Tiếng vọng rừng xanh
Đào Hữu Phương sinh ngày 22.12.1947 tại xã Xuân Bái,
huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, quê cha xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng. Năm 1964, học hết lớp 7, trong thời gian chờ đủ tuổi đi bộ đội ông xin
vào làm việc tại Hợp tác xã sản xuất Giấy và bị một tai nạn lao động, phải cắt
bỏ tay trái. Từ đây ông bắt đầu quãng thời gian hơn 10 năm dạy vỡ lòng rồi đi học
trung cấp kế toán về làm việc trong Hợp tác xã Thủ công nghiệp của địa phương
cho đến khi mô hình tập thể này giải tán.
Nhà văn Đào Hữu Phương có truyện ngắn viết cho thiếu nhi in Tập
san Người Bạn Văn Hóa của tỉnh năm 1966, mười năm sau Hội Văn học Nghệ thuật
Thanh Hóa in truyện dài “Những người bạn chí thân” của ông. Đến nay ông đã có
12 đầu sách viết cho thiếu nhi, được nhận nhiều giải thưởng, trong đó có Giải C
Giải thưởng Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994. Ông được
Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp năm 2002.
Truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh” được nhà văn Đào Hữu Phương
viết xong năm 2010. Năm 2012 NXB Kim Đồng chọn in truyện này trong chương trình
“Sách Nhà nước tài trợ cho các trường trung học cơ sở miền núi-vùng sâu-vùng
xa”. Do khuôn khổ sách đã rút gọn một số trang bản thảo của truyện này.
Chuyện kể lại một chuyến về thăm quê nội với nhiều chuyện bất
ngờ và lý thú của Tuấn Minh. Cùng với Tú, đứa em họ ở quê, Tuấn Minh đã có công
giúp công an phá được một vụ chiếm đoạt trống đồng, vạch trần chân tướng một
tên tội phạm đang bị truy nã trong cái lốt của người em song sinh. Hai anh em
cũng đã rất kỳ công tìm hiểu và đưa ra ánh sáng một câu chuyện xảy ra từ rất
lâu để minh oan cho hai mẹ con bà thím…
Vanvn.vn xin giới thiệu truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh”, bản
đầy đủ của nhà văn Đào Hữu Phương đến bạn đọc.
NHÀ VĂN NGUYỄN THAM THIỆN KẾ giới thiệu
1. Chiếc Toyota màu trắng dừng lại trước cổng Uỷ ban Nhân dân
huyện. Bố Tuấn Minh mở cửa xe, nói:
– Nào, ra ngoài cho thoáng lúc đã con. Ông xem đồng hồ, tỏ ý
sốt ruột – Sao giờ chú Lâm vẫn chưa ra đón nhỉ?
Ông vừa dứt lời thì từ trong cổng cơ quan Công an huyện một
chiếc Uyn rồ máy phóng tới. Chú Lâm dừng xe, tắt máy, nói:
– Mọi người đi đường có mệt lắm không? Em bận giải quyết mấy
việc đột xuất nên không ra đón kịp. Thế này anh ạ. Nghe tin anh về huyện nhà
công tác, thủ trưởng cơ quan em muốn mời anh ghé chơi. Anh ấy bảo lâu lắm rồi
hai người không gặp nhau. Hai giờ chiều mới đến giờ làm việc. Anh đồng ý nhé.
– Nhất trí! Bố Tuấn Minh vui vẻ. Vậy ta đưa xe vào Công an
huyện nghỉ lúc đã.
– Thế còn con? Tuấn Minh hỏi – Con muốn về nhà nội ngay bây
giờ cơ.
– Cháu khỏi lo! Chú Lâm xoa đầu nó – Chú sẽ đưa cháu về trước.
Ở nhà ông bà và em Tú cũng đang rất mong.
Bố Tuấn Minh hỏi:
– Ý con thế nào? Đằng nào thì cũng phải đi bằng xe máy. Từ
đây về nhà nội đường rất xấu, loại xe gầm thấp này không lên được.
– Con đồng ý đi luôn với chú!
– Vậy chú cháu lên đường cho sớm! Nói với ông bà bố phải ở lại
làm việc, chủ nhật mới về được.
Tuấn Minh chui vào xe lôi túi quà và cái ba lô du lịch của
mình ra, hăm hở nhảy lên sau chiếc Uyn lấm bụi. Chú Lâm nổ máy. Chiếc xe
lao vút đi.
Hết địa phận phố huyện, nhà cửa thưa vắng dần. Núi đồi hiện
ra lớp lớp trước mặt. Chiếc Uyn cồng kềnh lướt nhẹ trên con đường đất đỏ
mịn màng. Chú Lâm quay lại nói:
– Tất cả chỉ có hơn một ki lô mét đường đất thế này thôi. Từ
vụng Láu đến Cửa Đặt nền đường toàn đá, ngồi sau chưa quen rất xóc. Cháu chịu
khó một tí nhé.
– Cửa Đặt còn xa không chú? Chỗ ấy có gì đẹp không?
– Cửa Đặt chỉ là một phố nhỏ miền sơn cước. Nó nằm giữa nơi
cửa sông Đặt đổ ra sông Chu nên có tên gọi như vậy. Phố không đẹp nhưng được
nhiều người biết đến vì ở đấy có đền thờ Bà Chúa Thượng Ngàn và đền thờ danh
nhân Cầm Bá Thước. Danh nhân Cầm Bá Thước là cụ tổ ba đời của nội. Đến cháu
là đời thứ năm.
Tuấn Minh phấn khởi hỏi lại:
– Thật thế à chú? Đến Cửa Đặt chú dừng để cháu vào Đền thắp
cho cụ tổ nén hương nhé!
Xe chạy chôm chôm trên nền đường mấp mô, lởm chởm những đá.
Tốc độ so với lúc đầu đã khá chậm nhưng Tuấn Minh nhiều lúc vẫn bị hất tung
lên vì những cú xốc bất ngờ. Phải mất gần hai mươi phút chiếc Uyn mới vượt
qua con đường dốc chật hẹp và nguy hiểm. Chú Lâm vẫn để số một cho xe đi chầm
chậm. Phía trước đột ngột mở ra một khoảng không rộng thoáng với dòng sông
xanh ngắt và tiếng nước chảy rì rào nghe như một bản nhạc. Tuấn Minh reo lên:
– Ôi, đẹp quá! Chú cho xe dừng lại đi! Nó nhảy xuống, lục ba
lô lấy ra chiếc máy ảnh tự động, hăm hở bấm liền mấy kiểu rồi hỏi – Cái thác
này tên là gì hở chú?
– Đây là Thác Mạ! Chú Lâm giải thích – Trông nó đẹp và nên
thơ thế nhưng rất nguy hiểm. Bè mảng đi qua phải có những tay sào cừ khôi mới
an toàn. Năm ngoái ở đây vừa xảy ra một vụ tai nạn rất thương tâm. Con đò dọc
trên đường từ Hạ Sơn lên Cửa Đạt khi vượt thác bị gãy chân vịt, va mạnh vào
đá ngầm đã bị đắm, làm chết năm người, trong đó có một thanh niên. Anh này người
thành phố, phạm tội làm con dấu giả gây hậu quả nghiêm trọng đang trên đường
bỏ trốn…
– Anh ta tên là gì chú có nhớ không? Tuấn Minh hồi hộp hỏi.
– Hoàng Mai! Chú Lâm đáp – Hồ sơ vụ này chú trực tiếp làm.
Tuấn Minh bỗng trở nên đăm chiêu. Hoàng Mai là con vợ chồng một
họa sĩ già, ở cách nhà Tuấn Minh chỉ một con phố. Mai vốn là sinh viên khoa hội
họa trường Văn hóa Nghệ thuật tỉnh, vì vi phạm kỉ luật nên bị nhà trường đuổi
học. Mai can tội làm con dấu giả tiếp tay cho bọn tội phạm gây án, bị công an
phát lệnh bắt khẩn cấp, phải bỏ trốn. Sau đó có tin gã đã chết trong một vụ tai
nạn đắm đò trên thượng nguồn sông Chu. Người ta an táng Mai ở nơi vớt được
xác, sau đó gia đình cũng được mời lên nhận lại một số di vật và mộ phần của
người xấu số. Không ngờ cái thác đẹp này lại chính là nơi anh ta tử nạn.
Bị cuốn theo dòng suy nghĩ, Tuấn Minh gần như không hỏi thêm
chú Lâm một câu nào nữa. Qua Cửa Đặt nó cũng quên không bảo chú dừng xe để vào
Đền thắp hương cho cụ tổ. Chú Lâm thấy Minh áp đầu vào hông mình thì nghĩ có lẽ
cu cậu đã mệt nên không hỏi chuyện nữa mà chỉ tập trung tinh thần để lạng
lách, tránh tất cả những cái ổ trâu, ổ gà trên đường cho thằng cháu ngối
sau khỏi bị xóc. Cái không khí buồn tẻ ấy kéo dài suốt hơn một giờ đồng hồ
nữa. Tuấn Minh chỉ thực sự bừng tỉnh khi chiếc Uyn đột ngột dừng trước
một ngôi nhà sàn và tiếng thằng em họ nói như reo:
– Ông ơi, bà ơi! Bố cháu và anh Minh đã về rồi!
Bữa ăn sáng chỉ có cơm nếp chấm muối vừng nhưng Tuấn Minh cảm
thấy rất ngon miệng. Nội nhìn hai đứa, cười nói:
– Thằng Minh lên đây với ông bà, ăn thế này có chịu được
không? Miền núi thì vẫn cứ là miền núi. Trên này người ta không nói ăn sáng mà
chỉ gọi là lót dạ. Để ông bảo chú Lâm mua sẵn thùng mì tôm, hôm nào ngấy cơm nếp
thì ủ mì với trứng gà mà ăn đổi bữa.
– Ăn thế này cháu thấy còn ngon hơn ăn phở dưới thành phố
nhiều ông ạ! Tuấn Minh nói – Sáng nào ông bà cũng đồ xôi nếp cho cháu, ăn
cả tuần cũng được.
Nội cười xoa đầu nó:
– Đó là cháu nói đấy nhé! Ông chỉ lo chưa hết ngày thứ ba đã
la ngấy thôi. Bữa đầu cháu cảm thấy ngon vì đang lạ miệng mà.
Dưới sân chợt có tiếng chó sủa. Tuấn Minh nhìn qua cửa sổ thấy
ngoài cổng có một người trạc tuổi bà đang lăm xăm đi vào. Nội vội đặt bát xuống,
đi nhanh lại phía cầu thang. Nội xuống đến chân cầu thang thì cũng vừa lúc bà
khách đi tới. Nội lên tiếng trước:
– Có việc gì mà thím sang sớm thế?
Bà khách đáp:
– En sang gửi bác mấy chục vay bữa trước. Sợ lúc nữa bác lại
lên trại rừng. Chiều hôm qua em sang nhưng thấy nhà có khách nên
không vào. Bà khách đáp.
Nội cười:
– Khách khứa gì đâu! Thằng đích tôn nó ở thành phố về chơi. Cả
bố nó cũng lên nhưng đang còn bận họp hành gì đấy dưới huyện. Thím lên nhà
đi. Sáng nay bà ấy đồ cơm nếp, lên ăn với tôi một bát lót dạ.
Bà khách nói:
– Em ăn rồi! Bác cầm tiền cho em về.
Nội nói:
– Thì cứ để đấy mà tiêu. Tiền lúc này tôi đã cần đâu!
– Không! Bác cứ cho em gửi lại đã. Lúc nào cần em lại sang nhờ
hai bác.
Bà vừa nói vừa dúi tiền vào tay nội rồi chào nội ra về luôn.
Nội nhìn theo, lắc lắc đầu:
– Cái thím này!
Trở lên nhà, nội vào bếp lấy con dao nắp và cái mũ lá rộng
vành ra. Nội hỏi:
– Các cháu ăn xong chưa? Bây giờ ông phải lên trại rừng. Anh
em ở nhà mà chơi. Rồi nội dặn – Lát nữa bà về thằng Tú đưa anh Minh sang thăm
bà thím. Nhớ mang biếu bà gói bánh nhé!
Nội nói rồi đeo dao, đội mũ bước xuống cầu thang.
Tuấn Minh hỏi Tú:
– Ông bảo bọn mình đi thăm bà thím nào vậy?
– Bà Kiên! Cái bà vừa sang trả tiền cho ông nội ấy.
– Bà ấy có họ với nhà mình à? Sao chưa bao giờ anh nghe bố
anh nói chuyện này cả nhỉ?
– Chỉ là bà con xa thôi! Nhưng ông mình coi bà ấy như em ruột.
Rồi Tú kể – Bà ấy nghèo và khổ lắm! Chồng là bộ đội chống Pháp, đã hi sinh, có
người con trai độc nhất lại bỏ theo phi công Mỹ, đến giờ vẫn bặt tăm. Chú ấy
là Cầm Bá Kiên. Ông nội bảo chú Kiên sinh cùng ngày với bố em.
Tuấn Minh thấy là lạ. Lâu nay nó chỉ mới nghe người ta nói về
những kẻ phản bội bỏ hàng ngũ ta chạy theo giặc trong chiến tranh và sau này là
chuyện những người bỏ Tổ quốc đi di tản bằng con đường vượt biên chứ chưa
nghe ai nói chuyện một người nào đó chạy theo phi công Mỹ cả, nhất là người
đó lại chỉ là một dân quân người dân tộc thiểu số ở nơi núi rừng heo hút này.
Nó hỏi:
– Em bảo chú Kiên chạy theo phi công Mỹ. Thế chú ấy đi bằng
cách nào?
Tú kể:
– Chuyện thế này. Năm 1996, trong một lần đưa lực lượng ra
đánh phá sân bay Sao Vàng, một chiếc cường kích F 105 bị bộ đội ta bắn cháy.
Nó cố lết sang được đến đất Nghệ An thì rơi. Thằng phi công nhảy dù xuống Bù
Cheo, ngay trên địa bàn xã mình. Hôm ấy đại bộ phận dân quân xã đã xuống huyện
hội thao. Ở nhà chỉ có hai người là chú Kiên và bác Đốc. Bác Đốc là người miền
xuôi cùng gia đình lên xã ta định cư từ năm 1963. Hai người chỉ có một khẩu
súng trường và hai viên đạn nhưng họ vẫn quyết tâm lên Bù Cheo bắt sống thằng
giặc lái. Từ nơi xuất phát đến chỗ thằng giặc lái nhảy dù xuống đường đất khá
xa và khó đi. Hai người phải mất hơn một giờ leo núi mới tiếp cận được mục
tiêu. Lúc ấy qua điện đài thằng giặc lái đã liên lạc được với căn cứ. Trên bầu
trời quanh nơi hắn đáp dù có hai máy bay động cơ cánh quạt thay nhau quần đảo.
Thằng giặc lái đã trút bỏ hết những thứ không cần thiết trên người và đang ngồi
trên một phiến đá đợi đồng bọn đến cứu. Một tay hắn lăm lăm khẩu súng ngắn. Bác
Đốc đưa ra đề nghị bắn vào cánh tay cầm súng của hắn rồi ào lên bắt sống nhưng
chú Kiên không nghe. Chú bảo bác Đốc ngồi lại còn mình thì xách súng lần lên
sát mục tiêu. Một lúc sau thì xuất hiện một chiếc trực thăng. Chiếc trực thăng
rà sát ngọn cây ngay trên đầu thằng giặc lái và chú Kiên. Một khoang cửa trên
thân máy bay được mở ra và một cái thang dây được thả xuống. Lúc thằng giặc
lái đứng dậy chuẩn bị bước lên thang dây thì bất ngờ chú Kiên cũng nhảy ra,
vai đeo cây súng chúc ngược xuống đất, hai tay cầm cái khăn mù xoa trắng
vẫy lia lịa. Thằng giặc lái nhận được tín hiệụ đầu hàng liền dừng lại nhường
cho chú Kiên leo lên trước rồi hắn mới leo lên sau. Khi cả hai đã chui
vào khoang máy bay, chiếc thang dây cũng được kéo lên và cánh cửa đóng lại.
Chiếc trực thăng nâng độ cao rồi bay mất hút. Hai chiếc máy bay cánh quạt quần
thảo trên bầu trời suốt hơn một tiếng đồng hồ cũng lần lượt biến mất. Bác Đốc
thất vọng vì nhiệm vụ bắt sống phi công không hoàn thành lại để cho đồng đội
mang cả vũ khí chạy theo giặc nên rất buồn. Bác nhặt nhạnh mấy thứ thằng
giặc lái bỏ lại cùng chiếc dù rồi xuống núi trở về. Đến giữa đường mới gặp đại
quân ta đang kéo lên…
– Như vậy chú Kiên là kẻ phản bội à?
– Cũng không thể nói khác được! Vì tất cả sự việc xảy ra
trên đỉnh Bù Cheo hôm ấy chỉ có mình bác Đốc biết. Từ hôm ấy bà thím bị dân bản
xa lánh, chính quyền địa phương hoàn toàn bỏ mặc kể cả những lúc bà gặp khó
khăn. Nội là người rất thông cảm và thương bà nhưng cũng chỉ giúp đỡ được
đôi chút.
– Từ ngày đất nước thống nhất đến giờ bà thím có nhận được
tin tức gì của con trai mình không?
Tú lắc đầu:
– Không! Chỉ có điều lãnh đạo địa phương và dân bản cũng
thông cảm và bớt kì thị, xa lánh nên bà sống cũng dễ chịu. Cả bác Đốc từ ngày
được nhận mấy chục héc ta rừng khoanh nuôi, kinh tế phát triển khá cũng tỏ ra
quan tâm đến bà nhiều hơn. Có việc gì phù hợp bác ấy cũng dành cho bà làm và
bao giờ cũng trả công cao hơn những người khác. Thỉnh thoảng bác ấy còn cho bà
lương thực và tiền để mua quần áo, chăn màn.
Tú lại bàn lấy gói bánh bỏ vào túi thổ cẩm khoác lên vai. Vừa
lúc có tiếng chân người bước lên cầu thang. Nó nói:
– Bà về rồi! Mình đi thôi anh.
Từ lúc xuống khỏi cầu thang nhà bà thím, Tuấn Minh bỗng trở
nên rất trầm tư. Quen như ở thành phố nó đi mà mắt không nhìn đường nên cứ
vài bước lại vấp. Tú lo ngại hỏi:
– Anh làm sao thế? Có đau không?
Tuấn Minh như chợt tỉnh. Nó cúi xuống xoa mấy ngón chân, cười
xòa:
– Không sao! Là do anh đi đường núi chưa quen thôi mà.
– Lúc ở nhà sang đây anh bước gọn thế. Sao giờ cứ vấp liên tục
như vậy? Anh có tâm sự gì à?
Tuấn Minh rẽ vào gốc dâu da ven đường, kê dép ngồi rồi nói:
– Chẳng có tâm sự gì cả. Nhưng đúng là anh đang mãi suy nghĩ
về trường hợp của chú Kiên. Ngồi xuống đi. Theo em thì việc chú ấy mang súng
lên trực thăng theo giặc có đáng tin không?
Câu hỏi khá bất ngờ của Tuấn Minh làm Tú thật sự lúng túng.
– Anh nghi ngờ chuyện ấy à? Sự việc xảy ra ở tít trên đỉnh
núi cao gần một ngàn bảy trăm mét, lại chỉ có hai người, một người đã bỏ
theo giặc còn người kia trở về kể lại, nếu không tin thì còn biết hỏi ai!
– Đành là vậy! Nhưng anh thấy trong chuyện này có điều gì đấy
rất không ổn. Từ những di vật chú Kiên để lại và qua câu chuyện bà thím kể về
con trai mình thì có thể dễ dàng nhận ra chú ấy là một người rất trung thực,
ngay thẳng. Chính bởi đức tính trung thực, thẳng thắn ấy mà chú đã làm mất lòng
nhiều cán bộ lãnh đạo trong xã khi họ bị chú đấu tranh, phê phán tệ quan liêu,
lãng phí, tham ô của công. Là một thanh niên có nhiều hoài bão lại có cái vốn
văn hóa đã tốt nghiệp cấp hai, chắc chắn nếu năm ấy không được tòng quân giết
giặc như nguyện vọng chú ấy cũng sẽ chọn con đường học tiếp ở một trường
Trung cấp chuyên nghiệp nào đó để trang bị cho mình một vốn kiến thức cần thiết
sau này trở về phục vụ quê hương. Nhật kí chú ấy nói rất rõ điều này. Tham gia
lực lượng dân quân xã là chú ấy muốn góp phần bảo vệ bản làng một thời gian trước
lúc thoát li. Là con trai liệt sĩ, lại là một người con rất có hiếu và thương
mẹ nên không có chuyện bỗng chốc chú hạ súng theo giặc dễ dàng như
vậy. Vì chú thừa biết nếu mình làm cái việc hèn nhát của kẻ phản bội Tổ quốc ấy
thì khác gì bôi nhọ danh dự người cha đã khuất và mẹ mình sẽ phải gánh chịu hậu
quả như thế nào…
– Ý anh là…không có chuyện chú Kiên theo giặc và những điều
bác Đốc nói là sai?
– Điều đó thì anh cũng chưa dám khẳng định. Nhưng anh muốn
hỏi là sau khi nghe bác Đốc báo cáo sự việc đã có ai đặt câu hỏi nghi vấn hoặc
lên hiện trường xác minh lại chưa?
– Hình như là chưa! Nội nói ngày ấy sau khi nghe bác
Đốc kể lại, chủ tịch Cầm Bá Chấp đã sốt sắng làm báo cáo gửi lên huyện rồi lập
tức cho thông báo đến khắp các bản trường hợp chú Kiên đã không làm tròn nhiệm
vụ bắt sống phi công Mỹ mà còn mang cả vũ khí lên máy bay theo giặc.
– Chủ tịch Chấp là người thế nào? Ông này có phải trước đó
một năm là Chủ nhiệm Hợp tác xã mua bán có dính chuyện tham ô hàng ưu tiên của
tỉnh bị chú Kiên phê phán rất kịch liệt như bà thím đã kể không?
– Phải đấy! Lạ là hồi ấy ông ấy không những không bị kỉ luật
mà còn được đưa lên làm Chủ tịch xã.
– Vậy thì rõ rồi! Mắt Tuấn Minh sáng lên – Tú này, đường lên
Bù Cheo bây giờ có khó đi lắm không? Từ đây lên chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù đi
hết bao lâu? Em đã lên đó lần nào chưa?
– Em lên trên ấy hai lần rồi. Một lần theo nội sang bản Pang
bên Quế Phong để lấy thuốc cho bà. Một lần theo bố em và các chú Kiểm lâm lên đấy
phục bắt bọn lâm tặc chặt phá pơ mu. Đường rất khó đi. Từ đây lên đó người khỏe
có nhanh cũng phải đi hết hai giờ. Nhưng anh muốn biết để làm gì?
– Anh muốn lên xem lại hiện trường!
– Anh không đùa đấy chứ?
Tuấn Minh lắc đầu:
– Không! Làm sao lại có thể đùa với một chuyện nghiêm túc thế
này được. Ngày mai em đưa anh lên Bù Cheo nhé!
Tú lưỡng lự trước quyết định khá bất ngờ và táo bạo của ông
anh họ:
– Chuyện này…phải để hỏi ý kiến nội đã.
– Bọn mình phải bịa ra một lí do gì đấy để vắng nhà một ngày.
Nếu nói thật anh e nội sẽ không đồng ý.
Tú nói:
– Thế cũng được! Nhưng em chỉ lo anh leo núi chưa quen.
Còn việc lên trại rừng với nội, chiều nay có đi nữa không?
– Có chứ! Nhưng bọn minh đi luôn bây giờ đi. Trại rừng có xa
không?
– Xa đấy! Nhìn thì thấy nó ở ngay trước mặt kia kìa, nhưng
đi nhanh cũng phải mất nửa giờ mới tới.
Tuấn Minh bật dậy, hăng hái:
– Không vấn đề gì! Bọn mình hành quân luôn đi.
2. Hai anh em đang rảo bước trên đường. Bỗng Tú đột ngột dừng
lại hỏi:
– Anh Minh này. Sao hai bác lại đặt tên anh là Cầm Lê Tuấn
Minh?
Tuấn Minh giải thích:
– Bây giờ ở thành phố người ta đặt tên như thế cả. Phải đủ
cả họ bố, họ mẹ. Ví dụ Đỗ Hoàng Thanh Quang, Mai Trần Hoài Đức…
– Còn con gái?
– Con gái cũng thế: Bùi Dương Hương Lan, Nguyễn Hà Lệ Thủy…
– Vậy không lót thị à?
– Làm gì còn thị với na. Quê lắm!
– Rắc rối! Em nghĩ như nhà ta, ông nội là Cầm Bá Núi, bố anh
là Cầm Bá Sơn, bố em là Cầm Bá Lâm, em là Cầm Bá Tú còn anh cũng chỉ nên đặt là
Cầm Bá Tuấn hoặc Cầm Bá Minh, vừa đơn giản lại dễ nhận họ hàng, anh em.
– Ôi! Tuấn Minh phá lên cười – Thế thì còn gì gọi là thời đại
văn minh! Sắp sang thế kỉ hai mốt rồi. Bây giờ việc xác minh anh em, dòng họ thế
giới người ta đã thực hiện bằng phương pháp so sánh gien. Thôi, để lúc khác sẽ
bàn tiếp chuyện này, Gìơ em cho anh biết trên trại rừng của nội có gì hấp dẫn
không?
– Đã gọi là rừng thì chỉ có cây chứ làm gì có nhiều thứ như ở
thành phố!
– Chẳng lẽ không có suối, không có khe hay một cái hang đá
nào à?
– Có đấy! Hang Dơi! Nó nằm ở phía tây trại rừng, trên đường
lên bản Tùm. Anh có muốn vào trong ấy xem không?
Mắt Tuấn Minh sáng lên:
– Có! Em nhớ đưa anh vào hang Dơi nhé!
Đến một ngã ba, Tú đưa Tuấn Minh rẽ vào một con đường đất đỏ.
Hai bên nền đường còn hằn rõ vết lốt bánh xe cơ giới tạo thành hai cái rãnh
khá sâu. Tú nói:
– Đây là đường lên bản Tùm. Bản Tùm là một trong bốn khu vực
có trữ lượng gỗ quí nhiều nhất vùng nên vào thời điểm cơn sốt phá rừng lên cao,
con đường này xe cộ đi lại rất tấp nập. Cách đây chừng hai mươi phút đi bộ có
một lèn đá. Lèn đá nằm cách đường không xa. Hàng Dơi ở trong lèn đá ấy. Một thời
nó được bọn lâm tặc dùng làm nơi tập kết gỗ đưa từ bản Tùm xuống. Đủ số lượng
và có thời cơ chúng mới cho ô tô lên chở đi…
– Em nói sao? Tuấn Minh ngắt lời Tú – Ô tô cũng vào đây chở gỗ
được à? Từ phố huyện lên, qua Cửa Đặt và Thác Làng đều phải đi bằng cầu phao,
đường nhiều chỗ lại hẹp chỉ đủ lối cho một người dắt xe đạp, ô tô làm sao đi
được?
Truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh” của nhà văn Đào Hữu Phương,
NXB Kim Đồng 2012.
Tú giải thích:
– Em quên chưa nói để anh biết. Đến xã mình có thể đi bằng
hai đường. Đường qua Cửa Đặt thì anh biết rồi. Còn một con đường khác, ô tô
có thể đi được là đường từ Khe Hạ lên. Lối rẽ ở ngay ngã ba Bù Đồn. Tú dang
tay khoát một vòng trước mặt, tiếp – Vùng này có tên gọi là bản Ngồng. Bản Ngồng
ngày xưa nổi tiếng vì có rất nhiều cọp nên hầu như không có người ở. Cứ vào
lúc mặt trời gần lặn chúng lại kéo nhau ra đường ngồi chầu, đợi có người đi
qua là bắt. Người trong Lẹ đi xuống, người bản Tùm đi ra, người ngoài Bù Đồn,
Na Mén đi vào đều phải tranh thủ lúc buổi sáng hoặc quá trưa sang chiều. Vậy
mà năm nào cọp cũng cướp đi một, hai mạng. Dân các vùng thì cứ nghe nhắc đến cọp
bản Ngồng là anh nào cũng co rúm lại. Anh biết không, con cọp dữ nhất trong đàn
cọp ở bản Ngồng này là một con cọp có bộ lông màu xám. Nó thường xộc vào các bản
bắt lợn và vồ người ngay cả ban ngày. Mấy phường săn trong vùng đã tìm mọi
cách để tiêu diệt nhưng không được. Vậy mà nó đã bị cụ tổ Cầm Bá Thước giết
chết chỉ bằng một viên đạn. Điều kì diệu là năm ấy cụ tổ nhà mình chỉ mới mười
lăm, mười sáu tuổi!
– Có chuyện ấy thật à? Tuấn Minh nghi hoặc hỏi.
Tú quả quyết:
– Thật một trăm phần trăm! Tí nữa lên chòi anh bảo nội kể cho
mà nghe.
– Thế nội lên đây lập trại rừng lâu chưa? Trại có rộng không
em?
– Rộng lắm! Tất cả là mười lăm héc ta, trong đó có mười héc
ta là rừng khoanh nuôi, ba héc ta rừng trồng và hai héc ta đầm lầy. Diện tích rừng
khoanh nuôi nội nhận với xã bất đầu tính từ đây.
– Thế nào gọi là rừng khoanh nuôi? Tuấn Minh hỏi.
– Rừng khoanh nuôi là rừng tự nhiên Nhà nước giao cho địa phương
quản lý. Những người được xã cho nhận lại việc này có nhiệm vụ bảo quản, chăm
sóc. không cho kẻ xấu vào chặt phá. Hàng năm được nhận một khoản tiền công là
năm mươi ngàn đồng một héc ta. Anh có muốn đi sâu vào trong rừng chơi một lúc
không?
– Có! Tuấn Minh xắn cao ống quần, hăm hở theo Tú vào rừng.
Nhìn bề ngoài, quả lúc đầu Tuấn Minh vẫn nghĩ những ngọn đồi
xanh rì cây rừng và luồng nứa này là sản phẩm thiên nhiên ban tặng. Nhưng càng
đi sâu vào mới thấy nó thực sự đã được bàn tay con người chăm sóc, bảo vệ. Tuấn
Minh cứ nghĩ mình sẽ phải lội trên thảm thực bì đầy gai hoặc dẫm lên những đám
lá mục nhiều sâu và vắt. Nhưng không. Lối hai anh em đi là một con đường được
san lấp khá công phu. Mặt đường không rộng nhưng đủ chỗ để hai người đi ngược
chiều có thể tránh nhau. Nền đường còn hằn rõ rất nhiều lốt chân người lẫn lốt
chân trâu. Tú bảo ngày nào nội cũng đảo một vòng trên con đường này để đi kiểm
tra. Song song với con đường là tuyến hào rộng một mét và sâu cũng gần một
mét. Tú cho biết bây giờ dân các bản vẫn giữ thói quen thả trâu vào rừng kiếm
ăn và ngủ qua đêm, nếu không đào hào ngăn chúng sẽ kéo cả bầy vào phá, rừng khó
mà phát triển được. Nhờ con đường và tuyến hào này mà những cánh rừng khoanh
nuôi nội nhận với xã đều phát triển tốt. Riêng tuyến hào mùa mưa còn có tác dụng
dẫn nước vào khu hồ đầm để trữ nước nuôi cá.
Đi qua hai cánh rừng là đến một vùng hồ đầm trải rộng dưới
chân những dãy núi. Khu đầm được ngăn làm hai ô bởi một con đập lớn. Mặt đập rộng
tới gần hai mét, cỏ trồng đã bén xanh nhưng vẫn để lộ màu đất thó đỏ au, khỏe
khoắn. Tú cho biết đầm có tổng diện tích hai ngàn mét vuông. Nơi sâu nhất là bảy
mét. Tổng khối lượng đào đắp khoảng năm ngàn mét khối. Phần lớn công việc nội
phải thuê máy xúc, còn lại là thuê dân bản và lao động dưới xuôi lên
làm. Mỗi năm riêng nguồn lợi thủy sản nội thu không dưới một tấn cá.
Dung lượng nước chứa trong hồ ước khoảng năm mươi ngàn mét khối. Mùa khô nội
phải thu hoạch cá sớm để thả nước chống hạn cho mấy cánh đồng của ba làng
Khang Khèn, Lùm Na, Na Mén.
Khuất sau rừng luồng thấp thoáng có một nếp nhà sàn lợp lá cọ,
đã cũ. Tuấn Minh hỏi:
-Vùng này bây giờ có đông dân ở không? Ngôi nhà sàn kia là của
ai vậy?
Tú đáp:
– Nơi này cho đến bây giờ vẫn chưa có người ở. Ngôi nhà ấy
là của vợ chồng người em họ xa của nội. Vợ chồng cô chú ấy trước ở ngoài Na
Mén, đời sống quá khó khăn. Nội bảo họ chuyển lên đây, giao cho mấy sào đầm cạn
để trồng lúa, một héc ta đất đồi để trồng cây và cùng nội chăm sóc, bảo vệ rừng
khoanh nuôi. Cuộc sống nay đã khấm khá hơn nhiều.
Hai anh em qua đập để sang một đồi keo. Từ đây nhìn lên đã có
thể trông thấy rất rõ cơ ngơi của nội. Đó là một nếp nhà sàn nho nhỏ dựng chênh
vênh giữa đỉnh đồi. Trong nắng sớm ngôi nhà bừng sáng lên, trông vừa đơn độc, vừa
ngạo mạn giữa một không gian điệp trùng rừng núi. Bất chợt từ chân cầu thang
ngôi nhà nhỏ ấy vọt ra một con vật nhỏ xíu. Con vật lao như tên bắn xuống chân
đồi rồi lại nhằm hướng hai anh em đứng hùng hục tuông lên.. Tuấn Minh nhanh
chóng nhận ra đấy là một con chó săn có bề ngoài rất dũng mãnh và bộ lông màu
xám thật ấn tượng. Con chó cất lên một tiếng “ẳng” rồi vẫy đuôi chồm lên xoắn
lấy Tú. Tú cũng đưa cả hai tay ra ôm lấy nó vuốt ve:
– Vện! Mày có nhớ tao không?
– “Ẳng” Con chó ngước nhìn Tú, sủa một tiếng rõ to như muốn
nói: “Có”
Tú bảo:
– Nó hiểu được tiếng người đấy. Anh thấy nó có khôn không?
– Khôn lắm! Tuân Minh tấm tắc – Nhưng vừa rồi em gọi tên nó
là gì? Vện à?
– Vâng! Tên nó là Vện!
– Vện! Nghe quê quê thế nào ấy! Con chó thật dũng mãnh lại có
bộ lông xám đẹp thế.
– Nội đặt tên cho chó thường căn cứ vào màu lông. Ở nhà con
có màu lông đen là con Mực, con có bộ lông loang lổ là con Khoang, còn con này
có bộ lông màu xám thì gọi là con Vện. Vện là con chó khôn nhất nhà nên nội đưa
nó lên đây ở. Những lúc nội có việc phải về nhà nó vẫn ở lại trông coi chòi và
cây cối trên này.
– Nó giỏi giang thế sao em không tìm cho nó một cái tên cho
có ý nghĩa một tí. Bây giờ người ta hay đặt tên cho chó bằng tiếng nước
ngoài.
– Nhưng em có biết ngoại ngữ đâu. Hay anh đặt cho nó một cái
tên tây đi. Tây nhưng phải dễ gọi và bình dân một tí.
Tuấn Minh nhìn con Vện, suy nghĩ rồi nói:
– Anh đặt cho nó một cái tên bằng tiếng Pháp nhé.
– Tiếng Pháp! Là gì anh?
– Lu!
Tú ôm bụng cười ngặt nghẽo:
– Ôi! Anh chê Vện là quê mùa giờ lại đặt cho nó một cái tên
còn cỗ lỗ và quê hơn. Một con chó đẹp và dũng mãnh như thế mà lại gọi là
Lu thì nghe sao được?
– Em chưa nghe anh giải thích. Lu tiếng Pháp nghĩa là Sói.
Nó là một con sói xám. Không bình dân và đầy ý nghĩa à?
– Đúng vậy chứ anh? Thế mà mới nghe qua em cứ nghĩ đó chỉ là
một cái tên nôm, quê mùa một cục. Vậy từ giờ em sẽ gọi nó là con Lu! Tú quay
sang nói với con chó – Nào Vện! Từ nay tên mày đổi là Lu nhé! Lu! Nghe rõ chưa?
Đồng ý thì trả lời tao đi!
Con chó đứng dựng lên, đưa cả hai chân trước cho Tú nắm rồi
sủa một tiếng “ẳng” rõ to.
Bất ngờ con Lu vùng khỏi tay Tú, quay đầu lao vọt xuống chân
đồi. Tuấn Minh nhìn theo, kịp nhận ra mục tiêu của nó là một sinh vật to bằng bắp
chân, toàn thân mốc thếch đang lủi nhanh vào một bụi rậm. Cuộc rượt đuổi kết
thúc nhanh chóng và chỉ lúc sau con Sói xám đã tha lên một con chuột to tướng
thả vào tay Tú. Tú nói:
– Chuột mốc đấy! Hai năm nay tự nhiên ở đây nứt ra loài gặm
nhấm nguy hại này. Nó nặng tới một ký, chuyên đào phá các loại cây trồng có củ
và cắn cây non. Đặt bẫy không mấy hiệu quả. Nội đang nghĩ cách để tiêu diệt
chúng.
Từ ngoài ngã ba bỗng vắng lại tiếng động cơ xe máy rồi một
chiếc Min màu đỏ hùng hục vút ngang con đường dưới chân ngọn đồi hai đứa đang
ngồi. Tú nhìn theo rồi nói:
– Xe của chú Lò Văn Sao ở bản Tôm đấy! Chắc chú ấy
lên bản Tùm chở người ra Khe Hạ. Mình sang chòi chơi với nội đi anh.
Hai anh em kéo nhau lên chòi. Trên chòi nội có đủ thứ. Tuấn
Minh thích nhất là cây nỏ. Cây nỏ thân được làm bằng một loại gỗ quí, cánh làm
từ một đoạn tre gai, còn cái dây thì được làm bằng da một loại thú rừng nào đấy
vừa bền vừa dai. Tất cả đều nổi màu nâu bóng. Dây nỏ rất căng. Tuấn Minh thử mấy
lần mà vẫn không kéo lên nổi.
Chợt dưới đường lại vọng lên tiếng động cơ xe máy rồi chỉ một
lúc sau chiếc Min đỏ lúc nãy xộc lên. Chủ phương tiện tắt máy, dựng xe trước
chòi, bô bô hỏi:
– Chào bố! Bố có khỏe không?
Nội vui vẻ:
– Anh Sao à? Tưởng đi đón khách trên bản Tùm? Lên chòi uống
nước đi.
– Thôi! Để lúc khác bố ạ. Con đang vội. Người có tên Sao rút
trong túi ra một xấp bạc, nói – Con cần mua giúp anh bạn một ít gỗ bạch đàn. Định
lên bản Tùm nhưng ngại đường trên ấy xấu quá, sợ xe không lên được. Bố bán
cho con năm chục cây. Mỗi cây chặt làm hai đoạn, mỗi đoạn chỉ cần để dài ba mét
thôi. Chiều thứ bảy con đưa xe lên chở. Con gửi trước bố một triệu. Bố làm
cho con cái giấy bán gỗ rừng trồng, có xác nhận của xã để vận chuyển cho tiện.
Gã trao xấp bạc cho nội, đợi nội kiểm xong lại lên xe,
nổ máy nói:
– Con về luôn đây! Rồi cho xe lao xuống đường.
Tuấn Minh tụt vội xuống cầu thang, chạy ra sân đứng nhìn
theo.
– Có gì mà trông anh hớt hải thế? Tú cũng theo ra hỏi.
Tuấn Minh không trả lời mà kéo Tú ra góc sân, hỏi nhỏ:
– Người vừa đến đưa tiền cho nội tên là Sao à?
– Vâng! Chú ấy là Lò Văn Sao, người bản Tôm. Anh biết chú ấy
à?
– Không! Tuấn Minh lắc đầu – Nhưng trông chú ấy anh thấy rất
giống một người…
– Ai?
– Hoàng Mai! Một tên tội phạm ở thành phố, gần nhà anh. Nhưng
hắn ta đã chết trong một vụ đắm đò ở Thác Mạ từ năm ngoái rồi.
Tú phá lên cười:
– Anh này! Chết rồi thì làm sao còn sống lại được. Vả lại
anh nói Hoàng Mai là người thành phố kia mà? Chú ấy là Lò Văn Sao. Mấy năm trước
chú ấy đi làm ăn tận trong Tây Nguyên. Nhà chú ấy bây giờ giàu thuộc diện nhất
nhì trong xã…
– Chú ấy làm nghề gì?
– Xe ôm! Cái Min đỏ là phương tiện hành nghề của chú ấy đấy.
– Chỉ chạy xe ôm mà giàu nhất nhì trong xã kia à? Tuấn Minh đột
ngột hỏi sang một đề tài khác – Tú này, bây giờ vùng mình có còn chuyện lâm tặc
khai thác, buôn bán lâm sản nữa không?
– Vẫn còn! Nhưng chúng hoạt động tinh vi lắm! Tú nhìn
ông anh họ hỏi – Anh tìm hiểu việc ấy để làm gì?
Tuấn Minh nhìn về phía lèn đá, hỏi:
– Em có nghĩ việc chú Sao đang trên đường đi bản Tùm lại
quay lên trại rừng của nội mua bạch đàn là có vấn đề không? Anh nghĩ có thể vừa
rồi chú ấy đã vào trong Hang Dơi. Biết đâu trong đó lại không là nơi tập kết những
khúc gỗ lậu. Anh đã được tận mắt thấy các chú kiểm lâm bắt và kiểm tra một xe
gỗ xoan khi đi qua địa bàn thành phố. Bên dưới lớp xoan em có biết họ xếp
gì không? Toàn pơ mu và lát hoa! Hay bọn mình vào trong đó xem đi.
– Vậy để em mượn nội cái đèn pin đã. Trong hang tối lắm!
Hai anh em mượn đèn, xuống đồi rồi đi nhanh về phía lèn đá.
Con Lu lăng xăng chạy trước. Lèn đá còn cách đường đến hai trăm mét. Hang Dơi
nằm khuất sâu bên trong nên rất kín đáo. Hai bên lối mòn có những
cây so đũa bị bẻ gãy gục cho biết chắc chắn vừa có người vào hang. Hai anh em
vạch lá tiến vào. Càng vào sâu không khí càng ẩm thấp. Mùi phân dơi xộc lên hôi
hám, nồng nặc. Anh sáng yếu dần rồi tắt hẳn. Tú cúi nhặt một hòn đá ném vào
phía trong. Liền đó là một chuỗi âm thanh lào xào hỗn tạp vút qua vút lại trên
đầu.
Tuấn Minh hỏi:
– Tiếng gì nghe lạ thế?
– Dơi đấy! Để anh hiểu thế nào là Hang Dơi!
– Thằng quỉ! Bấm đèn lên đi.
Tú giương đèn pin lên bấm. Lũ dơi càng hốt hoảng bay loạn xạ.
Hai anh em thận trọng vịn vào những cạnh đá nhớp nhúa dò dẫm đặt từng bước một.
Hang có rất nhiều ngách. Quanh quẩn mãi hai thằng vẫn không tìm ra được cái
gì. Con Lu thì từ lúc vào hang đến giờ chẳng thấy tăm hơi đâu. Tú nói:
– Bọn mình ra thôi. Chắc chú ấy không làm cái việc ấy đâu!
Bỗng từ trong một ngách hang vọng ra tiếng con Lu xủa ăng ẳng.
Tú bấm đèn, cùng Tuấn Minh lần theo tiếng chó xủa đi vào. Đấy là một ngách hang
tương đối khô và kín đáo. Cạnh chỗ con Lu có một cái bì xác rắn. Cái bì đựng vật
gì bên trong, thoạt nhìn tưởng như là một đứa trẻ lên ba, lên bốn. Hai anh em
cùng nhào lại, tháo đoạn thừng buộc túm bên trên mở ra xem rồi cùng thốt lên:
– Trống đồng!
Tuấn Minh hồi hộp hỏi:
– Sao lại có trống đồng ở đây?
Tú suy nghĩ rồi nói:
– Em nhớ ra rồi. Đây là cái trống đồng ông trưởng bản Tùm
đào được trong vườn tháng trước.
Tuấn Minh ngạc nhiên hỏi:
– Em nói sao? Vùng mình cũng đào được trống đồng?
– Vâng! Nó nằm ở độ sâu hơn hai mét. Ông ấy đào được lúc đào
ao. Nhưng sau đó nghe nói có người mang giấy giới thiệu của Giám đốc Bảo tàng
tỉnh lên đem về thành phố rồi kia mà. Sao bây giờ nó lại ở đây?
– Giấy giới thiệu của Bảo tàng tỉnh? Tuấn Minh suy nghĩ rồi
quả quyết – Đây đúng là một vụ lừa đảo, chiếm đoạt cổ vật. Thủ phạm chắc chắn
là Lò Văn Sao rồi. Rất có thể việc lão lên trại rừng của nội mua gỗ là để hợp
pháp hóa việc vận chuyển báu vật này đi. Lạ thật! Không lẽ anh ta vẫn còn sống!
Rồi Tuấn Minh hỏi – Tú này, bản Tôm có xa không? Ngày mai trên đường từ Bù
Cheo về anh em mình ghé vào nhà Lò Văn Sao đi.
– Bản Tôm không xa lắm. Nó lại nằm trên đường lên Bù Cheo
nên nếu anh có ý định kết hợp như vậy sẽ rất tiện. Tú chỉ cái trống đồng hỏi –
Thế còn cái trống này, mình đem về nộp cho các chú trên Uỷ ban luôn chứ?
Tuấn Minh kéo cái bì, nhặt đoạn thừng buộc lại như cũ, nói:
– Hãy cứ tạm để nó ở trong này đã. Chắc chắn lão chưa dám đưa
ra khỏi địa bàn đâu. Anh nghĩ việc này chỉ nên báo cho mình bố em biết thôi.
3. Đêm đã khuya mà Tuấn Minh vẫn thao thức không sao chợp mắt được.
Chả bù cho tối hôm qua ngồi nói chuyện với ông bà và thằng Tú chưa đến mười
giờ nó đã buồn ngủ díu mắt vì lần đầu phải đi xa, đường lại quá xấu. Còn hôm
nay tuy rất mệt vì cả ngày lội khắp nơi nhưng nó vẫn không sao ngủ được vì đã
gặp quá nhiều chuyện khiến nó phải suy nghĩ. Sự việc chú Cầm Bá Kiên đem theo
súng lên trực thăng theo giặc thực sự đã gây cho nó một cú xốc vì còn nhiều điều
không hợp lí. Cuốn nhật kí và những lời mẹ chú kể trong nước mắt về người con
trai hiếu thảo của mình khiến nó linh cảm có chuyện gì đấy chưa thật rõ ràng
trong sự việc này. Tuấn Minh tự hứa với lương tâm phải quyết làm sáng tỏ mọi
chuyện để trả lại sự công bằng cho mế con thím. Nhưng dự định lên Bù Cheo đã
không thực hiện ngay được vì ngày mai hai đứa phải lên trại rừng giúp nội thu
dọn cành ngọn khi người ta đến chặt bạch đàn. Sự việc tiếp theo làm nó bận tâm
không kém là chuyện chủ nhân chiếc Min đỏ có tên là Lò Văn Sao. Lò Văn Sao giống
Hoàng Mai một cách kì lạ. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay còn có điều gì uẩn
khúc? Tuấn Minh nghĩ để trả lời câu hỏi này chỉ còn cách tìm hiểu lại lai lịch
Sao qua thằng em họ. Nhưng giờ này chắc Tú đã ngủ say rồi. Bỗng Tú trở mình, đặt
tay lên vai Tuấn Minh hỏi:
– Anh vẫn chưa ngủ à?
– Chưa! Còn em?
– Em cũng không ngủ được!
– Hay quá! Anh có chuyện này đang muốn hỏi em. Hay bọn mình
xuống sân ngồi cho mát đi. Trăng sáng lắm.
Hai anh em cùng bật dậy, nhẹ nhàng đi lại phía cầu thang.Tú
nôn nóng hỏi:
– Có chuyện gì thế anh?
– Chuyện chủ nhân chiếc Min đỏ…
– Anh không tin đấy là chú Sao người bản Tôm như em đã nói
à?
– Anh vẫn cứ ngờ ngợ thế nào ấy! Em có thể nói kĩ hơn một
chút về chú ấy được không?
– Được! Nhưng anh cần điều đó để làm gì?
– Là thế này. Người dân tộc thiểu số mình nếu sinh ra và lớn
lên ở quê, sau này đi học, dù có thành đạt, được chuyển về thành phố làm việc
ai cũng giữ một nét riêng rất dễ nhận, đặc biệt là giọng nói và đôi mắt. Như bố
anh ấy, làm việc ở một cơ quan cấp tỉnh, nhập khẩu thành phố đã hơn hai chục
năm mà các bác, các chú ngoài Hà Nội vào công tác ngay lần gặp đầu vẫn nhận ra
là người miền núi. Họ chỉ không phân biệt được bố anh là người dân tộc Thái
hay dân tộc Mường thôi. Đằng này anh thấy trên gương mặt Lò Văn Sao chẳng có
một nét gì để có thể gọi là người miền núi cả. Trông chú ấy nhanh nhẹn, hoạt
bát và sắc sảo có khi còn hơn cả người Kinh.
– Những gì anh nhận xét thật có lí. Như vậy anh cũng rất nên
tìm hiểu để biết thêm về con người này. Chú Sao đúng là người bản Tôm, thông
minh, học giỏi nhưng vì nhà nghèo nên chỉ mới học hết lớp chín chú ấy đã phải
bỏ làng theo mấy người ngoài Bù Đồn vào Tây Nguyên làm kinh tế. Được đúng năm
năm, sau khi đã kiếm đủ một số vốn cần thiết để cưới vợ thì chú ấy trở về nhà.
Ai cũng bảo so với lúc ra đi bây giờ trông chú ấy chững trạc và lanh lợi lên rất
nhiều. Giải thích sự thay đổi ấy của mình chú bảo vì suốt năm năm ở Đắc Lắc chú
không theo mấy người cùng đi lên rừng trồng cà phê mà tá túc ở thành phố Buôn
Ma Thuột làm nghề chạy xe ôm. Va chạm với đủ hạng người và đời sống đô thị nên
tính cách thay đổi nhiều. Còn một lí do nữa cũng có thể giải thích cái điều anh
băn khoăn là chú ấy vốn dĩ không phải người Thái. Gốc gác của chú ấy là người
Kinh. Nội bảo quãng năm 1970, 1971 gì đấy có một bà hay lên vùng mình buôn bán,
đổi chác vào nhà gặp bà nội bảo dưới Hạ Sơn có hai đứa trẻ sơ sinh bị mẹ bỏ
rơi đều là con trai, đứa nào trông cũng rất kháu, hiện chúng đang được chăm
sóc ở trạm y tế thị trấn. Bà ấy hỏi có ai muốn nuôi bà ta sẽ xin rồi bế lên
cho. Lúc ấy ở bản Tôm có vợ chồng ông bà Lò Văn Páo đã gần năm mươi tuổi rồi
mà vẫn chưa có con. Bà mình lặn lội vào hỏi. Ông bà Páo mừng lắm, hẹn bà ấy
xin rồi đem cả hai đứa trẻ ấy lên cho mình. Hai ngày sau bà ấy lên nhưng chỉ
đem theo một đứa còn một đứa đã có người xin và đem về xuôi trước đó một
ngày. Ông bà Páo rất mừng, biếu bà ấy cả thúng lúa nếp và nửa cái mật gấu. Thằng
bé ấy được đặt tên là Lò Văn Sao, được ông bà Páo quí như con đẻ. Sao sống
và lớn lên trong tình thương yêu của hai vợ chồng già.
– Sự thật đúng như vậy chứ? Tuấn Minh nôn nóng ngắt lời Tú.
– Anh này! Tú gắt – Chuyện nghiêm túc như vậy em bịa làm sao
được.
– Anh xin lỗi! Là anh muốn hỏi thế cho chắc chắn vì anh thấy
trong câu chuyện của em có một tình tiết liên quan đến một người mà anh sắp kể
ra đây…
– Anh muốn nói đến Hoàng Mai?
– Đúng vậy! Hoàng Mai là con nuôi của vợ chồng một họa sĩ
già, nhà ở một khu phố cũ, cách chỗ ở của bố mẹ anh không xa. Theo chỗ anh biết
thì thời điểm họa sĩ đưa Hoàng Mai về thị xã nuôi cũng trùng với thời điểm người
đàn bà kia đưa Lò Văn Sao lên cho ông bà Páo. Lúc ấy hai vợ chồng họa sĩ đâu
cũng đã ngoài bốn mươi mà vẫn chưa có con. Trong đợt đi thực tế sáng tác ở miền
tây huyện Thọ, ông được người ta mách có một cặp song sinh là con trai bị mẹ
bỏ rơi ở trạm y tế thị trấn Hạ Sơn. Ông vội tìm đến và xin nhận một đứa về
nuôi. Đứa bé ấy được vợ chồng ông đặt cho cái tên là Hoàng Mai. Hoàng Mai là
tên ghép giữa họ Hoàng của ông và họ Mai của bà. Hoàng Mai được nuôi dạy trong
những điều kiện tốt nhất và được ông truyền cho nghề vẽ và làm tranh khắc gỗ của
mình. Học hết lớp mười hai Hoàng Mai thi Đại học ba năm liền nhưng không đỗ.
Sau đó bố mẹ nuôi phải xin cho Mai vào trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh,
học khoa hội họa, trở thành một sinh viên rất có triển vọng. Nhưng do thiếu sự
quản lí chặt chẽ của vợ chồng ông bà họa sĩ già, Hoàng Mai đã đua đòi và
kết bạn với một số phần tử xấu ngoài xã hội, làm nhiều việc gây ảnh hưởng
không tốt đến uy tín của nhà trường, sau đó bị nhà trường buộc thôi học. Về
nhà Hoàng Mai chẳng những không chịu sửa chữa mà còn tiếp tục trượt dài trên
con đường tội lỗi. Hắn đã nhận lời khắc con dấu giả, tiếp tay cho một số kẻ
làm ăn bất chính gây án nên bị công an ra lệnh bắt khẩn cấp. Biết tin, Hoàng
Mai đã bỏ nhà trốn biệt. Một tuần sau thì gia đình được cơ quan công an mời đến
thông báo Hoàng Mai đã bị tử nạn trong một vụ đắm đò trên thượng nguồn sông
Chu. Ông bà họa sĩ già lúc ấy sức khỏe và mắt mũi đã rất kém song cũng cố nhờ
người đưa lên để nhận lại một số di vật của đứa con nuôi hư hỏng và xấu số
vì các thủ tục mai táng người ta đã làm trước đó cả rồi…
Tú đột ngột ngắt lời Minh:
– Anh có nhận ra điều gì trong chuyện này không?
– Tất nhiên là có! Còn em?
– Em thấy có mấy chi tiết quan trọng. Cặp song sinh bị bỏ
rơi, thời gian Hoàng Mai bỏ trốn và ngày con đò bị đắm ở Thác Mạ trùng với ngày
trở về của Lò Văn Sao!
– Chính anh cũng đang nghĩ đến những điều ấy đấy! Sao lại có
sự trùng hợp đến kì lạ như vậy!
Tú phấn khởi nói:
– Em nghĩ sự việc đang dần sáng tỏ. Hồ sơ vụ đắm đò năm ngoái
chắc chắn vẫn còn lưu ở Công an huyện. Lúc nào anh em mình sẽ hỏi lại bố em.
Ngày mai giúp ông dọn dẹp cành ngọn xong, còn thời gian anh em mình sẽ lên bản
Tôm, đến nhà chú Sao chơi. Biết đâu lại chẳng tìm thêm được vài tình tiết mới.
– Nhưng phải có một lí do gì đã chứ?
– Có rồi! Bọn mình lên báo cho chú ấy là gỗ đã chặt xong!
-Tuyệt quá! Vậy mà anh không nghĩ ra.
– Giờ khuya rồi, mình đi ngủ thôi anh, để còn lấy sức mai
giúp nội.
Tú gò lưng hăm hở vừa đạp vừa lựa tránh những cái ổ gà
để đưa chiếc xe địa hình trườn lên dốc. Tuấn Minh ngồi sau ái ngại hỏi:
– Anh xuống nhé!
– Đừng! Tú ngoái đầu lại, vừa thở vừa nói – Cứ ngồi nguyên thế,
không sao đâu!
Trầy trật một lúc nữa chiếc địa hình cũng cõng được
hai thằng lên đỉnh dốc. Tuấn Minh định nhảy xuống nghỉ một lúc cho hoàn hồn thì
Tú đã cho xe lao thẳng xuống dốc, tốc độ mỗi lúc một nhanh. Tuấn Minh hoảng hốt
la lên:
– Em không phanh à?
Tú vừa cười vừa nói:
– Phải để nó lao thả phanh thế này mới khoái!
– Nguy hiểm lắm! Phanh lại đi!
– Anh yên tâm! Dốc này thì đã thấm gì!
– Dừng lại! Tuấn Minh hét lên – Anh nhảy xuống đây!
– Đừng! Nhảy xuống lúc này rất nguy hiểm. Sẽ không có chuyện
gì đâu! Tú nói một cách tự tin và để chứng minh cho lời nói của mình nó đã điều
khiển chiếc địa hình đi qua con đường dốc có rất nhiều ổ voi, ổ gà và lắm khúc
quanh một cách an toàn. Tuấn Minh toát mồ hôi hột. Xuống đến đoạn đường bằng,
Tú cho xe tạt vào một gốc cây có bóng râm rồi mới dừng lại. Tuấn Minh nhảy xuống,
gắt:
– Em liều thế? Đường vừa dốc vừa lắm khúc quanh như vậy mà
cứ cho xe phóng ào ào, không hề đụng đến phanh là cớ làm sao?
Tú quệt mồ hôi trên trán, cười hề hề:
– Bọn em đi như vậy nó quen rồi. Đường rừng mà cứ lên dốc lại
xuống dắt, xuống dốc phải bóp phanh thì thà cuốc bộ còn nhanh hơn.
– Nhưng đi như vậy nguy hiểm lắm!
– Anh không thấy trên ti vi lúc đổ đèo các tay đua còn đạp
như điên là gì?
– Nhưng đó là nghề sống của người ta. Họ lại còn có đủ thứ
bảo hiểm. Chứ như bọn mình nếu tai nạn xảy ra…
– Không sao! Tú hồn nhiên ngắt lời ông anh họ – Ở trên này tất
cả mọi người đều đi như thế cả. Chưa thấy ai bị tai nạn!
Tuấn Minh lắc đầu:
– Nói như em thì anh cũng chịu! Nó ngoái nhìn con đường dốc
gồ ghề, lởm chởm đá và vô số ổ gà, ổ trâu ngao ngán nói – Đúng là đồng bào dân
tộc mình khổ thật! Một con đường cho tử tế cũng không có để mà đi. Anh thấy bố
anh cứ loay hoay với các dự án phát triển hạ tầng cho các huyện miền núi mà
không nghĩ việc đầu tiên là phải làm cho mỗi xã một con đường. Cứ thế này,
nguyên chuyện đi lại cũng đã ngại rồi còn nói gì đến làm các việc khác! Nó nhìn
đồng hồ hỏi – Bọn mình đi hết hai mươi phút rồi. Đã gần đến bản Tôm chưa?
– Bản Tôm kia rồi! Tú chỉ sang một bản nhỏ chừng hơn hai chục
nóc nhà trước mặt nói – Ngôi nhà xây ba gian lợp ngói cạnh nếp nhà sàn cũ kia
chính là nhà của chú Sao đấy. Đường vào trong ấy rất đễ đi. Nào, lên xe thôi
anh!
Chỉ mấy phút sau chiếc địa hình đã đưa hai anh em đến trước
ngôi nhà gạch sáng sủa. Chủ nhà ra tận cổng đuổi chó rồi nhìn hai thằng hỏi:
– Các cậu ở bản nào? Tìm anh có việc gì không?
Tú nhanh miệng đáp:
– Bọn cháu ở ngoài Ngồng. Ông cháu sai lên bảo chú bạch đàn
đã chặt đủ số lượng rồi
– A! Các cậu là cháu già Núi đấy à? Vào nhà đi! Chủ nhà
tỏ ra thân mật – Nhà tự làm lấy hay thuê người chặt mà nhanh thế?
– Ông cháu thuê mấy người trong bản chặt.
Chủ nhà rót nước cho hai đứa rồi nhìn Tú hỏi:
– Cậu này mình đã gặp mấy lần. Tên là gì?
– Cháu là Tú. Cầm Bá Tú!
– Bố cháu là Công an huyện phải không?
– Dạ phải!
– Còn cậu? Chủ nhà chỉ Tuấn Minh – Trông cậu cũng quen
quen.
– Cháu là Cầm Lê Tuấn Minh. Cháu mới từ thành phố lên chơi với
ông bà nội.
Mặt chủ nhà vụt biến sắc. Nhưng rồi rất nhanh anh ta đã lấy
lại thế tự nhiên, chủ động hỏi tiếp Tuấn Minh:
– Thế à? Ở thành phố cháu ở phố nào?
– Nhà cháu ở phố Hà Văn Mao, gần phố Cầm Bá Thước!
– Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước! Hay thật! Ở tỉnh mà người
ta cũng lấy cả tên các lãnh tụ nghĩa quân người miền núi đặt tên phố à? Chủ
nhà giả bộ ngây ngô hỏi.
– Chú đã xuống thành phố lần nào chưa?
– Rồi! Nhưng chỉ đi qua lúc vào Tây Nguyên và từ Tây
Nguyên trở ra thôi.
– Chú có nhớ phố nào không?
Chủ nhà lắc đầu:
– Nhớ mỗi cây cầu gọi là cầu Bố. Nghe người ta nói tưởng nó
to lắm nên mới có tên gọi như vậy. Nhưng lúc đi qua thì thấy nhỏ xíu!
Chủ nhà thích thú phá lên cười làm Tuấn Minh và Tú cũng phải cười theo.
Ngoài đường có một người đang dắt xe đạp đi vào. Anh ta bước
cà nhắc như người bị thọt. Chủ nhà vội chạy ra, cố ý đón người ấy từ ngoài cổng.
Hai người đứng nói chuyện rì rầm một lúc lâu rồi người kia dắt xe đi ra còn chủ
nhà thì quay vào.
– Anh bận chút việc giờ phải lên bản Kụt. Hai em uống nước rồi
về bảo ông cứ xếp gọn lại đấy, để phơi nắng vài ngày cho khô bớt rồi anh sẽ
đánh xe lên chở nhé!
Hai anh em uống thêm ngụm nước rồi đứng dậy chào chủ nhà ra
về. Chúng dắt xe tản bộ trên con đường rợp bóng cây. Bỗng Tú đứng lại hỏi:
– Anh có phát hiện gì mới không?
Tuấn Minh khẳng định:
– Người này đúng là Hoàng Mai! Lão ta thật láu cá nhưng rất
tiếc là đã để lòi cái đuôi cáo ra ngay từ lúc đầu rồi!
– Anh chắc chắn đúng thật là Hoàng Mai đấy chứ? Tú gặng hỏi.
– Chắc một trăm phần trăm!
– Thế sao trong túi áo người tử nạn vụ đắm đò năm
ngoái ở dưới Thác Mạ lại có giấy chứng minh nhân dân của Hoàng Mai. Và theo chỗ
em biết thì ngay cả chú Lò Văn Sao khi về địa phương cũng đã trình đủ giấy tờ
tùy thân của mình cho xã, trong đó cũng có chứng minh nhân dân? Tú vẫn thắc mắc.
Tuấn Minh ngửa mặt lên trời, hai mắt lim dim nói:
– Việc bây giờ cần phải làm sáng tỏ là những tình tiết ấy.
Cũng lạ thật!
Truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh” kể lại một chuyến
về thăm quê nội với nhiều chuyện bất ngờ và lý thú của Tuấn Minh. Cùng với Tú,
đứa em họ ở quê, Tuấn Minh đã có công giúp công an phá được một vụ chiếm đoạt
trống đồng, vạch trần chân tướng một tên tội phạm đang bị truy nã trong cái lốt
của người em song sinh. Hai anh em cũng đã rất kỳ công tìm hiểu và đưa ra ánh
sáng một câu chuyện xảy ra từ rất lâu để minh oan cho hai mẹ con bà thím…
Nhà văn Đào Hữu Phương bên miếu thờ một nghĩa quân Cầm Bá Thước,
trong chuyến đi thực tế ở Chiềng Vạn, Thường Xuân, Thanh Hóa để viết “Tiếng vọng
rừng xanh” năm 2005.
4. Buổi sáng trong lúc bà vào bếp đồ xôi, Tuấn Minh và Tú tranh
thủ chuẩn bị thêm mấy thứ cần thiết để lên Bù Cheo. Cuối cùng thì tối hôm qua nội
cũng đã đồng ý cho hai đứa được lên thác Trai Gái chơi. Chỉ cần nội chấp nhận
đề xuất ấy là chúng đã có thể thực hiện kế hoạch lên Bù Cheo được rồi. Còn thời
gian có kéo dài thì lúc về sẽ bịa ra một lí do gì đấy để thanh minh, chẳng hạn
nói vì thác quá đẹp, phải ở chơi lâu nên về muộn, chắc nội sẽ chẳng rầy la đâu.
Tuấn Minh hỏi:
– Leo núi thì nên đi giày hay đi dép? Anh có mang theo đôi ba
ta mới mua.
– Trên này lúc lên rừng bọn em chỉ đi chân không. Nhưng với
anh thì phải có giày. Anh nên đi cả tất vào để phòng vắt cắn, gặp suối em sẽ
cõng qua! Tú trả lời.
Dưới sân chợt rộ lên mấy tiếng chó sủa. Nội đang tỉa cành
cho cây quế ngoài vườn vội ra mở cổng. Tuấn Minh ló đầu nhìn qua cửa sổ. Khách
là thím Kiên. Bà đứng giữa cổng nói gì với nội một lúc rồi đưa tay quệt ngang
mắt, ra về. Hình như là bà khóc. Tuấn Minh và Tú vội bỏ tất cả công việc đang
làm dở chạy xuống. Nó hỏi nội:
– Bà thím sang làm gì sớm thế ông?
Nội trả lời:
– Thím sang hỏi đêm qua con trâu của thím ấy có về nhà mình
không.
Tú nói:
– Nó về bên ấy đã gần một năm, quen chuồng rồi làm sao còn
sang bên này được.
Nội vuốt mái tóc bạc, nói:
– Chắc đêm qua nó ngủ lại trên rừng hoặc có khi bị bọn xấu bắt
trộm rồi. Rõ tội! Tất cả bây giờ thím ấy chỉ còn trông vào con trâu. Nội nhìn
hai đứa nói – Hay anh em mày để mai hãy lên chơi thác Trai Gái? Ăn cơm xong dẫn
nhau đảo xuống chợ Khèn xem có người nào dắt nó đi bán không. Thằng Tú vẫn nhớ
đặc điểm của con trâu nhà mình cho bà thím đấy chứ?
– Cháu nhớ! Nó bị rách một bên tai phải.
– Đúng rồi! Xuống chợ đến chỗ mua bán trâu mà không thấy thì
có khi anh em mày phải chịu khó vào rừng tìm giúp thím ấy xem may ra có thấy
không.
Vậy là kế hoạch lên Bù Cheo một lần nữa phải gác lại. Hai thằng
lên nhà ăn vội mỗi đứa bát cơm nếp rồi vác chiếc xe địa hình xuống, hăm hở đèo
nhau đi. Dọc đường Tuấn Minh hỏi:
– Trên mình cũng có chợ mua bán trâu bò à? Chợ họp mỗi tháng
mấy phiên?
Tú nói:
– Chợ Khèn họp mỗi tháng sáu phiên vào các ngày mùng
năm, mùng mười. mười lăm, hai mươi, hai lăm và ba mươi âm lịch hàng tháng. Nếu
là tháng thiếu thì họp vào ngày hai chín. Chợ chủ yếu để dân các bản mấy
xã trong vùng đến trao đổi, mua bán các thứ lâm, nông sản và mua hàng nhu yếu
phẩm. Mỗi tháng chỉ có phiên mùng năm như hôm nay mới có thêm hoạt động
mua bán trâu bò. Người bán hầu hết là dân địa phương còn người mua chủ yếu
là thương lái dưới xuôi. Họ thường có mặt từ chiều mùng bốn ở Bù Đồn để tham
khảo giá. Sáng lên chợ mua xong là thuê người dắt đi luôn. Giấy tờ của con
trâu thường đã được người bán xin sẵn xác nhận của chính quyền địa phương từ
trước.
Chưa hết mười lăm phút đạp xe, hai anh em đã có mặt ở chợ
Khèn. Khu vực mua bán trâu bò khá sôi động, huyên náo. Đã có nhiều con trâu được
buộc vào những cái cọc đóng sẵn trên một bãi đất rộng đang đứng nhai cỏ. Cạnh
đó vẫn còn rất nhiều cây cọc như vậy để không. Tú nói:
– Mấy năm trước phiên nào bãi cọc này cũng buộc kín trâu.
Nhưng năm nay sức kéo thiếu, người các bản ít đem trâu xuống chợ bán nên cọc
buộc trâu mới thừa nhiều như vậy.
Hai anh em tìm chỗ dựng xe rồi len lỏi lách qua từng con trâu
quan sát. Hết một lượt rồi vòng lại vẫn không thấy con nào có đặc điểm bị rách
một bên tai như con trâu cần tìm. Thất vọng, Tú kéo Tuấn Minh ra ngoài nói:
– Có thể nó mải ăn nên đêm qua đã ngủ lại trên rừng. Mình vào
chợ xem một lúc rồi lên rừng tìm cho bà thím thôi anh ạ.
Trong chợ hàng hóa thật phong phú. Toàn đặc sản rừng. Những
thứ các bà các chị người Kinh đem lên bán đều là nhu yếu phẩm và hàng tạp hóa.
Xem ra chẳng thiếu thứ gì, chỉ tội giá hơi đắt. Ngược lại các loại đặc sản của
rừng thì vừa ngon vừa quá rẻ. Một sọt nấm hương nặng tơi hơn ba ki lô gam Tuấn
Minh thấy người ta bán chỉ với giá năm mươi ngàn đồng. Cũng số tiền ấy ở chợ
Vườn Hoa mẹ chỉ mua được năm sáu lạng, đủ để chế biến vài bữa ăn tươi cuối
tuần. “Của một đồng, công một nén”. Tuấn Minh nghĩ vậy. Tự nhiên nó lại nhớ đến
chuyện con đường. Nếu nơi đây cũng có một con đường như đồng bằng để tất cả
các loại phương tiện có điều kiện dễ dàng lưu thông đến khắp mọi nơi thì chắc
chắn giá các loại nhu yếu phẩm và hàng tạp hóa ở đây sẽ không mắc đến như vậy
và những đặc sản của rừng khi về thành phố cũng không còn đắt đỏ mấy.
Mãi suy nghĩ Tuấn Minh không để ý những gì đang diễn ra xung
quanh. Chỉ khi Tú kéo tay nó chỉ ra cổng chợ nói: “Anh xem kìa” lúc ấy Tuấn
Minh mới giật mình ngẩng lên. Theo tay Tú chỉ, Tuấn Minh thấy ngoài cổng chợ có
một đứa trẻ áo quần xộc xệch, tóc trùm lút cổ, không rõ là trai hay gái, cũng rất
khó đoán tuổi, đang lầm lũi đi vào. Tay nó xách một cái lồng đan bằng nứa không
rõ bên trong đựng thứ gì. Nó vừa xuất hiện thì rất
nhanh có nhiều người đang ngồi tán chuyện trong quán nước cùng bật cả dậy, ào
tới vây lấy nó. Tuấn Minh hỏi Tú:
– Con bé kia bán cái gì mà họ phải phải tranh nhau mua thế?
Tú cười vì sự nhầm lẫn của ông anh họ:
– Không phải con gái đâu! Con trai đấy! Trong cái lồng kia là
rùa núi hoặc ba ba. Những thứ này người ta mua rồi đem về bán lại cho người
buôn sang Trung Quốc. Lời nhiều lắm.
– Mình lại đấy xem đi.
Khi hai anh em tới nơi thì cuộc mua bán đã kết thúc. Chỉ có một
gã bặm trợn nhất giành được quyền mua cả cái lồng có năm con rùa núi. Gã hào
phóng đưa cho thằng bé cả xấp tiền và nói:
– Lần sau có nhớ lại đem bán cho anh nhé. Anh không để chú
mày phải thiệt đâu!
Thằng bé cầm nắm tiền, nhìn hắn cười hiền lành rồi rẽ đám
đông lúi húi đi nhanh vào chợ. Nó đến một quầy tạp hóa mua mấy cân gạo, chục
gói mì ăn liền và vài thứ mắm muối, kim chỉ. Chị bán hàng dường như đã quen
việc xuất hàng cho nó nên sắp xếp các thứ vừa chóng vánh, vừa rất gọn gàng, cho
tất cả vào một cái bì xác rắn buộc lại cẩn thận rồi mới tính tiền bảo nó thanh
toán. Nó đưa cả số tiền bán rùa cho chị ta. Chị ta đếm lấy đủ tiền hàng rồi đưa
lại chỗ thừa cho nó. Xong chị ta còn chạy sang quán ăn mua một cặp bánh dầy kẹp
chả bảo nó cầm mà ăn lúc đi đường. Thằng bé lại nở một nụ cười hiền lành thay
cho lời cảm ơn rồi khoác cái bì xác rắn lên vai, lúi húi đi ra cổng chợ. Tuấn
Minh nhìn theo hỏi:
– Nó ở bản nào xuống thế?
Tú nói:
– Thằng bé ấy…nó không là người bản nào cả. Mẹ con nó ở
trong rừng, sống cuộc sống rất hoang dã…
– Em nói sao? Tuấn Minh bỗng thấy rất tò mò – Bây giờ mà vẫn
còn có chuyện con người sống hoang dã trong rừng? Chỗ mẹ con nó ở có xa không?
– Cũng không xa lắm. Nhưng vùng rừng ấy rất heo hút, hầu như
không có mấy người qua lại. Người ta gọi là Rừng Ma. Hay nhân việc đi tìm
trâu cho thim Kiên em đưa anh ghé vào khu rừng ấy?
– Vậy chúng mình về cất xe đạp rồi lên rừng luôn đi! Tuấn
Minh háo hức giục Tú.
Hơn nửa ngày lội ngang lội dọc khắp các cánh rừng, hễ nghe tiếng
mõ lóc cóc chỗ nào hai anh em lại hăm hở xục đến mà vẫn không tìm thấy con xứt
tai của thím Kiên đâu. Trâu thả rông trong rừng rất nhiều. Tóp hai, ba con, có
tóp đông tới cả chục con. Con nào cũng để xổng mũi. Cũng chẳng thấy bóng người
lớn hay một đứa trẻ nào trông coi. Tú nói:
– Tập quán chăn nuôi ở trên này là như vậy. Sáng ra trâu được
đuổi lên rừng kiếm ăn. Gần tối chúng sẽ tự động kéo nhau về nhà. Cũng có nhiều
người để trâu ngủ lại trên rừng.
– Họ không sợ thú dữ bắt mất trâu à? Tuấn Minh hỏi – Em bảo
vùng mình hổ nhiều lắm kia mà!
– Đó là chuyện ngày xưa. Rừng bây giờ làm gì còn loài thú ấy!
Con hổ cuối cùng ở Bù Cheo cách đây mười năm đã bị bọn xấu dùng súng AK bắn rồi
xả thịt, lóc lấy xương đem sang Quế Phong nấu cao rồi! Tú kể tiếp – Chuyện thả
trâu ngủ qua đêm trên rừng một thời gian dài được xem là rất an toàn. Nhưng
bây giờ nhiều nhà không dám để liều như thế nữa vì nhiều tháng nay bỗng
sinh ra nạn trộm trâu. Dân các bản rất bức xúc nhưng vẫn chưa tìm ra thủ phạm.
Công an huyện cũng đã vào cuộc, tổ chức kiểm tra đám thương lái khi họ dắt
trâu về xuôi nhưng con nào cũng đầy đủ giấy tờ hợp pháp…
– Đưa một con trâu ra khỏi địa bàn cần những loại giấy tờ
gì?
– Chỉ cần một cái giấy xác nhận có con dấu và chữ kí của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân xã là được.
Tuấn Minh gật gật đầu. Hình như nó đã phát hiện ra trong câu
chuyện của thằng em họ có điều gì đấy rất đáng quan tâm. Bỗng Tú chỉ tay sang
cánh rừng trước mặt nói:
– Rừng Ma kia rồi! Đây là khu rừng nguyên sinh duy nhất còn
sót lại ở vùng này. Nghỉ ăn miếng cơm cho đỡ đói rồi mình qua đấy đi anh.
Hai anh em ngồi bệt xuống vệ cỏ, bẻ đôi đùm xôi bà gói cho
mang theo, cầm nhai ngấu nghiến.
Tuấn Minh vừa ăn vừa hỏi:
– Chuyện thằng bé lúc sáng em vẫn chưa nói cho anh biết vì
sao nó phải vào sống trong rừng?
– Không phải nó bị người ta đem bỏ vào rừng mà là nó được
sinh ra ở trong rừng! Tú kể – Chuyện là thế này. Bố nó là con mo Sần. Mo Sần lại
là con mo Chít, một thầy mo có tiếng ở vùng này ngày xưa. Mẹ nó là một sơn nữ
mồ côi nhưng rất siêng năng. Cô ấy mới về nhà chồng được năm, sáu tháng gì đó
thì mắc phải bệnh hủi, tay chân và nhiều chỗ trên người
da thịt lở loét rất gớm ghiếc. Lúc bệnh mới phát người chồng còn để nằm dưới
gấm sàn, cạnh nơi nhốt trâu, khi bệnh nặng thì cả bố mẹ chồng và chồng đều
cương quyết đuổi cô ấy lên rừng. Lúc đó bụng cô ấy đã rất to, chân bước đi
không vững. Bà nội bảo trước đây những người mắc bệnh hủi khi bị đưa vào khu
rừng ấy thường chỉ sống thêm được một thời gian rồi chết. Riêng trường hợp của
cô ấy không những không chết lại còn sinh ra một thằng con trai khỏe mạnh.
– Thế địa phương không có ý kiến gì à?
– Nghe đâu lúc đầu thấy bệnh tình cô ấy như thế nên mọi người
cũng không muốn can thiệp. Sau đó có lẽ người ta nghĩ người đàn bà chắc đã chết
trong rừng nên cũng quên đi. Cách đây hai năm có một cô
giáo ở dưới xuôi lên xã ta dạy học, một hôm tình cờ cô gặp thằng bé xuống
chợ đổi nấm hương lấy muối. Cô tò mò đi theo và tiếp xúc được với người mẹ.
Nghe chuyện cô giáo đã khuyên cô ấy đưa con về sống với cộng đồng. Nhưng người
mẹ không nghe. Cô về báo cáo lại với ban Giám hiệu và lãnh đạo địa phương. Sau
đó xã và nhà trường cử một đoàn lên thăm và khuyên cô như lời khuyên của cô
giáo nhưng cô ấy nhất mực từ chối. Có lẽ cô ấy vẫn còn hận chồng, hận bố mẹ chồng
và tất cả mọi người.
Tuấn Minh buông một tiếng thở dài:
– Thật là một chuyện buồn có một không hai! Nó vo tròn cái lá
đầm cơm ném xuống đất rồi đứng dậy giục Tú – Ta vào trong khu rừng ấy đi em.
Trong rừng không khí thật trong lành. Càng vào sâu càng gặp
nhiều cây to. Phong lan thả từng chùm, lóng lánh như những cái đuôi cáo, sặc sỡ,
đủ màu. Tuấn Minh luôn miệng xuýt xoa. Nó cảm giác như là đang dạo trong rừng
Cúc Phương mà quên mất mình đang đi vào thế giới riêng biệt của những số phận
bị người đời xua đuổi. Bỗng Tú đưa tay ra hiệu cho Tuấn Minh dừng lại. Hình
như phía trước có tiếng gì tùm tùm như tiếng đá ném xuống nước. Tuấn Minh hỏi:
– Hay là “nó”?
– Đúng “nó” đấy! Tú ra hiệu cho Tuấn Minh im lặng. Nhưng Tuấn
Minh vì nôn nóng và không giấu nổi tò mò nên vẫn bước nhanh về phía trước rồi
bất ngờ kêu lên khi nhìn thấy thằng bé áo quần lốc thốc, tóc tai bù xù đang cúi
lom khom bên một vũng nước.
– Tú ơi! “Nó” kia kìa!
“Nó” giật mình ngẩng lên. Thấy người lạ trong rừng liền hốt
hoảng ném cái lồng nứa xuống, ù té chạy về phía cái chòi cách đó không xa, miệng
lắp bắp không thành tiếng:
– Mế ơi!
Hai anh em chạy vội đến vũng nước. Đó là một cái ao nhỏ,
xung quanh được kè thêm đá làm bờ. Dưới nước có rất nhiều sinh vật đang ngọ
nguậy. Hai anh em nhìn kĩ. Thì ra đấy là những con rùa núi có cái lưng nứt nẻ
và mốc thếch đang lăng xăng bơi lội. Tú nói:
– Ta lên chòi đi!
Hai anh em thận trong đặt từng bước nhẹ lên cái cầu thang ọp
ẹp. Người đàn bà bị xua đuổi năm xưa vẫn còn sống. “Nó” đúng là con của
chị. Hai mẹ con ôm chặt lấy nhau, ép mình sát bờ vách. Bốn con mắt trân trân
nhìn người lạ, nửa sợ hãi, nửa căm giận. Tú tiến lại nói:
– Cô đừng sợ. Bọn cháu ghé thăm mẹ con cô một lúc thôi.
Tuấn Minh nhìn kĩ hai chân và đôi bàn tay người mẹ. Tất cả vẫn
nguyên vẹn, chưa rụng một đốt nào. Nó lại gần, cúi xuống vuốt nhẹ lên mái tóc
bù xù của cậu bé, hỏi:
– Tên em là gì? Năm nay em mấy tuổi rồi cô?
Người mẹ đã phần nào yên tâm trước những cử chỉ thân thiện
của Tuấn Minh và Tú. Chị nhìn con, gạt nước mắt nghẹn ngào nói:
– Nó là thằng Suối. Năm nay hơn chín tuổi rồi.
– Sao cô không đưa em về làng? Bây giờ sáu tuổi trẻ đã phải
vào lớp một rồi! Tuấn Minh hỏi nhưng người mẹ chỉ khóc mà không trả lời. Nó lại
hỏi – Túp lều này tự tay cô làm à?
– Chồng tôi nó làm sẵn từ trước ngày đuổi tôi lên đây. Cả
mái tranh này nó cũng mới lợp lại.
– Gần mười năm trời! Cô làm gì để sống và nuôi em bé?
– Hồi đuổi tôi lên đây bố mẹ chồng chia cho nhiều thứ, cả giống
lúa, giống ngô, lại còn trồng sẵn cho một nương sắn rộng. Rừng có nhiều
hoa trái ăn được nên tôi cũng chưa bao giờ bị đói. Năm thằng Suối lên bảy tuổi
tôi cho nó đem nấm hương và mộc nhĩ xuống chợ Khèn đổi muối, thấy người Kinh
lên mua cả rùa, rắn, ba ba. Những thứ này trong rừng rất sẵn. Nó về bắt đem đổi
được nhiều thứ lắm. Hai năm nay mẹ con tôi không phải ăn sắn trừ bữa nữa. Lâu
lâu tôi mới cho cháu xuống chợ một lần.
Tuấn Minh tò mò hỏi:
– Cháu nghe nói hồi ấy cô bị bệnh phong nặng lắm. Sao tay
chân cô không thấy có dấu hiệu gì?
– Vâng! Hồi ấy tay chân và nhiều chỗ trong người tôi da thịt
lở loét, gớm lắm. Lúc ấy mặc dù biết tôi đang mang thai nhưng bố chồng tôi bắt
phải xuống gấm sàn nằm cạnh nơi nhốt trâu. Khi bị đuổi
lên rừng hai chân tôi đã không thể nào bước đi
bình thường được…
– Bằng cách nào cô tự chữa khỏi bệnh cho mình? Cô tìm được
thuốc quí à?
Người mẹ lắc đầu:
– Có thuốc men gì đâu! Một mình đơn độc ở trên rừng, đau đớn
quá, tôi định tìm lá ngón uống cho đỡ khổ thân, khổ con sau này. Lết trong rừng
cả buổi mà vẫn không thấy. Khát quá! Khi gặp một mó nước tôi liền xà đến. Nhưng
vừa giơ tay hứng thì tôi suýt ngã lăn vì nước nóng quá. Cả cái vũng nhỏ dưới
chân nước cũng còn âm ẩm. Tôi lội xuống, vục uống cho đã cơn khát rồi khoát
lên, kì cọ tay chân… Có đau rát một tí nhưng rất bõ hờn. Hôm ấy trở về lán nằm
tôi thấy đỡ đau và đỡ ngứa nhiều. Những chỗ lở loét máu tươi không rỉ ra nữa.
Từ hôm sau, ngày nào tôi cũng đến đó tằm giặt. Bệnh chuyển rất nhanh. Chỉ nửa
tháng sau các vết lở loét trên người và tay chân tôi đã khỏi hẳn.
– Sao lúc ấy cô không trở về nhà?
– Về làm sao được! Bố chồng tôi mê tín lắm. Biết đâu trông
thấy mình ông ấy lại nghĩ là ma.
Anh em Tú nhìn nhau rồi cùng buông một tiếng thở dài. Tuấn
Minh kéo thằng bé lại phía mình, ôm nó vào lòng, nói;
– Cô nên thu xếp đưa em về làng. Em lớn rồi, phải cho nó đi
học.
– Không về đâu! Người mẹ bất ngờ ôm mặt khóc tức tưởi – Mẹ
con tôi sống ở đây cũng quen rồi. Bố chồng tôi ác lắm. Chồng tôi thì qúa nhu
nhược. Anh ấy bảo tôi chờ ông ấy chết rồi hãy đưa con về…
– Vậy ra chú ấy vẫn lên thăm mẹ con cô à? Tuấn Minh hỏi.
Người mẹ gật đầu.
Tuấn Minh xem đồng hồ, thấy đã muộn liên nói:
– Bọn cháu còn phải đi tìm con trâu bị lạc. Chào cô bọn cháu
về!
Người mẹ vụt đứng dậy hỏi:
– Trâu nhà các cháu bị mất à? Mất lâu chưa?
Tú nói:
– Mới mất trong ngày hôm qua thôi cô ạ. Sáng nó lên rừng kiếm
ăn. Tối không thấy nó về.
Người mẹ suy nghĩ một lúc rồi bảo hai đứa:
– Các cháu đi với cô xem có phải con này không?
Chị dẫn hai anh em đến một cái hang đá giữa rừng. Cái hang
khá rộng nhưng lối vào lại rất kín đáo. Nền hang toàn đất thó, ở giữa đóng một
cây cọc bằng cả một khúc chẳng lim. Một con trâu bị xâu mũi bằng sợi thừng đay
dài buộc vào đó đang nằm đánh hàm nhai cỏ. Tú chạy đến, hồi hộp sờ vào một bên
tai nó rồi reo lên:
– Đúng con xứt tai của bà thím nhà mình rồi! Sao nó lại
ở trong này cô? Mũi nó để sổng kia mà?
Chị ngượng nghịu nói như người mắc lỗi:
– Không phải nó tự đến mà chồng tôi dắt lên
bảo mẹ con tôi trông hộ. Rồi chị nói như thanh minh – Từ ngày bị gỗ đè
gãy chân trên Bù Cheo, không làm được việc nặng anh ấy góp vốn buôn trâu với với
mấy người bên bản Tôm. Mua được con nào cũng đem lên đây nhờ mẹ con tôi trông
hộ. Đến phiên chợ Khèn mới lên dắt đi bán.
Mắt Tuấn Minh vụt sáng lên. Nó ghé tai Tú hỏi khẽ:
– Chồng cô ấy có phải là cái lão đi cà nhắc hôm qua dắt xe đạp
đến nhà Hoàng Mai lúc anh em mình đang ở đấy không?
Tú gật đầu rồi quay lại hỏi người mẹ:
– Chú ấy dặn hôm nào thì vào dắt trâu cô?
– Con này mãi đến sáng mùng năm âm lịch tháng sau mới dắt.
Tú kéo Tuấn Minh ra một góc hang nói:
– Như vậy là rõ rồi. Có lẽ do chuẩn bị giấy tờ không kịp nên
hắn chưa đem trâu xuống chợ bán ở phiên hôm nay được mà phải chờ đến mùng năm
tháng sau. Bây giờ mình tính thế nào anh?
Tuấn Minh suy nghĩ rồi nói:
– Em để anh! Chồng cô ấy không thể làm việc này một mình được.
Sau chú ấy chắc chắn phải có một nhân vật nữa, quan trọng hơn! Rồi Tuấn
Minh quay lại nói với người mẹ – Con trâu này là cả gia tài của thím
cháu. Nó bị chú ấy bắt trộm rồi đem gửi vào đây đợi tháng sau đến phiên chợ
Khèn sẽ bán cho bọn lái trâu. Nhưng chắc chắn việc này không phải một mình chú
ấy làm. Bọn cháu nhờ cô giữ kín chuyện và cứ để nó ở đây. Bọn cháu sẽ báo công
an làm rõ vụ này vì mấy tháng nay vùng ta liên tục bị mất trâu mà đến giờ
vẫn chưa tìm ra thủ phạm.
Người mẹ sững sốt kêu lên:
– Phạ ơi! Vậy ra lâu nay mẹ con tôi đã tiếp tay cho bọn người
xấu làm chuyện bậy rồi. Tôi thật có tội lớn với dân bản. Từ đầu mùa rét năm
ngoái đến nay, tháng nào chồng tôi cũng dắt vào đây một con gửi tôi chăm. Lâu
như con này là một tháng, còn thường thì chỉ hai ba ngày lại đã đến dắt
đi.
– Cảm ơn cô! Tú nói để cho người mẹ yên tâm – Trong việc này
cô không có lỗi gì đâu! Vậy là ta đã biết thủ phạm của những vụ trộm trâu là ai
rồi. Nhưng để bắt quả tang cần phải chờ đến lúc chú ấy vào dắt trâu cùng
đồng bọn đem đi bán. Mong cô hết sức giúp bọn cháu. Gìơ đã muộn rồi, chào cô bọn
cháu về đây.
Vừa bước chân ra khỏi Rừng Ma, Tú đã hỏi Tuấn Minh:
– Lúc ở trong hang anh nói đứng sau chồng cô ấy chắc chắn phải
còn một nhân vật quan trọng nữa. Người đó là ai? Anh nghi Chủ tịch xã em cũng
dính vào chuyện này à? Chủ tịch xã em là người rất tốt. Trước tết nhà chú ấy
cũng bị mất một con trâu.
– Đâu có chuyện ấy! Người mà anh muốn nói đến là Hoàng Mai
kia!
– Hoàng Mai? Sao anh dám khẳng định như vậy?
Tuấn Minh vỗ vai Tú cười:
– Em quên một chi tiết mỗi lần anh nói về Hoàng Mai rồi à? Chẳng
phải hắn đang bị công an tỉnh truy nã về tội làm con dấu giả là gì? Một
con dấu Quốc huy và dấu tên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân một xã miền núi vùng sâu
vùng xa như xã mình với anh ta thì có khó khăn gì!
Tú nhảy lên, vỗ tay reo to:
– Anh thật tuyệt! Đơn giản vậy mà em không nghĩ ra! Chắc là
hôm qua chồng cô ấy đến nhà Hoàng Mai lấy giấy tờ nhưng vì vướng bọn mình nên
Hoàng Mai đã không đưa. Vì thế nên hôm nay con trâu này đã không được đem xuống
chợ bán. Đúng vậy không?
Đài Phát thanh Truyền hình Thanh Hoá thực hiện phóng sự “Đào
Hữu Phương – Nhà văn của các em”
5. Cơn mưa rừng bất ngờ đổ xuống lúc chập tối làm kế hoạch lên
Bù Cheo của Tuấn Minh và Tú một lần nữa phải gác lại. Để giữ bí mật, bảo
đảm cho việc “phá án” thắng lợi, tối qua hai đứa đã không nói thật việc tìm thấy
con trâu cho ông bà biết. Suốt bữa cơm ông rất buồn, vừa ăn vừa bần thần nghĩ
ngợi. Sáng dậy ông bảo bà:
– Nhà mình còn hai con nghé. Để hôm nào mang sang cho thím ấy
một con nuôi, sau này lấy chút vốn dưỡng già. Rõ tội!
Ăn sáng xong nội bảo Tuấn Minh và Tú:
– Tối qua mưa to thế, khe suối nước đổ nhiều, đường lên
thác không đi được đâu. Gìơ ông phải lên trại rừng trồng dặm lại số quế bị chết.
Anh em mày có đi cùng ông không?
Không lên Bù Cheo mà ngồi nhà cũng buồn, Tuấn Minh quyết định
lên trại rừng trồng dặm quế với ông. Nó nói:
– Ông cho bọn cháu đi với. Cháu cũng đang muốn tìm hiểu thêm
về cây quế Chiềng Vạn. Nghe nói ngày xưa nó từng được dùng làm sản vật tiến
vua phải không ông?
Nội xoa đầu Tuấn Minh cười nói:
– Thằng đích tôn của ông nghĩ phải lắm! Là người gốc gác
vùng này, dù được sinh ra ở đâu, có dịp cháu cũng nên tìm hiểu để biết cặn kẽ về
cây quế quê mình. Hôm lên, dọc đường cháu có để ý quan sát hai bên đường
không?
– Có chuyện gì vậy nội? Trên đường đi, đến đâu cháu cũng chỉ
thấy những đám rẫy vừa phát hoặc mới đốt, tro than còn đen xì, nham nhở, trông
như những bức vẽ của một họa sĩ tồi đặt liền nhau.
– Chuyện ông muốn nói là ở đấy đấy! Cách đây hơn mười năm, bắt
đầu từ cầu Hón Đòn lên đến chân Bù Cheo rừng chỗ nào cũng toàn quế. Quế bạt
ngàn, tưởng không một cây gì mọc chen vào được. Thứ của lâm trường quốc
doanh, thứ của hợp tác xã, thứ của dân trồng trong vườn. Nhiều vô kể. Vậy mà
chỉ không đầy hai năm người ta đã triệt phá không còn sót một cây. Bắt đầu là
một nhúm người lạ mặt từ đâu đến móc nối với bọn xấu ở Bù Đồn lén lút
vào rừng bóc trộm, đóng vào từng bì nhỏ chờ đêm xuống mới chuyển đi. Dần dần cả
công nhân lâm trường rồi đến dân bản cũng hạ quế vườn nhà xuông bóc lấy vỏ
bán cho bọn buôn. Cây quế châu Thường xem như đã cơ bản bị xóa sổ từ đó. Dĩ
nhiên giống quế Chiềng Vạn của quê mình cũng cùng chung số phận. Việc ông và những
người khác đang làm mấy năm nay là nằm trong chương trình dự án khôi phục lại
rừng quế đã bị tàn phá. Kết quả rất khả quan. Quế ông trồng tuy mới được một
năm tuổi nhưng nhìn đã rất thích mắt. Nào, giờ hai anh em lấy đòn
khiêng giúp ông số quế này lên trại rừng trước
đi. Dọc đường nếu anh Minh mỏi vai Tú nhớ dừng lại để anh nghỉ rồi hãy
đi tiếp. Ông qua chỗ thím Kiên một lúc rồi sẽ lên sau.
Sau những ngày nắng nóng kéo dài, được trận mưa không khí
trở nên trong lành, mát mẻ lạ thường. Tuấn Minh bỏ dép, thích thú đặt những bước
chân trần trên nền đất ẩm của đồi quế. Quế được trồng ngay hàng thẳng lối, cây
nào cũng mập mạp, đầy sức sống. Tuấn Minh không hiểu từ bao giờ và bằng cách
nào mà nội lại có thể trồng được nhiều quế như vậy. Như đoán được ý nghĩ
trong đầu Tuấn Minh, nội xoa đầu nó nói:
– Một mình ông thì không thể trồng được nhiều thế này đâu.
Nhận đất xong ông phải đứng ra vay vốn ngân hàng để lấy tiền mua cây giống và
thuê người trồng. Trồng quế, trồng bạch đàn cũng có thu nhập, họ đỡ phải lên Bù
Cheo hạ pơ mu xẻ bán. Trong xã, một số hộ có điều kiện cũng làm như ông. Muốn
cứu được rừng, làm sống lại những rừng quế đã bị tàn phá phải có công sức của
rất nhiều người, có chính sách đúng để họ yên tâm với khu rừng được giao. Nội
ngồi xuống, đưa tay khỏa nhẹ lớp đất màu quanh mấy gốc quế non, vừa làm nội vừa
giảng giải – Trồng và chăm sóc quế cũng công phu lắm. Lúc phát dọn rẫy nên chừa
lại ít cây thân mềm, có tán rộng để sau này che nắng cho quế mới trồng. Thích hợp
nhất là cây bùng bục. Khi quế đã cứng cáp, lớn vượt lên, cần nhiều nắng lại phải
tìm cách chặt những cây che nắng đi. Quế lớn được là nhờ bộ rễ ăn ngang, hút
chất màu trong lớp đất bề mặt để nuôi cây. Còn cái rễ độc chỉ để bám chân, giữ
cho cây khỏi đổ khi trời giông bão. Quế là thứ cây không ưa ẩm. Lúc làm cỏ, khỏa
đất quanh gốc, sơ ý để gốc quế thấp hơn xung quanh, nước mưa đọng lại, thối rẽ,
cây cũng chết. Từ sáng đến giờ các cháu có để ý không? Số cây hôm nay ông cháu
mình phải trồng dặm lại phần lớn bị chết cũng vì lí do ấy đấy!
Lúc về nội dẫn Tuấn Minh đi thẳng ra đám vườn rộng sau
nhà. Góc vườn là một cái ao đầy nước. Đám vườn đã được cày bừa và chia
thành nhiều luống. Thoạt nhìn Tuấn Minh tưởng mặt đất như được phủ một lớp
sương mỏng, lại gần mới thấy rõ những mầm nhỏ li ti như những cây kim.
– Sao lại gieo mạ vào tháng này, ông?
– Quế giống đấy! Nội cười – Cháu biết mỗi luống có bao nhiêu
cây không?
– Cháu làm sao mà đếm được!
– Dễ thôi! Mỗi luống ông gieo nửa ki lô hạt. Sau này loại trừ
những cây ốm yếu, sâu bệnh cũng được gần sáu trăm cây con. Đám vườn này có
năm luống, sẽ có từ hai ngàn rưỡi đến ba ngàn cây quế giống. Trong bản bây giờ
nhiều nhà đã có vườn ươm. Nhà ít cũng gieo một hai ki lô hạt…
– Giống nhiều thế, trồng vào đâu cho hết, ông?
– Cháu lo thiếu đất à? Rừng bạt ngàn ra đấy! Chỉ cần trồng
cho kín số diện tích cũ đã bị tàn phá cũng phải mất nhiều năm ươm mầm cây giống
nữa mới đủ!
– Thế hạt giống thì lấy ở đâu ông?
– Tít trong Bàn Tạn! Để chiều ông đưa cả hai đứa vào trong ấy
chơi. Cũng may là trong cơn sốt phả rừng, vườn quế ấy vẫn còn giữ lại được.
Nắng dịu, nội lấy hai lạng chè và hai bánh thuốc lào bỏ vào
túi thổ cẩm bảo Tú mang theo. Nội dặn bà tối ba ông cháu ngủ lại trong Bàn Tạn
để bà khỏi chờ.
Ba ông cháu mải mốt đi trên con đường gồ ghề, đầy sống trâu
và những vũng nước đọng vì trận mưa tối hôm qua. Lúc mặt trời chếch bóng họ mới
tới một khu rừng toàn quế. Ở đây có những cây quế to cả vòng tay ôm của người
lớn. Tuấn Minh ngỡ mình đang mơ vì từ nhỏ đến giờ nó mới gặp một khu rừng nhiều
quế to như thế. Thấp thoáng trên cao có một nếp nhà sàn. Nội dừng lại trước
cái cổng lớn bằng luồng, nói:
– Nhà cụ Cầm Bá Quế đấy! Cụ là chủ của cánh rừng quí này.
Ngày ông chưa về, nhiều lần bọn xấu đã kéo vào, hăm dọa, định cướp đoạt vườn
quế của cụ. Nhưng chúng không làm gì được vì cụ có đàn chó rất dữ. Bây giờ
cánh rừng này là nơi cung cấp hạt giống cho cả vùng.
Nội vừa nói vừa luồn tay vào trong kéo sợi mây. Đầu đây trong
nhà vang lên tiếng mõ lốc cốc. Chó sủa ầm ĩ, cứ như trong rừng đang có cuộc
săn lớn. Lúc sau, một cụ già khỏe mạnh, râu tóc bạc trắng ra mở cổng. Giọng cụ
âm vang như tiếng cồng, tiếng chiêng:
– Ôi! Bạn già của ta! Lâu nay bận gì mà không thấy vào chơi?
Còn những ai đứng sau nữa?
– Hai thằng cháu nội! Nội chỉ anh em Tuấn Minh nói.
Gia Quế xoa đầu Tú nói:
– Đây là con thằng Lâm phải không? Còn cháu này? Gìa chỉ
Tuấn Minh hỏi – Nó là con ai mà lâu nay chưa gặp?
– Nó là thằng đích tôn nhưng sinh ra và lớn lên ở thành phố.
Hè này bố nó cho về chơi với tôi một tuần.
-Vậy à? Gìa Quế xoa đầu Tuấn Minh – Đứa nào cũng lớn cả rồi!
Vui quá! Nào, lên nhà đi!
Ba ông cháu theo già Quế lên nhà. Dưới gầm sàn có tới năm,
sáu con chó được xich mỗi con một gốc cột. Con nào trông cũng dữ tợn. Gìa Quế
bắc ấm nước đang sôi sùng sục trên bếp xuống, tráng ấm pha chè rồi rót ra mấy
cái li làm bằng nứa, cái nào cũng đã nổi màu nâu bóng. Gìa đưa cho nội một li
và bảo hai thằng nhấc li của mình lên uống. Nội nhấp một ngụm nhỏ, đặt li xuống
sàn, chỉ Tuấn Minh nói:
– Thằng này sống ở thành phố từ nhỏ, giờ về quê thấy cái gì
cũng lạ. Nó rất muốn biết nơi cho hạt giống quế. Nó còn muốn nghe chuyện bóc quế
rừng trên Bù Cheo nữa. Bác kể cho anh em nó nghe đi!
Gìa Quế vuốt chòm râu trắng như cước, mắt nhìn ra ngoài rừng
nói:
– Chuyện cũ rồi, không muốn nhắc lại
nữa. Nhưng thằng cháu thích thì đợi đến tối rồi ông sẽ kể cho mà
nghe. Bây giờ hai đứa giúp ông làm thịt con gà, để nấu cơm ăn cái đã.
Thằng Tú như đã quen với việc này. Nghe già Quế nói nó đứng
dậy đến bờ vách lấy cái xanh đồng ra đầu hồi nghiêng ống vèo đổ đầy nước, đem
vào đặt lên bếp rồi theo già lại cầu thang để xuống sân. Tuấn Minh chạy theo,
túm vạt áo nó hỏi nhỏ:
– Này, có thấy gà qué gì đâu mà đun nước?
Tú xua tay nói:
– Anh yên tâm đi. Sẽ có ngay bây giờ thôi!
Gìa Quế lại mở xích cho hai trong số năm con chó rồi ra góc
sân cầm một hòn đá nhỏ ném lên rừng. Hai con chó tức thì vọt lao đi như hai
mũi tên. Đàn gà thả rông trong rừng quế táo tác bay loạn xạ. Chỉ nghe hai tiếng
oác hai con chó thiện nghệ đã tha về mỗi con một con gà trống béo núc. Chúng đặt
hai con gà còn ngắc ngoải dưới chân già Quế rồi ngoan ngoãn trở lại gốc cột nằm
chờ chủ đến mắc xích vào cổ. Gìa Quế gọi:
– Tú à! Đem cắt tiết rồi làm lông đi cháu.
Tú nhanh nhảu xách hai con gà lên nhà, đem ra đầu hồi cắt tiết
trước khi chúng chết vì vết cắn khá sâu của hai con chó. Trên bếp xanh nước
cũng vừa nóng già. Tuấn Minh bắc xuống đem ra cho Tú nhúng gà rồi ngồi cùng nó
nhổ lông. Vừa làm Tuấn Minh vừa tò mò hỏi:
– Đây là gà nuôi hay gà rừng?
– Anh này! Làm gì có gà rừng ở đây! Gà nuôi đấy. Đàn gà của
già phải đông tới hàng trăm con. Ban ngày chúng nó bắt sâu, bắt mối trong rừng
quế ăn. Tối lại thì lên cây ngủ. Cầy cáo có đến cũng chịu.
Bữa cơm ngoài hai món thịt gà rang và luộc còn có món canh đắng
nấu bằng lá chân chim với hai bộ lòng gà và món măng héo có vị chua ngọt thật
thơm ngon. Không biết có phải do cả ngày phải đi nhiều, bụng đói và mệt hay vì
lần đầu được ăn những món ăn lạ mà Tuấn Minh có cảm giác thật ngon miệng. Anh
em Tuấn Minh chén no đã từ lâu mà hai ông già vẫn ngồi nhấm nhí bình rượu cẩm
ngâm với mật ong rừng. Lúc cuộc rượu của người già tàn thì đã hơn mười giờ
đêm. Dọn rửa mâm bát xong, Tuấn Minh ghé tai nội nói nhỏ:
– Ông bảo già kể chuyện bóc quế trên Bù Cheo đi!
Nó nói rất khẽ nhưng già Quế ngồi bên vẫn nghe được. Gìa cười
nói:
– Ừ nhỉ! Ham uống rượu quá nên tí nữa quên việc đã hứa với
thằng cháu mới từ thành phố lên. Tú à, thêm củi vào bếp cho nhà sáng lên rồi ngồi
cả lại đây ông kể chuyện bóc quế trên Bù Cheo cho nghe một thể.
Nhưng mà trước khi kể chuyện đi bóc quế rừng ta muốn hỏi ý kiến bạn già
và hai thằng cháu chuyện này xem có nên không đã!
– Chuyện gì vậy bác? Nội hỏi.
– Chuyện nhỏ thôi, nhưng mấy hôm nay nó làm ta khó nghĩ quá.
Nếu bạn không vào chơi chắc ta cũng phải cất công ra tận nhà hỏi ý kiến mất. Là
thế này. Năm hôm trước thằng con nuôi Lò Văn Páo dưới bản Tôm có đưa một
cán bộ cấp tỉnh lên nhà tìm gặp ta. Cán bộ đó đưa ra cái giấy giới thiệu của
Chủ tịch tỉnh yêu cầu ta để lại cho các anh ấy bộ xương hổ để đem về nấu cao tết
này làm quà gửi biếu các vị lãnh đạo Trung ương. Bộ xương này lâu nay có rất
nhiều người đến hỏi mua nhưng ta không bán vì ta còn
muốn chờ qua tết Xên Mường(1), xong ngày giỗ lần thứ sáu mươi của anh ta rồi
ta mới bỏ ra nấu cao chia cho dân bản mỗi người một ít phòng lúc ốm đau.
Chuyện đau lòng của ta sáu mươi năm trước bạn già đã biết rồi, nhưng hai thằng
cháu thì chưa đứa nào biết. Vậy hôm nay có tí hơi men tiện thể ta cũng kể cho
các cháu nghe luôn. Sáu mươi năm trước bản Bàn Tạn của ta còn nghèo lắm. Nhà
ta lại càng nghèo hơn vì bố mẹ chết sớm, chỉ còn hai anh em ở với nhau. Năm ấy
đúng vào dịp tết Xên Mường mà trong ngôi nhà sàn rách mướp của anh em ta
không còn cái gì để bỏ bụng. Bọn ta phải lên rừng để kiếm cái ăn. Được một dây
củ mài lớn, anh để ta ở lại đào còn mình thì tiếp tục đi sâu vào rừng để tìm
thêm bụi khác. Ngày ấy trên Bù Cheo cọp rất nhiều. Ta đang lúi húi đào thì nghe
đánh rầm một tiếng ở khu rừng trước mặt. Ngẩng lên ta thấy một con cọp đang
lao tới. Ta vội ném thuổng chạy lại lèn đá gần đấy và nhanh chân trèo được lên
cao. Con cọp không làm gì được ta cứ lồng lộn đi đi lại lại dưới chân lèn đá.
Lúc ấy anh ta cũng đang đào củ mài ở gần đấy, nghe tiếng hú biết ta gặp nguy hiểm
vội chặt một cây nứa, phạt nhọn một đầu rồi chạy đến, lao vào quần nhau với
con cọp. Anh ta lúc ấy vừa tròn hai mươi tuổi, hơn ta năm tuổi. Tuy hàng ngày
ăn không đủ no nhưng anh ta rất khỏe. Hai bên quần nhau rất quyết liệt.
Đúng ra nếu lúc ấy ta can đảm
nhảy xuống, lấy thuổng xum vào cùng anh đánh lại con cọp thì chắc hai anh
em sẽ đuổi hoặc giết được nó. Nhưng ta hèn quá, chỉ biết đứng trên cao dương
mắt nhìn mà không dám xuống. Sau một hồi quần nhau, anh ta đã lừa đâm được đầu
vát nhọn của cây nứa vào đúng tim con thú. Nhưng trước lúc hấng trọn cú đâm
hiểm hóc của anh ta con cọp cũng đã kịp giáng cho anh ta một cái tát chí mạng
vào giữa mặt. Rồi sau đó cả người và thú đều gục chết trên vũng máu. Lúc ấy ta
mới lần xuống, chạy lại ôm xác anh vật vã khóc đến xưng cả hai mắt. Sau đó ta
về báo với dân bản. Dân bản kéo nhau lên đưa xác anh ta và con cọp về. Họ giúp
chôn cất anh ta rồi xẻ thịt con cọp chia nhau còn bộ xương thì giao cho ta để
sau này có ai mua thì bán. Nhưng ta không bán mà cho tất cả vào một cái chum để
suốt từ ngày ấy đến giờ. Ta có lời nguyền khi nào
ta sống đủ bảy mươi lăm tuổi và anh ta đủ sáu mươi lần giỗ thì sẽ bỏ nó
ra nấu cao để chia cho dân làng mỗi người một ít. Nay ta đã bảy mươi lăm và
anh ta chết cũng đã tròn sáu mươi năm. Vậy bây giờ lãnh đạo tỉnh cử người lên
hỏi mua, bạn già và hai cháu bảo ta nên bán hay tặng cho Chính phủ?
Tuấn Minh nghe xong nghi ngờ hỏi:
– Thế hôm anh cán bộ ấy lên có người của huyện hay xã đi
cùng không già?
– Chỉ mình thằng Lò Văn Sao dẫn lên thôi, không có cán
bộ huyện hay xã gì cả. Gìa Quế tự tin nói – Nhưng người ấy có đưa
ta xem cái giấy giới thiệu của văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, có đóng dấu quốc
huy, có chữ kí rất dài và cả dấu tên Chủ tịch tỉnh bằng mực đỏ. Ta tuy không biết
chữ nhưng nhìn vào con dấu đỏ chót cũng biết đó là người của Chính phủ thật
mà!
Tuấn Minh bấm vào vai Tú rồi hỏi:
– Vậy già trả lời người ấy thế nào?
– Người ấy muốn gửi trước ta ít tiền, nhưng ta chưa cầm,
bảo từ từ rồi ta sẽ trả lời vì lúc ấy ta nghĩ phải để hỏi ý kiến ông bạn già
đây cái đã. Vậy ý bạn thế nào? Hay là mình tặng không cho Chính phủ? Tiền nhiều
có tiêu đến đâu!
– Bác nghĩ thế cũng được! Nội nói – Nhưng phải để tôi bảo
thằng Lâm kiểm tra thông tin này lại đã. Nhỡ gặp phải bọn lừa đảo thì hố to.
Thường thì cán bộ cấp tỉnh muốn làm việc gì dưới xã họ cũng đều phải qua huyện
rồi huyện cử người đi cùng chứ ít ai tự động xuống thẳng nhà dân mà không qua
cả xã như vậy.
– Phải thế thì tạm gác chuyện này lại. Gìơ ta kể chuyện bóc
quế trộm trên Bù Cheo cho hai thằng cháu nghe để chúng nó còn đi ngủ đã. Gìa
ném thêm vào bếp một khúc củi rồi rủ rỉ kể – Ngày xưa quế là thứ vừa quí
vừa hiếm. Một thanh quế tốt dài độ hai gang tay có thể đổi được đôi trâu đực.
Quế quí như vậy nhưng không phải ai cũng được trồng. Chỉ có người nhà hoặc
tay chân tin cậy lắm Lang mới cho trồng trong vườn vài cây. Còn quế rừng thì rất
hiếm. Bởi khi rơi xuống, hạt giống rất khó nảy mầm hoặc có nảy mầm cũng khó vươn
lên được vì tầng lá mục quá dày và tán cây rừng rậm rạp. Thường quế hoang chỉ
mọc và sống được trên mấy đỉnh núi cao. Vùng mình từ xưa đã có câu: “Trộm
trâu không bằng lậu quế”. Ai gặp quế rừng, không báo quan cứ im đi mà bóc thì tội
sẽ nặng lắm! Năm hai mươi tuổi ông tìm được một cây quế bạch trên đỉnh Bù
Cheo, muốn bóc ít thanh để dành, bèn bí mật rủ ông Cả Soi, góp cơm gạo, kiếm
con lợn sữa lên cúng ma rừng để bóc vỏ…Quan biết, sai trói hai người, đánh đủ
mỗi người ba trăm roi mây. Ông Cả Soi phải đi ở phạt cho nhà Lang, còn ông thì
trốn sang Quế Phong, mãi mấy năm sau mới dám trở về…
– Thế những hạt giống quế trên rừng thì từ đâu mà có hả ông?
Tuấn Minh hỏi.
– Việc ấy là nhờ các giống chim. Đông nhất là chim đầu bạc. Cứ
đến mùa quả chín, từ bên Nghệ An chúng lại vượt mấy đỉnh núi cao, kéo sang từng
đàn, ăn quả rồi bay đi tứ tán…Hạt quế lẫn trong phân chim, nếu gặp nơi thoáng
mát, sẽ nảy mầm, mọc rất nhanh. Giống chim đầu bạc ấy hơn mười năm trước ở
vùng mình còn rất nhiều. Chỉ từ ngày rừng quế bị tàn phá, không còn nơi kiếm được
thức ăn, chúng nó mới phiêu dạt đi đâu hết cả…
– Rồi nó có trở về không ông? Tuấn Minh lo lắng hỏi.
– Ông làm sao biết được! Gìa Quế nhìn
ra vườn rừng buồn rầu nói – Mấy hôm nay tối nào ông cũng mơ những con
chim đầu bạc ấy trở về. Ông vẫn dành những cây quế sai quả lại. Nhưng chờ mãi
vẫn không thấy chúng. Sáng nay, lúc sương chưa tan, nghe ngoài rừng có tiếng
lao xao, chó sủa nhiều, ông ra nhưng vẫn không thấy dấu hiệu gì. Hay là chúng
bay qua mà không đậu lại?
… Đêm ấy nội và già Quế đốt lửa, thức nói chuyện đến khuya.
Thằng Tú mình cuộn cái chăn mỏng cũng đã ngủ say như chết. Hương thơm ngào ngạt
tỏa khắp căn nhà từ những thanh củi quế làm Tuấn Minh cũng thao thức, không sao
ngủ được. Nó cố hình dung vóc dáng một con chim đầu bạc. Chắc đấy phải là loài
chim có đôi cánh khỏe mới đủ sức bay vượt đỉnh Bù Cheo và phải có chòm lông trắng
muốt trên đầu nên người ta mới đặt tên như thế…Rồi Tuấn Minh thiếp đi. ..
Trong giấc mơ nó gặp cả một đàn chim có những cái đầu bạc trắng và đôi cánh khỏe
đúng như lúc chưa ngủ nó vừa tưởng tượng. Đàn chim từ bên kia Bù Cheo bay
sang. Chúng sà xuống những cây quế quả sai trĩu cành trong vườn rừng, vừa líu
ríu gọi đàn vừa đua nhau mổ quả chín…Bỗng không gian ồn ĩ lên vì những tiếng
chó sủa ngạu xị. Tuấn Minh nghe tiếng già Quế nói:
– Bạn à! Thức hai thằng cháu dậy đi. Chim đầu bạc về thật rồi!
Cả Tuấn Minh và Tú cùng lồm cồm vùng dậy. Trời đã sáng từ lúc
nào. Tuấn Minh đẩy cửa sổ, nhìn ra vườn rừng. Sương sớm còn chưa tan hết,
nhưng trên ngọn những cây quế sai trĩu quả quanh nhà đã có thể nhìn rất rõ những
con chim rừng vừa líu ríu gọi bạn, vừa hăm hở mổ quả chín. Con nào cũng có một
túm lồng trắng muốt trên đầu và đôi cánh khỏe y hệt như nó đã gặp trong mơ…
Trại Sáng tác văn học cho thiếu nhi hè 1990 do Hội Nhà
văn Việt Nam tổ chức ở Hà Nội là một “cú hích” đối với Đào Hữu Phương. Từ một
cây bút nghiệp dư lại sống xa thành phố, các sáng tác chủ yếu in ở địa phương,
sau khi tham gia trại, ông bắt đầu mạnh dạn gửi bài đến các báo Trung ương.
Trang Văn học Thiếu nhi Báo Văn Nghệ, Chương trình Văn nghệ Thiếu nhi Đài Tiếng
nói Việt Nam, Báo Thiếu Niên Tiền Phong đã dành thời lượng phát sóng và đăng tải
nhiều truyện ngắn, truyện dài kỳ viết cho thiếu nhi của ông. Bạn nghe đài và độc
giả nhỏ tuổi trên mọi miền đất nước đã biết tới và yêu mến nhà văn Đào Hữu
Phương
6. Gìa Quế tiễn ba ông cháu xuống đường, đứng nhìn lưu luyến một
lúc rồi mới quay vào đóng cổng. Lội qua con suối cạn, nội không đi theo lối cũ
mà rẽ vào con đường đất đỏ mịn màng. Tuấn Minh nhắc:
– Ông ơi! Hình như là đi sai đường rồi.
Nội cười nói:
– Theo lối này sang Ngù rồi cũng về nhà được. Ông còn
muốn ghé thăm thầy giáo Tâm một lúc. Thầy Tâm về hưu đã năm năm rồi. Thầy là
giáo viên dạy văn lâu năm ở trường Trung học phổ thông huyện. Kiến thức của thầy
về các lĩnh vực xã hội rộng lắm. Bố các cháu đều đã được học với thầy.
Tú reo lên:
– Cháu cũng đã được nghe thầy đến trường nói chuyện về cụ tổ
Cầm Bá Thước trong một gìơ ngoại khóa rồi. Thầy nói hay lắm!
Tuấn Minh háo hức:
– Hẳn thầy là cả một pho tư liệu sống về con người và bản sắc
văn hoá Thái. Được nghe thầy nói chuyện thì thú vị lắm. Ở thành phố thỉnh thoảng
có dịp cháu lại đến Thư viện Khoa học tổng hợp nghe các chuyên gia về Dân tộc
học nói chuyện với độc giả.
Nội xoa đầu Tuấn Minh:
– Yên chí đi! Nếu cháu muốn nghe thầy nói chuyện lát nữa ông
sẽ cho hai anh em ở lại chơi, chiều về sau cũng được.
Ba ông cháu rẽ vào một lối nhỏ đầy bóng cây rồi dừng lại trước
một nếp nhà sàn xinh xắn. Một ông già dáng đạo mạo, mặc bộ pi-da-ma sọc bước từ
trên cầu thang xuống, ra tận cổng đón.
– Chào thầy Tâm! Nội lên tiếng trước – Thầy có khỏe không?
– Chào bác! Cảm ơn bác tôi vẫn khỏe. Mời bác vào nhà đi.
Ba ông cháu theo thầy Tâm bước lên cầu thang. Khác với ngôi
nhà sàn cổ làm bằng nhiều loại gỗ quí, bào đục rất sơ sài của già Quế, nhà thầy
Tâm được làm toàn bằng gỗ quế. Cột, xà bào rất nhẵn và được đánh qua một lớp
dầu nên có màu nâu rất bóng. Cửa sổ thầy mở rất nhiều nên trong nhà rất sáng sủa.
Gian Hoòng hoóng (2) cũng rộng hơn các gian khác nhưng phía dưới
bàn thờ tổ tiên còn được kê một cái kệ cũng đóng bằng gỗ quế, có nhiều
ngăn. Trong mỗi ngăn xếp ngay ngắn rất nhiều sách. Cứ như một góc thư viện. Cạnh
cửa sổ là một cái bàn viết thấp, trên bàn đặt mấy cuốn sách và một tập giấy A4
đang viết dở. Thầy Tâm vừa rót nước pha chè vừa nói:
– Bà nhà tôi ra ngoài Ngù có tí việc. Bác uống nước đi. Ông
cháu đi từ lúc nào mà lên sớm thế?
Nội lấy trong túi thổ cẩm ra gói quà, đặt lên bàn rồi nói:
– Hôm qua tôi đưa hai thằng này lên thăm già Quế. Tối ngủ lại
trên ấy giờ mới qua đây.
– Vậy à? Gìa Quế có khỏe không bác?
– Ông cụ hãy còn cường tráng lắm!
Thầy bảo Tuấn Minh và Tú uống nước rồi hỏi:
– Hai đứa này đều là cháu nội bác à?
– Vâng! Thằng này… Nội chỉ Tú – Là con thằng Lâm, Công an huyện.
Còn thằng này…Nội chỉ Tuấn Minh – Là con thằng Sơn, công tác ở Sở Kế hoạch – Đầu
tư tỉnh. Cháu vừa học hết lớp Mười trường chuyên Lam Sơn. Lần này thằng Sơn
về huyện công tác nên cho nó về chơi với tôi một tuần.
– Thế à? Thầy Tâm nhìn Tuấn Minh bằng cả ánh mắt đầy thán phục
– Ở thành phố mà vào được ngôi trường danh giá ấy là đáng nể lắm. Em học khối
nào?
– Dạ, cháu học lớp chuyên văn ạ!
– Chuyên văn! Thầy Tâm ngạc nhiên – Vậy em không định nối
nghiệp bố à?
Tuấn Minh ngượng ngùng không đáp.
Nội nhấp thêm ngụm nước rồi xoa xoa hai bàn tay vào nhau
nói:
– Ông cháu tôi vào thăm thầy, thấy thầy vẫn khỏe nên rất mừng.
Gìơ có lẽ xin phép thầy tôi phải về vì hôm qua mới trồng dặm ít quế, phải tưới
cho nó kẻo nắng này lại chết hết. Lúc nào thư thả mời thầy ghé qua nhà chơi.
Thầy Tâm tỏ ra không vui:
– Sao mới ngồi chơi một lúc bác đã về ngay. Ở lại ăn với vợ
chồng tôi bữa cơm đã. Tôi có câu chuyện cũng đang muốn nói với thằng cháu
này.
Nội nhìn Tuấn Minh nói:
– Vâng! Thằng này nó cũng đang rất muốn được nghe thầy nói
chuyện. Hay thầy cho cháu ở lại chơi rồi chiều em nó đem xe đạp lên đón về sau.
– Thế cũng được! Thầy Tâm vui vẻ – Vậy bác và cháu tranh thủ
về kẻo nắng.
Tuấn Minh theo thầy Tâm ra cổng tiễn nội và Tú rồi mới trở
lên nhà. Thầy bảo Tuấn Minh ngồi đối diện với mình bên bàn viết rồi chuyện trò
với nó một cách thân mật:
– Học văn là học làm người. Sau này dù có đi dạy học hoặc
làm công tác nghiên cứu, làm nhà văn, ngoài kiến thức cơ bản còn phải bổ sung
thêm vốn sống thực tế ngoài đời. Cố lên em ạ! Thầy nhìn sang cánh rừng trước
nhà thì thầm nói như dốc bầu tâm sự – Ngày thầy còn đứng trên bục giảng, có
hai học trò thầy yêu quí và kì vọng nhất là bố em và Cầm Bá Lai ở Lùm Na. Cả
hai trò này đều rất giỏi văn, từng đoạt giải cao trong kỳ thi học sinh giỏi môn
học này ở cấp tỉnh. Lúc vào Đại học không hiểu sao chỉ có mình Cầm Bá Lai đăng
kí nguyện vọng học khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp, còn bố em thì lại ghi tên học
trường Kinh tế – Kế hoạch. Cầm Bá Lai phận mỏng, ra trường về tỉnh công tác
chưa được bao lâu đã sớm ra đi, chỉ để lại cho đời công trình sưu tầm Tục
ngữ Thái và bao công việc còn dang dở. Ngoài bố em và Cầm Bá Lai, trước và sau
đó thầy cũng còn nhiều gương mặt đáng nhớ. Họ chẳng những học giỏi môn văn mà
còn có năng khiếu sáng tác văn học nữa. Nhiều người ngay lúc còn ngồi trên ghế
nhà trường đã có thơ in báo và tạp chí văn nghệ địa phương. Thầy cũng hi vọng
sau này học xong bậc Đại học họ sẽ là những nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học,
nhà văn, nhà thơ làm rạng rỡ cho quê hương. Nhưng cứ sau một khoảng thời gian
dài trên dưới chục năm, khi gặp lại lại thấy họ đang ngồi ở cương vị trưởng
một ban phòng nào đó dưới tỉnh hoặc là Chủ tịch, phó Chủ tịch huyện rồi. Nhắc
lại những bài thơ và những khát vọng văn chương ngày xưa họ chỉ cười. Thầy
không biết nên buồn hay nên vui…
Tuấn Minh dè dặt:
– Thưa ông, cháu muốn hỏi…
Thầy Tâm xua xua tay ngắt lời Tuấn Minh:
– Đừng xưng hô thế! Cứ gọi thầy xưng em cho thân mật. Em muốn
hỏi thầy điều gì?
– Dạ, điều em muốn hỏi là hồi còn đi học bố em học giỏi văn
hay giỏi toán ạ?
– Bố em học giỏi cả hai môn nhưng theo nhận xét của thầy thì
khả năng văn học của bố em vẫn xuất sắc hơn.
– Vậy mà bây giờ em thấy bố em rất ít đọc các tác phẩm văn học.
Tuấn Minh nói và cảm thấy buồn.
– Cũng có thể là vì công việc. Những người làm chính trị,
làm kinh tế thường ít có thời gian và hứng thú để đọc các tác phẩm văn học –
Ông giáo già bất ngờ đưa ra một câu hỏi – Em có nhận xét gì về ngôi nhà của thầy
không?
– Dạ! Tuấn Minh có phần lúng túng – Em thấy đây là một ngôi
nhà sàn có kiểu dáng rất đẹp. Thầy kiếm đâu được nhiều gỗ quí thế ạ?
– Không phải gỗ rừng đâu. Toàn quế đấy! Tất cả vật liệu làm
nên ngôi nhà này già Quế đều lấy từ vườn rừng của mình tặng thầy. Cọ lợp mái
là loại lá già, trăm năm sau không phải lợp lại vì nó còn bền hơn cả
ngói. Đây là kiểu nhà sàn truyền thống của người Thái. Chỉ khác là kích
thước thầy đã rút xuống chỉ còn tám mươi lăm phần trăm thôi. Em lại đây, thầy
cho xem cái này.
Nhà văn Đào Hữu Phương (áo trắng) chụp ảnh lưu niệm với Anh
hùng Lực lượng vũ trang Lò Văn Bường, trong chuyến đi thực tế ở Chiềng Vạn (Thường
Xuân, Thanh Hoá) để viết “Tiếng vọng rừng xanh”, năm 2005.
Tuấn Minh theo thầy Tâm đi sâu vào phía trong. Thầy mở cửa một
gian kho, trong chứa rất nhiều vật dụng bằng đồng. Đặc biệt có cả một bộ cồng
chiêng hơn chục cái. Thầy nói :
– Gian này gọi là gian Hoòng hờ, Hoòng hờ là cái
kho để cất giữ tài sản chung của cả gia đình. Thầy dùng nó làm nơi lưu giữ, bảo
quản những vật dụng truyền thống của người Thái đã sưu tầm được. Bộ cồng
chiêng này là tài sản quí giá nhất của dòng họ Cầm. Tổ tiên người Thái ở huyện
Thường nói chung và dòng họ Cầm nói riêng ngày xưa đã phải trải qua một cuộc
di cư từ vùng núi Tây Bắc của đất nước qua Lào rồi mới đến đây lập nghiệp. Bộ
cồng chiêng này đã theo dấu chân các cụ trong suốt cuộc hành trình gian lao và
vất vả ấy. Vậy mà cách đây không lâu, vào thời điểm kinh tế đất nước khó khăn
có mấy thanh niên hư hỏng trong bản đã lấy trộm nó đem bán cho một bọn người
xấu. Thầy đã phải rút toàn bộ số tiền tiết kiệm gửi Ngân hàng để chuộc lại. Nhưng
đấy là những tài sản hữu hình, còn những thứ không thể nhìn thấy được thì sao?
– Ông giáo già kéo Tuấn Minh trở lại gian Hoòng hoóng, bất ngờ đưa ra một
đề nghị – Em có thể xem qua tủ sách của thầy rồi cho thầy một nhận xét được
không?
Tuấn Minh thật sự chưa rõ ý ông giáo già nhưng vẫn đứng dậy
đi đến bên các kệ sách. Tủ sách của thầy phần lớn là các tác phẩm sưu tầm,
nghiên cứu về văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số trong tỉnh, được sắp xếp
rất khoa học. Đồ sộ nhất là bộ sử thi “Đẻ đất Đẻ nước” cúa dân tộc Mường. Tuấn
Minh suy nghĩ rồi mạnh dạn đưa ra nhận xét:
– Thưa thầy! Em thấy trên tủ sách của thầy các tác phẩm sưu
tầm, nghiên cứu về văn học dân gian Mường có số lượng nhiều nhất, sau đó mới
đến dân tộc Thái và các dân tộc ít người khác.
– Đúng vậy! Thầy cảm ơn em. Đó chính là điều lâu nay thầy rất
băn khoăn. Đặt một “Trường ca Ú Thêm” của Hà Văn Ban, một “Tục ngữ Thái” của Cầm
Bá Lai, một “Inh Lài” của Ngân Đức Minh…cạnh “Đẻ đất Đẻ nước” của Vương Anh,
“Mo lên trời”, “Tục ngữ dân ca Mường”, các tập “Truyện Thơ Mường” của hai tác
giả Hoàng Anh Nhân và Minh Hiệu mới thấy chỉ riêng mảng văn học dân
gian trong kho tàng văn hóa phi vật thể của dân tộc Thái mình là còn quá mỏng.
Văn học dân gian Thái Xứ Thanh nói chung và huyện Thường này nói riêng vẫn còn
là những vỉa quặng quí chưa được khai thác. Điều đáng lo là những vỉa quặng
quí ấy hiện lại đang nằm trong đội ngũ những nghệ nhân già. Mà họ thì lại đang
dần ít đi vì tuổi tác…
– Em hiểu rồi! Tuấn Minh ngồi xuống bên ông giáo già, với tay
lật từng trang bản thảo để trên bàn – Chính vì lẽ đó mà thầy đang bỏ công sức
sưu tầm, ghi chép lại cái vốn văn học dân gian phong phú còn chưa được khai
thác hết của dân tộc mình?
Ông giáo già xoa đầu Tuấn Minh, xúc động nói:
– Em đã biết công việc thầy đang làm! Nhưng thầy có cái khó
của mình là không có khả năng tập hợp những tư liệu mình đã sưu tầm, ghi chép
thành một văn bản khoa học. Và giả sử có làm được thì với cơ chế xuất bản như
hiện nay thầy cũng khó mà lo được nguồn tài chính cần thiết để công bố tác phẩm.
Thầy vẫn vừa làm vừa chờ, hi vọng một ngày nào đó sẽ tìm được một người tâm đắc
để trao gửi nguồn tư liệu mình đã sưu tầm, ghi chép cho người ấy viết lại
thành một công trình tầm cỡ để giới thiệu nền văn hóa đầy bản sắc của dân tộc
mình với các dân tộc anh em trong tỉnh. Tuấn Minh à, thầy nói điều này không biết
có sớm quá không. Nhưng đúng là hôm nay gặp em thầy nghĩ người mà mình có thể
tin tưởng để trao gửi ước nguyện này chính là em đó!
– Thưa thầy! Tuấn Minh hết sức bất ngờ và vô cùng sửng sốt
trước quyết định của ông giáo già – Em làm sao có thể đảm đương được một
công việc to lớn như vậy?
– Em yên tâm đi. Không phải làm từ bây giờ mà sáu, bảy năm nữa,
lúc ấy em đã tốt nghiệp Đại học và thầy cũng có thêm thời gian để chỉnh lí lại
nguồn tư liệu mình đã sưu tầm ghi chép được trước khi trao nó cho em. Thầy
nghĩ, có nó, cộng với vốn kiến thức em đã tiếp nhận được trong trường ốc chắc
chắn em sẽ thành công.
– Ôi, thầy! Tuấn Minh xúc động ngã vào lòng ông giáo già –
Nhưng mà em lo mình sẽ không đáp ứng sự tin cậy của thầy!
Ông giáo già xoa đầu nó:
– Đừng lo! Thời gian với em hãy còn rất dài. Chỉ cần em thật
sự tâm huyết với những gì là di sản của dân tộc mình. Thầy xem ra bây giờ người
ta ứng xử với các giá trị văn hóa cả vật thể và phi vật thể của các dân tộc ít
người đã có nhiều dấu hiệu nghiêng về thương mại. Gần đây có một chuyện
làm thầy rất bất bình là việc Giám đốc Bảo tàng tỉnh cử cán bộ lên bản Tùm thu
hồi cái trống đồng bà con trên ấy đào được mà không thông qua địa phương. Số
tiền thù lao họ trả theo chỗ thầy được biết tính ra chỉ bằng tiền mấy
ngày vào rừng chặt nứa. Thầy đã viết thư phản ánh chuyện này với Giám đốc Sở
Văn hóa – Thông tin và hỏi ý kiến cả lãnh đạo Sở Công an nhưng đến nay vẫn chưa
nhận được hồi âm.
– Thưa thầy, chuyện này cụ thể như thế nào ạ? Tuấn Minh hồi
hộp hỏi. Nó linh cảm có điều gì đấy liên quan đến cái trống đồng trong Hang
Dơi, đến tấm giấy giới thiệu của ông cán bộ cấp tỉnh đã lên nhà già Quế đòi mua
bộ xương hổ và cả biệt tài khắc dấu của Hoàng Mai nữa.
Ông giáo già nhấp một ngụm trà rồi nói:
– Chuyện là thế này. Cách đây nửa tháng có một cán bộ của Bảo
tàng tỉnh cầm giấy giới thiệu đến nhà trưởng bản Tùm, người đã đào được cái
trống đồng trong lúc đào ao xin được gửi gia đình một số tiền thù lao và đem cổ
vật về thành phố trưng bày trong Bảo tàng tỉnh. Thầy nghĩ việc làm này có điều
gì đấy không được đàng hoàng, minh bạch cho lắm nếu không muốn nói là cái kiểu
cử người đi thu hồi cổ vật thế này là trái qui định của pháp luật. Ít ra trước
khi về xã làm việc này người đó phải thông qua phòng Văn hóa – Thông tin huyện
để phòng cử cán bộ đi cùng, vừa dễ dàng tiếp cận đối tượng phải làm việc vừa để
được giúp đỡ những khi cần thiết. Đằng này lại thuê xe ôm xông thẳng đến nhà
dân thì thào mặc cả, trả tiền rồi xách cổ vật đi mà không hề báo qua lãnh
đạo địa phương lấy một lời. Đến rồi đi, lén lút cứ như là buôn lậu…
– Thầy có được xem giấy tờ của người ấy không ạ?
Ông giáo già lắc đầu:
– Lúc thầy biết thì mọi chuyện đã xong rồi. Thầy có gặp và hỏi
chuyện trưởng bản Tùm về việc này nhưng được anh ta bảo giấy giới thiệu của
Giám đốc Bảo tàng tỉnh cấp cho người ấy nghiêm chỉnh lắm. Thầy cũng đã tìm gặp
Lò Văn Sao vì Sao là người trực tiếp đưa anh cán bộ kia đến nhà người đào được
cổ vật. Sao nói đó chỉ là sự tình cờ vì hôm ấy chở khách ra Bù Đồn, gặp anh ta
đi xe ôm từ huyện lên, nghe anh ta nói yêu cầu công việc và hứa trả thù lao thỏa
đáng thì sốt sắng đưa anh ta đến nơi cần đến, xong việc lại đưa anh ta xuống
phố huyện, nhận tiền công rồi về chứ có quan tâm gì đến chuyện giấy tờ và công
việc của người ấy đâu.
– Vậy là quá rõ rồi thầy ạ!
– Em nói rõ là rõ cái gì? Chuyện này em cũng biết rồi à?
– Dạ chưa! Nhưng được thầy kể cho nghe chuyện này em mới
xâu chuỗi những việc được thấy, được nghe gần đây thì thấy nó liên quan rất mật
thiết với nhau thầy ạ.
Tuấn Minh lần lượt kể lại những gì mình đã được nhìn thấy
trong Hang Dơi, trong Rừng Ma và câu chuyện già Quế kể đêm qua về việc
ông cán bộ cầm giấy giới thiệu của tỉnh đến hỏi mua bộ xương hổ cho ông giáo
già nghe. Nó cũng không quên đưa ra nhận xét của mình và mối nghi ngờ nhằm vào
thủ phạm chính là Hoàng Mai. Ông giáo già vỗ tay reo lên:
– Thật tuyệt vời! Vậy là các em đã khám phá được những tình
tiết rất quan trọng của một vụ án lừa đảo và làm con dấu giả của một tên tội phạm
đang lẩn trốn ở địa phương mình rồi. Biết đâu hắn còn là thủ phạm
đã giết Lò Văn Sao để đánh tráo giấy tờ tùy thân! Nhận định của thầy cũng có phần
chính xác đấy chứ. Đúng là trong việc làm này có rất nhiều dấu hiệu của sự lừa
đảo. Nhưng thật may là cái trống đồng kia chúng còn chưa chuyển ra khỏi địa
bàn xã mình. Thầy ngờ rằng cái sự chậm trả lời những thắc mắc của thầy của Sở
Văn hóa – Thông tin và Sở Công an hẳn là có lí do của nó. Biết đâu sau khi nhận
được những thông tin do thầy cung cấp các anh ấy đã bí mật triển khai một
chuyên án gì đó để tóm gọn bọn tội phạm này. Nếu sự việc diễn ra đúng như
vậy thì công của các em là rất lớn!
7. Cả đêm tuy không ngủ nổi bốn giờ đồng hồ nhưng sáng dậy Tuấn
Minh vẫn cảm thấy trong người sảng khoái lạ. Thông tin thu thập được từ câu
chuyện của già Quế và thầy Tâm đã làm sáng tỏ những nghi vấn về một mưu toan lừa
đảo, chiếm đoạt cổ vật của Hoàng Mai và một kẻ nào đó chưa rõ mặt. Đêm qua lại
không có mưa, trời đầy sao, hứa hẹn một ngày nắng đẹp nên hai anh em quyết định
tiếp tục thực hiện kế hoạch lên Bù Cheo. Mọi thứ cần thiết cho chuyến đi đều đã
được chuẩn bị sẵn. Tuấn Minh còn lục trong ba lô lấy ra chiếc máy ảnh tự động
và chiếc máy ghi âm nhỏ xíu để mang theo.
Ăn sáng xong bà đầm cho hai anh em một đầm cơm nếp thật to và
một gói muối vừng để có cái ăn trưa. Tú bảo:
– Không phải đầm cơm đâu bà ạ. Bà cho bọn cháu mang theo hai
bò nếp và gói muối vừng. Lên trên ấy bọn cháu lam cơm ăn cho nóng. Anh Minh bảo
từ bữa lên đây đến giờ chưa được ăn cơm lam.
– Tùy các cháu! Bà nói – Chỉ sợ lên đó nước nôi củi lửa
không ra gì rồi lại ăn sống ăn xít.
– Bà yên tâm đi! Một thác nước, một rừng cây, chuyện củi lửa
thiếu làm sao được.
Tú lấy con dao nắp của nội đeo vào hông, khoác cái túi thổ cẩm
đựng mấy bò gạo nếp lên vai rồi giục Tuấn Minh lên đường.
Đến Ngồng, Tuấn Minh đột ngột dừng lại nói:
– Tú này, hay bọn mình lên trại rừng mượn nội con Lu? Có nó
đi cùng anh cảm thấy yên tâm hơn. Biết đâu lên trên ấy nó lại không giúp anh em
mình tìm ra một thứ gì đấy như ở trong Hang Dơi.
– Phải đấy! Tú vỗ tay tán thưởng – Anh không nhắc thì em
quên mất. Vậy anh đứng đây chờ một lúc. Để em chạy lên trại rừng cho.
Tú đưa cái túi thổ cẩm cho Tuấn Minh rồi hăm hở chạy đi. Chỉ
hơn mười phút sau nó đã trở lại, theo sau là con Sói xám. Tuấn Minh hỏi:
– Em thuyết thế nào mà nội đồng ý nhanh thế? Anh cứ lo nội
không cho nó đi.
– Nội không có trên chòi. Chắc lúc đi nội còn rẽ qua nhà bà
thím.
– Vậy, lúc lên nội không thấy chó rồi làm sao?
– Không lo! Em đã viết cho nội mấy chữ trên cầu thang rồi. Tú
giành lại cái túi thổ cẩm đeo vai rồi giục Tuấn Minh – Đi thôi anh.
Cơn mưa hiếm hoi tối hôm kia đổ xuống lượng nước chẳng thấm
vào đâu. Dòng chảy của sông Lẹ hôm nay đã thu hẹp lại như cũ. Quãng lội chỉ
còn sâu chưa đến đầu gối. Nước chảy róc rách trên nền lớp sỏi đã nhẵn bóng vì
vết chân người. Dòng nước trong vắt, không một chút vẩn đục. Tuấn Minh toan cởi
giày lội xuống để được ngâm cả hai bàn chân trong làn nước trong mát nhưng bị
Tú ngăn lại:
– Đừng! Da bàn chân của anh mỏng lắm, cởi giày đi rất kến, chịu
sao được!
Tú nói rồi khom lưng, bảo Tuấn Minh ôm cổ để nó cõng qua
sông.
Bộ ba đi chừng hai mươi phút nữa thì gặp một cánh đồng khá rộng.
Từ đây nhìn lên, dãy Bù Cheo như một bức tranh khổng lồ dăng thành trước mặt.
Toàn bộ bức tranh là một màu xanh xẫm của cây rừng. Chỉ duy nhất ở giữa lưng
chừng có một vệt sáng như dải lụa trắng nhô ra. Tuấn Minh ngước nhìn một lúc
lâu mà vẫn không biết nó là cái gì.
– Thác Trai Gái đấy! Tú nói – Quãng ấy cây rừng khá thưa nên
đứng đây cũng có thể nhìn thấy. Nếu có mưa vệt sáng ấy trông còn rộng hơn nhiều.
Ở cuối cánh đồng này, trải dài dưới chân núi là bản Bèn và bản Cả Xoi. Đây
đã là vùng giáp ranh hai tỉnh Thanh – Nghệ. Bên
kia Bù Cheo là bản Pang của xã Đồng Văn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.
Cho đến bây giờ dân hai bản Cả Xoi và Bèn vẫn sống cuộc sống tự cung tự cấp. Họ
chỉ xuống chợ mua mấy thứ cần thiết như kim chỉ, dầu đèn, mắm muối. Ốm đau thì
tự điều trị bằng cây thuốc lấy từ trên rừng. Đường vào bản chỉ có một lối duy
nhất là đi men theo bờ ruộng này thôi.
Cả Xoi quả là một bản nhỏ khá heo hút. Đi hết một thôi đường
dài mới gặp một điểm dân cư với gần chục nóc nhà sàn dựng quây quần bên nhau.
Trên đám cỏ dưới bóng cây sổ sai trĩu quả có vài đứa trẻ ăn mặc sơ sài đang
túm áo nhau vừa đi vòng tròn vừa nghêu ngao hát. Chúng hát bằng tiếng Thái,
nghe ngồ ngộ. Tuấn Minh chẳng hiểu gì cả:
– “Lôm, lôm.
Ma pú cỏ coọc
Lôm oọc noọc cỏ quển
Lôm ma dển cỏ san
Lôm hau ban Cạ Xoi lim dễn”
Tiếng hát đột nhiên dừng lại. Tuấn Minh hỏi:
– Chúng nó hát bài gì vậy? Sao lại thôi?
Tú trả lời:
– Hết rồi! Đó là bài đồng giao có tên là “Gọi gió”. Nghĩa của
nó là:
“Gío ơi gió, gió vào suối cây cốc,
Gío ơi gió, gió ra gốc cây bồ quân,
Gío thổi đi thổi lại nơi bãi cây sổ,
Gío thổi vào bản Cả Xoi cho mát, gió ơi.”
– Ngộ thật đấy! Tuấn Minh nói. Bỗng bọn trẻ thả áo nhau, quay
ra đuổi theo một con bướm vàng, vừa chạy chúng vừa nghêu ngao hát. Bài
hát này nghe cũng rất lạ tai:
– “Căm ơi, căm ả
Căn ma ni hờ cú boọc
Căn ọc bi hờ cú xón
Căm ơi, căm ạ”
Tuấn Minh dừng lại hỏi Tú:
– Bài hát ấy nói gì vậy?
– Đó cũng là một bài đồng dao có tên “Gọi bướm”. Bài hát này
trẻ ở tuổi mẫu giáo lớn và lớp một, lớp hai rất thích hát. Nghĩa của nó là:
-“Vàng ơi, vàng ạ
Vàng đến đây cho tao bảo nào
Vàng ra đây cho tao dặn cái nào
Vàng ơi, vàng ạ”.
– Ngộ thật! Tuấn Minh đưa cái máy ghi âm cho Tú bảo – Em cầm
máy lại gần chỗ chúng nó, bật cái nốt này ghi lại cho anh. Cứ để chúng nó chơi
tự nhiên để anh bấm vài kiểu ảnh.
Tú đã tiếp cận được bọn trẻ, nhưng khi chúng phát hiện có
người lạ đang dương vật gì lên ngang mặt hướng về phía mình thì đứa nào đứa ấy
sợ hãi hét lên rồi bỏ chạy tán loạn hết. Tú cầm máy trở ra nói:
– Trẻ trên này chúng nó chưa quen. Muốn chụp ảnh anh phải
núp sau một thân cây nào đó rồi bí mật bấm máy mới được. Thôi, để dịp khác.
Mình lên đường kẻo muộn anh.
Hai anh em khẩn trương sải những bước thật dài trên con đường
qua bản nhỏ. Con Sói xám lúc vọt lên, lúc thụt lại sau, cái đuôi luôn ngúng nguẩy
tỏ ra thích thú. Cõng nhau vượt qua một con suối cạn anh em Tuấn Minh bắt đầu
đặt những bước đầu tiên lên Bù Cheo. Rừng vẫn còn rất lạnh. Đã gần tám giờ mà
sương sớm vẫn chưa tan hết. Rừng đổ nước rào rào như ma. Từ các khe
sâu hơi núi vẫn đùn lên lớp lớp. Mới leo được mấy quãng dốc mà Tuấn Minh đã thấy
thấm mệt. Tú vừa đi vừa phải dừng lại chờ nó. Luồn rừng hết một giờ hai anh em
mới đến chân một cái dốc vừa cao, vừa chênh vênh hiểm trở. Tú bảo:
– Dốc Thăn Phạ đấy! Thăn Phạ tiếng Thái có nghĩa là cái lưng
của trời. Dốc này mà gặp mưa thì lên cũng khó mà xuống lại
càng khó hơn. Nghỉ một lúc cho lại sức rồi hãy đi tiếp. Cũng sắp đến thác
Trai Gái rồi.
Qủa đúng như lời Tú nói. Tuấn Minh lắng tai nghe và nhận ra
phía xa trên cao kia đã có tiếng nước đổ ầm ào từ trong cánh rừng nguyên sinh
rậm rạp vọng xuống. Thấy trong người đã khỏe, hai anh em lại động viên nhau
hăm hở vượt dốc. Thăn Phạ! Đúng là cái lưng của trời. Vừa dốc, vừa trơn. Cả
Tú và Tuấn Minh đã cúi rạp người để bò mà vẫn như có một sức mạnh vô hình muốn
níu kéo tấm thân mệt mỏi, đẫm mồ hôi xuống vực. Trong khi đó thì con Sói xám hết
chạy lên lại chạy xuống mà trông bộ vẫn phởn phơ. Nó có vẻ sốt ruột vì sự chậm
chạp của hai ông chủ nhỏ.
Cuối cùng thì cả người và vật cũng đến được thác Trai Gái.
Con đường độc đạo cắt ngang rừng giang đưa hai anh em đến thẳng thượng nguồn.
Từ đây hai đứa lại phải đu người lần qua từng mỏm đá đầy rêu ẩm ướt để xuống
tầng hai của thác. Tú chỉ khối nước khổng lồ đang đổ ào ạt từ tầng một xuống
nói:
– Dải lụa trắng anh em mình nhìn thấy lúc sáng chính là khối
nước này đấy! Trông thế nhưng đến tầng hai, nơi anh em mình đang đứng đây nước
cũng chỉ đủ chảy ngầm qua các kẽ đá, gần đến tầng ba nó lại mới bất ngờ xối ra,
đổ vào cái hồ dưới chân thác trước lúc theo dòng chảy xuôi. Thác Trai Gái là
nguồn nước chính tạo nên sông Lẹ. Sông Lẹ là sông nhánh của sông Đặt. Sông Đặt
chảy qua Bù Đồn rồi đổ nước ra sông Chu ngay trước cửa đền thờ cụ tổ Cầm Bá
Thước nhà mình.
Đồng hồ đã chỉ mười giờ. Mặt trời tỏa nắng chan hòa khắp
cánh rừng. Tuấn Minh xăng xái chạy đi, chạy lại ngắm nghía, chọn cảnh rồi bảo
Tú gọi con Lu đứng vào cho mình bấm máy. Xong, nó trao máy cho Tú rồi bảo:
– Em bấm cho anh vài kiểu!
Tú dẫy lên;
– Em làm sao biết chụp!
Tuấn Minh động viên nó:
– Không có gì phức tạp lắm đâu! Máy tự động. Em cứ dương lên
ngắm, nhớ lấy khuôn hình cho đẹp một tí rồi bấm máy là được. Mọi động tác kĩ
thuật nó tự làm. Nào, bắt đầu đi!
Tú bấm liền một lúc mấy kiểu rồi trao máy cho ông anh họ. Tuấn
Minh hỏi:
– Sao người ta lại đặt tên cái thác này là thác Trai Gái?
Tú chỉ tay xuống tầng ba nói:
– Anh có nhìn thấy những hòn đá hình lăng trụ dưới kia
không? Thạch anh đấy! Đá ấy vừa cứng vừa có màu sáng lấp lánh rất đẹp. Tương
truyền đó là những giọt nước mắt của một đôi bạn tình nhỏ xuống biến thành.
Trong hồ nước kia lại có rất nhiều giống cá Pả tết lúc nào cũng bơi với nhau từng
cặp, không bao giờ rời. Đó chính là hiện thân của họ lúc chết hóa thành. Mối
tình đẹp đẽ và trong trắng nhưng đầy oan nghiệt ấy là lí do để sau này người
đời đặt tên cho cái thác giữa lưng chừng núi cao này là thác Trai Gái. Chuyện
dài lắm. Em tóm tắt để anh nghe nhé.
Rồi Tú kể:
– Thuở ấy ở làng Bèn có một có một thợ săn tài ba, nhưng mồ
côi cả cha lẫn mẹ. Bên làng Cả Xoi có một cô gái đẹp người, đẹp nết, hát hay
và rất khéo tay. Hai người yêu nhau tha thiết. Nhưng vì chàng trai quá nghèo,
không có trâu, không có bạc trắng để cưới nàng làm vợ. Sau vụ gặt, Tạo ngoài Lẹ
vào đốc thuế. Thấy cô gái trẻ đẹp, Tạo muốn bắt làm vợ lẽ. Bố mẹ cô gái sợ Tạo
có quyền, có thế nên không dám từ chối. Cô gái lo sợ, tìm gặp người yêu báo
tin dữ. Hai người ôm nhau khóc…Rồi đang đêm họ bỏ làng đưa nhau trốn lên Bù
Cheo. Đi qua thác nước, thấy phong cảnh đẹp, lại có đám đất bằng chỗ thượng
nguồn, họ dừng lại chặt cây dựng lán, tìm hoa trái và săn thú, định sống ở đó với
nhau lâu dài…Không ngờ chỉ mấy tháng sau Tạo cho người dò tìm, biết nơi hai
người dựng lán sống chung, đã đưa tay chân lên bí mật vây quanh thác…Biết
không còn đường thoát, hai người đã chạy ra một mỏm đá bên giọt nước, ôm
nhau nhảy xuống…Cái chết của họ đã làm xúc động lòng trời. Một trận mưa rừng
và sấm sét dữ dội bất ngờ đổ ập xuống giết chết tên quan thâm ác và bọn đầy tớ.
Sau đó trời còn hóa phép cho hai người biến thành đôi cá Pả tết, sống với nhau
đời đời trong cái hồ dưới chân thác…Bây giờ một trong hai con cá ấy vẫn thấy một
cái vòng lấp lánh dưới mang. Truyền rằng trước khi chết chàng trai đã đeo vào
cổ cô gái chuỗi hạt do chính tay mình làm từ một thứ đá quí trên rừng…
Tuấn Minh sững sờ…Không ngờ cái thác giữa lưng chừng núi cao
heo hút này lại có một truyền thuyết hay đến vậy. Mối tình chung thủy và cái chết
thương tâm của đôi trai gái đã làm Tuấn Minh thực sự xúc động. Chưa bao giờ
trong nó lại có một tình cảm yêu thương quê nội đến thế. Ngước mắt nhìn
lên cao nó hỏi:
– Từ đây lên tới chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù còn xa không?
Tú đáp:
– Bù Cheo cao 1700 mét, là ngọn núi cao nhất vùng này. Chỗ thằng
phi công Mỹ đáp dù chỉ cách đỉnh núi chưa đến 100 mét. Từ đây lên đó đi nhanh
cũng phải hết một giờ. Em tính thế này. Bây giờ đã là mười giờ năm phút. Sẵn
nước ta vo gạo lam sẵn ống cơm, lên đó chỉ việc chẻ ra ngồi ăn. Phải khẩn
trương kẻo về nhà tối mất.
Tú nói rồi rút dao, vào rừng tìm bụi vàu chọn chặt một gióng
đẹp, lấy túi gạo nếp đổ ra xóc qua nước rồi vốc từng nắm nhỏ cho vào, đổ đầy
nước, cuộn lá chuối nút chặt lại. Tuấn Minh thì quay ra nhặt những cành củi
khô chất thành một đống, xòe diêm đốt. Ngọn lửa bùng lên. Nhìn Tú ngồi xoay
xoay ống cơm, Tuấn Minh tò mò hỏi:
– Tú này, ở đây có mấy bụi nứa, cây nào cũng thẳng, đẹp, sao
em không chặt lại phải vào rừng chặt vàu?
Tú đáp:
– Dùng vàu bánh tẻ lam thì cơm mới thơm và ngon. Nứa chỉ để
lam cơm cho đàn bà đẻ ăn.
Chỉ ít phút sau ống cơm đã cháy đều. Tú vơ lá chuối khô xoa
xoa cho nguội rồi lấy dao róc sạch lớp cật lem luốc bên ngoài. Xong, nó kiếm một
sợi dây sắn rừng buộc hai đầu, quàng lên vai đeo như người đeo súng rồi
xoa tay nói:
– Vậy là yên trí đã có bữa trưa rồi. Mình tiếp tục lên đường
thôi anh.
Quãng đường tiếp theo thật ra cũng không mấy khó đi. Hai bên
rừng chỗ nào Tuấn Minh cũng thấy những gốc
cây to đang đâm chét xanh um. Thỉnh thoảng lại gặp những cái lán dài bằng
mấy gian nhà bỏ không nằm xiêu vẹo bên đường. Cái nào cũng đã bị mối xông lên
tận nóc. Tú nói:
– Lán của bọn lâm tặc dựng lên để khai thác pơ mu đấy. Mấy
năm trước ở đây sôi động như một công trường. Bù Cheo không chỉ nổi tiếng về
độ cao mà còn nổi tiếng vì có nhiều pơ mu nhất vùng này. Pơ mu sống tập trung ở
tầng giữa, bên trên là sến, sớ, táu, dưới là de, dỗi. Rừng pơ mu không lẫn một
thứ cây nào khác, không có muỗi và vắt. Đêm ngủ thậm chí không cần mắc màn. Gỗ
khai thác được họ thuê người các làng đem trâu lên kéo xuyên mấy đỉnh núi đến
tận Bù Đồn rồi mới đưa xuống sông Đặt để cốn mảng chuyển ra sông Chu hoặc bốc
lên ô tô chở qua đường Khe Hạ…
Câu chuyện về cây pơ mu và bọn lâm tặcTú kể đã có tác dụng
rút ngắn quãng đường rừng. Chưa hết một giờ leo dốc hai anh em đã có mặt ở một
khoảng rừng thưa, có một đám đất bằng khá rộng.
– Đến nơi rồi! Tú nói – Đây chính là chỗ thằng phi công Mỹ
đáp dù. Anh thử đoán xem chúng có sự chuẩn bị trước hay chỉ là sự tình cờ may
mắn vì cả Bù Cheo duy nhất chỉ ở đây là có một khu đất bằng và rộng thế này.
– Anh nghĩ đây chắc phải có sự chuẩn bị từ trước. Anh đã được
đọc một tài liệu về không quân Mỹ thời đánh phá miền Bắc Việt Nam. Chúng thường
trinh sát và lựa chọn rất kĩ các khu rừng có đủ điều kiện để cho phi công nhảy
dù nếu máy bay bị ta bắn cháy. Tuấn Minh trả lời rồi nôn nóng hỏi – Vậy còn sự
việc xảy ra hôm ấy được chú Đốc thuật lại thế nào?
– Theo lời chú Đốc kể thì sự việc hôm ấy có thể hình dung thế
này. Thằng phi công sau khi đáp dù xuống bãi đất trống này đã ung dung ngồi mở
điện đài liên lạc về căn cứ. Dù biết nơi mình đang ngồi là rất an toàn nhưng
nó vẫn để sẵn khẩu súng ngắn bên cạnh. Không bao lâu sau đó thì hai dân quân bản
mình lên kịp. Ngày ấy rừng chắc phải dày đặc cây to nên họ hoàn toàn không bị
nó phát hiện khi tiến sát mục tiêu. Từ chỗ nấp nếu muốn họ vẫn đủ điều kiện bắn
hạ thằng giặc lái. Nhưng chú Kiên đã đưa ra một lí do cần phải bắt sống nên
đã tự động xách súng vòng lên lèn đá phía trên để tiếp cận mục tiêu cho gần.
Còn chú Đốc vì không có vũ khí nên vẫn nằm lại. Không bao lâu sau đó thì chiếc
trực thăng xuất hiện và sự việc tiếp theo xảy ra là chú Kiên đã không bắn phi
công, không bắn máy bay mà tay vẫy khăn mù xoa, tay xách súng chạy ra xin theo
giặc. Và chú đã được thằng phi công nhường cho lên trực thăng trước.
– Lèn đá ấy ở đâu? Trên ấy có gì đặc biệt không?
– Ngay trước mặt ta kia! Tú đáp – Chỗ ấy rất nguy hiểm vì cạnh
đó có một cái vực rất sâu. Lát nữa anh em mình sẽ lên đấy khảo sát. Còn bây giờ
phải nghỉ để ăn cơm cái đã. Em đói bụng lắm rồi!
Tú rút dao, tiện ống cơm làm ba. Nó đưa Tuấn Minh một phần
còn hai phần dành cho mình và con Sói xám. Nhưng nhìn quanh chẳng thấy con chó
đâu. Tú vừa cắn cơm ăn vừa lẩm bẩm:
– Lạ! Nó chạy đâu nhỉ?
Bỗng từ trên lèn đá vọng xuống tiếng con Lu xủa ăng ẳng. Tuấn
Minh vội bật dậy:
– Chắc chắn con Sói xám tìm thấy cái gì trên ấy rồi! Mình lên
đó xem sao đi.
Theo thói quen, Tú rút dao, sẵn sàng phát dọn đám cây rừng để
mở một lối đi. Nhưng lạ thay khi bắt đầu đặt chân vào đám cây rừng rậm rạp đầy
gai chúng bỗng phát hiện ra một lối nhỏ dẫn đến lèn đá như có ai đó đã
phát dọn trước đó rồi. Càng ngạc nhiên hơn khi đến nơi chúng thấy trên một phiến
đá bằng bên bờ vực con Lu đang đứng xủa trước một khúc chuối rừng trên cắm ba
cái chân hương. Cạnh “bát hương” là một cây nến cháy đã hết, chỉ còn lại một đống
sáp lùm lùm, đỏ cạch. Tú nhấc khúc chuối rừng lên xem rồi lẩm bẩm:
– Chắc chỉ mới hôm qua. Ai thắp hương làm gì ở đây thế nhỉ?
Bỗng con Lu lại chúi mõm vào một kẽ nứt trên tảng đá bằng hai
đứa đang đứng sủa ngạu xị. Hai anh em nhào đến. Tuấn Minh thọc một ngón tay vào
kẽ nứt lôi lên hai cái vỏ đạn súng trường đã hoen ố, mắt vụt sáng lên. Nó nhìn
cái vực sâu thẳm bên lèn đá rồi lại quay ra quan sát khoảng trống nơi hai thằng
đang đứng. Khoảng cách từ đây đến chỗ đám đất bằng nơi thằng phi công Mỹ đáp dù
chỉ chừng năm, sáu chục mét. Tuấn Minh quả quyết:
– Chú Kiên không theo giặc! Chú ấy đã đứng đây dùng súng trường
bắn vào thằng phi công hoặc cái trực thăng rồi bị chúng phát hiện và đã dùng sức
mạnh của cánh quạt máy bay quạt tung cả người và vũ khí xuống vực! Nó giơ hai
cái vỏ đạn lên – Đây là bằng chứng nói lên điều đó!
Tú hồi hộp hỏi lại:
– Anh nói vậy nghĩa là vì sợ trách nhiệm lão Đốc đã không báo
cáo đúng sự thật mà ghép cho chú Kiên tội mang vũ khí theo giặc?
– Chắc chắn như vậy! Em cố nhớ lại xem, ngày cái máy bay bị
ta bắn cháy với ngày hôm qua tính theo âm lịch có trùng nhau không?
Tú suy nghĩ một lúc rồi reo lên:
– Em nhớ ra rồi! Tính theo lịch âm thì hôm qua đúng là ngày
thằng giặc lái nhảy dù xuống Bù Cheo. Cũng chính là ngày giỗ của chú Kiên nên
lão Đốc mới lặn lội lên đây thắp hương cho người đã khuất. Có lẽ vì lương
tâm lão cắn dứt chăng? Hèn gì chiều qua lúc gặp lão, nội mình hỏi đi đâu về,
lão bảo vừa sang bản Pang mua mấy ấm thuốc chữa đau gan.
Tuấn Minh phấn khởi nói:
– Mọi chuyện như vậy là đã sáng tỏ rồi. Việc cần làm bây giờ
là phải tìm cách để tự lão nói lên sự thật. Tiếc quá! Biết thế này bọn mình
mang theo một bó hương. Nhưng thôi, đã có cách rồi. Mình gọi hồn cho chú ấy
cũng được!
– Gọi thế nào anh?
– Hai anh em cùng đến bên bờ vực, gọi thật to tên chú ấy lên!
Tuấn Minh ấn máy ghi âm – Nào, bắt đầu nhé!
Cả Tuấn Minh và Tú cùng ngửa mặt lên trời, la thật to:
– Chú Kiên ơi!
Sau tiếng gọi thống thiết của hai thằng, ba bề, bốn bên đại
ngàn cùng râm ran đáp trả:
– Ơi, ơi, ơi…
8. Đi làm về, theo thói quen Hoàng Mai phóng xe lại đầu hồi, tắt
máy, đạp chân chống, dựng chiếc Min cạnh cây quế rồi mới quay vào nhà. Bất chợt
nhìn thấy chiếc xe thùng màu trắng, bên hông in dòng chữ Cảnh sát hình sự màu
xanh đậu lù lù giữa sân, Hoàng Mai hốt hoảng dừng lại. Gã định lên xe nổ máy
tháo chạy thì từ trong nhà ba bốn sắc phục màu vàng của công an bất ngờ lao ra,
chia súng vào ngực gã quát:
– Hoàng Mai, không được chạy. Anh đã bị bắt!
Hoàng Mai chết lặng. Một lúc sau mới lắp bắp nói:
– Các… các anh lầm rồi. Tôi…tôi là Lò Văn Sao!
Một chiến sĩ công an tiến lại, bập cái còng số tám vào hai cổ
tay gã, nói:
– Thôi, đừng đóng kịch nữa! Lò Văn Sao đã chết trong vụ đắm
đò năm ngoái ở Thác Mạ rồi. Chính mày phải chịu trách nhiệm về cái chết của
Sao. Tội mày rất nặng. Tử hình là cái chắc!
Hoàng Mai bủn rủn cả tay chân, lưỡi líu lại:
– Không! Tôi không có tội. Đừng…đừng giết tôi!
Mai vừa la vừa cố sức giãy dụa mong thoát khỏi mấy bàn tay rắn
như thép đang xiết chặt của các chiến sĩ công an… Cùng lúc ấy gã mơ hồ nghe tiếng
người hốt hoảng vừa lay vừa gọi:
– Anh Sao! Anh Sao!
Hoàng Mai mở mắt choàng tỉnh dậy. Thì ra gã vừa trải qua một
giấc mơ hãi hùng. Lả ngồi bên giường, vừa lau mồ hôi trên gương mặt tái nhợt
của gã vừa hỏi:
– Anh mơ thấy những gì mà la hét khiếp thế?
Gã nói lãng đi:
– Anh mơ gặp cướp! Khiếp quá. Chúng nó lột hết tiền còn định
giết anh để lấy cái xe. Em lên từ lúc nào thế?
– Em vừa lên. Đang ngồi trên nhà nói chuyện với bố mế thì
nghe tiếng anh la hét nên vội chạy xuống. Cô giáo nhìn gương mặt nhợt nhạt của
gã, lo lắng – Hôm nay trông anh phờ phạc thế nào ấy. Nếu thấy trong người
không được khỏe thì ở nhà nghỉ vài hôm cho lại sức rồi hãy đi làm.
Gã vịn tay cô giáo, ngồi dậy:
– Anh không sao đâu. Sáng nay chạy một cuốc chở ba nười từ
Bù Đồn xuống Khe Mục nên hơi mệt chút thôi mà! Gã nhìn đồng hồ – Chết, đã hơn một
giờ rồi kia à? Chiều em có phải đi đâu không?
– Em ghé qua trường một lúc rồi về ngay. Anh cứ nằm mà nghỉ,
cơm nước để đấy em nấu cho. Cô giáo nói rồi với cái nón đội đầu, ra sân dắt xe
xuống đường.
Hoàng Mai ra cửa đứng nhìn theo bóng Lả. Trong lòng gã bỗng
trào lên một nỗi lo sợ mơ hồ. Nếu một ngày nào đó gã bị công an bắt đi thật thì
tất cả những gì gã đang có trong tay, từ cửa nhà, tiền bạc đến người con gái nết
na và hiền thục kia đều sẽ phải để lại để sống cuộc sống của một thằng tù trong
bốn bức tường của trại giam. Nỗi lo sợ mơ hồ ấy ám ảnh gã bắt đầu bằng sự xuất
hiện của thằng cháu nội già Núi sau hôm gã lên trại rừng của già đặt mua mấy khối
bạch đàn để chuẩn bị chuyển cái trống đồng giấu trong Hang Dơi về thành phố. Ma
xui quỉ khiến thế nào mà cái thằng ranh ấy lại có gốc gác người vùng này.
Không biết nó đã nhận ra mình chưa? Nhà nó ở cách nhà gã chỉ có một con phố.
Ngày gã bỏ trốn nó đang học lớp chín, giỏi lắm năm nay cũng chỉ mới hết lớp mời
là cùng. Chắc chắn là nó không thể biết mình. Nhưng có một điều gì đó làm gã vẫn
thấy hết sức lo ngại sau hôm tiếp xúc với nó. Biết đâu mọi bí mật của mình lại
bị phơi bày ra ánh sáng vì sự xuất hiện của nó ở cái xó rừng này! Ngày còn đi học
gã rất ham đọc truyện trinh thám. Nhiều vụ án bị phát giác từ những chi tiết rất
bình thường. Hoàng Mai chỉ còn biết tự nhủ mình phải hết sức đề phòng, tránh
không tiếp xúc, trò chuyện với nó và làm việc cẩn trọng hơn. Nhưng nỗi lo như
một bóng đen vẫn cứ bám theo làm gã ăn không ngon, ngủ không yên. Cho đến hôm
nay thì một giấc mơ kinh hoàng đã chen vào giấc ngủ trưa của gã. Có lẽ nào đây
chính là điềm gỡ được báo trước? Gã tự hỏi mình có nên tiếp tục cuộc sống dưới
cái lốt của thằng em song sinh, một thanh niên dân tộc có tên Lò Văn Sao hay sớm
tìm đường cao chạy xa bay hoặc là ra đầu thú với nhà chức trách? Bỏ chạy lúc
này thực tình gã không muốn vì chắc chắn nếu biết rõ mọi chuyện Lả sẽ không bao
giờ đồng tình và theo gã. Mà lúc này thì gã không muốn
xa người con gái Thái hiền thục mà em trai mình đã chọn. Nếu đầu thú thì người
ta sẽ xử mình như thế nào? Chắc là không nhẹ vì ngoài cái tội làm con dấu giả
tiếp tay cho bọn tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng bị công an truy bắt, từ ngày
lên đây sống dưới cái lốt người thanh niên dân tộc Lò Văn Sao gã còn phạm
thêm mấy tội nữa, mức độ cũng nguy hiểm không kém cái tội đã gây ra ở
thành phố. Lại còn cái chết của Lò Văn Sao nữa. Liệu người ta có tin việc em
trai mình bị thiệt mạng là do sơ suất lúc cứu người hay sẽ trút mọi tội
lên đầu mình đã cố tình nhân việc đắm đò giết Lò Văn Sao để đánh tráo giấy tờ
tùy thân? Tình ngay, lý gian! Sự thật chỉ có một mình mình biết, lấy ai làm chứng
cho sự trong sạch của mình! Chưa bao giờ Hoàng Mai đứng trước một bài toán
khó giải như vậy. Gã lại giường, gieo mình nằm vật xuống, vòng hai tay gối đầu,
hai mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà nhớ lại những năm tháng đầy ắp những sự biến
đã diễn ra trong cuộc đời mình…
Chú đứng dậy đi. Mẹ con tôi không giận chú. Hai bác và mọi người cũng không giận chú đâu. Chuyện đã qua rồi. Sống ở đời ai không mắc sai lầm. Ngày xưa lúc thằng Kiên tố giác chú bớt xén hàng của Nhà nước cấp cho dân, tôi cũng giận nó lắm. Nhưng nó bảo mế đừng giận con, con làm thế cũng chỉ vì muốn tốt cho chú thôi mà.
Học đến lớp mười hai Hoàng Mai mới biết rõ thân phận của mình. Thì ra gã không phải là con đẻ mà chỉ là con nuôi của vợ chồng ông họa sĩ già. Điều bí mật ấy chắc chắn chẳng bao giờ gã biết nếu bố nuôi gã không tự nói ra. Mai nhớ hôm đó là một buổi chiều cuối thu, trời se se lạnh. Đi chơi về Mai thấy bố đang ngồi trầm tư bên giá vẽ. Bức họa được ông chăm chút, chỉnh sửa suốt mấy tháng nay gìơ mới hoàn thành. Ông gác cọ, vẫy Mai lại nói:
– Con ngồi xuống đây. Ba có chuyện này muốn nói với con.
Mai linh cảm có chuyện gì đấy rất hệ trọng nên kéo ghế ngồi xuống bên bố, chăm chú lắng nghe. Họa sĩ già quàng tay qua vai Mai, nhỏ nhẹ:
– Mai à, ba mẹ đều đã già rồi. Từ ngày nhận sổ hưu đến giờ mắt ba mỗi ngày một kém. Bác sĩ cho biết có nhiều khả năng một, hai năm nữa ba sẽ không nhìn thấy gì. Nghề của ba có đôi mắt để phân biệt màu sắc, thiếu nó thì làm sao cầm được cọ. Không được vẽ coi như mình đã chết. Ba mẹ đã bàn nhau và hôm nay ba quyết định nói cho con biết chuyện này…
– Chuyện gì vậy ba? Mai ngước nhìn bố, hồi hộp hỏi.
– Chuyện của con! Ông nhấp một ngụm trà rồi nói liền một mạch – Ba mẹ không có con. Năm ấy vợ chồng ba đều đã ngoài bốn mươi tuổi. Trong một lần lên miền tây huyện Thọ đi thực tế sáng tác, ba nghe người ta nói trạm y tế thị trấn Hạ Sơn đang nuôi hai đứa trẻ song sinh là con trai bị mẹ bỏ rơi. Ba liền tìm đến đặt vấn đề xin một đứa làm con nuôi. Họ cho ba thằng anh là con. Ba rất tiếc là không thể cưu mang cả hai anh em con được vì ngày ấy cán bộ nhà nước sống rất chật vật. Anh em con lại đang trong thời kì phải bú mẹ. Ngày nào mẹ cũng phải bế con đi xin bú nhờ khắp cơ quan. Hàng tháng, ngoài phần sữa tiêu chuẩn tem phiếu ít ỏi ba mẹ còn phải mua cả sữa ngoài chợ đen để con có cái ăn thêm…
– Thế còn em con thì họ cho ai ba? Mai nôn nóng hỏi.
Họa sĩ già rút mù soa lau đôi mắt kèm nhèm, buồn buồn nói:
– Ba rất tiếc vì bận công tác nên sau đó đã không có dịp trở lại cái thị trấn vùng đồi ấy để hỏi xem người em sinh đôi với con đã được ai xin làm con nuôi nên bây giờ không thể nói gì thêm về chuyện này được. Em con rất giống con. Sau này nếu có điều kiện con nên lên trên ấy dò hỏi hoặc nhắn tin qua đài, báo may ra có liên lạc được với em con không. Đó là tất cả những gì ba muốn nói với con. Ba xin lối vì lẽ ra chuyện này ba mẹ phải cho con biết sớm hơn mới phải.
Câu chuyện về sự thật thân phận mình đã gây cho Hoàng Mai một cú sốc. Sức học của Mai sa sút hẳn. Mùa thi Đại học năm ấy và cả hai năm tiếp theo Mai không đủ điểm nên phải nộp đơn xin vào trường Trung cấp Văn hóa – Nghệ thuật tỉnh, học khoa hội họa. Mắt ông họa sĩ già mỗi ngày một kém. Không cầm nổi cọ, không có tranh bán, ba miệng ăn và mọi chi tiêu trong nhà đều trông chờ vào hai suất lương hưu nên rất khó khăn. Một tối Mai đang ngồi ủ rũ bên li cà phê trong một quán cóc thì gã Tuấn mập dựng xe máy, xộc thẳng đến bên bàn kéo ghế ngồi rồi vỗ vai Mai hỏi:
– Thằng em, làm gì mà ủ ê thế?
Mai ngẩng lên, nhìn gã, đáp cộc lốc:
– Không có tiền!
– Tiền! Tuấn mập ngạc nhiên kêu lên – Cậu mà cũng la thiếu tiền?
– Làm gì ra mà chẳng thiếu! Tháng này còn chưa có cả tiền đóng học phí nữa kia!
– Thế cái tài của cậu đâu, không đem ra mà kiếm tiền?
– Tài gì?
– Cậu thật biết đùa! Tài khắc dấu chứ còn tài gì! Tuấn mập ghé sát tai Mai nói nhỏ – Nếu thật sự cậu chưa có khách thì để anh giới thiệu cho! Rồi rất hào phóng, gã móc ví đưa cho Hoàng Mai cả tập hai mươi tờ năm ngàn – Anh đang vội, cầm tạm chỗ này mà tiêu.
Mai đã biến cái phòng làm việc bỏ không của bố nuôi thành cái xưởng khắc con dấu giả của mình. Công việc thật nhẹ nhàng. Thù lao không thật cao nhưng cũng đủ cho Mai có cái trang trải tiền học phí, may sắm quần áo và thỉnh thoảng rủ bạn đi uống bia. Chính vì việc đi quán uống bia mà một lần bọn Mai đã gây lộn, đánh nhau với một đám thanh niên ngoài phố, bị công an phường bắt tạm giam và thông báo về trường. Nhà trường đã quyết định đình chỉ việc học của Mai một tuần để ở nhà làm kiểm điểm. Bảy ngày ở nhà Mai được Tuấn mập giao cho làm một con dấu khá đặc biệt. Mai đã hoàn thành công việc được giao và nhận về một khoản thù lao rất khá.
Nhưng rồi điều gì phải đến cuối cùng cũng đã đến. Một tháng sau Mai nghe người ta bàn tán Tuấn mập đã bị công an thành phố bắt vì cầm đầu một băng nhóm tội phạm chuyên lừa đảo. Mai chột dạ, nhận ra sự nguy hiểm trong công việc mình làm lâu nay. Tuấn mập bị bắt chắc chắn hắn sẽ khai ra người làm con dấu giả. Vậy thì sớm muộn thế nào công an cũng sẽ đến bắt mình. Không còn đường nào khác, ngay sáng hôm sau Mai đã vội bỏ trốn khỏi thành phố…
Lên miền tây! Đó là sự lựa chọn của gã sau một đêm cân nhắc. Phương án vào Nam, ra Bắc gã thấy đều không mấy an toàn. Chẵng đã có nhiều cao thủ sau khi gây án đã vào thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam hoặc mò lên biên giới phía Bắc lánh nạn đều bị công an lần ra tung tích và xách cổ về đấy ư? Hoàng Mai chưa một lần đặt chân lên các huyện miền núi phía tây của tỉnh, nhưng qua màn ảnh nhỏ Mai cũng có thể hình dung vùng đất rộng lớn và giàu tài nguyên ấy có thể là nơi dung thân lí tưởng cho gã một thời gian dài mà công an không thể ngờ tới. Vấn đề cần giải quyết trước mắt là cái đầu. Kiểu tóc hiện thời của gã là kiểu tóc đã chụp trong bức ảnh lưu ở hồ sơ của nhà trường. Nếu công an cần chắc chắn họ sẽ đến liên hệ với Ban giám hiệu để lấy ảnh in vào lệnh truy nã.
Xe vừa dừng, Hoàng Mai đã vội tìm đến một cửa hiệu cắt tóc. Vừa trông thấy gã, chủ tiệm đã thốt lên:
– Ơ kìa! Cái đầu của cậu…
Hoàng Mai sờ lên đầu, ngạc nhiên hỏi lại:
– Đầu của tôi! Sao kia ạ?
– Không phải là tôi vừa cắt tóc cho cậu rồi đấy ư?
Hoàng Mai nghĩ bụng có lẽ lão này bị thần kinh chắc.
– Bác nhìn kĩ lại xem tôi là ai đã chứ!
Chủ tiệm lẩm bẩm:
– Quái lạ! Sao lại có người giống nhau thế không biết. Rõ ràng tôi vừa cắt cho một người giống hệt cậu. Chỉ khác là tóc cậu ta rậm hơn thôi. Cậu ấy còn hẹn lát nữa sẽ quay lại. Thế này nhé. Tôi sẽ cắt cho cậu kiểu tóc giống hệt kiểu đã cắt cho cậu ấy. Rồi lát nữa cậu xem hai người có giống nhau như hai giọt nước không.
Hoàng Mai thấy hay hay nên tìm chỗ treo ba lô rồi lại ghế ngồi. Ngắm mình trong gương, gã chợt nghĩ đến đứa em song sinh và khấp khởi mừng khi biết đây chính là địa phương hơn hai mươi năm trước bố nuôi gã đã đến xin gã về làm con nuôi. Biết đâu đây chẳng phải là dịp trời dun dủi cho hai anh em gã được gặp nhau.
Chủ tiệm đưa xong nhát cạo cuối cùng, cởi khăn quàng cho gã thì vừa lúc có một thanh niên trạc tuổi gã lăm xăm đi vào. Ông ta liền chạy lại nắm cổ tay người đó dẫn đến cạnh Hoàng Mai nói:
– Các cậu nhìn vào gương xem. Hai người có giống nhau như hai giọt nước không?
Cả Hoàng Mai và chàng trai trẻ cùng ngớ ra. Trong gương hai khuôn mặt của họ giống nhau như lột. Không để cho Hoàng Mai và chàng trai bộc lộ cảm xúc, chủ tiệm lại đã lên tiếng:
– Hay là các cậu cố tình đùa tôi. Anh em sinh đôi hả?
Không hiểu sao Hoàng Mai lại buột miệng trả lời:
– Vâng!
– Có vậy chứ! Làm từ lúc cậu vào đến giờ tôi cứ nghĩ sao ở đời lại có người giống nhau đến thế không biết. Thôi thế này. Tiền bạc kể ra cũng quí thật. Nhưng hôm nay tôi xin tặng hai cậu tất cả tiền công, gọi là chút kỉ niệm. Thế anh em đi đâu mà khăn gói qủa mướp lỉnh kỉnh thế?
Hoàng Mai chưa kịp nghĩ ra câu trả lời thì chàng trai đã lên tiếng:
– Bọn cháu vừa từ Tây Nguyên ra. Đang đợi đò để về quê.
– Các cậu về đâu?
– Dạ, về Chiềng Vạn ạ!
– Thế à? Sắp có chuyến lên Cửa Đặt rồi đấy, anh em tranh thủ xuống đò đi kẻo lỡ. Chúc về quê may mắn nhé. Khi nào thư thả ghé chỗ anh chơi.
Hoàng Mai và chàng trai chào tạm biệt ông chủ hiệu cắt tóc vui tính và tốt bụng rồi xách ba lô dắt nhau xuống đò. Con đò làm bằng bê tông lưới thép lắp động cơ Điêzen vừa dài vừa rộng lúc này vẫn chưa có một bóng người. Hoàng Mai và chàng trai chui vào trong mui, tìm chỗ đặt ba lô rồi mới quay ra nói chuyện.
– Cậu tên là gì? Mai hỏi.
– Tôi là Lò Văn Sao. Còn anh?
– Mình là Thắng. Lê Văn Thắng, quê ở Quảng Xương. Mai chưa dám để lộ tung tích của mình – Sao quê ở đâu? Họ Lò…nghe như là người dân tộc thiểu số.
– Đúng vậy! Tôi người Thái, quê ở bản Tôm.
– Năm nay Sao bao nhiêu tuổi rồi? Tuổi mình là hai mươi bốn.
– Thế thì tôi cũng bằng tuổi anh.
– Bố mẹ cậu còn khỏe không?
– Bố mế tôi đều đã ngoài bảy mươi cả rồi.
– Gìa thế! Vậy phải hơn năm mươi các cụ mới sinh cậu à? Cậu là thứ mấy?
– Tôi chỉ có một mình. Tôi là con nuôi của bố mế tôi.
Hoàng Mai hồi hộp hỏi tiếp:
– Thế, Sao có nhớ hoàn cảnh của mình lúc về ở với bố mẹ nuôi không?
– Làm sao mà biết được! Bố mế tôi xin tôi từ một người chuyên đi các bản đổi hàng từ lúc tôi còn đỏ hỏn. Nghe nói tôi còn một người anh song sinh nữa nhưng đã có người xin đem đi trước đó rồi. Nơi mẹ tôi sinh ra rồi bỏ anh em tôi lại hình như là ở phố Hạ này…
Hoàng Mai không kìm được nỗi vui mừng, hét lên:
– Là anh đây! Trời ơi, thế là anh đã tìm được em rồi!
Hoàng Mai và Sao nhào lại ôm chầm lấy nhau. Cả hai đều nước mắt đầm đìa. Lúc sau Mai hỏi:
– Em xuống chợ có việc gì?
Sao đáp:
– Em vừa từ Tây Nguyên ra đấy chứ. Em vào trong ấy làm kinh tế được năm năm rồi. Còn anh đi đâu lại đến vùng này? Anh lên Cửa Đặt chơi hay còn đi đâu nữa?
Lúc này Hoàng Mai mới nói thật hoàn cảnh bi đát của mình. Nghe xong, Sao bảo:
– Không ngại! Anh cứ tạm về trên ấy với em. Nếu không ổn em sẽ thu xếp đưa anh vào Tây Nguyên. Ở trong đó em có rất nhiều bạn bè! Rồi Sao cởi cái áo Na To mình đang mặc đưa cho Mai nói – Anh mặc áo em rồi đưa áo anh cho em mặc. Ôi, giá lúc này mà đang ở nhà khéo em phải ôm anh mà ngủ một giấc mất!
Hoàng Mai hiểu tấm lòng của đứa em song sinh. Gã cũng vội cởi cái áo bò của mình đưa cho Sao mặc. Song, hai anh em lại nhìn nhau cười. Sao nói:
– Giấy tờ tùy thân em để cả trong túi. Gỉa thử công an có hỏi anh cứ đưa ra trình xem họ có nhận được không! Túi trên là tất cả số tiền em kiếm được ở Tây Nguyên. Chỗ ấy cũng thừa cho anh em mình sống đàng hoàng vài năm.
– Giấy tờ tùy thân của anh cũng ở trong túi áo. Tiền anh mang theo chỉ đủ tiêu trong một hai tháng thôi. Mai đưa tay nắn nắn cái túi bên ngực trái, hỏi – Túi này em đựng cái gì? Ảnh à!
Sao đỏ mặt, cười:
– Vâng! Túi ấy đựng ảnh và một tập thư. Của Lả, người yêu em đấy! Lả học Sư phạm, vừa ra trường về quê dạy học năm nay.
– Thế à? Chúc mừng em. Anh xem ảnh một lúc có được không?
– Anh cứ lấy mà xem. Em dâu tương lai của anh không đẹp nhưng mà rất hiền. Xem qua rồi cất đi kẻo khách xuống đông rồi. Chiều nay là anh sẽ gặp người ngay thôi mà. Qua được vụ rắc rối này, nếu anh thích con gái Thái em sẽ bảo Lả giới thiệu cho một đám.
Chủ phương tiện và khách đã lục tục xuống thuyền. Con thuyền xếp đầy xi măng, sắt thép còn nêm thêm hơn chục người và gồng gánh nên mớm nước đã ngập mấp mé mạn. Chủ phương tiện thu tiền rồi nổ máy. Cái chân vịt lắp ở đầu cây sào dài làm bằng cả ống kẽm quay tít, đẩy con thuyền nặng nề ngược dòng tiến lên.
Con thuyền lướt êm trên dòng sông phẳng lặng, nước trong nhiều nơi nhìn thấy đáy. Nhưng chỉ ba mươi phút sau thuyền bắt đầu tiến vào vùng nước có dòng chảy khá mạnh. Sóng vỗ ì oạp hai bên mạn nhiều lúc muốn tràn cả vào khoang. Sao nói:
– Đây là chỗ sông Đằn đổ ra sông Chu nên nước mới nhiều và chảy mạnh như thế. Từ đây trở lên còn phải qua hai cái sải và một cái thác rất khó đi là Thác Mạ.
Hoàng Mai bắt đầu có cảm giác lo sợ:
– Thế…có nguy hiểm lắm không? Anh chưa biết bơi!
– Anh yên tâm. Xảy chuyện gì đã có em!
Hoàng Mai đảo mắt nhìn quanh. Trên thuyền không có lấy một cái phao hoặc một khúc luồng nào. Gã hỏi chủ phương tiện:
– Thuyền chở nặng thế này mà không chuẩn bị cái phao nào à ông anh?
Chủ thuyền trả lời rất chủ quan:
– Cần gì phao! Ông mới đi thuyền tôi lần đầu phải không?
Hoàng Mai chất vấn:
– Đó là việc bắt buộc các chủ phương tiện phải làm để đảm bảo an toàn cho khách. Thế lúc thi lấy bằng người ta không sát hạch ông điều này à?
Chủ thuyền cười hềnh hệch:
– Bằng cấp mà làm cái qué gì! Chỉ cần hàng tháng đóng đủ tiền bến bãi cho mấy ông trên Uỷ ban là được!
Hoàng Mai lắc đầu:
– Thế thì chịu!
Sao nhắc:
– Ngồi ngay ngắn lại đi anh. Đến sải Hổ rồi.
Đang vượt sải, con thuyền bỗng khựng lại rồi quay ngang. Chủ phương tiên vội tắt máy, miệng càu nhàu:
– Lại gãy mẹ nó chân vịt rồi. Mọi người ngồi yên nhé!
Anh em gã mỗi người một cây sào chống con thuyền táp vào bờ để thay chân vịt rồi nổ máy. Con thuyền lại lừng lững tiến ra giữa dòng, hùng hục trườn qua cái sải nước chảy xiết.
Vật vã gần hai mươi phút nữa thuyền đã đến hạ lưu một con thác đầy những mỏm đã nhọn hoắt nhấp nhô như một bãi cọc giữa dòng. Tiếng nước réo ầm ầm, tạo thành một âm thanh sắc lạnh rất lạ tai khiến những người mới nghe lần đầu như Mai không khỏi hoang mang, lo sợ. Còn Sao lại tỏ ra rất thích thú:
– Thác Mạ đấy! Anh thấy có đẹp không?
Hoàng Mai lo lắng:
– Nhưng nước chảy mạnh và nhiều đá ngầm thế này làm sao thuyền qua đươc?
Chủ phương tiện tự đắc nói:
– Yên tâm đi. Không vấn đề gì!
Vừa nói gã vừa điều khiển bánh lái, hướng mũi thuyền đi vào giữa lạch nước chảy xiết, hai bên đầy những mỏm đá nhọn…
Bỗng…phập…phập! Mạn thuyền va mạnh vào một mỏm đá nhọn vỡ toang một lỗ lớn. Nước ồng ộc chảy vào khoang. Mặt chủ thuyền biến sắc. Con thuyền khựng lại trong giây lát rồi nhanh chóng bị dòng nước chảy xiết đẩy lùi xuống hạ lưu. Mạn thuyền liên tiếp va vào các mỏm đá. Mỗi một cú va chạm lại thêm một mảng vỡ bung ra. Chỉ ít phút sau con thuyền nặng nề đã bị dòng nước nhấn chìm. Tiếng la hét, tiếng kêu cứu vang trời. Một cảnh hỗn loạn xảy ra trên dòng thác hung dữ…
Hoàng Mai còn chưa biết bấu víu vào đâu thì lập tức đã được Sao túm cổ áo đẩy vào bờ. Sao ném cái ba lô lại cho gã, nói:
– Anh lên bờ ngồi đi. Để em xuống cứu họ.
Nói rồi Sao nhào vội ra giữa dòng nước lạnh buốt, bơi đuổi theo mấy bà đi đổi làng đang chới với gĩa gạo. Hoàng Mai lo lắng nhìn theo. Sao đã đuổi kịp đám người bị nạn. Ba, bốn cái đầu rũ rượi tóc cùng lúc chồm đến bâu lấy Sao làm nó không tài nào ngóc đầu lên được. Rồi chỉ một lúc sau tất cả đều bị nhấn chìm trong dòng nước xiết…Hoàng Mai bưng mặt, đau đớn kêu lên:
– Trời! Sao ơi!
Cái ba lô sũng nước là ba lô quần áo của Sao. Hoàng Mai ngồi như hóa đá trên bờ. Không biết anh em gã chủ thuyền có bơi được vào bờ không chứ còn Sao và bốn người đàn bà bất hạnh thì chắc chắn đều đã chết. Nỗi đau vì mất thằng em vừa tìm lại được cộng với nỗi lo cho bước đường phía trước làm Hoàng Mai thật sự hoang mang. Cũng may tất cả giấy tờ và tiền bạc đều không bị ướt vì Sao đã cẩn thận gói vào mấy cái túi giấy bóng. Cầm trên tay cái chứng minh nhân dân của thằng em xấu số trong đầu Hoàng Mai vụt lóe lên một ý nghĩ táo bạo…Và thế là gã quyết định đội lốt em mình để tìm về bản Tôm…
Mọi chuyện diễn ra sau đó đều rât suôn sẻ. Gã nhập vai khá đến mức chẳng một ai mảy may nghi ngờ, kể cả Lả. Niềm vui khi gặp lại người yêu sau mấy năm xa cách và nhất là lúc nghe Mai kể lại vụ đắm đò khủng khiếp dưới Thác Mạ làm cô giáo trẻ hết khóc lại cười vì mừng. Cô thật sự xúc động khi thấy người yêu vẫn trân trọng, giữ gìn từng lá thư và những tấm ảnh của mình. Tự cô đã giúp Mai mang chứng minh nhân dân lên trình lãnh đạo Uỷ ban xã. Mai lấy lí do đi đường xa, lại vừa trải qua một vụ tai nạn kinh hoàng nên nằm ọp ở nhà cả tháng chẳng đi đến đâu. Mọi việc mua bán những thứ cần thiết Mai đều đưa tiền nhờ Lả giúp. Ông bà Páo thì luôn miệng động viên:
– Con cứ nằm mà nghỉ cho lại sức. Khỏe rồi lo cưới vợ cho bố mế mau được bế cháu!
Sau một tuần học chuyên đề ở huyện về, Lả nói cho Mai một thông tin quan trọng: Cả năm người bị tử nạn trong vụ đắm đò tháng trước ở Thác Mạ ba ngày sau đều đã vớt được xác. Người đàn ông duy nhất trong số đó lại chính là một gã tội phạm đang bị công an truy nã. Khi mai táng người ta còn giữ lại cái áo bò trong có ít tiền và giấy tờ tùy thân. Bố mẹ gã từ thành phố đã lên nhận lại và xác nhận đấy chính là con trai mình.
Mai nghe vừa mừng vừa xót thương thằng em xấu số.
Chờ thêm một tháng để nghe ngóng, thấy không có gì rắc rối nữa Hoàng Mai mới thực sự yên tâm. Ở rừng, cuộc sống thật không mấy dễ chịu. Nhưng biết con đường trở về thành phố để sau này có cơ hội thừa hưởng ngôi nhà của bố mẹ nuôi đều khó có thể thực hiện được nên Hoàng Mai quyết định trụ lại lâu dài ở vùng đất mới trong cái lốt của người em song sinh xấu số. Gã cầm tiền về phố huyện mua lại một chiếc Min để hành nghề xe ôm và chở gỗ thuê. Một lần ở chợ Khèn gã gặp mấy gã lái trâu nài nỉ nhờ tìm cách “mua” giúp một cái giấy xác nhận bán trâu có con dấu và chữ kí của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã. Gã nhận lời, cầm tiền rồi về mượn một cái giấy bán trâu của một người hàng xóm, dựa theo đó làm một con dấu giả, viết xác nhận, kí tên Chủ tịch rồi đóng dấu đưa cho bọn chúng. Từ đó mở ra một hướng làm ăn vừa nhàn vừa có thu nhập cao, Nhưng lòng tham không dừng ở đấy. Với quyết tâm trong một thời gian ngắn phải kiếm đủ số tiền để về phố huyện mua đất làm nhà và chạy chọt xin cho Lả được về dạy ở thị trấn, Hoàng Mai tìm cách móc nối với Hà Văn Tạo, chồng người đàn bà bất hạnh đang bị bỏ rơi trong rừng hủi tổ chức bắt trộm trâu đưa vào giữ tạm trong đó rồi làm giấy tờ giả đem ra chợ Khèn bán cho bọn thương lái. Một lần về phố huyện, gặp thi sĩ Trần Cao Sơn đang ngồi trong quán vừa uống bia vừa huyênh hoang đọc thơ. Hoàng Mai dựng xe ghé vào nghe. Biết Trần Cao Sơn đang bí vì thi phẩm “Tình rừng” in bằng tiền túi chưa bán được mấy, Mai đã đưa Cao Sơn về nhà, bàn với gã kế hoạch chiếm đoạt cái trống đồng gia đình ông trưởng bản Tùm vừa đào được trong lúc đào ao để đem về thành phố bán cho bọn buôn cổ vật. Trần Cao Sơn đồng ý và còn hé cho Mai biết nghề cũ của mình là lái xe, việc vận chuyển sẽ rất an toàn vì chỉ cần thuê phương tiện còn tự y lái lấy. Hoàng Mai đã bỏ ra một ngày để làm con dấu giả của Bảo tàng tỉnh rồi bố trí cho Trần Cao Sơn sắm vai cán bộ cơ quan này đến bản Tùm, gặp trưởng bản đề nghị cho thu hồi cái trống đồng để đem về thành phố trưng bày trong Bảo tàng tỉnh rồi đem cất giấu trong cái hang ở bản Ngồng, chờ khi nào tìm được mối tiêu thụ sẽ đem về thành phố bán. Sau đó theo đề nghị của Trần Cao Sơn, Mai còn khắc thêm một con dấu của Uỷ ban nhân dân tỉnh để tác giả thi phẩm “Tình rừng” sắm vai cán bộ văn phòng Uỷ ban đến gặp già Quế gạ gẫm mua bộ xương hổ nghe nói được cất giữ đã mấy chục năm nay, nhưng ông già đó vẫn chưa nhận lời. Trần Cao Sơn quả là một con cáo, tinh khôn và lọc lõi. Gã nói chỉ cần mua được bộ xương hổ quí giá ấy, đem về trương lên cho bàn dân thiên hạ biết rồi gom xương trâu, xương bò bỏ nồi nấu, sau đó ngồi rung đùi thái ra từng lạng mà bán theo giá cao hổ cốt. Tiền thu về sẽ nhiều như lá mít.
Công việc làm ăn đang tiến triển thuận lợi thì cái thằng nhãi ranh ấy lù lù xuất hiện. Thật là xui xẻo. Mình đã bị lộ chưa? Liệu nó có phát hiện ra tung tích của mình? Hoàng Mai suy xét rồi đi đến quyết định: Không được hoang mang. Phải thật tĩnh táo. Bọn chúng chưa thể biết mình là ai đâu! Dù có phải bỏ trốn khỏi đất này thì trước hết cũng phải thực hiện trót lọt vụ vận chuyển cái trống đồng quí giá còn cất giữ trong Hang Dơi về thành phố đã. Một đống tiền chứ có ít đâu!
9. Lão Đốc và chiếc Phượng Hoàng vừa đến ngã ba Ngồng thì gặp già Núi vai quẩy tùng teng đôi sọt trong đựng mấy cây quế non cũng đang lúi húi đi lên. Lão xuống xe, hỏi:
– Bác lên trại rừng sớm thế?
Gìa Núi dừng lại, nói:
– Còn sót mấy cây quế bị chết, tôi lên dặm nốt! Anh đi đâu vậy?
– Cháu ra Bù Đồn mua mấy thứ. Thế thằng nhỏ nhà Lâm đâu bác không bảo nó gánh lên cho?
– Thiếu không đến chục cây, tôi làm một mình cũng được. Sáng nay hai anh em nó đưa nhau lên Bù Cheo chơi rồi!
Lão Đốc chột dạ. Hai thằng nhóc này lên Bù Cheo làm gì không biết? Chiều hôm kia lúc lão vừa từ trên núi về, gặp ba ông cháu ở Ngù, thằng Tú đã chạy theo hẹn hôm nào sang chơi để được nghe lão kể lại chuyện bắt phi công không thành trên Bù Cheo và việc Cầm Bá Kiên theo giặc. Cái chuyện cũ rích ấy đã hơn hai chục năm không thấy ai nhắc lại, nay bỗng dưng thằng nhóc là con trai một Đại úy công an đột nhiên hỏi đến làm lão không khỏi nghi ngại. Chỉ là sự tình cờ hay tay Lâm đã đánh hơi thấy điều gì khuất tất trong chuyện này nên cho con trai đến dò hỏi? Không lẽ hôm nay hai thằng nhóc ấy lại dắt nhau lên trên ấy để xác minh thật giả trong lời tường trình của mình? Lão nôn nóng hỏi:
– Chúng nó lên Bù Cheo làm gì vậy bác?
– À, là thằng anh nó ở thành phố mới lên, muốn biết thác Trai Gái nên nó dẫn lên xem. Chúng nó định đi từ mấy hôm trước nhưng vì trời có mưa nên hôm nay tôi mới cho đi.
– Thế ạ! Lão Đốc cười nhẹ nhõm – Hôm tôi sang bản Pang, đường lên thác đã khô ráo lắm rồi. Thôi, bác tranh thủ lên trại đi kẻo muộn.
– Vậy anh đi nhé! Gìa Núi chào lão rồi quẩy đôi sọt rẽ vào con đường dẫn lên trại rừng.
Lên xe, đi tiếp mới được một quãng lão Đốc bỗng thấy lòng bất an. Lão không thật sự yên tâm một chút nào. Hôm kia lên Bù Cheo, thắp hương cho người chết xong, thấy trời nổi giông, tưởng mưa đến nơi lão đã vội vã xuống núi mà không đợi cho hương nến tàn rồi xóa sạch dấu vết như mọi năm mới ra về. Lão chắc chắn khi trận mưa rừng trút xuống, nước từ trên vách đá ào qua sẽ xóa hết mọi dấu vết cái lễ nhỏ của mình. Nhưng khi lão về đến làng Bèn cơn giông cũng tan biến và suốt từ lúc ấy đến giờ cả vùng không hề có một giọt mưa. Cái tảng đá bằng bên bờ vực nơi hơn hai chục năm trước Cầm Bá Kiên đã dùng làm cao điểm bắn vào thằng phi công và chiếc trực thăng để rồi sau đó bị nó nghiêng cánh quạt thổi bay xuống vực, nơi năm nào lão cũng lên làm lễ tưởng nhớ người đã chết ở trên đỉnh núi cao ấy lâu nay chỉ có mình lão biết. Nó là nơi lưu giữ tất cả sự thật câu chuyện hoang đường và dối trá trong lời tường trình của lão về Cầm Bá Kiên với lãnh đạo địa phương. Những bí mật ấy nếu lộ ra thì mọi chuyện sẽ vỡ lỡ, sự thật sẽ bị bóc trần và đời lão coi như là hết, dù rằng những tình tiết bịa đặt lão dựng lên chỉ là do sự nông nổi nhất thời. Nó đã làm lão khổ tâm và ân hận suốt hơn hai chục năm qua vì không ngờ hệ quả nó gây cho người khác lại nghiêm trọng đến như vậy. Chắc chắn một hai ngày nữa, nếu có mưa mọi dấu vết lão để lại do cẩu thả rồi cũng bị xóa sạch. Nhưng tuổi trẻ hiếu động, biết đâu xem xong thác Trai Gái hai thằng nhóc ấy lại không rủ nhau mò mẩm lên đỉnh núi để xem lại hiện trường nơi xảy ra câu chuyện bắt phi công nhảy dù từ hơn hai chục năm trước mà phần khuất tất của câu chuyện li kì ấy đều hoàn toàn không đúng sự thật, đều do chính lão bịa ra để che đậy hành vi hèn nhát của mình. Tuổi trẻ thì đứa nào chẳng có tính tò mò! Nhưng đáng lo hơn là nếu những điều chúng muốn tìm hiểu lại xuất phát từ yêu cầu của người lớn thì đúng là chuyện không đùa một chút nào. Sự thật nếu bị bại lộ thì việc lão sẽ phải vào tù, bị người đời xỉ vả là cái chắc! Lòng đầy bất an, lão quay xe phóng một mạch về nhà, với vội con dao nắp rồi hối hả đi nhanh về phía Bù Cheo…
– Chúng nó lam cơm ăn rồi đưa nhau lên trên ấy thật rồi! Lão Đốc khẩy khẩy mấy hạt gạo nếp vương vãi bên đống than hồng còn cháy hừng hực nghĩ bụng. Mình đoán không sai. Hai thằng nhãi này chắc chắn muốn tìm kiếm điều gì trên đỉnh núi đây. Lão ngồi phịch xuống phiến đá bằng, nhìn giọt nước đổ bên thác, cố tìm cho mình một phương án khả thi để đối phó nếu hai thằng tình cờ mò đến đúng nơi lão làm lễ ở cái tảng đá bên bờ vực trên đỉnh núi cao ấy. Giết người diệt khẩu! Ý nghĩ ấy chỉ mới vụt lóe lên trong đầu lão đã vội xua đi ngay. Lão đâu có gan và cũng đâu phải loại người tàn bạo như vậy. Vả lại nếu như lão cố tình thực hiện việc làm man rợ ấy thì sớm muộn người ta cũng tìm ra thủ phạm vì việc lão và hai đứa trẻ kia lên Bù Cheo buổi sáng hôm nay chắc hẳn không ít người biết. Mà tội trạng của mình suy cho cùng thật ra cũng có nặng lắm đâu. Chỉ là sự suy nghĩ không chín chắn nhất thời khi lão gán thêm cho đồng đội của mình cái tội lên máy bay bỏ chạy theo giặc. Mà người đã chết rồi thì điều đó có gì là quan trọng. Chỉ tội cho người mẹ già của Kiên phải gánh chịu tiếng xấu suốt đời. Nhưng mà bao năm nay mình chẵng đã âm thầm giúp đỡ bà ấy biết bao nhiêu là tiền của đấy ư? Chậc! Lão tặc lưỡi. Nếu bị bại lộ mình tự ra đầu thú, khai báo thành thật sự việc xảy ra hôm ấy rồi mặc cho người ta định đoạt tội lỗi của mình. Cùng lắm là ngồi nhà đá vài năm chứ chẳng tòa nào khép mình vào tội chết đâu! Gìơ phải theo lên xem hai thằng ông mãnh này làm gì trên ấy đã.
Lão đứng dậy, rút dao chặt một khúc giang làm gậy chống rồi uể oải đặt từng bước nặng nề lần theo con đường dốc đi lên đỉnh núi. Chưa bao giờ lão thấy mệt mỏi và chán ngán như lúc này. Tất cả chỉ tại mình quá hèn! Lão vừa leo dốc vừa tự rủa mình. Câu chuyện bắt phi công Mỹ nhảy dù xuống Bù Cheo từ hơn hai chục năm trước lần lượt trở về trong kí ức lão…
Hôm ấy cũng là một ngày đẹp trời. Hơi núi tan rất nhanh. Từ mờ sáng tất cả dân quân trong xã đã có lệnh tập trung để về huyện dự hội thao. Chỉ còn để lại hai người làm nhiệm vụ tuần tra thôn bản là lão và Cầm Bá Kiên. Cầm Bá Kiên là con trai độc nhất của bà Hà Thị Mến. Bà Mến có chồng đi bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, hi sinh ở chiến trường Lào lúc con trai chưa đầy một tuổi. Hai mẹ con sống dựa vào sự giúp đỡ của gia đình người em chồng và bà con dân bản. Kiên học rất giỏi. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên chỉ học hết cấp hai đã phải ở nhà lao động giúp đỡ mẹ già. Kiên tham gia dân quân và được biên chế vào trung đội mạnh của xã do lão làm trung đội phó. Kiên nổi tiếng can đảm và ngay thẳng, đã tự mình mò mẫm, điều tra thu thập chứng cứ và tố giác Chủ nhiệm hợp tác xã mua bán Cầm Bá Chấp lợi dụng chức quyền bớt xén một lượng lớn hàng nhu yếu phẩm Nhà nước cấp bù giá cho đồng bào các dân tộc để bán cho bọn tư thương ngay sau khi nhận hàng từ kho Công ty Thương nghiệp và hợp tác xã mua bán huyện. Điều đáng nói ở đây là Chủ nhiệm Cầm Ba Chấp lại chính là chú ruột và là người đã tận tâm giúp đỡ mẹ con Kiên trong cuộc sống. Vụ việc bị phanh phui, tưởng Cầm Bá Chấp sẽ mất chức và bị khai trừ Đảng. Nhưng không hiểu sao khóa bầu cử Hội đồng nhân dân xã năm ấy ông ta vẫn trúng và con được cất nhấc lên làm Chủ tịch Uỷ ban. Bước đường phấn đấu của Kiên từ đó rất trì trật. Chỉ mỗi việc đơn giản là kết nạp Đoàn cũng phải nâng lên đặt xuống mãi. Trong mắt Chủ tịch xã, thằng cháu ruột như một chùm gai bồ kết. Dĩ nhiên từ sau vụ tố giác tham nhũng ấy, mẹ con Kiên không còn được nhận sự giúp đỡ nào của gia đình người chú giàu có và quyền thế nữa
Gần bảy giờ, lúc lão và Kiên đang làm nhiệm vụ tuần tra ở bản Cả Xoi dưới chân Bù Cheo thì nghe tiếng ầm ầm của động cơ máy bay phản lực. Nhìn lên đã thấy một tốp năm chiéc F 105 D từ bên kia Bù Cheo dàn hàng ngang lao vút qua, Chúng bay theo hướng từ Nam ra Bắc. Theo kinh nghiệm lão biết lũ giặc nhà trời kia xuất kích từ một sân bay quân sự ở Thái Lan và mục tiêu của chúng chắc chắn là cái đập nước hoặc những cây cầu và hai bến phà quanh khu vực thị trấn Hạ Sơn hoặc là sân bay quân sự Sao Vàng mà khoảng cách tính theo đường chim bay từ đây về đó không xa lắm. Phán đoán của lão thật chính xác. Cuộc không kích đã được những chiếc phản lực có biệt danh “Thấn sấm” thực hiện và cũng như mọi lần, chắc chắn cả bọn đã bị lưới lửa phòng không giáng trả quyết liệt nên kết thúc rất chóng vánh. Chỉ mười lăm phút sau đám giặc trời đã lần lượt trở về căn cứ. Khác là chúng không bay theo đội hình như lúc đi mà mạnh thằng nào thằng ấy chạy. Bốn cái đầu tiên lần lượt vút qua bầu trời trong thế hoảng loạn nhưng không có dấu hiệu gì của sự xứt mẻ. Duy cái thứ năm bay sau cùng, tốc độ khá chậm và hình như đã bị dính đạn của lưới lửa phòng không. Nó bay ở độ cao thấp hơn đồng bọn…Lại một lần nữa lão đã phán đoán đúng. Khi chiếc máy bay hiện rõ trong tầm nhìn của lão và Cầm Bá Kiên thì đuôi nó bỗng phụt ra một đám khói rồi từ đám khói ấy lóe lên một ngọn lửa. Trong nháy mắt ngọn lửa bùng to như một bó đuốc lớn chùm kín phần đuôi chiếc máy bay. ..
– Cháy rồi! Cả lão và Kiên cùng nhảy lên reo.
Máy bay cháy, chắc chắn phi công sẽ phải nhảy dù! Cơ hội lập công đây rồi! Lão thoáng nghĩ đến cái niềm vinh dự khi được đứng tuyên thệ dưới cờ Đảng trong nghi lễ kết nạp mà từ ngày đưa gia đình đi định cư đến nay lão chưa thực hiện được. Nhưng rồi, cũng lúc ấy những hình ảnh tang thương, thảm khốc của xóm làng khi bị máy bay Mỹ ném bom ở quê cũ vụt hiện lên trong kí ức lão…
– Nó nhảy dù xuống đỉnh Bù Cheo rồi! Cầm Bá Kiên hét to – Nhanh lên chú Đốc ơi!
Một phút do dự. Trong lão thoáng xuất hiện ý nghĩ nếu thằng giặc lái này bị bắt, chắc chắn bọn Mỹ sẽ cho lực lượng đến ném bom hủy diệt bản làng để trả thù…Ở nơi thâm sơn cùng cốc này lấy đâu ra hỏa lực để chống trả. Cái cơ ngơi vợ chồng lão tốn bao công sức mới tạo dựng được trên quê mới sẽ tan thành tro bụi. Không biết chừng chúng con liều lĩnh đổ quân tàn sát dân làng để trả thù cũng nên. Lão ậm ừ nói:
– Nhưng phải chờ lệnh của trên đã!
Cầm Bá Kiên quay ngoắt lại, dương mắt nhìn lão:
– Chú này! Còn ai ở đây để mà ra lệnh. Bây giờ chỉ có chú và tôi. Không chủ động lên bắt sống thằng giặc lái ấy còn chờ lệnh nào nữa!
– Nhưng…Bọn ta chỉ có một khẩu súng trường và hai viên đạn…
– Hai người để bắt sống một thằng giặc lái dù chỉ bằng tay không cũng quá đủ rồi! Cầm Bá Kiên hét lên – Đi thôi! Chắc chắn nó đáp dù xuống đám đất bằng gần đỉnh núi rồi!
– Nhưng mà…từ ngày lên đây tao đã có lần nào leo lên đỉnh núi. Nghe nói trên ấy vẫn còn nhiều gấu lắm… Lão run run nói.
– Phạ ơi! Người còn không sợ sợ gì mấy con gấu! Kiên trừng mắt hét to – Ông có đi không thì bảo? Vừa nói Kiên vừa xấn đến định giật cây súng trong tay lão. Lão vội lùi sang một bên, quát:
– Được! Mày đi trước dẫn đường đi!
Mất hơn một giờ leo đốc, tưởng đứt hơi hai người mới lên đến cánh rừng toàn sến, sớ, táu. Đúng như Cầm Bá Kiên dự đoán, thằng phi công đã chọn đám đất bằng gần đỉnh núi để đáp dù. Khi lão và Kiên tiếp cận được mục tiêu thì hình như hắn đã làm xong cái công việc mở điện đài liên lạc về căn cứ. Hắn ngồi bên cái vô tuyến trên một tảng đá, mắt cảnh giác hướng xuống lối mòn, tay lăm lăm khẩu súng ngắn. Thỉnh thoảng lại ngước mắt nhìn lên bầu trời như chờ đợi…Cầm Bá Kiên giục:
– Thế nào chú? Mình ập lên bắt sống nó thôi chứ?
Lão vừa thở vừa gắt:
– Mày điên à? Có nhìn thấy cái gì trong tay nó không? Tầm bắn của khẩu súng ngắn ấy còn xa và căng gấp mấy lần loại súng trường cổ lỗ này đấy! Nó lại có lợi thế hơn mình là đang ở trên cao!
Cầm Bá Kiên vặc lại:
– Trên cao thì đã sao! Mình tiến thêm một đoạn nữa, chú bắn vào tay cầm súng của nó để cháu vọt lên đè nó ra trói lại…
– Mày nói nghe thật đơn giản quá! Mở to mắt nhìn xem. Nó như con trâu mộng. Sức mày hỏi nước mẹ gì. Còn tao thì lỏng khỏng thế này…
– Đồ hèn! Cầm Bá Kiên trừng mắt quát – Vậy ông định thế nào?
– Chờ…có thêm lực lượng! Không hiểu sao lúc ấy lão lại đưa ra một đề nghị vô lí đến vậy. Lúc phi công nhảy dù, dân quân các xã trong vùng hẳn còn đang tập trung ở địa điểm hội thao dưới huyện. Có vắt chân lên cổ chạy hai giờ nữa chưa chắc đã đến. May sao lúc ấy bầu trời bỗng xuất hiện hai chiếc máy bay cánh quạt. Chúng bay theo đội hình mỗi chiếc một nửa đường tròn quần đảo trên không, lấy tâm điểm là chỗ thằng phi công đáp dù và bán kính chỉ hơn một ki lô mét. Vòng bay nào cũng có một chiếc chúi đầu xả cả loạt 14 li 5 xuống những cánh rừng và nương rẫy. Lão được dịp nói – Mày thấy chưa? Đâu chỉ có mình nó ngồi đó chờ chết. Coi chừng, có khi trực thăng còn đổ quân xuống nữa kia!
Lão nói chưa dứt lời thì từ bên kia đỉnh núi lù lù xuất hiện một chiếc trực thăng thật. Chiếc trực thăng bay đến đúng chỗ thằng giặc lái đáp dù thì dừng lại. Lão hoang mang thật sự. Định quay đầu bỏ chạy xuống núi thì Cầm Bá Kiên chồm đến giằng lấy khẩu súng, miệng quát:
– Đồ hèn! Đưa súng đây!
Rồi như một con gấu ngựa, Kiên xách cây súng trường, khom mình lách từ gốc cây này sang gốc cây khác tiến về phía lèn đá gần chỗ thằng giặc lái ngồi.
Đám đất thằng phi công đáp dù tuy rộng nhưng có khá nhiều các mỏm đá nên chiếc trực thăng không hạ cánh được. Nó hạ thấp độ cao rồi mở cửa, thả thang dây xuống…
Lúc này Kiên đã lần đến được lèn đá. Chỗ Kiên đứng quả có lợi thế cao hơn chỗ thằng phi công ngồi rất nhiều. Kiên dương súng lên ngắm…
– Trời! Lão nhắm nghiền hai mắt, lẩm bẩm – Hắn điên thật rồi! Nếu thằng phi công mà bị bắn chết thì cả vùng này sẽ phải gánh họa lớn đây!
Lão không nghe tiếng súng nổ nhưng biết chính xác là viên đạn đã được bắn đi vì thấy Kiên đã hạ súng xuống để lên đạn rồi lại tiếp tục dương súng lên…Viên đạn thứ hai cũng như viên đạn đã bắn đi trước đó có lẽ không gây xây sát gì cho cả thằng phi công và chiếc trực thăng to lớn vì luồng gió từ cánh quạt máy bay thổi rất mạnh. Cùng lúc ấy có lẽ những thằng giặc đi làm nhiệm vụ cứu nạn đã phát hiện ra mục tiêu đang tấn công mình. Một thằng xách khẩu tiểu liên ra cửa hướng nòng súng về phía Kiên. Nhưng cũng lúc ấy có một bàn tay ngăn hắn lại. Rồi cả hai biến mất trong khoang máy bay. Liền sau đó chiếc trực thăng nghiêng mình, hướng cả hệ thống cánh quạt quạt tít mù như dội bão về phía lèn đá…Lão chỉ kịp nhìn thấy Kiên chới với rồi bị luồng gió mạnh như bão hất tung cả người và khẩu súng bay đi như một chiếc lá …
– Trời! Kiên ơi! Lão đau đớn thốt lên trong tiếng cây cối gẫy gập đổ rào rào xung quánh.
Làm xong cái công việc tàn bạo kia, chiếc trực thăng lấy lại thế cân bằng để cho đồng bọn leo lên rồi đóng cửa, nâng độ cao bay hút về phía Nam. Tiếp đó lần lượt hai chiếc máy bay cánh quạt cũng nối nhau biến mất.
Lão bàng hoàng ngồi dậy, nhìn quanh. Cả một vùng rừng xác xơ như vừa trải qua một trận bão khủng khiếp. Lão lập cập lần bước đi trong đám ngổn ngang cây cối để lên lèn đá nơi Kiên đã đứng. Ngay sát lèn đá là một cái vực sâu thăm thẳm. Tất cả không còn để lại tí dấu vết gì. Lão rùng mình, ngồi xuống, đưa hai tay bưng mặt, khóc rống lên.. Lão khóc mừng cho mình may mắn thoát chết nhiều hơn là vì thương Kiên. Nếu Kiên sống, thằng ranh ấy tất sẽ đổ hết tội lên đầu mình đã chần chừ không bắt phi công. Nhưng mà nó chết thảm quá. Cái vực quá sâu và hiểm trở. Chỉ đứng trên bờ nhìn xuống đã thấy hoa mắt chóng mặt rồi. Một khi đã sa chân rơi xuống thì khó mà tìm thấy xác, chứ nói gì bị cả một luồng gió mạnh hơn bão ấy quẵng đi. Lão ngồi dậy, thập thửng lần xuống núi. Những lời nhục mạ của Kiên làm lão không khỏi hổ thẹn. Cũng không thể nói thật sự việc và nguyên nhân cái chết của Kiên với lãnh đạo được. Lão suy đi nghĩ lại rồi quyết định bịa ra chuyện Kiên cầm súng lên trực thăng theo giặc. Chỉ có vậy người ta mới không qui trách nhiệm cho lão. Còn Kiên, dù sao hắn cũng chết rồi!
Mãi theo đuổi với những tình tiết của câu chuyện xảy ra từ hơn hai chục năm về trước, lão đã đặt chân lên đám đất bằng gần đỉnh núi từ lúc nào. Không thấy bóng dáng hai thằng nhỏ đâu. Lão khấp khởi mừng thầm. Hay là chúng nó vẫn còn quẩn quanh đâu đó bên thác Trai Gái? Bỗng lão giật mình khi nhìn thấy trước mặt, bên lối mòn bí mật dẫn lên lèn đá nơi lão vừa thắp hương cho Kiên chiều hôm kia có mấy mảnh vàu róc từ ống cơm lam vương vãi trên thảm cỏ. Lão hồi hộp cúi xuống nhặt lên và sợ hãi khi nhận ra mục tiêu mình theo dõi đúng là đã đi vào lối mòn ấy. Bất ngờ từ trên lèn đá bỗng vang lên tiếng người gọi thống thiết:
– Chú Kiên ơi!
– Trời! Đúng hai thằng ranh ấy! Vậy là đi đứt hết rồi! Lão ôm đầu, ngồi phịch xuống vệ cỏ, mồ hôi túa ra như tắm.
10. Đại úy Cầm Bá Lâm với tay ấn nút dừng của cái máy ghi âm, phấn khởi hỏi:
– Bằng cách nào các con buộc lão tường thuật chi tiết vụ việc xảy ra buổi sáng hôm ấy trước máy ghi âm đầy đủ thế này được?
Tú nói:
– Có lẽ lương tâm ông ấy dằn vặt vì biết việc làm của mình đã gây hậu quả nghiêm trọng nên rất hối hận bố ạ. Song vì sợ trách nhiệm nên nhiều năm qua ông ấy vẫn không dám nói ra sự thật mà chỉ âm thầm tìm cách giúp đỡ bà thím và năm nào đến ngày giỗ của chú Kiên ông ấy cũng lên Bù Cheo thắp hương cho chú như là một sự tạ lỗi với người đã khuất. Lúc đầu ông ấy vẫn khăng khăng phủ nhận sự việc. Chỉ đến khi bọn con đưa ra hai cái vỏ đạn, bằng chứng việc chú Kiên đã bắn hết viên đạn cuối cùng ông ấy mới chịu thú nhận sự thật. Bọn con tin những lời ông ấy nói trong cuốn băng này là đúng vì sau đó ông ấy ngồi ôm mặt khóc rất lâu. Việc anh Minh bí mật ghi âm ông ấy hoàn toàn không biết.
Đại úy Cầm Bá Lâm xúc động nói:
– Các con đã làm được một việc rất có ý nghĩa. Đây là cơ sở pháp lí để trên ghi nhận chiến công của liệt sĩ Cầm Bá Kiên và trả lại danh dự cho mẹ con chú.
– Còn việc Hoàng Mai thì thế nào chú? Tuấn Minh nôn nóng hỏi.
– Những việc liên quan đến Hoàng Mai Công an huyện đang tiến hành điều tra và bước đầu đã có kết quả rồi. Đại úy Lâm nói – Bây giờ thì chú có thể cho các con biết trước chuyện này. Ngay sau khi nhận được thư của thầy Cầm Bá Tâm và làm việc với lãnh đạo Bảo tàng tỉnh, xác định đây là một vụ giả mạo giấy tờ để lừa đảo, chiếm đoạt cổ vật khá nghiêm trọng, Giám đốc Công an tỉnh đã chỉ thị cho lãnh đạo Công an huyện phải lập chuyên án để điều tra, làm rõ vụ việc, bắt đối tượng và thu hồi cổ vật. Để giữ bí mật, tạm thời các chú chưa trả lời người gửi thư tố cáo. Nhưng đúng là việc phá án tiến triển rất chậm vì chưa lần ra được tung tích gã mang danh cán bộ Bảo tàng và ông cán bộ văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh kia. Các chú chỉ mới thống nhất một nhận định là hai nhân vật nói trên chắc chắn chỉ là một. Sau hôm nhận được nguồn tin về Hoàng Mai do các con cung cấp, chú được Trưởng Công an huyện cử xuống Hạ Sơn gặp chủ phương tiện của cái đò bị đắm ở Thác Mạ năm ngoái để xác minh lại một số sự việc. Rủi thay hôm ấy anh này lại không có nhà. Trong lúc chờ đợi chú ghé vào tiệm cắt tóc tranh thủ cạo bộ râu. Ông chủ cửa hiệu là người rất cởi mở và vui chuyện. Biết chú đang đi xác minh lại một số điểm nghi vấn trong vụ đắm đò, ông đã kể cho chú nghe một tình tiết rất quan trọng liên quan đến vụ tai nạn. Đó là trên chuyến đò ngược Cửa Đặt hôm ấy có hai thanh niên là anh em sinh đôi. Họ giống nhau như hai giọt nước. Và hình như họ bị thất lạc nhau từ nhỏ, mãi lúc vào tiệm ông cắt tóc thì mới nhận ra nhau. Lúc hai người ở dưới thuyền, ông xuống sông xách nước thì tình cờ thấy họ cởi áo rét đổi cho nhau rồi ôm nhau nói cười thân thiết lắm. Khi con thuyền bị đắm ở Thác Mạ, một trong hai người bị chết đuối. Nghe nói sau đó có hai vợ chồng một ông họa sĩ già từ thành phố lên nhận mộ, đã được công an giao lại cái áo bò trong đó có đủ giấy tờ tùy thân của người xấu số và họ đã xác định đấy chính là con trai mình. Từ đó ông ấy cứ phân vân mãi. Lúc nói chuyện với ông cả hai đều bảo là quê trên Chiềng Vạn, giờ một người lại có bố mẹ ở thành phố. Liệu có sự nhầm lẫn không nếu sau đó họ không đổi áo lại cho nhau?
Nhận được nguồn tin quan trọng ấy, kết hợp với những thông tin về Hoàng Mai do các con cung cấp, chú đã khẳng định đúng Hoàng Mai và Lò Văn Sao là anh em sinh đôi. Người xấu số mới là Lò Văn Sao còn Hoàng Mai chỉ là kẻ đội lốt anh ta…Một mắt xích quan trọng của vụ án đã được lần ra. Nhưng tuyệt vời hơn là sau đó không lâu, mắt xích thứ hai của vụ án cũng tình cờ được khám phá…
– Ý chú muốn nói đến kẻ đội lốt cán bộ Bảo tàng tỉnh? Tuấn Minh hồi hộp ngắt lời Đại úy.
– Đúng vậy! Nhưng chuyện này cũng lắt léo lắm! Để chú cho các con xem trước thứ này đã. Đại úy lấy trong cặp ra một cuốn sách còn mới đưa cho hai anh em. Tuấn Minh lật bìa trước bìa sau xem qua rồi thốt lên – Một tập thơ!
Đại úy Cầm Bá Lâm gật đầu cười nói:
– Đây là tác phẩm đầu tay của Trần Cao Sơn. Ở thành phố cháu đã từng nghe nói đến tác giả này bao giờ chưa?
Tuấn Minh không hiểu Đại úy có ý gì mà lại đặt một câu hỏi chả ăn nhằm gì với cái đề tài đang bàn như vậy. Nó trả lời cho qua:
– Mấy năm nay các tác giả có thơ in sách rất nhiều. Thơ của họ phần lớn chưa được các báo và tạp chí sử dụng. Nhưng cơ chế xuất bản bây giờ lại rất thoáng nên cứ có kinh phí là in được nên họ bỏ tiền xin giấy phép xuất bản, tự in rồi tự đem đi bán. Thường thì ông nào cũng in ảnh và tiểu sử trích ngang rất trang trọng ở bìa bốn như thế này.
– Chú cảm ơn cháu! Điều chú muốn nói ở đây là chính nhờ tập thơ này mà chú đã lần ra được chân dung kẻ lừa đảo đấy!
Tuấn Minh hồi hộp hỏi:
– Thật vậy hở chú? Trong tác phẩm này có bài thơ nào nói về gã lừa đảo ấy à?
Đại úy lắc đầu:
– Không phải từ những bài thơ trong tập mà là nhờ bức chân dung khổ lớn in ở bìa bốn này kia! Chuyện thế này. Ngay sau hôm được cháu cung cấp nguồn tin về thầy giáo Tâm và kẻ mang danh cán bộ Bảo tàng cùng Lò Văn Sao cầm giấy tờ giả mạo đi mua cổ vật, chú cũng bố trí lên gặp thầy để tìm hiểu thêm một số vấn đề. Trước khi đi chú có chuẩn bị ít quà. Biết thầy thích sách, thấy trên bàn thủ trưởng cơ quan có đến chục tập thơ mới mua chú xin một tập mang theo. Đến nhà thầy, đang ngồi nói chuyện thì ông trưởng bản Tùm đến chơi. Ông ta cầm tập thơ xem rồi thốt lên: “Thầy giáo xem này! Thế mà thầy cứ lo chúng tôi bị bọn xấu lừa. Cái ông cán bộ được Lò Văn Sao đưa đến nhà thu hồi cái trống đồng cho Bảo tàng tỉnh chính là nhà thơ này chứ còn ai!”
Thầy Tâm đặt chén nước xuống, hồi hộp hỏi: “Anh nhận dạng có chính xác không?” Ông trưởng bản Tùm nói: “Không sai mà thầy! Ngoài đời làm sao thì trong ảnh làm vậy. Tôi không nhầm đâu. Uí chà chà! Bác ấy tài thật. Thì ra bác ấy còn là nhà thơ nữa!”
Nghe hai người nói chuyện, chú suýt reo lên, nhưng may là đã kìm nén được. Sợ hỏng việc, chú đưa mắt ra hiệu cho thầy Tâm. Thầy Tâm hiểu ý chú nên vỗ vai ông trưởng bản Tùm cười nói: “Là tôi cũng lo xa thế thôi. Nhưng nay anh đã nhận đúng ảnh người cán bộ ấy thì tôi thật sự yên tâm rồi!”
Vậy là rất may, tình cờ chú lại tìm thêm được một đầu mối quan trọng nữa của vụ án lừa đảo. Đợi ông trưởng bản Tùm ra về, chú ngồi nói chuyện thêm với thầy Tâm một lúc nữa rồi cũng xin phép thầy trở về cơ quan.
Ngay sáng hôm sau chú phóng xe xuống Hội Văn nghệ tỉnh để xác minh nhân thân của Trần Cao Sơn. Các anh lãnh đạo Hội cho biết Trần Cao Sơn không phải là hội viên. Muốn tìm hiểu về con người này thì cứ theo mấy dòng lí lịch trích ngang ở bìa bốn tập thơ mà hỏi. Chú lại phi xe về thị trấn Nam Sơn. Gặp lãnh đạo địa phương, các anh ấy cho biết Trần Cao Sơn tên thật là Trần Cao Đại, từng là lái xe của Công ty vận tải quá cảnh, chuyên chở hàng chiến lược cho nước bạn Lào. Trong chiến tranh, nhiều lần khi qua phà Nam Sơn Đại đều có hành vi bán bớt hàng hóa để lấy tiền tiêu sài. Công an kinh tế đã lập chuyên án theo dõi và bắt quả tang khi Đại đang tuồn hàng cho tư thương. Đại bị truy tố, phải ngồi tù năm năm. Ra tù Đại trở về địa phương sống bằng nghề buôn bán lâm sản và ghi số đề. Gần đây Đại bỗng dưng tuyên bố “rửa tay gác kiếm” và quay ra làm thơ, in sách rồi mang đến các huyện và các cơ quan, trường học bán. Thu nhập nghe nói còn cao hơn cả mấy ông nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp. Đến đây thì có thể khẳng định Trần Cao Sơn chính là kẻ đã được Hoàng Mai bố trí đóng giả vai cán bộ Bảo tàng và văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, cầm giấy giới thiệu rởm do y làm để chiếm đoạt cổ vật và gạ gẫm già Quế định mua bộ xương hổ của già. Việc chúng chưa vận chuyển cái trống đồng ra khỏi địa bàn có lẽ là còn chờ nghe ngóng động tĩnh và tìm mối tiêu thụ. Mẻ lưới này sắp cất được rồi. Căn cứ lời hẹn với ông nội của Hoàng Mai, có thể xác định tối mai, thứ bảy chúng sẽ đưa phương tiện lên để chuyển cái trống đồng cất giấu trong Hang Dơi về thành phố. Đây là thời điểm bọn buôn bán động vật hoang dã và vận chuyển hàng lâm sản tận dụng vì các lực lượng kiểm tra nghỉ cuối tuần. Rất có thể để giữ bí mật và cho thật an toàn, Trần Cao Sơn chỉ thuê phương tiện còn mình tự lái lấy. Đại úy Cầm Bá Lâm nhìn hai anh em tiếp – Bây giờ chú đề nghị thế này. Chúng ta còn một nhiệm vụ cuối cùng, bắt gọn Hoàng Mai và Trần Cao Sơn cùng tang vật là kết thúc thắng lợi chuyên án. Nếu công an đưa lực lượng lên mai phục chúng sẽ sinh nghi và sẵn sàng bỏ của chạy lấy người. Vì vậy sự cộng tác của các con lúc này là rất cần thiết. Bố đề nghị chiều mai hai anh em cùng lên trại rừng, bí mật theo dõi xem chúng chuyển cổ vật lên xe bằng cách nào. Khi xe chạy các con dùng máy bộ đàm báo cho chú. Các chú bố trí lực lượng mật phục ngay ngoài ngã ba Bù Đồn. Thắng lợi ở trong tầm tay rồi. Các con chú ý phải thật khôn khéo, đừng để chúng nghi ngờ.
Tú hỏi:
– Thế còn con trâu của bà thím thì giải quyết bằng cách nào bố?
Đại úy nói:
– Các con yên tâm. Việc này bố sẽ bàn với Trưởng Công an xã. Ngay ngày mai các chú ấy sẽ gọi Hà Văn Tạo lên trụ sở Uỷ ban, bắt y tường trình sự việc rồi vào Rừng Ma đưa trâu về cho bà thím.
Đại úy lấy trong cặp ra cái máy bộ đàm, hướng dẫn cách sử dụng rồi trao cho Tuấn Minh:
– Cháu cầm lấy. Lúc nào cần thì gọi cho chú!
Tuấn Minh đón lấy cái bộ đàm. Chợt trong đầu bật ra một ý nghĩ. Nó hỏi:
– Chú ơi, lúc liên lạc thì gọi thế nào? Phải có một biệt danh gì chứ?
Đại úy xoa đầu nó, cười nói:
– Chú hiểu ý cháu rồi. Cho li kì như phim hình sự phải không? Vậy thế này nhé. Các con là Sông Đặt, còn chỗ chú là Sông Chu. Sông Đặt gọi Sông Chu. Nghe rõ trả lời! Được chưa? Rồi Đại úy vỗ vai cả hai anh em hỏi – Thế nào? Nhiệm vụ có khó khăn lắm không?
Tú nhìn Minh, có ý muốn nhường quyền trả lời cho ông anh họ. Tuấn Minh đáp:
– Thưa chú, nhất định anh em con sẽ hoàn thành nhiệm vụ!
Chập tối hôm sau chiếc Zin ba cầu kéo còi, gầm gừ bò lên con đường dốc. Hoàng Mai nhảy xuống, tìm chỗ si nhan cho nó quay đầu. Chiếc xe tiến lên, lùi xuống một lúc rồi dừng lại bên đống gỗ bạch đàn ông nội cho người xếp gọn bên đường. Gã lái xe cũng mở cửa nhảy xuống rồi cả hai cùng kéo lên đồi. Tuấn Minh và Tú vội nấp vào sau một chỗ kín đáo. Qua khe hở tấm vách nứa hai đứa hết sức ngạc nhiên bởi nhận định của Đại úy Cầm Bá Lâm thật chính xác. Lái xe không phải ai khác mà chính là nhà thơ Trần Cao Sơn. Hoàng Mai đến bên nội, rút trong túi ra một tập tiền, nói:
– Bố chu đáo quá. Thiếu nhiều tiền nữa không, con gửi bố. Còn cái hợp đồng bố đã xin đủ dấu và chữ kí của xã cho con chưa?
Nội đưa cho gã tờ giấy nãy giờ vẫn cầm sẵn trong tay, nói:
– Hợp đồng đây. Dấu má, chữ kí đủ cả rồi. Anh đưa thêm cho tôi hai trăm ngàn đồng nữa. Sao không đánh xe lên sớm một lúc. Mấy người tôi nhờ bốc đợi mãi, thấy muộn họ về cả rồi!
Hoàng Mai gấp cái hợp đồng, nhét vào túi quần sau, nói:
– Không sao bố ạ! Sáng mai bốc cũng được. Xe trục trặc, bọn con phải nằm ngoài Bù Đồn sửa mất hơn hai tiếng. Tiện thể cơm nước ở đó luôn nên mới lên muộn thế này. Gã đảo mắt nhìn quanh, hỏi – Thế mấy thằng cháu đâu? Không có đứa nào lên ngủ với bố cho vui à?
Nội lắc đầu:
– Bọn chúng nó ở nhà với bà. Mình tôi với con chó này là đủ. Nào, anh em lên chòi uống nước, nghỉ ngơi đã. Hôm nay tôi thấy trong người khó chịu quá, phải đi ngủ sớm đây!
Hoàng Mai nói:
– Bố mệt cứ lên chòi ngủ cho ngon giấc đi. Tối nay bọn con ngủ dưới xe để còn phải trông chừng bọn xấu. Nhỡ có thằng nào đi qua nó tháo mất cái bình ắc qui thì chết dở.
– Vậy tùy các anh. Nhớ mắc màn. Trên này nhiều muỗi lắm!
Nội nói rồi vác dao quắm lên chòi. Cả hai thằng cùng thở phào. Nếu bọn Hoàng Mai cũng lên chòi uống nước theo lời mời của nội thì hai anh em chỉ còn cách chuồn lên rừng mới không bị chúng phát hiện.
Đêm ập xuống rất nhanh. Hai thằng buông màn ngồi dán mắt nhìn qua cửa sổ chăm chú theo dõi mọi động tĩnh dưới đường. Cái bếp dầu trên thùng xe hắt vào khoảng không một quầng sáng xanh lè. Mùi cà phê sữa thơm ngào ngạt theo gió bay lên. Tuấn Minh nuốt nước bọt lẩm nhẩm:
– Bọn này sài sang thật!
Thời gian chậm chạp trôi. Trăng hạ tuần như một cánh diều mỏng nhô mình khỏi cánh rừng phía đông. Cái lạnh đêm hè vùng sơn cước ngấm dần vào da thịt. Hai mắt Tuấn Minh cứ muốn díu lại. Dưới đường, cái bếp dầu đã tắt. Trên thùng xe chỉ còn hai đốm lửa nhỏ lập lòe phát ra từ đầu hai điếu thuốc lá. Bất chợt Tú vỗ nhẹ vào vai Tuấn Minh:
– Bắt đầu rồi!
Tuấn Minh dụi mắt, vươn vai cùng Tú trườn ra khỏi màn, rón rén lần lại cầu thang, cố không gây một tiếng động nhỏ nào để làm nội phải thức giấc. Dưới đường, hai bóng đen đã rời khỏi thùng xe. Chúng bấm đèn pin, lừ lừ tiến về phía Hang Dơi. Đợi cho chúng đi khuất một lúc, hai anh em mới tụt khỏi cầu thang. Con Lu từ tối đến giờ vẫn đợi ở đó. Tuấn Minh và Tú vừa đặt chân xuống đất nó đã nhảy lên, ngoe nguẩy đuôi chờ để được hai ông chủ nhỏ gọi đi theo. Tuấn Minh nhìn con Sói xám rồi lại nhìn Tú nói:
– Việc này, nếu nó cũng đi theo sẽ rất bất lợi. Em kiếm đoạn thừng buộc lại đi.
Tú nói:
– Anh yên tâm. Để em đọc lệnh là nó tự biết phải ở lại. Không cần trói buộc đâu! Rồi nó ôm lấy cổ con Sói xám, chỉ vào chân cầu thang nói nhỏ – Lu, lại kia nằm!
Tức thì con chó ngoan ngoãn đến nằm dưới chân cầu thang.
Hai anh em lại hăm hở chạy xuống chỗ cái ô tô đang đậu. Chúng khẩn trương trèo lên thùng xe xem xét. Sàn gỗ lăn lóc mấy cái vỏ bia lon, rất nhiều lá gói nem và mấy cái vỏ đựng cà phê sữa. Trên xe chỉ có một cái phuy đựng xăng loại hai trăm lít. Tú hỏi:
– Anh bảo chúng nó sẽ giấu cái trống đồng ấy vào chỗ nào?
– Anh cũng đang nghĩ đến điều đó đây. Giấu vào chỗ nào nhỉ? Để trong thùng xe chắc chắn sẽ bị gỗ đè bẹp dúm hết.
– Hay chúng nó giấu trên ca bin?
Tuấn Minh cười:
– Em ngây thơ thế? Nếu để trên ca bin mà đưa đi được thì cần gì chúng nó phải mua gỗ ngụy trang. Tuấn Minh vừa nói vừa với tay lay lay cái phuy rồi khẽ reo lên – Ơ-rê-ca!
Tú hồi hộp hỏi:
– Gì thế anh?
– Tìm thấy rồi! Tuấn Minh vật cái phuy nằm xuống sàn xe. Cái phuy không có đáy. Nó quả quyết – Cổ vật sẽ được giấu trong cái vỏ phuy rỗng này. Bọn nó cáo thật. Tuấn Minh dựng cái vỏ phuy vào chỗ cũ rồi giục Tú – Bọn mình rút thôi. Gìơ này có lẽ chúng nó cũng sắp ra rồi.
Hai anh em nhảy khỏi thùng xe, khẩn trương rút lên chòi. Ít phút sau hai bóng đen cũng lù lù trở lại. Một thằng đi trước bấm đèn soi đường, một thằng vác cái bì lầm lũi bám theo sau, trông xa cứ như một đoạn phim hình sự. Công việc tiếp theo chúng làm đúng như anh em Tuấn Minh nhận định. Cái trống đồng được xếp gọn vào trong ruột cái vỏ phuy không đáy. Sau đó những khúc gỗ bạch đàn mới được chuyển lên xe. Công việc chúng làm thật khẩn trơng và rất nhẹ nhàng, không hề phát ra một tiếng động mạnh. Chỉ một giờ sau đống gỗ đã được xếp gọn lên thùng xe…Có tiếng gà rừng gáy ở trên cao. Tuấn Minh xem đồng hồ. Đã gần một giớ sáng. Tú hỏi:
– Anh bảo chúng nó đi luôn hay chờ trời sáng?
– Chắc chắn là chúng nó sẽ đi luôn! Tuấn Minh đáp.
Tuấn Minh nói vừa dứt lời thì dưới đường đột ngột vang lên tiếng động cơ ô tô nổ giòn giã. Nội vùng dậy, hé cửa sổ nhìn xuống. Sau tiếng còi lảnh lót là tiếng Hoàng Mai nói vọng lên:
– Bố già ngủ ngon. Bọn con đi nhé!
Cả hai chiếc đèn pha cùng lúc bật sáng. Con đường dốc và cánh rừng trước mặt hiện ra rõ từng gốc cây, ngọn cỏ. Chiếc Zin rú ga rồi từ từ lăn bánh…
Nội xuống cầu thang, dương đèn rọi xuống đường, lắc đầu nói:
– Bọn này quỷ quyệt thật! Để xem chúng nó có mang nổi cổ vật đi thoát được không!
Cả hai thằng đều rất ngạc nhiên. Tuấn Minh hỏi:
– Nội! Vậy ra nội cũng biết trên xe chúng nó chở thứ gì rồi à? Chú Lâm cho nội biết chuyện này rồi phải không?
Nội xoa đầu hai thằng, cười nói:
– Thế hai đứa nghĩ chỉ có chúng mày mới được giao nhiệm vụ theo dõi bọn chiếm đoạt cổ vật chắc!
– Vậy sao lúc chập tối nội còn mời họ lên uống nước, ngủ lại. Nội biết nếu Hoàng Mai thấy anh em cháu ở trên chòi hắn sẽ chủ động bỏ phi vụ này mà?
Nội vuốt râu, cười nói:
– Biết chứ! Nhưng nội thừa biết có dọn yến mời chúng nó cũng không lên!
– Ôi! Bọn cháu chịu nội! Cả hai cùng nhào lại ôm chầm lấy nội. Sực nhớ nhiệm vụ. Tuấn Minh rút bộ đàm, mở máy, lên tiếng gọi:
– A lô! Sông Đặt gọi Sông Chu! Mục tiêu đã lên đường lúc một giờ năm phút! Hàng được giấu trong ruột cái thùng phuy không đáy!
11. Thời gian trôi thật nhanh. Mới đó mà một tuần lễ ở chơi trên quê nội của Tuấn Minh đã sắp hết. Bố cũng đã hoàn thành chương trình của đợt công tác ở huyện. Bố nhắn thím Lâm quãng mười giờ trưa mới có mặt ở nhà vì buổi sáng còn phải gặp gỡ với mấy người bạn học cũ. Chiều nay nội sẽ tổ chức bữa cơm liên hoan để tiễn bố con Tuấn Minh sáng mai trở về thành phố. Cả Minh và Tú đều phải ở nhà để giúp bà và thím Lâm làm cơm. Như vậy là Tuấn Minh chỉ còn đúng một buổi sáng. Làm gì thì chỉ được một việc. Tuấn Minh vừa muốn dành thời gian cùng thầy giáo Tâm sang Kụt Ạc tổ chức ghi âm mấy làn điệu Sắc bùa của một nghệ nhân già trên ấy, nửa lại muốn lên Bàn Tạn thăm già Quế để xem cái bộ xương hổ già sắp bỏ nấu cao nó có hình thù thế nào. Lại còn chương trình cùng Tú vào Rừng Ma khuyên cô Mai sớm đưa bé Suối về sống với cộng đồng để em được đi học, nhân thể xin một con rùa núi đem về thành phố nuôi làm cảnh nữa. Thấy hai anh em đang ngồi xì xầm bàn bạc để phân chia thời gian, nội nhắc:
– Sáng nay hai thằng có định đi đâu thì cũng phải dành thời gian lên thăm ông bà Páo một lúc nhé! Việc chú Sao chết đuối chắc chắn đã làm cho ông bà ấy bị xốc. Anh em lên trước lựa lời an ủi họ một tí kẻo ngày mai ông mới đi được. Chết thật! Nội không nhắc thì cả Tuấn Minh và Tú đều quên mất. Hai anh em quyết định lên bản Tôm thăm ông bà Páo trước. Tú xăng xái định vác cái xe địa hình xuống, nhưng bị Tuấn Minh ngăn lại:
– Đi bộ thôi! Anh còn muốn chụp thêm ít pô ảnh dọc đường!
Tuấn Minh nói vậy để Tú chấp nhận đi bộ với mình chứ thật ra nó rất hãi khi phải ngối sau xe với thằng em họ.
– Như vậy thì lâu chết! Tú tỏ ra không vui nhưng cũng đành chấp nhận cất xe để đi bộ cùng Tuấn Minh.
Vừa lên đến bạc cuối cùng của cái cầu thang cũ kĩ, cả hai thằng đều không khỏi ngạc nhiên khi thấy trong gian nhà rộng ngoài ông bà Páo còn có một cô gái trẻ nữa. Cả ba người đều đang khóc. Tú bấm Tuấn Minh nói khẽ:
– Cô giáo Lả, người yêu của chú Sao đấy!
Thấy hai thằng, cô giáo rút khăn lau nước mắt đi lại hỏi:
– Các em lên chơi đấy à? Cô lấy chiếu trải xuống sạp, nói – Hai em ngồi xuống đi.
Hai anh em ngồi xuống chiếu mà không biết nên bắt đầu câu chuyện như thế nào. Ông bà Páo thì từ lúc hai thằng lên nhà đến giờ vẫn cúi đầu ngồi lặng lẽ khóc. Không khí cứ như là nhà có tang. Lúc sau Tuấn Minh đứng dậy, đến bên ông bà Páo nói:
– Thưa ông bà, thưa cô giáo. Thật ra anh em cháu cũng không ngờ sự thể lại như vậy. Chúng cháu mong ông bà và cô giáo đừng vì chuyện này mà suy nghĩ nhiều, ảnh hưởng sức khỏe.
– Chị cảm ơn hai em! Cô giáo Lả đỡ lời Tuấn Minh – Anh Sao chết đối với chị và bố mế đây thật là một nỗi đau quá lớn. Nhưng nếu không có các em, không có các anh ở Công an huyện điều tra, làm sáng tỏ mọi chuyện thì sự việc sẽ còn tệ hại hơn nhiều. Hai anh em đến thăm ông bà hay còn có chuyện gì cần hỏi không?
– Dạ, không ạ! Tuấn Minh nhanh miệng đáp – Chả là sáng mai em đã phải về thành phố, bọn em lên thăm ông bà và chào ông bà để đi. Mong ông bà giữ gìn sức khỏe.
– Vậy hai em ở lại đây chơi rồi về sau nhé! Cô giáo nói – Bây giờ chị phải lên Rừng Ma có chút việc.
– Cô lên Rừng Ma làm gì? Tú hỏi.
– Là thế này! Cô giáo giải thích – Bố mế đây đều đã già yếu lắm rồi. Nếu anh Sao còn sống thì chắc chắn cuối năm nay chị sẽ được về làm dâu họ Lò để cùng anh phụng dưỡng bố mế. Nhưng giờ thì biết chắc anh không còn nữa nên chị quyết định xin bố mẹ đẻ cho xuống đây ở để phụng dưỡng bố mế thay anh. Hôm nay chị định lên Rừng Ma nói chuyện và mời chị Mai đưa bé Suối về ở với chị cho vui cửa vui nhà, vừa có thêm người đỡ đần chăm sóc bố mế anh Sao những khi chị đến trường. Chị cũng muốn có thêm điều kiện để kèm cặp cho bé Suối học, vì nó đã chín tuổi rồi mà vẫn chưa biết chữ.
Cả Tuấn Minh và Tú đều thật sự bị bất ngờ và hết sức xúc động trước tấm lòng hiếu kính người già và thương yêu con trẻ của cô giáo Lả. Tuấn Minh nói:
– Nếu vậy cô cho bọn em cùng đi với. Bọn em cũng đang rất phân vân về chuyện mẹ con cô Mai. Riêng em, nếu trở về thành phố mà biết cô Mai và bé Suối vẫn sống cuộc sống hoang dã trong khu rừng nguyên sinh ấy thì chắc em chẳng yên tâm một chút nào. Từ năm học này em sẽ thường xuyên gửi quà và sách vở lên cho bé Suối.
Cô giáo trẻ xúc động nói:
– Được như vậy thì hay lắm! Chị cảm ơn em. Nào, ba chị em mình cùng lên Rừng Ma với mẹ con chị ấy đi!
Cô giáo Lả và hai đứa chào ông bà Páo rồi hối hả xuống cầu thang, nhằm hướng khu rừng nguyên sinh rảo bước. Dọc đường đắn đo mãi Tuấn Minh mới đưa ra được câu hỏi vẫn làm nó phải suy nghĩ lâu nay:
– Cô ơi, cô thông cảm cho em hỏi thật điều này. Từ ngày Hoàng Mai về cô có nhận ra điều gì khác lạ ở anh ta không?
Cô giáo buồn buồn đáp:
– Lúc đầu thì chị không để ý. Nhưng càng ngày chị càng thấy ngờ ngợ. Anh ta có những cử chỉ và việc làm nhiều lúc không được tự nhiên. Trí nhớ thường lẫn lộn. Mỗi lần chị nhắc đến một kỉ niệm cũ ngày còn đi học anh ta chỉ im lặng ngồi nghe mà không bàn góp một lời. Khác với những bức thư dài gửi từ Tây Nguyên về cho chị trước đó, thư nào anh cũng dành một hai trang nhắc lại những kỉ niệm đẹp của những năm tháng ấy. Nhưng điều đáng phàn nàn nhất là cách đối xử của anh ấy với bố mế. Ông bà Páo tuy chỉ là bố mế nuôi nhưng cả bản này ai cũng phải công nhận không ai quí và thương con bằng ông bà ấy. Ngày còn ở nhà Sao là người con rất có hiếu. Anh luôn dành cho bế mế nuôi những tình cảm và sự chăm sóc ân cần nhất. Việc anh vào Tây Nguyên làm kinh tế cũng chỉ nhằm mục đích kiếm ít vốn để về cưới vợ và có thêm điều kiện phụng dưỡng bố mẹ nuôi. Vậy mà từ ngày trở về, chỉ được một hai tháng đầu còn về sau anh đối xử với những người đã có công nuôi dưỡng mình chẳng ra gì. Từ ngày làm nghề xe ôm, lấy lí do phải chạy xe theo yêu cầu của khách, anh đi về rất thất thường. Nhiều bữa chị lên thấy hai ông bà đang ngồi khóc bên soong cơm nguội lạnh. Nhưng chuyện làm chị phải suy nghĩ nhiều nhất là việc anh mua vật liệu, thuê thợ xây thêm cái nhà lợp ngói rồi bỏ ra ở riêng. Chị hỏi thì anh bảo làm thế để lúc đi về có chỗ cất xe chứ dựng cạnh cầu thang đêm hôm ngủ say rất dễ bị mất trộm. Chị có cảm giác bây giờ anh coi việc phải nuôi dưỡng bố mẹ nuôi như một cái gánh nặng. Ông bà Páo thì do không được chăm sóc tử tế, sức khỏe ngày một sa sút nhiều. Cô giáo nói đến đây bỗng buông một tiếng thở dài – Thôi, thế cũng còn may. Nếu sự thật không bị bóc trần thì hậu họa không biết sẽ còn đi đến đâu nữa! Tội nghiệp anh Sao! Chị nguyện sẽ thay anh phụng dưỡng, chăm sóc để bố mế anh đỡ khổ những năm tháng cuối đời.
Mãi nói chuyện ba chị em đã leo đến đỉnh con dốc dài trước khu rừng nguyên sinh. Tú bỗng chỉ tay về phía trước, nói:
– Xem kìa! Có hai người đang đuổi trâu từ trong Rừng Ma ra. Một người đi cà nhắc. Đúng là chồng cô Mai rồi. Còn người đi sau là ai mà vai đeo sắc cốt như cán bộ ấy nhỉ?
Chờ hai người đi thêm một quãng nữa, Tú vỗ tay reo lên:
– Em nhận ra rồi! Đấy là chú Vi Văn Thế, Trưởng công an xã! Chắc là chú ấy áp giải Hà Văn Tạo lên Rừng Ma dắt trâu về.
Cô giáo ngơ ngác hỏi:
– Trâu nào ở trong Rừng Ma? Vì sao chồng chị Mai lại bị công an xã áp giải?
Tú nói qua sự việc cho cô giáo hiểu. Cô giáo thở dài nói:
– Thật không ngờ một người hiền lành như Hà Văn Tạo lại cũng làm những việc xấu xa như vậy!
Hai người dắt trâu trong Rừng Ma đi ra đúng là Hà Văn Tạo và chú Vi Văn Thế, Trưởng công an xã. Vừa trông thấy Tuấn Minh và Tú, Hà Văn Tạo vội cúi mặt xuống, lùi lũi dắt con xứt tai đi qua. Chú Thế dừng lại hỏi:
– Cô giáo lên Rừng Ma làm gì mà cũng đi sớm thế?
Cô giáo Lả đáp:
– Tôi lên thăm mẹ con chị Mai!
– Thế còn hai cậu ? Trưởng công an xã quay sang Minh và Tú – Tôi vừa được thông báo các cậu là những người đã có công làm rõ nguyên nhân cái chết của liệt sĩ Cầm Bá Kiên, giúp Công an huyện phá vụ án lừa đảo chiếm đoạt cái trống đồng ở bản Tùm và cả những vụ bắt trộm trâu này nữa phải không? Giỏi lắm! Đúng là con nhà nòi! Cho chú được bắt tay một cái nào.
Trưởng công an xã thân mật lần lượt nắm tay hai thằng lắc lắc. rồi quay lại hỏi cô giáo Lả:
– Thế cô giáo lên chỗ mẹ con cô Mai chơi hay có việc gì khác nữa không?
– Cũng chẳng có việc gì quan trọng lắm. Cô giáo trẻ đáp – Sáng nay được tin anh Sao đã chết trong vụ đắm đò ở Thác Mạ năm ngoái, còn người mang tên anh chỉ là người anh song sinh nhưng lại là một tên tội phạm, bố mế em giục em lên thăm và an ủi ông bà Páo. Em đã bàn và xin bố mế cho em được lên đấy ở để chăm sóc bố mẹ nuôi anh Sao. Gìơ em lên bàn với chị Mai đưa bé Suối về cùng ở với em cho vui. Em cũng muốn có thêm điều kiện để dạy chữ cho bé Suối vì cháu đã chín tuổi rồi mà vẫn chưa được đi học.
– Hay quá! Trưởng công an xã phấn khởi nói – Cô giáo có một tấm lòng thật đáng quí. Vấn đề mẹ con cô Mai thật sự cũng đang làm chúng tôi phải đau đầu. Sau ngày nhận được công văn của Uỷ ban bảo vệ chăm sóc bà mẹ, trẻ em huyện, Uỷ ban nhân dân xã đã họp để bàn biện pháp giải quyết dứt điểm việc này. Nhưng cho đến bây giờ quả là chúng tôi vẫn chưa tìm ra được giải pháp nào để sớm đưa mẹ con cô ấy về sống với cộng đồng. Mấy lần cử người lên vận động cô ấy vẫn một mực từ chối. Lý do là cho đến bây giờ cô ấy vẫn rất hận bố mẹ chồng. Đùng một cái thì sáng nay nhận được thông báo tên tội phạm Hoàng Mai, kẻ đang đội lốt Lò Văn Sao, người em song sinh của mình chẳng những là kẻ chủ mưu vụ chiếm đoạt cái trống đồng ở bản Tùm mà còn là thủ phạm chính một đường dây làm giấy tờ giả và bắt trộm trâu bán cho bọn thương lái. Hà Văn Tạo biết tội, đã lên gặp tôi tự thú. Tôi đã báo cáo Chủ tịch xã và các anh ấy đồng ý để tôi đưa Tạo lên dắt trâu về. Nếu cô giáo có ý định này thì quả là cô đã giúp địa phương giải quyết được một việc khá khó khăn. Thay mặt Uỷ ban, tôi xin được nói lời cảm ơn tấm lòng quý báu của cô giáo. Còn bây giờ thì thế này. Nhân có hai cháu đây vừa là những người đã có công tìm ra đầu mối vụ án, vừa là người thân của bà Hà Thị Mến, tôi xin bàn giao con trâu cho hai cậu, nhờ hai cậu dắt về trao lại cho bà Mến trước. Còn tôi và chú Tạo sẽ cùng cô giáo trở lại Rừng Ma để thuyết phục mẹ con cô Mai về bản Tôm ở cùng cô giáo và ông bà Páo. Cô giáo thấy có được không?
Cô giáo trẻ vui mừng nói:
– Được thế thì hay quá! Nếu cả chú và anh Tạo cùng lên với cháu để nói rõ điều hơn lẽ thiệt thì chắc chắn chị ấy sẽ ưng cái bụng ngay thôi.
– Còn hai cậu? Có đồng ý với đề nghị của tôi không?
Tú đưa mắt nhìn Tuấn Minh rồi nói:
– Vâng! Chú để bọn cháu dắt trâu về trước cũng được.
Hà Văn Tạo tuy đứng khá xa nhưng vẫn nghe rõ mọi chuyện. Anh ta đợi Tuấn Minh và Tú đến gần, cúi đầu dúi cái dây thừng cho hai thằng rồi lầm lũi cà nhắc quay trở lại để cùng Trưởng công an xã và cô giáo Lả trở vào Rừng Ma.
Hai anh em dắt trâu xuống con đường dốc rồi theo lối mòn trở ra. Đến Ngồng, con xứt tai đột nhiên dừng lại, nghểnh đầu kêu ọ ọ khi nghe trong rừng vọng ra tiếng mõ lóc cóc.
– Có chuyện gì mà tự nhiên nó dừng lại thế? Tuấn Minh hỏi.
– Nó đã nhận ra đàn trâu đang ăn cỏ trong rừng đấy! Tú vừa giải thích vừa với tay mở cái nút thừng buộc mũi trâu ra. Tuấn Minh hốt hoảng hỏi:
– Kìa, sao em lại tháo thừng ra?
– Để mũi xổng cho đỡ vướng! Em thả nó vào rừng ăn cùng bầy đàn luôn đây.
– Đừng! Nhỡ nó bị lạc hoặc kẻ xấu lại bắt mất rồi bọn mình ăn nói với bà thím làm sao?
– Anh yên tâm đi! Lạc nhà theo chó, lạc ngõ theo trâu. Con xứt tai này nhớ đường giỏi lắm! Ăn no, chiều nó lại về chuồng thôi mà. Còn chuyện bị kẻ xấu bắt trộm thì từ nay chắc không xảy ra nữa đâu. Tú vỗ nhẹ vào mông con trâu, Con trâu ngoái nhìn hai đứa rồi hăm hở phi vào rừng…
Tuấn Minh nhìn đồng hồ nói:
– Chưa đến chín giờ! Anh em mình lên trại rừng của nội chơi một lúc đã đi. Anh muốn chụp mấy pô ảnh và chào tạm biệt con Sói xám trước khi về thành phố.
– Thế cũng được! Tú nói – Em định thả trâu xong thì quay lại Rừng Ma vì anh em mình còn quên mất một việc…
– Việc gì? Tuấn Minh hỏi – Có quan trọng lắm không?
– Anh quên rồi à? Con rùa núi! Sáng nay anh chẳng bảo nếu lên thăm mẹ con cô Mai phải xin một con rùa núi đem về thành phố nuôi làm cảnh là gì?
– Anh nhớ rồi! Tuấn Minh vui vẻ – Nhưng việc ấy bây giờ anh lại thấy không nên làm nữa. Tốt hơn hết là cứ để những con vật nhỏ bé và đáng yêu ấy được sống bình yên trong môi trường thiên nhiên quen thuộc. Mình đem về nuôi trong bể cảnh, nhỡ chăm sóc không ra gì làm nó ốm đau hoặc chết hóa chẳng uổng phí ư! Nhưng nếu em không nhắc thì đúng là anh cũng quên mất. Còn một chuyện đến bây giờ anh vẫn chưa hỏi nội…
– Chuyện gì anh?
– Chuyện cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình giết con hổ xám!
– Đúng rồi! Vậy chiều nay anh nhớ nhắc để nội kể cho mà nghe kẻo uống rượu say là nội ngủ đến sáng mai mới dậy đấy! Nào, giờ anh em mình lên chơi với con Sói xám một lúc đi.
12. Bữa cơm liên hoan để chia tay bố con Tuấn Minh về thành phố thật đông vui. Ngoài ông bà nội, bố con Tuấn Minh, vợ chồng chú Lâm và thằng Tú nội còn mời cả bà thím. Gìa Quế và thầy Tâm cũng được mời nhưng mỗi người đều có lí do riêng nên không có mặt. Trong mâm có rất nhiều món ngon. Ngoài cơm nếp, rượu ngâm mật ong, thịt gà luộc, cá rán, măng chua, canh đắng là những thứ cây nhà lá vườn, còn có cả nem, giò và cô-ca-cô-la thím Lâm mua ở phố huyện đem về nữa. Lúc đầu thím định dọn hai mâm nhưng nội bảo chỉ cần bày một mâm để mọi người cùng ngồi vừa ăn vừa nói chuyện cho vui. Trong lúc chờ chú Lâm đi mời bà thím, Tuấn Minh sà đến bên nội hỏi:
– Nội à, cháu nghe em Tú bảo cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình hồi mới mười lăm, mười sáu tuổi đã giết được một con hổ dữ ở bản Ngồng chỉ bằng một viên đạn súng săn phải không? Chuyện ấy thế nào nội?
Nội gật đầu rồi rít một hơi thuốc lào, ngửa mặt thả khói lên trần nhà, nói:
– Chuyện cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình giết hổ cứu người khắp vùng này ai cũng biết. Nhưng thằng Tú đã kể cho cháu nghe chuyện cọp bản Ngồng chưa?
– Em đã kể rồi ạ!
– Vậy thì ông không nhắc lại nữa. Bây giờ ông chỉ nói về con hổ dữ nhất trong bầy hổ ấy thôi. Đó là một con hổ xám rất liều lĩnh và dữ tợn. Nó thường một mình xộc vào các bản ngay giữa ban ngày để bắt lợn và vồ người. Các phường săn trong vùng đã tìm mọi cách để tiêu diệt nó mà không được. Năm ấy cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình tuy chỉ mới mười lăm, mười sáu tuổi nhưng mỗi lần nghe chuyện cọp vào bản bắt lợn, vồ người là máu cụ lại sôi lên. Cụ xin cha mua cho một khẩu súng rồi bỏ công suốt ngày luyện tập với quyết tâm phải giết bằng được con thú nguy hiểm đó để trừ họa cho dân lành. Rồi một hôm đang ngồi đọc sách, cụ bỗng nghe bên ngoài có tiếng người hô hoán: “Có hổ về bản bắt người!” Giữa ban ngày ban mặt mà hổ dám mò về làng bắt người thì chắc chắn đúng là con hổ xám ở bản Ngồng rồi! Nghĩ vậy cụ tổ nhà mình liền xách súng chạy đến chỗ đám đông. Đã có rất nhiều người đến trước cụ. Mỗi người cầm trên tay một vật dụng bằng đồng, vừa la vừa khua ầm ĩ. Con thú chồm trên bụng một người đàn ông. Nó to bằng con trâu mộng, trông rất dữ tợn. Đúng con hổ xám ở bản Ngồng rồi! Hai mắt nó nhìn chừng đám đông vây xung quanh còn bốn chân thì vẫn thay nhau dẫm lên người bị nạn. Những cái móng sắc nhọn cào rách từng mảng da thịt anh ta. Máu tươi chảy ra đỏ lòm. Người bị nạn lúc ấy đã hoàn toàn bất tỉnh nhân sự. Tiếng la hét, tiếng động từ đám đông liên tục phát ra làm con hổ không dám cúi xuống để cõng con mồi tháo chạy. Đúng lúc ấy thì cụ tổ nhà mình xách súng chạy đến. Thấy cụ, mọi người rẽ ra một lối cho cụ vào. Nhiều người tin vào khả năng bắn súng của cụ. Nhưng cũng không ít người phấp phỏng lo một chuyện không hay sẽ xảy ra nếu cụ không giết được con hổ. Riêng cụ tổ nhà mình thì lại càng hồi hộp tợn. Vì đây là lần đầu tiên cụ nhìn thấy hổ, cũng là lần đầu tiên cụ thử sức mình với khẩu súng mới mua. Nếu viên đạn không trúng đích hoặc chỉ làm con thú sây sát thì thật nguy hiểm. Cụ quyết tâm phải hạ gục nó ngay từ phát đạn đầu tiên. Cụ tìm một chỗ, đứng đối mặt với con hổ, tỳ súng lên vai, nheo mắt ngắm…Giây phút chờ đợi làm lồng ngực mọi người muốn nổ tung. Cụ bóp cò. “Đoàng!” Con hổ đổ vật xuống, giãy giụa một lúc rồi nằm bất động. Viên đạn xuyên đúng vào đầu nó. Máu tươi phun ra. Mọi người hò reo ùa đến, vực người bị nạn dậy rồi lấy lá rừng xoa bóp, lấy thuốc bôi vào các vết sây sát cho anh ta. Một lúc lâu sau thì anh ta tỉnh hẳn. Người bị nạn là một thanh niên ở bản Giai bên làng Cúc. Anh ta phủ phục dưới chân cụ, vừa khóc vừa cảm ơn cụ đã cứu mạng. Cụ tổ nhà mình nổi tiếng từ sau lần giết hổ ấy.
Chuyện nội kể đã hết rồi nhưng Tuấn Minh vẫn ngồi thần mặt ra. Thấy vậy nội vỗ vai nó hỏi:
– Cháu nghĩ gì mà ngồi thần ra thế?
– Dạ…Tuấn Minh như bừng tỉnh – Cụ tổ nhà mình can đảm và bản lĩnh thật! Nghe nội kể cháu lại nhớ chuyện anh hùng Núp trong tác phẩm “Đất nước đứng lên” cúa nhà văn Nguyên Ngọc. Cụ tổ nhà mình trước khi trở thành thủ lĩnh nghĩa quân của một cuộc khởi nghĩa đã giết chết một con hổ dữ. Còn anh hùng Núp trước khi trở thành lạnh tụ cuộc kháng chiến của đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên cũng đã từng thử sức bằng cách dùng nỏ tiêu diệt một thằng Pháp. Việc làm và khí phách của hai người thật giống nhau!
– Cháu có một cách so sánh thật hay! Nội xoa đầu Tuấn Minh rồi nhìn xuống sân nói – Hình như chú Lâm đưa bà thím sang rồi. Nào, chuẩn bị ăn cơm thôi!
Mọi người lục tục ngồi xuống chiếu. Nội bảo hai anh em ngồi cả bên cạnh mình. Sực nhớ ra, Tuấn Minh quay sang hỏi bố:
– Bố ơi, thế chú lái xe không lên à?
Bố Tuấn Minh lắc đầu:
– Chú ấy đánh xe về cơ quan ngay từ chiều hôm ấy. Sáng mai lại mới từ thành phố lên. Chắc phải tám giờ mới đến huyện.
– Vậy bố con mình về phố huyện bằng phương tiện gì? Cả nhà chỉ có một cái xe máy thì chú phải đưa thím đi làm rồi!
– Yên chí đi! Chú Lâm vỗ vai Tuấn Minh – Đã có phương án chu tất cho việc này rồi! Sáng mai chú đưa thím ra Bù Đồn bắt xe ôm về huyện trước. còn chú sẽ quay lại đón hai bố con đi sau. Thế được chưa?
Tuấn Minh mừng ra mặt:
– Vậy thì cháu yên tâm rồi! Cháu rất tiếc là hôm lên, sau khi nghe chú kể về vụ đắm đò ở Thác Mạ, vì mãi suy nghĩ chuyện Hoàng Mai nên lúc qua Cửa Đặt đã quên không bảo chú dừng để vào Đền thắp hương cho Cụ Tổ. Ngày mai chú nhớ ghé vào Đền để cháu thắp cho cụ tổ nén hương nhé!
– Thằng đích tôn nghĩ phải lắm! Việc ấy rất nên làm. Nội xoa đầu Tuấn Minh rồi nhìn bố, nói – Cả anh nữa! Qua Cửa Đặt hai bố con nên dành ít phút vào Đền thắp hương cho Cụ. Trong Đền có đôi câu đối bằng chữ Hán rất hay. Là con cháu họ Cầm, các con, các cháu phải ghi nhớ và lấy làm tự hào về đôi câu đối ấy
– Nội dung đôi câu đối ấy thế nào hở nội? Tuấn Minh nôn nóng hỏi.
– Nội dung đôi câu đối ấy được phiên âm như thế này:
“Bất tử, đại danh thùy vũ trụ.
Như sinh, chính khí tắc sơn hà”.
Nghĩa là:
“Danh thơm chẳng mất trong trời đất.
Nghĩa khí mãi còn với núi sông”.
Thấy Tuấn Minh chăm chú lắng nghe như muốn nuốt lấy từng lời của nội, Tú vội đứng dậy, lại giường lấy cái máy ghi âm đưa cho nó, ghé tai nói khẽ:
– Anh bảo nội đọc lại cho mà ghi!
Tuấn Minh xua tay:
– Không cần! Anh nhớ rồi! Nó nhắc lai nguyên văn lời nội. Nội xoa đầu nó nói:
– Giỏi lắm! Thằng đích tôn của ông! Rồi nội giục – Nào, mọi người ngồi lại đi. Ta ăn cơm thôi!
Chú Lâm vội nói:
– Ông cho con xin ít phút đã! Rồi chú đứng dậy, lại bàn lấy hai gói quà, trịnh trọng đặt trước mặt Tuấn Minh và Tú nói:
– Đây là quà tặng của Trưởng Công an huyện gửi hai anh em vì đã có công giúp cơ quan phá án thắng lợi. Còn đây là quà của chú tặng hai anh em vì đã giúp chú hoàn thành nhiệm vụ! Rồi chú xoa tay, vui mừng nói – Gìơ con xin báo một tin để bà thím, bố mế và mọi người mừng là ngay tối hôm qua Thường vụ Huyện ủy và Thường trực Uỷ ban nhân huyện đã họp đột xuất, xem xét sự việc chú Kiên và quyết định thành lập một ban công tác đặc biệt hoàn tất hồ sơ đề nghị trên ghi nhận chiến công và truy tặng danh hiệu liệt sĩ cho chú. Sau đó sẽ làm tiếp hồ sơ đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho bà thím vì không những bà thím là người vợ, người mẹ có chồng, con hi sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ mà liệt sĩ Cầm Bá Kiên còn là con trai độc nhất của bà. Con đề nghị mọi người cùng nâng cốc chúc mừng bà thím, mừng cho dòng họ Cầm của chúng ta có thêm một Bà mẹ Việt Nam anh hùng!
Những cái li được nâng lên. Không khí buổi liên hoan đang hết sức sôi động bỗng lắng xuống khi nghe tiếng thút thít của mế Kiên. Cả nội và mọi người cùng đặt li xuống, hướng mắt về chỗ bà thím. Thấy vậy, bà thím vội đưa tay lau nhanh nước mắt rồi cười nói:
– Là tôi mừng quá nên không kìm được xúc động. Xin hai bác và mọi người cứ uống rượu vui vẻ đi! Tôi xin phép mọi người được nói lời cảm ơn hai thằng cháu. Các cháu đã tìm lại sự thật cho con tôi. Bây giờ có phải nhắm mắt tôi cũng không hổ thẹn với dân bản và dòng họ Cầm nữa rồi!
Thím nói chưa dứt lời thì dưới sân rộ lên tiếng chó sủa rồi tiếng một người nào đó khóc thật thống thiết. Mọi người vội đứng cả dậy dồn lại phía cầu thang. Một ông già tuổi gần bảy mươi, dáng đẫy đà đang quỳ phủ phục dưới đất. Tuấn Minh ghé tai Tú hỏi:
– Ai thế?
Tú cũng ghé tai Tuấn Minh nói nhỏ:
– Ông ấy là Cầm Bá Chấp, chú ruột chú Kiên đấy!
Tuấn Minh há miệng, ngạc nhiên:
– Cầm Bá Chấp, Chủ nhiệm hợp tác xã mua bán, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã hồi ấy?
Tú không đáp, chỉ gật đầu.
Nội lập cập xuống tận chân cầu thang, đưa hai tay đỡ ông ta dậy, miệng nói:
– Kìa, chú Chấp! Đứng dậy, lên nhà uống với chúng tôi chén rượu cho vui đi. Sáng mai bố con thằng Sơn về thành phố rồi.
Lão Chấp không những không chịu đứng dậy mà còn cúi gằm mặt xuống, khóc to hơn:
– Tôi không còn mặt mũi nào ngồi uống rượu với mọi người đâu. Tôi đến đây để xin lỗi chị dâu, xin lỗi mọi người và tạ lỗi trước vong linh thằng cháu. Chỉ vì tôi cả giận và nông nỗi, vội vàng nghe lời đứa xấu bụng nên đã hại cả một đời mẹ con chị. Tội tôi thật đáng chết! Nếu chị không tha tôi thề sẽ lên đỉnh Bù Cheo nhảy xuống vực sâu chết theo thằng cháu…
Nội thở dài rồi vẫy thím Kiên xuống. Thím lập cập đưa cả hai tay đỡ người em chồng đứng dậy, vừa khóc vừa nói:
– Chú đứng dậy đi. Mẹ con tôi không giận chú. Hai bác và mọi người cũng không giận chú đâu. Chuyện đã qua rồi. Sống ở đời ai không mắc sai lầm. Ngày xưa lúc thằng Kiên tố giác chú bớt xén hàng của Nhà nước cấp cho dân, tôi cũng giận nó lắm. Nhưng nó bảo mế đừng giận con, con làm thế cũng chỉ vì muốn tốt cho chú thôi mà. Con tôi nó là cái thằng lúc nào cũng thẳng ngay như cây quế trên đỉnh Bù Cheo. Nào, chú lên nhà uống với mọi người chén rượu mừng đi. Thằng Kiên nó sắp được trên công nhận là liệt sĩ rồi!
Mọi người cùng trở vào, quây quần ngồi bên mâm cơm. Nội nhìn bố, nheo mắt nói:
– Chuyện mẹ con thím Kiên xem như đã có một kết thúc rất tốt đẹp rồi. Ta tạm dừng ở đây đã. Bây giờ mọi người muốn hỏi ông cử nhân kinh tế về kết quả chuyến công tác cả tuần qua ở dưới huyện ra sao? Liệu tới đây đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa chúng tôi có được hưởng thêm chút ưu đãi nào của tỉnh chưa?
Nội chuyển đề tài vừa bất ngờ vừa khôn khéo làm bố Tuấn Minh không khỏi lúng túng. Rượu chưa nhấp tí nào mà mặt ông đã đỏ lựng lên. Lâu nay ông thường xuyên bị cha chỉ trích về sự chậm trễ của các ban ngành chức năng trên tỉnh trong việc lập các dự án xây dựng cơ sở vật chất cho đồng bào các dân tộc, nhất là với những vùng đặc biệt khó khăn. Câu hỏi tưởng đơn giản nhưng thật khó trả lời của cha hôm nay hẳn cũng không nằm ngoài ý đó. Nhưng thật may là trước chuyến công tác này ông đã được lãnh đạo Sở thông báo một thông tin hết sức phấn khởi. Và chuyến công tác đặc biệt cả tuần qua ông đã cùng lãnh đạo huyện tìm ra nhiều giải pháp tối ưu để chuẩn bị tiếp nhận nguồn kinh phí đầy nghĩa tình được bố trí từ nguồn ngân sách của Chính phủ cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Ông đứng dậy, rót rượu mời cha và mọi người rồi xoa xoa hai bàn tay vào nhau nói:
– Con xin lỗi bà thím, xin lỗi bố mế, xin lỗi mọi người vì sự kém cỏi của mình mà nhiều năm qua chưa giúp được gì cho đồng bào các dân tộc trong huyện nói chung và xã nhà nói riêng. Nay con xin thông báo tin này để bố mế và mọi người mừng là sắp tới, ngoài nguồn vốn lấy từ ngân sách tỉnh, đông bào miền núi, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa chúng ta sẽ được Chính phủ đầu tư nhiều dự án với nhiều lĩnh vực như điện, đường, trường, trạm. thủy lợi… nữa. Chúng ta sẽ có những con đường rộng, rải cấp phối nối liền trung tâm xã với các bản. Sẽ có những ngôi trường cao tầng thật khang trang cho con em học tập. Các em sẽ được đọc báo, đọc sách miễn phí. Sẽ có điện để chạy máy xay sát và xem truyền hình. Nhiều mặt hàng thiết yếu sẽ được Nhà nước cấp không hoặc bù giá. Đặc biệt, trong một tương lai gần, Chính phủ sẽ xây dựng ở Cửa Đặt, ngay phía trên Đền thờ cụ tổ Cầm Bá Thước của dòng họ mình một hồ chứa nước và một nhà máy thủy điện, quy mô vào loại lớn nhất nước ta…
– Thôi, thôi! Nội dơ tay ngăn lại – Mới nghe qua đã thấy sướng muốn chết rồi! Chính phủ mình thật tuyệt. Được thế thì đúng là chẳng bao lâu nữa miền núi mình cũng sẽ theo kịp miền xuôi. Nào, mọi người nâng li lên. Chúc cho bản làng chúng ta ngày càng ấm no. giàu mạnh.
Bố Tuấn Minh chưa ngồi xuống ngay mà tay vẫn cầm chén ượu, mắt hướng về phía chú Lâm nói:
– Nhưng mà cho đến giờ phút này ông Đại úy đội trưởng Đội đặc nhiệm Công an huyện vẫn chưa kể cho mọi người biết việc khám phá vụ án đội lốt người em song sinh của Hoàng Mai. Sự việc cụ thể thế nào? Năm ngoái, sau mấy ngày bỏ trốn khỏi thành phố, Hoàng Mai đã tử nạn trong một vụ đắm đò ở Thác Mạ. Vợ chồng họa sĩ Hoàng đã lên nhận lại di vật và công nhận người xấu số đúng là đứa con nuôi hư hỏng của mình. Chúng tôi cũng đã đến chia buồn cùng gia đình. Sao giờ lại có chuyện Hoàng Mai lên đây tá túc và tiếp tục làm con dấu giả để gây án?
Nội vẫy tay, ra hiệu cho bố Tuấn Minh ngồi xuống, cười cười nói:
– Yên tâm đi! Chuyện không thể tóm tắt vài lời trong lúc uống rượu được đâu. Nhưng tôi có thể cho anh biết trước điều này. Người có công đầu giúp Công an huyện phá vụ án ấy chính là con anh và thằng Tú đấy. Tối qua chúng nó đã kể tường tận cho tôi nghe. Cũng li kì và hấp dẫn lắm. Để khi về thành phố thằng Minh sẽ kể cho cả bố và mẹ cùng nghe. Còn bây giờ phải để mọi người uống rượu đã. Hà hà. không ngờ ông bà tôi lại có những đứa cháu thông minh và can đảm thế!
Hai thằng nhào lại, cùng bá lấy cổ ông. Tuấn Minh chợt thấy lòng se buồn vì sắp phải xa ông bà, xa thằng em họ, xa bao người thân và những cánh rừng quê nội…
Chú thích:
– Tết Xên Mường (Tế Mường): Tết của người Thái, được tổ chức vào dịp đầu xuân, sau tết Nguyên đán.
– Hoòng hoóng: Gian thứ hai trong ngôi nhà sàn truyền thống của người Thái, rộng hơn các gian khác, phía trên đặt bàn thờ tổ tiên.
9/8/2023
Đào Hữu Phương
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét