào. Lúc ấy, cậu tin sức mình, với ngọn dao nhỏ cầm sẵn trong tay. Người nọ chạy xuống nhà bếp rồi đạp cửa sau nghe rầm rầm. Thằng Thừa đoán chắc là Mười Hấu, nên chờ khi Mười Hấu chạy ra vườn, nó kêu lên:
– Nó chạy kìa! Để tôi rượt theo.
Cậu Hai đáp:
– Mầy ngu quá. Đốt nhà cho tao!
Không đợi thằng Thừa tiếp tay, cậu Hai lấy thếp đèn để sát vách, đổ mớ dầu ra rồi dùng tim đèn mà châm vào. Lửa bốc lên. Bá Vạn bịa chuyện để cậu Hai tin rằng đã thắng cuộc:
– Nó chạy ra sau vườn kìa! Nó xuống mé sông.
Lập tức, cậu Hai trở ra với nụ cười trên môi và cây dao trên tay. Bá Vạn nói khéo:
– Bây giờ cậu lên sườn núi để bắt sống thằng Cẩu. Chờ lâu quá thì ngọn lửa bốc sáng, nó nghi ngờ.
Cậu Hai Điền nhìn mấy nhà chung quanh, nêu câu hỏi:
– Dân chúng đâu hết rồi?
Bá Vạn hiểu rằng dân chúng đã tản cư trước, theo lệnh cô Huôi, ông ta đưa lý do không vững lắm:
- Mười Hấu phách lối, ăn ở bất nhân nên dân chúng không phục. Ngày mai, họ vui mừng khi hay tin cậu tới cứu giúp.
– Phải lắm. Mười Hấu là cái gì mà đòi làm cha ông Chúa Hòn? Bây giờ, tao giết thằng Cẩu. Dẫn đường cho tao đi!
Thằng Thừa đến gốc cây to, dừng lại để chờ cậu Hai và Bá Vạn. Con đường mòn hiện ra, dốc núi thoai thoải và trên kia, ánh đèn leo lét chiếu sáng từng chập. Lúc hăng hái, cậu Hai đi nhanh, hỏi lấy lệ:
– Tao biết rồi. Thằng Cẩu ở chỗ có ánh sáng trên đó?
Thằng Thừa đáp:
– Dạ phải.
– Để tao giết nó một mình. Tưởng rằng bọn nó canh phòng chu đáo; quanh nhà có thiên binh vạn mã. Ngờ đâu chuyện đời quá dễ.
Bá Vạn và thằng Thừa theo sau. Ông ta cau mày nói khẽ:
– Mầy thấy chưa? Cậu Hai muốn phản tụi mình.
– Ông nói sao?
– Hễ giết được thằng Cẩu thì cậu cho rằng đó là do cậu can đảm, đủ tài trí. Nhưng thằng Thiếu có ở trên đó không?
– Dạ, hồi nãy nó hẹn ở đó.
Cậu Hai Điền gọi từng chập:
– Theo tôi cho mau. Tôi chỉ sợ khi nào Mười Hấu và con Huôi lên núi báo tin. Hồi nãy, họ xuống bến phải không?
Căn nhà hiện ra đúng là nơi mà thằng Cẩu bố trí sẵn để đá cá thia thia hồi mấy tháng trước. Nhà rộng bốn gian vách phên sơ sài. Đến trước sân, cậu Hai dè dặt đứng lại để chờ thằng Thừa. Bá Vạn nói:
– Coi chừng lầm nhà, mầy nhớ kỹ chưa?
Thằng Thừa đáp:
– Dạ, đúng là nhà nầy.
Cậu Hai nhìn qua kẽ vách. Có người nằm trong cái mùng bằng nhiễu đỏ. Cậu khều Bá Vạn:
– Ông vô trước, đánh thức nó. Rồi tôi hạch hỏi nó trước khi giết cho sướng tay.
Bá Vạn đáp:
– Thằng Thừa vô trước. Nó có võ nghệ. Nó vô trước, cầm dao đứng sẵn rồi cậu hãy lên tiếng.
Thằng Thừa tuân lênh, vạch mấy miếng lá bên vách mà xông vào. Mừng rỡ biết chừng nào! Nó thấy đúng em nó là thằng Thiếu đang nằm nghiêng trong mùng giả dạng thằng Cẩu. Nãy giờ, thằng Thiếu phập phồng chờ đợi với cây mác nhọn và sợi dây khá chắc.
Thằng Thừa nhìn kỹ. Em nó mở mắt ra, nháy đôi ba lần. Nó khoát tay.
Từ bên ngoài, cậu Hai Điền đạp cửa phên. Cửa ngã xuống, cậu cười dòn:
– Thằng kia! Thức hay ngủ!
Nhanh như chớp, thằng Thừa đổi vị trí, đến sát cậu Hai Điền như để làm phận sự hộ vệ. Cậu Hai cầm ngọn dao trên tay, đến sát bên mùng. Thằng Thiếu vụt ngồi dậy. Bá Vạn cười to:
– Cậu Hai! Biết tôi là ai không?
Khi day lại, cậu Hai bủn rủn tay chân vì thằng Thừa và thằng Thiếu đều hươi khí giới, để sát ngực cậu. Bá Vạn vuốt râu, trợn mắt:
– Biết tôi là ai không? Cậu nhớ thằng già nầy hồi mấy tháng trước bận cái áo gì không? Cái áo dính thịt kho…Cậu buông cây dao xuống. Ở đây, hôm nay thằng Cẩu không chết mà người chết là thằng Hai Điền.
Mồ hôi tuôn xuống nườm nượp, cậu Hai xám mặt, từ từ buông cây dao rớt nhẹ xuống đất. Bá Vạn nói tiếp:
– Chung quanh đây còn mười võ sĩ khác, cậu đừng chống cự vô ích.
Cậu Hai ôm mặt khóc, quì xuống trước mặt Bá Vạn:
– Trời! Dè đâu đêm nay tôi chết như vầy. Tôi là đứa ngu dại. Ông không tha thứ cho tôi được sao?
Bá Vạn sung sướng vô cùng. Lần đầu tiên trong đời, ông ta đã bắt buộc một ông chúa con phải quì gối để xin tha mạng. Trước khi giết Hai Điền, ông muốn nói vài tiếng cho hả giận, bù lại khoảng thời gian đau khổ mà ông đã chịu đựng suốt mấy tháng qua:
– Mọi khi, chú mầy xem trời đất nhỏ như hột tiêu. Bây giờ chú mầy nhỏ hơn hột tiêu, hiểu chưa? Đừng tưởng mầy giỏi hơn con heo rừng. Tao là con cọp kỳ lân. Bao nhiêu tài sản ông bà mầy để lại đều thuộc về tay tao nắm giữ. Tao làm tôi mọi nhiều năm rồi.
Niềm hy vọng mong manh vẫn còn thấp thoáng trong trí óc cậu Hai Điền. Cậu day lại nhìn thằng Thừa, thằng Thiếu. Hai đứa nó cầm dao trong tay. Cậu cúi mặt, hai ba giọt mồ hôi rớt xuống long lanh. Thếp đèn dầu mù u cứ cháy chập chờn:
– Hồi đó, tôi là đứa con nít, tôi trót dại, làm chuyện hổn láo. Nay mai khi trở thành ông Chúa, tôi hứa đền ơn xứng đáng. Hòn Đất và núi Mo So sẽ thuộc về tay ông.
Bá Vạn quát to:
– Không bao giờ mầy trở thành ông Chúa Hòn được!
– Trời ơi! Xin ông thương tưởng giùm, cho tôi sống để ăn năn tội lỗi. Tôi trở thành thường dân..
-Mầy không xứng đáng làm thường dân.
– Dạ…ông cho tôi sống thêm vài năm, tôi hứa vô chùa tu cho tới chết.
– Thà mầy chết bây giờ, sướng thân mầy hơn. Lúc trước mầy hất tô thịt kho lên áo tao, mầy hất thêm một tô nước mắm lên đầu tao. Đáng lý ra, hai ba ngày sau mầy kiếm tao để xin lỗi. Cha mầy là đứa không biết phải quấy, tao giết cha mầy rồi. Mạng mầy là đồ bỏ.
Liệu chừng năn nỉ không xong, cậu Hai Điền nghĩ tới biện pháp chót là chạy trốn. Căn nhà nầy vách phên thưa thớt, nếu đạp mạnh là thoát ra ngoài. Thà ra ngoài nhảy xuống hố, đập đầu vô đá mà chết còn đỡ nhục nhã hơn ở đây.
Nhưng Bá Vạn lên tiếng:
– Thừa, Thiếu đâu rồi? Dẫn nó ra trước sân, làm thịt cho kỹ.
Cậu Hai giãy dụa kêu la:
– Tôi không có tội tình gì hết, cho tôi sống với chớ! Mấy ông cho tôi sống rồi muốn làm gì thì làm. Oan ức quá. Trời ơi!
Bá Vạn ngồi xuống. Ngoài kia, cậu Hai thở hồng hộc, tiếng thở thỏn mỏn dần. Bá Vạn nhìn ra:
– Nó chết thiệt chưa? Giết cho kỹ lưỡng, quăng xác xuống hố.
Lát sau, ba người xuống chân núi. Nhà Mười Hấu chỉ bị hư hao sơ sài. Cửa trước sau đều mở rộng. Vừa liếc vào, Bá Vạn thấy cô Huôi đang ngồi trên bộ ván. Gương mặt cô trầm tĩnh và nghiêm nghị lạ thường. Mười Hấu ngồi phía sau lưng cô Huôi và phía sau Mười Hấu là cô Ngó. Thoạt tiên, Bá Vạn chờ đợi lời khen ngợi và đón tiếp rầm rộ của Mười Hấu. Bá Vạn nghĩ rằng mình đã lập công lớn, cô Huôi và Mười Hấu phải nhớ ơn và khâm phục. Ông ta bước vào, cúi đầu.
Cô Huôi cất tiếng:
– Xong xuôi rồi chớ? Ngày mai ta về Hòn Chông.
Mười Hấu là người quê mùa nên kém trầm tĩnh:
– Ông ơi! Nãy giờ tôi lo múc nước để chữa lửa. Nhà nầy bị cháy một lỗ lớn. Thằng Cẩu cứ lo…
Cô Huôi chận lời Mười Hấu:
– Xong rồi thì ta nghỉ cho khoẻ. Thằng Thừa, thằng Thiếu đâu rồi? Rửa tay chân cho sạch máu. Mai chiều, Bá Vạn thưởng tiền cho.
Nói xong, cô Huôi vào trong. Bá Vạn nằm trên bộ ván cứ thao thức trong khi anh em Thừa, Thiếu xuống bến tắm rửa. Chó sủa ma, văng vẳng trong đêm thâu. Bá Vạn rởn tóc gáy từng chập khi thấy một con đom đóm từ ngoài sân, phía núi Mo So bay vào. Phải chăng đó là oan hồn của cậu Hai Điền? Con đom đóm vào, bay trở ra. Bá Vạn chưa yên tâm cho lắm vì những ngày sắp tới ắt còn nhiều khó khăn. Cô Huôi đẹp thật, nhưng lúc nầy vẻ đẹp ấy hơi bí hiểm.
Bất giác, lão thở dài:
– Mình làm cho thiên hạ hưởng. Chẳng lẽ mình lại ngu dại làm chuyện hại ngược lại mình? Cô Huôi còn trẻ nhưng khác xa bà chánh thất và cô Ngó…Đêm nay nếu không có cô ta thì mình được an ủi bên cạnh cô Ngó! Còn thằng Cẩu? Nó ngủ say hay là đang trửng giỡn với mấy cô thôn nữ? Thiệt là đứa tốt phước!
- 10 -
Xóm Hòn Chông trải qua những ngày vui tươi. Việc làm đầu tiên của cô Huôi là dạy Bá Vạn nên xoá bỏ một phần lớn nợ nần của bọn tá điền. Ai nấy mừng quýnh. Đối với họ, đây là dịp tốt để uống rượu, ăn chơi. Sòng bạc mọc lên rải rác. Ban đêm, họ đốt đuốc ngoài sân để ăn uống, ca hát. Thằng Cẩu ưỡn ngực, mặc áo gấm, mặc nhiên trở thành ông Chúa Hòn.
Cậu ta rước một đoàn lực sĩ “Sơn Đông” từ Rạch Giá để xem chơi. Trong khi ấy, cô Huôi ngồi trên bộ ván cẩm lai, gương mặt ưu tư hơn bao giờ hết.
Đối diện với cô là ông Bá Vạn. Bá Vạn hiểu rằng nên khéo nịnh hót cô Huôi, ông ta được hưởng chút ít tiền bạc, còn hơn là tổ chức một cuộc chống đối quá phiêu lưu. Bọn hộ vệ có thể nghe theo lời ông, nhưng ông Chúa Hòn không còn đứa con trai nào khác ngoài thằng Cẩu.
Cô Huôi cất tiếng:
– Hổm rày, ông Bá mệt nhọc, tôi biết.
Bá Vạn muốn nhơn cơ hội nầy bảy tỏ nỗi thắc mắc thầm kín nhứt:
– Nhưng xin lỗi cô, tôi muốn hỏi…
Cô Huôi trợn tròn đôi mắt:
– Phải kêu tôi bằng bà cho quen miệng. Thằng Cẩu chỉ là con của tôi. Tôi đứng trên thằng Cẩu.
Bá Vạn lại ấp úng:
– Thưa bà…
Cô Huôi mỉm cười:
– Bá Vạn đừng buồn. Tôi chưa khen thưởng Bá Vạn, để thủng thỉnh rồi tính sau. Tôi lo xa nên chưa vui. Thằng Cẩu là đứa khó dạy. Không hiểu nó mang chứng gì mà mặt mày xanh mét, run tay run chân, tánh tình bất thường. Điên không ra điên, khùng không ra khùng. Rồi đây, nó hại tất cả mọi người.
Bá Vạn chắp tay thưa:
– Thưa bà, lần nầy bà dạy dỗ nó. Vì bà là mẹ, còn hơn mẹ ruột.
Cô Huôi đáp:
– Nhưng tôi không tham quyền cố vị! Tôi tránh tai tiếng kẻo thiên hạ đồn rằng tôi bày mưu kế giết cậu Hai Điền. À! Nghe nói Bá Vạn quen thân với bà chánh thất?
– Dạ, xin bà hiểu giùm, lúc trước tôi tới lui với bà ta để dọ thám đừng cho Hai Điền kéo tất cả bọn hộ vệ tới núi Mo So.
Cô Huôi cau mày hồi lâu không trả lời. Lúc nầy Bá Vạn thấy mình yếu đuối và cô độc hơn bao giờ hết. Nếu cô Huôi lật ngược thế cờ, tố cáo ông Bá Vạn là kẻ âm mưu giết ông Chúa và Hai Điền thì ắt là ông ta bị giết ngay, không ai binh vực, che chở. Từng giọt mồ hôi chảy dài trên trán Bá Vạn. Cô Huôi nói:
– Lau mồ hôi cho tỉnh táo, có gì mà sợ! Tôi không phải là người thất đức, miễn là Bá Vạn biết phải quấy với tôi. Đừng ham công danh.
Bá Vạn đáp:
– Dạ, nếu bà cho tôi nghỉ việc thì còn gì may mắn cho bằng. Từ nay về sau, bà trọn quyền coi sóc tất cả mọi việc. Tôi thì già yếu, chỉ mong được dưỡng nhàn.
Cô Huôi nói:
– Bá Vạn ở lại để điều khiển cậu Cẩu. Chẳng lẽ tôi gây gổ với nó mỗi ngày đôi ba lần. Thỉnh thoảng tôi rầy rà một lần thì nó mới sợ. Nhưng tôi buồn giùm bà chánh thất. Hỗm rày tôi chưa gặp mặt. Để bà ở đây thì khó xử.
Hai ngày qua, Bá Vạn chưa dám gặp bà chánh thất vì sợ cô Huôi tình nghi. Hơn nữa, Bá Vạn là người phản bội dưới mắt bà ta. Bà ta có thể liều chết, chưởi một trận nên thân rồi theo chồng theo con qua bên kia thế giới.
– Bà dạy thì tôi vâng lời…
Cô Huôi nói:
– Bá Vạn có quen thân với bà chánh thất thì đến gặp mà an ủi rồi khuyên bà nên lựa chọn nơi nào mà dưỡng thân cho khoẻ. Ta hứa cho tiền bạc thêm để xài…
Lập tức, Bá Vạn qua nhà bà chánh thất. Bà hỏi nhanh:
– Gì nữa đó? Cô Huôi đã chiếm đoạt tất cả quyền hạn. Nói rằng thằng Cẩu nắm quyền chớ cô ta từ rày về sau nắm hết quyền hạn, đúng là bà Chúa, là mẫu hậu. Cô ta có hỏi tới tôi không?
Bá Vạn trình bày ý kiến của cô Huôi. Bà chánh thất cười gượng:
– Thà rằng đi mà chắc sống thêm mươi năm, còn hơn là ở đây. Ông thấy cô Huôi là người thế nào?
– Dạ, là người khôn khéo, đáng mặt đàn bà.
Bà chánh thất thở dài:
– Đêm rồi, ta nằm chiêm bao, thấy nhiều điềm kỳ lạ quá. Chồng ta và con ta hiện về, mặc quần áo tang. Ta hỏi thì họ trả lời rằng vui lắm. Ta hỏi thêm cho biết tại sao họ vui. Họ trả lời rằng…
Bà nghiêng sát đầu vào tai Bá Vạn mà nói tiếp:
– Nói rằng cô Huôi không làm bà Chúa được lâu đâu.. Đó là bông quỳnh hoa sớm nở tối tàn. Quỳnh hoa được người chờ đợi khi là nụ, khi nở thì thơm lạ lùng nhưng mặt trời chưa mọc là đã tàn. Vả lại tôi nghe nhiều người nói rằng hễ đàn bà cầm quyền thì… gia đình suy sụp. Ông tin lời tôi không?
Bá Vạn nói:
– Tin chớ…
– Ông tìm cách xin đi xa. Bởi vì ông với tôi là hai
người án bóng cô Huôi. Trước sau gì cô ta cũng đuổi. Thà rằng mình đi trước.
– Nhưng …hiện giờ cô Huôi bắt buộc tôi ở lại. Tôi buồn quá. Tôi ở lại để nghe cậu Cẩu chưởi mắng như lúc trước tôi đã từng chịu đựng với cậu Hai.
Ngoài đường, dân chúng la hét và cười giỡn rầm rộ lên. Có người nói:
– Hát thuật “Sơn Đông” bên chợ Rạch Giá tới. Một người nuốt hai ba cây gươm! Ông Chúa mới lên dám tốn tiền cho dân được vui.
Bá Vạn hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Bà chánh thất đáp:
– Ông rảnh thì coi thử. Cái thằng Cẩu thiệt là khó chịu. Thằng Điền của tôi coi vậy chớ khôn ngoan hơn.
– Tôi về. Vài ngày nữa lại thăm bà…
Ra khỏi nhà bà chánh thất, Bá Vạn lầm lũi theo đám người đông như thác lũ đang kéo về xóm chợ. Cậu Cẩu ngồi trên cái ghế to, trước kia dành cho cậu Hai Điền ngồi trên ghe để thị oai khi săn heo rừng. Nhóm Sơn Đông mãi võ gồm mười đứa cao lớn, mang theo nào đao, siêu, chùy, đinh ba, song kiếm. Bá Vạn đứng sau lưng cậu Cẩu.
Hai tên võ sĩ đánh nhau, đứa cầm song kiếm, đứa đỡ gạt với hai bàn tay không! Dân chúng hò reo từng chập để tán thưởng tài nghệ anh chàng tay không. Lắm khi anh ta né một bên, nhảy thật cao hoặc ngã mình cho té sấp để tránh lưỡi kiếm sáng ngời của đối phương. Bá Vạn thừa hiểu đó là những cuộc sắp xếp ngoạn mục. Có điều đáng chú ý là ở góc sân có một chàng trai mặt mày nghiêm nghị, nhỏ con. Đúng là người Việt Nam chớ nào phải là Hoa kiều từ đất Sơn Đông tới. Chàng nầy cầm cây cờ đuôi nheo, ba góc. Giữa cờ, thêu năm chữ “Sơn Đông Quỉ Mãi Khoan” nhưng điều khiến Bá Vạn đổ mồ hôi là lá cờ nọ có những tua dài bằng kim tuyến. Bá Vạn lẩm bẩm:
– Bọn nguy hiểm. Kim tuyến màu vàng nhưng tại sao lại là màu xanh, màu trắng và màu đỏ?
Cậu Cẩu day lại:
– Cái gì?
Bá Vạn đáp:
– Thưa cậu, bọn nầy không phải là Sơn Đông.
– Miễn là nó đánh võ coi sướng mắt thì thôi. Nếu không phải là Sơn Đông thì nó là gì?
– Dạ có lẽ là dọ thám…
– Ông nói có lý. Lát nữa tôi mời cái thằng chủ chốt tới nhà ăn cơm rồi bắt nhốt luôn…Ông về đi. Cứ để nó múa vài chập nữa.
Bá Vạn tất tả vào tư thất của cô Huôi. Theo ý ông thì ba sọc xanh trắng đỏ là màu cờ của người Lang Sa. Năm ngoái, ông đã nghe nói rằng bọn Lang Sa đã chiếm thành Gia Định, rồi đến Định Tường, đến chợ Hà Tiên. Mấy tháng qua, vùng Hòn Chông sống yên lành, có lẽ vì người Lang sa cho rằng Hòn Chông không quan trọng.
Cô Huôi nghiêm mặt khi nghe Bá Vạn trình bày buổi trình diễn:
– Bọn đó là ai?
Bá Vạn suy nghĩ hồi lâu:
– Quân Lang Sa tới, nhưng là ở xa. Nghe đâu bọn nó ra ngoài Huế để ra mắt nhà vua. Mấy tháng rồi, ông Chúa không đụng chạm tới họ thì chắc là rồi đây họ không đụng chạm tới xứ Hòn Chông nầy.
Cô Huôi nói:
– Bá Vạn ra chợ, mời một đứa trong bọn rồi hỏi kỹ lưỡng. Nên đối xử tử tế rồi khuyên họ đừng nên tới lui xứ nầy.
Thật là một công việc khó khăn! Từ khi cậu Cẩu “lên ngôi” đến giờ, Bá Vạn luôn luôn tìm cách lánh mặt để tránh dư luận xấu, cho rằng ông âm mưu giết cậu Hai Điền. Cậu Cẩu thì xem thường Bá Vạn, suốt ngày cứ lo ăn uống và cờ bạc.
Ngoài chợ, bọn Sơn Đông mãi võ đang biểu diễn một trò nguy hiểm: nhảy qua vòng lửa!
Bá Vạn đến gần cậu Cẩu, nói khẽ:
– Thưa cậu…
Cậu Cẩu nắm tay Bá Vạn mà kéo xuống:
– Ngồi đây coi chơi.
– Dạ, bà má nuôi của cậu muốn xét hỏi. Bọn nầy đáng tình nghi.
Cậu Cẩu lắc đầu:
– Coi cho sướng cái đã. Tụi nầy có tài. Người ta đang trổ tài mà…
Giữa sân, một tên lực sĩ đang cầm cái vòng bằng sắt, có cán như cây vợt. Trống chiêng nổi lên. Tên lực sĩ khác lấy vải nhúng dầu chai, quấn chung quanh cái vòng châm lửa. Bỗng nhiên tên cầm cờ trao cây cờ cho người bên cạnh rồi chạy tới gần cái vòng, đứng lại.
Anh ta trợn mắt, lui ra. Rồi anh ta quát to, như tập trung thần lực. Cậu Cẩu nói:
– Bá Vạn vô coi! Nó nhảy vô trong vòng đó!
Nhưng anh ta cụt hứng vì chàng lực sĩ nọ chạy tới gần cái vòng rồi đứng lại, khom lưng, hai tay cặp sát mép tay. Cậu Cẩu nói lớn:
– Mầy giỡn với tao hả? Mầy gạt tao?
Anh ta thối lui, đứng ngắm nghía vị trí cái vòng rồi đứng thẳng người, buông xuôi hai tay. Cậu Cẩu nói:
– Mầy điếc hả? Tới xứ nầy mà mầy không phục tùng lời nói của tao.
Anh ta vẫn không trả lời, khoanh tay trước ngực rồi quát lên như con thú bị thương:
– Sát! Sát!
Bá Vạn và cậu Cẩu đứng dậy một lượt, nghĩ đến một vụ ám sát. Bọn Sơn Đông mãi võ nầy phải chăng là tay sai của bà chánh thất muốn lợi dụng cơ hội để lật ngược tình thế? Nhưng Bá Vạn và cậu Cẩu lầm to. Anh ta nhảy tuốt qua vòng lửa. Qua bên kia, anh ta đứng dậy, mỉm cười rồi day qua cậu Cẩu mà xá ba lần!
Cậu Cẩu bắt đầu nổi giận:
– Mầy khinh tao! Lại đây!
Anh nọ đến trước mặt mà trình bày:
– Thưa cậu, tôi liều nguy hiểm để cho cậu vui mắt.
– Nhưng tại sao mầy cười? Tại sao mầy kêu tao bằng cậu? Tao…chém mầy.
Bá Vạn phập phồng lo sợ. Nếu tên mãi võ nầy là tay sai dọ thám của quân Lang Sa thì việc chém giết quả là hành động khiêu khích, bỗng dưng mà rước lấy tai họa cho cả vùng Hòn Chông.
Ông nói:
– Thưa ông…nên hỏi kỹ lưỡng.
Cậu Cẩu lườm Bá Vạn:
– Đây là chuyện của tôi. Tôi giết nó.
Rồi nhìn anh chàng mãi võ, cậu la lớn:
– Ai dạy mầy cái tật hỗn láo!
Anh chàng nọ nhìn vào cậu Cẩu như để dò xét ngầm, lát sau mới nói:
– Dạ, người Lang Sa dạy tôi! Muốn được yên thân, cậu nên cầu hòa với người Lang Sa.
Vì sống quanh quẩn ở núi Mo So nên cậu Cẩu chẳng hiểu gì cả. Cậu lại hỏi:
– Lang Sa là thằng nào?
Bá Vạn quả quyết rằng bọn mãi võ nọ là quân dọ thám nên ra lịnh:
– Hộ vệ đâu? Bắt bọn nó!
Bọn Sơn Đông mãi võ hò hét vang rân trong khi bọn hộ vệ tìm cách bao vây. Dân chúng tán loạn trong khi Bá Vạn và cậu Cẩu chạy trối chết về tư thất. Cuộc tranh tài diễn ra trong chớp nhoáng rồi tự giải tán vì bọn Sơn Đông rút lui quá nhanh. Chúng hươi mấy cây đinh ba, chùy, song kiếm rồi chạy xuống núi. Đó là sự may mắn cho bọn hộ vệ, vì nếu bọn Sơn Đông kháng cự thật sự thì làm sao bọn chúng chống đỡ nổi với những cây dao ngắn.
Cậu Cẩu về nhà, gọi đứa nữ tỳ:
– Quạt cho mát coi!
Rồi day lại:
– Ủa! Sao có một đứa hè? Ba bốn đứa quạt một lượt cho nổi giông nổi gió.
Bá Vạn vuốt mồ hôi trán, theo sau mà nói:
– Thưa ông, đóng cửa lại! Bọn nó dám làm loạn.
Cậu Cẩu cằn nhằn:
– Ông già rồi mà ông còn nói bậy nói bạ. Thằng nầy chưa sợ bất cứ ai. Lát nữa, bọn hộ vệ lôi đầu thằng nhảy vòng lửa về đây chớ gì? Nếu sợ thì ông lại trước hàng ba mà canh chừng.
Tủi thân biết chừng nào! Bá Vạn không dám cãi cậu Cẩu. Đứng trước hàng ba, ông liếc về phía xóm chợ. Mấy tên hộ vệ cúi đầu đi lặng lẽ như bầy chuột mắc mưa. Đúng là họ đã thất bại và bọn Sơn Đông mãi võ đã tẩu thoát.
Cậu Cẩu hỏi:
– Tụi nó đâu? Dẫn bọn Lang Sa tới chưa? Lang Sa là cái giống gì?
Bá Vạn đáp:
– Bọn hộ vệ không bắt được ai hết. Bọn dọ thám chạy trốn rồi.
Bỗng dưng mà cậu Cẩu cười ha hả:
– Bọn Lang Sa chạy trốn thì…đâu đáng sợ. Ông hô hoảng làm náo loạn dân chúng. Từ rày về sau, ông đừng sợ bóng sợ gió vậy nữa…
- 11 -
Hai ngày liên tiếp, cậu Cẩu vắng mặt, lý do rất đơn giản: Cậu về núi Mo So để thăm mẹ và ông ngoại. Mười Hấu bày cho dân chúng ăn uống linh đình và tuyên bố rằng năm tới cậu Cẩu sẽ miễn tất cả nợ ăn và địa tô.

Người chờ đợi cậu Cẩu là cô Ngó. Cô buồn phiền vì thái độ gần như bạc bẽo, vô tình của Bá Vạn. Bá Vạn phải chăng đã quên đêm ân ái, trước khi xảy ra việc săn heo rừng? Cô Ngó hơi buồn tẻ, trở thành goá phụ. Cô không được tái giá vì vùng Hòn Chông nầy chẳng còn ai xứng đáng với cô. Ngoài ra, còn dư luận và áp lực của cậu Cẩu. Bá Vạn là niềm an ủi duy nhứt của cô.
Cô gọi:
– Cậu Ba đâu rồi?
Cậu Cẩu bước vào nhà:
– Thưa má, tại sao còn là cậu Ba? Là cậu Hai chớ!
Cô Ngó biết rằng cậu Cẩu đang kiêu hãnh nên vội sửa chữa:
– Ừ! Thì cậu Hai, má quen miệng. Hồi đó thằng Hai Điền còn sống, nó là đứa thứ hai.
Cậu Cẩu đáp:
– Má đừng nhắc tới nó nữa. Bây giờ, con là ông vua rồi.
– Bà chánh thất, cô Huôi và ông Bá Vạn đối xử với con ra sao? Con nên kính trọng và nghe lời mấy người đó. Má buồn vì quê mùa, ăn nói không lịch thiệp.
– Má về Hòn Chông ở với con…
– Chưa được đâu. Hễ má về thì thiên hạ đồn đãi…
– Chuyện đó thiên hạ bàn tán rồi bỏ qua chứ gì! Ai mà không biết ba con với thằng Điền bị cô Huôi và Bá Vạn giết chết. Tụi nó lợi hại lắm.
– Nhưng nhờ đó mà con thêm oai quyền. Đừng nói vậy không nên.
Vì ghen tương, cô Ngó muốn cho bà chánh thất và cô Huôi đi xa Bá Vạn. Cô hỏi:
– Bà chánh thất đi tu chưa? Má nghe đồn đãi rằng bà đi tu.
– Hơi đâu mà nhắc tới mụ đó. Mụ ta lấn hiếp má từ mấy năm qua. Đáng lý ra, con giết mụ ta.
– Con đừng nói nhảm. Còn Bá Vạn?
Cậu Cẩu cau mày:
– Cái đó khó hiểu. Bá Vạn tới lui thăm bà chánh thất rồi tới thăm cô Huôi.
Cô Ngó suy nghĩ hồi lâu. Vì đã từng sống gần cô Huôi nên cô Ngó tin rằng Bá Vạn chẳng bao giờ làm chuyện tình ái bất chánh được. Một là vì Bá Vạn đã già, hai là vì cô Huôi là người tự trọng và kiêu hãnh, dám hy sinh thú vui riêng để làm việc lớn.
Nhưng dầu sao đi nữa, Bá Vạn vẫn là người phụ bạc. Nghĩ vậy, cô Ngó nói:
– Bá Vạn là người tham lam.
Cậu Cẩu thích chí, nhớ tới chuyện Sơn Đông mãi võ hôm nọ:
– Nó muốn làm vua. Nó coi con là con nít. Con đi đâu, nó theo sát bên cạnh để dạy dỗ rồi mét thót với cô Huôi. Con cách chức nó.
Bỗng dưng mà cô Ngó nghĩ đến một thủ đoạn ác độc. Mấy tháng qua, cô sống hiền lành, phó mặc cho hoàn cảnh. Nhưng cô thấy rằng nếu quá hiền lành thì sẽ mất hạnh phúc:
“Rồi đây Bá Vạn sẽ năn nỉ ta cứu giúp”.
Nghĩ vậy, cô lại nói:
– Con hãy làm việc kỹ lưỡng. Bá Vạn làm công nhiều năm rồi, tất cả mọi người vùng Hòn Chông nầy đều biết mặt ông ta. Ông ta nghỉ việc, bao nhiêu sổ sách nợ nần đều mất. Chờ một hai năm nữa rồi hãy hay. Tạm thời, con tìm cách lấn quyền hạn ông ta, nắm giữ sổ sách.
– Hay lắm. Má cứ tin con.
– Nhắn Bá Vạn tới cho má dạy việc…
– Dạ.
Rồi cậu Cẩu lên núi Mo So để tìm mấy người bạn đá cá thia thia hôm nọ.
– Tụi bây tới Hòn Chông mà thăm tao!
Có người trả lời:
– Cậu là người giàu sang, như ông Chúa Hòn rồi. Tụi tôi bần hàn, ăn bận rách rưới, gia đình túng thiếu. Nếu bỏ công việc lấy sáp ong thì làm sao mà đủ cơm gạo cho vợ con ăn?
Cậu Cẩu đáp:
– Tao nuôi tụi bây luôn. Về đó, tụi bây ăn cho mập rồi tập luyện võ nghệ. Tao ở Hòn Chông một mình buồn bực vô cùng, xung quanh là người xa lạ, họ chắp tay xá tao, họ lạy tao nhưng tao không tin cậy bằng tụi bây.
Ai nấy vui mừng, hứa đi Hòn Chông để làm người hộ vệ cho cậu Cẩu.
Trên đường về Hòn Chông, cậu Cẩu bỗng dưng nảy ra ý nghĩ táo bạo:
– Qua Hòn Đất. Tụi bây biết nhà Tư Thính ba cô Huôi không? Đưa tao tới đó.
Bọn hộ vệ đáp:
– Thưa cậu, đường hơi xa. Đêm nay ngủ dọc đường, nào muỗi mòng, mưa gió.
– Tụi bây dốt quá. Ở Vàm Rầy có xóm nhỏ, cứ đậu ghe lại. Tụi bây ngủ, tao cũng ngủ luôn.
Câu nói vớ vẩn của cậu Cẩu khiến bọn hộ vệ trố mắt nhìn nhau. Tại sao cậu đòi đi Hòn Đất thật gấp rồi lại muốn ngủ dọc đường? Nhưng khi cậu Cẩu nói thì chẳng một ai dám cãi lời.
Nằm trong ghe bầu, cậu Cẩu nhớ lời căn dặn của me. Phải hạ nhục Bá Vạn mới được! Cậu Cẩu hiểu rằng hiện nay mình đang nắm tất cả quyền hạn và tài sản. Nhưng Bá Vạn là kẻ đang chia sớt quá nhiều quyền hạn ấy. Cô Huôi là người đáng cho cậu kính nể, chưa rầy rà cậu lần nào.
Ghe tới xóm Vàm Rầy.
Bọn hộ vệ hỏi:
– Thưa cậu, ngủ tại đây chớ?
Cậu Cẩu ngồi dậy, nhìn qua cửa hông mui ghe. Đèn đuốc sáng rực. Năm ba căn phố ngói hiện ra. Năm ngoái, cậu đến đây một lần nhưng xóm Vàm Rầy còn chưa sầm uất.
Cậu nói:
– Ghé lại. Nhà cửa của ai vậy?
Bọn hộ vệ đáp:
– Dạ, tụi tôi chưa rõ.
Tiếng đàn hát từ mấy căn phố vang ra. Cậu Cẩu nổi giận:
– Bọn nó vô lễ!
Bọn hộ vệ chưa hiểu cậu Cẩu muốn nói gì. Thật ra bọn người ở xóm Vàm Rầy nầy đâu hay biết trước để đón tiếp ông chúa con. Một tên hộ vệ hỏi:
– Thưa cậu, chắc họ đờn ca inh ỏi, cậu khó ngủ. Để tôi lên bờ nói một tiếng là họ dọn dẹp ngay.
– Không đâu! Tao muốn chuyện khác.
Một tên hộ vệ bèn ngỏ lời nịnh hót:
– Chắc là có cô nào đẹp mà lại hát hay. Tôi mời cô ta xuống đây hát cho cậu nghe.
Cậu Cẩu lắc đầu:
– Đừng giỡn mặt với tao. Thằng nào nói hỗn xược đó! Xuống đây tao dạy việc…
A Chúa là người Hoa kiều lai Việt, làm cai điền cho Bá Vạn hơn mười năm qua. Mới đây ông Bá Vạn trao một số tiền, bảo A Chúa xây cất ba căn phố lợp ngói. Ngoài ra, A Chúa còn lo dự trữ hàng hóa quan trọng. Sống trong địa phương nhỏ, A Chúa được dân chúng nể nang. Lúc ngồi nghe ca nhi đờn ca, anh ta ngỡ mình là ông vua nhỏ, bên cạnh cung phi mỹ nữ. Chuyến trước, Bá Vạn an ủi anh ta:
– A Chúa ráng vài năm là tôi chia cho một phần ba gia tài.
Lúc ngồi dựa lưng vào gối, A Chúa bỗng giựt mình vì thấy có một tên hộ vệ bước vào. Lối ăn mặc của bọn nầy khác hẳn với thường dân: áo ngắn, dây nịt da to bản. Thoạt tiên, A Chúa ngỡ rằng Bá Vạn tới nên reo to:
– Vui quá. Ổng tới rồi!
Rồi anh ta day qua bọn ca nhi:
– Chúng bây nghỉ ngơi giây lát để dưỡng sức. Đêm nay thức tới khuya. Ông Bá Vạn ban thưởng tụi bây.
Nhưng anh chàng hộ vệ quát to:
– Xuống bến! Biết ai không?
– Ông Bá chớ ai?
– Ông Bá hả? Coi chừng ăn đòn! Ông Chúa tới đó. Xuống ghe để nghe ông Chúa dạy việc.
– Sao tôi không hay trước? Vậy mà nãy giờ tôi tưởng là…
A Chúa gài nút áo, xỏ chân vào đôi giày hàm ếch. Bọn ca nhi ngồi yên trên chiếu, cúi mặt, sau khi dẹp cây đàn và đôi song lang sát vách. Ra đến sân, A Chúa nghe tiếng chưởi:
– Xứ nầy lạ quá, tụi bây làm ăn kiểu gì vậy?
Trong lúc A Chúa bối rối thì tên hộ vệ nhắc nhở:
– Ổng rầy chú mầy đó!
A Chúa nói khẽ:
– Thưa ông, xin ông tha thứ cho. Tôi chưa biết mặt ông. Xin mời ông vô nhà…
Khi đến trước thềm, cậu Cẩu dừng lại, ưỡn ngực trông lên:
– Nhà mới cất. Bên kia, ai làm chủ? Tại sao thiên hạ mau giàu quá vậy?
A Chúa run sợ nhưng làm sao anh ta dám nói dối. Song nếu tiết lộ sự thật thì chắc là cậu Cẩu nổi giận.
– Hả? Ai làm chủ? Chú mầy làm chủ chớ ai?
– Dạ, của …ông Bá Vạn!
– Rồi! Tao nói không sai. Được lắm, được lắm! Nhà nầy cất bao lâu rồi? Còn mới tinh khôi. Làm giàu mau thiệt.
Đúng là cậu Cẩu oán ghét ông Bá Vạn nên mới cằn nhằn ganh tị. A Chúa buồn bực vô cùng. Đáng lý ra, cậu Cẩu phải mừng rỡ khi thấy kẻ ăn người ở được khá giả hơn trước.
– Dạ thưa ông, cất bốn tháng rồi!
Thật ra, ba căn phố nầy chỉ mới cất xong từ hôm kia. A Chúa rước bọn ca nhi tới để chờ đón rước Bá Vạn ăn mừng tân gia. Nếu bảo rằng mới cất xong thì cậu Cẩu sẽ cho rằng đó là tiền mà Bá Vạn lường gạt trong ngân quỹ.
Cậu Cẩu vào nhà, ngồi trên bộ ván gỗ, lắc đầu:
– Bốn tháng không? Nếu vậy thì Bá Vạn đã ăn trộm tài sản của tao từ khi tao chưa…kế vị! Chắc còn nhiều chỗ khác. Xóm Vàm Rầy nầy, Bá Vạn còn nhà cửa, ruộng đất gì không?
Để tránh cơn phẫn nộ của ông Chúa, A Chúa đáp:
– Thưa ông, tôi chỉ biết ba căn phố nầy.
– Mở cửa hai căn kia cho tao coi!
Bọn hộ vệ đi trước, theo sát A Chúa mà nói khẽ:
– Chú mầy sắp tàn mạt rồi! Năn nỉ thì tao dạy cho.
A Chúa đáp:
– Mấy cậu thương giùm. Tôi chỉ là người làm công cho ông Bá Vạn. Ăn cây nào rào cây nấy, biết sao?
– Nè! Kiếm cô nào đẹp, đánh đàn rồi hát cho ông Chúa ngủ. Ổng chịu thứ tiêu khiển đó.
Nhưng, cậu Cẩu đã theo, bén gót. Vừa bước vào căn phố thứ nhì, cậu trố mắt, nói lậy dậy:
– Trời! Nó giàu hơn tôi. Bá Vạn thiệt là khôn ngoan. Cái gì dự trữ đầy kho, đựng trong bao cà-ròn?
– Dạ, tôm khô…
– Còn gì nữa, nói thiệt đi.
– Dạ, căn bên kia dự trữ bong bóng cá, vi cá.
Cậu Cẩu đáp:
– Đóng cửa lại. Tao mệt rồi.
A Chúa hơi lúng túng, chưa biết cậu Cẩu dùng thái độ cứng rắn hay mềm dẻo. Dân chúng xúm lại khá đông, hỏi lăng xăng. A Chúa buồn rầu vô cùng vì đây là điều sỉ nhục lớn. Từ rày về sau, anh ta không còn được dân chúng kính nể như trước – khi cậu Hai Điền còn sống.
Tên hộ vệ gọi to:
– Chủ phố đâu?
A Chúa chắp tay thưa bẩm:
– Dạ tôi đây.
– Cậu dạy chú mày kiếm ông Bá Vạn để chịu tội…
A Chú hỏi khẽ:
– Anh biết tôi là người làm công, nắng bề nào che bề nấy, tại sao cậu Cẩu ghét ông Bá Vạn như vậy?
– Tao không biết. Nhưng là cậu Cẩu muốn xưng vương một cõi. Bấy lâu nay, Bá Vạn làm giàu. Cậu Cẩu là ông Chúa mà kém oai quyền hơn người quản gia.
Trời quá tối, đêm vào khoảng canh ba. A Chúa nghĩ đến con đường xa lăng lắc từ đây đến Hòn Chông nên van nài:
– Anh năn nỉ giùm tôi, nếu tôi trở về không kịp thì nói với cậu Cẩu như thế nào cho cậu đừng rầy la.
– Làm cách nào thì làm. Hừng sáng ông Bá Vạn phải tới cho kịp. Dầu sao đi nữa, ổng cũng là công thần. Nếu ăn nói khéo léo, chưa đến nỗi nào, phải gãi đúng chỗ ngứa.
– Anh nói sao?
Tên hộ vệ của cậu Cẩu nói:
– Tôi làm việc mấy trào rồi, ông Bá Vạn chưa rầy la lần nào. Tôi thương ổng lắm vì tánh tình điềm đạm, ít nổi nóng. Nghe gì chưa? Coi trên bờ kia!
Đứng dưới bến, A Chúa thấy cửa phố mở ra rồi đóng lại đôi ba lần. Tiếng đàn địch trỗi lên. Cậu Cẩu cười ha hả, bước vào. Cánh cửa đóng lại kín mít.
Tên hộ vệ lẩm bẩm:
– Cậu Cẩu ưa gái đẹp! Nói như vậy là ông Bá Vạn hiểu.
Vì sợ trễ nải nên A Chúa cong lưng chèo ghe đến Hòn Chông. Dọc đường, anh ta không dám dừng tay để rửa mặt, uống nước.
Đầu canh tư, anh ta đến bến, buộc dây ở mũi xuồng vào cây nọc trên bờ rồi chạy tất tả vào sân. Bọn hộ vệ hỏi:
– Ai đó?
– Tôi là A Chúa, coi điền đất cho ông Bá Vạn ở Vàm Rồng, Vàm Rầy. Cho tôi gặp mặt ông Bá.
Bị đánh thức thình lình, Bá Vạn biết là có chuyện quan trọng xẩy ra. A Chúa thuật đầu đuôi tự sự rồi nói thêm:
– Cậu Cẩu đang ngủ với mấy đứa “phì phà chảy”. Lúc đầu, cậu chưởi mắng tôi khi nghe tụi nó đờn hát. Nhưng riết rồi, coi bộ cậu trở nên phàm tục. Ông tới cho kịp, nếu trễ thì tôi còn gì thể diện với dân chúng bến phố. Theo ý cậu ta thì mớ tôm kho và bong bóng cá dự trữ trong kho đều là….bất chánh.
Bá Vạn thở dài hỏi A Chúa:
– Đói bụng lắm hả? Xuống bếp kiếm cái gì ăn cho no. Tao rửa mặt rồi đi liền. Chắc là cậu Cẩu coi tao như thằng ăn cướp. Già rồi, tao có quyền làm ăn mua bán chớ sổ sách ghi chép đàng hoàng, tao ăn gian chỗ nào? Dè đâu thói đời như vầy…
Lúc A Chúa xuống bếp, Bá Vạn qua tư thất cô Huôi. Cô Huôi đang uống nước trà, với cái tô kiểu vẽ hình long phụng. Thấy Bá Vạn, cô Huôi hỏi:
– Chuyện gì vậy?
– Thưa cô, cậu Cẩu hạ nhục tôi. Nhờ cô cứu giùm.
Cô Huôi nghiêm mặt:
– Ông ngồi, nói tiếp cho tôi nghe. Ông phải biết trước chuyện nầy, trước khi xảy ra chuyện ở Lung Tràm. Đừng hoảng hốt.
Rõ ràng cô Huôi là người đủ bản lãnh, còn trẻ nhưng không thiếu kinh nghiệm đối nhân xử thế. Bá Vạn cúi mặt.
Gà gáy eo óc. Hai ngọn đèn sáng cháy chập chờn. Sương mù bay lẩn quẩn trong nhà. Cô Huôi gọi rót tô nước trà mời Bá Vạn uống rồi xua tay đuổi đứa nữ tỳ ra ngoài.
– Cậu Cẩu đòi tôi tới Vàm Rồng. Nếu tới trễ, tội của tôi thêm nặng. Cô nghĩ coi. Tôi như thằng già cõng đứa bé lên vai để nó xem hát. Dè đâu, nó cú trên đầu thằng già. Đành rằng “được cá quăng nơm” là thế gian thường tình, nhưng cậu làm quá đáng. Hai căn phố giá đáng là bao. Tôm khô, bong bóng cá dự trữ trong kho là số vốn mà tôi dành dụm bấy lâu nay. Tức quá!
Cô Huôi bĩu môi:
– Ông nhớ không? Lúc ông bàn kế hoạch với tôi, tôi đâu có cười. Nhưng ông đừng lo. Sự đời là như vầy, mỗi người đều trải qua ba giai đoạn, từ khi lớn lên đến nhắm mắt. Chưa làm nên sự nghiệp, chịu lao đao lận đận. Nên sự nghiệp rồi thì suy tàn, nên tỉnh táo đề phòng. Vả lại ông chưa suy tàn đâu!
Bá Vạn hơi bực dọc vì cô Huôi không chịu dùng quyền lực để can gián cậu Cẩu. Cô Huôi nói tiếp:
– Tôi còn nhỏ, chưa dám dạy đời cho bất cứ ai. Nhưng tôi nghe ba tôi dạy như vậy. Ba tôi nói rằng đó là lời dạy của Trời Phật, trong kinh kệ.
Bá Vạn không còn kiên nhẫn được nữa:
– Trời ơi! Tôi phải gặp mặt cậu Cẩu để trả lời về tội gian tham. Rủi cậu nổi giận đánh đập hoặc có những cử chỉ thất lễ, làm sao tôi sống được. Xưa kia, tôi bị cậu Hai Điền hất tô nước mắm với tô thịt kho lên đầu. Cái áo đó còn để trong cái tráp.
Cô Huôi nói:
– Tôi khuyên ông nên chịu đựng tất cả. Lần trước giết cậu Hai Điền thì có người thay thế. Nhưng lần nầy, nếu giết cậu Cẩu thì còn ai? Phải để cậu Cẩu sống hoài. Vả lại, bọn Sơn Đông mãi võ hôm nọ làm tôi suy nghĩ. Cậu Cẩu không sống dai để làm ác đâu! Chuyện đời còn nhiều thay đổi.
– Thà rằng bị chưởi mắng nơi kín đáo chớ chịu đựng giữa đám đông thì chết còn sướng hơn.
Cô Huôi mỉm cười:
– Cậu Cẩu đang háo thắng, muốn chưởi mắng, hạ nhục vài người có quyền thế giữa đám đông. Ông nên vui vẻ chịu đựng.
Kể ông chịu đựng được thì cậu ta thương mến ông chớ gì!
Bá Vạn gật đầu:
– Cám ơn cô. Cô nói phải. Lúc nầy cậu ta muốn khoe khoang quyền thế. Tôi hứa chịu đựng tất cả.
Nói xong, Bá Vạn ra ngoài sân, về nhà rồi xuống ghe với A Chúa cho kịp lúc trời chưa sáng.
Cậu Cẩu uống rượu say mèm, ngủ thẳng giấc. Mặt trời lên cao, tên hộ vệ đứng gần bên cạnh. Cậu mong cho A Chúa rước Bá Vạn đến kịp giờ.
Bọn ca nhi rửa mặt, thay quần áo rồi ngồi cú rũ ở căn phố bên cạnh. Tên hộ vệ hỏi đùa:
– Hồi tối vui không? Mấy cô sao mà buồn vậy?
Một cô đáp:
– A Chúa rước chị em tôi từ Rạch Giá tới đây, nửa chừng A Chúa đi vắng. Hôm nay, lấy gì mà ăn, ai trả tiền chợ cho chị em tôi?
Tên hộ vệ chú ý đến nhan sắc cô gái hơi lớn tuổi.
– Đẹp như cô, chắc làm giàu mau lắm, toàn là người giàu sang đến rước, họ trả tiền nhiều…Cô tên gì?
Cô gái trố mắt:
– Hỏi chi vậy? Tôi tên Xí Vĩnh.
– Tên lạ quá…
– Có gì lạ. Tên tôi viết như vầy.
Ngón tay cô gái vẽ trên cát. Tên hộ vệ đọc nhanh:
– Xí Vĩnh là Thúy Anh. Tên đẹp quá. Mấy cô chờ lát nữa là có tiệc tùng ăn uống. A Chúa bận việc riêng…
Dân chúng cứ xúm xít dưới bến. Đột nhiên, có người reo to:
– A Chúa về rồi kìa!
Tên hộ vệ xuống bến, vừa mừng vừa lo khi thấy ông Bá Vạn ngồi xếp bằng trước mũi ghe.
Ghe cập bến, Bá Vạn lên bờ, hỏi nhanh:
– Cậu Ba đâu rồi:
Tên hộ vệ đáp:
– Dạ thưa, cậu còn ngủ. Hồi tối thức khuya với mấy phì phà chảy, uống rượu hơi nhiều. Nếu cần, tôi đánh thức cậu Ba.
– Thôi! Cậu là ông Chúa, rủi bề gì…A! Mày nghe cậu hờn giận tao điều gì đó? Khổ quá. Dầu sao đi nữa, cậu cũng giữ thể diện cho tao làm ăn. Nếu biết cậu tới đây, tao bày tiệc đón rước trọng thể.
A Chúa mời Bá Vạn qua căn phố bên cạnh. Ông không chờ cậu Cẩu thức. Bá Vạn nhìn cô gái xinh đẹp tên là Xí Vĩnh:
– Hồi tối, cô săn sóc cậu Ba…
– Dạ. Cậu đó ác quá, bắt tôi uống rượu hoài.
A Chúa bèn giới thiệu:
– Đây là cô Xí Vĩnh.
Rồi nói với Xí Vĩnh:
– Ông nầy có thể giúp cô làm nên sự nghiệp. Cậu hồi tối đó giàu lắm.
Xí Vĩnh cau mày:
– Hèn gì cậu xưng là ông Chúa Hòn, nắm trời đất trong tay. Cậu hăm giết vài người để …lấy máu tế cờ!
Bá Vạn rùng mình:
– Nói thiệt hay nói chơi? Chắc là lúc uống rượu hơi nhiều. Cậu hiền lắm mà.
Xí Vĩnh đáp:
– Cậu đâu có hiền. Uống rượu bao nhiêu cũng tỉnh, tỉnh mà như say, hai bàn tay hơi run, mặt tái mét. Hồi tối cậu đòi mổ bụng tôi để…ăn gan.
Bá Vạn thở dài, nhớ tới lời khuyên của cô Huôi. A Chúa nói khẽ:
– Xí Vĩnh sẽ giúp mình nhiều chuyện về sau nầy nếu cậu mê nhan sắc nó.
Bá Vạn trao cho Xí Vĩnh nén bạc:
– Để dành mà xài.
Bên kia vách, có tiếng dậm rầm rầm trên giường. A Chúa hơi mừng vì cậu Cẩu dường như đã quên chuyện cũ. Cậu nói:
– Hai đứa con gái đâu rồi? Có một đứa coi được quá. Con Xí Vĩnh! Để tao đem nó về làm vợ. Thứ con gái đó coi vậy mà xài được, dễ sai biểu. À! Tao nhớ! Đêm rồi mầy đi đâu? Mầy nói lại cho tao nghe thử. Nè! Nếu nói láo thì tao giết mầy.
– Dạ, tôi rước ông Bá Vạn tới đây để nghe cậu dạy việc.
– Ủa! Bá Vạn tới rồi hả? Sao lão ta chưa qua đây hầu hạ tao? Tao nhỏ tuổi thiệt nhưng tao thề không bao giờ chào ổng trước. Ổng là cái …thằng ở đợ, quá tham lam. Tao ngồi đây coi ổng muốn gì? Ổng muốn gặp mặt tao chớ tao gặp mặt ổng để làm cái gì chớ?
Bá Vạn nghe rõ, uống chút rượu, gài nút áo cẩn thận. Lời căn dặn của cô Huôi còn văng vẳng bên tai ông. Cậu Cẩu là đứa bần tiện, khi thắng thế thì phách lối. Nên nhịn nhục cho qua buổi rồi chờ cơ hội khác.
Ông đến trước cửa, chắp tay xá:
– Xin ra mắt…
Cậu Cẩu đưa tay ngoắt:
– Bá Vạn vô đây! Nghe tôi hỏi rồi trả lời kỹ.
– Dạ, cậu là bề trên của tôi.
– Trên dưới gì, nghe nhức đầu quá. Tôi muốn trừng trị một tên gian ác, vậy thôi. Ba căn phố dự trữ tôm khô, bong bóng cá, vi cá nầy là của tôi…
Bá Vạn cố nài nỉ:
– Xin cậu thương giùm. Tuổi già sức yếu, bấy lâu nay tôi dành dụm lần hồi.
– Dành dụm gì mà nhiều dữ vậy?
– Dạ tôi không ăn xài cờ bạc gì ráo. Vợ con thì không có. Mấy năm qua, nhờ gặp chuyến nên lời nhiều, cất được ba căn phố nầy.
– Lời gì nhiều dữ vậy? Ông ngoại tôi ở núi Mo So còn chưa có tài sản như vầy. Má tôi ở trong căn nhà ông ngoại tôi.
Bá Vạn bực tức, muốn nói thẳng rằng Mười Hấu, ông ngoại cậu Cẩu, cách đây vài tháng chỉ là kẻ thất phu, sống bằng nghề leo lên sườn núi mà hái ổ ong mật. Mẹ cậu Cẩu là cô gái gánh nước ở bờ suối, chính Bá Vạn đã cầm đuôi dẫn đường cho ông Chúa Hòn đến ăn uống no say. Nghĩ vậy, Bá Vạn nói khẽ:
– Lần hồi, ông ngoại cậu trở nên giàu có. Tài sản như tôi đáng là bao!
– Đừng nói lảng qua chuyện khác. Tôi muốn nói là ông không được quyền chiếm đoạt tài sản của tôi. Cãi hả? Cái thằng A Chúa đâu? Nó chịu tội giùm ông.
A Chúa trố mắt, chưa hiểu cậu Cẩu giở trò gì, nên trốn trách nhiệm:
– Cậu ơi, tôi là người làm công.
Cậu Cẩu đắc ý chỉ vào mặt A Chúa:
– Quỳ xuống! Chẳng lẽ tao bắt ông Bá Vạn phải quỳ!
A Chúa riu ríu vâng lời, quỳ trước thềm nhà. Bá Vạn vẫn còn tin rằng cậu Cẩu chỉ muốn thị oai với dân trong xóm, nhứt là với cô Xí Vĩnh. Nhưng ông lầm to. Cậu Cẩu truyền lịnh:
– Đánh mõ lên! Tụ họp dân chúng cho mỗi người thấy một chút.
Tên hộ vệ đã quen tánh ý cậu Cẩu biểu là phải làm, nếu cãi thì số phận anh ta sẽ tệ hại hơn A Chúa. A Chúa liếc về Bá Vạn như cầu khẩn.
Bá Vạn nói:
– Cậu dạy thì chú mầy cứ nghe lời. Cậu mới lên, thế nào cũng dễ dãi, ăn ở nhơn đức với kẻ ăn người ở.
Dân trong xóm đến bao quanh sân nhà. Cậu Cẩu gọi:
– Ông Bá Vạn! Lại đây mà nghe. Tôi hỏi ông điều nầy.
– Dạ, tôi sẵn sàng quỳ dưới chân cậu.
– Thằng A Chúa nầy giúp việc từ bao lâu rồi?
Bá Vạn đáp:

– Dạ từ bốn năm nay, tánh tình hiền hậu. Mỗi năm đến ngày Tết, ngày giỗ, nó đều có mặt tại đường ở Hòn Chông để cúng lạy.
– Mặc kệ. Ai mướn nó?
Bá Vạn đáp:
– Dạ tôi mướn nó.
Cậu Cẩu trợn mắt:
– Mướn nó…nhưng tại sao ông không cho tôi biết? Muốn làm gì thì làm sao chớ?
Bá Vạn bỗng nổi nóng:
– Thưa cậu, đây là chuyện riêng của tôi, tôi trình chỉ làm mất thời giờ của cậu.
– Nếu vậy mai mốt đây, ông mướn hàng trăm võ sĩ để xâm chiếm vùng nầy? Quyền hạn của ông nhỏ lắm, không có gì hết.
Cậu Cẩu vui sướng vô cùng khi thấy mồ hôi tuôn xuống từng giọt, ướt lưng Bá Vạn. Cậu nhớ lời mẹ dạy nên tìm cách hạ uy thế Bá Vạn, đề phòng trường hợp lão ta soán quyền hạn.
Bá Vạn thì nhớ lời cô Huôi, cố gắng van nài đến mức chót:
– Thưa cậu, từ rày về sau tôi hứa trình với cậu bất cứ chuyện gì dầu lớn dầu nhỏ.
– Được lắm, thằng A Chúa cứ quỳ đó mà phơi nắng cho tới trưa.
A Chúa khóc rấm rứt:
– Thưa cậu, thà rằng cậu chém tôi giăng xác cho quạ rỉa. Bà con chòm xóm đâu còn kính nể tôi…
Cậu Cẩu khoát tay:
– Đứng dậy rồi đi tới xứ khác mà ở. Tao không muốn thấy mặt mầy nữa.
Rồi day qua Bá Vạn:
– Còn ông, ông nên lo việc tìm cách làm ăn. Mấy căn phố nầy với bao nhiêu tôm khô, vi cá, bong bóng cá ở trong đều là của tôi. Ông không còn món gì ráo.
Nói xong cậu Cẩu vào trong, ngồi xuống gọi Xí Vĩnh đem bầu nước và bầu rượu. Dân chúng tản mát vì sợ sệt. A Chúa chạy thẳng một hơi tới xóm Vàm mất dạng.
Bá Vạn ngồi trên cái ghế nhỏ, bên cạnh cậu Cẩu. Ông hy vọng rằng qua cơn thạnh nộ vô lý ấy, cậu sẽ hồi tâm.
Bầu không khí trở nên yên lặng.
Cậu Cẩu lên tiếng trước:
– Nầy Bá Vạn, tôi không muốn thấy mặt ông nữa.
– Xin cậu suy nghĩ giùm. Lúc nãy trước mặt đông người, tôi đã bị hạ nhục. Chắc cậu đã thoả mãn.
Cậu Cẩu đáp:
– Ông là người ác độc. Tôi còn tỉnh táo lắm. Đây nầy, đãi ông một bầu rượu cuối cùng gọi là tiễn đưa ông về chùa mà hưởng già!
– Trời! Phải có chùa mà tu thì đời tôi chưa đến đỗi nào. Sau mấy chục năm trời lo trong lo ngoài, tôi còn hai bàn tay trắng như vầy.
– Tôi nói là tôi làm. Tôi không mướn ông nữa. Ông còn nắm níu để…ở đợ cho ai?
Bấy giờ Bá Vạn mới bình tĩnh day qua Xí Vĩnh:
– Cô đem cho tôi cái chén!
Xí Vĩnh chưa hiểu ông Bá Vạn muốn nói điều gì xa xôi.
Bá Vạn lắc đầu:
– Chén lớn mới được. Có cái tô càng hay.
Cậu Cẩu cười hề hề:
– Uống rượu cho say rồi nằm vạ ở đây để bêu xấu tôi sao chớ? Tôi còn nhỏ nhưng tánh tôi cứng lắm.
Bá Vạn ung dung chọn bầu nước lạnh, rót đầy tô đưa ngang môi. Bỗng dưng, ông trợn mắt ném cái tô xuống nền gạch.
Cái tô bể ra ba mảnh, nước văng tung toé. Cậu Cẩu rút chân lên càu nhàu:
– Ướt quần tôi!
Bá Vạn nói rõ từng tiếng:
– Hồi mấy năm về trước, có một cô gái múc nước suối, nhờ tôi mà gặp ông Chúa Hòn. Cô gái đó không bao giờ bận quần áo khô!
Cậu Cẩu hiểu rằng ông Bá Vạn kể công ơn. Ông Mười Hấu đã cho cậu biết rõ qua về trường hợp mẹ cậu gặp ông Chúa Hòn, do Bá Vạn làm trung gian. Thái độ ấy quả khiêu khích phạm thượng. Phải chăng Bá Vạn muốn chưởi xiên chưởi xéo rằng cậu là kẻ bần hàn, có địa vị cao là nhờ ông ta.
Gương mặt cậu Cẩu hơi biến sắc. Tên hộ vệ và Xí Vĩnh đều bước ra xa, đoán chừng cậu Cẩu sẽ rút dao ra đâm cho Bá Vạn chết tại chỗ.
Hồi lầu, cậu nói:
– Nầy Bá Vạn, ông giỏi lắm. Khi bắt được con cá thì người ta quăng nơm. Tôi cũng vậy thôi. Để ông làm chức lớn thì có ngày nào đó, ông giết hại tôi, như ông đã giết cậu Hai Điền, thiên hạ đồn rằng cha tôi bị ông giết. Tôi muốn ông đền tội. Tôi xử bản án nhẹ quá. Ông nghĩ sao?
Bá Vạn đáp:
– Mấy căn nhà nầy phải là của tôi!
Cậu Cẩu đáp:
– Tôi cho ông hưởng thêm vài tháng. Bù lại, cô Xí Vĩnh phải theo về Hòn Chông…
- 12 -
Bà chánh thất ngồi trên cầu, thả câu xuống ao sen. Gió chiều mát rượi, hương sen tỏa thoang thoảng. Ở thảo am, mấy vị sư nữ đang tụng thời kinh “công phu chiều”.
Một con cá lội gần sợi nhợ, đứng lại. Cá nhìn mồi rồi do dự. Nhờ nước trong leo lẻo nên bà chánh thất theo dõi được sự dịch vẫn của con cá rô. Cá chúi đầu xuống dưới sâu. Đáng lý ra, bà phải đỡ cần lên cho miệng mồi nằm ngang mặt nước. Cá đến gần mồi, quạt đuôi rồi chạy mất, khuất dưới lá sen.
Bà chánh thất ngẩng đầu lên. Lũ chăn trâu nói to:
– Bà ơi! Có chiếc ghe lớn lắm, xóm nầy không ai có chiếc ghe như vậy.
Bà chánh thất đứng dậy, nhận ra chiếc ghe của Bá Vạn, có mui vuông, thếp vàng phía trước. Bà vừa mừng vừa lo. Mừng vì được gặp Bá Vạn, tha hồ bày tỏ tâm tình. Hơn tháng qua bà đoán rằng cậu Cẩu đã lộng quyền, làm nhiều chuyện thất lương tâm.
Nhưng tại sao Bá Vạn lại đến đây không có bọn tay em tiền hô hậu ủng như dạo nào? Phía sau lái, một lão gầy guộc đang cầm sào, chống thật nhẹ, bằng cớ là chiếc ghe lướt tới quá chậm chạp.
– Hay là Bá Vạn không có mặt trong chiếc ghe ấy? Ông ta giàu sang rồi, sắm chiếc ghe mới!
Nhưng Bá Vạn đã xuất hiện. Ông ta mặc áo dài đen, hỏi chuyện với mấy chiếc xuồng chỗ cửa qua lại. Đáng lý ra, bà chánh thất phải ngoắt tay làm hiệu. Nhưng bà muốn giữ thể diện với mấy sư nữ trong am.
Lát sau, Bá Vạn đến trước bến. Ông chạy nhanh đến bờ am, gương mặt buồn bã vô cùng, nụ cười héo hắt gượng nở trên môi:
– Thưa bà.
Bà chánh thất hỏi:
– Sao bơ phờ vậy?
Bá Vạn nói:
– Bà có tưởng được không? Thằng Cẩu nó đuổi tôi, tịch thâu tất cả tài sản.
– Ác thiệt! Chồng con tôi mà nó còn giết, huống gì ông. Ông ăn cơm chưa? Mời ông vô nhà.
Bá Vạn hơi lúng túng, chẳng biết tại sao bà chánh thất dám làm chuyện mà luật tu hành không bao giờ cho phép.
Bà chánh thất nói nhanh:
– Tôi như cư sĩ tu tại gia. Những bà sư nữ bên am theo giới luật, tôi thì sống dễ dãi hơn. Nhà ở bên cạnh đó, ông cứ tự nhiên. Tôi chỉ ăn chay vào ngày sóc, ngày vọng.
Đi theo sau bà chánh thất, Bá Vạn suy nghĩ mông lung.
Phải chăng bà chánh thất còn nhiều dục vọng muốn trở lại địa vị cũ nên chưa muốn thí phát qui y? Khi vào nhà, Bá Vạn thấy bàn ghế khá tươm tất, toàn là cây danh mộc. Bà chánh thất dùng cái chén bằng ngọc xanh như hôm nào. Bà đem cái chén ngọc thứ nhì, rót nước mời Bá Vạn.
– Tại sao nó đuổi ông?
– Bởi vì nó sợ tôi chiếm đoạt tài sản.
Bà chánh thất vẫn không quên đối thủ lợi hại nhứt:
– Còn cô Huôi? Nó dám đụng tới cô Huôi không? Tôi suy nghĩ mãi, hiểu rằng kẻ chủ mưu giết chồng tôi chính là cô Huôi. Tôi phải giết nó. Ông giúp tôi được không?
Bá Vạn mừng thầm vì ít ra đêm nay ta cũng còn được ngủ một đêm êm ấm bên bà chánh thất. Hồi lâu, ông mới trả lời:
– Tôi sẵn sàng giúp bà, nhưng lúc nầy tôi là kẻ sa cơ thất thế, không còn đứa hộ vệ nào đi theo.
– Thằng Cẩu là đứa chết yểu. Đêm rồi tôi nằm chiêm bao thấy nó bị đâm chết.
– Có lẽ vậy. Nhưng lúc nầy nó mạnh lắm.
– Mạnh mà yếu, ông ơi! Ba bốn ngày rồi, ở đây có nhiều người mới tới. Họ ở núi Mo So. Họ nói rằng xung quanh núi đầy khói, nhiều nhà bị cháy. Ông Mười Hấu với cô Ngó làm nhiều điều tàn ác. Dân chúng nổi lên…
Rồi bà nói khẽ vào tai Bá Vạn:
– Có thằng Thừa chèo ghe cho ông mọi lần, nhớ nó không?
Nghe qua, Bá Vạn cau mày. Quả thật cậu Cẩu quá ác độc. Chắc là sau khi cách chức ông, cậu ta về Hòn Chông đuổi thằng Thừa ra khỏi nhà, ngôi nhà mà ông Chúa Hòn ban cho từ trước. Hồi xuống ghe để đến núi Đất nầy, Bá Vạn vẫn nuôi hy vọng trở về Hòn Chông để di chuyển chút ít vàng bạc và ghé thăm cô Huôi, nhờ cô chỉ dạy cách đối phó.
Nếu đến sớm quá thì bất lợi, cậu Cẩu đang tức giận. Ông muốn tránh né về ngay, đến thăm bà chánh thất. Thằng Thừa đến núi Mo So làm loạn, phải chăng là cậu Cẩu đã hành hung nó, hoặc đã đập phá, tịch thu ngôi nhà của ông ở Hòn Chông rồi!
– Làm cách nào cho nó chết? Mọi khi, ông nhiều mưu kế lắm mà! – Bà chánh thất hỏi.
Bá Vạn trở lại thực tế:
– Nên nhẫn nhịn, bà ơi. Giông tố nổi lên thì cây cỏ phải rạp đầu xuống, nếu không muốn bị trốc gốc.
– Thằng Cẩu là đứa thất học, so sánh nó với trận giông thì hơi quá đáng.
– Bởi vì thất học nên mới đáng sợ. Hồi xưa, tôi gặp nó một lần. Nó đang đá cá thia thia. Lúc tức giận, nó không thèm đá cá nữa, đem con cá quí nhứt mà ném xuống đất.
– Bởi vậy, tôi nói nó là đứa không ra gì. Tại sao những người lớn tuổi như ông, như tôi lại sợ nó.
– Để tôi nói tiếp… Khi liệng con cá xuống đất, mặt thằng Cẩu xanh lè, coi dễ sợ. Tóm lại, tôi muốn nói rằng nó là thằng điên. Khi thằng điên lên cơn, mình nên tránh mặt chạy trốn.
– Nhưng muốn giết thằng điên thì dễ quá, vì điên là ngu dại, mất trí khôn.
– Phải. Tôi hiểu rồi. Nhưng chờ xem tình thế ra sao! Nếu quả thật thằng Thừa đã xúi giục dân chúng ở núi Mo So nổi dậy chống Mười Hấu và cô Ngó thì đó là cơ hội tốt. Thằng Cẩu không đủ sức chống cự đâu. Bọn hộ vệ còn hơn vài chục đứa…Nhưng trước tiên, mình nên giữ bí mật. Không khéo, thằng Cẩu cho người tới đây giết hại tôi với bà.
Hồi lâu, bà chánh thất giựt mình, vỗ vai Bá Vạn:
– Nầy ông! Nghe nói ông đạo Đất ở gần đây! Tại sao ông với tôi không tới gặp, nhờ xem giùm quẻ? Ông đạo xem giỏi, nói đúng thời vận cô Huôi. Nếu ông đạo bảo rằng tôi với ông hạp tuổi với nhau thì ông nên tìm cách giết thằng Cẩu, nhập bọn với thằng Thừa.
Trời đã khuya.
Sau bữa cơm, Bá Vạn và bà chánh thất nằm chung một giường. Tuy hưởng hạnh phúc, nhưng ông vẫn lo âu. Bà chánh thất hỏi:
– Tôi làm điều gì khiến ông không hài lòng?
Bá Vạn nắm tay bà chánh thất. Ngoài song cửa, ánh trăng soi chênh chếch. Nếu được hưởng hạnh phúc mãi mãi như vầy thì có chi đáng rầu lo. Ông nghĩ đến cuộc khởi loạn ở núi Mo So. Dân chúng Lung Tràm ắt sẽ khởi loạn theo. Đứng về phía nào bây giờ? Nếu đang lúc trai tráng mà gặp cơ hội nầy, nhất định ông sẽ xông pha trận mạc, dẫn bọn hộ vệ và võ sĩ đến Hòn Chông để cướp phá, bắt sống cậu Cẩu. Bây giờ tuổi già sức yếu rồi…
– Ông buồn điều gì? – Bà chánh thất hỏi.
Bá Vạn đáp:
– Tôi không biết làm cách nào để sống yên ổn
– Liệu chừng bọn thằng Thừa ở núi Mo So có thắng nổi không?
Bá Vạn đáp:
– Ở trên núi thì được địa thế tốt, cầm cự lâu ngày, nhưng lần hồi dân chúng mỏi mệt. Nếu thắng trận mà sống trên núi với rắn rít muỗi mòng thì thắng để làm gì?
– Như vậy là thằng Cẩu đang nắm ưu thế.
– Nó không mạnh hơn ai hết! Vài chục tên hộ vệ, sẵn sàng liều chết để canh giữ vòng rào ngôi nhà. Vậy thôi. Nhưng trong ngôi nhà có bàn ghế tốt, có thức ăn ngon, có nữ tỳ. So sánh cho kỹ thì mình ở đây vui nhứt.
Bà chánh thất đáp:
– Vui mà buồn! Hôm nào thằng Cẩu sẽ cho người tới đây hạ nhục tôi với ông. Bởi vậy, tôi khuyên ông tìm cách giết thằng Cẩu. Dễ quá mà! Bỏ thuốc độc vào thức ăn. Cần gì cầm gươm dáo.
Bá Vạn đáp:
– Nhưng liệu cô Huôi cho phép tôi làm chuyện đó không?
Bà chánh thất nảy ra ý nghĩ ghen tương:
– Sao ông sợ cô Huôi? Cô ta nào có binh lực gì trong tay!
– Tôi sợ cái trí khôn của cổ. Không bao giờ cô Huôi là người yếu thế.
– Tại sao lúc nầy cô Huôi không ngăn cản cho thằng Cẩu bớt hung ác?
– Nó càng hung ác thì thiên hạ càng tin cậy vào cô. Nhưng mà rốt cuộc, cô Huôi lại khổ vì chẳng bao giờ có chồng được. Hễ có chồng, dân chúng không tín nhiệm như trước.
Bà chánh thất gật đầu:
– Ông nói hữu lý. Chưa ai chê cô Huôi lời nào cả. Đàn bà mà tỉnh táo như vậy thì quá khéo léo. Ông đạo Đất bói quả đúng. Tại sao mình không gặp ông đạo Đất?
Ý kiến ấy khiến Bá Vạn vui mừng. Thật ra ông ta còn quá nhiều tham vọng, muốn trở lại Hòn Chông để tiếp tục vai trò quản gia, vơ vét thêm vàng bạc. Lúc nầy, bà chánh thất yêu ông chỉ vì ông là người quen thuộc, có tài. Lâu ngày chầy tháng, bà sẽ chê ông là bất tài, nếu suốt ngày ông chỉ biết làm tình rồi uống rượu, câu cá. Hơn nữa, bà chánh thất dám cho sống trong căn nhà ầy, bên cạnh thảo am mà không sợ dư luận?
Nếu muốn hưởng lạc thú, ông có thể tìm vài cô gái tơ. Như vậy đời ông tươi mát hơn. Bên cạnh bà chánh thất, ông chỉ là kẻ thuộc hạ, tôi tớ của …
– Ngày mai, gặp ông ta thử xem…Hỗm rày tôi quên…
Ăn xong bữa cơm sáng, bà chánh thất và Bá Vạn đi bộ lên núi Đất. Dọc đường, Bá Vạn sực nhớ đến ông Tư Thính cha ruột của cô Huôi. Ngôi nhà cũ được tu bổ lại sơ sài, sau khi bị Hai Điền đốt cháy. Bên cạnh, ngôi chùa khá to đang xây cất.
Tư Thính mặc áo lụa ra cửa đón tiếp hai vị thượng khách. Bá Vạn chắp tay xá:
– Tôi không còn là quản gia nữa. Cậu Cẩu đuổi tôi rồi.
Tư Thính đáp:
– Tôi kính trọng ông hơn xưa. Nhưng mà ngày mai ông sẽ làm chức lớn.
– Ai nói vậy?
Tư Thính đáp:
– Ông đạo Đất! Đôi ba ngày, ông tới đây thăm tôi một lần.
Bà chánh thất hỏi:
– Ông đạo Đất bây giờ còn ở trên am?
– Còn đó chớ đi đâu. Xin lỗi bà, ông đạo khen bà là người nhiều phước đức. Về già, bà được yên vui.
– Ông mới là nhiều phước đức chớ? Con gái ông bây giờ là người sang trọng nhứt…
– Tôi chỉ dám cầu mong cho nó được trong sạch nhứt, để cha mẹ khỏi mang tiếng xấu. Con người sanh ra, chịu cực khổ, bỗng vui sướng rồi chết. Mời bà và ông vô nhà.
Vì ganh tức với địa vị cô Huôi, bà chánh thất cương quyết từ chối:
– Tôi chỉ xứng đáng đứng ngoài sân nhà nầy. À! Nghe nói trước sân có bụi quỳnh hoa đẹp lắm.
Tư Thính chắp tay xá bà chánh thất:
– Xin bà đừng giận tôi.Tới ngày giờ nầy, con gái tôi cho tôi đủ tiền để cất một ngôi chùa. Tôi hứa đi tu mà! Ông đạo Đất nói rằng nếu không tu hành, theo con cái về Hòn Chông mà hưởng vinh hoa phú quý thì tôi bị giết!
– Ghê vậy! Để tôi lên gặp ông đạo Đất …
Rồi bà giải bày:
– Hỗm rày, tôi ở ngoài am. Tình cờ gặp Bá Vạn nên tôi nhờ ổng dẫn đường. Bụi quỳnh hoa ở chỗ nào? Cho tôi xem.
Tư Thính đưa bà chánh thất tới trước sân. Chỉ là bụi cây um tùm. Ông cho biết từ đó đến nay, nó không trổ thêm nụ nào hết.
Bá Vạn nói khẽ:
– Nên an hưởng tuổi già, ông Tư à!
Tư Thính cau mày:
– Ai mà không muốn được an nhàn? Nhưng mà ông đạo Đất dạy rằng: Khôn cất trại, dại cất nhà. Ổng dám đoán rằng vài năm nữa, con gái tôi trở về đây để tưới rau, trồng cải, cấy lúa. Ông tin không? Theo ông đạo Đất thì đời nầy sắp thay đổi. Vùng đồi núi Hòn của ông Chúa Hòn xưa kia chỉ là cánh bèo trên biển Đông. Khi tươi khi héo. Có bao giờ cánh bèo sống trăm năm, ngàn năm?
Bá Vạn bèn thúc hối bà chánh thất:
– Thưa bà, tôi muốn lên gặp ông đạo Đất. Ông nói nhiều chuyện lạ quá. Quá khứ, ông nói đúng, thì nhất định là đâu có sai lầm những chuyện vị lai. Tôi muốn biết thằng Cẩu sống bao lâu?
Ông Tư Thính muốn dẫn đường nhưng Bá Vạn nói khéo:
– Bà chánh thất nầy không ưa cô Huôi. Nếu ông có mặt thì làm sao ông đạo Đất dám bói quẻ.
Rồi ông nói riêng:
– Hôm nào gặp cô Huôi, nhờ ông nói giùm. Lúc nầy tôi thất thế.
Ông Tư Thính nói:
– Sống ngoài vòng danh lợi như tôi, thích hơn. Chừng gặp ông đạo Đất, ông sẽ nói nhiều điều mầu nhiệm lắm.
Khi Bá Vạn và bà chánh thất đến thảo am thì gặp ngay ông đạo Đất. Ông ngồi trên bộ ván sơ sài, gương mặt mệt mỏi:
– Tôi ít nói lắm.
Bà chánh thất bèn tự giới thiệu dài dòng. Ông đạo Đất đốt ngọn nến, soi tứ phía rồi để ngay trước mặt bà chánh thất:
– Về già, bà được hưởng chữ nhàn.
Bà chánh thất chưa được thoả mãn cho lắm:
– Nhờ ông coi kỹ lại. Nhàn mà bị đày ải nơi xa xôi, ngày đêm lo lắng thì sướng ích gì? Cô Huôi mới là người nhàn rỗi, ở không cũng có ăn, bên cạnh luôn luôn có người hầu hạ.
Ông đạo Đất nói:
– Cô Huôi lo lắng hơn. Rồi đây cô sẽ cất một cái thảo am như bà vậy thôi. Về già, ai cũng bớt nóng nảy.
– Nhưng chẳng lẽ số phận tôi và cô Huôi lại giống nhau? Trời sanh ra, giọt nước nầy rơi trên đồng, giọt nước kia rơi xuống giếng.
Ông đạo Đất cười hiền lành:
– Nhưng tất cả đều về biển. Chỉ khác một điều là cô Huôi đi tu sớm hơn bà. Bà đi tu năm nầy, năm được ngoài bốn mươi tuổi. Cô Huôi thì… cũng đi tu năm nay, chừng vài tháng nữa thôi.
Bá Vạn nãy giờ ngồi trầm tĩnh, đoán chừng ông đạo Đất chỉ xem quẻ chiếu lệ để trấn an bà chánh thất. Khi nghe chi tiết lạ lùng ấy, ông sửng sốt hỏi:
– Vài tháng nữa là cô Huôi đi tu?
Ông đạo Đất gật đầu:
– Thiên cơ mầu nhiệm lắm. Đây là thời Ma Pháp. Tôi ở non cao nên thấy vài chuyện ma, người ở dưới không thấy. Ngoài biển khơi hôm nào trời trong vắt…luôn luôn có vài con cá kình nổi lên!
Bà chánh thất cằn nhằn:
– Ông nầy nói nhiều chuyện khó tin quá.
Nhưng ông đạo Đất đứng dậy nói với Bá Vạn:
– Muốn thấy cá kình thì hôm nào rảnh, ông Bá tới với tôi, đứng trên chót núi.
Bá Vạn bước theo chân ông đạo. Bà chánh thất ngồi lì trong am, thắp ba cây nhang cắm trong cái lư nhỏ. Nếu quả thật vài tháng nữa cô Huôi phải đi tu thì bà vui mừng biết chừng nào. Chừng đó, tất cả mọi người đều tủi nhục, ngang hàng với nhau. Và người nào nếm mùi tủi nhục trước thì sẽ được xem là khôn ngoan.
Đến tảng đá bằng phẳng, ông đạo ngồi xuống.
– Ông Bá nói chuyện cho vui. Vì bà chánh thất ở trong am nên tôi muốn tới đây.
Bá Vạn ngồi xuống với vẻ mặt hơi bực dọc:
– Đầu đuôi cũng tại ông. Nếu không có cô Huôi thì tôi đâu nhục nhã như vầy! Thằng Cẩu đuổi tôi, chưởi tôi trước đám đông rồi còn tịch thu tài sản. Hồi xưa cậu Hai Điền chỉ làm một chuyện nhỏ là hất tô thịt kho vô áo tôi. Bởi vì tử vi cô Huôi quá hên, nên tôi hứng chịu bao nhiêu nhục nhã.
– Kìa!
Ông đạo Đất chỉ về phía Tây. Núi Đất ở xa bờ biển chừng trăm mẫu đất. Mặt biển xanh chàm, gió thổi mát lạnh. Hòn Nghệ, hòn Heo nằm im lìm. Và cánh buồm như không di chuyển. Nơi bãi bùn, vài chiếc thuyền câu sắp rời bến.
Bá Vạn hỏi:
– Ông muốn nói chuyện trời biển tang thương hay là ông rủ tôi ra ngoài hoang đảo để lánh nạn?
– Không! Gần Hòn Nghệ phía trái hai ngày trước, dân chúng thấy hai con cá kình nổi lên. Cá kình lớn hơn cá ông. Nhưng vài người chài lưới bảo rằng đó không phải là cá kình.
– Vậy chớ cá gì?

– Là hai chiếc tàu sắt, phun khói đen kịt. Trên tàu có nhiều người da trắng bạch, tóc hoe, mắt đục. Họ cầm súng, bên cạnh họ còn nhiều người “An Nam” khác. Sau lái tàu, có lá cờ xanh trắng đỏ. Bọn đó tới Hòn Chông, thì …liệu cậu Cẩu chống cự nổi không? Nghe đâu miệt trên, Vĩnh Long, Định Tường đều thất thủ. Bọn nó tới chợ Rạch Giá rồi.
Bá Vạn nhăn mặt. Ba màu xanh, trắng, đỏ khiến ông ta nhớ đến bọn Sơn Đông mãi võ đến Hòn Chông để nhảy qua vòng lửa. Bọn chúng là quân dọ thám, nghi ngờ gì nữa! Như vậy có nghĩa là sớm muộn gì Hòn Chông nầy cũng lọt vào tay người lạ mặt. Nhưng Bá Vạn vẫn còn thắc mắc:
– Biết đâu họ đem tàu sắt tới xứ nầy để thị oai rồi qua xứ khác. Bên kia bờ biển là nước Xiêm!
Ông đạo Đất nói:
– Sự đời thấy thì hay vậy! Tôi không dám bàn thêm. Mỗi ngày, tôi tới thăm ông Tư Thính, nói chuyện đạo hạnh cho vui. Bởi vậy …tôi khuyên ông Bá đừng nóng nảy.
Bá Vạn đứng dậy, nhắc ông đạo Đất ở trong am còn bà chánh thất đang chờ. Trên đường về am, Bá Vạn nài nỉ:
– Ông coi cho tôi một quẻ, coi thiệt tình, đừng nịnh bợ, thấy sao nói vậy…
Ông đạo Đất lẩm bẩm:
– Thế nào vùng Hòn Chông cũng lộn xộn. Cậu Cẩu phải nhờ tay ông. Ông ở đây mà chờ….
- 13 -
Cậu Cẩu về Hòn Chông, vui sướng vô cùng vì đã giải chức Bá Vạn mà không gặp sự chống đối nào cả. Cậu cho người đến núi Mo So, rước mẹ và ông ngoại về Hòn Chông.
Ông Mười Hấu và cô Ngó đến cư ngụ tại ngôi nhà trước kia dành cho bà chánh thất và ông Chúa Hòn.
Là người thận trọng, ông Mười Hấu hỏi:
– Cháu đã làm điều gì hỗn hào không? Dầu sao đi nữa, ông Bá Vạn giúp cháu quá nhiều.
Cậu Cẩu đáp:
– Hễ cháu đuổi là làm chuyện hỗn hào rồi. Cháu nghĩ rằng dung dưỡng Bá Vạn thì ngoại đâu còn công chuyện mà làm! Theo ý cháu thì từ rày về sau, ông ngoại sẽ lên chức quản gia thay thế Bá Vạn.
– Không được cháu ơi, thiên hạ bàn tán xôn xao. Họ nói rằng ông đây chủ mưu giết cậu Hai Điền.
– Cháu liệu định rồi. Thỉnh thoảng, ông ngoại tới Vàm Rầy mà ở. Bá Vạn cất ba căn phố, dự trữ đầy đủ nào là tôm khô, bong bóng cá để bán với giá cao trong mùa tới. Ông ngoại tới đó làm sổ sách…
Ông Mười Hấu đáp:
– Để tính kỹ lại. Khó lắm.
– Có gì mà khó! Cháu đủ quyền hạn mà.
Thật ra, ông Mười Hấu đang khổ tâm vì chuyện khác. Từ khi cậu Cẩu nắm quyền thay thế cậu Hai Điền và ông Chúa Hòn thì dân chúng núi Mo So vô cùng phẫn uất. Họ không tin cậu Cẩu, xem cậu là đứa ngu dại, khùng điên. Ông Mười Hấu nói:
– Khó lắm. Cháu thì khác…
– Chắc ông ngoại muốn uống rượu chớ gì? Xí Vĩnh đâu?
Xí Vĩnh xuất hiện trước sự ngạc nhiên của Mười Hấu. Nàng mặc áo gấm, chân đi dép cườm. Cậu Cẩu nói:
– Đây ông ngoại. Em hãy chào ông ngoại.
Mười Hấu nói:
– Được rồi! Cô nầy là ở đâu vậy cháu?
Cậu Cẩu nói:
– Cháu nhìn nhận Xí Vĩnh là vợ. Ông ngoại thấy sao? Chưa ai xinh đẹp bằng. Thấy Xí Vĩnh ở đây, ông Bá Vạn nổi cơn ghen mà chết. Thằng A Chúa rước bọn gái đẹp để dành cho Bá Vạn. Dè đâu cháu chận trước đem về đây.
Day qua Xí Vĩnh, cậu Cẩu nói:
– Em hát một bài, hay là đem cây đờn tranh ra khẩy một bản Hành Vân, Lưu Thủy gì đó cho ông ngoại nghe.
Trong phút giây, ông Mười Hấu thấy cảnh suy sụp của gia đình. Theo ý ông thì công việc đầu tiên mà cậu Cẩu nên chỉnh đốn là phòng thủ, tuyển chọn thêm một số đông hộ vệ quân, cho bọn nầy ăn uống đầy đủ, phòng khi hữu sự thì chúng nó dám liều chết cứu chủ.
Nghe chưa dứt bản đàn, ông Mười Hấu đứng dậy:
– Cháu cứ nghe. Ông muốn nằm nghỉ.
Cậu Cẩu hỏi:

– Hay là Xí Vĩnh đờn quá dở. Nếu vậy cháu phạt nó uống rượu?
– Thôi! Ông đã già rồi. Cháu cứ vui…
Cậu Cẩu cau mày:
– Hay là ông ngoại chê cháu ham chơi? Cháu làm công việc dữ lắm. Phải trừ tuyệt bọn tay em của Bá Vạn.
Khi Mười Hấu ra cửa, cậu Cẩu ra lịnh:
– Hộ vệ đâu? Đưa ông ngoại tao tới nhà ông Chúa Hòn. Tụi bây quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ.
Tên hộ vệ theo chân ông Mười Hấu. Lần đầu tiên, ông bước vào căn nhà sang trọng, từ trước đến nay. Tên hộ vệ mở khóa rồi chỉ dẫn:
– Đây là bàn thờ…
Ông Mười Hấu sực nhớ một việc quan trọng nên dừng lại.
Sau khi đốt nhang khấn vái lâm râm, ông xá ba lần trước bàn thờ. Trên ấy, có nhiều bài vị, nhưng còn thiếu cái bài vị đề tên ông Chúa Hòn và cậu Hai Điền.
– Trưa nằm ngủ bên nầy.
Cánh cửa mở rộng. Người hộ vệ vào trước, đốt mấy ngọn đèn sáp. Vì quen sống bên ngoài nên Mười Hấu đứng lại mà quan sát rồi hỏi:
– Tại sao tối om om vậy?
– Dạ ban ngày ban đêm gì cũng phải thắp đèn sáng. Hồi trước ông Chúa Hòn nói rằng nhà phải kín đáo thì làm ăn mới khá. Đây là kiểu nhà của vua quan bên Tàu. Nếu khoét cửa thì có ba điều hại.
Mười Hấu hỏi thành thật:
– Điều gì?
– Dạ gió lọt vô dễ bị cảm mạo. Tiền bạc bên trong có thể…bay ra ngoài.
– Ngộ quá! Vậy vua chúa có nhiều phong tục lạ. Nhưng còn điều thứ ba?
– Ông cho phép thì tôi mới dám nói.
– Cứ nói. Ta thưởng tiền bạc cho.
Nhìn kỹ gương mặt người hộ vệ, Mười Hấu hơi sửng sốt vì lão nầy hơi già, trán nhăn lại, gân tay nổi lên. Mười Hấu nói tiếp:
– Tôi lớn tuổi rồi, muốn hưởng nhàn. Cháu tôi mời mọc, tôi phải tới đây. Còn điều thứ ba?
Người hộ vệ bèn cúi đầu:
– Tôi hầu hạ ông Chúa hơn mười năm rồi. Tôi không phải là hộ vệ vì sức lực đã suy giảm. Điều thứ ba là nếu nhà có cửa sổ thì kẻ gian bên ngoài có thể nhảy vào mà thích khách…
Mười Hấu rởn tóc gáy khi nghe hai tiếng đó. Ông ta bèn trao cho lão nọ một nén bạc, với dụng ý mua chuộc tình cảm để lão nói cả sự thật.
Lão cúi đầu, ngỏ lời cám ơn. Mười Hấu nằm xuống sạp, lão cầm quạt phe phảy đứng bên cạnh. Mười Hấu vẫn chưa hết thắc mắc:
– Rủi người ngoài vào đây thích khách thì ta làm sao?
– Dạ, bên ngoài đã có bọn hộ vệ trẻ tuổi. Trong nầy có cách khác…tôi lo món ăn cho ông Chúa Hòn ngày trước. Hỗm rày tôi muốn trình cậu Ba vài việc nhưng chưa dám. Một khi nắm quyền hành trong tay, con người nên cẩn thận việc ăn uống, coi chừng bị đầu độc!
Trong một thoáng, Mười Hấu nhớ đến Xí Vĩnh và cái bầu rượu trên bàn cậu Cẩu lúc nãy:
– Phải đó. Đề phòng bị đầu độc bằng cách nào?
Người hộ vệ thưa:
– Đáng lý ra, trước khi ăn uống, cậu Ba nên hỏi ý tôi.
Mười Hấu trợn mắt:
– Ông làm thầy thuốc? Làm sao biết món ăn có trộn thuốc độc? Ông hửi thử hay là ăn trước vài miếng? Lúc nầy tôi nên đề phòng, dân chúng ở núi Mo So bắt đầu chống đối, hăm he không chịu góp lúa ruộng.
Người hộ vệ bèn kéo cửa tủ rồi mở cái ngăn nhỏ bên trong. Ông ta đem ra một cái dĩa màu xanh mướt trao cho Mười Hấu.
Ông nầy trố mắt, đem cái dĩa lại gần ngọn đèn sáp mà ngắm xem. Nước men nổi lên màu xanh láng kỳ diệu, rờ vào là mát lạnh:
– Ngộ quá! Hồi nhỏ tới lớn, tôi chưa thấy cái dĩa nầy.
Người hộ vệ đáp:
– Đó là cái dĩa quí của vua chúa bên Tàu. Mấy người thương gia đem qua “cống sứ” cho ông Chúa Hòn. Nhờ nó mà hồi mười năm trước, ông Chúa thoát nạn. Ông xem kỹ thì thấy cái màu xanh kỳ lạ, nước biển không ra nước biển, xanh lá cây thì khác hơn…
Mười Hấu thích chí, hỏi thêm:
– Có chén bằng ngọc không?
Người hộ vệ đáp:
– Cái dĩa nầy còn quí hơn ngọc. Nghe đâu nó còn phép lạ khác, để đồ ăn vô dĩa đôi ba ngày mà không hôi thúi.
– Tôi bỏ cái dĩa nầy trong túi. Khi nào nghi ngờ thì đem ra xài.
Người hộ vệ đáp:
– Ngày xưa, ông Chúa Hòn giữ kín, không cho ai thấy cái dĩa nầy, lâu lâu mới đem ra xài một lần. Nếu ông cho người khác thấy thì ai ngu dại gì ám hại bằng cách đầu độc?
– Vậy thì tôi để đây!
Vừa lúc ấy, bên ngoài có tiếng kêu la ơi ới. Mười Hấu chạy ra sân. Cậu Cẩu nói hơ hãi:
– Ông ơi. Nguy rồi! Ông cầm…binh được không?
Mười Hấu hoảng hốt:
– Cầm binh là làm sao? Thì cháu có sẵn mấy chục đứa hộ vệ. Chuyện gì mà đánh mõ ỏm tỏi vậy?
Cậu Cẩu nói khẽ:
– Dân ở núi Mo So chạy giặc lên đây. Thằng Thừa tay sai của ông Bá Vạn tới đó, đốt nhà cửa, xúc lúa đem lên núi.
– Cháu tính cách nào?
– Ông qua đây mà xem thử. Ông sẽ thấy chuyện nầy lớn chớ không nhỏ đâu.
Bên nhà cậu Cẩu, hàng trăm người ngồi chồm hỗm trước sân. Mười Hấu nhận ra tất cả những người quen thuộc:
– À! Tư Hinh!
Trước kia, Tư Hinh sống bằng nghề hái ổ ong, lấy sáp và mật. Tư Hinh vuốt mồ hôi trán, chắp tay thưa:
– Ông Mười ơi! Nguy lắm. Xóm mình không còn một căn nhà nào đứng vững. Nhà ông bị đốt trước. Thằng Thừa gom tất cả dao mác. Dẫn chừng bốn năm chục cậu trai lên núi để luyện tập võ nghệ. Phải chi ông cầm binh đánh một trận cho nó sợ.
Nhiều người mạnh dạn đến gần cậu Cẩu, chắp tay xá dài để xin cơm nước, xin chỗ tá túc. Cậu Cẩu bèn nghiêm nét mặt:
– Tại sao không dám ở núi Mo So? Thằng Thừa bây giờ ở trên chót núi? Ai dám trở về giết nó thì tôi trọng thưởng. Phải về xứ mà ở. Đây là nhà tôi, làm sao chứa chấp hàng trăm người được?
Có người khóc mếu máo mà nói:
– Cậu ơi! Nó mạnh lắm. Mỗi đêm, nó đốt đuốc trên núi, đánh trống mõ vang trời. Nó hẹn năm ngày nữa là kéo binh tới Hòn Chông để …trả thù cho ông Bá Vạn!
– Sao? Mấy người nói gì?
Ông Mười Hấu truyền lịnh nấu cơm cho bọn người tản cư ấy ăn tạm rồi dẫn Tư Hinh vào nhà. Trước kia, Tư Hinh thường uống rượu và đánh cờ tướng với Mười Hấu nên được tin cậy.
Vào trong phòng, ông Mười hỏi kỹ:
– Thằng Thừa mạnh yếu thế nào? Bá Vạn tới núi Mo So chưa?
Tư Hinh đáp:
– Làm sao tôi so sánh được? Nếu ở đây mạnh thì nó yếu. Nó có hơn năm mươi đứa, cầm dao mác.
Nghe qua, Mười Hấu hoảng sợ vì với lực lượng ấy, thằng Thừa đủ sức đốt phá Hòn Chông. Chừng ấy, chưa ắt bọn hộ vệ còn giữ lòng trung thành với cậu Cẩu. Nếu Bá Vạn đi theo thằng Thừa thì mặc nhiên ông ta sẽ thắng thế.
Mười Hấu hỏi tiếp:
– Ai xúi giục thằng Thừa? Bá Vạn có ở đó không?
– Dạ, không thấy Bá Vạn. Nhưng dường như thằng Thừa có chiêu mộ được một người “Sơn Đông mãi võ”. Người nầy ở chợ Rạch Giá mới tới, loan tin rằng quân Lang Sa đang tràn về phía Hòn Chông!
Cậu Cẩu nằm yên trên giường, mồ hôi để tuôn nườm nượp, mặc dầu cô Xí Vĩnh quạt không ngừng tay. Con nít khóc ré trước sân, mấy người tản cư như đói khát lắm giành nhau từng chén cơm. Cậu đếm lẩm bẩm:
– Mười, mười bảy, ba chục đứa hộ vệ. Yếu quá!
Ông Mười Hấu bước vào, đuổi Xí Vĩnh ra ngoài rồi nói với cậu Cẩu:
– Cháu tính sao? Ông thấy rằng để trễ thì…không còn nơi nào chạy trốn. Bọn hộ vệ của thằng Thừa hăng hái lắm…
– Nguy thiệt. Ông tính cách nào thì cháu tuân theo.
Mười Hấu cau mày, sực nhớ đến cô Huôi. Lập tức, ông qua tư thất của cô vấn kế..
Cô Huôi cười lạt:
– Gieo gió thì gặt bão. Người như Bá Vạn đâu dễ kiếm. Bởi vì cậu Cẩu cách chức Bá Vạn nên thằng Thừa hoảng sợ. Muốn dẹp loạn thì nên…
Mười Hấu đáp:
– Thưa cô, nên mời ông Bá Vạn về, biểu cậu Cẩu xin lỗi vài tiếng.
– Không! Nên để cho cậu Cẩu tới núi Mo So dẹp loạn một lần.
Mười Hấu trố mắt:
– Nó đi thì chắc là chết dọc đường. Trước đây, cậu Hai Điền có oai thế nhờ biết săn bắn. Thằng Cẩu là cháu ngoại tôi, nó chỉ biết giỡn gái và đá cá thia thia.
Cô Huôi nói:
– Đây là dịp cho cậu ta thấy rằng làm ông vua con đâu phải dễ. Sau đó, hãy rước Bá Vạn. Nhưng Bá Vạn đâu phải con nít. Theo tôi thì cậu Hai Điền chỉ có tật là “nói bậy nói bạ” cho vui chớ chưa bao giờ dám đuổi Bá Vạn, tịch thu tài sản.
Mồ hôi tuôn giọt vắn giọt dài trên trán Mười Hấu:
– Thưa cô, nhờ cô giúp…
– Phải cho cậu Cẩu hiểu rằng đời là khó.
– Nhưng nó chỉ sợ cô thôi. Cô dạy dỗ nó. Ở xứ nầy cô là người nhiều quyền hạn nhứt.
– Điều đó hơi khó. Thú thật với ông tôi muốn đi tu cho rồi, nhưng chưa rảnh nợ đời. Cha tôi đã cất gần xong một kiểng chùa ở núi Đất… Cứ biểu cậu Cẩu tới núi Mo So ra trận một lần. Chỉ khi nào bại trận, cậu ta mới bớt háo thắng. Thôi! Ông nên ra ngoài, kẻo nó giận tới tôi.
Ra khỏi nhà cô Huôi, Mười Hấu gặp cậu Cẩu, khuyên đứa cháu ngoại nên ra trận, tiến vào núi Mo So để tiễu trừ bọn phiến loạn. Phản ứng đầu tiên của cậu là chờ đợi. Ông Mười Hấu hơi bối rối:
– Nếu cháu không giết nó trước thì nó kéo tới đây. Ông chạy trốn bây giờ.
– Theo ý ông thì nên làm gì?
– Cháu đi thử một chuyến, cho bọn hộ vệ quân đi trước, nếu gặp bất trắc thì chúng nó chết trước.
– Xí Vĩnh với cháu đi sau…Rời Xí Vĩnh cháu thấy buồn quá. Nhưng phải chờ sáng mai, cho bọn hộ vệ tập dượt trước.
Quá thất vọng vì thái độ khiếp nhược của đứa cháu ngoại. Mười Hấu bèn đến gặp cô Huôi lần thứ nhì. Sau khi suy nghĩ khá lâu cô đáp:
– Ông viết thơ năn nỉ Bá Vạn. Có Bá Vạn thì việc nầy mới xong.
- 14 -
Sau hai đêm sống ấm áp với bà chánh thất, Bá Vạn buồn rầu vì mấy vị sư nữ bên am tỏ vẻ phản đối. Họ không qua đến sân nhà bà chánh thất, không nhắc nhở bà tụng kinh gõ mõ. Bá Vạn ra ngoài ao sen. Bà chánh thất đến gần mà nói:

– Tình thế thiệt khó xử. Nếu có dư luận xấu, khổ cho tôi. Hay là ông qua nhà Tư Thính, hoặc đi viếng ông đạo Đất. Nếu lân la như thế nầy, chắc là mấy vị sư nữ buồn phiền.
Bá Vạn hơi bực dọc:
– Ở nhà thì bị đuổi, tới đây ẩn náu qua ngày cũng bị đuổi. Ấy thế mà ông đạo Đất bảo rằng mạng tôi còn lớn nay mai trở lại chức vị cũ.
Bà chánh thất đáp:
– Hồi nãy mấy bà sư nữ hăm he tôi.
– Bà tu tại gia, theo lịnh độ, ai nói nặng bà được?
– Mấy bà sư nữ bảo rằng nếu ông cứ ở với tôi thì mấy bả sẽ bỏ am mà về núi…
– Được rồi! Năm mười ngày, tôi qua thăm bà một lần. Chắc là ở núi Mo So xảy ra nhiều chuyện lớn.
Lát sau, ông Bá Vạn đến nhà Tư Thính. Tư Thính mừng rỡ kêu lên:
– May quá! Cậu Cẩu gởi thơ cho ông nè!
– Ai đem thơ?
Tư Thính đáp:
– Đứa hộ vệ. Nó chờ để rước ông về Hòn Chông. Nghe qua, Bá Vạn mừng đến run tay, phục tài tiên đoán của ông đạo Đất. Đúng là ông còn nặng nề công danh. Mở phong thơ ra, ông đọc nhanh. Đại ý trong bức thơ là ông Mười Hấu xin lỗi Bá Vạn về những lỗi lầm mà cậu Cẩu mắc phải trong thời gian qua. Theo Mười Hấu thì cậu Cẩu muốn mời Bá Vạn đi theo để tiễu trừ bọn cướp ở núi Mo So. Nếu thắng trận, Bá Vạn sẽ nắm quyền hạn quản gia như cũ.
Một khi cô Huôi khuyên bảo thì nhứt định chuyện sẽ thành công. Nghĩ vậy, Bá Vạn bèn lên tìm ông đạo Đất, nhờ ông cho người đến gặp thằng Thừa. Bá Vạn khuyên thằng Thừa giả vờ thua, chạy trốn. Nó sẽ được bảo đảm tánh mạng. Nếu quá sợ thì đến am ông đạo Đất mà cư ngụ trong một đôi tháng.
Những hàng chữ dưới bức thơ khiến Bá Vạn tin cậy hơn. Cô Huôi viết cho ông, khuyên ông nên về, vì đây là dịp để cậu Cẩu giảng hoà trong danh dự, tạm thời như thế.
Bá Vạn nói với Tư Thính:
– Vậy thì tôi về. Cho tôi một hũ rượu.
Uống chén rượu, Bá Vạn thấy đầu óc minh mẫn thêm. Mấy tiếng “tạm thời như thế” khiến ông ta suy nghĩ kỹ hơn. Phải chăng cô Huôi khuyên Bá Vạn nên chuẩn bị kỹ lưỡng để sau nầy giết cậu Cẩu.
Tên hộ vệ chèo ghe thật nhanh, đến nửa đêm là tới Hòn Chông. Mười Hấu rước Bá Vạn qua nhà cô Huôi vì biết Bá Vạn còn ghét cậu Cẩu.
Cô Huôi nói:
– Ông Mười về nghỉ cho khoẻ. Cậu Cẩu làm gì bên nhà?
– Dạ, nó uống rượu say mèm, con Xí Vĩnh thì quạt hầu sáng đêm.
– Sáng mai, ông nhớ kêu cậu thức sớm.
Khi Mười Hấu vừa ra ngoài, cô Huôi đóng cửa lại rồi mỉm cười:
– Việc đời lắm khi quá khó rồi trở nên quá dễ.
Bá Vạn thêm kính nể đối với cô Huôi:
– Nhờ cô giúp mà tôi được trở về Hòn Chông.
Cô Huôi đáp:
– Trước kia, nghe ba tôi nói lại thì ông giúp tôi quá nhiều. Bây giờ tôi bàn như vầy. Chuyến đi đầu tiên, phải làm cách nào cho cậu Cẩu chết hụt rồi sau đó, ông ra tay cứu cậu Cẩu.
Bá Vạn nói:
– Thằng Thừa làm giặc vì nó binh vực tôi. Tôi nhắn tin rồi, làm đúng theo lời cô dạy. Nhưng còn chuyện nầy, tôi muốn hỏi kỹ: sau khi thắng trận, chẳng lẽ để cậu Cẩu sống hoài?
Cô Huôi cau mày:
– Ông muốn giết nó? Nên thận trọng vì lúc nầy cậu đang thắng thế. Sau khi dạy được bọn giặc cỏ ở núi Mo So, cậu được thiên hạ sợ sệt hơn trước. Với lại có Mười Hấu bên cạnh. Nầy Bá Vạn! Tôi thấy cậu Cẩu là người bất thường, khi thì dại dột nhưng lắm lúc quá thông minh. Người hơi điên, tánh tình khó lường được.
– Cậu ta hơi điên?
– Còn gì nữa! Luôn luôn người điên không bao giờ sống lâu. Ông cứ tin tôi, đừng nóng nảy hờn giận vô lý. Chưa ắt cậu sống dai hơn ông…Bây giờ thì ông cứ đi núi Mo So, chuyện dễ quá.
Nhơn chuyến lên núi vừa rồi, ông Bá Vạn đã suy nghĩ nhiều khi nghe ông đạo Đất nói đến những con cá kình, bằng sắt, đậu ngoài khơi Vịnh Xiêm La. Sớm muộn gì người Lang Sa cũng tới Hòn Chông. Bá Vạn sẽ chiếm đoạt một mớ tài sản của cậu Cẩu rồi chạy trốn, khi người Lang Sa đến! Bởi vậy phải giết cậu Cẩu, nhờ bàn tay của Xí Vĩnh.
Khi ngang nhà cậu Cẩu, Bá Vạn ghé vào. Cậu còn ngủ. Bá Vạn hỏi:
– Cô Xí Vĩnh, cậu thức chưa?
Xí Vĩnh khoát tay, nói khẽ:
– Cậu ngủ nhưng cũng như thức. Để tôi kêu thử.
Thừa lúc cậu Cẩu còn nhắm mắt, Bá Vạn sờ vai Xí Vĩnh bóp mạnh:
– Nhớ chuyện cũ không?
Xí Vĩnh hiểu đó không phải là cử chỉ mất dạy của lão già háo sắc. Nàng đoán chừng Bá Vạn khuyên nhủ nên nhớ đến mối thù xưa. Xí Vĩnh là tình nhân của A Chúa, người đã bị cậu Cẩu hạ nhục công khai.
Xí Vĩnh sờ bàn tay Bá Vạn, day lại, cúi đầu. Rồi nàng gọi to:
– Cậu ơi!
Cậu Cẩu mở mắt nhận ra Bá Vạn:
– Cái gì? Đi đánh giặc chưa? Ông đủ sức đánh tụi nó chớ?
Bá Vạn đáp:
– Nhưng phải có cậu đi mới được. Tôi là người quản gia, xưa nay chưa ra trận lần nào.
Cậu Cẩu vươn vai:
– Vậy thì tôi đi. Nhưng phải đi dọ thám trước. Để lâu sanh ra nhiều điều bất lợi.
Lát sau, năm chục tên hộ vệ mang dao mác lên đường. Vì sợ chết nên cậu Cẩu ngồi trên chiếc ghe hầu, đi sau chót. Xí Vĩnh cầm quạt, ngồi bên cạnh cậu Cẩu. Mặt trời lên cao. Núi Mo So hiện ra ở chân trời. Hai bên bờ rạch, nhà cửa vắng tanh, không bóng người. Bọn hộ vệ kêu lên từng chập:
- Thây ma chết trôi! Ghê quá!
Bá Vạn ngồi trên mui ghe, chui vào mui nói với cậu Cẩu:
- Gần tới chỗ nguy hiểm rồi.
Cậu Cẩu giựt mình ngồi dậy. Hai bên đồng cỏ hoang vu từng bầy quạ đen bay chập chờn. Có lẽ trên ấy vẫn còn vài cái thây ma hôi thúi.
-Lạ vậy? Mùi gì kỳ cục!
Bá Vạn đáp:
- Thưa cậu, chắc là nhiều người chống cự lại thằng Thừa, bị nó giết. Một cái thây ma vừa trôi qua.
- Bọn hộ vệ thấy điều gì lạ không!
- Theo ý tôi thì bọn thằng Thừa là cố thủ ở chân núi.
- A? Tụi nó chưa đụng độ.
Gần tới núi Mo So, bọn hộ vệ lên bờ, đi bộ. Chiếc ghe hầu của cậu Cẩu đậu lại. Tiếng mõ nổi vang lên. Một căn nhà lá bốc cháy sát chân núi. Cậu Cẩu la hoảng:
– Hộ vệ đâu? Đánh thử một trận!
Nghe qua, Bá Vạn nực cười vì rõ ràng cậu Cẩu là đứa trẻ con. Bọn hộ vệ tiến nhanh trong khi cậu Cẩu ra lệnh dừng ghe lại. Bỗng đâu một tên hộ vệ chạy trở về, mặt mày hơ hãi:
– Cậu ơi! Bên mình chết hai người!
Cậu Cẩu xám mặt:
– Sao vậy? Làm sao bây giờ?
Tên hộ vệ đáp:

– Trên núi, có treo hai ngọn cờ, một lá tam sắc, xanh trắng đỏ; một lá đen. Mấy người hộ vệ chết khi tới gần ngọn cờ màu đen. Bọn nó núp trong mấy căn nhà bỏ hoang, chạy ra thình lình, bên mình trở tay không kịp. Chém xong, bọn nó chạy lên núi, vô hang đá.
Cậu Cẩu hỏi Bá Vạn:
– Làm sao bây giờ? Ông tới coi thử.
Bá Vạn làm núng để hăm dọa cậu Cẩu:
– Tôi sợ quá. Tuổi già, hễ gặp bọn nào dùng võ lực thì tôi chạy. Cậu còn trẻ, dai sức hơn tôi.
Xí Vĩnh nói thêm:
– Cậu đánh một trận là tụi nó sợ. Cậu là người có tài..
Cậu Cẩu cằn nhằn:
– Bá Vạn tới trước, dò xét thật kỹ rồi tôi tới sau.
Nghe qua, Bá Vạn mừng thầm vì đây là dịp tốt để ông tiếp xúc riêng với thằng Thừa. Ông nhận lời nhưng nói dè dặt, đề phòng trường hợp cậu Cẩu nghi ngờ:
– Dò xét là phận sự của tôi. Nhưng cậu phải đánh chiếm núi Mo So mới được. Đó là nơi mà cậu hiểu rành từng gốc cây, từng cục đá.
Cậu Cẩu chau mày:
– Trên đó ghê lắm. Ai chiếm trước là thắng trận. Một cục đá là một bức thành. Ông đi trước xem thử.
Bá Vạn đáp:
– Hễ làm dọ thám thì phải cải trang đi trong đêm tối. Rủi nó nhìn mặt, bắt giết tôi thì sao. Xin cậu cho tôi hẹn tối nay, tôi ăn mặc rách rưới, đi một mình. Điều quan trọng là biết nơi ẩn núp của thằng Thừa. Giết được nó thì xong chuyện. Rắn mất đầu, bọn phản loạn chỉ còn chạy trốn.
Trời xế dần. Mấy đống lửa cứ cháy bên sườn núi, Bá Vạn hơi lo sợ khi nghe tên hộ vệ nói đến lá cờ đen và lá cờ tam sắc cắm trên sườn núi. Phải chăng quân Lang Sa đã tới núi Mo So, sau khi chiếm bờ biển núi Đất? Tin rằng thằng Thừa còn giữ tình cũ nghĩa xưa, Bá Vạn đánh bạo đến nơi, để hiểu rõ hơn.
Mặt trời vừa lặn, ông đến chân núi, ngay nền nhà Mười Hấu. Nhà bị cháy sạch. Hai tên hộ vệ của cậu Cẩu, còn đứng núp lén bên gốc cây. Thấy Bá Vạn tới, bọn nó mừng rỡ
- Ông liệu lẽ nào? Tại sao cậu Cẩu còn xài ông?
Bá Vạn nhớ kỹ từng gương mặt. Toàn là bọn mới vô nghề, được cậu Cẩu trọng dụng sau khi lên ngôi ‘‘ông chúa Hòn’’. Bá Vạn hơi bực mình vì bọn nó ăn nói vô phép.
- Muốn chết tao cho chết – Bá Vạn nghĩ thầm như thế. Ông ta đáp vu vơ:
- Tao là thằng già rồi. Tụi bay dẫn cho tao đi dọ thám. Nãy giờ thấy động tịnh ở chỗ nào không?
Một tên hộ vệ đáp:
- Có hai cây cờ, một cây đen, một cây ba sọc. Giỏi thì ông bước tới. Tụi tôi ở đây trong giây lát, nếu không đụng độ thì trở về. Ngu dại gì mà chịu chết lãng nhách.
- Tụi bây đi trước, dẫn đường cho tao.
Vừa nói, Bá Vạn vừa giả vờ run rẩy. Hai tên hộ vệ ngồi xuống rồi dựa lưng vào vách một căn nhà lá vắng chủ, Bá Vạn xem chừng để tìm ám hiệu của thằng Thừa. Ông đi tới lui chợt nhận ra một bàn tay lú ra, bên vách nhà Mười Hấu. Nhà cháy sập, cây cột vách và một mảnh tường vôi còn đứng vững.
Bọn hộ vệ hỏi:
- Mạng ông gần tàn rồi. Hôm trước, nghe đâu cậu Cẩu muốn cho ông chết. Tôi mà như ông thì chết sướng hơn, sống mà tài sản không còn một món thì lấy gì mà ăn?
Bá Vạn bèn cương quyết ra tay, nói trở lại:
- Tụi bây lo canh phòng tứ phía. Hễ hai cây cờ nọ di chuyển tới lui là tụi nó xuống núi đánh bọn mình. Chẳng lẽ tao chết tại đây.
Nói xong, Bá Vạn bước tới. Ông thử ho lên vài tiếng sù sụ như báo hiệu rằng “ta đây là Bá Vạn…”. Một con quạ đen bay vòng tròn trên nhà Mười Hấu rồi đáp xuống. Điềm gì đây? Sau khi suy nghĩ, Bá Vạn cương quyết đến gần miếng vách tường loang lổ. Trong hoàn cảnh nầy, ông là người tốt phước nhứt, vì chẳng ai muốn giết ông cả!
Đến gần miếng vách, ông hỏi:
– Thừa phải không?
Đúng là giọng thằng Thừa:
– Chờ ông gần chết.
– Tao cũng chờ mầy nhưng tao sợ hộ vệ của cậu Cẩu.
Thằng Thừa nói:
– Ông vô đây mà ngồi cho kín đáo. Có chuyện gì thì nói gấp. Tôi luôn luôn trung thành với ông.
Ba Vạn nhìn lại hai tên hộ vệ rồi nói khẽ:
- Đó là hai thằng chó chết. Nó chế nhạo tao khi tao mất chức vị. Mình cứ nói chuyện dông dài. Có đứa nào theo mầy không?
- Dạ. Hơn mười đứa sẵn sàng giết cậu Cẩu. Tụi nó ngồi ở sát vách bên kia. Tôi khoát tay là có.
- Vậy thì …cứ giết thằng hộ vệ của cậu Cẩu. Nó ngồi dựa vách cái nhà lá đằng kia.
Ba cậu trai lực lưỡng, đứng dậy thi hành lịnh của Bá Vạn. Lát sau, bọn chúng trở lại:
- Chết hết rồi. Tụi tôi siết cổ, hai đứa nó chết không kịp ngáp. Nó cắn muốn đứt thịt cườm tay tôi.
Bá Vạn lấy vạt áo chùi mồ hôi mà hỏi nhanh:
– Chú mầy về núi Đất, ở với ông đạo Đất cho yên, tình thế chắc còn nhiều đổi thay.
Thằng Thừa cau mày:
– Hỗm rày, tôi sắp đặt kế hoạch để báo thù cho ông. Nè! Ông thấy cây cờ tam sắc trên núi không? Thằng đó ở chợ Rạch Giá, lúc trước giả dạng Sơn Đông mãi võ để dọ thám. Nghe tôi nổi lên chống lại cậu Cẩu, nó đem bốn, năm đứa tay em tới xin gia nhập. Thiệt là đáng nghi ngờ. Nó mang theo một cây súng lạ lắm, bắn nổ lớn tiếng. Nó rủ tôi theo phe nó. Tôi hỏi phe nào thì nó không trả lời.
Bá Vạn nghĩ xa hơn; nếu gầy dựng sự nghiệp mà bỗng nhiên quân Lang Sa tới xâm chiếm thì thật là uổng công. Từ nửa tháng qua, cô Huôi và ông đạo Đất đều nhắc tới quân Lang Sa nhưng chưa ai biết mặt mày bọn chúng ra sao.
Ông ta nói khẽ:
– Bây giờ mầy giúp tao chuyện nầy được không Thừa? Bắt thằng đó, đem cây súng về coi thử. Được như vậy thì cậu Cẩu, Mười Hấu, cô Huôi đều nể mặt tao.
Thằng Thừa đáp:

– Nó làm dọ thám cho quân Lang Sa ở chợ Rạch Giá. Tôi nói thì nó tin, nhưng ông nên ra tay nhanh chóng tới đây bắt nó.
– Rồi làm sao tao cự nổi với súng đạn!
– Tôi cho nó uống rượu rồi trói như con heo. Ông cứ khiêng nó về.
Bá Vạn gật gù, nói vài tiếng với thằng Thừa rồi trở về. Khi đi ngang qua tấm vách lá, ông nhận ra xác hai tên hộ vệ vừa bị giết…Ông nói lẩm bẩm như kẻ say rượu.
- Chế nhạo tao làm gì? Bây giờ một đứa theo tao…
Ông nắm chân một cái xác, kéo lê lết. Vì chưa chết hẳn cái xác nọ vụt co chân. Ông buông ra:
- Cái gì vậy?
Xác lại nằm yên. Ông nghiêng mình, nắm cái xác lần thứ nhì rồi kéo lê lết, miệng la bài hải
- Tụi nó tới! Tụi nó đông lắm…
Cậu Cẩu đứng sẵn trước mũi ghe. Xí Vĩnh ngồi bên cạnh. Cậu cằn nhằn:
- Bá Vạn chết rồi sao chớ? Hay là bị thương. Hộ vệ đâu.
Bọn hộ vệ tới gọi Bá Vạn
- Thưa ông!
Bá Vạn giả vờ run sợ:
- Nó giết hai đứa hộ vệ rồi. Nó rượt sau lưng tao đó? Đứa nào cõng tao lên vai mà chạy. tao sợ quá.
Cậu Cẩu hỏi:
- Sao vậy Bá Vạn
- Cậu nên đề phòng. Tụi nó giết hai đứa hộ vệ. Tôi hết sức cứu được một cái xác.
Xí Vĩnh nhận ra bên kia bờ rạch, hàng chục người lạ mặt vừa xuất hiện, lưng trần, tay cầm dao mác sáng ngời. Cô ta la hoảng:
- Cậu! Cậu! Đánh nó!
Bọn người bên kia bò đưa tay ngoắc:
- Đứa nào tên Cẩu đâu?
Cậu Cẩu vội chui vào mui ghe, đóng cửa lại kín mít. Hai ba chục tên hộ vệ được lịnh sẵn sàng canh phòng chgo cậu và Xí Vĩnh lên bờ đi bộ về phía Hòn Chông. Bá Vạn hỏi:
- Thưa cậu! Như vầy thì sao?
Cậu Cẩu chạy một hơi đến giữa đồng trống, ngồi xuống mà chờ Xí Vĩnh. Bá Vạn hỏi tiếp ;
- Thưa cậu! Để tôi rửa nhục cho cậu! Tôi lên núi thì tự nhiên bọn nó rút lui. Bọn nó có đứa chạy lăng xăng dưới này. Trên đó, cắm cờ để thị oai chớ không có ai ráo.
Cậu Cẩu hơ hải, nhìn trở lại
- Mấy căn nhà bên kia rạch bốc cháy kìa! Tôi muốn về, đem bọn hộ vệ theo. Nếu ông dẫn tụi nó lên núi, rủi dọc đường tôi bị bắt rồi sao? Úy trời! Coi kìa!
‘‘Quả thật thằng Thừa là đứa quá giỏi!’’. Kế hoạch của nó khiến Bá Vạn khâm phục, đứng vào địa vị nó, chưa chắc ông thực hiện khéo léo hơn. Toán võ sĩ của thằng Thừa lội ngang qua rạch, cầm đuốc lửa trong tay, nhảy lên chiếc ghe hầu mà đốt.
Bọn vệ sĩ của cậu Cẩu đã chạy từ trước. Bá Vạn nói khẽ:
- Cậu về Hòn Chông với bọn hộ vệ. Chỉ cần ba bốn đứa đi theo tôi là được. Tôi ráng tránh né, đốt sào huyệt bọn nó, chỗ căn nhà mà trước kia cậu tới lui đá cá thia thia.
Giữa đồng hoang cậu Cẩu cứ vuốt mấy giọt mồ hôi trán. Xí Vĩnh cúi mặt, thở dài:
- Cậu nên trở lại mà trả thù.
Bị mất thể diện trước người đẹp, cậu Cẩu bỗng dưng nổi cơn nóng giận tay hơi run. Đúng là bịnh điên mà cô Huôi đã nói. Cậu phun nước miếng phèo phèo.
- Như vầy, còn mặt mũi nào mà về Hòn Chông? Bộ tao bại trận sao chớ! Tao giết hết bây giờ.
Bá Vạn bèn nghĩ ra sáng kiến.
- Cậu chớ lo? Bây giờ cậu tới Vàm Rầy mà chờ tôi. Sau khi bắt sống bọn nó và tịch thâu mấy cây cờ trên núi, tôi gặp cậu để về Hòn Chông một lượt.
- Phải! Nhưng chiếc ghe bị đốt cháy rồi! Chẳng lẽ ta đi bộ?
- Thì bọn hộ vệ cõng cậu lên vai…
- Hừ! Quần áo lem lấm như vậy…
Bá Vạn nói:
- Thưa cậu, quần áo có lem lấm, chiếc ghe có bị đốt thì dân chúng ở Hòn Chông mới tin chắc rằng cậu ra trận, tả xung hữu đột để …chiến thắng.
- Phải! Bá Vạn cứ lên núi, bắt sống vài đứa tịch thâu lại ngọn cờ. Tôi chờ tại đó. Nhưng mà đừng để tôi chờ quá lâu.

Lát sau, bọn hộ vệ đưa cậu Cẩu và Xí Vĩnh về Vàm Rầy mà chờ đợi. Bá Vạn chọn lựa hai tên hộ vệ quen biết, những đứa đã từng quen với ông hồi mười năm trước, Bá Vạn cười xoà:
– Tụi bây thấy sao?
Nãy giờ bọn hộ vệ đã bất mãn với cậu Cẩu nên đồng thanh trả lời:
– Thiệt là lỡ cười lỡ khóc. Nhưng nắng bề nào che bề nấy. Hồi xưa, cậu Hai Điền đâu quá tệ như vầy.
Bá Vạn nói:
– Mấy ngày trước, tao bị cậu Cẩu hạ nhục tại chợ Vàm Rầy, mấy căn phố bị lấy lại. Tụi bây cứ yên tâm. Tao còn thì tụi bây còn…Ăn cho no rồi ra trận là thắng.
Nãy giờ hai tên hộ vệ tưởng lầm rằng Bá Vạn không dám đương đầu với bọn phản loạn. Có đứa van nài:
– Ông ơi! Ông đã già mà tụi tôi thì vỏn vẹn có hai đứa. Rủi gặp ngày xui xẻo thì sao?
– Tao nghĩ kỹ hơn tụi bây. Bọn thằng Thừa chắc cao bay xa chạy rồi, đầu đuôi không tới ba chục đứa. Dễ đánh quá, ban đêm, mình ngủ mà chờ đợi. Núi Mo So lớn chớ đâu phải nhỏ. Nếu tụi nó chống cự thì tao mướn đàn bà trên núi may hai lá cờ, đem nhúng bùn, coi như là tịch thâu của bọn nó. Tao dư tiền trong túi, chuyện gì mà làm không được?
Hai tên hộ vệ vào căn nhà trống hoang bên đường trong khi Bá Vạn đứng trước sân, giả vờ ngắm nghía núi Mo So. Nếu cho bọn chúng hiểu rõ sự sắp đặt đã có từ trước thì ông sẽ bị tình nghi. Bọn hộ vệ nầy chưa đáng tin cậy cho lắm.
Ông day lại:
– Tụi bây mệt thì ngủ cho khoẻ. Tao đi lại đằng nầy để dọ thám.
Một tên hộ vệ nói:
– Ông đi trước là phải, vì dân núi Mo So xưa nay mến chuộng ông…
Đến gần nhà Mười Hấu, Bá Vạn đứng lại. Thằng Thừa xuất hiện bên vách:
– Ông ơi! Như vầy là xong. Để tôi lên núi bắt sống cái thằng Sơn Đông mãi võ.
Bá Vạn lẩm bẩm:
– Như vậy là gọn nhứt. Kiếm cho tao một chiếc ghe. Đem thằng Sơn Đông đó với hai cây cờ xuống đây. Cậu Cẩu là thằng ngu dại, không biết gì ráo. Rồi cho hai ba thằng bá vơ nào đó chèo ghe cho tao ngồi, tao nói rằng đó là bọn đầu hàng…Khuya nay, tao về Vàm Rầy để lấy lại thể diện. Nhớ về núi Đất chờ tao…
Cậu Cẩu nằm ngủ trên giường, Xí Vĩnh quạt hầu mỏi tay rồi nằm bên cạnh. Bọn hộ vệ ngồi ngoài sân mà canh phòng. Dân chúng cứ qua lại bàn tán xôn xao vì Cậu Cẩu đưa ra tin thắng trận.
Đột nhiên Xí Vĩnh kêu rú:
- Sao cậu đánh tôi.
Xí Vĩnh khều thấp đèn đứng khá xa. Rõ ràng Cậu Cẩu đang ngủ say, mắt trợn trắng mà nói:
- Tôi giết ai mà ai giết tôi? À? Tôi không sống lâu. Tại sao tôi không sống lâu? Ba đi đâu vậy? Ba đánh thì tôi đỡ.
Bàn tay Cậu Cẩu nắm lại, răng nghiến ken két. Cậu đập mạnh xuống giường mà la lớn:
- Chết …chết!
Bọn hộ vệ chạy vào hỏi nhanh:
- Cô ơi! Cậu làm sao?
Xí Vĩnh đáp:
- Cậu nằm chiêm bao ngủ mê. Mấy chú ra ngoài. Làm gì mà chộn rộn vậy?
- Xin lỗi cô. Hồi nãy tôi nghe lầm, tưởng rằng bọn bất lương vào nhà…
Trong mùng, Cậu Cẩu lại đập tay thật mạnh xuống giường. Giựt mình thức dậy; cậu nhìn ngơ ngác:
- Xí Vĩnh đâu?
Xí Vĩnh đến bên cạnh mà hỏi:
- Cậu nằm chiêm bao? Chắc là gặp điềm gì hung dữ lắm.
- Ừ! Nhưng mà …
Nói tới đó, cậu Cẩu bèn cúi mặt, vỗ trán để xua đuổi ám ảnh không tốt cho lắm. Lúc nãy, cậu nằm chiêm bao thấy ông chúa Hòn hiện về, hạch hỏi tội lỗi và khuyên cậu nên đề phòng kẻo gánh lấy hậu quả tai hại. Khi cậu hỏi kỹ lưỡng hơn thì ông chúa Hòn trói cậu lại mà đánh đập. Cậu muốn chạy nhưng hai chân tê cóng.
Xí Vĩnh hỏi:
- Thưa cậu…
- Nãy giờ thức hay ngủ? Bá Vạn về chưa?
Bọn hộ vệ dưới bến chạy tới, báo tin:
– Thưa cậu, có bốn ngọn đuốc. Chắc là Bá Vạn thắng trận.
– Đứa nào đi với tao…
Cậu Cẩu ra sân, đứng ngóng về phía ngọn rạch. Theo lịnh cậu, một tên hộ vệ chạy đi săn đón tin tức. Bá Vạn đứng trước mui ghe, trong khoang có hai người bị trói nằm chèo queo.
Ông ta hỏi:
– Cậu đâu rồi?
Tên hộ vệ trở về báo tin. Cậu Cẩu vô cùng mừng rỡ, gọi Xí Vĩnh:
– Mình về Hòn Chông chớ?
Lát sau, chiếc ghe lướt tới, dừng lại đón cậu Cẩu. Bá Vạn báo cáo:
– Tịch thâu được hai cây cờ, bắt sống được hai đứa, hai đứa ra đầu hàng…
Cậu Cẩu ngồi trước mui ghe, cười dòn:
– Như vầy là từ rày về sau không ai dám làm phản nữa…Ngày mai, ta ra lịnh cho dân Hòn Chông ăn lễ ba ngày ba đêm. Nầy Bá Vạn…
Bá Vạn tin rằng lời nói đầu tiên của cậu Cẩu là khen ngợi công lao. Nhưng ông ta thất vọng cười chua chát khi nghe nói:
– Ông thấy tôi …sống dai không? Thiên hạ đồn rằng tôi bất tài. Nhưng tôi có tài hơn anh tôi là Hai Điền.
Bá Vạn nói phân bai:
– Người có đức thì sống dai. Cậu chỉ có tài…
– Hai Điền chỉ biết săn heo rừng… Tôi thì… dẹp được bọn làm phản. Bởi vậy… Rượu đâu?
Bọn hộ vệ dân rượu cho cậu Cẩu. Cậu uống một hơi cạn bầu rượu rồi trợn mắt.
– Bậy quá. Thiệt là chó chết.
Lời trách móc vu vơ khiến Bá Vạn phật ý. Hay là cậu muốn hại ông, theo kiểu được chim bẻ ná? Cậu Cẩu bỗng dưng đứng trên mui ghe, quát to:

– Dân làng đâu! Tại sao không đánh trống, đốt đuốc lên để mừng khi ta thắng trận?
Rồi cậu cầm hai lá cờ trong tay, múa qua múa lại như ông tướng trong tuồng hát bội. Xí Vĩnh nói khẽ với Bá Vạn:
– Cháu bực mình quá.
Bá Vạn nói khéo:
– Vài ngày nữa, bác đưa cháu… cháu bỏ vô thức ăn.
Xí Vĩnh gật đầu:
– Dạ như vậy là để…
Bá Vạn cười tủm tỉm:
– Nó là thằng điên nhưng là thứ điên giết người. Để nó sống thì bác cháu mình chết.
Dân chúng Hòn Chông tha hồ cờ bạc và uống rượu. Bọn người tản cư được lịnh về núi Mo So. Họ xin ra mắt cậu Cẩu để cám ơn.
Cậu Cẩu uống rượu với Bá Vạn. Cô Huôi ngồi nghiêm mặt, trên bộ ván gõ, cách độ chừng vài bước.
Rượu say ngà ngà. Cậu nói:
– Bây giờ ta nên hạch hỏi tụi nó! Tại sao trên núi có hai lá cờ? Dẫn tụi nó lên đây!
Thật ra Bá Vạn còn nóng nảy hơn cậu Cẩu. Người bị bắt hiện đang bị giam trong nhà riêng sau hè. Bọn hộ vệ dẫn hắn đến. Hắn cự nự lâu lắm mới chịu quỳ lạy
Cậu Cẩu hỏi:
– Tên gì? Mặt mày sạch sẽ quá vậy? À! Dường như tao gặp chú mầy một lần. Mấy chú là ai?
Người nọ nhìn thẳng về Bá Vạn. Bá Vạn hơi e ngại vì thật ra địa vị của ông không được vững cho lắm. Cậu Cẩu sẽ hạch tội, xem ông là kẻ thù, tùy sự cao hứng. Để đánh tan sự nghi ngờ, ông lên tiếng, đứng hẳn về phe cậu Cẩu:
– Nó là đứa Sơn Đông mãi võ, hồi tháng trước tới đây một lần.
Cậu Cẩu nói nhanh:
– Nó là cái thằng nhảy qua vòng lửa. Tội đáng chết.
Nhưng Bá Vạn lại hạ giọng vô tư như để cứu vớt người có tội:
– Lúc bị bắt, nó không kháng cự. Nó nói rằng lá cờ tam sắc do người Lang Sa trao cho nó, muốn nó đem cắm tại núi Mo So và Hòn Chông!
Cậu Cẩu lại cười:
– Như vậy là người Lang Sa yếu ớt lắm.
Bá Vạn muốn nói rõ hơn để cậu Cẩu kiêng oai người bị bắt:
– Có một khẩu súng lạ lùng nhưng bắn không được! Người nầy tên là Tư Thiện…
– Dạ, tôi là Tư Thiện. Người Lang Sa mướn tôi đến đây. Vậy thì cậu đừng giận, tôi là người thừa hành phận sự.
Cậu Cẩu chưa bao giờ ra khỏi vùng Hòn Chông nên trố mắt:
– Lang Sa là cái gì? Cây súng đâu?
Tư Thiện kéo vạt áo ngay ngắn, nói chậm rãi, tin rằng nếu xử sự khéo léo thì thoát nạn, được trọng dụng là đường khác. Dầu sao đi nữa, cậu Cẩu cũng cần dùng anh ta để tìm hiểu thêm về người Lang Sa.
Ngoài ra, theo Tư Thiện nhận định thì Bá Vạn và người con gái xinh đẹp kia chưa đến đỗi khờ dại mà gây sự quá sớm với những người Lang Sa đang chiếm đóng vùng phụ cận Hòn Chông và kiểm soát bờ biển.
Tư Thiện nói:
– Thưa cậu, Lang Sa là Phú Lang Sa. Đó là một nước hùng cường. Họ chiếm cứ thành Sài Gòn, Biên Hoà, Vĩnh Long…
Cậu Cẩu nói nhanh:
– Nhưng Hà Tiên và chợ Rạch Giá còn hay không?
Tư Thiện nói không do dự:
– Mất mà như còn. Còn như đã mất.
Cô Huôi nhìn thẳng vào Tư Thiện. Anh ta quả là người thông minh, biết ăn nói khéo léo. Anh ta chưa lớn tuổi, hơn bốn mươi, nước da trắng, trán cao, mặc kiểu áo vạt hò, chân đi dép. Có thể nói là đẹp trai.
Cậu Cẩu trợn mắt:
– Cái gì mà còn còn, mất mất? Tôi không đụng chạm tới người Lang Sa thì người Lang Sa đừng đụng chạm tới tôi. Sao ăn nói khó nghe quá.
Cô Huôi bèn lên tiếng để cậu Cẩu đừng nổi điên lúc nghiêm trọng nầy. Theo ý cô thì Tư Thiện có thể ở lại đây, gióng nhiều sáng kiến. Từ bên kia bờ biển phía Tây mà người Lang Sa qua tới đây để mua bán thì rõ ràng họ có tài hơn cậu Cẩu. Quân sĩ triều đình Huế còn chịu thua người Lang Sa, huống hồ gì bọn hộ vệ ở vùng đồi núi cheo leo nầy. Quả thật cậu Cẩu là con ếch ngồi đáy giếng.
– Tư Thiện nói rõ cho cậu hiểu tình hình ở chợ Rạch Giá như thế nào. Hoặc là nay mai, cậu cho người đến kết thân với người Lang Sa.
Cậu Cẩu lắc đầu:
– Nói rõ tại sao chú mầy đem lá cờ tam sắc tới đây? Chắc là dọ thám. Chú mày quen với thằng Thừa như thế nào?
Tư Thiện liếc thấy cô Huôi mà anh ta đã nghe danh từ lâu. Hồi ở chợ Rạch Giá, viên cai đồn người Lang Sa giao cho anh ta trách nhiệm đến Hòn Chông để dò xét sự kháng cự của dân chúng, những sào huyệt bí mật do quan lại địa phương điều khiển. Anh ta trở về báo cáo sự thật.
Khi biết rằng ở Hòn Chông và vùng đồi núi phụ cận chỉ có vài chục hộ vệ quân mang dao mác, sống một cõi với ông Chúa Hòn thích đá cá thia thia, viên cai đồn nhận định rằng Hòn Chông là nơi không cần xâm chiếm quá sớm. Lần thứ nhì, Tư Thiện được lịnh đến núi Mo So để nghiên cứu sản phẩm địa phương, nguồn lợi sáp và mật ong. Anh ta gặp thằng Thừa, liên kết với nó rồi bị bắt.
Nếu trả lời không khéo léo, anh ta biết rằng tánh mạng khó bảo toàn, khi cậu Cẩu nổi giận. Nhưng anh ta chưa yên tâm vì có Bá Vạn và nhứt là cô Huôi xinh đẹp. Hai người nầy vẫn giữ nhiều quyền hạn, can gián cậu Cẩu.
Anh ta nói:
– Người Lang Sa đóng quân ở chợ phố, ở cửa biển. Trong xóm hẻo lánh, nơi đồi núi, ai làm gì mặc kệ.
Cậu Cẩu hỏi:
– Nhưng chú mày đến tới đây để dọ thám?
Tư Thiện nhìn thẳng vào cô Huôi rồi cúi đầu:
– Tôi đến đây tìm mật và sáp ong, đem về bán lại cho thương gia ở chợ Rạch Giá. Thằng Thừa bắt sống tôi, lấy tiền bạc.
Cậu Cẩu quát to:
– Còn lá cờ tam sắc? Xứ của tôi mà tại sao người Lang Sa đem cờ tới cắm, không xin phép?
Câu hỏi bất ngờ ấy khiến Tư Thiện lúng túng. May thay cô Huôi lên tiếng:
– Cậu à! Đó là Tư Thiện muốn chứng tỏ lòng thành thật. Nếu là dọ thám thì ai ngu dại gì mang theo lá cờ cho thiên hạ thấy mà bắt sống. Vả lại, lá cờ tam sắc…chỉ là miếng vải có ba màu, như lá cờ ghi rõ tên một đoàn hát Sơn Đông mãi võ vậy thôi. Cây cờ đó đã vào tay cậu. Cậu cứ xé bỏ hoặc để dành coi chơi. Từ nãy giờ, tôi không nghi ngờ Tư Thiện. Đó là người mà cậu xài được, hoặc cho ghi chép sổ sách, hoặc cho luyện tập bọn hộ vệ. Nghe nói Tư Thiện có khẩu súng.
Cậu Cẩu thích chí:
– Tư Thiện hầu hạ tôi. Nay mai tôi đi chợ Rạch Giá một chuyến. Cây súng hư rồi, không có đạn.
Tư Thiện nói khéo:
– Thưa cậu, người Lang Sa chỉ cần tiền. Hễ cậu đem tiền tới là họ bán súng cho cậu…
– Ừ! Phải đó. Đem rượu ra uống chơi.
Bá Vạn rót rượu mời cậu Cẩu. Cậu Cẩu nói giọng kiêu hãnh:
– Tư Thiện uống đi, ta tha tội cho. Nhưng nói rõ những điều tai nghe mắt thấy. Chợ Rạch Giá, chợ Sàigòn, chợ Mỹ Tho lớn hay nhỏ so với chợ Hòn Chông của ta?
Tư Thiện đáp:
– Thưa cậu, chợ Sàigòn kém xa chợ Hòn Chông!
Câu nói khoác lác, nịnh bợ khiến cậu Cẩu sung sướng:
– Thật vậy sao? Nhưng Sàigòn có khác hơn chớ? Lang Sa làm cách nào mà vượt biển tới đây? Họ ăn uống như thế nào? Họ biết săn heo rừng không?
Bá Vạn và cô Huôi lắng tai nghe. Những chi tiết mà Tư Thiện sắp nói rất quan trọng. Cả hai hiểu rằng người Lang Sa quá mạnh dám dùng người. Ít nhứt là bên phía Lang Sa còn nhiều nhân vật tài ba hơn Tư Thiện.
Tư Thiện đáp:
– Người Lang Sa dùng tàu sắt. Lúc tàu chạy thì máy móc nổ ầm ầm, tàu chạy rẽ sóng, không cần chạy buồm hoặc chèo. Lúc chạy, tàu phun khói đen kịt, còn hơn con rồng. Họ ăn bánh mì dùng tay xé từng miếng nhỏ. Rượu thì chát, lạt hơn rượu đế. Chợ Hòn Chông nầy đẹp hơn Sàigòn về phong cảnh, có núi non hữu tình…
– Nhưng tại sao quân sĩ triều đình lại thua người Lang Sa?
– Dạ, họ có súng to, đứng xa một hai dặm, họ bắn trúng đích. Tàu sắt của họ chạy mau. Họ mang giày da…
Cậu Cẩu vỗ trán:
– Tại sao ta không giăng dây ngang sông mà cản mũi tàu?
– Tôi nghe đồn rằng trước mũi tàu họ có cái ống bễ và cái lò rèn nhỏ. Khi gặp dây sắt, họ thổi lửa lên, dây sắt chảy ra.
Cậu Cẩu buột miệng:
– Giỏi thật.
Tư Thiện nói thêm, để chứng tỏ lòng thành thật của mình:

– Còn giày da thì đi không vững khi gặp đất sình lầy. Ở Trung Lương – Mỹ Tho, quân sĩ triều đình chống cự, treo bảng cầu hiền. Có người đến dâng kế là lấy trái mù u khô, rải đầy mặt đường, tin rằng người Lang Sa phải trợt té vì dưới chân mấy trái mù u cứ lăn tròn.
– Rồi họ có té không?
– Không ai té hết vì trái mù u bị dập nát khi chiếc giày đạp lên! Hiện giờ, người Lang Sa mua bán khắp Nam kỳ Lục tỉnh.
Cậu Cẩu xám mặt lại, thấy nguy cơ sắp xảy ra. Nhưng chẳng lẽ cậu lo sợ trước mặt Tư Thiện! Cậu hơi run tay.
Cô Huôi biết rằng nếu để chậm trễ thì cậu Cẩu sẽ ăn nói hỗn láo hoặc ra lịnh xử tử Tư Thiện. Nãy giờ, cô đã có cảm tình và kính nể người mới đến. Tình thế đã thay đổi. Bá Vạn không còn đủ sáng suốt để ứng phó với chuyện rắc rối mà người Lang Sa sắp gây ra ở vùng Hòn Chông nầy. Tư Thiện mới đúng là người của thời cuộc. Cô nói rõ từng tiếng:
– Cho Tư Thiện ở căn nhà riêng. Mai chiều, ta nhờ Tư Thiện mua súng ống của quân Lang Sa. Tư Thiện có lỗi nhưng ta đang cần dùng…để làm tay sai.
Cậu Cẩu vui sướng, cười tươi tỉnh:
– Phải! Người giỏi như Tư Thiện chỉ đáng làm tay sai của ta. Bây giờ ta mệt, nên ăn uống cho khoẻ.
- 15 -
Bá Vạn ra khỏi cửa, muốn xuống ghe để về Vàm Rầy, thâu hồi lại mấy căn phố mà cậu Cẩu đã ra lịnh tịch thâu.
Mười Hấu mừng thầm vì thì giờ còn đủ để ông ta thi hành thủ đoạn. Lúc Tư Thiện trình bày về thực lực quân Lang Sa, Mười Hấu qui tụ bọn hộ vệ lại để nghe báo cáo về tổn thất ở núi Mo So.
Bọn hộ vệ cho biết là Bá Vạn đánh thắng quá dễ dàng. Mười Hấu nghĩ thầm:
– Cuộc phản loạn do thằng Thừa, tay sai Bá Vạn gây ra. Nhứt định đó là do lịnh của Bá Vạn. Ông ta chiến thắng vì thằng Thừa rút lui, để gây uy tín cho chủ cũ. Quả thật Bá Vạn là tay nguy hiểm. Phải giết mới được!
Vì lo cho tương lai cho đứa cháu ngoaị, Mười Hấu đề phòng trường hợp Bá Vạn chiếm tất cả quyền hạn ở Hòn Chông. Bá Vạn có sống thì không ích lợi gì. Ông ta dẹp loạn chăng? Loạn là do ông ta gây ra. Ông ta chết thì không còn loạn. Điều quan trọng vẫn là giết khéo léo không cần bày ra những cuộc săn heo như trước. Nếu bàn mưu kế với cậu Cẩu hay cô Ngó thì ắt gặp nhiều trở ngại. Cậu Cẩu làm ầm lên, Bá Vạn sẽ trốn hay ra tay trước. Cô Ngó thì có tình riêng với Bá Vạn nhưng lại ghen tương với bà chánh thất.
Mười Hấu nhớ đến cái chết của ông Chúa Hòn ngày xưa. Bước đầu vẫn là phục rượu, trong rượu có thuốc độc. Hình ảnh cái dĩa màu xanh hiện ra trong tâm trí Mười Hấu. Người lão bộc bảo rằng cái dĩa ấy sẽ biến màu sắc khi có món ăn giết người để vào.
Thuốc độc pha vào rượu thì giết người quá dễ dàng. Mấy tháng trước chính Mười Hấu đã trao cho cô Huôi bầu rượu để làm cho ông Chúa Hòn mất trí, tại căn chòi ở Lung Tràm.
Không chút do dự, Mười Hấu ra đón đường:
– Thưa ông Bá! Ông thắng trận, may quá.
Bá Vạn tin vào Mười Hấu:
– Nhờ trời vậy thôi.
– Nhà cửa của tôi ở núi Mo So ra sao?
– Cháy hết. Còn mấy cây cột và một miếng vách tường.
– Nhờ ông mà tôi còn được thể diện với dân chúng. Hôm nay tôi mời ông qua, ăn cơm uống rượu cho vui.
Trong lúc Bá Vạn do dự, ông Mười Hấu giới thiệu:
– Con gái tôi lo cơm nước. Nó nhắc ông hoài…
Hình ảnh duyên dáng cô Ngó hiện ra. Từ lâu, Bá Vạn chưa gần gũi với cô. So với bà chánh thất, cô còn trẻ hơn nhiều. Nhứt định là sau bữa ăn, Bá Vạn được dịp nói chuyện riêng với cô …
Bao nhiêu mệt nhọc đều tiêu tan khi Bá Vạn bắt đầu ngồi lên bộ ván cẩm lai. Mười Hấu nhớ đến gói thuốc độc đã từng có công hiệu ở Lung Tràm. Nhưng nếu bỏ thuốc độc vô rượu thì quá sớm. Cô Ngó đang ngồi trong phòng, gói thuốc để trong ngăn tủ. Cô sẽ phản đối việc làm ác độc ấy. Bá Vạn mà chết tại nhà này thì cô Huôi nổi giận ngay…
Bá Vạn nâng chén rượu, khen ngợi:
– Rượu ngon quá. Mời cô Ngó ra đây uống với tôi một chén.
Cô Ngó được dịp tốt để ra chào hỏi:
– Thưa ông! Lâu quá không gặp ông. Tôi thì hỏi thăm ông, ông chẳng bao giờ thăm tôi.
Bá Vạn biết rằng cô Ngó hờn ghen nên an ủi ngay:
– Tôi nghĩ đến cô nhưng tôi muốn tránh tai tiếng. Vả lại, tôi không rảnh rang. Nào là nhà cửa tài sản bị tịch thâu, nào là đánh Nam dẹp Bắc.
Cô Ngó đáp:
– Dường như ông thích nghỉ ngơi ở núi Đất! Bà chánh thất còn tu hành ở đó không?
Đôi mắt Bá Vạn liếc quanh, ngại ngùng vô cùng. Ông không muốn cãi vã những chuyện riêng tư trước mặt Mười Hấu. Mười Hấu lanh trí, nói ngay:
– Để tôi đi kiếm thêm vài con mực hoặc tôm khô.
Khi Mười Hấu vừa khuất nhà sau, cô Ngó lên giọng:
– Ba tôi vắng mặt rồi đó. Ông cứ trả lời đừng giấu diếm.
– Tôi …đi gặp ông đạo Đất để xem quẻ. Cô biết, tôi tin ổng, trước khi làm bất cứ chuyện gì.
– Bọn hộ vệ nói rõ rồi. Ông đừng chối. Ông ghé nhà ai?
Bá Vạn đáp:
– Thì ghé nhà bà chánh thất để thăm viếng. Bà đang tu…
– Tôi không tin. Ăn cơm rồi, ông đi đâu? Nơi ông ở laị một ngày một buổi…
Đột nhiên, cô Ngó nghe tiếng rít ken két phía trong buồng. Cô hỏi:
– Cái gì vậy?
Mười Hấu lính quính. Ông ta đang kéo cái ngăn tủ để lấy gói thuốc độc:
– Có gì đâu! Tao kềm cái …hũ rượu!
Cô Ngó cằn nhằn:
– Rượu gì trong đó. Rượu thuốc trên nóc tủ. Để con đem ra cho ba. Phải bắc ghế lên cao.
Cô Ngó vào buồng, trong lúc Mười Hấu đang đẩy nhẹ cái ngăn tủ. Cô chụp tay cha:
– Ba! Làm gì vậy?
Mười Hấu khoát tay. Cô Ngó đã hiểu. Nếu nói lớn tiếng hoặc cãi vã phản đối thì còn gì tình cha con. Nếu hiểu được ác ý đó, chưa ắt Bá Vạn còn mến thương cô như trước.
Đời cô gặp cảnh không may là ông Chúa Hòn chết sớm, người duy nhứt mà cô có thể gần gũi là Bá Vạn. Hoàn cảnh không cho phép cô đi tìm hạnh phúc với người khác, vì dư luận bên ngoài.
Ngỡ rằng cô Ngó chịu nhượng bộ, ông Mười Hấu rút nhanh gói thuốc độc. Nhưng cô cúi mặt, cắn vào tay cha. Ông Mười Hấu bèn bỏ gói thuốc vào hộc tủ như trước rồi trở ra với gương mặt tươi tỉnh:
– Uống rượu như vầy, kém vui.
Bá Vạn hỏi:
– Phải có ông tôi mới uống nhiều được! Ông làm gì mà cô Ngó phản đối?
– Có gì đâu! Tôi muốn đem ra một hũ rượu lớn. Nhưng con gái tôi ngăn cản, sợ rằng ông uống nhiều, say sưa. Muốn uống nhiều thì phải ăn cơm no dằn bụng. Con gái tôi xuống bếp thúc hối bọn nữ tỳ nấu cơm. Ông ở đây cho vui. Tôi qua nhà thằng cháu, kiếm vài miếng khô cá biển.
Nói xong, Mười Hấu đi xăm xăm qua nhà cậu Cẩu. Nhà đã khép cửa, ông cứ vô. Trong phòng, tiếng đờn tranh vang lên, từng âm thanh lảnh lót. Thấy ông ngoại của ông Chúa con nên bọn hộ vệ cứ chắp tay chào, không dám kiểm soát hành động của Mười Hấu.
Ông ta đến cái án thư, kiếm miếng giấy. Chưa hết, ông dòm dáo dác trong cái hộp nhỏ tìm chút ít son tàu. Ông cạo lớp mực khô dày trên cái nghiên bằng đá.
Dụng ý của ông là tìm một thứ bột đỏ để đánh tráo cô Ngó. Ông gói mớ son và mực ấy vào miếng giấy bản, bỏ vào túi.
Vừa sửa soạn bước ra, ông nghe cậu Cẩu quát mắng:
– Cô nầy tệ quá!
Xí Vĩnh trả lời:
– Xin cậu dạy em…
– Cô đẹp thiệt, nhưng ở gần cô, tôi không gặp chuyện gì may mắn hết! Nguời Lang Sa ở gần đây, tại sao tôi chưa đánh họ được? Xứ nầy là xứ của tôi mà! Tại sao thằng Tư Thiện bảo rằng chợ Hòn Chông không sung túc bằng chợ Sàigòn? Chắc là tụi Lang Sa …có nhiều vợ. Ừ! Con người có nhiều vợ, nhiều tì thiếp mới được. Ở mãi với một cô thì dễ u mê!
Mười Hấu nghe Xí Vĩnh trả lời:
– Thưa cậu, em đâu dám cản ngăn.
Cậu Cẩu đáp:
– Tao mời ông ngoại qua để hỏi việc nầy. Hộ vệ đâu?
Lập tức Mười Hấu lên tiếng:
– Ông đây! Cháu mời qua làm gì?
Cánh cửa hé mở. Xí Vĩnh cúi đầu chào ông Mười Hấu. Vì muốn nói chuyện riêng, cậu ra lịnh:
– Xí Vĩnh lo nấu nước cho ta tắm. Mấy ngày rày, sao ta bực bội quá.
Ông Mười Hấu ngồi xuống:
– Cháu mệt thì uống thuốc, sâm nhung thiếu gì?
Cậu Cẩu ngồi dậy, nắm tay Mười Hấu:
– Ông ngoại à! Mấy đêm rày cháu nằm chiêm bao thấy chuyện lạ quá. Đây là lần thứ chín, thứ mười rồi. Ba con hiện về đeo tòn ten trên nóc nhà, thòng đầu xuống, ổng le cái lưỡi dài thòng rồi hăm doạ:”Mầy chết! Mầy chết!”.
Mười Hấu gật đầu:
– Chắc là cháu mệt mỏi nên nằm chiêm bao. Từ rày về sau, ban đêm nhớ ngủ sớm…
– Nhưng mà ngủ không được. Hễ nằm gần con Xí Vĩnh thì ngủ không được! Không thay đổi thì tôi chết.
– Nói bậy đi!
– Nhưng ông ngoại phải dạy cháu điều gì? Bây giờ, sao mà nhiều bữa, gặp bất cứ ai cháu cũng thương. Nhưng mà nhiều bữa khác cháu muốn giết tất cả đàn bà con gái. Cháu là ông vua con. Cháu cưới năm mười con vợ…
Mười Hấu suy nghĩ thầm: “Xí Vĩnh là người của A Chúa và Bá Vạn. Nếu Xí Vĩnh cứ ở bên cạnh cậu Cẩu thì có ngày xảy ra chuyện lớn, trở tay không kịp”. Theo sự nhận xét của ông ta thì cuộc khởi loạn vừa rồi ở núi Mo So là cuộc dàn cảnh của Bá Vạn để trả thù cậu Cẩu. Bá Vạn sẽ tiếp tục trả thù, để chiếm đoạt tất cả quyền hạn, ngày nào mà ông ta còn sống.
– Nên tuyển chọn vài đứa tì thiếp. Ban đêm, nên ngủ một mình.
– Ông ngoại nói nghe được!
Mười Hấu hơi bực dọc vì lời khen vô lễ của đứa cháu ngoại. Nhớ đến Bá Vạn, ông Mười vội đứng dậy:
– Ông đi về. Cháu cứ ngủ cho khoẻ.

– Mấy thằng Lang Sa làm cháu phiền quá. Tại sao tụi nó giỏi hơn cháu…
Mười Hấu đi nhanh về nhà, thấy Bá Vạn nằm trên bộ ván gõ. Cô Ngó sai bọn tớ gái dọn cơm ra. Thừa lúc vắng bóng người, Mười Hấu vào phòng cô Ngó mở hộc tủ, lấy gói thuốc độc ra, đem cái gói có son và mực Tàu thay thế vào.
Bá Vạn chợt mở mắt:
– Ông Mười về đó hả? Nãy giờ tôi ngủ…
Mười Hấu nói:
– Ăn cơm chớ. Ông Bá rửa mặt cho tỉnh táo. Ngó đâu! Con đem rượu ra, ông Bá đòi uống rượu đó!
Phản ứng đầu tiên của cô Ngó là vào phòng, mở cái hộc tủ. Nhìn thoáng qua, cô tin rằng gói thuốc độc vẫn còn nằm ngay chỗ cũ.
Ngoài nầy, Mười Hấu sung sướng vô cùng:
– Ông Bá uống rượu!
Bá Vạn hơi nghi vì từ nãy giờ, Mười Hấu chỉ nói rượu. Nhưng Mười Hấu nhủ thầm:
– Mình ngu dại gì bỏ thuốc vào nước trà đậm. Uống rượu quá say, Bá Vạn không đủ tỉnh táo để phân biệt mùi vị nữa.
Bởi vậy Mười Hấu rót rượu ra chén, uống trước một hơi:
– Ngon quá. Bây giờ, mạnh ai nấy rót.
Bữa cơm kéo dài, Bá Vạn vui sướng vì cô Ngó ngồi bên cạnh, thúc hối bọn tớ gái đem thêm thức ăn. Để cho Bá Vạn khỏi nghi ngờ, ông Mười Hấu cứ đi tới đi lui, rót rượu thật nhiều, uống một cách tự nhiên.
Khi bữa cơm gần tàn, Mười Hấu nghĩ ra một thủ đoạn tinh vi:
– Từ lâu, tôi nghe danh ông đạo Đất. Phải chi ông đưa tôi tới đó, xem một quẻ.
Bá Vạn vẫn còn luyến tiếc, muốn được ở gần cô Ngó. Thỉnh thoảng, ông ở lại đây một đêm, thì chắc rằng không ai nghi ngờ gì cả:
– Ông đạo là người có tài. Nhưng bây giờ đi rồi trở về, e không kịp. Núi Đất là nơi sầm uất, có thể thằng Thừa tới khuấy rối. Chẳng lẽ ta đi xem quẻ mà đem theo quá nhiều quân hộ vệ. Cậu Cẩu sẽ than phiền.
Mười Hấu bèn bịa chuyện:
– Đêm rồi, tôi nằm chiêm bao thấy điềm kỳ lạ. Tôi bị rượt. Khi tôi vấp té thì phía sau lưng người rượt tôi lại biến mất. Nếu sợ nguy hiểm thì ta đi ngay, trời chạng vạng tối ta về, đừng ngủ tại đó. Hoặc là…
Bá Vạn hỏi:
– Ông Mười tính sao? Miễn là thuận lợi cho ông thôi. Hôm rày tôi hơi mệt, muốn tìm nơi nghỉ ngơi.
Mười Hấu hiểu ngầm rằng câu nói đó nhắm vào cô Ngó. Cô Ngó cúi mặt nói khéo:
– Vậy thì ông Bá cứ đi cho ba tôi vui.
Mười Hấu muốn thi hành thủ đoạn thật gấp. Ông sẽ bỏ thuốc độc vào rượu để Bá Vạn uống rồi chết trên đường đi núi Đất.
Trong khi đó, cậu Cẩu giết Xí Vĩnh.
Hai người nầy mà chết thì địa vị cô Huôi sẽ lung lay. Gia đình Mười Hấu nắm trọn quyền hạn những ngày sắp tới. Bá Vạn còn sống thì nhất định còn nhiều chuyện thay đổi đột ngột, vì ông ta làm quản gia quá nhiều năm, mua chuộc được bọn tay em và những người lớn tuổi trong vùng.
Mười Hấu nói:
– Theo ý tôi thì mình không nên quá rình rang. Hai bạn già xuống xuồng, đây qua có nước xuôi, chuyến về nếu cần thì mình kiếm vài đứa tiếp sức chèo chống. Đêm mười bốn có trăng, uống rượu vui biết chừng nào.
Cô Ngó nói thêm:
– Ông Bá Vạn cứ đi rồi khuya nay về.
Mười Hấu đến cái tủ ở góc nhà, tìm mấy bầu rượu ngon. Vì ao ước được gần gũi Bá Vạn, cô Ngó đến gần nói khẽ:
– Đêm nay tôi chờ ông. Nhớ về cho sớm và làm thế nào cho ba tôi uống rượu say. Nếu ông ở lân la tại nhà nầy, thiên hạ bàn tán bất lợi…Đi vắng mặt một buổi rồi trở về, êm ấm và kín đáo hơn.
Bá Vạn mừng thầm, nói nhanh:
– Đời tôi lúc nầy không màng công danh gì cả.
Mười Hấu mang bốn bầu rượu Ngũ gia bì. Việc đầu tiên mà ông ta làm để tránh mọi sự nghi ngờ là trao rượu cho Bá Vạn:
– Ông cầm lấy. Tôi xuống bếp kiếm vài con khô mực.
Hai người ngồi xuống chiếc xuồng nhỏ. Mười Hấu cầm dầm bơi sau lái, cố ý nói to cho hộ vệ đừng bàn tán, đòi đi theo:
– Đây là bơi xuồng trên rạch để uống rượu. Tụi bây theo làm gì? Khuya nay, tao về còn một tiệc khác để khao thưởng tụi bây.
Ra khỏi vùng đồi núi Hòn Chông, Bá Vạn hơi mệt mỏi vì nắng quá gắt. Thấy bóng hai cây me trước mặt, ông ta ngỏ ý:
– Mình ghé lại, uống thử một bầu cho mát.
- 16 -
Sau khi ra lịnh cho bọn tỳ gái dọn dẹp chén bát, cô Ngó vào phòng, cười tủm tỉm một mình. Cô muốn chải tóc rửa mặt, nhưng thấy trời còn sớm. Lâu rồi cô không được hưởng lạc thú yêu đương. Thuở ấy, ông Chúa Hòn chỉ gần gũi cô được mấy tháng rồi từ đó, ông cứ ôm lấy cô Huôi. Mười bảy năm rồi, đâu phải là khoảng thời gian ngắn!
Cô lấy cái thau bằng đồng, đổ nước vào để soi mặt. Dường như trán cô hơi nhăn. Nhưng cô tự an ủi:
– So với mình thì Bá Vạn lớn tuổi hơn nhiều. Bây giờ mình rửa mặt, chải tóc thì hơi sớm. Nên làm công chuyện khác, cần thiết hơn.
Hồi lúc mới về hầu hạ ông Chúa Hòn, cô được thưởng một gói trầm hương. Ông Chúa căn dặn cô nên đốt trầm, xông vào quần áo. Quả thật mùi trầm hương đầy quyến rũ.
Tiếc thay cô chỉ xông áo có ba bốn lần. Khi thằng Cẩu chào đời, cô bị xem như lỗi thời, ông Chúa cứ gần gũi cô Huôi vì cô là thần hộ mạng, đóa hoa còn tươi.
Cô đến gần tủ kéo mạnh cái hộc để tìm gói trầm hương. Trầm hương được chẻ ra từng que nhỏ cho dễ đốt, gói ấy khá to.
Đột nhiên, cô Ngó trố mắt. Cái gói thuốc độc dường như bị đổi chỗ. Hồi sáng, cô bắt gặp lúc cha cô toan lấy nó ra, để đầu độc Bá Vạn. Cô chụp gói giấy. Đúng là loại giấy bản còn mới trắng tinh. Mở gói ra, cô đưa lên mũi hửi.
Loại thuốc độc mà ông Chúa uống lúc đi săn heo rừng ở Lung Tràm có mùi thơm nồng, màu đỏ bầm. Nhờ vậy mà khi pha vào rượu, nạn nhân không bao giờ nghi ngờ, tưởng là rượu ngâm thuốc bổ. Mớ bụi đỏ đen trong gói giấy nầy còn quá tươi.
Cô đưa lên mũi, hửi nhẹ.
Không một mùi gì bốc lên cả!
Như vậy có nghĩa là cha cô đã đánh tráo, mang theo thuốc độc để giết Bá Vạn.
Nghi ngờ gì nữa! Cha cô bơi xuồng, không cần bọn hộ vệ, ra đi lúc trời còn nắng. Nếu Bá Vạn chết vì thuốc độc thì cô chịu trách nhiệm một phần lớn. Lúc nãy cô đã xúi giục Bá Vạn nên đi để trở về lúc nửa đêm. Ông chết vì quá yêu cô.
Nhưng nếu Bá Vạn không chết, tình thế càng rắc rối hơn. Ông tố giác với cô Huôi. Chừng ấy, những người cầm đầu ở Hòn Chông sẽ giết hại nhau, chia ra ba phe.
Lập tức, cô xuống xuồng gọi tên hộ vệ:
– Đưa tôi qua Hòn Đất!
Tên hộ vệ ngơ ngác hỏi:
– Thưa cô, đi ghe có mui, mát mẻ hơn.
Cô Ngó quát to:
– Đi xuồng lẹ hơn. Mấy chú cãi lời tôi sao chớ? Tôi có chuyện riêng…
Chiếc xuồng lướt nhanh. Lần đầu tiên bọn hộ vệ không hiểu tại sao ông Mười Hấu, Bá Vạn và cô Ngó lại trở về với nếp sống của dân nghèo, không có “tiền hô hậu ủng” như mọi khi. Dường như cô Ngó quá xúc động bối rối. Chiếc xuồng lủi vô bờ, cô vội cho mũi xuồng trở ra.
Bọn hộ vệ nói với theo:
– Cô để chúng tôi…
Cô Ngó không thèm trả lời.
Mặt trời xuống dần. Muỗi bay vo ve từ đám lau sậy bên bờ. Dân chúng cứ nhìn nhau mà chỉ chỏ bàn tán. Mặc kệ! Cô bơi mạnh không dám ngừng tay. Trời sắp tối. Cô hối tiếc vô cùng vì đã tính toán vụng về. Bá Vạn và ông Mười Hấu bơi xuồng đi trước, cả hai cầm dầm, xuồng của họ đi nhanh gấp đôi.
Cô đuổi theo quá chậm trễ, chắc giờ này ông Mười là cha cô đã đến Hòn Đất rồi, và Bá Vạn chỉ còn là cái xác không hồn.
Cô mừng thầm vì đã đến Doi Lửa, cách Hòn Đất không xa cho lắm. Gọi là Doi Lửa vì nơi đây khúc sông chảy quanh co. Nghe đâu, mấy trăm năm về trước, để đề phòng bọn cướp biển, quân sĩ đã bố trí nơi đây một chòi canh. Hễ thấy thuyền bè lạ vào bãi thì họ đốt lửa làm ám hiệu.

Cô Ngó gặp một chiếc ghe chở củi đi ngược chiều, nên vội hỏi:
– Thấy ai ở phía trước không?
Người trên ghe không nhận ra cô, nên trả lời vu vơ:
– Thiếu gì ghe xuồng…
Cô hỏi kỹ:
– Có chiếc xuồng hai người bơi…
Người trên ghe trả lời:
– Dường như có …ông Bá Vạn say rượu. Chẳng lẽ ông Bá lại ngồi trên xuồng?
Cô Ngó càng sợ sệt, hỏi thêm:
– Ông Bá ở đâu? Gần hay xa?
Người nọ đáp:
– Khó nói lắm. Dường như chiếc xuồng đậu gần đây. Cô là ai? Nếu tôi không lầm thì… Đời là vậy. Chắc là ông Bá Vạn buồn rầu, sau khi bị cách chức.
Cô Ngó không muốn phí thì giờ nên bơi nhanh hơn. Bên trái, sát đám cây, cô nhận ra chiếc xuồng không người. Mặt trời khuất hẳn. Cô chú ý một điều là chim cò bay bổng lên, đảo vòng quanh.
Tại sao có hiện tượng lạ? Chiều thì chim cò đáp xuống, để ngủ. Nhứt định là trong đám lau sậy có người nào đang làm náo động.
Phải chăng cha cô và Bá Vạn đang đánh đấm nhau? Bá Vạn chết rồi, cha cô đang đào huyệt để dấu xác?
Quá nóng nảy, cô la lớn:
– Ai đó? Ai làm gì trong đám sậy?
Đám sậy lại khua động xào xạc mặc dầu trời không nổi gió. Lập tức, cô cho xuồng lui vô bờ rồi chạy ngay vào đám sậy:
– Ai đó?
Cô la hoảng.
Từ trong đám sậy, một bóng người nhô ra:
– Ai?
Nhận ra ông Mười Hấu, cô Ngó kêu lên:
– Trời ơi! Cha giết ông Bá Vạn!
Mười Hấu hốt hoảng, nói khẽ:
– Con đừng nói lớn tiếng, gần đây có nhà cửa, thiên hạ nghe được thì sao?
Cô Ngó dậm chân.
– Trời ơi! Ổng ở đâu?
– Bá Vạn là cái gì mà con mến tiếc? À! Cha biết rồi. Bá Vạn tuổi tác đã cao, còn lớn hơn tuổi của cha.
Dụng ý của Mười Hấu tranh thủ thời giờ. Bá Vạn say mèm và bắt đầu mửa ra máu thì thuốc độc bắt đầu công phạt.
Lúc ngồi xuống xuồng, Bá Vạn kêu rú như con chó điên rồi đưa tay vào miệng mà móc tận cổ họng. Mười Hấu thấy có vài người bơi xuồng đến gần nên cương quyết cầm cây dầm, đập vào đầu Bá Vạn. Bá Vạn té xuống rạch. Mười Hấu vất vả lắm mới kéo Bá Vạn lên tận đám sậy này.
Giờ đây Bá Vạn đang hấp hối. Mười Hấu nói qua vấn đề khác:
– Con đi thình lình như vầy nguy hiểm lắm. Con có cho thằng Cẩu biết không?
Cô Ngó hỏi:
– Sao ba hỏi quẩn quanh vậy? Ông Bá Vạn đâu? Chôn tại đâu? Nhờ ổng nên ba với con được lên địa vị cao sang. Sao ba không nói?
Mười Hấu nói:
– Bá Vạn chết rồi! Cha mướn người quăng xác ông ta ngoài biển.
Đột nhiên, trong đám sậy có tiếng ụa mửa, tiếng rú vang ra. Vài cây sậy nằm xuống, gãy rôm rốp. Và bầy chim cò cứ bay lượn, kêu oang oác.
Cô đã biết sự thật, cắm đầu chạy vào giữa đám sậy. Biết chuyện đã vỡ lở, ông Mười Hấu chửi đổng:
– Con gái bất hiếu! Tao giết nó chỉ vì nó muốn giết tao. Tao về. Mầy ở lại rồi chết theo thằng già đó cho trọn đạo. Mất nết!
Nhưng cô Ngó không còn nghe thấy gì nữa hết. Bá Vạn nằm úp mặt trên mấy cây sậy bị dẫm nát, tóc rối nùi che khuất mặt mày. Ông đập chân thở hồng hộc như con trâu bị chọc tiết.
Quỳ bên cạnh, cô Ngó hỏi:
– Ông! Có sao không? Em đây..
Bá Vạn không trả lời. Cô Ngó sờ vào ngực ông ta, thấy còn nóng. Lập tức cô đỡ cho ông đứng dậy, nhưng ông không đi được bước nào cả. Cô đành kéo lết ông ra khỏi đám sậy, đưa xuống xuồng.
Giọng Mười Hấu quát to từ xa:
– Đưa nó về phía Hòn Đất. Hễ mầy đưa nó về Hòn Chông thì tao giết mầy. Nghe chưa Ngó?
Cô Ngó không trả lời, cố ý bơi để tìm xóm nhà đốt lửa lên hơ cho Bá Vạn, hoặc là kêu cứu với mấy ông thầy thuốc.
Tiếng chuông vang lên, ngân nga rồi dứt hẳn. Tiếng mõ tụng kinh dường như phảng phất trong sương đêm. Cô Ngó nhận ra dãy nhà trước mặt.
Cô kêu lên:
– Bà con ơi! Cứu người chết!
Dường như có người chạy lao xao trên bờ sông. Cô Ngó bơi nhanh hơn, kêu từng chập:
– Họ giết người! Ai biết thuốc thang thì cứu giùm…
Trên bờ, một bó đuốc chiếu sáng, nhờ vậy cô Ngó nhận ra bóng dáng hai, ba vị sư nữ. Và cô trố mắt, kêu rú:
– Bà.. ở đây! Ông Bá Vạn chết kìa!
Bà chánh thất nhận ra:
– Cô Ngó sao lạc tới đây? Ông Bá đâu?
Cô Ngó chỉ nhắm vào việc cần kíp là cứu Bá Vạn. Giữa cô và bà chánh thất, tuy tình cảm không được êm đẹp nhưng chưa xảy ra gây gổ hoặc hiềm khích sâu sắc. Cô nói:
– Bá Vạn bị …bọn hộ vệ đầu độc, mình còn nóng, có thể cứu được.
Bà chánh thất hốt hoảng:
– Am này là nơi thờ phượng. Vậy cô với tôi đưa ông Bá Vạn qua nhà riêng của tôi, bên nầy.
Bá Vạn vẫn nhắm mắt. Người hàng xóm hiểu rằng đây là cuộc tranh giành quyền hạn từ khi ông Chúa Hòn mất. Họ không thắc mắc cho lắm khi thấy hai người vợ của ông Chúa đang khiêng Bá Vạn.
Đèn đốt thêm ngọn, chiếu sáng.
Bá Vạn nghiêng mình qua một bên, nằm xuôi trên bộ ván. Bà chánh thất hồ nghi rằng đây là âm mưu của cậu Cẩu. Hỏi cô Ngó thì khó tìm ra sự thật. Phải cứu Bá Vạn!
Bà nói:
– Bây giờ chỉ còn ông đạo Đất là biết thuốc men điều trị, nhưng ở quá xa…
Cô Ngó cứ bóp chân Bá Vạn:
– Thưa…hay là bà đốt lửa. Xin bà thương xót giùm tôi…
Bà chánh thất sực nhớ đến phương pháp cổ truyền để cứu bệnh nhân là nấu nước nóng, cho uống vài lát gừng sống:
– Uống rượu có thuốc độc, phải không? Nấu nước thêm ở dưới bếp. Chụm thêm bếp lửa, để dưới bộ ván…
Bá Vạn bỗng nhiên mở mắt. Cô Ngó mừng quýnh:
– Ông…
Nhưng Bá Vạn bị nấc lên, máu trào ra từ khoé miệng, đôi mắt lại nhắm, hai chân co lên. Bà chánh thất hỏi:
– Nhờ hơi nóng ở dưới bộ ván xông lên đó.
Cô Ngó đến cái tủ, kiếm gừng sống trong cái thố nhỏ.
Chén nước gừng bốc hơi nồng ấm khiến Bá Vạn đổ mồ hôi. Khi mở mắt ra, ông không cản ngăn được hai hàng nước mắt. Không cảm động sao được!
Bá Vạn sống đến tuổi già không lấy vợ, không có con, lúc nguy nan hấp hối, ông được diễm phúc là được nằm giữa hai bà goá phụ của ông Chúa Hòn, cả hai đều là người yêu.
Nhưng ông khóc, có lẽ vì chua xót, cô độc và hối hận. Ông cất tiếng:
– Hai cô đừng buồn.
Bà chánh thất nắm tay ông, van nài:
– Ai đã giết ông? Tôi hứa trả thù.
Bá Vạn day qua cô Ngó. Cô Ngó để rơi hai hàng nước mắt gần như xin lỗi, nhờ ông khoan hồng đừng nói ra danh tánh ông Mười Hấu.
Bá Vạn nói phều phào:
– Thù thì phải trả. Nhưng ta lớn tuổi rồi. Trả mà làm gì? Nói ra vô ích. Ta …tha thứ cho người đã hại ta.
Rồi ông khóc rống lên:
– Ta đã tham lam. Sống thêm vài năm nữa chẳng ích lợi gì. Những người tham lam giết ta để sống…chưa ắt họ sung sướng. Ngoài biển, mấy con cá kình nổi lên, có lá cờ tam sắc. Ông đạo Đất nói đúng.
Rồi Bá Vạn ho lên, mồ hôi tươm ra ướt trán, máu thắm đỏ môi.
Bà chánh thất nói:
– Để tôi đưa ông gặp ông đạo Đất. Đường không xa lắm đâu.
Bá Vạn trợn mắt rồi cau mày lại:

– Chết…Thế nào tôi cũng chết. Ông đạo Đất đoán rằng trước khi chết, tôi qua một giai đoạn sáng sủa. Đó là…tôi dẹp loạn ở núi Mo So. Đó là…hôm nay. Cám ơn hai cô.
Bà chánh thất đoán chừng căn bịnh không quá nguy ngập nên muốn có thái độ cứng rắn:
– Ai giết ông? Tôi chở ông về Hòn Chông cho dân chúng hay rằng ông bị kẻ hèn hạ giết hại.
– Thôi…
Rồi Bá Vạn nằm im, nhắm mắt. Ông trở nên tỉnh táo lạ thường. Dạo trước, ông Chúa Hòn đã chết vì loại rượu thuốc nầy, do ông sắp đặt kế hoạch đầu độc và ám sát. Hôm đó, ông không có mặt ở Lung Tràm nhưng chắc chắn là ông Chúa Hòn đã nhào lăn, hộc máu từng chập như ông.
Mắt ông như tối lại.
Kìa! Một người ngoài cửa bước vô. Đúng là ông Chúa Hòn. Cậu Hai Điền theo sau. Hai người nầy bước chập chờn, chân không dính đất.
Họ mặc quần áo tang, thân hình gầy guộc. Họ cười không ra tiếng. Gió nổi lên ào ào. Bỗng nhiên, ông Chúa Hòn rút ngọn đoản đao, chạy tới. Bá Vạn đưa tay đỡ, té xuống.
Ông ta kêu lên:
– Nó giết tôi!
Bà chánh thất hỏi:
– Nó là ai?
Bá Vạn phều phào:
– Là…cuộc đời tội lỗi của tôi. Thôi, ông đạo Đất nói đúng. Mọi người đều trở về Đất…
- 17 -
Cô Huôi ngồi trầm ngâm khi hay tin Bá Vạn chết. Mười Hấu cho rằng ông Bá chết vì bệnh cảm mạo, nhưng cô Huôi không tin.
Cô khéo che giấu sự lo âu, ra lịnh cho Mười Hấu:
– Nhớ chôn cất kỹ lưỡng, dựng mộ bia, làm tuần bảy ngày, mười bốn ngày. Dầu sao đi nữa, Bá Vạn cũng là người có công trong gia đình.
Mười Hấu hỏi thêm:
– Cô là người lớn nhứt. Vậy đem ai thay thế Bá Vạn?
Cô Huôi nói chậm rãi:
– Chẳng ai thay thế được cả. Bây giờ, ta chỉ cần một người ghi chép sổ sách. Bọn tá điền cứ vay nợ liên miên. Nợ cũ chưa dứt là vay thêm nợ mới. Tạm thời, nên cho Tư Thiện lãnh công việc ghi chép.
Mười Hấu hỏi khẽ:
– Người đó đáng tin không?
Cô Huôi muốn nâng đỡ Tư Thiện để có người sớm hôm đàm đạo:
– Đáng tin về việc ghi chép sổ sách, vậy thôi. Hay là ông nghi ngờ rằng Tư Thiện làm phản, đưa bọn Lang Sa tới đây? Ta kiểm soát việc làm của Tư Thiện mà. Anh ta đâu có làm dọ thám mà sợ! Bọn Lang Sa đến đây làm gì? Ta trọng dụng Tư Thiện tức là người Lang Sa hài lòng rồi. Nay mai, nếu người Lang Sa muốn mua bán, ta sẵn sàng. Và ta nhờ Tư Thiện mua súng đạn.
Lý luận ấy khiến Mười Hấu khá an tâm. Ông ta chẳng đủ thông minh để nhìn xa. Điều cần thiết vẫn là để cho cậu Cẩu nắm trọn quyền hạn, để lần lần lấn hiếp cô Huôi. Hiện giờ, cô Huôi chưa có tội tình gì cả. Khi nhìn cô, Mười Hấu đâm ra kính nể và sợ sệt. Nếu không có cô, ắt giờ nầy cậu Cẩu chỉ là chàng trai cờ bạc ở núi Mo So, ông Mười chỉ là một nông dân dư ăn dư xài.
Hơn nữa chưa bao giờ cô Huôi tranh giành quyền hạn. Trong lúc tiếp xúc với Mười Hấu, cô tỏ ra khiêm tốn lạ thường.
Mười Hấu hỏi thêm:
– Theo ý cô thì cậu Cẩu phải làm gì?
Cô Huôi đáp:
– Cậu là…ông Chúa Hòn rồi, nắm trọn quyền trong tay, nên làm thế nào cho người chung quanh kính nể.
Khi Mười Hấu vừa bước ra, cô nói thêm:
– Tôi thì muốn đi tu, về nhà sống với cha mẹ, sáng thì trồng bông hoa, chiều thì ra ngoài ruộng, xem cảnh chim bay về núi. Nhớ nhà quá.
Mười Hấu lo sợ, day lại:
– Thưa cô! Cô nên ở lại. Cậu Cẩu còn nhỏ dại. Cô là người lớn hơn mẹ ruột nó.
Cô Huôi nói rõ từng tiếng:
– Đó là lời mời của ông. Ông nhớ giùm. Tôi đã chán tất cả…
– Cậu Cẩu là cháu ngoại tôi, tôi nói, nó tin lời.
Khi Mười Hấu vừa đi khuất, cô Huôi đứng dậy, đến trước sân, lòng mừng khấp khởi. Cô gọi tên hộ vệ:
– Mở cửa ngục ra cho Tư Thiện tới đây. Bảo rằng ngồi mà chờ ta.
Rồi cô căn dặn tên hộ vệ thứ nhì:
– Qua nhà cậu Ba, mời cậu đến. Không có thì gọi cô Xí Vĩnh.
Ngồi trên sạp, cô Huôi nghĩ đến kế hoạch sắp tới. Sau khi Bá Vạn chết, quả thật địa vị của cô hơi lung lay, tuy còn vững. Mười Hấu kính nể cô nhưng tình thế đã khác trước.
Nếu không biết lo xa, một ngày nào đó cậu Cẩu và Mười Hấu sẽ hại cô. Lại còn tai họa khác lớn hơn đang bao trùm vùng Hòn Chông. Cô tin rằng quân Lang Sa sẽ kéo đến sau khi rảnh tay ở các tỉnh lỵ Rạch Giá, Hà Tiên.
Tên hộ vệ đến gần, chắp tay thưa:
– Tư Thiện tới kìa! Thưa cô…
– Cho vô đây!
Vừa thấy mặt cô Huôi, Tư Thiện chắp tay xá, ngỏ lời cám ơn. Hỗm rày, vì kính nể Tư Thiện, cô Huôi đã khuyên bọn hộ vệ đối xử tử tế. Tư Thiện được ăn uống no đủ, quá ngon.
Anh ta cúi đầu:

– Xin cô giúp tôi…được sống thảnh thơi hơn, có công ăn việc làm. Tôi là người ham thích mua bán.
– Ngồi đó!
Cô Huôi chỉ cái ghế vuông, cẩn đá cẩm thạch. Tư Thiện mừng thầm nghĩ rằng đã gây được cảm tình với người đẹp.
Anh ta nói:
– Cám ơn cô! Đây là ơn huệ. Nếu không có cô thì hỗm rày chắc là tôi bị chết chém vì cậu Cẩu rồi.
– Đừng nói vậy! Cậu Cẩu là người ưa giận hờn. Cậu muốn xem tất cả mọi người như bọn tay sai trung thành. Muốn lãnh việc ghi chép sổ sách không?
– Dạ, còn gì may mắn hơn. Nhờ cô…
Cô Huôi nói:
– Gặp người hoạn nạn, tôi giúp đỡ. Từ lúc nầy, tôi gọi chú…bằng chú. Lát nữa, cậu Cẩu tới… Cậu ham vui, ưa biểu diễn oai quyền… Chú muốn được trọng dụng thì nên bày những trò chơi để cậu tiêu khiển.
Một tên hộ vệ bước vào:
– Thưa cô!…Xí Vĩnh tới.
Cô Huôi nhìn Tư Thiện với đôi mắt trìu mến:
– Chú là người thông minh. Tôi mong được gặp chú để nói thêm nhiều chuyện. Sống như tôi buồn lắm. Phải chi tôi được rảnh rang, đi đó đi đây như người khác! Tôi không được quyền tái giá, trong lúc nầy.
Tư Thiện sung sướng vô cùng, đứng dậy chắp tay xá. Cô Huôi nói với tên hộ vệ:
– Dẫn chú nầy qua gặp ông Mười, nói rằng nên để chú ở tại nhà Bá Vạn lúc trước. Bá Vạn chết, chú nầy tiếp tục ghi chép sổ sách.
Tư Thiện theo tên hộ vệ. Và khi Xí Vĩnh vào phòng, cô Huôi vội đóng cửa lại:
– Xí Vĩnh! Biết tôi không? Trước khi Bá Vạn căn dặn những gì? Bây giờ ông chết rồi…
Xí Vĩnh cau mày. Đã đến lúc nó nói tất cả sự thật:
– Thưa cô…Bá Vạn khuyên tôi nên trả thù ngay khi còn sống. Hai ngày rày, cậu Cẩu thay đổi tánh ý bất thường, đòi đánh tôi.
– Hồi nãy, cậu Cẩu thức hay ngủ?
Xí Vĩnh đáp:
– Cậu nằm lim dim rồi sai tôi tới gặp bà.
– Được lắm. Bây giờ, ta nói chuyện thật mau. Xí Vĩnh có hai chuyện làm. Một là đi xứ khác mà ở, hai là ở lại đây để làm chuyện nguy hiểm. Đi xứ khác thì dễ nhưng quá hèn nhát. Con người sớm muộn gì cũng chết. Xí Vĩnh biết tại sao Bá Vạn chết không?
– Thưa bà, theo chỗ con hiểu thì ông Bá Vạn quá hiền lành chậm chạp. Trước kia, ông Bá khuyên con nên kiên nhẫn chờ cơ hội trả thù, có bà giúp đỡ.
Cô Huôi thấy rằng Xí Vĩnh là đứa khôn ngoan và khá can đảm, giữ được lòng trung thành đối với chủ.
– Ta buồn vì không cứu được Bá Vạn. Nhưng ta còn đủ thời giờ để trả thù.
– Thưa bà, bằng cách nào?
– Chỉ có một cách là dùng thuốc độc bỏ vào rượu hoặc thức ăn. Nếu thất bại, Xí Vĩnh có thể chối cãi.
– Chừng nào ra tay, thưa bà? Con hơi lo sợ vì hỗm rày cậu Cẩu ngủ mơ, chửi mắng con thậm tệ, lắm khi lại đánh đập. Nếu ra tay chậm thì chắc là con bị bắt hoặc không còn được trọng dụng, làm sao còn hoàn cảnh thuận lợi ở gần cậu Cẩu.
Rồi nó nói khẽ:
– Thuốc độc ở đâu? Bà có sẵn trong nhà?
– Có chút ít nhưng chưa nên đem dùng. Khi nào cần, ta đưa cho. Nên chờ dịp nào đông người, bày yến tiệc linh đình. Chừng đó, chẳng ai biết thủ phạm. Thôi về đi. Cậu Cẩu hỏi thì bảo rằng ta muốn bày ra cuộc vui chơi để ăn mừng ngày cậu nắm trọn quyền hành, không còn bị Bá Vạn chia sớt quyền hạn như trước.
Ra khỏi sân nhà cô Huôi, Xí Vĩnh gặp ngay ông Mười Hấu. Nãy giờ, ông Mười theo dõi Xí Vĩnh nhưng ông ta không dám vào nhà để nghe lén…
Gặp ông Mười Hấu, Xí Vĩnh chắp tay chào, gương mặt kém bình tĩnh:
– Thưa ông!
Mười Hấu muốn chận đường để điều tra, hạch hỏi nhưng làm quá sớm thì khó nắm bằng cớ. Trong thâm tâm, Mười Hấu biết rằng cô Huôi không quí trọng cậu Cẩu. Bề ngoài, cô tỏ ra hiền lành nhưng biết đâu cô ôm ấp nhiều tham vọng. Tư Thiện là người bị cầm tù, ấy thế mà cô Huôi muốn ưu ái, cho ăn uống tử tế.
Mười Hấu suy luận:
– Cô Huôi và Tư Thiện sẽ liên kết nhau để tạo thế lực, chờ khi thuận tiện là ra tay giết cậu Cẩu. Cuộc gặp gỡ lúc nãy nhất định là có nhiều ý nghĩa, vì Xí Vĩnh là người thân cận của Bá Vạn. Lũ ca nhi sống bừa bãi, nay làm tình với chủ, mai làm tình với bọn tôi tớ.
Xí Vĩnh vào nhà, đến phòng cậu Cẩu là thấy tên hộ vệ đến.
Cậu Cẩu vẫn ngủ lim dim. Xí Vĩnh nói:
– Đưa phong thơ cho ta.
Tên hộ vệ đáp:
– Đây là của bà.
“Bà” tức là cô Huôi. Trong khi Xí Vĩnh còn do dự chưa biết có nên đánh thức cậu Cẩu hay không, thì cửa phòng lại mở. Mười Hấu bước vào:
– Cái gì vậy?
Cậu Cẩu giựt mình, nhìn Xí Vĩnh rồi nhìn ông Mười Hấu.
– Lạ quá, tôi nằm chiêm bao. Hửi mùi gì kỳ cục quá. Cho tôi uống rượu. Tay chân nó sưng vù lên…
– Cháu ơi! Có lá thơ..
Rồi ông tự ý khoát tay, đuổi Xí Vĩnh ra ngoài. Ông mừng thầm vì cậu Cẩu không có phản ứng gì cả.
– Ừ! Thơ của ai? Tôi biết chữ nghĩa gì đâu. Ông ngoại đọc giùm coi…Hôi thúi quá…
Rồi cậu nhăn mặt, nói tiếp:
– Tôi thấy Bá Vạn hiện về. Bá Vạn cầm cái chén liệng vô mặt tôi. Tôi chụp cái chén, liệng ngược lại trúng ngay đầu Bá Vạn. Ông ta xỉu, xương thịt rã tan, dưới đất chỉ còn một vũng nước tanh hôi.
Ông Mười Hấu giở lá thư ra xem. Đó là cô Huôi ngỏ ý với cậu Cẩu để cho Tư Thiện làm việc ghi chép sổ sách. Ngoài ra Tư Thiện không có quyền hạn gì cả. Nếu dư tiền Tư Thiện chỉ có thể mua bán với những nơi ở ngoài vùng Hòn Chông. Tư Thiện không được mua ruộng đất, nuôi nấng tá điền.
Ý kiến ấy được cậu Cẩu tán thành:
– Phải khác với Bá Vạn! Xứ nầy tôi là ông vua nho nhỏ, đừng có thằng nào đòi án bóng tôi. Ông ngoại à! cô Huôi còn nhắn điều gì không?
– Còn nữa. Cô khuyên nên bày ra cuộc lễ để ăn mừng ngày Bá Vạn không còn quyền hạn.
Cậu Cẩu vỗ tay như đứa bé:
– Phải lắm. Như vậy là cô Huôi muốn giết Bá Vạn từ lâu. Nhưng ông ngoại à, tại sao Bá Vạn trúng gió chết? Tôi nằm chiêm bao, thấy Bá Vạn hiện về mấy lần rồi. Chắc là ổng chết oan. Ổng liệng cái chén, tôi chụp được!
Trả lời câu hỏi ấy là vấn đề quá tế nhị. Hôm kia ông Mười chỉ thuật lại sơ qua trường hợp của Bá Vạn, nói láo là bịnh cảm mạo. Bá Vạn hiện về trong giấc ngủ của cậu Cẩu, phải chăng Bá Vạn khá linh thiêng và cậu Cẩu có linh tính?
Phải chăng Bá Vạn đang tìm cách trả thù? Bá Vạn chết rồi, người trả thù chính là Xí Vĩnh và cô Huôi, chớ còn ai xa lạ.
Xí Vĩnh đã từng hầu hạ Bá Vạn. Cô Huôi thì muốn mượn tay Bá Vạn để lấn hiếp cậu Cẩu.
Ông Mười Hấu nói:
– Cháu à! Nên đề phòng …con Xí Vĩnh.
– Thì ông ngoại nói nhiều lần rồi. Cháu muốn giết nó nhưng gẫm lại thì tội nghiệp.
Mười Hấu cau mày. Cậu Cẩu là người thay đổi tính tình bất ngờ. Lúc cao hứng cậu sẽ…đứng về phe cô Huôi. Mười Hấu suy nghĩ về cái chén của Bá Vạn ném cậu Cẩu trong giấc chiêm bao.
Ông nhớ cái chén màu xanh nước biển mà người lão bộc cho rằng kỳ diệu, đề phòng được những vụ đầu độc. Hay là cô Huôi và Xí Vĩnh bày ra chuyện đầu độc để trả thù cho Bá Vạn? Làm cách nào cho cậu Cẩu đuổi Xí Vĩnh ra khỏi nhà thì ông Mười Hấu mới yên tâm. Tuy còn vương vấn nhưng cậu Cẩu không còn quí mến và si mê Xí Vĩnh như lúc trước.
Ông Mười Hấu nói:
– Cháu à! Con Xí Vĩnh mới gặp cô Huôi lúc cháu ngủ say. Nãy giờ nó có thuật lại cho cháu nghe điều gì không?
Cậu Cẩu day lại:
– Đâu có.
Mười Hấu bèn chọc tức đứa cháu ngoại:
– Như vậy là hỗn hào, dám qua mặt cháu! Xưa nay chẳng ai được quyền thay mặt ông vua để làm bất cứ chuyện gì. Huống hồ con Xí Vĩnh là đứa ca nhi. Nó làm lộng rồi đó. Ông lo quá. Từ khi Bá Vạn chết đến giờ, cô Huôi với con Xí Vĩnh cứ bàn chuyện riêng.
Cậu Cẩu nhăn mặt, rót nước trà uống rồi cằn nhằn.
– Khó dữ đa! Khó dữ đa!
Rồi cậu đổi giọng:
– Ông ngoại thấy cháu xứng đáng làm ông vua không?
Mười Hấu trả lời:
– Vua ở ngoài Huế. Cháu là ông Chúa, làm vua ngay vùng đất…không nhỏ.
– Vậy thì cháu phải giết con Xí Vĩnh. À! Cháu nhớ rồi…Từ khi nắm bao nhiêu quyền hạn trong tay, cháu chưa giết người nào …để lấy máu thị oai…
– Khó lắm, đừng làm cho cô Huôi nổi giận.
Nghe nói đến cô Huôi, cậu Cẩu cứ vò trán suy nghĩ. Thật ra, cậu kính nể cô. Chưa bao giờ cô rầy rà hoặc khuyên dạy cậu với lời lẽ gay gắt. Chưa bao giờ cô đòi hỏi tiền bạc. Nếu muốn gây gổ thì chưa có lý do.
Cậu Cẩu nói:
– Cháu chém đầu con Xí Vĩnh thì biết cô Huôi hiền hay dữ.
– Nhưng lấy bằng cớ gì để chém đầu nó? Muốn chém phải cho cô Huôi biết trước…Muốn làm gì, cháu nhớ cho ông biết trước.
Cậu Cẩu đáp:
– Ngày nay hoặc ngày mai là có chuyện lớn.
Khi ông Mười Hấu ra về, cậu Cẩu ra sân, nhìn kỹ từng tên hộ vệ. Xí Vĩnh ngồi trên cái đôn sành ở góc sân. Nó nhảy mũi, rồi ho lên một chuỗi dài. Cậu Cẩu thích chí, nhủ thầm:
– Mình có bằng cớ!
Cậu ra đến cổng. Bọn hộ vệ theo sau. Có đứa nói:
– Thưa cậu, cậu muốn đi đâu? Tụi tôi chèo ghe cho cậu, bất cứ lúc nào.
Gió thổi mát rượi, cậu Cẩu chợt nhìn về bên phải. Ngôi nhà dành cho cô Huôi hiện ra sừng sững. Dường như Tư Thiện ngồi trước mé sông để gảy đàn tranh. Tư Thiện và cô Huôi đều là người khôn ngoan đáng sợ. Cậu Cẩu nghĩ tới mình, tới mẹ và ông ngoại. Tất cả đều dốt nát, không biết chữ nghĩa tính toán.
Muốn sống thì nên triệt hạ đám người khôn ngoan ấy. Nên giết con Xí Vĩnh trước để hăm dọa cô Huôi và Tư Thiện, thử xem họ đề phòng cách nào?
Vào sân cậu truyền lịnh:
– Xí Vĩnh! Đem cái ghế cho ta ngồi.
Xí Vĩnh lại nhảy mũi và ho. Cậu Cẩu day lại. Dạo nầy dường như Xí Vĩnh kém đẹp. Hốc hác quá chừng. Giết là phải. Xí Vĩnh đã bán rẻ trinh tiết cho Bá Vạn chăng?
Nghĩ tới đó, cậu Cẩu nói gắt:
– Đánh trống lên! Hộ vệ đâu?
Xí Vĩnh vào trong, đem cái ghế ra để bên cạnh cậu Cẩu. Lần nầy cậu giận xám mặt, dường như có thể Xí Vĩnh là cặn bã của Bá Vạn.
Cậu nói:
– Thằng nào mà đánh trống hoài vậy? Tao biểu đánh một hồi rồi dừng tay.
Tên hộ vệ chắp tay, cúi đầu:
– Thưa cậu, tôi chưa rành…
– Đánh trống để gom bọn hộ vệ lại đây cho ta dạy việc. Gom lại đủ chưa?
Tên hộ vệ đáp:
– Dạ, đủ rồi.
– Quỳ xuống! Đứa nào còn đứng đó? Tao chém bây giờ!
Bầu không khí trở nên khó thở. Chưa bao giờ cậu Cẩu ra lịnh đánh trống, hăm he chém giết như hôm nay. Phải chăng cậu nổi cơn điên. Ai nấy đều mong sự rắc rối nầy chỉ là tạm thời, vì hết cơn mưa thì trời lại nắng ráo.
– Đứa nào chưa quỳ? Thằng nào lại gần tao cho lịnh…
Đột nhiên, cậu Cẩu ưỡn ngực, đi tới đi lui.
– Ừ! Quỳ như vậy mới đúng phép tắc. Tao nói cho tụi bây biết: Hỗm ray, tao là người ham vui. Nhưng xung quanh đây, nhiều người phá tao. Thí dụ như ông Bá Vạn. Tao là người “chơn mạng đế vương”. Bởi vậy cho nên ông Bá Vạn chết…vì tay tao.
Xí Vĩnh giận sôi gan, vì chưa bao giờ cậu Cẩu hống hách đến mức ấy. Nó cúi mặt, đứng gần cái ghế.
Cậu Cẩu bèn chỉ vào mặt Xí Vĩnh:
– Sao chưa quỳ! Ai cho mày đứng?
Xí Vĩnh nén cơn giận, chờ dịp khác đến gặp cô Huôi để xin chút ít thuốc độc, đem về giết cậu Cẩu cho xong.
Xí Vĩnh quỳ chậm rãi rồi lấy tay che miệng mà ho rồi nhảy mũi.
Cậu Cẩu nói:
– Nín! Tao đang nói chuyện mà bày ra chuyện ho hen. Muốn kiêu ngạo tao sao chớ!
Xí Vĩnh chắp tay lại:
– Thưa Cậu, em lỡ dại.
– Mầy kêu tao bằng cái gì? Tao là ông. Nghe chưa?
Day qua bọn hộ vệ, cậu Cẩu nói:
– Tao là ông. Từ nầy về sau, đứa nào ho hen, nhảy mũi trong lúc tao nói chuyện thì tao chém đầu. Nghe cho rõ rồi đề phòng, kẻo chết oan như lão Bá Vạn.
Xí Vĩnh trợn mắt, từ trong lồng ngực dường như cơn ho sắp tuôn ra, cổ họng ngứa ngáy lạ thường. Làm sao ngăn cản trận ho nầy cho được?
Xí Vĩnh mím môi, đưa hai tay lên miệng. Nếu tiếng ho vang ra trong trường hợp nầy, ắt là cô mang tội phạm thượng, vì dường như cậu Cẩu bày ra luật lệ ấy để áp dụng riêng cho cô ta thôi.
Cậu Cẩu day lại khi nghe có tiếng gầm gừ phía sau.
Xí Vĩnh trợn mắt. Cơn ho muốn chui ra khỏi cổ họng, toàn thân cô run rẩy, mồ hôi tuôn ra trên trán. Đoán chừng khó đè nén được cô ta day mặt qua một bên, hy vọng rằng nếu ho ra tiếng phía sau cậu Cẩu thì tội vạ sẽ nhẹ hơn.
Vì nín ho nên cô nín thở. Cô cắm đầu, toan chạy trốn. Bên góc sân có cái lu nước. Cô đến đó, lấy một tay giở nắp lu ra.
Nắp lu rơi bể trên nền gạch. Tiếp theo đó là một loạt tiếng ho.
Biết mình đã phạm tội nầy, Xí Vĩnh quỳ xuống nhắm mắt lại như ngất xỉu tại chỗ.
Bọn hộ vệ nhìn nhau. Gương mặt cậu Cẩu trở nên tái ngắt.
Trường hợp này quá tế nhị. Có thể là cậu Cẩu bỗng dưng cười dòn, ban lượng khoan hồng. Nhưng rất có thể là cậu ra lịnh xử tử Xí Vĩnh để thị oai.
Cậu bước tới quát to:
– Mày làm gì vậy?
Ông Mười Hấu đến kịp thời, nói nghiêm giọng:
– Nó ho lớn tiếng sau khi cháu ra lịnh nghiêm cấm. Như vậy còn gì là oai quyền.
Cậu Cẩu đến gần Xí Vĩnh:
– Con kia!
Vì quá sợ, Xí Vĩnh nín thinh. Cậu Cẩu day lại ông Mười Hấu:
– Làm sao?
Ông Mười Hấu không bỏ lỡ cơ hội để dò xét phản ứng của đối thủ lợi hại nhứt là cô Huôi:
– Nó không trả lời. Nó ho lớn tiếng. Nó làm ô uế cái lu nước. Như vậy là có tội.
Cậu Cẩu lại chống nạnh, nhìn bọn hộ vệ:
– Đem giam nó sau nhà cho tao. Ngày mai, tao giết nó. Giết nó tại sân này thêm ô uế. Phải đem xuống bếp.
Hai hộ vệ lại gần Xí Vĩnh, kéo lết cô ta đem ra phía sau nhà.
Khi cậu Cẩu vào trong thì bọn hộ vệ từ từ xuống bến, dụm ba mà bàn tán. Nhưng cậu Cẩu lại trở ra sân, cười dòn nghe ghê rợn:
– Bá Vạn giết cuộc đời con gái của Xí Vĩnh thì ta cũng không thua Bá Vạn. Tụi bây biết tại sao không?
Đôi mắt trợn trắng của cậu Cẩu khiến bọn hộ vệ hoảng sợ. Không khéo cậu sẽ ra lệnh xử tử thêm vài người nữa.
Thấy không ai trả lời, cậu đi thẳng xuống bến, nói vu vơ:
– Ủa! Tụi bây khi rẻ tao sao chớ? Tao không xứng đáng làm ông Chúa Hòn sao chớ? Hôm nay tao lên ngôi. Tao biết xung quanh đây có người coi tao như đứa con nít, thua tài thua trí Bá Vạn.
Rồi cậu nắm tay một đứa hộ vệ:
– Sao? Trả lời thử coi.
Đứa hộ vệ run rẩy:
– Dạ, cậu hỏi, con không nghe rõ…
– Ủa! Tao chém mầy bây giờ? Tao nói mà mầy không thèm nghe. Mầy có hai tội đáng chết. Một là kêu tao bằng “cậu”. Tao là “ông”. Nghe chưa? Còn tội thứ nhì là khinh thường lời nói của tao. Tao phạt sơ sơ cho mầy sợ. Ngày mai tao chém mầy. Trước khi chém, tao hành hạ tới mức. Tánh tao là vậy. Tao thấy người ta làm thịt gà thịt vịt không cần cắt cổ. Cứ đem nhúng nước sôi rồi nhổ lông lúc con vịt còn sống.
Đứa hộ vệ chắp tay:
– Xin ông tha cho.
– Ừ! Ghét mầy quá. Tao chém mầy bây giờ. Biết tại sao tao không thua tài ông Bá Vạn không? Bá Vạn giết con Xí Vĩnh, phá hại trinh tiết của nó. Tao thì giết…tất cả tánh mạng con Xí Vĩnh. Hộ vệ đâu? Chém thằng này.
Tên hộ vệ sợ quá sợ, nhìn ông Mười Hấu như kêu cứu. Lần nầy, ông Mười hơi lúng túng. Ông nắm tay cậu Cẩu:
– Cháu ơi!
Cậu Cẩu quơ chân, đá vào hông tên hộ vệ.
Đứa hộ vệ thối lui rồi nhảy xuống sông lặn mất dạng. Khi trồi lên, anh ta vuốt mặt, nghe tiếng cười sang sảng của cậu Cẩu:
– Cho nó tắm. Ngày mai nó chết.
Anh ta nín thở, lặn một hơi dưới nước. Khi trồi đầu lên, anh ta lội vô bờ…
18/11/1969
Sơn Nam
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Uống trà

Uống trà Một số người tìm sự bình an, sự tịnh tâm trong việc uống trà. Có thể vì vậy mà họ thường thuộc lứa tuổi đã cao, xế chiều. Thanh niê...