Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Biển cỏ miền Tây và hình bóng cũ 1

Biển cỏ miền Tây và
hình bóng cũ 1

Cấm bắt rùa
Từ Thủ Dầu Một, rừng miền Đông đến trấn nhậm tại đồn kiểm lâm ở rạch Thứ Sáu, hai năm rồi nhưng thầy đội Bình vẫn chưa hiểu rõ khu rừng tràm dưới quyền kiểm soát của mình bắt đầu từ đâu và chấm dứt ở đâu. Ranh giới không rõ rệt như vậy, nghĩ cũng khó làm việc.
Theo bản đồ thì bốn phía rừng giáp ranh với đất công điền và đất của ông Tây Mu Ri, các khoảnh đất này đều bỏ hoang, tràm mọc từng cụm dày bịt, giống như “lô” rừng cấm của chánh phủ Pháp! Thầy đội Bình suy nghĩ:
- Ranh giới ở đâu cũng được. Giữa rừng tràm của nhà nước và đất tư nhân, cần gì ranh. Việc đó can hệ tới mấy ông họa đồ, mấy ông hương chức làng và ông Mu Ri. Mình làm tài khôn, e đụng chạm tới mấy ổng. Thôi thì mình cứ xem vùng ranh giới đó như vô chủ. Rắn rít, chồn đèn, chuột, chim cúm núm và dân làng... ai muốn làm gì thì làm, tự do. Như vậy, mình được cảm tình với dân làng, với các loại chim muông cây cỏ, với âm binh, cô hồn các đảng. Mình còn trẻ, chưa kinh nghiệm, mới tốt nghiệp ra trường, nên ăn ở hiền lành một chút.
Nhưng tình thế không yên ổn và thời gian nào chịu trôi qua âm thầm từ đầu tháng đến cuối tháng như thầy mong ước. Mùa hạn năm ấy, trong vòng nửa tháng, ở vùng biên giới vô định nọ đã xảy ra nhiều biến cố rắc rối.
- Lửa cháy rừng! Lửa cháy rừng!
Đôi ba ngày thì rừng cháy một lần, khói cuồn cuộn đen kịt góc trời, đỏ ké như hoàng hôn đổ xuống và mãi đến canh ba, canh tư, ánh lửa mới chịu đổi ra màu vàng vọt khi màn sương buông nhẹ, mờ mờ. Sáng nay, mặt trời vừa mọc là lửa lại cháy nữa. Cùng với hai người lính kiểm lâm, thầy đội đích thân chạy băng ra vùng cỏ hoang, đến nơi cháy để lập vi bằng, báo cáo lên quan trên.
Rừng nổ lên, vang dội tiếng lốp bốp như pháo ngày tết. Khói tỏa cay mắt, che khuất trước mặt, phảng phất mùi gì như vị thuốc bắc.
- Cái gì lạ vậy? Cái gì vậy? - Thầy đội hỏi.
Một chú kiểm lâm đáp:
- Dạ, cây tươi mà cháy tức tưởi thì... nổ.
Thầy đội Bình nói gắt:
- Tôi làm kiểm lâm, bộ tôi dốt chuyện đó sao? Nhưng mà tại sao nổ liên tu bất tận, lạ quá. Hồi ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa, rừng cháy hoài mà sao tôi không nghe như vậy?
- Dạ, ở đây là rừng tràm. Tràm có nhiều hột. Hễ gặp lửa là hột nổ nghe lốp bốp, rậm đám lắm.
Thầy đội lắc đầu:
- Trời lửa như vầy, cháy mãi, phá hoại bao nhiêu cây tươi. Nước cạn, làm sao chữa lửa được.
- Dạ thưa thầy, mọi năm cháy như vầy hoài, rồi tràm mọc lại, rừng cũng hoàn toàn là rừng.
Thầy đội lấy tay che mắt. Trong làn khói chưa tan, có bóng dáng đôi ba người chạy lăng xăng: sau lưng, họ mang vật gì khá to, giống như cái gùi.
Một giọng nói đàn ông reo to:
- Được quá! Cháy như vầy coi được quá. Vái trời cho gió thổi lên, cháy thêm nữa.
Giọng đàn bà nhỏ nhẹ hơn:
- Bữa nay cháy khá hơn hôm qua, thấy mà mừng. Ờ! Cu đâu? Ếch đâu? Mỏi lưng chưa con? Hửi khói rồi sặc, rồi ho hả?
Mấy đứa con nít nói eo éo:
- Một con! Hai con! Bốn con! Một con tổ nái này nữa! Chạy đi đâu, mấy đứa lon con này nữa! Tao thộp đầu tụi bây! Tao nhốt tụi bây!
Thầy đội Bình ngơ ngác, hỏi chú lính:
- Họ làm gì vậy? Giống như đánh giặc...
- Dạ họ bắt rùa.
- Rùa ở đâu vậy?
- Dạ, rùa trời sanh trong rừng. Rùa vàng, rùa quạ, rùa hôi, rùa nắp, rùa sen đủ loại. Rừng cháy, rùa hoảng sợ chạy ra. Thầy muốn ăn không? Để tôi biểu họ đem lại cho thầy. (Nói lớn) Bà con ơi!
Một người trạc bốn mươi tuổi, bước ra từ đám khói mù mịt, lưng đen láng mướt mồ hôi:
- Chào thầy đội. Chào mấy chú. Nãy giờ... mấy ông tới mà tôi không dè. Mấy ông cảm phiền.
Thầy đội hỏi:
- Còn đám kia? Hò hét điều gì?
- Dạ, đó là vợ với hai đứa con tôi chớ ai đâu xa lạ. Góc rừng này tôi cất chòi ở “một mình ên! một cõi”. Hổm rày nghe danh thầy, tôi muốn tới thăm, ngặt chưa tìm được món gì xứng đáng. Sẵn đây, tôi biểu mấy đứa nhỏ xách ra cho thầy một xâu rùa vàng, mùa này trứng rùa béo lắm.
Thầy đội gật đầu:
- Được rồi! Cám ơn. Chú tên gì?
- Dạ, tôi là Trương văn Đặng, kêu là Bảy Đặng, vợ tôi là Trần thị Tám, gốc gác ở Bò Húc, Cần Thơ xuống đây lập nghiệp. Mấy năm rồi, nghèo quá, nói thiệt thầy thương giùm, tôi chưa đóng nổi giấy thuế thân. Tôi nghĩ: mình ở một chỗ không có đi đâu, vài bữa thì ra ngoài xóm, tới tiệm Chệt mua rượu uống cho ấm bụng, vậy thôi. Cần gì giấy tờ, thuế khóa.
- Thịt rùa ngon quá. Trứng béo quá!
Đó là lý do khiến thầy đội Bình trở lại vùng ranh giới mà tìm Bảy Đặng, người tặng rùa hôm trước. Thêm một nhiệm vụ bí mật khác: thầy muốn điều tra nguyên do cháy rừng. Mùa hạn; lửa cháy, lá khô, lan ra: ấy là trời xui đất khiến, nhờ vậy mà hồi xửa hồi xưa ông bà chúng ta được dịp ăn thịt nướng lần đầu tiên trong hang đá. Trường hợp cháy rừng này có khác. Biết đâu Bảy Đặng cố ý đốt rừng để bắt rùa nhậu chơi. Việc phá hoại tài sản nhà nước ấy cần ngừa trị gấp. Tại sao thế gian này lại còn có những phần tử ích kỷ. Hèn gì... dân Việt Nam chưa mở mặt với thế giới.
Đến chòi của Bảy Đặng, thầy đội trố mắt hồi lâu. Trong chòi, chú Bảy đã xây cái hồ to lớn, chứa chấp bao nhiêu là rùa. Đôi ba trăm con rùa đủ cỡ, đủ loại, đang cỡi đè lên nhau, chen lấn nghe lộp cộp. Con thì ngả ngửa, khoe cái yếm vàng lườm, bốn cẳng ngoe nguẩy bơi trong không khí. Con khác cố gắng quào vào vách hồ bằng sậy, lú cổ dài nhằng, miệng há rộng, thiếu răng giống như mỏ chim. Loại rùa nắp thì e thẹn, khép cái yếm lại, giấu kín đầu cổ vào trong mai, giống như món đồ ngon cất kỹ trong cái hộp bằng xương.
Tay bắt mặt mừng, chú Bảy Đặng gật đầu hoan hỉ khi nghe thầy đội Bình khen rằng:
- Thịt rùa ăn ngon hơn thịt gà. Mấy con rùa bữa hổm thiệt xứng đáng là... rùa!
Bảy Đặng nói vồn vã:
- Má bầy trẻ luộc thêm năm ba con nữa đi. Thầy đội chiếu cố tới nhà mình. Ếch đâu? Cu đâu? Kiếm rau ngổ rau răm về cho nhiều. Gần lung sen, rau mọc hoang cả đám. Nhớ không?
Thầy đội Bình hớp miếng rượu ngồi lên bộ vạt:
- Chú Bảy rành nghề bắt rùa quá!
- Đâu phải là nghề. Bất chợt vậy thôi. Rùa xứ này nhiều quá mạng, tôi không muốn bắt hết. Con nào quá nhỏ tôi liệng bỏ. Còn rùa quạ thì tôi lựa toàn là rùa cái, rùa quạ đực ốm nhom, nhốt chật chỗ. Xin lỗi, thầy đội quê ở xứ nào? Chắc xứ đó ít rùa lắm.
- Tôi ở Cần Đước, phía Chợ Lớn xa lắm, nhưng mà con cần đước hết rồi. Đó là hồi xưa, hồi đàng cựu. Bây giờ, lội đỏ con mắt cũng không kiếm ra một con cần đước nhỏ xíu.
Bảy Đặng nói:
- Ở đây, nhiều bữa tôi ăn rùa trừ cơm, ăn độn với cơm như người ăn khoai lang. Ăn thét rồi ngán quá. Rùa nướng, rùa rang, rùa nấu cháo, rùa xào lá cách lá lốt. Riết rồi ăn gan, ăn trứng, bỏ thịt.
- Nó đẻ đâu mà nhiều quá vậy?
- Dạ trời sanh. Mùa này, rùa tượng trứng non trong bụng. Đúng cữ, nó đào hang mà đẻ, trứng như trứng gà nhỏ, tròng đỏ lớn lắm. Nó khôn mà khéo, rùa cái chôn giấu trứng dưới đất.
Thầy đội suy nghĩ:
- Tôi không hiểu...
- Dạ, nó lựa chỗ cao ráo mà gởi trứng để khỏi bị ẩm ướt hôi thúi. Một chỗ chôn mười, hai mươi trứng không chừng. Tôi gặp vài lần, moi móc lên coi thử nhưng tới chừng sắp trở lại chỗ cũ thì không tài nào sắp gọn như nó được. Thế nào cũng dư đôi ba trứng. Tháng ba, trời gầm chuyển mưa. Đất nứt, mấy con rùa con phá vỏ bò ra, nhỏ cỡ ngón tay út con nít.
- Chú Bảy nói đúng. Hèn gì rùa chẳng sợ trời gầm. Người ta nói rùa cắn trời gầm không nhả. Tôi muốn kiếm vài con rùa nhỏ cho mấy đứa con chơi, ngặt sợ bị cắn.
- Không sao đâu thầy. Rủi bề gì, lấy cọng cỏ hay khúc chưn nhang thọc vô lỗ mũi rùa. Ngộp thở, nó há miệng ra tức thì. Nói mà nghe, chớ năm khi mười họa nó mới cắn một lần. Nó thuộc vào hàng tứ linh: long, lân, quy, phụng có căn tu lâu đời...
Thịt rùa dọn ra trong cái vim lớn, xông hơi nghi ngút. Chú Bảy Đặng mời mọc:
- Ăn đi thầy. Rượu đây, uống thêm nữa đi thầy. Thịt rùa hiền lắm, không có phong.
Hai người uống một chén rượu, rồi hai chén.
- Nè, ăn gan rùa đi thầy, bổ lắm, “nên thuốc” lắm. Gan rùa gan anh hùng, nhỏ con mà lớn gan, sống dưới bầu trời mà không sợ... trời. Còn ruột non ruột già của nó thì sạch bong ăn luôn cũng không dơ.
Thầy đội đỏ hoe đôi mắt, mồ hôi tươm ra, tỏa mùi rượu nực nồng theo lỗ chân lông:
- Tầm bậy quá. Tây dạy tôi nhiều chuyện nhưng nó quên. Nó dạy nào cây trắc, cây gõ. Nó quên rằng hễ làm kiểm lâm ở U Minh thì phải biết ăn thịt rùa...
Bảy Đặng ngạc nhiên:
- Bên Tây không có rùa sao thầy?
- Ừ! Có chớ... Để nhớ coi...
Rùa với thỏ chạy đua. “Xem kìa xem tích xưa, thỏ với rùa hai chú chạy đua”. Đó là bài ca Bình bán vắn. Thỏ thua rùa. Rùa chạy về nhất vì thỏ ham chơi.
- Còn tích gì nữa không vậy thầy?
- Bên xứ mình, con rùa là thần Kim Qui... Trọng Thủy Mỵ Châu đó. Rùa là ông thần xây thành đắp lũy. Móng rùa là cái... máy, để vô cái ná lãy, kêu là cái nỏ thần thì... bá phát bá trúng. Lại còn bên Tàu, xưa kia rùa nổi trên sông Hoàng Hà, trên lưng vẽ hình bát quái, tức là bản đồ của càn khôn vũ trụ, vạn vật.
Bảy Đặng suy nghĩ rồi góp thêm một ý kiến:
- Hèn gì rùa có căn tu. Rùa sẵn sàng chịu đựng sự ép bức, khó nhọc. Lời thơ xưa nói rằng kiếp con rùa “trong đình đội hạc, trên chùa đội bia”, “qui hạc xưa nay ở một đình, cớ sao con trọng lại con khinh”.
Thầy đội Bình ngà ngà men rượu, nhướng mắt rồi vỗ trán gật đầu lia lịa:
- Bởi vậy kiếp của chú Bảy đây là... kiếp rùa, đội hạc đội bia riết rồi ốm nhách. Chú Bảy có sở làm. Từ rày về sau, hễ chỗ nào rừng hư hao vì... tai họa bất ngờ thì nhà nước sẵn sàng trồng tràm trở lại. Rừng này bị cháy hoài, chú kiếm cho tôi chừng một trăm lít hột tràm, tôi mua hai xu một lít. Chịu không? Phải trồng tràm con cho rừng tươi tốt trở lại như xưa kẻo quan trên rầy rà... Chịu không?
Thím Bảy từ nãy giờ lui cui vào bếp, bỗng bước ra nhìn chồng, cau mày, như nhắc nhở chuyện thực tế.
Chú Bảy giật mình:
- Dạ... không cần, rừng tràm bị cháy thì tự nhiên mọc trở lại. Hột rớt xuống đất, nhờ bị cháy nên nó nứt mầm mau lắm. Hột tràm hái về thầy muốn trồng thì cũng phải bỏ vô chảo mà rang cho nóng, nó mới chịu mọc.
- Ừ, ừ... Vậy thì khỏi trồng. Nhưng chú Bảy lấy gì mà sống? Trồng cây cho nhà nước, đó là nhiệm vụ, làm ra tiền. Chú Bảy chê à! Vậy thì làm sao có bạc xài. Chẳng lẽ ăn thịt rùa trừ cơm hoài sao? Con người ăn cơm, thiếu cơm thì ốm nhom ốm nhách.
- Uống rượu say, nói chuyện lung tung, làm hại nhà cửa. Ba nó thấy chưa?
Tàn buổi tiệc rùa, chú Bảy Đặng bị vợ cằn nhằn tới lui. Chú hối hận vô cùng vì một vài câu nói lơ đễnh, thốt ra lúc ăn nhậu với thầy đội Bình.
“Buổi tiệc đó thiệt là hữu ích”. Thầy đội Bình nghĩ như vậy. Nó giúp thầy tìm được vài tia sáng trong vấn đề cháy rừng.
Đúng là vậy, Bảy Đặng là tay bợm nhậu, chuyên nghề đốt rừng để bắt rùa, ném đá giấu tay! Bằng cớ là từ buổi tiệc ấy về sau, ít khi nào Bảy Đặng tới đồn kiểm lâm thăm viếng thầy như đã hứa. Chú Bảy bơi xuồng ngang đồn kiểm lâm, gởi lên vài con rùa rồi hối hả tách bến, đến tiệm tạp hóa, tại xóm đình.
Trời sa mưa.
Muỗi mòng sinh sôi nảy nở gấp mười lần, so với mùa hạn. Thầy đội không buồn đến vùng biên giới mà tuần tra nữa vì hiểm họa cháy rừng đã giảm bớt, nhờ thời tiết.
Thầy bơi xuồng đến xóm đình, ghé tiệm Xìn Phóc mà uống giải sầu, mua pin đèn, thuốc hút. Tình cờ, thầy nghe chệt Xìn Phóc thốt lời tâm sự:
- Bảy Đặng kỳ cục quá, cất chòi ở trong rừng, làm vua một cõi, ít chịu giao thiệp. Thầy đội biết thằng cha đó không?
Thầy đội gật đầu nghe tiếp:
- Nó mua chịu gạo của tôi từ mấy tháng rồi mà chưa trả tiền. Nó hứa đem yếm rùa ra bán cho tôi để trừ nợ. Yếm rùa gởi về bên Tàu, quý lắm. Người ta nấu thuốc cao, thuốc bổ gân cốt... Hôm qua, nó đem yếm rùa cho tôi. Nó mua thêm nào là nhang, đèn cầy, một cây dao, hai cây búa... đủ thứ. Nó mua thêm một con gà. Nghèo mà xài sang. Rốt cuộc, nợ chồng chất...
Thầy đội sửng sốt. Phải chăng Bảy Đặng là tay đầu trộm đuôi cướp, tay gian đạo sĩ trá hình. Anh ta muốn sống một cõi riêng biệt để giữ bí mật mọi hành động bất chánh. Việc bắt rùa là bình phong để che mắt thế gian. Rủi bề gì, thầy chịu trách nhiệm lớn.
Sáng sớm, thầy đích thân bơi chiếc xuồng nhỏ, mặc áo bà ba như bọn đốn củi lậu, đội nón lá che khuất nửa mặt. Nhưng dưới chiếc chiếu rách lót trong lòng xuồng, thầy giấu kín một cây súng, ngừa khi bất trắc.
Gặp thằng Cu đứng trước sân một mình, thầy hỏi khẽ:
- Ủa! Ba má đâu hết rồi?
Thằng bé nhìn vào trong chòi:
- Cúng cơm ông nội, bà nội đó!
Trên bộ vạt, một con gà nằm ngóng mỏ, hai cánh chéo lại. Đôi ba ngọn đèn cầy cháy leo heo. Mớ nhang ngút khói, bay cuồn cuộn. Thầy đội Bình hỏi lần nữa:
- Ba má đâu? Thằng anh mày đâu?
Nó nói như sợ sệt:
- Ngoài rừng, ngoài kia đó?
Đôi mắt thầy đội dán vào kẽ vách: Vách lá, rách te tua, trống trải quá. Ngoài rừng, bên kia vách là cả một vùng trời nước trong sáng. Nước mưa nổi lên, lai láng, phản chiếu ánh nắng mai và soi rõ bóng dáng một đợt mây trắng, bao nhiêu thân tràm đã ngã xuống, rũ rượi. Góc rừng ở ranh giới đã hóa ra thửa ruộng. Chú Bảy Đặng và vợ đang lui cui cầm búa đốn mấy gốc tràm còn sót lại, mấy gốc tràm đã bị cháy từ hôm trước!
Thằng Ếch thì ở truồng, cầm dao cạy mớ rễ cây.
Vài con cò trắng bước tới lui, mò cá.
Giọng chú Bảy Đặng nói to rõ:
- Đất mềm quá, nhiều phân. Gieo mạ xuống là “hít vô” liền. Lúa giống khỏi bị nạn cá ăn. Cò bắt cá giùm mình, phải không... bà chủ điền?
Thím Bảy cười tủm tỉm:
- Mấy năm rồi, mình đốt mà rừng không chịu cháy sạch. Năm nay, cháy rừng nhiều, chẳng sợ thầy đội kiểm lâm rầy la. Mình đâu có phá rừng của nhà nước để làm ruộng. Đây là cây khô, cây chết cháy: mình dọn cho sạch để cấy lúa mà thôi! Mừng quá. Trăm nghề, không gì bằng nghề nông. Cúng ông bà, ăn lễ thượng điền luôn thể, nhờ đất nước phò hộ.
Chú Bảy nói:
- Ai mà không biết như vậy. Hồi ở Bò Húc, Cần Thơ, mình làm tá điền. Bây giờ, miếng đất nhỏ nhưng là của mình làm chủ. Không lẽ thầy đội Bình bắt bớ, quở phạt mình. Thầy tới đây làm việc chừng một hai năm rồi đi nơi khác. Thầy gây ác cảm với vợ chồng mình làm gì?
Trong khi đó thằng Ếch ngưng tay, chạy lại gần cha mà nói:
- Vô nhà ăn thịt gà nghe ba! Ở trỏng không chừng thằng Cu nó ăn trước rồi. Thịt gà chắc ngon hơn thịt rùa đó. Mai mốt, nuôi gà nghe ba!
Thầy đội thở dài cười thầm, nghĩ tới việc đốt rừng nhà nước để chiếm hữu đất ruộng! Rõ ràng vợ chồng Bảy Đặng xâm lấn theo kế hoạch định sẵn từ trước.
Làm thế nào để tranh cản, giải thích.
Dung túng Bảy Đặng chăng? Hợp với lòng nhân đạo đó. Nhưng e có ngày thầy đội bị cách chức. Thầy chợt hiểu vì sao Bảy Đặng không nhận lời kiếm hột tràm đem về trồng vào những chỗ bị cháy.
Thầy nghĩ ra một kế. Rồi thầy về, gấp rút. Chiều hôm ấy, một người lính kiểm lâm bơi xuồng tới chòi Bảy Đặng, mang theo một tấm bảng, dựng ngay ranh của khu rừng với ba chữ to: “Cấm bắt rùa”.
Vợ chồng Bảy Đặng lắc đầu, nói với người lính kiểm lâm:
-... Tụi tôi hiểu rồi. Không biết chữ nghĩa nhưng hiểu rồi. Cám ơn thầy đội quá chừng. Đốt rừng bao nhiêu đó đủ rồi.
Con bà Tám
Sau mấy năm xây nò gần bãi gọi là nò cạn, Hai Nhiệm gom góp vốn liếng và vay thêm nợ của chú Xìn Phóc để phát triển công việc làm ăn: xây nò khơi, cách xa bờ biển hàng 10 cây số ngàn, theo kiểu nò bắt cá của người Xiêm (nò Xiêm).
Hai Nhiệm làm hai bài toán rành mạch trên giấy trắng mực đen để trình với chủ nợ là Xìn Phóc.
1) Cắm hàng rào dài suốt 2.000 thước để cho cá nương theo đó mà vô nò, mỗi thước cắm hai đước: 4.000 cây.
2) Nò hình tròn, bề kinh tâm (kính) 20 thước, bề chu vi tốn chừng 800 cây đước bện lại bằng mây tàu, phỏng chừng hai tạ mây.
Kèm theo cái toa ấy, Hai Nhiệm vẽ thêm bản sơ đồ của các nò Xiêm vĩ đại, giống như cái quạt tròn, thân quạt là nơi chứa chất cá tôm, cán quạt là những hàng cây rạo đón cá vô bụng nò.
Hai Nhiệm lấy làm thích thú, ngắm nghía tới lui rồi hạ bút ghi rõ: 40 ngàn đồng!
Anh xếp cái toa và bức sơ đồ làm tư, bỏ trong hộc tủ.
Ngoài cửa có người bước vào. Anh giựt mình, đẩy hộc tủ để giữ kín kinh tài.
- Chào thầy Tư!
Thầy Tư Nhu nheo mắt:
- Cái gì mà coi bộ quan trọng dữ vậy?
- Dạ, đồ đạc giấy tờ.
- Thôi! Giấu diếm làm gì. Nghe đồn năm nay chú em muốn vay nợ của Xìn Phóc để xây nò Xiêm. Hay lắm! Tôi tới đây bàn thêm, giúp ý kiến. Nếu thấy được, cho tôi hùn năm mười ngàn.
Hai Nhiệm chép miệng, chưa biết trả lời như thế nào để khỏi mích lòng bực “đàn anh” kẻ cả! Thầy Tư Nhu tới xóm biển này từ bốn năm qua, chuyên nghề làm thầy nò. Ai sửa soạn xây nò, muốn kết quả được mỹ mãn thì đem mâm trầu rượu tới chầu chực, chờ thầy xem tuổi, xem ngày giờ khởi công. Chưa hết! Thầy còn vẽ bùa bát quái nêu rõ đâu là Đông, Tây, Nam, Bắc, Càn, Khảm, Cấn, Chấn, dạy cho gia chủ cúng Hà Bá Thủy Long. Thầy sẵn sàng xem quẻ giùm với điều kiện chủ nò phải chia cho thầy một phần ba số tiền thâu hoạch được.
Im lặng hồi lâu, Hai Nhiệm lên tiếng để chặn lời thầy Nhu:
- Tôi ít tin dị đoan.
- Chú em đừng nói vậy, rủi xảy ra điều bất lành, ăn năn không kịp. Đất có thổ công, sông có Hà Bá! Người xưa thường nói.
Hai Nhiệm cười giòn, giọng khiêu khích:
- Nhưng tôi làm ăn ở tuốt ngoài khơi, ngoài vòng của thổ công, Hà Bá.
- Ngoài đó còn Thủy Long. Thủy Long cai quản khắp miền Nam Hải.
Hai Nhiệm vẫn công kích:
- Thủy Long là vị thần của người Tàu, tôi xây nò kiểu bên Xiêm.
Nãy giờ thầy cố ý dẫn dắt câu chuyện, khiêu khích cho Hai Nhiệm thốt ra lời nói vừa rồi. Thầy kể thao thao bất tuyệt về nguồn gốc cái nò Xiêm:
“Xưa kia ở bên Xiêm, vị quan đại thần nọ có đứa con gái vừa đúng tuổi cặp kê, nhan sắc xinh tươi lạ lùng. Cô gái này thích đi dạo trên đồi, bắt bướm, hái hoa.
Hôm nọ nàng lên sườn đồi gặp đóa hoa tím mọc ngoài gành đá, phía dưới là khe suối chảy cuồn cuộn. Nàng với tay, gió thổi khiến đóa hoa chập chờn ẩn hiện xa gần, khi vừa tầm, khi lơ lửng giữa khoảng không. Như bị thôi miên, nàng ngây dại bò tới để hái cho kỳ được ‘giấc mộng hoa’ ấy, quên cái khe sâu thăm thẳm. Nàng tuột chân té xuống”.
Hai Nhiệm nói nhanh:
- Chuyện ngộ thiệt nhưng lạc đề.
- Bởi vì chú em nóng nảy, chưa hiểu.
- Cái gì mà không hiểu. Đóa hoa này giết chết đóa hoa kia theo kiểu tuồng tích cải lương.
Thầy Tư Nhu lại nắm chủ động, tiếp tục câu chuyện từ lúc người đẹp rơi xuống gành đá, mất dạng.
“Ông quan truyền lệnh cho binh sĩ tìm xác đứa con gái nhưng ai nấy đều lắc đầu, gành đá quá cao, vả lại nước chảy cuồn cuộn, biết xác nàng trôi tấp nơi đâu. Nếu tìm được chăng nữa, làm sao trở lên sườn đồi? Rốt cuộc, vị quan bèn đặt giải thưởng cho bất cứ ai đem được cái tử thi về nha môn để ông làm lễ tống táng: Bấy giờ ở miền duyên hải có ông Dì Xiêm nghĩ ra sáng kiến: Đóng cọc thật khít theo hình tròn để bao vây vàm sông. Xác cô gái từ khe suối, trôi ra sông, rồi lọt vào vòng rào tại cửa biển. Sau khi vớt xác lên. Ông Dì Xiêm chẳng thèm nhổ bỏ mấy cây nọc. Cá biển giành nhau mà chui để nương tựa lúc nổi sóng lên. Thế là ông Dì Xiêm trở thành thủy tổ của nghề nò Xiêm. Ông này nghe đâu là người Hải Nam. Vì vậy khi hạ nò Xiêm, người miền biển cúng tế trọng thể, rước thầy nò đến ‘nhờ xem’ phương hướng kẻo Hà Bá, Thủy Long hờn giận”.
Câu chuyện hấp dẫn khiến Hai Nhiệm suy nghĩ. Đúng rồi! Xưa nay, muốn đánh lưới hoặc muốn bao đăng, luôn luôn người ta theo nguyên tắc mành lưới hoặc kẽ đăng phải khít thân hình con cá, con tôm thì mới hy vọng túm nó được. Ông Dì Xiêm đã ngẫu nhiên phát minh ra nguyên tắc mới. Ngoài biển sóng gió, loại cá to phải lựa một gốc cây nào đó mà nương tựa cho ấm cúng. Gặp gốc cây, cá mừng quýnh như kẻ sắp chết đuối bám được cái phao. Nó chẳng bao giờ buông phao để chịu chết đuối, bỏ phao này, nó chuyền qua phao khác rồi lọt vào nò cho ta xúc, đem bán.
Để tỏ rằng mình chưa đến nỗi vong ân bạc nghĩa đối với tiên sư Dì Xiêm, Hai Nhiệm toan kết thúc câu chuyện để đuổi khéo ông thầy nò Tư Nhu.
- Mấy năm qua, tôi làm giàu nhờ ông Dì Xiêm. Nếu gặp con cháu của ông, tôi sẵn sàng đền ơn. Ổng giỏi thiệt. Nhờ ổng mà dân miền biển sáng mắt thêm: cá vô nò, dựa lưng vào mấy cây nọc để chờ chủ nó tới xúc chớ không bao giờ chạy trốn, mặc dầu miệng nò rộng hàng đôi ba thước. Và giữa hai khoảng nọc có kẽ hở lớn gấp đôi gấp ba thân mình của nó.
Thái độ cương quyết của Hai Nhiệm khiến thầy Tư Nhu tạm thời rút lui:
- Mai chiều, tôi trở lại thăm chú em.
- Cám ơn, để tôi thăm Xìn Phóc trước đã. Y ta chịu cho mượn tiền thì mới bàn tới chuyện Dì Xiêm, chuyện con quan đại thần hái bông ở khe núi.
Nhờ cách làm ăn ngay thẳng của mình nên Hai Nhiệm được Xìn Phóc ứng trước số tiền khá to, dư dả để mua cây, mướn người đốn lậu thuế trên 4.000 cây đước, mỗi cây dài hơn mười thước. Mướn ghe chở ra ngoài khơi để cắm nò. Số ghe này chạy ra, chạy vào để chở cây, mỗi chuyến hơn 8 cây số.
Thầy Tư Nhu vẫn chàng ràng để nài nỉ:
- Nếu chú em không cho tôi hùn vốn hoặc xem phong thủy thì thôi. Bây giờ tôi muốn giúp công, chẳng cần đền ơn, chú em nghĩ sao?
- Giúp vụ gì?
- Bữa nào khởi công “xuống nò”, tôi xem giùm ngày giờ, theo sách vở ông bà để lại. Tôi lựa ngày “bổ tróc” tức là ngày hên.
Hai Nhiệm sực nhớ tới danh từ bổ tróc ấy:
- Tôi nghe người ta nói nhiều về ngày đó. Xây nò thì phải hạ thủy đúng ngày bổ tróc, như người cất nhà xem ngày để gác đòn dông.
- Chú em hiểu bổ tróc là gì không? Bổ tức là bộ, là bủa, bủa lưới. Tróc là bắt, nã tróc. Chú em cho biết tuổi tác để tôi “đánh tay” cho.
Hai Nhiệm nói với giọng tức giận:
- Tôi thì chẳng cho thằng cha nào hùn vô hết! Năm nay tôi “xù” cái vụ coi tuổi, coi quẻ bát quái, coi ngày bổ tróc. Mình hên thì mọi việc đều xong. Nếu hết thời, một trăm ông thầy nò cũng không cứu nổi. Hơn nữa mỗi “cha” thầy nò bàn một cách; cha nào cũng tự xưng là thần, là thánh tối ngày ngồi trên đất cạn mà nói chuyện cá tôm dưới đáy biển.
Thầy Tư Nhu cau mày:
- Chú em quá gắt gao đối với tôi.
Trẻ tuổi, háo thắng, nhưng Hai Nhiệm vẫn hiểu cái thủ đoạn đối nhân xử thế. “Quỷ thần kính nhi viễn chi”. Nên kính trọng ma quỷ, thần thánh nhưng chớ khá lân la với họ - nghĩa là nên lánh xa chừng nào hay chừng ấy. Muốn tống cổ thầy Tư Nhu ra khỏi nhà chỉ còn biện pháp cuối cùng như sau:
- Xin thầy coi giùm ngày “tróc bổ”, à, ngày “bổ tróc”, tôi nói lộn ngược lộn xuôi.
Một lần nữa Hai Nhiệm sa vào quỷ kế của Tư Nhu. Thầy ung dung móc “bóp”, đem ra tờ giấy nhỏ, đầy chi chít chữ nho lẫn chữ quốc ngữ.
- Suốt đêm hôm, tôi lật tất cả sách vở, đem tất cả bửu bối để giúp chú em. Chú em thương thì tôi nhờ, trách mắng thì tôi chịu. Tôi làm việc theo lương tâm, theo nghiệp tổ. Nếu không coi ngày bổ tróc giùm cho chú em, rủi xảy ra điều thất bại, tôi hối hận lắm. Đây, chú em, ngày mốt nên hạ nò cách bờ biển chừng 20 dặm, phía Tây Nam, giờ Thìn. Chú em ngóng về phía Tây Nam. Chừng nào thấy một cụm mây tròn màu tím hiện ra là...
Hai Nhiệm cười khanh khách:
- Là tàn mạt. Thôi cám ơn cha nội! Chộn rộn quá. Tôi cãi lời một phen xem sao. Lát nữa, tôi khởi công lập tức, chạy ghe buồm ra ngoài khơi, gặp chỗ nào cao hứng là tôi dừng lại. Mây trắng, mây dài, mây lốm đốm màu gì cũng là điềm tốt cả. Thôi về đi, chừng nào trúng nò, tôi đền ơn hai lít rượu với một cái mền để dưỡng già.
- Sao chú em không nói luôn là để liệm tôi trong hòm. Nhất là phá Sơn Lâm, nhì đâm Hà Bá. Chú em nhỏ tuổi, nghĩa là còn nhiều dịp để thành công nhưng cũng còn nhiều dịp để thất bại. Nhớ lấy đó! Răn lấy đó!
Nò đã xây rồi từ hơn mười ngày qua.
Hai Nhiệm cười với thiên hạ mà gan ruột thì nát như tương, giống hệt tâm trạng kẻ ngồi sòng bạc chờ đợi người “cái” khui con đề. Anh ăn ngủ không theo giờ giấc nhứt định, lắm khi đói mà ăn không ngon, không buồn ngủ nhưng ráng dỗ giấc ngủ để trấn tĩnh bộ thần kinh quá căng thẳng khi gió từ phía Nam thổi lộng về sớm hơn mọi năm đến hai tháng.
Nhiều khi, anh ta thức giấc nửa đêm, thấy mơ hồ trước mắt có ngôi nhà ngói. Dưới ánh đèn “măng sông” sáng choang nào là máy hát, nồi chảo bằng nhôm, tranh cảnh bên Tây treo đầy vách. Tóm lại, từ địa vị “thường thường bậc trung” anh leo lên nấc thang phú quý tột bực xóm này. Có vài buổi bình minh u ám, anh cúi mặt, nghĩ tới trận giông Nam ác liệt đang sắp sửa hoành hành ngoài khơi, đánh tan tành cái nò trị giá trên 40 ngàn đồng trong nháy mắt, bao nhiêu cây rào đều tróc gốc, nằm xiêu vẹo như hàm răng long của bà lão trên bảy mươi tuổi.
Ngoài cửa, thầy Tư Nhu xuất hiện với gương mặt ròng ròng nước mưa, với bàn tay che giấu dưới nách.
- Chú em đừng lo, hễ buồn hoặc lo ngại thì uống rượu với tôi.
Hai Nhiệm nhướng mắt. Chai rượu của thầy Tư là thủ đoạn gây cảm tình, nhưng giờ phút này nó trở nên cần thiết. Tư Nhu nói:
- Lời tục thường nói: Bách văn bất như nhứt kiến. Nghe nói hồi hôm cá vô nò của Tư Chối, của Hai Xịu ở Xẻo Bần. Hai cha đó, xúc được bốn ngàn con cá mè đường, mổ lấy bong bóng, lập tức bán cho ghe Hải Nam từ Xanh Ga Bo qua chịu mối. Còn xác cá, mỗi con nặng hơn mười ký lô, mấy chả bỏ ngoài biển. Bong bóng cá bổ khỏe hơn sâm Cao Ly, nhà giàu ưa lắm.
Hai Nhiệm gật gù:
- Vốn 40.000 đồng, trong một đêm thâu vô gần 100.00 đồng! Ngon quá. Hồi hôm kia, tôi ra thăm dò một lần rồi. Buồn quá chưa có “màng màng gì ráo!
- Ít ra trong bụng nò cũng có lai rai vài con gì chớ!
- Đôi ba trăm con cá chim, xúc uổng công, bán mười đồng bạc là cùng!
Thầy Tư Nhu đứng dậy dậm chân:
- Trời đất ơi! Chú em khờ khạo quá. Hễ cá chim chịu vô, tức là hai ngày sau cá mè đường kéo tới tràn nò, bể nò ăn thua. Hiện giờ ở trong cái nò của chú em có hơn 100.000 đồng rồi. Ra coi thử mới được. “Bách văn bất như nhứt kiến”. Nghề làm nò quý ở chỗ chủ nò đích thân coi sóc từng giờ từng phút. Nằm nhà nghe đồn phong thanh hoài, tức chết đi!
Nghe lời nói chí lý ấy. Hai Nhiệm quát to:
- Bạn ta đâu? Tay lưới đâu? Tụi bây ra ngoài nò với tao, với thầy Tư một phen để xúc cá.
Vài đứa cằn nhằn:
- Trời nổi giông, biển động mạnh từ hai đêm rồi, cá tôm gì mà xúc. Đi ra ngoài khơi, để ngắm cảnh họa may. Nhưng trời mưa giông có cảnh gì mà ngắm? Chẳng lẽ mình ra ngoài để kiếm vài cái thây ma chết trôi?
Thầy Tư Nhu nói gắt:
- Đứa nào nói bậy đó? Ở nhà nghe không? Tao cấm tuyệt không cho đứa nào đi theo tao.
Thầy Tư Nhu day qua Hai Nhiệm:
- Chú em nghe nó chửi tôi không? Làm ăn, nên tránh những tiếng nói đem xui xẻo.
Bây giờ Hai Nhiệm đâm ra cảm động trước thái độ quá ư thành khẩn của Tư Nhu. Anh bắt buộc tên gia nhân ấy ở lại nhà. Đoàn ghe lên đường, xông ra ngoài khơi, dưới trận mưa tối tăm trời biển. Trống ngực Hai Nhiệm đánh thình thình. Thầy Tư Nhu đưa chai rượu lên môi mà ực liên tu bất tận, tưởng chừng như nếu ai gỡ chai rượu ấy ra, thầy mất phần hồn lăn ra chết xỉu. Hàng rào xuất hiện. Mớ cây đước cắm giăng hàng ngang để chận cá vẫn đứng vững trước bảo táp phong ba. Đoàn ghe nương theo đó mà tiến vào bụng nò. Hai Nhiệm và thầy Tư đều đứng thẳng người.
Bụng nò còn nguyên chưa hư hao. Vài bầy cá chim bay nhảy khỏi mặt nước, rớt xuống khuất dạng.
Tư Nhu bỗng run rẩy:
- Con gì? Ghê quá! Trời đất ơi là Trời! Hai Nhiệm hỏi như cà lăm:
- Thầy nói gì? Tôi đâu thấy? Thây ma hả?
- Đâu có! Bữa nay không có thì mai mốt có cá. Mình được quyền chờ đợi. Đợi ba tháng nữa mới mắn mùa nò. Nhưng mà nó ở dưới đáy biển kia, nó sửa soạn nổi lên. Nó sống nhăn. Nó không phải là người. Tôi thấy vài lần rồi.
Trong giây phút, Hai Nhiệm nhớ tới cá nược, cá “vuông”, loại cá ông thứ nhỏ thường xông pha vào để phá nò. Anh ta cãi lại:
- Đâu có! Nếu là nó, thì nó xịt vòi nước rồi quậy ầm ầm chìm ghe chìm xuồng rồi.
Từ dưới biển một cái đầu đỏ hói nổi lên, to và tròn bằng trái dừa khô thứ lớn nhất: miệng nó hả ra giống như mỏ chim, mắt nhắm híp lại.
Con quái vật ấy như bất chấp số khán giả trên mặt biển. Hai Nhiệm run lẩy bẩy:
- Vái Bà Cậu, mô Phật. Cầu xin Thủy Long chư vị... Rồi day qua thầy Tư Nhu:
- Con gì vậy? Ông gì vậy?
Thầy Tư im lặng vì cái đầu đỏ hói ấy đã lặn xuống biển.
Mặt nước lại xao động. Lần này một thân hình to lớn trồi lên, thoạt nhìn qua giống hệt như con trâu nằm vũng. Trên lưng nó, nhiều miếng vảy xanh lè đầy rong rêu, trơn nhớt, sắp đặt theo kiểu vảy trên lưng rùa. Từ đầu tới đuôi, thầy Tư Nhu đếm kỹ thấy có tám cái sọc nổi cao lên, chạy song song.
Thầy buộc miệng quát to:
- Con Bà Tám! Loại rùa khổng lồ có tám cái sọc trên lưng. Nghe đâu nó ở miền Xanh-Ga-Bo, lâu lâu xiêu lạc qua xứ mình. Phải đuổi nó ra cho khéo léo, kẻo bao nhiêu cây nọc cây rạo của nò mình ngả nghiêng hết.
Hai Nhiệm thọc cây chèo xuồng đập thử vào mai con rùa mang danh là Bà Tám. Nó im lìm, ngóng mỏ, trông hiền lành quá. Anh nói:
- Tại sao mình không bắt nó về, bán cho quan chánh tham biện chủ tỉnh, nuôi rồi đem về bên Tây.
Dường như con Bà Tám biết nghe. Đột nhiên nó cựa quậy vòng vo, quậy nước ầm ầm rồi nhắm vào hông nò mà xắn tới. Hàng chục cây nọc gãy rôm rốp, dây mây dứt tiện. Như một giấc chiêm bao! Con Bà Tám đã đi rồi, to bằng cái lu thứ lớn, sau khi đập phá.

Cái nò còn vài di tích mơ hồ trên mặt biển. Hàng rào vô dụng dài cỡ cây số còn đó, bụng nò bị bể. Mấy cây nọc còn sót lại đu đưa, rồi biến mất khi sóng ngoài khơi bỏ vòi báo hiệu trận giông Nam.
Về tới nhà, Hai Nhiệm nằm thở phào, thầy Tư bèn an ủi, khi cơn giông làm rung chuyển căn nhà nhỏ bé:
- Tại chú em ỷ tài ỷ sức, xuống nò không đúng ngày “bổ tróc”. Người làm nò giống như cô gái hái đóa hoa ngày xưa trên gành đá, bên Xiêm.
Hai Nhiệm nhìn thầy Tư Nhu:
- Làm cách nào bây giờ? Nợ của Xìn Phóc 40.000 đồng. Năm nay hoàn toàn thất bại. Liệu năm tới nó dám cho tôi mượn thêm để thử thời vận! Mình đâu bắt được con Bà Tám đem về chủ nợ coi để làm bằng cớ!
Thầy Tư Nhu nâng chén rượu mà lẩm bẩm:
- Có thứ khác, gọi là con Bà Ba, trên lưng có ba sọc. Hồi còn đi làm mướn cho ông chủ Rờ Nô ở đảo Phú Quốc, tôi nghe ổng nói đó là giống rùa xưa từ vài triệu năm về trước và sót một mớ ở Thái Bình Dương, ăn no dưới biển, về ngủ trên bãi. Súng cà nông bắn, nó không sợ. Biển xứ mình ăn thông với... năm châu bốn biển. Đời tôi gặp con Bà Tám này lần thứ nhứt... bấy lâu, nghe đồn đại...
Hai Nhiệm đáp:
- Tôi cũng gặp nó lần thứ nhất. Tôi không tốn một xu, còn Xìn Phóc thì tốn 40.000 đồng. Năm tới, chắc tôi trở lại nghề móc cua, bắt ba khía ở bờ biển. Chủ nợ dư hiểu, chẳng bao giờ thưa kiện ra tòa. Luật giang hồ mà.
Con cá chết dại
Chiếc xuồng lướt tới ngon trớn. Hồng như không hay biết, mải mê nhìn cánh đồng lúa chín hai bên bờ rạch. Nàng nghĩ đến ngày mai. Mẹ con nàng từ Long Xuyên đến miệt Rạch Giá làm mướn với hy vọng đem về vài giạ lúa sớm và một hũ mắm.
Bỗng dưng Huệ, con gái nàng, ngừng tay day mặt lại, buông mái dầm lơ lửng:
- Mẹ, ai kìa mẹ!
Hồng ngước lên, từ nãy giờ nàng đã thấy kẻ lạ mặt ấy rồi. Hắn tên là Hai Tỵ, ai cũng biết mặt. Hôm qua, lúc đậu xuồng bên trại ruộng, Hồng nghe thiên hạ thuật lại vài giai thoại đáng ghét về nhân vật Hai Tỵ. Đại khái, hắn có vợ rồi nhưng chẳng bao giờ sống gần vợ. Hắn xuất hiện tại xóm này như một hiện tượng quái đản: suốt ngày rong chơi, nơi nào động dao động thớt hoặc có gái đẹp, đàn bà là hắn đến.
Hắn không làm nghề gì rõ rệt, vẫn sống thênh thang ở cái xứ “trên bờ có lúa, dưới sông có cá”.
Huệ còn thắc mắc, nhắc lại lần nữa:
- Mẹ! Ai kìa! Hồng lên tiếng:
- Ai thì mặc họ, mẹ con mình lo bơi xuồng.
Hai Tỵ cau mày, đứng trên bờ rạch hút thuốc rồi hinh hinh mũi, thở ra hai làn khói. Trông hắn bỉ ổi, hơi ngốc, mái tóc sửng lên như rễ tre. Trong phút giây, Hồng có cảm giác mình gặp tên lâu la đến chặn đường. Làm sao bây giờ? Nàng muốn tri hô lên, dù Hai Tỵ chưa phạm tới tội gì rõ rệt. An ninh và trật tự trong xóm đâu bị lung lay vì sự có mặt của hắn. Nàng hơi mừng vì đằng kia còn xóm nhà khá đông. Lát nữa, nàng sẽ ghé lại xóm nhà. Nhưng Hai Tỵ rõ là kẻ lì lợm. Hắn từ từ bước lại như muốn chận xuồng.
Huệ nói khẽ:
- Thằng cha vô duyên quá. Để con mắng nó một trận. Hồng cản lại:
- Đừng để mẹ xem thử.
Hai Tỵ vụt cái tàn thuốc xuống nước ngay trước mũi xuồng. Để tỏ rằng ta đây nào thiếu bản lãnh, Hồng lên tiếng:
- Anh muốn “quá giang” qua sông?
Dụng ý của Hồng là sỉ vả, liệt Hai Tỵ vào hàng ngũ những con “dê xồm” đòi thỏa mãn yêu đương trong chốc lát. Hai Tỵ cứ cười hì hì:
- Cô lầm rồi. Tôi mời cô lên bờ.
Huệ tức giận, lên tiếng để hỗ trợ với mẹ:
- Ổng không quá giang thì mình cứ bơi tới, hơi đâu mà hỏi.
Hồng không nghĩ rằng mình là kẻ đang yếu thế. Tuy “mẹ góa con côi”, nàng đã nuôi con đến khôn lớn. Nàng dám xuống miệt này để gặt lúa và làm mắm, bất chấp đường xa.
- Ủa! Bơi đi đâu lạ vậy? Tôi đâu phải ăn cướp. Tôi là đứa biết điều, giàu lòng nghĩa hiệp. Đời tôi cô độc lắm. Tôi nhảy xuống rạch bây giờ!
Đòi tự tử để hăm dọa kẻ giàu tình cảm chăng? Hồng mỉm cười để lộ hai núm đồng tiền:
- Chết đâu chết phứt đi. Lì lợm quá. Để người ta làm ăn.
Hai Tỵ nói:
- Tôi nhảy xuống rạch để níu chiếc xuồng của cô.
- Đủ rồi nghen! Đừng nói dai.
Hồng nghiêm mặt, mắng lớn. Những lời mắng nhiếc tương tự như thế đã lọt vào tai Hai Tỵ hàng trăm ngàn lần rồi. Hắn nghĩ thầm: “Hồng muốn nói to để cho con gái nghe vậy thôi. Trước mặt con, nàng muốn tỏ ra gương mẫu”. Phải chi nàng bơi xuồng một mình thì chưa chắc hắn bị mắng oan như thế.
Bỗng dưng Hai Tỵ cảm thấy hãnh diện “thất bại là mẹ thành công”. Vả lại hắn chưa thất bại. Chiếc xuồng cứ lướt vùn vụt. Hắn chạy lúp xúp theo. Hồng quả là người đẹp đã đành, nhưng từ phía sau nhìn tới thì càng đẹp hơn. Hắn thầm cảm ơn định mệnh khiến hắn gặp Hồng mùa gặt năm nay. Mấy năm trước nhiều cô gái mơn mởn chưa chồng đến xóm này gặt lúa hoặc làm mắm. Họ thuộc vào hạng mặn mòi, tóc dài mắt đen, cườm tay no tròn. Tuy nhiên, hắn chưa bao giờ sảng sốt, ngơ ngẩn như khi gặp Hồng lần đầu tiên. Hôm qua, lúc mẹ con Hồng nấu cơm bên nhà ông hương Cả, hắn nhìn trộm hàng giờ rồi về nhà mang bệnh mất ngủ. Hắn nhớ rõ dáng điệu những cậu trai tơ, những người tuổi sồn sồn đứng ở nhà ông hương Cả. Trầm trồ khen ngợi người đẹp là quyền riêng của mỗi người. Hắn đứng lặng thinh mãi đến khi có người bên cạnh chế giễu thẳng vào mặt:
- Thằng cha Hai Tỵ này mê mệt rồi đa! Mọi lần, nghe đồn thằng chả đạo đức lắm.
Hai Tỵ bẽn lẽn:
- Bà con phá tôi hoài. Lần này tôi cương quyết đạp lên xác chết của kẻ nào ngạo mạn, dám qua mặt tôi. Tôi nhường nhịn lắm rồi. Ai khen đứa con gái của “bả”. Tôi già, tôi giành “bả” riêng cho mình.
- Nghĩa là cha nội đòi “cưới” “bả”.
Hai Tỵ hiên ngang nhìn mọi người rồi nói nhỏ:
- Cưới gấp. Vái trời.
Cả bọn cười rộ lên, Hồng vẫn ung dung chắt nước cơm để chứng tỏ mình vẫn bình thản. Nàng muốn nói thẳng: “Các anh dở hơi quá: đàn ông mà làm vậy, đàn bà nó khinh”.
Chỉ tội nghiệp cho Huệ. Nàng ngỡ mình sắp bị bao vây nơi xứ lạ quê người.
Đêm đã khuya.
Hồng nói với con gái:
- Huệ à! Con đi ngủ sớm để mai lo gặt.
Trước khi chui vào nóp, Huệ lộ vẻ sợ sệt. Căn chòi trống trải quá. Rủi bọn bất lương và nhất là Hai Tỵ đến hăm dọa thì kêu cứu quá trễ. Đoán được tâm lý con, Hồng nói ôn tồn:
- Ở đây gần xóm. Chẳng lẽ mẹ con mình ngủ nhờ trong nhà thiên hạ. Cọp, gấu gì đâu mà sợ! Thiên hạ còn gặt lúa, ngủ ngoài trời, sát mé biển nữa kia.
Nằm trong nóp hồi lâu, Hồng cựa quậy vì tiết trời hơi nực, ngứa ngáy. Nàng tung nóp ngồi ngóng vẩn vơ. Đêm ở miền biển cũng thơ mộng, nếu không có muỗi cắn. Nàng đặt mấy que củi vào bếp un, rồi nghĩ đến công việc ngày mai. Dưới rạch, nước gần cạn. Cá lóc táp mồi nghe đùng đùng. Xứ này nhiều cá hơn mức tưởng tượng của nàng. Nếu siêng năng, có thể câu hoặc tát mấy vũng cạn, khỏi tốn tiền. Dưới ánh trăng, cá đua nhau đớp bọt như nồi cơm đang sôi.
Bỗng một cục đất khá to rơi tõm xuống rạch, trước mặt Hồng chừng vài bước. Nước văng lấp lánh. Nàng nói hoảng:
- Ma nhát hả! Trời! Có giọng cười the thé:
- Tôi mà! Chừng này cô chưa ngủ? Hồng phát giận, nghiêm giọng:
- Anh này kỳ cục quá. Chừng này tới đây làm gì? Hai Tỵ nghiễm nhiên đến ngồi trước mặt Hồng:
- Cô biết rồi mà còn hỏi hoài. Tôi tới vì tôi ngủ không được.
- Tôi la làng bây giờ!
Hai Tỵ với tay để khều nhẹ bàn tay Hồng:
- Đừng nói lớn.
Rồi quay qua chiếc nóp của Huệ.
- Cháu nó ngủ rồi hả?
Hồng rút tay lại kịp thời. Hai Tỵ đem gói thuốc rê vấn rồi hút phì phà cho đỡ ngượng. Bầu không khí trở nên im lặng. Huệ vẫn ngủ say trong nóp.
Hồng ngồi lui lại bên con. Bấy giờ Hai Tỵ nói khẽ:
- Cô xuống đây làm gì? Tôi sẵn sàng giúp cô.
- Tôi biểu anh về nhà. Tôi không muốn nghe thiên hạ đàm tiếu.
Hai Tỵ làm mặt lỳ:
- Tôi không có nhà. Thưa cô, tôi muốn thăm cô trong giây lát. Xóm này chẳng ai đàm tiếu. Mấy người gặt lúa, giăng câu họ thức nói chuyện sáng đêm để nói chuyện một mình.
- Bây giờ, ừ được rồi, tôi sẵn sàng nói chuyện nhưng nói chuyện khác. Chuyện đó chán lắm, chuyện khác là chuyện làm ăn, lo sống...
Vô tình, Hồng lọt vào cạm bẫy tình cảm của Hai Tỵ. Hắn vấn thêm điếu thuốc, lần lượt trình bày cách thức kiếm cá để làm mắm rẻ tiền nhứt ở xóm này.
- Sáng mai, cô đi theo tôi. Tôi bảo đảm. Sắm vòng vàng, cất nhà lầu thì tôi chịu chớ kiếm chừng trăm ký lô cá dễ ợt. Cô hãy tin nơi lòng thành thật của tôi. Nếu nói dóc, mặt mũi nào tôi nhìn cô. Nếu cô không nhìn tôi, tôi chết.
Hai Tỵ mừng thầm, hiểu rằng đã đến lúc từ biệt. Ở đây mãi, câu chuyện sẽ hóa ra nhảm nhí. Anh đứng dậy, nói run run:
- Cám ơn cô. Hồi nãy, cô nói hơi ác độc.
Hồng gật đầu:
- Cũng tại anh nói dai.
- Cô nói sao? Tôi ngồi đây cho tới sáng.
- Thôi, lỗi tại tôi. Sáng mai tôi chờ anh tại đây.
Ra về, Hai Tỵ phơi phới trong lòng. Anh đến quán chú Kỵ, đập cửa om sòm:
- Bán một chai rượu thuốc con cọp coi!
Chú Kỵ thừa hiểu tính nết Hai Tỵ. Tuy hắn chưa phải là thân chủ lớn nhưng ít khi thiếu chịu. Chú nói đùa:
- Làm gì hăng quá vậy?
- Bữa nay tôi là một ông vua nghe chưa!
Rồi hắn đến từng người bạn, đánh thức, hối thúc đốt đèn. Hắn hứa cho người này cái nón nỉ, cho người kia chiếc xuồng. Và vài ngày nữa hắn sẽ làm việc với lý do còn giữ bí mật.
Hồng căn dặn:
- Huệ à! Con gặt lúa cho rồi công. Mẹ lo kiếm cá.
Mặt trời mọc rồi đó.
Huệ áy náy vô cùng. Hai Tỵ ngồi sẵn dưới xuồng. Nơi giữa khoang, hắn trải chiếc chiếu sạch sẽ. Huệ chưa hiểu mẹ nàng đi đâu với gã xấu nết này. Huệ nói khẽ:
- Kiếm cá mà như đi ăn giỗ. Thôi, mẹ ở nhà với con. Con không chịu như vậy đâu.
Dè đâu câu ấy lọt vào tai Hai Tỵ, hắn nói:
- Cháu đừng lo. Đi ban ngày. Đi rồi về bây giờ. Tôi đâu có nói giỡn hồi nào đâu.
Cực chẳng đã, Hồng xuống xuồng quay mặt về phía trước.
Hai Tỵ bơi thật hăng, bơi ra phía vàm biển. Hai bên bờ rạch, cây mắm, cây vẹt mọc um tùm. Gió thổi mạnh, nàng lắng tai nghe rồi nói nhanh:
- Anh đưa tôi ra ngoài biển hả? Tôi muốn về. Sóng gió tôi sợ lắm.
Hai Tỵ vẫn cố lỳ vừa bơi vừa hỏi.
- Xin lỗi cô tên gì? Cô có gia đình chưa?
- Tên Hồng, vợ chồng tôi xa nhau, ở riêng từ mười mấy năm rồi. Biết vậy là đủ. Còn anh?
- Đừng hỏi, tội nghiệp tôi. Cô biết tôi như vầy cũng là đủ rồi.
Một con cá lóc bỗng nhảy dựng lên cao, rơi xuống. Cá giẫy mạnh, như chạy nhanh trên mặt nước, Hồng thích chí:
- Cái gì vậy? Anh bơi xuồng tới thử coi.
Con cá nọ nằm ngửa đưa bụng trắng phau, quạt đuôi nhè nhẹ rồi nằm nghiêng. Để làm vừa lòng người đẹp, Hai Tỵ chụp con cá, ném vào xuồng.
Hồng day mặt phía sau. Hai Tỵ cau mày. Từ nãy giờ nàng chỉ thấy con cá. Nếu không có con cá đó chắc mình chẳng thấy mặt nàng. Con cá tốt phước hơn mình nhiều. Bàn tay Hồng vuốt mắt cho con cá đang chết, nhưng mắt nó cứ mở trao tráo.
Nàng hỏi:
- Ủa! Sao lạ vậy? Cá mang bệnh chăng?
- Gặp ngày may mắn, tôi muốn cho cô thấy vài chuyện lạ. Bữa nay mười sáu trăng tròn. Hồi đêm qua, nhớ cô quá tôi đánh bạo tới chòi để thăm cô và thăm cá.
Ngỡ rằng Hai Tỵ buông lời thô tục, Hồng im lặng.
Chẳng lẽ giữa ban ngày hắm dám giở thói vũ phu.
Qua khỏi gốc cây bần quỳ, Hai Tỵ quẹo xuồng vào bãi:
- Mời cô lên chòi!
Nói xong hắn vác chiếc chiếu, nhảy xuống bùn, tay kéo xuồng, tay vịn chiếu. Căn chòi quá nhỏ, tư bề có kèn, ô rô và nhiều loại cỏ hoang mọc um tùm:
- Mời cô nhảy cho khỏi lấm bùn.
Hồng còn do dự. Trong khi ấy Hai Tỵ trải chiếu lên bộ vạc. Gió thổi hù hù, sóng vỗ vào bãi nghe như gần lắm. Hồng ớn xương sống, có cảm giác như lọt vào động quỷ của tay thầy bùa đang chực giết người để luyện thiên linh cái!
Bầy khỉ kêu chót chét, hái trái bần chín mà ném xuống. Hồng đau khổ quá chừng. Nếu Huệ gặp mẹ trong cảnh này, nó sẽ nghĩ những điều oan uổng.
- Mời cô nằm nghỉ trên vạc. Tôi trải chiếu rồi đó. Sau khi ngồi mỏi lưng, cô nằm cho khỏe, chòi này của thiên hạ bỏ hoang. Tôi chiếm cứ.
Hồng lắc đầu:
- Cá ở đâu, tôi muốn trở về. Anh không về thì tôi về. Đừng gạt tôi.
- Ủa! Cô nói lạ vậy. Tôi ngồi ngoài này. Cô nằm nghỉ trong chòi một mình.
Rồi Hai Tỵ kể thao thao bất tuyệt:
- Tôi gặp cô vào lúc may mắn. Âu cũng duyên trời đặt. Ở xứ này, mỗi năm lại có một lần “cá dại”. Nước mặn cuối năm tràn vô rạch. Bao nhiêu cá lóc quen nước ngọt bị say nước mặn, chạy trốn không kịp, chết trôi lờ đờ như con cá hồi nãy cô thấy đó. Vùng rạch hoang vu này thuộc về cô. Sáng mai nước biển sẽ tràn vô rạch lần đầu tiên. Lứa cá dại đầu mùa thuộc về tay cô rồi đó. Cô tha hồ mà bắt trên khúc rạch mình bơi qua nãy giờ.
Hồng chợt tỉnh, dè đâu Hai Tỵ tử tế mức ấy, nhưng đối với nàng, chừng nào cá vào tay thì mới chắc ăn. Giờ đây cá còn lội dưới nước. Nàng mỉm cười, hai núm đồng tiền rung rinh. Hai Tỵ nói:
- Thiên hạ lo đào đìa, xây rọ, giăng lưới để bắt cá. Hoặc họ sắm ruộng đất lập vườn lấy huê lợi để mua cá. Còn tôi, mỗi năm uống rượu phủ phê vài ngày, lúc trăng tròn cuối năm nhờ mớ cá trời cho này. Gặp cô, tôi bơi xuồng đi ra ngoài mé biển này cho cô tin. Tài sản của tôi là bao nhiêu đó.
Hồng gật đầu. Dưới rạch một con cá lóc to trồi đầu lên, chạy lướt vào bãi, giãy giụa rồi nổi lình bình, nàng với tay bắt.
- Cá này ngon, còn tươi để tôi đem về chòi cho con Huệ nó mừng.
Nét mặt Hai Tỵ nhăn nhó đau đớn khôn tả, quả là tâm trí Hồng mãi nhớ tới con cá và đứa con gái thân yêu. Chừng nào nàng mới nhớ đến mình? Hắn thở dài:
- Cô về trong xóm một mình. Tôi ở ngoài suốt đêm. Cứ để tôi ở đây. Hừng sáng mai, cô nhớ thức sớm, rủ cháu Huệ đi theo xuồng. Gặp cá là vớt, cá vô chủ là cá của tôi. Không ai tranh giành. Xứ này thiếu gì cá.
Hồng bịn rịn:
- Anh về trong xóm chớ!
- Không! Tôi ở đây. Cô về cho sớm.
Vào khoảng tám giờ sáng hôm sau, Hồng và Huệ bơi xuồng ra tới chòi của Hai Tỵ. Khoang xuồng đầy cá lóc chết dại. Cá nổi trắng mặt nước, hai bên bờ rạch không có nhà cửa, nên mẹ con Hồng độc quyền nguồn lợi ấy. Người ở xóm ngọn chưa hay cá đang chết dại vì nước lớn chưa chảy tới. Hơn nữa, cá lóc ở xóm ngọn đang cố gắng sống lây lất từng bầy chạy thoát về rừng. Hai Tỵ ngồi nép trốn bên sân chòi. Hồng mừng quýnh:
- Vậy mà tôi tưởng anh chết rồi chớ!
Hắn đáp:
- Mai cô về, tôi mới chết. À, cháu Huệ đem cá lên sân chòi mà mổ ruột đánh vảy, làm khô, làm mắm.
Hai mẹ con Hồng cười nói lăng xăng: cá nhiều, cá mập, cá bán có giá, cá bắt dễ dàng. Hồi lâu, Hồng sực nhớ Hai Tỵ.
Kìa! Hắn ngồi ngoài gốc cây bần, hai tay ôm đầu nhìn xuống đất.
Giọng Hồng thỏ thẻ:
- Để “em” đền ơn cho anh chút ít tiền.
Hắn nói gắt:
- Nín đi! Cá của trời đất chớ đâu phải của tôi.
- Để “em” mua cho anh một chai rượu. Anh tính toán, làm ăn giỏi quá.
Hắn ngước mặt nói nhỏ:
- Cô xưng “em” với tôi thiệt tình hả? Tôi dại lắm.
- Thấy anh mà tội nghiệp. Rồi anh lấy gì mà sống.
- Nếu em chịu ở đây, anh có cách để sống hoài. Hết mùa cá dại, anh xoay qua bắt trăn bắt rắn. Toàn là những món của trời, không vốn liếng. Mai này em bắt rắn với anh nghe không? Rồi ở đây luôn.
- Lạy anh, em về xứ. Em sợ rắn lắm.
Hai Tỵ trợn mắt:
- Xứ nào?
- Ở Long Xuyên.
- Anh đâu dám theo.
Bao nhiêu hình ảnh phức tạp nhảy nhót trước mặt Hai Tỵ: Hồng sống với con gái, Hồng còn trẻ còn đẹp. Ở Long Xuyên, xứ văn minh, Hồng đã và sẽ là đóa hoa thơm để cho ông Tây kiểm lâm hoặc ông chủ nhà máy xay nào đó tới lui thưởng thức. Họ có ca-nô, họ có xe hơi, mình chỉ nên theo Hồng về Long Xuyên khi nào mình có chiếc ca-nô để đưa nàng. Mình đã thua kém thiên hạ từ thuở mới lọt lòng khóc oa oa chào đời, từ hồi mang bịnh giang hồ, thích gió rừng, yêu sóng biển.
Giọng Hồng ngọt ngào:
- Rảnh thì anh về xứ em cho biết nhà.
Hai Tỵ cười chua chát:
- Ờ, anh tới nhà em, rồi anh giả bộ đau vài ngày. Chắc em quăng anh xuống sông, bỏ xác. Xứ em đẹp lắm, nước ngọt mãn năm, ai nấy đều có làn da mơn mởn. Tới chiếc lá rụng còi cũng đủ màu sắc, thấy mà thèm. Còn ở đây nắng cháy, nước mặn, anh như con cá chết dại. Em thấy chưa?
Hồng day mặt chỗ khác. Bây giờ đôi mắt Hai Tỵ đỏ lòm với hai giọt nước mắt chưa rơi xuống.
Hắn nói:
- Em biết cá “dại” là cá điên như chó dại, chó điên. Tại sao anh điên, em biết không? Như con cá gặp luồng nước mặn ngoài biển đang tới tấp. Nó không chạy kịp, nó chạy không nổi. Thà chết lờ đờ như vầy.
Gió biển vẫn thổi. Nhưng giữa hai người, không khí như đứng im nặng nề. Huệ nói to, hươi cây dao:
- Mẹ ơi! Lại đây tiếp xẻ cá. Mẹ nói chuyện gì mà nói hoài vậy?
Vừa nói Huệ vừa vung tay đập đầu con cá dại, Hồng rợn người khi nhận ra sự thật: Tuy chết rồi nhưng con cá vẫn còn mở mắt đỏ ngầu, trao tráo như cá còn sống! Lần đầu tiên bàn tay nàng với tới Hai Tỵ.
Huệ hơi bực tức:
- Ông đó nói cái gì vậy má?
Trong giây phút lãng mạn Hồng nắm tay Hai Tỵ.
Nàng nói với con gái:
- Đừng kêu “ông đó” bằng “ông đó”. Lát nữa mẹ về Long Xuyên với con mà!
Đường về quê
Phải bánh xe là xe không?
- Không.
- Phải thùng xe là xe không?
- Không.
- Vậy thì tiếng “xe” chẳng là một tiếng không không.
Na Tiên Tì Kheo Kinh
Tiểu công nghệ không bao giờ chết! Tiểu công nghệ muôn năm! Những lời hoan hô ấy thường ám chỉ ngành dệt tơ lụa nội hóa, nhưng hôm nay, chúng tôi muốn áp dụng nó vào giới xe đò lỡ. Bên cạnh những công ty triệu phú gồm trên hai mươi chiếc xe tối tân, mỗi chiếc chở trên bốn mươi hành khách, chạy bon bon nổi giông nổi gió, thì xe đò lỡ rõ ràng là bé bỏng như những khung cửi cổ lỗ bên cạnh những máy dệt tối tân của Tây phương hoặc của Nhật Bổn. Đây này, chiếc xe ngoại hạng, mang bảng số xa xưa từ đời CU... vì “tuổi hạc quá cao” nên “gối mỏi da dùn” gặp khoảng đường xấu thì nhíp rít lên ken két và tuy mới sơn nhưng nổi u nần, xù xì như da con cóc tía, bạc màu.
Nói đến tiểu công nghệ là nói đến tánh chất gia đình. Chủ xe đã quá năm mươi tuổi, đảm nhiệm công việc “xốp phơ”. Cậu lơ xe người đồng hương với ông, được chỉ huy theo đường lối gia trưởng. Thỉnh thoảng nếu bị ông cằn nhằn, rầy rà oan ức, cậu lơ cau mày rồi bỏ qua, như ngày xưa người cha áp dụng kỷ luật “phu xử tử vong”, “áo mặc không qua khỏi đầu”. Mỗi tối thứ bảy, vào khoảng một giờ trưa, cậu lơ và ông chủ không cần hò hét bắt mối. Đã có có một số thân chủ đến tìm. Đó là những thầy thợ về thăm gia đình. Họ không cần mang khăn gói vì ở nhà họ đã có sẵn bộ đồ mát để thay đổi. Tuần lễ đầu tháng, họ mua đem về từng ký lô xà bông, từng cái áo thun con nít, đôi ba ổ bánh mì. Ai dám bảo là đàn ông không biết đi chợ, không biết tiết kiệm từng đồng từng cắc?
Xe chuyển bánh chầm chậm, khi chạy hết tốc lực thì cũng không lẹ hơn ai. Trên đồng hồ tốc độ, ghi rõ ràng từng cây số đến một trăm cây số nhưng cây kim đã liệt, đong đưa như quả lắc... Ông “xốp phơ” nheo mắt, chú ý vào công việc tiểu công nghệ, cả tay ngọc gót vàng đều làm việc. Thoi nhật nguyệt đây là cái “vô lăng” và máy âm dương là bàn đạp “ga” xăng. Đó là nói theo bài thơ khẩu khí của vua Lê Thánh Tôn. Thi sĩ đời nay có lẽ sẽ ca ngợi thêm. Chiếc xe đò lỡ này là chiếc thoi dệt những mối tơ giao cảm trên nẻo đường đất nước, đưa những giọt máu trở về tim để gạn lọc tìm lại những gì là lành mạnh v.v...
Tốc lực vừa phải của chiếc xe giúp cho du khách có đủ sự trầm tĩnh mà suy nghĩ. Xe chạy quá nhanh chỉ đánh thức sự kiêu hãnh và gây sợ sệt trong lòng người. Ra khỏi bến Chợ Lớn - Cây Mai, không khí thay đổi. Mưa đầu mùa đã nhuộm xanh vào rặng cây ở chân trời. Con trâu cúi đầu ăn cỏ. Đôi bóng người xê dịch trên bờ ven nhỏ, che dù. Ai cũng quen thuộc, nhìn nhau không bỡ ngỡ. Hồi làn sóng văn minh vật chất mới tràn tới, người ta ao ước được ngồi trên xe hơi, dầu là xe đò. Ngày nay khác hẳn, “Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không”. Giá trị của đồng quê đã sáng chói, như viên ngọc quý bấy lâu không được ai lau chùi, nay lại chưng vào tủ kính. Vài người thỏa mãn trong giấc Nam Kha, tay nắm đầy châu báu nhưng khi thức tỉnh, họ cũng không muốn về quê để tạo lập một cơ sở, một phần mộ. Cát bụi trở về cát bụi. Chúng ta muốn làm cát bụi ở thôn quê, vun quén cho lúa cho khoai, mấy ai muốn kiếp sau của mình được làm hột cát bụi đô thành, ngột thở dưới lớp vách xi-măng cốt sắt, giam hãm trong mùi xăng nhớt?
Thôn quê là đây.
Cứ mỗi trưa thứ bẩy, hành khách của chuyến xe lỡ này sống lại những phút “lâng lâng chẳng chút trần ai”. Không cần ánh trăng “chênh chếch bóng chiếu trên rặng tre”. Không cần tiếng hò nhịp, tiếng giã gạo thật đều, thật nhanh của bản dân ca nào nhẹ nhàng xa đưa cả. Đấy là những câu kinh, những tiếng chuông, tiếng mõ dành riêng cho kẻ chưa đắc đạo. Dưới ánh nắng đổ lửa, nhìn những gốc rạ vàng cháy bên đường, khách hồi hương vẫn nghe hơi hướm của bồng lai tiên cảnh đang len lỏi vào tâm hồn.
Ông “xốp phơ” nói:
- Chạy mau làm gì? Kỳ rồi có ông nọ chạy mô tô mở hết tốc lực 120 cây số. Qua “cua”, ông ta thắng lại thình lình để tránh chiếc cam nhông trước mặt. Nếu thắng không ăn thì chết. Đằng này, thắng rất ăn. Vì trớn rút tới bị chặn thình lình, anh ta nhảy nhổm trên xe, cần cổ gật lại, gãy cổ mà chết tốt. Xe vô chủ nhào lăn nằm dưới ruộng, máy vẫn nổ rầm rầm. Xe mình chạy như vầy là vừa. Thế nào tối nay mình cũng gặp vợ con... Mấy thầy đọc nhựt trình không? Tôi có mua một số đây. Đủ hết: tử vi, tiểu thuyết, tin tức.
Một hành khách với tay cầm tờ báo lẩm bẩm đọc rồi chặp sau nói với người trên xe:
- Bữa nay có tin này ngộ quá. Nè... con nít chăn trâu giỡn nhau, đứa làm Ngọc Hoàng, đứa làm ông Địa, đứa làm Thiên Lôi nhè cầm ống quẹt mà đốt, làm phỏng nặng ông Ngọc Hoàng!
Có tiếng hỏi:
- Chuyện ở đâu vậy? Xứ đó chắc xa lắm. Con nít bây giờ ít biết giỡn điệu đó.
- Ở Tân Huề, Châu Đốc.
Người khác nói:
- Quê của vợ tôi đó! “Tân Huề, Tân Quới, Tân Long, ba Tân nhập lại không xong Tân nào”. Câu hát xưa nói về cù lao Tân trên sông Cửu Long. Con nít chơi dại quá. Cha mẹ không ai rầy la?
- Đâu có biết mà rầy la. Không ai dạy tụi nó trò chơi đó. Tụi nó chế ra. Miệt tôi, nghe nói hồi xưa con nít chăn trâu cũng giỡn (rắn mắt) một lần, nhờ vậy mà nổi danh. Móc đất sét tụi nó nắn hình người rồi đặt tên: đây là ông cả, đây là hương chủ, đó là ông hương sư, hương giáo, chánh lục bộ. Rồi hô một tiếng, tụi nó quăng mấy hình nhơn đó xuống sông, lõm bõm. Đất sét thì phải chìm. Trời xui đất khiến, cớ sao có một tượng đất sét nổi lình bình. Đó là tượng ông hương cả. Hay được, dân làng thỉnh tượng đó về thờ, cất đình. Bây giờ còn danh là “đình chăn trâu”. Nước mình xứ nào cũng có chuyện lạ.
Một giọng khác nói:
- Xứ của tôi ở xa lắm, vì mới khai phá nên sung túc. Trước năm kinh tế khủng hoảng 1930, giới điền chủ thiệt là no đủ, “trên ô-tô, dưới thời ca nô”. Đời văn minh, khó mà xảy ra chuyện linh hiển lạ kỳ như ông anh mới nói.
- Vậy thì buồn quá!
- Đâu mà buồn. Cũng có cất đình nhưng đâm đơn về Huế mà không được vua Bảo Đại phong sắc thần gửi vô. Dân chúng mới chế biến ra nhiều ông hiền, ông thánh mà thờ! Tam hiền, nhị thánh.
- Chẳng hay quý danh mấy ông đó là ai?
- Nói ra họ kiện chết. Đó là ba ông chuyên môn cho vay cắt cổ, tính theo bây giờ thì hồi đó họ ăn lời 3.650 phần trăm mỗi năm... tiền lời thì đem xây cất am Di Đà, đình Thần nông... Ba ông cho vay được bà con chế giễu là ba ông hiền.
- Còn nhị thánh?
- Là hai tay gộc, ruộng đất cò bay thẳng cánh. Tay thứ nhất mang tật mù từ thuở bé nhưng đá gà rất tài tình. Ông ta dùng tay mà rờ đầu, cổ, mông, cựa vảy... Đá trăm độ bảo đảm ăn chín mươi chín độ rưỡi. Đó là ông thánh thứ nhứt. Ông thánh thứ nhì là cậu công tử đi học trường “Bôn Đu-me” về. Một tuần cậu lái xe hơi ra chợ để nhảy đầm. Cậu mang tật cà nhót một chân mà nhảy đầm rất tài tình. Tây đầm ngán cậu ta quá xá!
Có tiếng cười khúc khích. Chập sau bầu không khí dịu xuống. Cậu lơ nói:
- Bà con ai còn chuyện gì ngộ nói ra chơi, trước mua vui, sau làm nghĩa nè. Coi chừng xe qua mặt nghe! Bà con cô bác rút cái tay vô, ló cái đầu ra!
Ông “sốp phơ” quát:
- Đừng hỗn mày! Bỏ cái thói đó nghe. Ở đây bà con cô bác ai nhỏ bằng tuổi mày mà mày nói giọng đó?
Một hành khách nói:
- Đứa cháu nó quen miệng nói cầu vui vậy mà. Ông già này khó tính quá ta. Nãy giờ sao ngồi êm rơ vậy?
- Ngồi êm chớ tôi nghe đủ hết.
- Vậy thì ông phải nói một chuyện gì để trả lễ lại chớ.
- Theo kỷ luật “sốp phơ” nghe bà con... thì tôi không được nói chuyện lúc hành nghề và không được ngồi gần gái đẹp. Rủi lãng trí thì hư hao. Nhưng mà bà con châm chế giùm. Bữa nay không có cô gái đẹp nào ngồi gần tôi. Mấy cổ kiếm xe tốt mà đi chớ đâu thèm đi xe này, mất “le” hết. Với lại tôi là sốp phơ lão thành, dẫu nói chuyện chớ luôn luôn nhớ nhiệm vụ. Bây giờ nói chuyện xứ tôi. Không có tam hiền, nhị thánh. Nhưng có ông tổng bảy, ông phó ba với thầy xã hai cắc chín. Từ chợ quận ra chợ tỉnh, hồi xưa chỉ có xe ngựa, mấy người sang trọng hễ đi thì bao trọn một cỗ xe. Mỗi cuốc như vậy, thầy cai tổng cho “buộc bo” bảy cắc, ông phó tổng tiết kiệm hơn, trả giá ba cắc, thầy xã thì trả hai cắc chín xu thôi... Riết rồi thành “tà ríp”, thành danh “tổng bảy, phó ba, thầy xã hai cắc chín”.
- Tại sao thiếu một đồng xu?
- Vì sau ngựa phải qua đò, đò ăn một xu. Thầy xã bắt buộc chủ xe ngựa phải chịu tổn phí đó, nên chủ xe còn hai cắc chín. Bây giờ xin nói qua ông cai tổng. Về già ổng sắm một chiếc xe ngựa riêng cho oai. Năm đó ổng đi Sài Gòn mua được một con ngựa bắc thảo, thứ ngựa cao lớn dình dàng mà nhà binh Tây hồi xưa dùng để kéo súng “cà nông” lớn. Ngựa già, nhà binh dạt nó ra.
Mỗi tuần, con ngựa bắc thảo đó kéo xe, đưa ông cai tổng ra chợ để hầu quan chủ quận Châu Thành.
Năm ấy, dịp lễ 14 Juillet, tục gọi là lễ Chánh Chung, ông cai tổng đánh xe ra chợ tham dự. Kèn nhà binh thổi tò te tí te, cờ tam sắc đi tiên phuông, theo sau là binh sĩ nai nịt chỉnh tề đều bước. Con ngựa bắc thảo bỗng nhảy nhổm, trố mắt. Ông cai ghì cương lại. Ngựa vẫn lồng lộn, hí vang rền. Giật mình, ông nhảy xuống.
Đoàn quân nhạc tiến lại, càng gần, kèn tò tí te như thổi trong tai. Con ngựa bắc thảo vụt hí lớn... phóng mình, dây cương vuột khỏi tay ông cai tổng.
Rồi đúng theo tinh thần kỷ luật, nó đến sắp hàng sau toán lính, đi biểu diễn. Ông cai tổng la hoảng, lính mã tà can thiệp đuổi con ngựa ra khỏi hàng ngũ. Nó đành thối lui, hầm hừ. Binh sĩ biểu diễn kéo qua, đi xa, vào thành.
Nhưng thừa lúc ông cai tổng sơ ý, nó vụt chạy lần nữa, chạy tuốt vào thành. Phải vất vả lắm mới đuổi nó ra ngoài được.
Rồi ông “sốp phơ” kết luận:
- Lời tục ví “ngựa quen đường cũ” là như vậy đó. Chiếc xe hơi này không khác gì con ngựa “xích thố” chở ông Quan Công theo đường cũ, ngày hai chuyến đi hai chuyến về như vầy hoài. Tôi thì như người nông phu đi dạo giữa hai bên đồng ruộng. Mùa cày, mùa cấy, mùa gặt, lúc mặt trời mọc thả trâu ra ruộng, khi chạng vạng nhắc nhen kêu... thảy thảy đều có mặt tôi.
Cậu lơ cười:
- Bây giờ thì ông thúc nó về đường cũ cho lẹ lẹ một chút. Mau lên con ngựa xích thố!
Ông “sốp phơ” nói buồn buồn:
- Con ngựa này già quá rồi. Vài năm nữa cho nó vô nhị tì xe hơi của Chệt ve chai ở đường Cây Mai. Còn tôi thì về vườn, xuống lỗ...
Nhưng khách bộ hành sẽ về đâu? Họ cúi đầu xuống, nghĩ đến cái lúc mà xác chiếc xe CU này hóa ra con quỷ vô thường. Từng bộ phận của nó sẽ trở thành những mảnh sắt vụn, những cây đục, con dao yếm, như khi con trâu chết thì phân thây ra làm con cờ, lược chải đầu, mặt trống. Sanh kế sẽ đưa họ về đâu? Họ còn được về quê mỗi tuần một lần, đúng ngày thứ bảy? Hay là họ sẽ phát tài, dời cả gia đình lên thành đô để ngày đêm đầm ấm trong cửa rộng nhà cao? Hoặc là một trường hợp não lòng sẽ xảy ra. Họ mất sở làm, không có tiền để về quê nữa, phó mặc việc sinh sống của vợ con cho vợ con đảm nhận. Rồi họ lê gót khắp đô thành từ Bàn Cờ, Phú Nhuận, Hòa Hưng, Tân Sơn Nhất, ăn gởi nằm nhờ, nhìn lá me rụng bên vệ đường, nhìn bóng mát cây trứng cá nhà ai rồi hững hờ dang tay hái trộm thử một trái để tự an ủi.
Hai cõi U Minh
Nơi giáp giới làng Đông Thái và làng Vĩnh Hòa ở U Minh, có người còn gìn giữ một di tích lạ lùng: một manh áo đen bạc màu, cất giấu cẩn thận trong cái hộp bằng cây.
Nắp hộp ít khi mở ra cho ai xem vì chủ nhân cho rằng làm vậy thì xúc phạm tới vong hồn người từng mặc chiếc áo đó. Có từ trăm năm về trước.
Nhân lúc cao hứng, chúng tôi xem qua manh áo nọ rồi thò tay rờ thử. Chủ nhân vội vã gạt tay chúng tôi ra đậy nắp hộp lại và nói:
- Đừng xúc phạm. Nó quý hơn ngọc ngà châu báu, nó linh thiêng hơn cái sắc thần ở đình làng.
Chúng tôi ngơ ngác, cho rằng chủ nhân muốn thổi phồng sự quan trọng của manh áo. Chủ nhân giải thích:
- Nhờ mồ hôi của manh áo này, nhờ tên của người mặc áo này mà từ trăm năm qua, người mình mới dám cất nhà dựng chòi ở chỗ này.
Rồi chủ nhân kể lại câu chuyện nghe qua thì hơi ly kỳ, nhưng gẫm lại cũng thông thường, có thể xảy ra.

Ngày ấy, dân số làng Đông Thái lại tăng một người. Vùng đất hoang mới khai khẩn, dân số tăng thêm không có nghĩa là thêm đứa con nít mới chào đời. Người dân mới đến ấy non bốn mươi, hồi hai tháng trước đã theo cụ Nguyễn Trung Trực phá đồn Kiên Giang mà giặc Pháp vừa chiếm đóng.
Vài người đến làm quen:
- Ông là... ông Cai Thoại.
Ông Cai Thoại đáp:
- Tôi không còn cơ hội đánh giặc nữa. Tôi muốn ẩn sĩ quy điền.
Nhưng điền đất ở mé biển, ven bờ U Minh bây giờ thuộc quyền sở hữu của ông Tổng Bá. Và ông Tổng nghiễm nhiên là người chủ điền duy nhất.
Ông Cai Thoại cưới vợ, cất chòi giữa ranh đất của Tổng Bá và khu rừng vô chủ gọi là U Minh. Trong đêm tân hôn, người vợ cằn nhằn khuyên nhủ:
- Mình nên chí thú làm ăn, đừng gây gổ với Tổng Bá. Ổng giết người như giỡn, nghe đâu ổng ra chợ Rạch Giá để nhận chức Cai Tổng với người Lang Sa. Thời đằng cựu làm Cai Tổng, qua tân trào ổng muốn giữ chức cũ. Ổng đáp:
- Nếu tôi gây gổ vì lẽ phải thì em nỡ lòng nào cắt đứt tình nghĩa. Tánh tôi ít chịu thua ai.
- Tổng Bá trả thù thì cả xóm mang họa lây.
Ông gật đầu:
- Dám tới đây tức là tôi lo liệu trước rồi. Gây gổ với Tổng Bá làm gì! Ông ta là tên chúa ngục ở địa ngục trần gian.
Bà vợ mừng vô kể, đưa ra điều kiện:
- Nếu mình gây sự mình tính sao với em?
- Tôi nằm xuống cho mình đánh mười roi. Mình vững bụng đi, nhà cất ở ranh đất, sát bên rừng. Nếu xảy ra điều gì, mình còn chỗ nương thân...
Bà vợ lại sợ sệt:
- Mình rút lui vô rừng, phía U Minh Thượng hả? Trời ơi! Cọp nhiều lắm, vô đó là chết.
Ông nói giọng bí mật:
- Tiến vô chứ đâu phải chạy lui. Người nhút nhát như mình ưa nói bậy quá. Thà ở với cọp còn hơn ở với Tổng Bá.
Hôm sau ông Cai xách dao ra sân, đốn cây trúc khá to đem vào khoe với vợ:
- Đây này, sẵn có cây roi để dành đánh tôi.
Bà vợ cau mày, hiểu chồng mình là kẻ quân tử nhứt ngôn, chẳng bao giờ nói láo với vợ dầu là trong phòng riêng, lúc ban đêm chẳng có ai làm chứng.
Ông Cai nói:
- Mình buồn hả?
- Buồn thì cũng buồn, ngặt nói ra khó quá. Em sợ mình ưa dạo chơi phía U Minh rồi gặp tai nạn bất ngờ.
- Vậy thì mỗi lần tôi dạo U Minh, mình cứ đánh tôi mười roi. Đàn bà phải có chút ít quyền hạn đối với chồng.
Bỗng nhiên từ phía rạch thứ Sáu, một tiếng nổ ầm khiến chim cò bay như vỡ tổ. Đó là pháo tre của Tổng Bá đốt làm hiệu lệnh. Đôi ba tháng một lần, ông ta ra chợ Rạch Giá để “hầu” quan chủ tỉnh người Pháp. Từ nhà ông ta ra vàm biển, con rạch chảy cong quẹo, phơi bãi bùn khi nước ròng. Những lúc ấy, Tổng Bá đốt pháo huy động dân chúng trong điền tới kéo ghe.
Ông Cai Thoại nói:
- Tôi ra xóm vàm xem vụ gì.
Bà vợ lắc đầu:
- Mình cứ ở nhà. Tổng Bá bắt dân kéo ghe. Nếu mấy chú lính tới mình chạy ra sau rừng mà trốn.
- Người anh hùng vai u thịt bắp như tôi mà trốn à! Nếu vắng mặt tôi thì mấy người khác lại phải mệt sức. Tôi muốn tiếp với họ.
Nói xong ông Cai chạy một mạch ra xóm vàm. Tiếng pháo tre thứ nhì nổi lên. Bà vợ nhăn nhó mặt mày, đứng không yên, tưởng đến cuộc đấu khẩu và cuộc đâm chém sắp xảy ra. Chồng bà tuy hiền, nhưng đôi khi rất hung dữ, xem cái chết bằng chơi.
Đến xế trưa, ông Cai trở về với năm sáu người bạn trai. Bà mừng vì chồng mình còn sống. Bà lại lo âu vì bọn người ấy từng nổi danh làm nghề đốn củi, ăn ong rồi họ bỏ nghề, năn nỉ cất nhà trong điền của Tổng Bá vì cọp U Minh đã xuất hiện vài lần, giết người tha luôn xác. Phải chăng ông Cai Thoại rủ rê bọn họ trở lên rừng đốn củi ăn ong như dạo trước. Nếu đụng tới cọp, ông sẵn sàng trừng trị.
Ông Cai nói:
- Mình nấu cơm cho anh em ăn. Nấu thiệt nhiều để ăn no còn gói theo.
Ăn xong, ông từ giã vợ, lên đường với bạn. Bà vợ chạy theo, rơm rớm nước mắt. Ông Cai trở vô nhà nằm sấp xuống đất rồi thét:
- Tôi thất hứa. Mình cứ đánh mười roi về tội tôi rút lui lên U Minh, ủa, tôi tiến vô U Minh!
Cực chẳng đã, bà cầm ngọn roi đánh vào mông ông Cai mười roi, tượng trưng.
U Minh là khu vực không biên giới rõ rệt, chẳng hiểu Đông, Tây, Nam, Bắc giáp với làng nào, xóm nào. Nơi khai thác xong thì mang danh xóm Giáp, xóm Ất. Đào kinh thì gọi kinh 4 thước (bốn thước bề ngang) hoặc kinh Chú Kỵ, kinh Bà Sửu, Bà Bình gì đó. U Minh còn có nghĩa là nơi tối tăm, ban ngày ánh nắng bị tán cây che khuất, vừa quá xế chiều sương mù buông xuống chẳng thấy đâu là đâu. U Minh là tên một cửa ngục ghê rợn trong Thập Điện do Diêm Vương cai quản. Xưa kia. U Minh bao gồm tận bờ biển vịnh Xiêm La, lần hồi địa danh ấy thu hẹp lại, nhờ sự khai thác cần mẫn của dân tứ xứ.
Ông Cai muốn thu hẹp địa danh U Minh, bắt đầu từ khu rừng phía nhà ông, ranh đất của Tổng Bá.
Mấy người đốn củi, ăn ong đưa ông Cai đến một giồng đất cao ráo. Họ dừng lại và nói:
- Ổng thường tới rình mồi, đàng kia kìa!
Ông Cai dựa lưng vào gốc cây tràm.
- Tôi ngủ dưỡng sức. Hễ thấy, anh em kêu tôi. Cọp đói đánh hơi giỏi lắm.
Chập sau đoàn người nắm tay ông Cai, giật mạnh:
- Ổng kìa!
Ông Cai ngồi dậy, quan sát rồi bảo:
- Để một mình tôi ra nói chuyện. Ổng đứng một mình, bọn mình thì quá đông. Lắm khi vì ổng quá sợ nên ổng làm liều. Đừng làm cho ổng sợ.
Ông Cai đến gần cọp. Cọp đến gần ông rồi cọp cúi đầu. Ông Cai đấm mạnh vào cần cổ nó. Nó há miệng ra. Ông đưa tay vào miệng nó. Nó rống lên chạy mất. Ai nấy xám mặt sợ giùm cho tính mạng ông Cai.
Chừng ông trở lại, họ quỳ xuống lạy. Ông giải thích:
- “Cha nội” tham ăn, mắc xương ở cuống họng. Tôi rút cục xương ra. “Cha nội” mừng quá nên chạy mất. Thôi, anh em mình về. Bữa nay đủ rồi. Mai mốt mình mang theo dao búa để phá rừng.
Đêm ấy bà vợ khóc nức nở, khuyên chồng đừng quen thói dại dột. Ông Cai nói:
- Ai dại dột, ai khôn thì trời đất biết. Người đời chẳng nên ham tiếng khôn hoặc tránh tiếng dại. Mấy người bạn của tôi làm nghề ăn ong, đốn củi, siêng năng lắm.
Bà Cai ngắt lời:
- Họ gặp cọp nên bỏ nghề.
- Mình nghe nói họ bỏ nghề, xin ở trong điền của Tổng Bá. Tổng Bá bắt họ làm đủ thứ công chuyện, làm thí công. Hồi hôm qua, họ xây lưng đẩy chiếc ghe biển. Tổng Bá ngồi trong ghe, vừa uống rượu vừa chê trách họ lười biếng. Họ cố sức đẩy, nước cạn, ghe quá nặng. Biết sao bây giờ, Tổng Bá sai lính quất roi cá đuối lên lưng, lên đầu họ. Hôm qua, họ tới đây ăn cơm, mình mẩy rướm máu. Họ bận áo để che vết thương. Mình đâu có thấy chuyện đau đớn đó. Bởi vậy tôi lên U Minh một lần nữa.
Đúng hẹn ông Cai và đoàn người chuẩn bị lên đường. Ông rút cây roi, đưa cho bà vợ:
- Mình đánh tôi mười roi nữa đi.
Bà vợ chắp tay xá chồng:
- Em lạy mình.
Ông Cai gắt giọng:
- Ai biểu mình lạy. Nếu mình không đánh, phen này tôi đi tuốt, không trở về.
Mười roi tượng trưng đã đánh xuống. Ông Cai chạy nhanh cho kịp đoàn người. Họ không muốn chứng kiến cái cảnh vừa tức cười vừa cảm động ấy. Lần này họ dạn dĩ hơn, mang theo gạo muối và nóp để ngủ trong rừng. Đến nơi, họ đốn cây, đào ao, chặt lá mật cật phơi khô để lợp nhà, cọp rống từng chập, như gần lắm. Ông Cai đi hồi lâu rồi trở lại:
- Ngưng tất cả công việc. Ai biết săn heo rừng, săn khỉ? Kiếm mồi về cho tôi!
Ăn cơm xong, ông trình bày: con cọp hôm trước trở lại vì vết thương khá nặng ở bắp đùi, dòi bu lúc nhúc khoét thịt. Cọp mang tật “cà nhắc” chẳng còn đủ sức rượt bắt mồi. Hễ đói quá, cọp phải ăn thịt người. Con người chạy chậm, dễ rượt theo, ở chỗ rậm rạp; heo rừng và nai thì nhanh chân hơn.
Buổi chiều, nhờ con heo rừng mà ông Cai đến gần cọp, ban bố thức ăn cho nó. Đâu đó xong xuôi, ông khuyên ai nấy ngủ dưỡng sức. Ông thức bên bếp lửa: khi trời gần sáng cọp mất dạng.
Hai ngày sau, bốn căn chòi đã dựng xong. Đoàn người rủ nhau về xóm kiếm thêm gạo. Dọc đường ông Cai nói khôi hài:
- Mai mốt anh em mình trở lên U Minh. Nhớ đem theo vài con chó săn, vài lít rượu, một giạ lúa giống. Cứ lên trước. Tôi ở nhà hú hí với má bầy trẻ, chịu thêm chục roi rồi tới sau. Chẳng lẽ anh em lại sợ... cứt cọp!
Lúa vãi xuống, mọc nhanh vì lòng đất U Minh ẩm ướt. Tuy nhiên, vài hôm mộng lúa bị cắn ngang vì chim chóc kéo tới quá nhiều. Ông Cai khuyên đốn cây to, xóc thành hàng rào xung quanh nhà. Công việc đang tiến hành, chợt có người la hoảng:
- Ông Cai ơi! Ổng kìa!
Ông Cai chạy tới, khuất dạng. Rồi trở về với gương mặt lo âu:
- Rừng này hết nai, hết khỉ. Bởi vậy cọp đói chịu không nổi. Ráng kiếm một con heo rừng cho tôi! Cọp sợ heo rừng. Cọp to lớn nhưng quá dở. Chắc hôm trước ổng mang bịnh, khi đụng độ với con heo rừng có nanh bén.
Ông Cai lựa một cái đùi heo rừng khá to, buộc vào sợi dây mây rồi đốn một cây tre rừng. Mọi người ngơ ngác đặt ra giả thuyết.
- Thưa ông! Cọp nhai nát cây tre đó. Tre yếu quá, làm sao đủ giựt sức ông cọp cho hỏng chân. Sợi dây mây lại bở hơn.
Ông lắc đầu:
- Anh em mình đừng tính chuyện thất đức. Đâu phải tôi làm cần bẫy. Vui lắm, lát nữa tôi rủ một anh đi theo. Một anh thôi. Đi nhiều quá cọp sợ. Ông ta sợ vì ông ta chỉ có một mình. Vậy mà hồi nào anh em nói cọp U Minh sống từng bầy! Dóc quá. Cọp ở ngoài Khánh Hòa mới đông. Rừng U Minh này còn một con cọp lạc bầy này mà thôi. Nó hung dữ vì bị bịnh, vì đói. Ai dám theo tôi.
- Tôi! Tôi!
Đến gốc cây tràm, ông ra lệnh cho anh chàng cảm tử nọ:
- Đứng im, đừng chạy bất tử cọp khinh dễ. Rủi bề gì thì trèo lên ngọn cây. Nhớ cầm cây cần câu này trong tay. Cầm thật chắc, đừng sợ, run tay.
Ông Cai đi khuất dạng trong rặng cây thưa thớt rồi trở ra với con cọp theo sau. Ông nói to:
- Làm như người câu cá. Cái đùi heo là miếng mồi.
Anh chàng cảm tử nói giọng cà lăm:
- Thà chết còn sướng hơn. Rủi ổng tưởng tôi là con mồi thì làm sao?
Ông Cai nín cười không được:
- Thịt của chú em chưa chắc ngon hơn thịt heo rừng. Đừng cãi nữa, ổng tới rồi. Phải đứng im, đừng giựt khi ông táp mồi. Đứng im cho tôi.
Anh nọ day mặt, chẳng dám nhìn đối diện con cọp già nua. Cọp bước cà nhắc, lông rụng khá nhiều, trông thiểu não như ông tướng trong tuồng hát bội mặc áo giáp lủng lỗ. Cọp táp đùi heo rồi chạy, sợi dây mây đứt luôn.
- Mình về chòi mình ở, bộ chú em muốn câu hoài sao chớ?
Ngày lại ngày, theo lịnh ông Cai, tất cả mọi người khai hoang lần lượt đóng vai anh thợ câu... cọp. Ông Cai đứng xa cổ võ cho ai nấy đừng sợ. Giếng đã đào xong. Mấy vồng khoai phủ xanh mướt, đọt non khoe tươi dưới bầu trời sáng sủa. Ông Cai dạo suốt ngày trong rừng, tìm hướng ngọn rạch Thầy Quơn và ngọn rạch Lốc Hỏa với ước mơ sẽ đào con kinh ăn thông ra sông Cái Lớn.
Xóm nhỏ đã thành hình. Ông Cai về thăm nhà. Bà vợ khuyên đừng phiêu lưu nữa, ông đáp:
- Tổng Bá giận tôi lắm. Nó nói xấu, đòi bắt tôi về tội lôi kéo tá điền lên rừng. Ở đây lâu ngày, xảy ra chuyện đổ máu. Chi bằng vợ chồng mình lên U Minh cất chòi cho gần gũi anh em.
Bà vợ tuân lời.
Nhưng, ông cọp thỉnh thoảng lại đến đòi ăn. Vấn đề thật nan giải. Chẳng lẽ cả bọn thay phiên nhau săn heo rừng để cúng cho cọp. Vài người đưa ý kiến:
- Xin ông trổ tài, giết hoặc đuổi ổng qua xứ khác.
Ông đáp:
- Anh em chưa trở thành điền chủ mà đã lười biếng, sanh tệ. Nếu giết con này, biết đâu còn con nữa, ở trong rừng sâu chạy tới. Đuổi nó đi, tức là gieo tai họa cho người lân cận. Rủi mai chiều, tôi mắc dịch, mắc gió chết thì chẳng lẽ anh em bỏ xóm?
- Ông nói chí lý. Chúng tôi sợ lần hồi cọp về xóm để ăn heo nhà, trâu nhà.
Vài ngày sau ông Cai nài nỉ:
- Ráng săn con heo rừng hay con nai giùm cho tôi, lần chót.
Ông Cai nhặt cái đùi heo, trao cho anh chàng cảm tử hôm trước:
- Đi theo tôi.
Ra khỏi xóm chừng mười công đất, ông bảo anh ta đứng một chỗ. Ông chạy vào rừng sâu, khi trở về có con cọp già lẽo đẽo phía sau.
Anh nọ xám mặt:
- Trời ơi! Làm sao tôi đốn tre, bứt mây làm cần câu cho kịp?
Ông nghiêm mặt:
- Trận này mới biết thắng bại. Chú mày đứng yên một chỗ. Có tôi đây. Nhưng mà chú mày cứ coi như là tôi vắng mặt.
Cọp tới trước mặt anh nọ. Anh ta luýnh quýnh, đem cái đùi heo rừng mà giấu sau mông.
Ông Cai nói:
- Được rồi! Đứng im! Hễ chạy là cọp ăn thịt anh liền. Mọi khi, tôi kêu bằng “chú em”, hôm nay tôi kêu bằng anh. Anh chạy trốn thì mọi người chạy theo, về xóm của Tổng Bá để ăn mày.
Cọp dừng bước, lè lưỡi, cúi đầu, rồi từ phía sau lưng anh nọ, nó bước chậm rãi từng bước.
Ông Cai nói từng chặp:
- Anh coi chừng, nó lại gần rồi. Đừng day mặt, nó khinh dễ. Nó tới sát đó. Nó muốn ăn cái đùi heo rừng. Hễ nó táp là buông tay ra.
Cọp táp đùi heo, quay mặt, chạy tuốt. Ông Cai trố mắt. Anh nọ như chết đứng tại chỗ.
Ông cười to:
- Đã là anh hùng thì phải tỉnh táo về nhà nhậu cho vui chớ. Đứng đó một mình, ổng trở lại. Cám ơn anh. Xong xuôi rồi. Gửi lời thăm bà con trong xóm. Tôi đi đây.
Anh nọ như tỉnh giấc chiêm bao:
- Ông Cai đi đâu?
Ông Cai đã khuất dạng.
Và từ đó về sau, chẳng ai gặp ông nữa.
Dân chúng xóm biển lần hồi bỏ Tổng Bá, lên U Minh Thượng lập nghiệp. Xóm biển trở nên vắng vẻ, nhiều người ra tận hải đảo như Hòn Tre, hòn Sơn Rái, theo nghiệp chài lưới. Mỗi lần ra chợ hầu quan chủ tỉnh Lang Sa, Tổng Bá không còn đốt pháo làm hiệu lịnh nữa: đốt vô ích, chỉ lơ thơ vài người chạy tới. Tổng Bá mướn thợ về xây nhà, làm hàng rào kiên cố mặc dầu tiền bạc ông ta chẳng còn bao nhiêu. Ông ta hút á phiện để giải sầu, đêm đêm thức từng chập khi nghe chuột chạy, dế kêu. Sợ ăn cướp, sợ ma.
Vùng đất hoang ở U Minh Thượng đã nở rộ câu hò tiếng hát. Bà Cai chẳng hiểu chồng mình dạo chơi phương nào. Bà muốn lập bàn thờ, nhưng dân chúng ngăn cản vì chưa có bằng cớ gì chứng to ông Cai đã chết. Đôi khi cọp về viếng xóm, có người đến nhà bà Cai để cầu cứu. Bà nói:
- Nhà tôi để lại cái áo rách đây! Anh em mặc thử xem. Có lẽ cọp còn nhớ mùi mồ hôi quen thuộc của ổng.
Họ mặc áo của ông Cai, quát to cố ý cho cọp nghe. “Đi ra xa! Thử hửi mồ hôi thì biết ta là ai!”. Thế là cọp rút lui. Lần hồi, chiếc tàn y nọ rách nát. Người đi rừng bèn xưng danh hiệu, vắn tắt:
- Tao là Cai Thoại đây!
Mười lần như một, cọp đều chạy trốn.
Vài chục năm sau, tin rằng ông Cai đã chết, mấy ông kỳ lão trong xóm bàn bạc, muốn hùn tiền cất ngôi miếu nhỏ thờ ông. Nhưng vừa hùn tiền xong lại nghe tin ông Cai Thoại còn sống nhăn. Bằng cớ là đêm đêm, người đi bắt trăn giữa rừng đã gặp ông thấp thoáng bên đống lửa, trong sương mù, kế bên có con cọp bạch quỳ xuống chầu chực. Lời đồn đại còn kèm thêm chi tiết: Ông Cai ngồi, uống rượu, thỉnh thoảng vỗ vai cọp, nói tiếng gì, không ai nghe được, nhưng cọp gật đầu.
Kéo trúm
Năm ấy tôi là một công tử vườn ở làng Đông Bình, vùng khỉ ho cò gáy, chưa khai hoang. Mỗi năm, có đến tám tháng nước mặn tràn vào rạch. Khi nước bắt đầu ngọt thì sanh ra một thứ tai nạn: muỗi bay từng bầy suốt ngày, dẫu là lúc trưa nắng.
Đáng lý ra, với chút ít chữ nghĩa, tôi đã rời xóm làng, ra chợ Rạch Giá tìm sở làm cho ra vẻ thầy thông thầy ký. Nhưng tôi vẫn cương quyết bám lấy quê cha đất tổ! Thái độ hiên ngang ấy không phải là lòng yêu nước. Chẳng qua là tánh ham chơi, muốn làm ít, hoặc không cần làm mà vẫn có ăn, ăn ngon.
Suốt ngày suốt tháng, tôi dạo la cà từ xóm này qua xóm kia, hết ăn là nói. Nói cho bà con trong xóm nghe đại khái nhưng mẩu chuyện Tam Quốc, Tiếu Lâm, Ba Người Lính Ngự Lâm Pháo Thủ. Lẽ dĩ nhiên tôi đã thu hút cảm tình của thính giả. Dầu tôi nói sai, thì chẳng ai cãi lại vì có ai biết chữ đâu mà đọc sách.
Thế mà có kẻ dám khuấy rối cuộc sống yên lành của tôi. Kẻ đáng xử tử ấy chính là ông Phô Nô. Tôi biết ông ta trong một trường hợp bất ngờ. Ông ta gửi một bức thư khá thân mật mời tôi đến tư thất để bàn về một vấn đề... sẽ cho biết sau.
Tư thất của ông Phô Nô là cái đồn kiểm lâm cách xa làng Đông Bình chừng mười cây số. Ông Phô Nô hơi già, ở trần khi chào tôi. Tôi hơi giận và bắt đầu khinh ông ta: trên ngực ông ta có xâm hình quá tục tĩu, lốm đốm vài miếng lác ướt. Tôi sực nhớ đến nét chữ trong bức thư của ông ta: Tệ quá! Viết trật văn phạm, khó đọc, “con cua con còng” như tuồng chữ trẻ con lớp đồng ấu! Tôi nghĩ thầm:
- Chắc hồi ở bên “mẫu quốc” ông ta làm củi, ban bù... Sau vài phút ăn nói xã giao, tôi được nghe ông Phô Nô trình bày tiểu sử và thành tích chiến đấu. Hồi Âu Châu đại chiến 1914-1918, ông ta làm lính giữ súng đại bác 75 ly, rủi bị thương nhẹ nên ông tra trở thành “ân nhân của tổ quốc” được ưu tiên qua thuộc địa, lãnh chức kiểm lâm.
Ông ta gật gù:
- Ở đây sướng quá. Làm ít công việc mà ăn lương hơi nhiều.
Tôi hơi bực dọc, nói mơ màng:
- Đó là tình trạng chung. Xứ tôi, mọi người đều làm ít nhưng cũng ăn no đủ mặc dầu thiếu chất bổ.
Ông Phô Nô mỉm cười bí mật, mời tôi ở lại ăn cơm Tây: ngon quá, món nào cũng lạ miệng. Nhứt là đồ gia vị nào hột cải, dầu ô liu, dấm tây trộn cải xa lách. Vừa ăn ông ta vừa hỏi đến sự sanh hoạt của nông dân. Tôi trả lời:
- Nói chung, ai nấy đều sung sướng.
Ông Phô Nô trố mắt:
- Thiệt vậy à? Họ chưa ăn bít-tết, ra-gu.
- Thưa ông, dân ở vùng nước mặn đồng chua có bốn thức ăn sang trọng. Đó là lươn, ếch, rùa, rắn! Cá, tôm, thịt bò, thịt heo là món hơi nhàm.
Ông Phô Nô gật đầu:
- Mấy thứ đó ở đây sản xuất khá nhiều. Hổm rày, tôi muốn tìm cách bắt buộc dân chúng đóng thuế.
Nghe qua, tôi cố gắng nín cười. Phải chăng ông Phô Nô liệt các loại lươn, rùa, ếch, rắn vào hàng thú rừng như cọp, heo, nai, voi.
Ông ta giải thích:
- Theo pháp luật, họ phải đóng thuế.
Tôi đưa ý kiến:
- Khi nào họ bán ra chợ Rạch Giá hoặc bán lên Sài Gòn thì sẽ đóng thuế. Theo chỗ tôi hiểu thì nhà nước thuộc địa đã thâu thuế môn bài nhà vựa cá...
- Bên Pháp, vào rừng săn bắn là phải đóng thuế. Huống gì mỗi năm, ở làng nhiều người làm giàu nhờ lươn. Đây là bằng cớ: Tại làng Đông Bình, có tên... Năm Lươn cưới hai con vợ, nhờ nghề bắt lươn. Anh ta giàu lắm, mỗi tuần ra chợ Rạch Giá bán gần 200 ký lô lươn sống. Tên thật anh ta là Trần văn Lượm, vì bắt lươn quá giỏi nên dân chúng tặng biệt hiệu là Năm Lươn!
Cái tên Năm Lươn này như quen tai, nếu không lầm thì dường như tôi đã từng nhậu với anh đôi ba lần tại nhà người bạn quen nào đó. Anh ta ở giữa đồng không mông quạnh, bạn bè ít tới lui vì đường sá khó khăn. Hễ đi bộ thì thiếu đường mòn, cỏ mọc cao nghệu đầy cánh đồng, còn đi xuồng thì nước ngập lé đé khỏi mặt đất chừng ba tấc.
Ông Phô Nô nói tiếp:
- Tôi nhờ anh điều tra tên Năm Lươn. Tại sao hắn sản xuất quá nhiều lươn như vậy. Hai trăm ký lô mỗi tuần, mỗi ký lô ba con, tức là sáu trăm con lươn.
Nghe đến công tác mà ông ta giao phó, tôi hơi phiền. Mặc dầu việc điều tra ấy có vẻ lịch sự không gây sự hiểu lầm nhưng tôi không muốn. Trót ăn bữa cơm Tây của ông Phô Nô rồi. Tôi hứa qua loa.
Trước khi chia tay, ông Phô Nô rỉ vào tai tôi:
- Năm Lươn là đứa bí mật, làm nghề thầy bùa. Coi chừng nó. Cực chẳng đã, tôi nhờ tới anh. Hồi tháng trước, hai người lính kiểm lâm tới làng Đông Bình theo dõi nhưng Năm Lươn không chịu xuất hiện. Ban ngày, nó nằm nhà. Thỉnh thoảng, nó tới mấy cái thềm đìa, gò mả mà nằm ngủ hoặc ăn cơm một mình.
* * * * *
Tên tuổi Năm Lươn, ai cũng biết. Và ai cũng nhìn nhận anh ta đặt trúm rất giỏi, dùng thuốc men bí mật hoặc bùa phép.
Xin nói đôi hàng về con lươn. Hình dáng ra sao, thịt nó ăn ngon như thế nào, ai cũng hiểu. Muốn bắt, ta đặt trúm. “Trúm” tức là cái ống tre, dài hơn một thước tây, giống như khẩu súng ba-dô-ca, một đầu thì sẵn có cái mắt tre (đốt tre), đầu kia có gài một cái hom, giống như cái quặng (cái phễu). Lươn chui vào thì dễ nhưng trở ra thì khó. Muốn cho lươn chui vào phải có mồi nhử bên trong.
Mỗi người làm nghề bắt lươn sắm chừng một trăm ống trúm, đặt rải rác trên đồng cỏ mênh mông. Con lươn làm hang dưới đất, thở bằng mũi và mang. Khi đánh mùi ngon ngọt, lươn ra khỏi hang, tìm cách chui vào ống trúm để xơi mồi. Muốn đặt rải rác hàng trăm cái ống trúm, trên đồng cỏ dày bịt, mênh mông, phải sắm một chiếc xuồng, chở hàng trăm ống trúm. Rồi kéo chiếc xuồng lướt trên cỏ, cứ vài chục thước là đặt xuống một ống, tùy ý thích. Công việc nặng nhọc nhất là kéo chiếc xuồng khá nặng ấy, quanh co hàng ngàn thước. Và hôm sau, trở ra đồng cỏ, đem ống trúm về, không bỏ sót.
Do đó người bắt lươn được gọi là người “kéo trúm”. Gặp Năm Lươn là chuyện dễ. Anh ta tôi đã từng nghe biết!
- Ủa, cậu Ba! Bữa nay lên xứ này chơi hả?
Tôi đáp:
- Cậu Ba, cậu Tư gì! Kêu tôi bằng em cháu, bằng thằng cũng được. Tôi nhỏ tuổi hơn anh Năm nhiều. Đêm rồi kéo trúm khá không?
- Chừng năm chục kí lô. Mệt thấy mẹ...
- Một mình anh làm ra tiền bằng hai người khác. Mệt mà có tiền, anh còn đòi chuyện gì bây giờ.
Năm Lươn cau mày, rủ tôi tới chòi uống rượu chơi. Anh ta chỉ về phía xa xa, giữa cánh đồng hoang.
- Nhà tôi ở bờ đìa. Nhưng mà ra cái chòi này, vui hơn.
Rồi anh ta day mặt, nhìn về phía mé rừng tràm. Dọc đường, tôi hỏi:

- Chòi nào nữa? Nghe đồn anh Năm có tới hai vợ. Đằng kia là nhà của “bà lớn”, phía rừng tràm là nhà của “bà nhỏ” hả?
- Bà nhỏ ở xóm đình. Chòi này dành riêng tôi ở một mình cho khỏe thân.
Bấy giờ, vào khoảng tháng Năm. Mưa khá nhiều nhưng đồng cỏ chưa nổi nước. Từng bầy cúm núm bay bổng khi chúng tôi đến sát bên ổ. Lát sau, chúng tôi vào căn chòi. Hàng trăm cái ống trúm chất đống, theo trật tự, giống như những gốc củi xếp đặt sẵn từng thước khối, chờ giao cho thân chủ.
Chòi không vách, tấm lá chằm ngăn đôi. Phía trước là bộ ván ăn cơm, phía sau là giường ngủ.
Lời ông Phô Nô vang dội trong tâm trí tôi. Năm Lươn là người bí mật, biết bùa phép. Gẫm ra, tên do thám nào đó báo cáo cũng có lý. Xung quanh chòi, cây mua, cây lức mọc um tùm. Kế bên chòi, một cái đìa khá sâu, nước trong leo lẻo phản chiếu ánh nắng trưa. Thềm đìa quá rậm rạp. Rau muống bò lan tràn. Chuột chạy tới lui như đùa giỡn với mấy con rắn nước đang há mỏ.
Năm Lươn mở đầu câu chuyện:
- Không mấy khi, cậu lên chòi này chơi. Chắc là cậu muốn nói chuyện gì bí mật.
Tôi nhớ đến sứ mạng mà ông Phô Nô giao phó. Phải giữ kín mới được.
- Có gì mà bí mật. Tôi là dân nhậu mà, anh Năm.
Năm Lươn cười nheo mắt, hóm hỉnh:
- Khổ lắm. Vợ tôi cũng chẳng muốn tiếp rước bạn bè. Bà lớn bà nhỏ gì cũng vậy. Hai bả cho rằng tại tôi ăn nhậu mà tốn kém tiền bạc rồi sanh sứa, gây thiệt hại cho gia đình. Làm ra bao nhiêu tiền, giao mấy bả giữ, rốt cuộc tôi còn hai bàn tay không. Muốn mua thêm vài lít rượu uống nhưng khổ quá, làm sao có tiền? Tôi mua chịu ghi sổ ở tiệm Chệt.
Tôi đi ngay vào vấn đề:
- Anh siêng là một việc nhưng nhiều người siêng như anh mà tại sao họ thâu huê lợi ít hơn? Nghe đâu anh kéo trúm bá phát bá trúng, mỗi ống đều có một hoặc hai con lươn chun vô nạp mạng...
- Ừ! Chuyện đó không chối cãi. Nhưng tôi chẳng muốn dạy nghề cho ai biết. Con lươn bí mật lắm. Ra ngoài này, tôi chỉ cho mà xem.
Đến bên thêm đìa, chúng tôi ngồi xuống. Gió thổi lồng lộng, lướt qua đồng cỏ hoang vu. Ngọn cỏ quá sung sức, quá cứng nên không gợn như bông lúa, vang lên điệu nhạc buồn buồn, như tiếng ve sầu.
- Kìa! Nó lấp ló đó!
Tôi chăm chú nhìn qua phía bên kia bờ đìa. Năm Lươn đè vai tôi. Cả hai nằm mọp, không dám thở mạnh. Từ trong miệng hang, một đốm màu vàng xuất hiện, mỗi phút một to.
Tôi buộc miệng nói khẽ:
- Cái gì?
- Con lươn đó. Loại lươn già, sống hàng chục năm, có người nói nó sẽ hóa ra con chồn.
- Thiệt vậy hả?
Năm Lươn nói khẽ:
- Cứ xem thì biết.
Đầu con lươn to cỡ bắp tay, mắt nó him híp như kẻ buồn ngủ, đặc biệt là hai cái lỗ tai nó hiện ra bằng ngón tay út. Giống như mặt con chồn, giống chừng tám chục phần trăm.
Tôi hỏi:
- Tại sao nó không có chân?
- Bộ tôi là con lươn sao mà cậu hỏi tôi. Chắc nó chẳng bao giờ mọc chân.
- Tại sao nó không bò ra?
- Cậu này kỳ quá. Về già, chắc nó mệt mỏi, nằm một chỗ. Thân hình của nó ngắn ngủn hà, cậu ơi. Như cái đòn bánh tét!
Làm sao nó bay nhảy như mấy con lươn nhỏ? Bởi vậy, nó biết thân, nó nằm một chỗ trong hang vắng, ngày hai buổi ló mặt ra dòm mặt trời, mặt trăng. Hễ trời mưa, nó bò ra xem cỏ cây hoa lá...
Vậy thôi. Nó là con lươn già, thủ phận, vậy mà nhiều người cho rằng nó trở thành con chồn. Dóc quá. Ôi thôi.
Rồi Năm Lươn giải đáp câu hỏi thứ nhì của tôi. Theo ý kiến anh ta, tóc người chẳng bao giờ hóa ra cá trê hoặc con lươn. Hồi năm ngoái, tình cờ đào đất trên thềm đìa, đụng nhằm miếng ván nắp hòm. Vì là vùng đất thấp nên khi cạy nắp ra, anh ta thấy toàn là nước lõng bõng, đen ngòm và mớ xương người. Trong vùng nước thịt người ấy, có chừng ba con cá trê, đôi ba con lươn nhỏ. Đó là cá và lươn từ ngoài đìa chui vào để làm hang trong cái quan tài.
Lát sau, chúng tôi về nhà.
Tôi nằm trên bộ ván, tâm trí vẫn thắc mắc về kỹ thuật kéo trúm của Năm Lươn. Kéo quá hay, thâu quá nhiều huê lợi, chắc là dùng thứ mồi đặc biệt.
Anh ta ra sau hè, nói vọng lại:
- Nằm đó chơi nghe cậu Ba. Tôi nấu mồi để kéo trúm. Khuya nay, cậu với tôi nhậu một cữ giải sầu. Nằm đó chơi.
Câu nói thân mật ấy rõ ràng là một khẩu lịnh nghiêm khắc. Năm Lươn không muốn cho tôi tò mò, tìm hiểu cách thức nấu mồi. Hễ mồi ngon thì dĩ nhiên từ nơi xa lươn nhạy hơi tìm tới, chui vào trúm để thưởng thức rồi mắc kẹt trong đó. Gặp thứ mồi vô vị, lươn chỉ tìm đến khi nào quá đói. Tôi không chịu thua, nói to:
- Mồi gì vậy? Tôi nghe người ta nói muốn cho lươn vô trúm thì phải đổ thêm dầu cá sặc, dầu dừa vô mớ cá mồi.
Năm Lươn đáp:
- Kiểu đó xưa lắm. Mình xúc cá sặc, thứ nhỏ con, đem về luộc cho chín. Đủ rồi. Bộ cậu Ba biết kéo trúm nữa hả?
- Ờ... biết sơ sơ. Gần nhà tôi, mấy ông lão chuyên nghề kéo trúm dùng thứ mồi bí mật, mua ở tiệm thuốc Bắc. Tôi hỏi hoài mà mấy ổng không chịu tiết lộ. Có một thằng con nít kéo quá giỏi. Mỗi đêm nó kéo 20 ống, sáng ngày trút ống ra được lai rai 18 con lươn. Nghĩa là có hai ống thất bại mà thôi.
- Nó xài mồi gì?
Tôi nghiêm giọng:
- Bí mật lắm. Anh đừng cho ai biết. Nó dùng mồi cá thòi lòi, buộc chung với lá cách để lấy mùi thơm thơm. Ống trúm vừa đặt xuống là năm bảy phút sau, lươn bắt mùi cá thòi lòi chun vô nạp mạng...
Năm Lươn cười giòn:
- Đó là mồi của con nít. Dở lắm...
Nói xong, Năm Lươn đứng dậy, rồi vào trong chòi đem cái nắp vung khá to, đậy lên trên cái nồi đựng mồi. Lúc tôi ra ngoài hè thì nồi ấy đã kín mít, hơi cá chín bay thoang thoảng.
Tôi nằm xuống hút thuốc trong khi Năm Lươn bỏ mồi vào ống trúm. Anh ta làm nhanh tay: mở cái hom ra, bỏ mồi rồi gài cái hom lại. Lát sau, hàng trăm cái ống chất lên, vun đống trong xuồng. Anh ta bắt đầu kéo trúm, hai tay bám vào mũi xuồng rồi day mặt về phía lái đi thụt lui. Chiếc xuồng từ từ di chuyển kéo tới đâu là cỏ nằm rạp xuống. Thỉnh thoảng anh ta dừng xuồng, đặt một hai ống trúm rồi kéo tới, quanh co, khuất lẫn trong biển cỏ.
Còn lại một mình, tôi lợi dụng cơ hội để thám thính căn chòi hoang. Diêm quẹt đánh lên, châm vào thếp đèn dầu cá. Trong buồng, trơ trẽn cái hũ gạo. Tôi mở nắp hũ: Hai cái hộp cá mòi hiện ra, loại cá mòi nhập cảng, vô hộp tại xứ Ma-rốc. Hai hộp này còn nguyên. Một hộp thứ ba đã khui ra, còn sót hai con cá vàng lườm. Cá mòi hiệu Xu-ma-cô nổi danh.
Chuột chạy sột soạt. Tôi giựt mình. Năm Lươn chưa về. Tôi ra sau hè. Cái nồi đựng cá mồi nằm đó. Gió thổi nhẹ đưa lên mùi cá hộp, mùi đặc biệt...
Trong một thoáng, tôi đủ hiểu tại sao Năm Lươn cố ý bắt buộc tôi nằm ở bộ ván trong khi anh ta nấu mồi. Nào có gì đâu. Trong mớ cá sặc, cá rô nhỏ xíu ấy, ta trộn thêm chút ít cá mòi hộp để gây mùi thơm. Mùi thơm của dầu ô-liu. Ô-liu là loại trái vùng ôn đới có dầu béo, như trái cà na, dầu ô-liu thơm ngọt, tẩm cá mòi hộp vì vậy cá mòi “Xu-ma-cô” nổi danh. Hấp dẫn và đặc biệt hơn mùi mỡ heo...
Nhờ mùi dầu độc đáo ấy, Năm Lươn làm ăn khá giả, cưới hai vợ và cũng vì muốn giữ bí mật nhà nghề nên anh ta mang tiếng là “phù thủy”.
Tôi tắt đèn, nằm im.
Lát sau. Năm Lươn về, mang theo hai con lươn. Anh gọi to:
- Thức dậy cậu Ba ơi. Nhậu chơi.
Tôi đáp:
- Mồi ngon quá vậy! Chưa chi mà lươn đã chạy vào ống trúm, làm tù binh.
Năm Lươn vào chòi, đốt đèn rồi mở nắp hũ gạo. Anh nghiêm mặt, trở ra:
- Hồi nãy tới giờ...
Để tránh sự hiểu lầm, tôi lên tiếng:
- Tôi đói bụng, muốn kiếm cơm nguội nhưng gặp hộp cá mòi của anh...
Năm Lươn thở dài:
- Kỳ quá. Hồi năm ngoái, có một người tới đây, giống như cậu, để dọ thám, cho rằng tôi làm... quốc sự. Ông Tây Phô Nô biểu cậu lên đây hả?
Tôi im lặng, chưa trả lời. Năm Lươn ngáp dài:
- Đời sao khó sống quá. Mình thủ phận, làm ăn vất vả vậy mà họ cũng nghi ngờ. Họ muốn cái gì đây? Tôi như con lươn già trong hang. Tại sao thiên hạ không hiểu như vậy? Ở một chỗ cheo leo mà không yên. Bây giờ tôi nói thật đó. Mồi lươn của tôi có trộn cá mòi hộp. Thứ cá mòi có ướp dầu, hễ đặt xuống nước là dầu nổi màng màng, loang ra. Bao nhiêu lươn đều xúm lại chun vô ống trúm.
Tôi chợt nhớ đến buổi cơm Tây, tại nhà ông Phô Nô:
- Anh Năm đừng giận. Tôi giúp anh. Tôi tới nhà ông Phô Nô, ăn cắp chai dầu ô-liu đem về. Anh tha hồ mà kéo trúm. Mua cá mòi hộp tốn tiền. Ông Phô Nô có mua ở Sài Gòn một lít dầu ô-liu, tụi Tây trộn dầu này với giấm, rưới vào xà lách. Dè đâu...
- Cái gì?
Tôi theo dõi ý nghĩ riêng, dè đâu con cá mòi ở Địa Trung Hải và hương vị dầu ô-liu miền Bắc Phi lại là mồi ngon của lươn U Minh... Bên thếp đèn dầu cá, Năm Lươn ngồi đó, đập muỗi từng chặp, hai tay chai cóng, bắp chân nổi gân như cọng rau muống. Tôi nực cười cho dư luận và bắt đầu xem ông Tây Phô Nô như đứa con nít, nói đúng hơn là như một con lươn sắp hóa ra chồn bên thềm đìa, bên hè.
Lũ trẻ chăn trâu
Thằng Hon quỳ xuống cúi mọp đầu mà lạy.
Nó lạy đến lần thứ hai mươi. Ông hương cả Bạch vẫn giữ nét mặt lạnh như đồng. Và mỉa mai thay, trong lúc nó tiếp tục cử hành cái lạy thứ hai mươi mốt, ông hương cả từ từ đứng dậy, đi vào buồng.
Ngoài này, nó ung dung lạy lần thứ hai mươi hai rồi nói mếu máo với người phía bên kia vách buồng:
- Trăm lạy cả, ngàn lạy cả, xin cả tha tội cho con, con hứa tìm cách chuộc tội.
Ông hương cả Bạch quát to:
- Bộ mày hát bội cho tao nghe, phải không Hon? Mầy kêu tao bằng thằng hương cả hả? Tao không biết gì ráo. Theo luật lệ, hễ mày làm mất của tao một con trâu, thì mày đền lại tao một con trâu. Tao ăn ở công bình, đâu có biểu mầy đền hai con.
Thằng Hon im lặng, bắt đầu tin tưởng nơi lòng nhân đạo của chủ nhà. Biết đâu sau cơn nóng nảy quát tháo, ông hương cả sẽ hả giận: Từ thái độ im lặng đến thái độ chịu lên tiếng mặc dầu lên tiếng để chửi quả là ông hương cả bộc lộ tình cảm dồi dào. Biết đâu, mai chiều ông sẽ tha tội.
Thằng Hon lầm to.
Hồi lâu, ông hương cả nói tiếp:
- Một con trâu, con trâu pháo, trị giá một trăm giạ lúa. Kỳ hẹn trong hai ngày, nếu mày không tìm lại được, tao bắt mày ở tù. Mầy thông đồng với bọn ăn trộm trâu. Tại sao con trâu pháo đi lạc giữa ban ngày? Năm nay mầy mười ba tuổi chớ đâu phải đứa con nít, còn bú? Trong lúc mầy ở tù, cha mầy ở nhà phải đền bồi đủ trăm giạ lúa, nghe chưa? Tao biểu mầy đi kiếm cho được con trâu pháo. Để quá trễ nải, nó đi lạc vô điền đất người khác hoặc tụi ăn trộm xẻ thịt phơi da nó. Mầy quỳ ở trong nhà tao hoài hả?
Nghe đến chuyện ở tù, thằng Hon chết điếng. Cha nó đã qua xóm Xẻo Bần đốn củi mướn. Biết nhờ cậy vào ai bây giờ? Ông hương cả bước ra:
- Ủa! Quỳ ở đó trừ nợ hả? Hay là mầy muốn tao lạy ngược để trả lễ cho mầy! Cha chả! Mầy mà sợ ai? Cực chẳng đã, thằng Hon đành xá dài, lui ra rồi đi thẫn thờ. Bầy trâu trong chuồng cứ dậm chân, mấy con nghé kêu lên “nghé ngọ” nghe thảm thiết. Từ hôm qua tới giờ này, ông hương cả đã niệt trâu trong chuồng, bắt buộc thằng Hon phải cắt cỏ đem về. Ông nói: “giao cho mầy dẫn trâu ra đồng cũng như giao cho quân ăn trộm”. Trâu dậm chân kêu “nghé ngọ” vì đói, vì mến thằng Hon, vì đòi chạy rong ngoài đồng.
Đôi mắt thằng Hon bỗng dưng rướm lệ. Nó nghĩ thầm:
- Trâu bị nhốt nhưng sướng hơn mình. Mình đi nghêu ngao như vầy chẳng khác nào bị ở tù.
Về đâu bây giờ?
Thằng Hon quyết định: Ra ngoài ruộng mà ngồi cho khỏe. Đến gốc cây mù u, nó sực nhớ đến nhiệm vụ cắt cỏ cho bầy trâu trong chuồng ăn. Nhưng nó quên đem theo cái liềm hái, chẳng lẽ trở vào nhà để gặp ông hương cả Bạch lần nữa.
Bên gốc cây mù u có ngôi miếu cổ dựng lên không biết từ đời nào, mái ngói rong rêu, mấy cây cột bị mọt ăn sắp ngã quỵ xuống. Lúc rảnh rang, nó thường vô miếu ngủ trưa hoặc nặn hình ông Thổ địa. Rồi được lũ trẻ chăn trâu chọn làm nơi đùa giỡn, miếu Thổ địa gọi là miếu chăn trâu. Người qua lại thường khấn vái, thỉnh thoảng họ cúng nải chuối hoặc con gà.
Tại sao kẻ chăn trâu làm mất trâu lại không khấn vái nơi miếu chăn trâu để cầu xin?
Thằng Hon mỉm cười khi nghĩ ra biện pháp cuối cùng ấy. Nó bước vô miễu. Con cắc kè kêu vọng lên. Vài cánh dơi bay sập sận. Từ đám cỏ vàng úa dưới bệ, bầy muỗi bay vo ve.
Sau khi khấn vái, thằng Hon ngủ lim dim, chờ thần báo mộng.
Nắng xế dài. Nó chợt giựt mình thức dậy vì bên vách có giọng nói, long trọng:
- Ta đây là Tổ sư chăn trâu. Này đệ tử Hon ơi! Chẳng hay đệ tử cầu xin điều chi?
Thằng Hon dụi mắt. Đó là giọng quen thuộc của thằng Kia. Thằng Kia thuộc vào bậc đàn anh trong làng chăn trâu. Nó nghiễm nhiên làm kẻ đầu đàn, bao nhiêu trẻ con chăn trâu trong vùng đều sợ. Nó lớn tuổi, điều ấy không đáng kể vì nếu cần đánh lộn chưa ắt nó mạnh khỏe, biết thế võ “xí múng” bằng mấy đứa khác. Có điều là thằng Kia tự xưng dòng dõi “chăn trâu nòi”. Mỗi khi bày trận đánh giặc hoặc xưng vương, thằng Kia ngồi chễm chệ trên chòi cây mù u. Đôi khi còn ngạo mạn, nhảy trên bệ thờ trong miễu, tự xưng là thần thánh, bắt buộc mấy đứa khác quỳ lạy.
Thằng Hon nói:
- Anh Kia à, ông hương cả biểu tôi kiếm cho bằng được con trâu pháo. Kỳ hẹn hai ngày.
Thằng Kia hất hàm:
- Nếu kiếm không được thì có sao không?
- Thì tôi ở tù, ba tôi bồi thường một trăm giạ lúa.
- Thằng cha hương cả này bộ khiến chết rồi sao chớ? May mà con trâu pháo thuộc loại trâu đực. Nếu là trâu cái, chắc “thằng chả” bắt thường một ngàn giạ lúa, bỏ tù mầy chung thân khổ sai, đày ra Côn Lôn.
Nghe nói tới bản án chung thân khổ sai, thằng Hon xúc động, khóc nức nở. Thằng Kia cười to:
- Tao nói chơi vậy thôi. Mầy biết tại sao một ngàn giạ lúa không? Trâu cái có giá trị hơn trâu đực. Thằng cha hương cả làm bài toán: trâu cái cứ hai năm đẻ một lần và mỗi lần đều phải sanh đôi cho vừa túi tham của “thằng chả”.
- Anh giúp tôi. Không hiểu con trâu pháo chạy lọt về đâu?
- Tao là dòng dõi “chăn trâu nòi”. Ông nội tao, cha tao, rồi tới tao, ai nấy đều nối nghiệp chăn trâu. Tao nói đâu đúng đó. Mầy đừng hỏi ông Thổ địa chi, tao có cách này: Mầy rửa mặt, ăn no ngủ kỹ, rồi thì tai qua nạn khỏi.
Rồi thằng Kia đặt nhiều giả thuyết về trường hợp con trâu pháo đi lạc. Xưa nay, lời tục thường nói: “lạc đường dắt đuôi chó, lạc ngõ dắt đuôi trâu”. Nếu vì ham ăn cỏ non mà đi lạc, lẽ dĩ nhiên trâu nhớ chuồng cũ mà trở về. Nhiều người mua trâu từ nơi xa, sơ ý để sút dây vàm, trâu chạy trốn bốn năm chục cây số để “đáo lai” chuồng cũ.
Thằng Hon sốt ruột hỏi:
- Nhưng con trâu pháo bây giờ ở đâu?
- Ở gần đây chừng hai cây số mầy biết không? Miệt này ai cũng nghe danh điền tổng Bồi. Ai muốn vô điền ổng thì phải xin phép trước, bằng không ổng bắt đóng trăn. Mấy con trâu của tổng Bồi đều có đóng dấu nơi sừng và bên hông. Ổng nướng con dấu bằng sắt rồi “ịn” vô. Con trâu pháo của mầy nhất định đi lạc qua điền của ông tổng Bồi. Ổng tịch thâu rồi “ịn dấu”. Trời mới dám nhìn. Mầy láng cháng tới đó, ổng bắt mầy luôn. Con trâu pháo đã vô sổ bộ của ông.
- Để tôi trình cho ông cả Bạch hiểu đầu đuôi.
- Hừ! Hương cả Bạch là hạng người khôn nhà dại chợ. Oai quyền của ổng không bằng một sợi lông chân của tổng Bồi! Đừng lo. Tao là “chăn trâu nòi” mà! Mầy cứ làm như vầy, như vầy, ra tay cho khéo. Mầy về giả bộ lạy lục ông hương cả Bạch rồi xuống bếp xin cơm nguội mà ăn, nhớ nghe không?
Thằng Hon gật đầu, nói giọng bí mật:
- Dạ, tôi nhớ rồi.
- Nhớ chỗ đó kia! Phải đánh đúng chỗ “nhiệc” của ổng. Ngoài mầy ra, không ai làm được chuyện đó.
- Dạ, tôi thấy mà. Chỗ đó tôi biết. Tôi thấy chỗ đó rồi.
Hai đứa cởi quần áo nhảy xuống vũng để tắm mát. Thằng Kia quả là người bạn tốt, xứng danh “chánh vì vương”. Nó cười ỏm tỏi:
- Tối nay tao làm công việc khác. Nhớ ra ngoài miếu này gặp tao, đầu canh tư. Nếu không gặp tao, mày nằm trong miếu mà chờ đợi. Cha chả! Vui cha chả là vui. Biết đâu qua trận này, tụi mình có vợ ráo trọi. Nhớ cái chỗ nhiệc (nhược) đó!
* * * * *
Trời tờ mờ sáng.
Ông Từ giữ nhang khói đình làng Khánh Van đã thức dậy. Tuổi già sức yếu, ông có tật thức vào đầu canh năm rồi ngồi bên căn chái phía sau đình.
Siêu nước sôi lên nghe vui tai. Tiết trời như lành lạnh. Lát sau ông pha trà, rót ra một cái tô lớn. Mấy hớp đầu tiên đem cho ông Từ niềm ấm áp nhưng hương vị của tô trà không mấy đậm đà.
Ông nhướng mắt nhìn vào đáy tô. Không có gì hết!
Ông hinh hỉnh lỗ mũi vừa hớp vừa đánh hơi.
“Lạ thật! Tô trà phảng phất mùi hôi hám gì khó chịu”. Quá tức giận, ông giở nắp ấm, đổ tất cả nước sôi và xác trà vào cái chậu để phân chất. Ông cau mày vì đã đoán lầm: nước và xác trà đều tinh khiết, đâu có lẫn lộn chút phân chuột, phân dơi!
Gió thổi thoang thoảng. Mùi ô trược lại xuất hiện mơ hồ, bàng bạc đó đây. Ông Từ đã hiểu: mùi ấy ở chỗ khác. Lập tức ông bước xuống đất, khom lưng, nhướng mắt tìm cái xác chuột chết dưới gầm giường.
Gầm giường rất sạch sẽ! Bây giờ ông mới sảng sốt, mở toang cánh cửa liếp. Mùi ô trược bay lộng vào. Ông chạy ra sân, thấy trên bãi cỏ một đống phân người.
Vốn là kẻ hiền lành, ông ngẫm nghĩ:
- Ai thù oán mình mà họ bày trò vô lễ này? Mình nghèo khổ, làm tôi tớ quét dọn trong đình mà thôi.
Đột nhiên, ông nhớ đến thủ đoạn của bọn đạo chích. Sau khi rình nhà ăn trộm vài món lặt vặt, chúng thường phóng uế để “xổ xui” trước khi rút lui. Nhưng ngôi đình này đâu có gì quý giá! Lập tức ông ra trước sân rồi trở lại gian chái để tìm cái chìa khóa.
Ông trở lên mở khóa. Nhưng hỡi ơi! Cái ống khóa bị bẻ gãy tự bao giờ. Trong chánh điện, mất một con hạc bằng cây. Con hạc còn lại thì nằm nghiêng trên nền gạch. Trong hàng “lễ bộ” đã vắng dạng một cây kích, một cây chùy bằng cây. May phước quá! Bộ lư vẫn còn. Ngoài ra chẳng mất món nào khác.
Tại sao con hạc lại bay, với đôi cánh bằng cây? Và ai đã lấy trộm cây chùy, cây kích? Loại khí giới bằng cây ấy dành để cho kép hát bội dùng chớ ai sờ mó làm gì? Đây là vụ trộm có ác ý, có tổ chức.
Bấy giờ ông Từ sực nhớ tới trách nhiệm nặng nề của mình, hương chức làng sẽ khiển trách. Tại sao ăn trộm vào đình mà không hay biết? Ông nghĩ ra một kế: hốt sạch đống phân rồi tất tả chạy đến nhà ông hương cả Bạch, vị chánh bái của đình. Suốt mười năm qua, ông hương cả giữ chức ấy và được giao cho trách nhiệm giữ “sắc thần” là cái bằng cấp, do triều đình ban cho để thờ phụng. Bình thường, sắc ấy cuốn tròn lại cất giấu kỹ lưỡng tại nhà ông cả. Tới ngày kỳ yên, hương chức thỉnh sắc ấy tới đình, lễ xong đem cất tại chỗ cũ sợ xảy ra trường hợp sắc thần bị trộm đem bán cho những đình làng chưa có sắc.
- Chuyện gì vậy? Làm gì mà tới sớm vậy?
Ông Từ đã nghiên cứu từ trước những lời lẽ mà ông phải nói để trút bớt trách nhiệm và tăng thêm phần long trọng:
- Trời ơi! Ghê gớm quá. Tôi nằm chiêm bao thấy ông thần hiện về, râu tóc bạc phơ. Ổng nói với tôi rằng cơ trời thay đổi.
- Thiệt vậy sao? Ông thần làng này linh lắm. Xưa kia ổng làm tới chức cai đội trong cơ binh của vua Gia Long. Ổng bị quân Tây Sơn xử trảm. Từ đó ổng sống phảng phất trên trần gian này.
Ông hương cả vừa hỏi ông Từ, vừa liếc lên trang thờ, nơi ông đã cất giữ cái sắc thần. Nhưng ông chỉ nhìn từ phía sau trang thờ.
Giọng ông Từ thêm phần bi ai:
- Ông thần làng mình thật là linh thiêng. Ổng nói, cơ trời thay đổi rồi lại đổi thay, như giấc chiêm bao.
Ông hương cả gật đầu, cau mày:
- Thay đổi rồi lại đổi thay, nghĩa là không có gì thay đổi ráo trọi. Giấc chiêm bao đó mơ hồ, khó tin.
Ông Từ cúi đầu nói khẽ:
- Nhưng trước khi từ biệt đình làng, ông thần liền hóa phép, đem theo một con hạc để ông cỡi rồi ông vung hai tay, cầm cây chùy và cây kích. Tôi giật mình thức dậy, lên chánh điện thì rõ ràng, mấy món đó mất dạng.
Ông hương cả Bạch sửng sốt đứng dậy, bước nhanh ra trước nhà, nơi phòng khách, để nhìn kỹ lên trang thờ, đôi mắt ông ròn xoe:
- Trời! Cái sắc thần đã mất. Ai lẻn vào đây ăn trộm vậy kìa! Chết cha! Phen này... tội nặng lắm.
Ông Từ được trớn bèn kết luận:
- Ông thần cỡi hạc bay đi thì làm sao cái sắc thần còn ở trên trang cho được. Rõ ràng, hai chuyện này dính dáng với nhau.
Nói xong, ông Từ vuốt râu mỉm cười, chua xót, thấy mình tuy có tội lớn với dân làng nhưng không “tày trời” bằng tội của ông cả Bạch.
Ông hương cả Bạch đã già trên sáu mươi tuổi. Trong phút giây ông chợt đoán ra phần nào sự thật. Để tròn trách nhiệm, ông nghĩ ra một ý kiến táo bạo:
- Truyền cho dân làng đánh mõ, đánh trống lên để tri hô, tìm bắt thủ phạm. Nó ăn cắp “sắc thần” rồi! Đình mà không có sắc thần thì tai họa xảy tới. Vái trời.
Ông Từ bươn bả ra cửa, vừa chạy vừa tri hô. Ông hương cả chạy theo. Bầy trâu trong chuồng dậm chân, trâu con kêu nghé ngọ vì đói, hôm qua thằng Hon không thèm cắt cỏ! Lần đầu tiên từ mấy năm qua. Ông nói gằn, to giọng:
- Đ.m. nó!
Rồi ông kềm hãm cơn phẫn nộ:
- Phen này mình thua trí thằng con nít.
Độ mười phút sau, dân làng nhốn nháo đến mé rạch, bao vây các khu vườn, chận xét những ghe xuồng lạ mặt, cãi vã nhau, đặt ra hàng trăm giả thuyết về quá khứ vị lai:
- Chắc làng này có hạn hán, bão lụt, mắc ôn mắc dịch, hoặc hồi năm ngoái, hương chức định gian lận tiền lạc quyên, nên thần mới giáng họa!
Bỗng nhiên vài người la hoảng:
- Tại sao mình không bơi xuồng rượt theo kẻ trộm. Nó ở dưới sông, mình kiếm trên bờ vô lý quá.
Ông hương cả Bạch chợt thấy hai cậu thanh niên đứng trong đám đông. Đó là thằng Kia thuộc giòng dõi “chăn trâu nòi” và thằng Hon, đứa làm mất con trâu pháo của ông. Hai đứa đứng ưỡn ngực, chống nạnh. Ông muốn nắm đầu tụi nó, đánh cho một trận, chưa chi chúng nó đã cút mất mạng? Ông muốn tố cáo thật to, nhưng với mớ tóc bạc, già dặn trường đời, am hiểu tâm lý dân làng, ông mỉm cười, giữ im lặng, tính toán cẩn thận:
- Rủi hai đứa nó giấu luôn cái sắc thần thì sao? Cái sắc thần quý hơn con trâu pháo. Mình cần giữ chức chánh bái trong đình để góp tiền cúng tế, góp tiền tu bổ đình hàng năm và để chết có danh. Mất con trâu pháo, mình còn sắm được con trâu khác, chớ mất sắc thần, mất chức vị chánh bái thì làm sao chuộc được.
Tiếng cười bỗng ồn ào lên, từ bờ rạch:

- Gặp rồi! Cái sắc thần, con hạc với cây chùy, cây kích nằm trên bè chuối. Tụi ác ôn nào đó thả ông thần xuống bè, để trù rủa làng mình. Chắc là mấy ông hương chức ở làng kế bên phá rối làng mình. Họ thấy làng mình có ông thần linh hiển rồi ganh tị.
Ông hương cả Bạch nói gắt:
- Không đâu. Dòi trong xương dòi ra.
Rồi ông chạy tới nơi. Cái sắc thần cuộn tròn chắc là còn để trong cái ống tre sơn son. Kế bên là con hạc bằng cây nằm nghiêng, vì đã gãy chân. Cây chùy, cây kích trơ trẽn quá! Chiếc bè chuối trôi lờ đờ. Một người lên tiếng:
- Ai dám vớt cái bè đó vô bờ. Rủi ông thần vặn họng thì sao?
Ông hương cả nói gằn từng tiếng:
- Xưa nay, chỉ có mấy ông chăn trâu mới dám vớt bè. Mấy “ổng” là con cháu ông Thần Nông. Mấy ổng dám vớt bè tống ôn để ăn đầu heo, ăn gà vịt cúng tế. Bây giờ thì...
Nói tới đó, ông đưa mắt liếc vào đám người, thấy dạng thằng Kia và thằng Hon. Ông nói tiếp, giọng xa xôi:
- Bây giờ mời con cháu ông Thần Nông ra tay giúp dân làng.
Hàng trăm cặp mắt đổ dồn về phía thằng Kia và thằng Hon. Thằng Kia nói to, cố ý cho thằng Hon nghe riêng mà thôi:
- Để tao! Tao là “chăn trâu nòi”, tao có “cô hồn” hơn mầy. Mầy đứng đó, đừng lăng xăng hư việc hết.
Thằng Kia ưỡn ngực từ từ tiến về phía ông hương cả Bạch. Ông hương cả thiếu điều muốn ăn gan nó. Nó muốn cười thật to. Nó mím môi lại rồi nói như đùa giỡn:
- Chắc ở làng này con nít chăn trâu bị ăn hiếp nên ông thần mới bị phiêu bạt làm vậy. Ông thần đau xót vì con cháu ông Thần Nông gặp nạn. Ổng nghĩ rằng ổng không còn linh thiêng hay là ổng giận nên ổng từ giã làng này.
Ông Từ sực nhớ tới mùi “thoang thoảng” bên tô trà hồi sáng nên nói to:
- Thiên hạ hiểu rồi! Thỉnh sắc thần lên đi cha nội ơi!
Thằng Kia đáp:
- Từ rày dân làng hứa ăn ở hiền lành với tụi tôi mới chịu vớt bè.
Nó cởi áo nhảy xuống rạch, nói với lại:
- Sau khi tôi vớt lên, phải cúng vái tạ tôi nghe không? Cúng đầu heo rồi thả bè cho tụi tôi vớt lên ăn chơi.
Ông hương cả nói to:
- Kia ơi là Kia! Tao lạy mầy đây nè!
Rồi ông nhìn thằng Hon:
- Hon ơi là Hon! Tao lạy mầy rồi mà!
Hôm sau thằng Hon tiếp tục giữ trâu cho ông cả Bạch. Bầy trâu được thả ra đồng ăn cỏ. Ông hương cả chẳng nói nặng nhẹ tiếng nào cũng không nhắc nhở việc bồi thường con trâu pháo. Thằng Hon tiếp tục “nằm trâu, thổi sáo mơ đời Thuấn Nghiêu” như câu ca dao đã truyền tụng.
Mây trời và rong biển
Ở miền duyên hải Hà Tiên có trồng loại dưa hấu ngon ngọt, gọi nôm na là dưa Hà Tiên. Tôi đến viếng thăm miền thơ mộng ấy nhằm mùa dưa.
Mấy người làm rẫy gần chùa Hang thi nhau mời khách qua đường:
- Dưa Hà Tiên ngon bực nhứt nè! Mua ở đây khỏi lầm thứ giả.
Tôi ngạc nhiên vì làm sao có dưa Hà Tiên giả tại vùng Hà Tiên? Thật ra, đó là dưa hấu thông thường, ở đâu cũng có. Người địa phương đã chịu khó vào mấy hang đá, hốt phân dơi về bón. Phân dơi giàu chất “am- mô-nhắc” nồng nặc mùi nước tiểu. Có lẽ mùi ấy giúp cho dưa hấu ngon ngọt chăng?
Nhìn người bán dưa, tôi hỏi gắt:
- Tại sao lầm thứ giả?
Anh trả lời:
- Muốn trồng dưa cho ngon phải có “hoa tay” (năng khiếu). Nếu mình thiếu âm đức, trái dưa không ngọt hoặc ruột dưa trắng bệch. Thí dụ như ông Hai đằng kia.
- Ông già Hai làm gì mà thiếu âm đức?
Anh nọ trả lời:
- Chuyện dài lắm. Mời ông...
Tôi chợt hồ nghi đó là thủ đoạn tranh thương bất chánh để giành giựt mối hàng. Đã trót đóng vai kẻ du lịch tại sao tôi không dừng lại ăn dưa, để nghe chuyện.
Tôi ngồi bên tảng đá.
Trái dưa hấu đã xẻ ra, vỏ mỏng, ruột đỏ tươi, ráo mặt. Ăn xong, tôi lên tiếng:
- Chuyện ông già Hai ra sao? Tại sao kẻ thiếu âm đức chẳng trồng dưa ngon được?
Như để thanh minh cho lòng dạ ngay thẳng của mình, anh bán dưa trỏ tay về phía mé biển:
- Ổng ngồi đó! Lát nữa thầy tới đó thì biết. Tôi nói xấu làm gì? Cả vùng này thiên hạ đều chạy mặt.
Người được gọi là “ông già Hai” tuổi hơn năm mươi, dáng điệu ốm yếu. Tuy cách xa hàng trăm thước, tôi thấy rõ mái tóc bạc và bộ quần áo lãnh đen, lấp lánh dưới ánh nắng mai. Gió ngoài biển khơi bắt đầu thổi lộng. Ông già Hai ra khỏi căn chòi nhỏ bé, lấy tay che bớt ánh nắng rồi nhìn khá lâu về phía tôi đang ngồi.
Anh bán dưa như đắc ý:
- Thầy thấy chưa? Ông già Hai hồ nghi tôi đang nói xấu ổng.
Tôi bực mình: tại sao ở chốn thanh lâu u cốc mà lại xảy ra cuộc tranh chấp nhỏ nhen như vậy? Thể diện con người là cái gì? Nguồn lợi bán dưa có là bao? Và nếu ông già Hai đã phạm tội tày trời, lẽ ra ổng phải ngồi tù.
Đàng kia ông già Hai đi tới lui như bực dọc rồi đi xuống trước chòi.
Anh bán dưa mỉm cười:
- Ổng đang rình.
Tôi càng tò mò hơn:
- Rình cái gì?
Anh bán dưa nói:
- Lời thiệt khai ngay... Tôi đâu có vu cáo ổng mà tôi sợ mang tội lỗ miệng.
Rồi anh ta kể chuyện. Câu chuyện sát nhơn mà tôi lược thuật như sau: Điều đáng chú ý là ông già Hai mãi ngồi lì trước sân, để nhìn về phía chúng tôi. Dường như ông theo dõi mọi động tác của anh bán dưa này.

Ông già Hai xưa kia làm tới chức phó tổng, cai quản chục mẫu vườn. Ông ta làm chủ ngôi nhà ngói duy nhất trong vùng.
Tánh ông ta rất khó thương, tiền bạc thì muốn gom vô chớ chẳng bao giờ cho xuất ra.
Tôi ngắt lời anh bán dưa:
- Thì tiểu phú do cần, đại phú do thiên, ổng hà tiện là phải. Kiến tha lâu đầy tổ. Như vậy đâu phải là thiếu âm đức?
Anh bán dưa lắc đầu:
- Trời ơi! Thề với trời đất tôi chẳng bao giờ nói xấu ổng. Thầy cứ ngồi ăn, không cần phải trả tiền dưa mà.
Trước thái độ chân thành ấy, tôi im lặng.
Anh bán dưa cho biết thêm. Vì muốn gom góp tiền bạc để làm vua một cõi, nên ông ta gìn giữ con gái thật kỹ lưỡng, chẳng thèm gả cho bất cứ chàng trai nào trong vùng. “Ngọc lành còn đợi giá cao”.
Lâu ngày chầy tháng, cô con gái ông trở nên “lỡ thời”. Cô ta tên Ngọc.
Tôi hỏi nhanh:
- Chuyện có thiệt hay không? Thế gian này, nhà giàu kén rể là thường tình.
Anh bán dưa nói gắt:
- Lát nữa tôi dẫn thầy qua bên kia núi để xem bằng cớ. Cái miếu thờ oan hồn cô Ngọc.
- Ghê quá vậy? Tại sao cô ta chết sớm?
- Năm đó ông già Hai bày qua nghề làm ruộng nhà. Bọn tá điền trốn nợ, chọn nơi đất đai phì nhiêu hơn. Ông già Hai mướn nhân công, dân vùng này ghét ổng, chẳng ai chịu làm mướn. Rốt cuộc, thằng Tú, chuyên nghề ăn cướp biển đến tình nguyện làm tôi tớ. Cái thằng này lạ. Nó bảnh trai, tuổi hơn hai mươi. Hằng ngày, ông già Hai bắt buộc làm việc không hở tay. Ban đêm nó ngủ bên chái nhà bếp, gần chuồng bò. Thiên hạ cười chê, nghĩ mà buồn cho thân phận chàng ăn cướp biển sung sức ấy.
Vài người đặt giả thuyết:
- Thằng Tú si mê cô Ngọc!
Lúc ăn giỗ hoặc lân la trong xóm, ông già Hai khoe khoang:
- Bà con đừng đàm tiếu, vô ích. Chuyện trong nhà, tôi biết hơn ai hết. Tôi đủ quyền lực giết nó mà! Nó muốn bỏ nghề bất lương, trở về làm ăn lương thiện. Tại sao tôi không cứu vớt nó.
Ông già Hai lầm to, thằng Tú đã yêu con gái ông. Lúc ban đầu, cô Ngọc tỏ vẻ lạnh lùng. Đôi ba lần thằng Tú đánh bạo:
- Cô ơi, cô...
Cô Ngọc cau mày:
- Nói gì thì nói phứt. Cha tôi khó lắm.
Thằng Tú đáp:
- Cô đừng sợ liên lụy. Tôi muốn nói ra. Mà thôi cô dư hiểu rồi? Nói ra thêm phiền. Rủi bề gì...
Thân hình mạnh khỏe, gương mặt khả ái trẻ trung của thằng Tú lắm lúc khiến cô Ngọc rung động. Lần hồi, cô nghĩ mà tội nghiệp cho đứa si tình:
- Anh nói đi.
- Tôi không sợ đòn bộng, tôi không sợ chết. Tôi sợ cô từ chối hoặc mắng nhiếc. Chừng đó, chắc tôi tự tử.
Cô Ngọc đáp:
- Anh nói kỳ quá hè! Tự tử làm gì, ích lợi cho ai đâu? Anh không còn cách xử trí nào khác cho xứng mặt anh hùng!
- Tôi sẽ làm nghề ăn cướp biển, giết người như rạ, giết tất cả đàn bà con gái để trả thù, cô chịu không?
Cô Ngọc im lặng mừng thầm vì chàng trai tỏ ra xúc động. Hồi lâu, chàng Tú cúi mặt:
- Thôi, tôi ra ruộng.
- Anh ở lại chút nữa.
- Không dám, tôi mắc cỡ lắm.
Cô Ngọc cười nhoẻn nụ, nói đùa như giỡn với một con thú dữ đang bị trói:
- Ai làm gì mà anh mắc cỡ? Vậy anh mắc cỡ với ai vậy chớ? Anh biết chữ không?
Thằng Tú nói lấp vấp:
- Dạ, tôi biết đọc chớ không biết viết.
Rồi đêm thằng Tú nằm thao thức. Thỉnh thoảng nó chun ra khỏi chiếc nóp, đến sát vách lén nhìn vào phòng cô Ngọc. Cô Ngọc ngồi chống tay lên trán như suy nghĩ. Hồi lâu cô tắt đèn, lên giường nằm.
Thằng Tú mừng quýnh như mở cờ trong bụng vì người đẹp chẳng ngủ được. Nàng lăn qua lăn lại rồi chợt ngồi dậy đốt ngọn đèn chong, đem giấy mực ra viết, viết rồi lai đốt bỏ. Rồi nàng ngủ.
Tại sao nàng chưa chịu gởi thư riêng cho nó xem? Dường như ông già Hai chẳng lưu ý mảy may đến mối tình vụng trộm ấy. Nàng đóng kịch khéo léo. Bận nọ, lúc mưa chiều lạnh buốt ông chợt nhớ đứa đầy tớ:
- Ngọc à! Con đem chai rượu cho thằng Tú nó uống!
Ngọc cau mày, nói gắt:
- Cho uống nó lờn mặt. Nếu nghiện rượu thì nó xuất tiền túi ra mà mua. Mỗi tháng cha trả cho nó hai đồng bạc kia mà!
Ông già liếc nhìn con gái, chợt nhận ra một điều: Tại sao nó lại hà tiện và tàn nhẫn hơn mình! Mình đây đã tàn nhẫn và hà tiện đến mức rồi. Chắc là...
- Tội nghiệp! Hồi nào tới giờ thằng Tú ngao du khắp ngũ hồ tứ hải, đi dọc về ngang. Trời mưa sóng biển ầm ầm như vậy, chắc nó buồn lắm.
Ngọc nói gắt:
- Có thương thì cha đem rượu cho nó đi. Con không ưa đám con nít ghiền rượu.
Ngồi bên chái nhà, thằng Tú nghe rõ cuộc đấu khẩu giữa người yêu và cha nàng. Nó xốn xang tấc dạ. Ngoài kia biển dậy ầm ầm, mấy chiếc ghe lưới chạy phăng phăng vào bãi. Hồi còn theo nghề ăn cướp biển nó thích chí khi thấy biển động. Chính lúc ấy, nó giả vờ đến tiếp cứu mấy ghe bị nạn, rồi thừa cơ hội, nó ra lệnh cho bọn tay em nhảy qua cướp giật. Mấy chiếc ghe gần đó có thấy cũng không dám chạy buồm tới. Mỗi lần mưa gió là mỗi lần nó đủ tiền bạc ăn xài. Từ ngày yêu Ngọc đến giờ, thỉnh thoảng nó cũng nhớ tới biển khơi, nhưng người đẹp vẫn cầm chân khách giang hồ.
Nàng xem nó như đứa con nít! Và nó bị hạ nhục trong khi biển dậy, sóng gió ầm ầm.
Nó nhận lấy chai rượu của ông già Hai. Men rượu vừa cay vừa chua như vị nước mắt tủi nhục:
- Dạ, cám ơn ông, tôi là đứa con nít. Tôi cứ uống rượu. Con nít mà uống rượu nên mới chịu dại dột.
Nói xong nó gục đầu xuống, ông già Hai trở lên nhà trên, quả quyết một điều gì!
Trời chạng vạng tối. Thằng Tú không muốn chui vô nóp. Nó nhủ thầm:
- Mình nên ngủ trần cho muỗi cắn chơi một bữa. Muỗi đâu dám cắn đứa say rượu. Nếu cắn, muỗi cũng say rồi ghiền rượu luôn.
Nó chợt nghe có tiếng chân người đi phía sau. Rõ ràng là Ngọc.
Không nói một lời Ngọc quay trở vào nhà, trong lúc đó có cái vỏ hộp quẹt rớt ngay trước mặt thằng Tú. Nó hiểu ngay. Trong cái vỏ hộp quẹt, một mảnh giấy khác ghi vắn tắt:
“Anh Tú, em thương anh lắm. Anh đừng hiểu lầm gì hết. Anh dám thề với em không? Tụi mình sống thì đồng tịch đồng sàng, chết thì đồng quan đồng quách”.
Bỗng dưng thằng Tú thấy yêu đời. Mấy chữ “sống thì, chết thì” do người đẹp viết ra khiến nó thèm sống và thèm chết. Người đời thường nói “trường tình biển ái”. Tại sao lúc trước nó dám vẫy vùng trên mặt biển đầy sóng gió mà giờ phút này nó rụt rè khi sóng gió của biển ái tình vừa dậy lên.
Nhanh như chớp, nó theo bén gót cô Ngọc. Ngọc đi thẳng lên nhà trên.
Thằng Tú lách mình, bước vào phòng của người yêu, nhìn dáo dác để tìm hiểu địa thế rồi chui xuống khoảng không gian tối om dưới gầm giường.
Hồi lâu Ngọc vào phòng thay quần áo, vặn tim đèn lên cao. Nàng mở tủ đem giấy mực ra, ngồi xuống chỏi tay lên trán.
Nàng suy nghĩ hàng năm mười phút rồi viết. Lâu lâu, nàng vò mảnh giấy, đốt bỏ.
Nó bò ra, xuất hiện đột ngột:
- Đừng!
Vừa nói nó vừa ra dấu hiệu như ngầm bảo cho người yêu đừng kêu rú sảng sốt.
Ngọc sợ, lại giận. Thằng Tú đem mảnh giấy mà nàng gởi cho nó hồi nãy, chỉ vào mấy hàng chữ, khi đặt lá thơ trên bàn:
- Sống đồng tịch đồng sàng.
Rồi nó áp miếng giấy lên ngực như ngụ ý:
- Mấy lời em nói với anh, cũng là mấy lời mà anh muốn nói với em, đêm nay.
Ngoài cửa có tiếng nói khẽ:
- Ngọc, con còn thức à!
Ngọc chết điếng! Cha nàng đã hay biết rồi chăng? Vô lý, chính nàng còn không dè thằng Tú dám lẻn vào phòng này. Hồi chiều tới giờ, cha nàng đâu có ra phía nhà sau?
- Chưa cha, con chưa ngủ.
Với giọng chiến thắng, ông già Hai nói:
- Con đưa cho cha cái chai dầu gió, cha hơi mệt.
Thằng Tú trợn mắt nhìn Ngọc. Ngọc im lặng quan sát tứ phía.
Ông già Hai nói ôn tồn:
- Ờ, chưa gặp cái chai dầu gió hả? Lát nữa con tìm cho cha. Bịnh của cha không nặng gì đâu!
Nói xong ông già Hai đi nhanh. Nghe tiếng chân của cha rời rạc, nhỏ dần. Ngọc nhìn cái tủ đựng quần áo, mở cánh cửa tủ.
Thằng Tú sực nhớ những mẩu chuyện khôi hài mà từ trước tới giờ nó chưa được hân hạnh đóng vai người trong cuộc. Ông già Hai tằng hắng phía nhà trên.
Không bỏ lỡ cơ hội, nó bước vào trong tủ mà ngồi. Ngọc khép cánh cửa tủ, vặn khóa.
- Chai dầu gió đâu rồi con?
Ngọc nói:
- Dạ đây nè cha.
Nàng mở chốt cửa phòng. Ông già Hai cười.
- Con thức khuya quá vậy! Ủa. Hồi nãy cha nghe con gì chạy sột soạt trong này!
Ngọc run run nói không ra lời. Bàn tay ông già Hai từ từ hạ xuống mặt bàn để giựt mảnh giấy có mấy chữ “đồng tịch đồng sàng, đồng quan đồng quách”.
Ông ta nói:
- Con gì chạy sột soạt?
Ngọc như người mất trí, thấy cái chết gần kề. Cha nàng sắp thi hành thủ đoạn gì đây. Cánh cửa tủ vừa khóa chặt, im lìm.
- Thưa cha con chuột, con chó gì đó!
Tuy ngột thở, thằng Tú cố lắng nghe. Nó nghĩ thầm: “Chết trong này là dại dột. Mình đã từng ngao du trên biển cả. Tại sao mình không lên tiếng?”. Nghe người yêu so sánh với “con chuột, con chó”, nó không kiên nhẫn được nữa. Nó đập mạnh vào cánh cửa tủ. Ngọc đành run tay, mở cửa tủ.
- Thằng Tú đó hả? Tao giết mày?
Thằng Tú nói:
- Giết tại đây à? Ông vô ơn bạc nghĩa quá. Ông không cần dùng đến tôi thì trả tôi ra biển. Tôi muốn đi xa.
Rồi day qua Ngọc, nó cười nhếch mép:
- Con nít, rồi con chó, con chuột. Đồng tịch đồng sàng, đồng quan, đồng quách. Nói láo!
Ông già Hai nói:
- Đừng cãi vã. Bây giờ mày ra ngoài biển với tao. Ở ngoài biển có sẵn mấy chiếc ghe đánh lưới. Mầy cứ giựt một chiếc mà đi cho khuất mắt. Chẳng lẽ tao giết mày tại nhà này cho dơ nền gạch.
Anh bán dưa nhìn về phía ông già Hai:
- Đó thầy thấy chưa, ổng theo dõi, sợ tôi nói xấu chuyện gia đình của ổng cho người khác nghe! Trời phạt ổng! Từ bốn năm nay, ổng ở ngoài chòi đó.
Tôi hỏi:
- Còn thằng Tú, còn cô Ngọc, còn gian nhà ngói?
- Để tôi nói tiếp: ông già Hai dẫn thằng Tú ra sân, nhưng ổng giắt cây dao nhỏ và bén, ở sau lưng. Chừng đến mé bãi, ổng chỉ một chiếc ghe, kêu thằng Tú lên đó mà đi cho biệt tích. Thằng Tú ngỡ thiệt. Dè đâu ổng đâm nó, lúc nó gần tách bến. Hay tin ấy, cô Ngọc phát điên, suốt ngày mở cửa cái tủ áo mà nhìn vào khoảng trống. Rồi hôm đó, cô ta đập tấm kiếng soi mặt, lấy miếng kiếng mà nuốt để tự tử. Ông già Hai sợ quá... Sau khi cô Ngọc chết, ông ta không dám ngủ ở nhà, không dám ra biển. Làm ruộng thì không dám, đánh lưới cũng không dám. Bởi vậy ông xoay qua nghề trồng dưa hấu, mà dưa hấu của ông chẳng bao giờ đỏ ruột.
Tôi từ giã anh bán dưa, đến bên cạnh ông già Hai. Ông ta lắc đầu, nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Đời sao khó sống quá. Họ nói xấu tôi. Phải nãy giờ thằng đó nói chuyện con Ngọc với thằng Tú. Nó nói tôi thiếu âm đức. Thầy tin lời nó à? Tôi ngồi ngoài chòi này bốn năm nay rồi chưa đủ sao?
Nói xong, ông trao cho tôi một trái dưa và một cây dao:
- Mời thầy xẻ trái dưa để bói thử. Nếu dưa đỏ ruột, điều ấy chứng tỏ tôi không phải là đứa thất đức, còn nếu dưa màu trắng thì...
Tôi mạnh dạn xẻ trái dưa, thở dài, cố che giấu vì ruột dưa quá trắng. Tôi úp sát hai miếng dưa.
Ông già Hai quay mặt ra biển khơi. Có lẽ ông đã hiểu.
- Sao?
Tôi đáp:
- Ông cho cháu xin trái dưa này. Cháu muốn đem về, lát nữa mới ăn.
- Mà nó đỏ hay trắng?
- Dạ, hơi hơi đỏ, hơi hơi trắng.
- À, thằng Tú, con Ngọc, tụi nó còn báo hại thằng già này. Thôi cảm ơn thầy, thầy đi đi.
- Chuyện có thật sao ông?
Ông già Hai ôm mặt. Gió ngoài thổi lộng. Từng giề rong biển tấp vào bãi. Và trên trời, mây trắng bay. Xác thằng Tú ở đâu? Hồn cô Ngọc ở đâu? Trên chiếc chiếu nào và cái quan tài nào? Chàng nằm trên nệm rong biển và nàng tới lui vẩn vơ trên trời cho đến bao giờ.
Một chuyện khó tin
Thời Pháp thuộc thực dân khoe khoang đã sửa đổi vùng bùn lầy Bến Nghé trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhưng đồng bào ta xác nhận rằng bên cạnh Hòn Ngọc ấy còn nhiều vùng quá chậm tiến gọi là Hóc Bà Tó, Voi Bà Khẹt, Cù Lao Heo, Rạch Ba Rộng Ba Hẹp, Đồng Chó Ngáp, chốn “khỉ ho cò gáy”, “chó ăn đá, gà ăn muối” và theo lời truyền khẩu, ở các vùng nói trên, đồng bào ta sống trong địa đàng, chưa chịu ảnh hưởng của văn minh Tây phương. Nhiều cụ già hơn tám mươi tuổi, tuyệt nhiên chẳng thấy một cái xe đạp nào cả. Rõ ràng là nếp sống của Trúc Lâm thất hiền theo nền “văn minh thảo mộc”, nhà cửa, giường chiếu, bàn ghế, ghe thuyền đều bằng nguyên liệu cây cỏ, chế biến ra.
Ở Rạch Giá, Cà Mau nổi danh chậm tiến là chốn U Minh.
Ở U Minh, thiên hạ ngán vùng U Minh Thượng hơn là U Minh Hạ.
U Minh Thượng đáng sợ vì các “nhân vật” ở rải rác trong rừng đều uống rượu khá nhiều, ăn nói huyên thuyên. Quan lớn Pháp gọi đó là thái độ dối trá của người Á Đông! Biết sao bây giờ! Nếu im lặng thì họ bảo là sự thâm hiểm khó lường.
Xóm người ở U Minh Thượng tuân theo các luật lệ do chánh phủ Pháp đặt ra và không đặt ra.
Người thốt câu nói ấy cho tôi nghe, là ông hội đồng Liệt, một chủ ruộng lừng danh gốc U Minh Thượng. Năm nay ông hội đồng đã bảy mươi tuổi, cầm cự với chứng bịnh nan y, nhờ thỉnh thoảng hút vài điếu á phiện (theo toa đặc biệt của bác sĩ). Ông tản cư ra chợ từ năm 1946, hùn vốn mua bán.
Và để minh chứng, ông hội đồng mời tôi nằm xuống chiếc gối bằng sành để ngửi khói. Ông cho rằng á phiện làm cho tâm hồn sáng suốt, bình tĩnh và người nằm bên cạnh (như tôi) sẽ bớt hoài nghi khi thâu nhận những chuyện khó tin xảy ra hồi mấy chục năm trước. Đời là hư vô!
Hồi gần cuối năm 1940 thì phải, ông huyện Hàm T kiêm chức cai tổng bỗng nhiên truyền lệnh cho chú hương ấp C:
- Phải bắt tất cả những người trốn thuế thân rồi giải họ đến nhà tôi! Kỳ hạn hai ngày.
Hôm sau chú hương ấp đến khúm núm xin gặp ông huyện Hàm:
- Bẩm quan, tôi đã tuân lời, đâu đó xong xuôi, đầy đủ.
Ông huyện Hàm sửng sốt, rời chiếc ghế trường kỷ:
- Bộ mầy giỡn với tao sao chớ? Bắt được mấy đứa?
- Dạ hơn hai chục.
- Họ ở đâu rồi? Tại sao không cho biết trước để tao giao cho mày vài chục cái còng?
Chú hương ấp càng sợ sệt, liếc nhìn phía bến sông rồi nói khẽ:
- Bẩm quan, tôi giải họ tới đây rồi. Họ ngồi lủ khủ trong chiếc ghe của tôi đậu tại bến. Vì thiếu còng nên tôi tạm buộc tay họ bằng dây bẹ chuối.
Nghe chưa dứt lời, ông huyện Hàm bước tới đóng cửa kín mít, gài chốt cẩn thận. Mặt chú hương ấp tái mét, chú quỳ xuống lạy:
- Xin quan xét lại cho tôi nhờ!
Ông huyện Hàm chụp lấy cái chuông nhỏ, rung lên. Leng keng! Leng keng!
Giọng của ông huyện nói xen vào tiếng chuông:
- Cậu Hai đâu? Nhốt thằng này trong chuồng khỉ lập tức.
Từ phía nhà dưới, cậu Hai đáp:
- Con đây. Có con đây. Hồi lâu, cậu Hai nói tiếp:
- Còn chú hương ấp kia! Sao chưa chịu vô trong chuồng khỉ dưới này mà ngồi? Xuống đây!
Chú hương ấp lồm cồm đứng dậy, đi rón rén xuống nhà dưới. Cái chuồng khỉ hiện ra trống trơn, đại khái giống như kiểu chuồng nuôi chồn, chung quanh giăng lưới dây kẽm.
Cậu Hai đi tới đi lui, cầm trái chuối vừa lột vừa ăn ngốn, mái tóc chải láng bóng. Cậu trợn mắt:
- Thì vô trong lồng đó cho cha tôi mát ruột. Lát nữa mình tính toán sau, chuyện dễ quá. Khỉ nhà bữa nay ra vườn dạo mát rồi.
Nghe qua hương ấp mừng phấn khởi, toan ngỏ lời cám ơn cậu Hai nhưng cậu đã bước ra cửa sau đi mất dạng. Hương ấp tự ý ngồi xuống, mở gói thuốc rê, vấn hút. Theo lời đồn đại của giới thân cận thì cậu Hai chỉ mang tật “rắn mắt”, ngỗ nghịch, chớ chưa đánh đập, chém giết ai bao giờ. Đối với cha mẹ, cậu vẫn ngang tàng như thường. Nghe đâu, phen đó cậu tập dượt võ nghệ ngoài sân, thường lệ vào mỗi buổi sáng, rồi vào nhà xăm xăm đến sát bên cạnh bà huyện Hàm. Biết phận mình là kế mẫu, bà huyện sẵn sàng nêu gương ôn hòa, khoan dung để tránh tai tiếng không hay về mẹ ghẻ con chồng.
- Này cậu Hai! Cậu làm gì vậy? Khó coi quá.
Cậu Hai chống nạnh, ưỡn ngực nói:
- Gì mà khó coi! Tập nghề võ lai rai chơi vậy thôi mà bà!
- Nhưng cậu đã lớn tuổi, có vợ, có con. Cậu tha hồ tập dượt ngoài sân nhưng đứng kế bên tôi, xin cậu đường hoàng một chút.
Tức thì cậu Hai chụp cây kéo, nhấp lưỡi kéo thật nhanh để thị oai rồi kê lưỡi kéo vào đầu tóc của người dì ghẻ.
Bà huyện trẻ tuổi la rú lên:
- Trời! Ông nó ơi! Cậu Hai đòi cắt đứt đầu tóc tôi nè!
Từ trên dinh đường, ông huyện chụp lấy cây roi mây thật to, chạy xuống, đập túi bụi. Cậu Hai nhanh chân bôn tẩu, nói vói lại với cha:
- Xí hụt! Ông dám đánh tôi nhưng nào trúng vào tôi! Xí hụt! Đây là đường quờn “chung cổ tề minh”. Chuông và trống kèn vang một lượt. Tay múa, chân đá!
Ngồi trong chuồng khỉ, chú hương ấp vấn thêm điếu thuốc.
Cậu Hai bước vào nhà nghiêm mặt:
- Này hương ấp! Nãy giờ ba tôi có xuống đây không?
- Dạ không.
- Chắc ông mê xem chuyện Phong Thần, Tây Hớn gì đó. Tôi long trọng cho phép chú bước ra khỏi chuồng khỉ để chờ coi ba tôi tính sao cái đã!
Tuy mừng thầm nhưng hương ấp vẫn dè dặt lắng tai nghe từng tiếng động ở nhà trên. Dường như cha con ông huyện nói qua nói lại khá lâu, nói nhỏ nghe xì xào. Chừng trở xuống mặt mày cậu Hai tươi rói:
- Ra mau! Mình có chuyện đi gấp. Ba tôi đã tha tội cho chú.
Chú hương đáp:
- Dạ, cám ơn cậu Hai. Tôi có tội nhiều lắm.
Cậu Hai bỗng trợn mắt:
- Ông xạo quá! Ông biết tội gì không?
- Dạ tôi chưa biết tội của tôi.
- Chưa biết tội mà chịu tội thiệt lạ lùng như người không vay mà đòi trả nợ. Ba tôi phạt ông hai cắc bạc về tội gây náo động. Vào hừng sáng ông dẫn tới đây hàng chục người lực lưỡng. Để họ chạy ào vô ăn cướp nhà này hả?
- Tôi chịu phạt. Chẳng hay quan huyện dạy làm sao? Mấy người đó quả tình chưa đóng thuế thân nên họ tới chịu tội.
Cậu Hai chụp lấy cái nón nỉ, đội lên đầu rồi day vào vách:
- Cầm cây dầm đó. Đi theo tôi.
Nỗi lo sợ càng ám ảnh chú hương ấp. Hai người bước ra cửa sau rồi đi vòng xuống bến. Đôi chục người thiếu thuế vẫn ngồi dưới ghe. Họ ngưng tất cả câu chuyện. Kẻ gan lì nhứt là anh chàng hút thuốc ngồi sau lái. Tuy vậy, khi thấy cậu Hai bước xuống cầu ván, cũng đành quăng điếu thuốc cháy dở xuống nước.
- Này bà con nghe kỹ! Gần tết, ba tôi hiền lắm. Ông ra lịnh phạt mỗi người hai cắc. Có ai cự nự gì không?
Cả bọn im lặng. Cậu Hai hất hàm:
- Trả lời đi chớ?
Anh chàng hút thuốc khi nãy đánh bạo nói:
- Thưa cậu, phạt mà chừng nào mới đóng thuế chánh thức?
- Ba tôi tha bổng cho bà con về tội thiếu thuế thân vì tiền thuế là của Nhà nước Tây bày ra. Ba tôi làm việc cho Tây mà ghét Tây lắm. Khi nãy thấy bà con tới đây, ba tôi giận vì bà con dại khờ quá. Ai đời bị trói bằng dây chuối mà không chịu bứt dây để tẩu thoát? Hai cắc là tiền phạt về tội dại khờ đó!
Cả bọn thở phào, vừa mừng vừa giận, rồi từ từ vung tay, bứt toang mớ dây chuối khô héo, quá bở.
Cậu Hai thúc hối:
- Anh em bơi ghe về U Minh Thượng, tự do. Hương ấp nhớ kỹ tên họ từng người rồi góp tiền phạt, đóng trước Tết.
Chờ bọn người ấy bơi ghe đi khuất, cậu Hai cười to:
- Cho họ đi phứt cho rồi. Để chần chờ, họ làm “reo” đòi ăn cơm trưa, tốn hao lắm. Tôi mà làm sao mắc mưu họ được!
Bước xuống chiếc xuồng nhỏ, hương ấp ngoan ngoãn ngồi sau lái mà bơi, đặt mái dầm thật nhẹ sợ gây tiếng động hoặc làm cho xuồng nghiêng.
Cậu Hai nói:
- Bơi mạnh tay lên. Mình cần đi theo tụi nó, để tụi nó tưởng mình tha bổng vì sợ sệt. Tụi nó đứa nào cũng có vết, có thẹo: thiếu thuế thân năm sáu năm liên tiếp, bị tình nghi chống nhà nước Pháp, tù vượt ngục, ăn trộm trâu, nên chẳng đứa nào dám ra chợ Rạch Giá mua bán hoặc sắm đồ tết. Bị phạt hai cắc thì tụi nó mừng như cha mẹ đẻ lần thứ hai. Bằng không thì bị giải ra chợ ở tù, năm sáu bản án chồng lại. Nè! Chú có nghe hồi nãy tôi nói tới hai tiếng “tự do” không? Tôi nói để “bắt nhãn”, để tụi nó hiểu ngầm rằng tôi biết lý lịch từng đứa. Đứa nào cũng muốn tự do.
Mái dầm của hương ấp khuấy nước đều đều. Một con muỗi đáp ngay màng tang, cắn no máu; hương ấp chưa dám buông dầm đập muỗi e tiết lộ một cử chỉ khác thường.
- Chú hương ấp... thì lai lịch cũng giống hệt tụi nó thôi.
Giật mình, chú hương ngưng tay lại:
- Trời, tội nghiệp cho tôi mà cậu Hai! Tôi theo chánh phủ Pháp, trung thành.
- Giả ngộ hoài! Chú họ Lê, tên Mẹt. Ma quỷ nó tin lời khai của chú chớ ai mà tin. Chú cũng dám là Nguyễn Văn Quỵt, tù vượt ngục gì đó. Mà thôi, cứ bơi xuồng, bơi tự do kiểu mấy cha nội hồi nãy. Đ.m. mấy cha chơi “cuội” theo kiểu dân thất nghiệp rủ nhau đánh võ đài ăn tiền độ, chú là đồng lõa!
- Tội nghiệp tôi mà cậu Hai.
- Đừng giận tôi làm chi. Tuổi chú đáng cha đáng mẹ. Ủa! Bơi xuồng mau lên chứ. Cốt ý của tôi là “hù” chơi cho chú sợ, để chú bơi lẹ hết tốc lực. “Mau lên!” “On”! “Đơ”! “On”! “Đơ”! Hễ tôi đếm tới “Troa” thì chú giống như tụi nói. Nguyễn Văn Quỵt mà khai là Lê Văn Mẹt! Bữa nào tôi dẫn chú ra chợ, cho Tây nhìn mặt, biết đá vàng với thiên hạ! “On”! “Đơ”!
Đến xóm giữa U Minh Thượng, họ dừng lại địa điểm gọi là Bảy Ngàn. Nhiều người còn quan niệm rằng: đồng bào ta chưa ý thức rõ rệt về không gian nên dùng những đơn vị đo đạc quá co giãn: xa hai doi đất một “nghìn”, đi nửa ngày đường. Địa danh Sáu Ngàn nói trên chứng minh điều gần như trái hẳn. Sáu Ngàn tức là khu vực cách xa bờ kinh Xáng cỡ ngàn thước tây.
Nhà cửa ở đây thưa thớt, đôi khi không vách.
- Bây giờ mình ghé nơi nào, thưa cậu Hai?
Cậu Hai nhìn mấy con chim già sói khổng lồ đậu phơi nắng trên ngọn tràm:
- Bậy quá! Hồi nãy tôi quên cây súng “cà líp xây”. Thôi, ghé lại nhà chú. Rồi mình đi dạo xóm. Tôi muốn ghé như vậy để gây thế lực cho chú.
Xuồng ghé bến. Thím hương ấp cúi đầu chào cậu Hai. Nhà hai bên bờ rạch đều mở cửa, ai lo việc nấy. Cậu Hai ghé vào tai chú hương ấp mà nói khẽ:
- Tụi nó dể ngươi vì hồi nãy tôi tha tội, chẳng giam giữ đứa nào. Nhứt định tụi nó biết trước cuộc thăm viếng bất ngờ của tôi. Tụi nó muốn khiêu khích tôi.
Câu nói thốt ra, tỏ rõ từng tiếng như hăm dọa. Thái độ của cậu Hai càng trở nên khó hiểu khi cậu gạt ngang lời kính cẩn của thím hương ấp:
- Tôi đâu mỏi chân hoặc đói bụng khát nước, nếu muốn nằm nghỉ, ăn uống thật ngon thì tôi đã nằm nhà. Cám ơn. Bây giờ chú hương dạo xóm với tôi.
Con đường dọc theo bờ kinh hơi sầm uất, cỡ năm mười bước là phải nhảy qua mương nhỏ. Bỗng nhiên cậu Hai quát to:
- Anh kia! Dừng lại.
Chú hương ấp ngơ ngác, chưa hiểu ất giáp gì ráo; trước mặt cậu Hai chỉ có một ông lão đang hì hục đội mười bó rơm trên đầu. Nghe gọi bất thình lình, ông lão đứng nhìn.
- Ông biết ông có tội gì không? Ông già?
- Dạ không biết, thưa cậu Hai.
- Tội vô ý hủy hoại sanh mạng.
- Dạ sanh mạng của ai vậy cậu?
- Của ông chớ của ai? Rủi gặp kẻ gian ác, họ châm lửa đốt rơm thì ông hóa ra tro bụi. Tôi phạt hai cắc. Lát nữa, hương ấp lại nhà ông mà góp tiền nhớ chưa!
Chập sau, hai người đi qua cầu khỉ, dạo bên kia bờ rạch. Cậu Hai huýt gió bản nhạc Tây rồi chợt cười vang:
- Coi kìa hương ấp, con mẹ ấy phạm tội sát nhân. Chân cậu bước nhanh rồi dừng nơi đầu cầu thang kiểu cầu mà đồng bào thôn quê bắc thả xuống nước để rửa ráy và tắm. Ngồi khuất mình dưới nước, một thiếu nữ nhô đầu lên, ở trần nhưng kéo lưng quần che kín ngang nách.
Thấy chuyện hơi quá đáng, chú hương can gián:
- Thưa cậu, con gái tắm dưới sông. Nếu có gì vô lễ, cậu gọi lên nhà hoặc rầy la cha mẹ cô ta cũng được.
Cậu Hai nói gắt gỏng:
- Chú thấy cái gì không! Bộ chú tưởng tôi mê gái hoặc ăn nói thô tục sao chớ. Thấy cái gì lạ không?
Chú hương nhướng mắt nhìn thiếu nữ rồi nói rỉ vào tai cậu Hai:
- Dạ con nhỏ đó lớn bụng.
- Có chửa thì nói có chửa chớ gì mà lớn bụng. Tại sao chú nói nhỏ tiếng quá vậy? Chuyện đại sự. Chú biết điều nguy hại đó chưa. Tôi để chú nói trước, bằng nói trật tôi cách chức lập tức.
Là người lớn tuổi, hiểu rành cái phương pháp suy luận tréo cẳng ngỗng của cậu Hai, chú hương ấp nói khẽ:
- Dạ, đàn bà có chửa mà ngồi ngâm bụng dưới nước như vậy, chắc chắn đứa nhỏ trong bào thai bị ngộp thở. Để tôi bắt buộc con đàn bà nọ đóng tiền phạt hai cắc cho cậu.
Gian phòng trở nên im lặng. Ông hội đồng Liệt tự ý ngưng nói. Tôi ngáp dài, nghĩ rằng theo đà tưởng tượng ấy, ông hội đồng sẽ thêu dệt thêm hàng trăm câu chuyện cho đến sáng. Thời Nhựt Bổn đánh Trung Hoa tôi đã nghe nhiều tay nằm hút á phiện suốt ngày, đọc có một thứ nhựt báo mà dám bàn tán thao thao bất tuyệt về tình hình quốc tế, về chiến lược quân sự như là ông Tôn Tử tái sanh. Ông hội đồng này phải chăng đã cố tình nói sai sự thật? Tôi nhìn lên trần nhà, theo dõi một con thằn lằn bạch đang rình mồi đớp muỗi. Qua những mẩu chuyện tôi chỉ thích thú khi nghe ông hội đồng nhắc đến cái cầu tắm dưới sông. Danh từ ấy đáng chú ý. Ở miền quá nhiều ao, đầm, sông, rạch thì cái phòng tắm, cái chuồng tiêu đều đặt trên dòng nước, muốn đến đó phải qua một cái cầu. Tôi liên tưởng đến quyển sách khảo cứu về các kiểu nhà ở vùng Đông Nam Á, một hình thức văn minh trên sông nước.
- Nãy giờ cháu nghe bác nói chuyện gì không? Bác nói toàn sự thật, dường như cháu chưa tin.
Tôi đáp nhanh để tránh sự hiểu lầm:
- Thưa bác hội đồng, cháu tin lắm. Vì bác sống vào thời xưa, trong cuộc.
Ông hội đồng trố mắt:
- Cháu nói sao? À, có lẽ cháu ngỡ rằng bác đây là ông hương ấp ngày xưa dẫn đường cho cậu Hai! Thói thường, làm kẻ nói hươu nói vượn để rốt cuộc khen ngợi mình một cách khéo léo. Ông hương ấp là ông hương ấp. Hội đồng Liệt này là hội đồng Liệt, hai người khác nhau đó cháu.
- Vậy lúc đó bác là ai? Bác ở đâu? Làm sao mà chốn U Minh Thượng lại nảy sanh được chức hội đồng sang trọng hơn chức “cậu Hai”, chức “huyện Hàm”. Thú thật với bác cháu chưa hiểu nên vô tình làm bác phiền lòng.
- Chờ một chút, bác sẽ trả lời vắn tắt, chắc phen này cháu lại càng không tin... Bác hút thêm một cặp mới được. Á phiện giúp mình giàu trí tưởng tượng để bày mưu kế hoặc nói dóc. Á phiện cũng giúp mình quên khổ nhục. À, bác nói tới đâu rồi?
- Dạ tới lúc cậu Hai phạt vạ cô gái ngâm cái bào thai dưới nước, khi tắm.
- Đúng vậy. Phạt xong, cậu tiếp tục hành trình, mặt mày vênh váo.
Quá thắc mắc, tôi hỏi:
- Thưa bác, tại sao dân U Minh Thượng lại ngoan ngoãn chịu phạt vô lý như vậy. Người Việt Nam mình vốn nóng tánh, dám sống chết, liều lĩnh, ít ra họ cũng phản ứng lại.
Ông hội đồng vội ngắt lời tôi:
- Cháu đừng nóng nảy. Sau khi phạt cô gái nọ, cậu Hai và hương ấp đến căn chòi của bác. Hồi đó bác được dân trong xóm gọi là Tư Liệt. Tư Liệt này hồi đó thích uống rượu. Thuở đó, tôi đi suốt ngày trong rừng, làm nghề bắt trăn. Cháu nhớ: đốn củi thì đóng thuế, còn bắt trăn thì miễn thuế. U Minh Thượng thiếu gì trăn. Đến mùa, trăn đực và trăn cái hội lại, mê man hưởng phút trăng mật. Mình gặp quả tang, bắt trọn gói dễ dàng. Da trăn lột bán rất mắc, họ xuất cảng để làm bóp đầm, dây nịt. Hôm đó, tôi bắt được bốn con trăn, bán gần hai đồng bạc bày tiệc ăn mừng với anh em bạn đãi món đặc biệt. Đó là hai hộp sữa bò và hai cân đậu xanh!
Ai nấy đều tán đồng. Họ cho rằng đời mình uống rượu đã nhiều nhưng thiếu chất sữa bò. Đối với đồng bào ở thôn quê thời xưa, khuấy sữa đặc vào nước sôi mà uống là điều vô lý, chỉ dành riêng cho con nít mới đẻ hoặc những cụ gần đất xa trời, cơm cháo nuốt không vô. Vả lại, sữa hộp rất hiếm, bán quá mắc.
Bọn chúng tôi lui cui đốt lửa, ngâm đậu, khui hộp sữa để thí nghiệm nồi chè đặc biệt. Ai nấy cười nói huênh hoang, bỗng nhiên cậu Hai và hương ấp bước vào.
Chúng tôi đứng dậy chào, cậu Hai nói:
- Đường ở đâu? Tôi không thấy? Các cha này làm cái gì lạ quá! Hồi cha mẹ đẻ tới từng tuổi này, tôi chưa thấy ai ngạo mạn như vậy. Cha mẹ tôi sang trọng mà chưa dám xài phí theo kiểu của mấy cha đó! Hồi sáng tới giờ, tội này là tội nặng nhất so với tội trốn thuế thân, tội có thai mà tắm. Cả bọn im lặng.
Cậu lại nói:
- À! Tôi biết rồi mấy người ăn uống sang trọng trước mặt tôi để chửi tôi. Nấu chè với sữa hộp! Muốn làm vua xứ này hả?
Tôi thay mặt anh em để trả lời:
- Thưa cậu, cậu suy nghĩ quá xa rồi.
Cậu Hai quát:
- Câm miệng lại. Đừng vô phép, chưa chi đã cắt đứt lời nói của tao. Tư Liệt! Mầy biết tao muốn nói điều gì không? Đồ thâm độc! Mầy nấu đậu xanh với sữa bò thay vì nấu với đường để ám chỉ rằng gia đình tao bực nhứt vùng này nhưng cũng chưa dám tiêu xài như vầy!
Tôi đáp:
- Tụi tôi đâu dè cậu lên đây thăm viếng dân tình. Có lẽ cậu tức mình, ganh tị với cái sung sướng! Còn bảo rằng tụi tôi khoe tiền thì vô lý quá. Lâu lâu bắt được vài con trăn, thử bày cách ăn uống này để bù đắp cả một cuộc đời hẩm hiu.
- Mầy nói tao ganh tị với mầy hả? Đi theo tao mau lên. Lát nữa mầy trả lời với ba tao.
Đến nhà ông huyện Hàm, tôi ngồi chờ hồi lâu. Chẳng hiểu cha con ông huyện bàn tán với nhau điều gì, chỉ biết là chập sau người nhà của ông đuổi hai con khỉ đột trong chuồng ra, rồi nhốt tôi vào đó thay thế. Tôi chưa tin rằng: Khỉ là thủy tổ con người. Vì vậy, ngồi trong chuồng khỉ, tôi dửng dưng, chẳng thèm suy nghĩ về lẽ tuần hườn, đầu thai. Hồi sau, cậu Hai xuống nhà gặp tôi. Cậu ta không cau có, la hét như tôi tưởng:
- Này Tư Liệt, ba tôi nói đây là thể diện của nhà nước Pháp. Nếu, bọn người bất hảo ở U Minh Thượng đều ngỗ nghịch phạm thượng như chú thì lần hồi có loạn lạc, nhà nước Pháp kéo binh vô bắn giết, tốn hao xương máu người An Nam mình. Ba tôi cũng chẳng muốn bỏ tù chú hoặc hành hạ thân xác chú. Ổng bảo tôi tới đây khuyên nhủ chú nên liều mạng!
Nghe qua, tôi sảng sốt. Cậu Hai nói tiếp:
- Ủa, tôi nói thật. Làm liều chứ chưa phải liều mạng! Chú nên chuộc tội cho chú và chuộc thể diện cho tôi. Lát nữa, chú phải ăn một cục cứt khỉ! Dễ quá! Chết chóc gì mà sợ! Tôi cần có tiếng đồn đại trong xóm như vậy thôi! Rồi ba tôi tha tội cho chú về ăn tết. Uống thử đi, rồi muốn nấu chè với sữa bò hay sữa cọp, sữa nai gì cũng được. Đây là thể diện dòng họ tôi. Tá điền mà ăn uống sang trọng hơn chủ điền, đó là tội khinh quân.
Tôi mỉm cười. Quá giận, tôi trở nên tỉnh táo lạ thường. Đời là thế. Thánh nhân đã nói: sanh, lão, bịnh, tử là thế. Tôi gật đầu, kèo nài:
- Cám ơn cậu Hai, nhưng tôi nào phải là thánh nhân hoặc là anh hùng. Họ dám lãnh bưng chén thuốc độc lên môi để chết vinh. Đằng này, bưng chén cứt khỉ uống để mà sống nhục, khác xa nhau quá!
Cậu Hai cười giòn:
- Tư Liệt ăn nói nghe ngộ thật. Ăn cũng ngộ mà nói cũng ngộ. Chú muốn gì?
- Tôi muốn uống một “xị” rượu, để quên mùi trần thế trước khi chịu hình phạt.
- Dễ quá! Vậy mà nãy giờ chú nói xa nói gần, nói cái gì mà thánh nhân anh hùng. Rượu đây. Uống cái này rồi nhớ uống luôn cái thứ kia nghe cha nội! Gọi là... Hơi men khiến tôi ngà ngà say. Tôi uống nhanh cái chén đựng “cái thứ kia” rồi đi tắt ngang rừng tràm, về xóm Bảy Ngàn. Ai hỏi câu gì, tôi đều nín lặng. Sự nín lặng không là vàng, là bạc, là chì nhưng là thứ xấu xa nhất. Đoán chừng hai ba hôm sau cậu Hai sẽ cho người đến xóm Bảy Ngàn loan tin ấy để hạ nhục, tôi rút vào U Minh qua tận nơi giáp ranh với rạch thầy Quơn mà cất chòi, đốt lửa. Lửa cháy rừng để lộ ra một giồng cao ráo, đào xuống là gặp mạch nước ngọt. Thế là đại phú do thiên, tiểu phú do cần. Tôi làm giàu, trở thành điền chủ là nhờ tai nạn ấy và nhờ thời vận.
Thuật chuyện tới đây, ông hội đồng Liệt lồm cồm ngồi dậy, rót nước trà đậm, rồi nằm trở xuống chiếc gối sành. Động tác của người ghiền á phiện “quanh quẩn mãi với một vài ba dáng điệu”, vì thiếu am tường về kỹ thuật chuyên môn tôi khó tả lại. Tôi từng nghe vài bạn quả quyết rằng: qua cách khui hộp nhựa, cách cầm tiêm, ta có thể phán đoán nội tâm của người bạn ghiền. Nãy giờ, dường như ông hội đồng Liệt bộc lộ nhiều cảm tình đối với tôi hơn trước. Mắt ông nheo nheo, “tay cầm tiêm như Triệu Tử cầm kích, mặt nhìn đèn như ông Khổng xem thơ, khói lên nghi ngút như Quan Công đốt núi” ngửi mùi khói thơm. Ông cầm cái que sắt, nướng chút gì trên ngọn đèn rồi vo viên, nhét chất đen đen láng láng ấy vào lỗ của dọc tẩu. Bỗng dưng, tôi mỉm cười, sực nhớ cái chất đen pha trong chén nước mà ông đã uống hồi xưa để thoát ra khỏi cái chuồng khỉ của cậu Hai.
Tuy nhiên, tôi cảm thông với nỗi lòng của riêng ông: dùng men rượu để đánh tan cái mùi hôi của phân khỉ, lập nên sự nghiệp bất thình lình. Rồi lạc lõng khi về già, đêm đêm nhờ mùi thơm của nàng tiên nâu mà gợi lại ký ức. Một cái vòng luẩn quẩn để giữ thể diện!
Ông hội đồng nói như thúc đẩy tôi:
- Sao im lìm quá vậy? Té ra cháu chưa tin nỗi khổ nhục của tôi hồi xưa. Cháu giống hệt mấy đứa con ngớ ngẩn, bất hiếu của tôi. Chắc là cháu hồ nghi tôi nói dối để giảng đạo lý.
Tôi đáp nhanh để ông hội đồng đừng giận:
- Dạ cháu tin lời bác lắm lắm. Những chuyện như vậy thiệt là...
- Thiệt là sao?
Tôi lúng túng:
- Thiệt là xứng đáng ghi vào loại sách Tang Thương Ngẫu Lục, Kim Cổ Kỳ Quan. Thú thiệt với bác, cháu chưa đọc mấy quyển sách đời xưa đó. Nhưng nghe qua cái tựa ngồ ngộ cũng đủ vui, đủ mệt rồi.
Một người hàng xóm
Vương An bừng mắt, lên tiếng. Đó là giọng rên bất mãn, khi cảm thấy đói. Nắng chói vào, từ cánh cửa mở rộng. Vương An nhắm mắt lại, dỗ giấc ngủ, nhưng cay mắt quá, bèn kêu lên vài tiếng não nuột, ư hư, ha... Xung quanh Vương An là khoảng trống, thế là tung chăn, ngồi dậy, bước chập chững như người say rượu, lần tay vào vách. Đến ngưỡng cửa, Vương An ngồi xuống, rú to lên để than van niềm cô đơn. Rồi nằm sắp, úp mặt xuống gạch, tay chân cựa quậy như con cua, như con nhện. Hai chân đập xuống, đụng vào gạch, càng đập mạnh, càng đau. Sau rốt, từ cửa miệng Vương An vang ra thứ âm thanh quái đản của con thú bị thương. Vương An trườn tới, hai tay chỏi lên, rồi buông xuôi.
Một bà lão bước vào, tay bồng đứa bé, tay nâng cái bánh bao to, trắng phếu, cái bánh nhưn thịt, có hột vịt, lạp xưởng. Vương An ngồi dậy, dựa lưng vào vách, bóp méo cái bánh, cắn một miếng, nhai thử rồi buông ra, nằm dài, rú lên.
Bà lão chạy tới, hươi tay đập mạnh vào mông Vương An rồi lột cái quần ướt mềm. Vương An ù lì, nằm tại chỗ, trong vũng nước nhầy nhụa, không kháng cự, nước mắt tuôn khá nhiều, mồ hôi lại chảy ra, chan hòa với mớ nước miếng. Nắng cứ lên, phản chiếu. Vương An đột nhiên ngồi dậy, liếc ra ngoài cửa.
Tôi ngồi đọc báo, theo dõi chiến sự. Những màn biểu diễn đượm vẻ “hiện sinh”, “hiện hữu” của Vương An chẳng còn gì là mới mẻ cả. Chú Hai, cha của Vương An dừng ngang cửa:
- Chào thầy Hai. Thầy Hai ở nhà, chưa đi làm? Hồi sáng nghe nói nổ lựu đạn ở chợ Tân Định, lính bố ráp.
Tôi đáp:
- Lát nữa phải đi. Chú Hai về sớm?
- Bữa nay ngày mười bốn An Nam, bán đắt lắm, người ta mua đồ về ăn chay. Vợ tôi giữ cái sạp “chạp phô” để tôi về lo cho A Ốn.
A Ốn là tên gọi của Vương An. Chú Hai sanh trưởng tại vùng cầu Ông Lãnh, tên chú là Vương Tường, năm nay khoảng năm mươi tuổi. Chú là người láng giềng trầm lặng, đóng cửa, ít cho con đi chơi ngoài ngõ hẻm. Người trong xóm khen ngợi: Chú đàng hoàng, chưa gây gổ với ai. Tôi nhận xét: Chú là hạng người chí thú làm ăn, “chơi bời kỹ”. Hai vợ chồng chú thay phiên nhau bán hàng trong nhà lồng chợ Thái Bình, mấy đứa bé, tất cả năm đứa, được nuôi nấng đầy đủ, nhờ sự chăm sóc của người quản gia lớn tuổi. A Phò, gọi bà Phò. Năm ngoái, một đứa con gái của chú Hai nâng cái chén đầy cơm, vừa đi vừa ăn trước cửa, vô tình nó lủi vô mình tôi, chén rơi đổ. Chú Hai hay được, trách mắng đứa bé rồi đích thân gặp tôi xin lỗi, mời đến uống trà. Lần đầu tiên, tôi vào nhà chú Hai. Cả một sự bừa bãi: Như cái nhà kho chứa hàng: nào tàu hủ khô, củ cải muối, củ kiệu, muối bọt, mỗi thứ chừng năm ba chục ký lô. Lại có năm ba khạp tương, hàng trăm chai tàu vị yểu, hàng chục hộp nấm đông cô, bún phơi khô... la liệt dưới gầm giường, trên gác, dưới bàn ăn cơm. Sách báo thì vô số kể. Chú Hai luôn luôn tích trữ hàng chục ký lô, đem về rọc nhỏ. Lúc rảnh rang bà Phò khuấy hồ, dán bao để gói hàng. Người trong xóm lo ngại, nhà chú Hai chứa toàn chất “bắt lửa”, rủi bề gì gây tai họa không đo lường được. Uống trà xong, chú tự giới thiệu bằng cách viết lên giấy, nhờ đó, tôi biết chú có năm đứa con, mỗi đứa mang cái tên khá đẹp, nếu đọc theo chữ Hán:
Đứa gái lớn là Vương Thái Phụng, gọi nôm na là Thởi Phùng, các em gọi nó là A Ché (tỷ là chị)
Thằng trưởng nam là Vương Khôn, gọi Khoánh, các em gọi là Tò Co (đại ca).
Đứa trai kế là Vương Xương là Vương An, gọi A Ốn. A Ốn, tức là nhân vật rắc rối mà tôi vừa mô tả phong cách ở phần nhập đề.
Ngoài ra còn có hai đứa con gái, ghi vào danh sách này cho sát với thực tế: Vương Kim Ngân, gọi A Ngàn, Vương Thái Hồng, gọi Thởi Hùng. Trong tương lai, còn nhiều nhân vật bé bỏng khác lần lượt xuất hiện. Vợ chồng chú Hai sanh năm một và lấy làm hãnh diện với thành tích ấy.
Chú Hai ngập ngừng:
- Tôi về nhà, lo cho A Ốn.
- Cái thằng Vương An phải không?
- Nó đó, thầy ơi. Cưng nó lắm. Bữa nay nhõng nhẽo, hồi khuya chắc nó bịnh, tôi đánh nó mấy roi, bây giờ nghĩ lại, buồn quá. Nó mập mà đau hoài, tôi mua cái móng con cọp cho nó đeo. Nó biết nói chuyện cũng nhờ thầy “khai khẩu” giùm, thầy quên rồi sao?
Tôi trầm ngâm, sực nhớ hồi năm ngoái Vương An đi bác sĩ về, ngồi cú rũ, rên ư hư. Tôi chạy qua, đứng lại ngưỡng cửa, hỏi thăm. Chú Hai nói: “Nó không biết nói chuyện đâu, nói ít lắm, mang cái tật. Cái lưỡi nó lớn, hình vuông”. Tôi nhìn Vương An, hỏi thử: “Đi bác sĩ bằng xe gì? Xe xích lô hả?”. Bỗng dưng Vương An há miệng, trợn mắt, nói ra hai tiếng thật lớn, như cái máy “ra dô” vặn to:
- Xích... nô
Cả nhà vui mừng, chú Hai, thím Hai mua cua biển thật nhiều, hàng chục con, luộc chín để thết đãi bầy con và người có phép thần thông là tôi. Ăn xong một con cua khá to, Vương An cười mủm mỉm. Tôi dạy nó hai tiếng khác. Nó trợn mắt quát to: “Tắc xi”. Thật là kỳ diệu. Vợ chồng chú Hai hỏi thăm tuổi tác của tôi rồi nhìn nhau. “Thầy Hai tuổi Dần, con cọp. Cái tuổi Dần của thầy Hai... oai linh lắm, không như cái tuổi Dần khác”.
- Bữa nay chú Hai nhờ tôi chuyện gì? Tôi sẵn sàng. Làm đơn xin nhà nước giảm thuế?
Chú Hai ngập ngừng:
- Mời thầy Hai qua nhà.
Vương An vẫn nằm dài, trên nền gạch. Chú Hai rót nước trà, nói giọng kính cẩn:
- Thầy... khoán cái bùa giùm.
Tôi làm thầy bùa hồi nào mà ngày nay chú Hai phong chức cho tôi như vậy? Tôi muốn từ chối, chưa kịp mở lời là chú nói:
- A Ốn bịnh cái miệng.
- Tôi đâu biết khoán bùa.
- À, cái đó dễ lắm. Cái tuổi Dần, con cọp của thầy Hai...
- Thế gian này, trong xóm này, con nhiều người tuổi Dần.
- Nhưng mà cái tuổi Dần của thầy oai linh lắm. Cọp có nhiều thứ, cọp hiền, cọp dữ, cọp đen, cọp trắng, cọp... đi tu lâu năm. Thầy Hai hồi đó ra đời nhằm giờ... con cọp linh.
Nói xong, chú Hai kéo ngăn tủ nhỏ, đem ra cây bút lông, thỏi mực, cái nghiên, rưới nước, bắt đầu mài:
- Lát nữa thầy khoán giùm hai cái bùa ở hai bên gò má thằng A Ốn.
Vì quan niệm đó là trò đùa vô thưởng vô phạt, tôi nhận lời, cầm bút lông múa máy, như viên dũng tướng cầm kiếm:
- Khoán bùa kiểu gì, chú dạy tôi đi.
- Thầy biết chữ Tàu mà. Vẽ chữ hổ, là con cọp đó. Tôi nhúng mớ lông thỏ mềm mại vào nghiên mực, viết thử vào lòng bàn tay. Chú Hai khen ngợi:
- Được rồi. Thầy là con cọp linh, thầy viết lên gò má A Ốn một bên một chữ hổ. Làm vậy, nó nói chuyện mau. Nhờ thầy mà mấy tháng rồi nó nói chuyện nhiều quá.
A Ốn cười hề hề, nhưng khi bút lông cọ vào má, nó nhảy dựng khóc ré lên. Chú Hai nắm tay nó, bồng nó:
- Xúi chẩy, Xúi chẩy. (Thằng nhỏ không tốt).
Tôi thối chí vì nó lắc đầu lia lịa. Chú thò vào túi, đem ra tấm giấy 20 đồng, nhét vào tay. Nó cầm lấy, nhưng cứ phản đối. Tôi thở dài. Chú giải thích:
- Thầy đừng buồn. Nó sợ cái con cọp của thầy đó.
Sau rốt, tôi đem hai đồng bạc tặng cho nó, nó chịu ngồi yên. Tôi viết xong hai chữ hổ là chú khen:
- Tốt lắm. Tốt lắm.
- Vậy là xong.
Nhờ thầy vẽ thêm hai cái vòng tròn ở ngoài cái chữ hổ, như nhốt con cọp trong chuồng.
Lát sau, chú Hai buông A Ốn ra. Nó chạy mất ngoài đầu hẻm, mang theo tiền bạc. Chú Hai nhắc bà Phò:
- Coi chừng A Ốn. Đừng đánh nó. Đi theo nó mà coi chừng.
Sau khi thị oai với con nít, tôi về nhà, sửa soạn đi dạo phố. Khi về, được hay tin: A Ốn đã nhập học, tại trường tư thục Chí Thanh, vào buổi xế. Mấy người dì, người chú của A Ốn đã chọn ngày lành tháng tốt, mua sắm cho đứa cháu cưng nào giấy, vớ, cặp da, thêm cái “kết” bằng vải ka ki. Bà Phò cho biết:
- Thầy Hai ơi, “xí chảy” đi học rồi. Nó vui lắm, bận quần áo tốt lắm.
Tôi ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao A Ốn còn có tên là “xí chảy”, bèn viết lên giấy, mấy chữ Vương An, bà Phò lắc đầu, mượn cây viết viết nhanh lên giấy, hai chữ “tiểu tử”.
Đồng hồ trên vách gõ bốn tiếng. Vì có ý chờ đợi nên thỉnh thoảng tôi nghiêng mình, trông ra cửa sổ, từ bên nhà tôi. Bà Phò nói vọng qua:
- Năm giờ, xí chảy mới về. Còn một giờ nữa, tôi đi rước nó.
Bỗng dưng ngoài đầu hẻm, tiếng khóc nhừa nhựa vang lên, mỗi lúc càng to. Đúng là A Ốn, tại sao cậu ta lại khóc ré trong lúc chưa tan học? Thím Hai - mẹ nó - mặt mày hầm hừ, nắm tay mà kéo lết nó. Trông A Ốn thật buồn cười, thiểu não: đầu đội kết, gắn ngôi sao trắng kiểu Quốc dân đảng, như ông tướng, hai chân mang loại vớ khá cao tận gối, nhuộm từng khoanh đen đỏ xanh vàng, kiểu vớ dành cho “anh chị” múa lân dịp tết. Hai sợi dây tréo quần sắp tuột, còn vướng víu trên vai. Và rõ ràng là không gài nút quần.
Lũ trẻ trong ngõ hẻm xúm nhau bao vây A Ốn và thím Hai.
A Ốn dừng lại, hươi tay. Thím Hai quát to:
- Tụi con nít này làm gì kỳ khôi vậy? Chận đường không cho người ta đi. Ngộ lắm hả?
Hai bên gò má A Ốn còn mấy lằn nguệch ngoạc của chữ hổ, đã lem lấm vì nước mắt. Lúc A Ốn đi ngang nhà, tôi ẩn lánh để khỏi e thẹn. Rõ ràng tôi chẳng có chút oai linh nào cả.
Bà Phò cởi quần, bắt buộc nó tắm rửa. Nó phát chạy, trần truồng. Thím Hai nắm nhanh tay nó, kéo vào nhà rồi chụp lấy cây roi mây. Nó chửi rủa vu vơ, thím đập túi bụi. Nó té xuống, hai chân cựa quậy, tung tăng đôi vớ màu “dã thú”. Lát sau, hai tay nó bị trói, đầu dây buộc vào chân bộ ván. Nó ngồi xuống, chịu phép. Thím Hai quát to như phân trần với hàng xóm:
- Mầy chạy hả? Tại sao mầy ngồi học trong trường rồi mầy chạy băng qua đường? Xe hơi nó cán mầy. Mầy coi xe hơi là đồ bỏ, mầy không sợ chết hả. Tao làm ăn mua bán trong nhà lồng chợ, kiếm tiền nuôi mầy ăn học, mầy biết không? Tại sao trong chợ tao kêu mà mầy chạy, người ta đạp nhằm, mầy lòi ruột. Tao lớn như vầy mà chạy đua không kịp mầy hả? Giỏi lắm, cái chân nào chạy đâu. Chạy hay lắm! Hay lắm!
Một tiếng hay lắm được điểm bằng một ngọn roi khá mạnh tay. A Ốn cựa quậy, đập đầu vào chân bộ ván, xuống nền gạch. Bà Phò can gián, toan giựt roi, nhưng thím Hai đánh thêm:
- Hay lắm. Cái chân này hay lắm. Trói mầy luôn trong nhà. Tao ra ngoài chợ lo công việc mua bán. Tại tao đánh mầy mà tao bỏ bê công chuyện hết... Xúi chảy.
Thím Hai vừa ra, bà Phò khép cửa lại. Tụi trẻ con còn lẩn quẩn nhìn vào. A Ốn nói to:
- Đ.m. tụi bây. Tụi bây cũng ngu như tao vậy đó.
Bộ tụi bây hổng có bị đòn lần nào hả?
Một đứa trẻ hỏi:
- Bộ mày mới đi học?
A Ốn đáp:
- Hổng vui. Học kỳ cục thấy mẹ.
Tôi đến gần cửa sổ, nói đùa:
- Vương An. Biểu bà Phò mở trói cho.
Nó lắc đầu:
- Cái gì mà Vương An. Kỳ cục thấy mẹ.
- Vương An là cái tên A Ốn đó.
- Không có cái tên gì hết. Không biết cái tên. Hồi chiều cô giáo kêu cái tên tao, rồi đánh đít tao, đau quá.
Mười phút sau, chú Hai về.
Mưa lắc rắc, bóng đêm lan tràn quá sớm. Trẻ con chui vào nhà, ngõ hẻm mất vẻ náo nhiệt. Ăn cơm chiều xong, tôi ngồi bên cửa sổ, nghe tin tức chiến sự.
A Ché, chị của A Ốn, bước vào:
- Thầy ơi, ba tôi kêu kìa.
“Kêu” có nghĩa là mời mọc. Tôi hứa:
- Về đi, lát nữa chú qua. Ba làm gì bên đó? Ăn cơm chưa?
- Ăn rồi. Ăn con cua luộc.
Nói xong, A Ché chạy mất, tôi phập phồng, chẳng hiểu lát nữa ăn nói ra làm sao, đóng kịch gì. Chắc chú Hai muốn bàn việc gì quan trọng chớ nào phải mời ăn cơm. Buổi cơm đã tàn, như A Ché cho biết.
Qua nhà chú Hai, tôi thấy A Ché, A Khoánh, A Xén, A Ốn... ngồi trên bộ ván, giành nhau mớ bắp nướng và đậu phộng rang. Chú Hai, thím Hai ngồi đối diện, mừng ra mặt:
- Mời thầy Hai.
Tôi cười gượng:
- Vẽ bùa con cọp cho A Ốn hả? Nó đi học mà tôi không hay. Tại sao nó bỏ lớp, về nhà? Ngày mai, cho nó đi nữa, cho quen.
Thím Hai lắc đầu:
- Thằng đó... ăn không hè.
Chú Hai nói, nghiêm nghị:
- Coi vậy chớ nó giỏi lắm. Nhờ cái bùa, nhờ thầy Hai.
Rồi chú rót nước trà đậm, đem kẹo gừng mời tôi ăn cho ấm, lúc trời đang mưa nhỏ. Câu chuyện cũng khá vui. A Ốn thích đi học, và đòi đi học từ hồi năm ngoái. Vô lớp, nó vui lắm, nói chuyện om sòm. Cô giáo hỏi tên để ghi vô sổ học. Nó nói: “A Ốn, A Ốn mà”. Nghe không được, cô giáo hỏi ba bốn lần, vì nó trả lời ngọng. Nó la lớn: “A Ốn, bộ không biết sao mà hỏi hoài vậy?”. Cô giáo dạy nó: “Muốn đi tiểu tiện thì lên cho cô hay, xin phép đàng hoàng.” Nó cười. Cô giáo sắp đặt cho nó ngồi gần chị nó, anh ruột nó là A Ché và A Khoánh... Trường tư, cái gì cũng dễ hơn trường nhà nước... Vô học, chưa cần nạp khai sanh.
A Ché cho biết:
- Cái thằng Ốn nó ngồi, nó cười, nó nói mỏi chân. Nó chạy lên xin cô giáo đi đái. Cô giáo ừ. Nó chạy ra sân chơi, lâu lắm rồi trở vô. Chừng cô hỏi thì... nó đâu có đái.
A Ốn cười, quơ tay về phía A Ché:
- Nói bậy hoài.
Tôi hỏi A Khánh:
- A Ốn học được chữ nào không?
A Khoánh nói dõng dạc:
- Thằng đó kỳ cục lắm. Đi đái rồi lát sau nó nói với cô giáo: “Cho nó đi ngoài sân chơi, coi xe hơi được không?”. Học trò đứa nào cũng cười lớn. Nó mắc cỡ, chửi cô giáo. Cô giáo đòi phạt quỳ gối. Nó chạy ra ngoài sân, vô nhà lồng chợ kiếm ba tui, ba tui cưng nó lắm. Không thôi thì... xe hơi đụng nó rồi, nó chạy qua hai con đường lận.
Cả nhà cười vang lên trong khi A Ốn nổi giận, nhào lăn xuống nền gạch, chú Hai bước theo, nắm tay nó, vuốt ve nó. Nó nói:
- A Pà. Làm con ngựa... cho tao cỡi đi.
Chú Hai ngoan ngoãn khom lưng. A Ốn nhảy thót lên, thích chí thúc hai chân. Tôi đứng nhìn. Chú Hai trở thành con búp bê cho con đùa giỡn. Đây là đời tư, là sanh hoạt gia đình. Không cần có người ngoài làm khán giả. Thím Hai, bà Phò, anh và chị cả A Ốn ngồi xúm xít, rọc xấp báo cũ, dán bao giấy. Tôi đến đầu ngõ hẻm uống cà phê. Lát sau, gió thổi mạnh, mưa nặng hạt. Trở về, thấy chú Hai đang đứng gần cửa:
- Thầy về nhà sớm hả? Chắc... ông trời mưa sáng đêm. Có máy bay. Thầy nghe không? Đêm nào nó cũng bay tiếp viện. Thằng A Ốn ban ngày thấy máy bay, nói máy bay giống như con cá. Nó không phải như người lớn mà biết lo. Chừng này mà nó ngủ trong mùng rồi.
Ngày hội ba khía
Hồi tháng trước, Năm Hinh thua cờ bạc sạch túi. Về nhà, anh năn nỉ vợ:
- Mình đập con heo đất ra, lấy hai chục đồng bạc bỏ ống đó cho tôi đi làm vốn.
Vợ cằn nhằn:
- Đem đi đâu? Làm vốn miệt nào lận? Bộ ở đây làm ăn không được sao?
Năm Hinh trả lời:
- Đi qua Rạch Giá, xuống miệt biển Xẻo Lá, Xẻo Lúa gì đó. Tôi làm bài toán cho mình nghe. Nè, tôi mua vài thiên bánh tráng, vài yến đường, đậu phộng, dân ở biển thèm đồ ngọt. Tôi bán kẹo, bán chịu, họ cứ ăn, khi nào đánh lưới được cá gộc thì thật là nhứt bổn vạn lợi.
Vì nể uy chồng, người vợ đành trao mười tám đồng bạc. Năm Hinh xuống xuồng, cụ bị theo nào là nóp, nồi, chảo, gạo. Qua chợ Long Xuyên, mua bánh tráng, đường đậu phộng rồi bơi xuồng, quên ăn cơm. Ban đêm, anh không muốn ngừng tay. Tết trung thu ở miền đồng quê Rạch Giá nào kém phần thú vị. Lung sen, bãi sậy, bờ dứa nước, hớn hở, xao động lên, chào đón gió biển trăng rừng. Riêng con tim lữ thứ của Năm Hinh là ít nhiều khô héo! Thôi thì tạm thời buộc chặt chiếc xuồng ba lá nọ vào bến của quán chạp phô, bên dòng rạch ngoằn ngoèo. Rạch Xẻo Lá là đây rồi, đặt tên như vậy vì nhiều lá dừa nước, lá lợp nhà. Bao nhiêu người dân chài lưới đang cau mày soi mặt vào ly rượu “công xi”, để tìm hình dáng chị Hằng. Mây đen trôi qua từng chập, lững lờ. Có kẻ hờ hững nhìn trời, thử thu nhặt những sợi tơ trăng ấy, uốn nắn lại trên phím tre cho hợp với lời ca vọng cổ...
Lò kẹo của Năm Hinh bắt đầu hoạt động. Mưa tầm tã không nguôi. Nước ngọt chảy cuồn cuộn, lấn ra biển. Dân Xẻo Lá ngồi cú rũ trong nhà. Biển động, cá tôm đâu mà đánh? Họ nhìn đống lưới cao ngùn ngụt, chất trên bộ ván giữa nhà; mùi tanh của mớ lưới trộn lẫn vào hơi ẩm ướt, mốc meo của giường chiếu.
Thỉnh thoảng vài người khoác áo tơi chạy nhanh, dầm mưa, cắm đầu ngay hướng ông già Hy, nơi anh Năm Hinh ở trọ để thắng đường, làm kẹo đậu phộng. Nhờ lớp bánh tráng bên dưới nên đường thắng hơi lỏng cũng không sao.
Những ngày ra mắt thân chủ, Năm Hinh rắc thật nhiều đậu phộng lên:
- Bà con ăn thử. Ngon lắm. Ở Long Xuyên, dòng họ tôi sống bằng nghề này, cha truyền con nối từ mấy đời rồi, xưa kia ông cố tôi ở Biên Hòa lận.
Có người nói:
- Hèn chi ngon thiệt.
Đắc ý Năm Hinh nói tiếp:
- Chưa ngon đâu! Ở miệt tôi, không ai xài đậu phộng, rắc hột điều mới đúng điệu.
- Hột điều ra sao?
- Đó là hột của cây điều, tức là cây đào lộn hột. Hột đó dính dưới đít trái đào. Hình dáng như trái cật của con heo... Theo phong tục người mình thì cây đào lộn hột rủ quến ma quỷ...
Có người cười lớn:
- Chắc là ma... thứ ma ăn thiếu chịu.
Năm Hinh bình thản:
- Bà con cứ vững lòng ăn. Mai chiều đánh lưới làm cá khô trả lại cũng được. Quen biết với bác chủ nhà thì cũng như quen với tôi.
Ông già Hy mỉm cười. Thân chủ nói thêm:
- Vậy thì dễ quá. Anh đưa vài miếng kẹo nữa để tôi đem về cho sắp nhỏ nó ăn.
Ngày lại ngày, lò kẹo của Năm Hinh “nổi” lên nhanh chóng, đến mức anh phải thức đêm mà thắng kẹo. Nguyên liệu hao hụt, anh nhờ Chệt Kỵ đi chợ “bổ” hàng giùm. Ông già Hy, chủ nhà, thỉnh thoảng nhắc nhở anh:
- Ngủ sớm một bữa đi chú Năm. Làm quá cũng vậy. Cỡ này coi mòi biển động lâu lắm. Mình dưỡng sức ăn thua về lâu về dài.
Năm Hinh nói:
- Bác mệt thì ngủ trước.
Ông già Hy suy nghĩ, gật đầu:
- Mình nên làm việc gì cho đúng hơn. Nghề của chú lụm cụm như mấy ông già. Già như tôi... tôi cũng không làm như chú... Thà là dầm mưa ra mé biển đắp bờ, làm ruộng...
Rồi ông già Hy nằm xuống. Muỗi bu lại như trấu. Chập sau ông gãi chân, gãi tay, cằn nhằn vài tiếng rồi chun vô nóp... Tư bề, lạnh lẽo quá. Sóng biển gào thét triền miên. Gió lộng vào như giúp sức thổi bếp lửa. Năm Hinh hút thuốc, quơ qua quơ lại chiếc đũa bếp, rang đậu cho đều. Vài người kêu cửa, mua thêm ít miếng kẹo. Quần áo họ ướt mèm, anh nghĩ thầm:
- Dân chúng ở đây không biết lo xa, ít chịu khó. May mà mình tới đây thâu tóm mối lợi này. Thứ kẹo đậu phộng ai mà không làm được. Tại sao họ không làm? Hèn chi họ nghèo...!
Bốn mươi mấy ngày trôi qua là bốn mươi mấy ngày mưa gió, khách đến mua kẹo rất nhiều nhưng chưa ai trả tiền.
Năm Hinh đem cuốn sổ nhỏ ra, cầm cây viết chì đồ lại tên mấy người thiếu nợ: Tư Ái ba cắc, “Hai nhà mới” bốn cắc bảy, ông Tư tám cắc, Năm Chòi Mò một đồng... Tổng cộng đến chừng năm chục người, nghĩa là hầu hết xóm Xẻo Lá này. Trăm đồng bạc nợ, trị giá gần một tạ khô cá gộc, đem về Long Xuyên bán rẻ mạt cũng được hai trăm. Từ mười tám đồng bạc vốn mà gầy dựng một số tiền to gấp mười lần. Năm Hinh nghĩ mình đã lập được thành tích hiếm có. Nhưng bao giờ mới thâu được? Nhìn lưới mưa đang bủa vây khắp bầu trời, anh hút thuốc, thở dài.
Ông già Hy bơi xuồng đi thăm ruộng về, tất tả chạy lên nhà:
- Nguy quá chú Năm ơi! Nước tràn bờ ven rồi. Năm nay đói, đói...
Năm Hinh bước ra:
- Nước ngoài biển tràn vô hở bác?
- Nước từ trong ruộng tràn ra chớ! Mưa gì mưa quá đỗi. Mình tính làm ruộng chắc ăn hơn làm lưới. Dè đâu, trời báo nạn, lưới cũng chết mà ruộng cũng chết.
Năm Hinh rầu nét mặt nhớ tới món nợ không biết rồi đây chòm xóm neo số tiền ấy, đợi đến bao giờ mới trả? Anh hỏi:
- Bao lâu nữa trời mới êm, đánh lưới?
- Chú Năm giỡn sao chớ! Mai chiều tới mùa giông Nam, chú chịu khó ở tới tháng Mười Một, chờ gần tết về xứ một thể.
Bao nhiêu hình ảnh đau buồn hiện ra. Anh nhớ tới người vợ hiền Long Xuyên mà hơn tháng rồi không nhắn nhe thư từ gì được. Anh thở dài:
- Làm sao bây giờ. Hồi đó bác nói: Phải thời thì vài ngày họ trả hết. Cứ bán chịu...
Ông già Hy đáp:
- Nhưng chưa gặp thời... Ai muốn dùng dằng làm gì! Đất địa này, không bán chịu, ai mà mua. Chệt Ky bán chạp phô đàng kia dám cho bà con thiếu chịu hai ba năm mà không than phiền... Như vậy mới được.
Năm Hinh hơi bực tức:
- Chệt Ky nhà cửa ở đây. Phận tôi thì xứ xa mới tới lần đầu... Mẹ già, vợ yếu, con thì dại. Điệu này, mai mốt tôi đành bơi xuồng không mà về.
- Đừng giận chớ, chú Năm. Lúc nào dân xóm này cũng sẵn sàng trả nợ. Bây giờ, không có khô cá gộc, trả bằng thứ khác.
- Thứ gì bác?
- Ba khía chớ gì? Bá khía muối để dành ăn. Ở Long Xuyên biết ăn con đó không? Món ăn bình dân, đem về bán lẻ dễ hơn khô cá gộc. Chịu thì tối nay tụi tôi kiếm cho chú vài lu chở khẳm xuồng ăn thua. Nó là một thứ cua, dành cho nhà nghèo. Chú mượn bốn cái lu để đựng... chừng nào đem trả cũng được. Xứ này cần lu để đựng nước ngọt. Dễ dãi như vậy là tới mức rồi...
Dịp may để Năm Hinh rút lui khỏi con rạch Xẻo Lá oan nghiệt này. Anh đồng ý. Vừa chạng vạng, ông già Hy bơi xuồng lại quán Chệt Ky mua chịu chừng hai chục cây đuốc bằng dầu chai. Ông đi xuồng với Năm Hinh dài ra phía vàm biển mà kêu réo:
- Ai bắt ba khía thì đi. Bắt ba khía trừ nợ kẹo nè!
Có đèn chai sẵn rồi.
Chập sau, hàng chục xuồng bơi nhanh theo ông. Đêm ba mươi, trời tối như mực. Nước ruộng chảy tràn qua bờ ven biển. Rừng cây mắm đen ngòm trước mặt như bức tường thành. Muỗi bay vo ve. Gió thổi nhẹ. Ai nấy đốt lên, đỏ rực.
- Ba khía ở đâu sao không thấy? - Năm Hinh hỏi.
Ông già Hy kéo tay anh, chỉ ngay gốc cây mắm trước mặt, hàng trăm con ba khía bao quanh gốc cây, lúc nhúc. Ông nói:
- Mấy gốc cây mắm kế bên đó, đằng kia nữa... cũng vậy.
Năm Hinh nhìn kỹ: lũ ba khía nọ quá đông nhưng hiền hậu làm sao, không quơ càng ngẩng đầu lên để kẹp tay kẻ khác mà tự vệ. Hơn nữa, chúng phân chia từng cặp, con đi sau ráng chạy hơn con trước.
- Tụi nó đánh giặc với nhau, hở ông?
Ông già Hy cười:
- Tụi nó hội. “Hội” nghĩa là hẹn hò nhau tới đây mà bắt cặp tình tự. Cứ vài tháng một lần.
Vừa nói, ông già Hy quơ tay chụp bắt, thảy vào cái giỏ tre lớn. Ham quá, anh Năm bắt chước, mó tay vào. Ông già Hy nói:
- Chụp lẹ tay nó! Chậm là nó kẹp. Làm như thiên hạ kìa!
Năm Hinh nhìn chung quanh ánh đuốc phản chiếu dưới bãi bùn đen, chói ngời, tiếng “xạt xạt” trỗi lên như một bản nhạc lạ lùng. Hàng trăm, hàng ngàn con ba khía bị ném vào giỏ, nhịp nhàng đều đều.
Ông già Hy reo to:
- Được rồi, anh em ơi! Bắt nhiều quá mang tội.
Về nhà trên mười giỏ ba khía gom lại, ba cái lu lớn chở tới, khiêng đặt xuống xuồng của Năm Hinh. Họ để nước muối nửa chừng lu. Con ba khía sống nhăn bị nhốt vào. Đậy nắp kín.
Đêm ấy, ông già Hy thức suốt đêm làm bài toán để Năm Hinh so sánh. Với giá trung bình, bán sỉ, số ba khía này trị giá gấp hai số tiền nợ kẹo đậu phọng. Mấy cái lu thì cho mượn, ông khuyên chở về đây trả, đừng đi luôn mà mang tiếng oán.
Năm Hinh gật đầu. Hôm sau anh xuống xuồng, mượn cây chèo của ông già Hy. Giờ tạm biệt, anh vui trong lòng... Nhưng xóm Xẻo Lá trở nên buồn. Ngày mưa tháng gió, họ đành rút vào nhà mà chờ cơm rồi ngủ.
Năm bữa sau, nửa đêm, ông già Hy bỗng giật mình. Có tiếng ngoài cửa. Rõ ràng giọng Năm Hinh:
- Bác ơi!
- Gì vậy? Ủa, sao trở lại. Bán dọc đường hết rồi hả? Năm Hinh bước vào sắc mặt buồn bã:
- Dạ nó trở mùi... Tới Long Xuyên chắc là thúi hết. Cháu về đây tìm phương kế...
Ông già Hy nói:
- Bởi vì muối lạt quá. Không sao đâu. Thêm chút muối. Sáng mai, lại tiệm Chệt Ky mua vài cân đường, thắng cho gần tới rồi trộn vô... Chú chở đi gấp bán mắc bán rẻ trong vài ngày. Nghề gì làm ăn cũng khó...
- Nghề bán kẹo đậu phộng của cháu cũng vậy. Bác coi công lao từ mấy tháng nay.
Ông già Hy nói:
- Buồn mà chi. Nói thiệt, bác mới xuống xứ này cũng bán kẹo đậu phộng như chú em. Rồi làm lưới, sang qua làm ruộng. Mình vui vì muốn làm được chuyện khó hơn! Bán kẹo, bắt ba khía dễ quá, ở đây không ai làm, không phải tại làm biếng đâu. Bãi dài, biển rộng... thà chịu cực đánh lưới hoặc đắp bờ làm ruộng. Nhờ vậy rạch Xẻo Lá này lần hồi mới thành hình... Mai chiều có vui thì chú trở lại đây luôn cho ấm cúng. Biết chữ nghĩa biên chép nhiều như chú thì làm tới chức cai tuần ở xóm này.
Ngày xưa tháng Chạp
Lẩm rẩm mà mình lưu lạc trên bốn mươi năm. Ừ! Để nhớ coi. Ấp Thiện Tâm tám năm, xuống Ba Láng, Cần Thơ hai năm. Còn lại hai mươi lăm năm, mình phá rừng ở rạch Chà Tre miệt U Minh Hạ này.
Ông Ba Hò suy nghĩ như vậy, thở dài rồi cúi mặt xuống. Mặt trời thoi thóp, gác bóng trên mé rừng tràm mà ông nào hay. Bóng đêm đổ xuống, pha màu nước rạch đen ngòm. Bầy cò trắng bay về gom lại, lượn vòng quanh mấy ngọn tràm, kêu lên “cót cót”. Ba bốn tháng rồi, ông không màng đến cảnh vật bên ngoài nữa. Mười công ruộng, lúa đà chín ngã, ông cũng không chịu khó đi thăm.
Ông chỉ nhớ rượu, đòi rượu. Mỗi cữ ít nhất cũng phải hai xị, nghĩa là nửa lít. Hỏi uống để chi, ông đáp: “Dụng tửu binh đả phá thành sầu”. Nhưng cái thành sầu của ông, thật là cao ngất, dài dằng dặc. Trời còn cho ông sống mười năm nữa là cùng: Mười năm tàn tạ ấy, với hai bàn tay run rẩy, làm sao ông hạ nổi kẻ địch thủ ẩn núp trong thành sầu kia. Đó là sáu năm lúa ruộng lấy lời nhập vốn chạy nhằm hai trăm tám chục giạ. Đó là sáu mươi lăm đồng bạc thiếu chịu ở vài tiệm tạp hóa. Mỗi năm, đến lúc năm cũ bước qua năm mới là lũ địch thủ ấy sung sức lên, công khai đánh hạ ông đúng theo phép nước lệ làng.
- Già mà làm biếng, biết ăn sao không biết trả?
- Đất này của Tây cho tao khẩn. Năm tới tao cào nhà này bỏ...
Nhưng đau đớn nhứt là:
- Tối ngày lo hò với hát chuyện trai gái huê tình. Già vậy là già sao?
Nhè cái tài hoa nghệ thuật của ông mà họ mỉa mai! Ông day mặt che giấu hai giọt nước mắt chịu thất thủ. Vì vậy mà năm nay, ông quyết bỏ xứ Chà Tre này, ra đi phiêu bạt, trước tết. Không còn mấy ngày nữa. Nửa tháng rày há chẳng có từng đàn cu ngói kêu thúc giục inh ỏi bờ tre. Lát nữa, chắc chắn thằng Tịnh, đứa học trò mến nhứt của ông sẽ đến, nghe ông dạy bảo lần chót.
Tay cầm cục mực, cây viết vàng
Vẽ phụng vẽ loan
Vẽ Tiết Đinh San
Vẽ chàng Lâm Sĩ
Vẽ bông hoa thị
Vẽ chữ Đại Tường
Đem về cắm trước đầu đường.
Kẻ đi qua thấy một chữ kim tương.
Người đi lại xem tường văn võ
Trách lòng ai chặn ngõ lấp truông,
Ngăn mây đón gió để con bạn nó thua
Buồn vì tiếng thị phi...
Tiếng hát của thằng Tịnh nghe mỗi lúc càng gần. Câu hát lạ mà quen hồi nào tới giờ ông chưa từng dạy nó.
Thằng Tịnh bước vô. Ông hỏi:
- Ở đâu vậy cháu? Của mấy người gặt ở miệt Cần Thơ đem xuống phải không?
Nó đặt chai rượu trước mặt ông:
- Ông hay quá. Con nhỏ đó gặt kế bên tôi hồi chiều, hò đối đáp một hồi, nói là ở Phong Điền mới xuống.
- Phải. Biết rồi. Câu hát đưa em trong nhà, chớ nào phải câu hát hò. Hồi nãy bác nghe cháu hò giọng lờ lợ. Ở miệt mình, riết rồi cái gì cũng trở thành buồn.
- Con nhỏ đó chê mình ở đây không có câu hò nào ngộ đó ông Ba. Ông làm ơn cho cháu một câu.
- Ừ, được. Ngày mai cháu rao lên như vầy là nó hết đường gỡ:
Anh thương em, anh sắm cho em một bộ áo dài màu cà, màu huyết. Anh đây nói thiệt chẳng phải nói càn. Anh đây sắm cho em một cây kiềng vàng chạm chữ tòng chữ bá, một bộ cà rá chạm đủ cửu long hườn. Anh sắm cho em áo lụa đủ màu, lụa Hà Đông, lục soạn. Còn anh, anh sắm cho anh chỉ có một cái nón đáng giá hai đồng xu. Ăn cơm rồi hút thuốc rê vấn lá chưng bầu. Miễn cho anh đặng tình chồng nghĩa vợ, cực khổ gì anh chẳng có than.
Nghe lần đầu thằng Tịnh đã nhớ, hát lặp lại gần đúng. Thấy nó sáng dạ, ông Ba hết sức vui. Nhưng vui thoáng qua. Mai mốt này, ông xa nó. Nói trước, e nó buồn. Không nói thì không được. Ông rót rượu ra chén, chóp một chút, nghe đắng lạ thường. Bóng dáng thằng Tịnh in dài trên vách lá. Ánh nắng xuyên nóc nhà, soi xuống thềm đất. Hai ba con thằn lằn tắc lưỡi rồi im. Ông Ba rùng mình. Ngoài sân kia hàng cây bình bát như không còn nữa. Sương xuống trắng đục hay là mắt ông yếu lòa? Cũng may là trong nhà không đốt đèn. Thằng Tịnh thấy ông ngồi cú rũ như mọi khi chớ nó nào thấy vầng trán của ông nhăn lên thêm một ngấn lớn.
- Làm sao cho họ ngán mình ông Ba?
Ông Ba giựt mình:
- Cháu nói gì?
- Dạ làm sao cho họ biết ở rạch Chà Tre này cũng có thầy hò như ở miệt trển? Con nhỏ đó coi bộ ngạo nghễ, kén chọn lắm...
Ông Ba cười:
- Ông đây hồi đó không ngạo nghễ sao? Cháu bây giờ cũng ngạo nghễ vậy. Phàm nói chuyện hát chuyện hò, người sành điệu không bao giờ căn cứ theo một, hai câu bóng bẩy nào đó mà xét đoán. Đời bây giờ, hò lộn xộn quá, chớ hồi đó, hò có lớp lang đầu đuôi. Thầy hò phải giỏi như thầy tuồng. Mới vô là câu dạo đầu. Chúc mừng lẫn nhau, chúc mừng chủ ruộng, tạ ơn Thần Nông. Điều đó ai cũng đạt được. Thiếu một hai vần, hò thiếu hơi chưa phải là dở. Thầy hò đôi bên chưa cần trổ tài. Họ để cho học trò của họ múa xem trước như tuồng hát vậy.
Bước qua chương tâm tình. Bên trai như cầm dây tơ buộc vào, bên gái phải khéo léo gỡ ra. Nhưng gỡ ra đừng cho rối, cho đứt. Rồi hai bên hẹn nhau làm đám cưới. Trước khi đó phải về hỏi ý kiến mẹ cha, cậy mai mối... Màn này có thể kéo dài. Nhưng thầy hò của đôi bên để dành tài năng của mình màn ăn thua chót. Đó là lớp nghèo.
Thằng Tịnh trố mắt:
- Vậy sao? Hồi nào tới giờ tưởng hò là để bắt duyên trai gái. Hò nghèo là sao?
- Là hò than nghèo. Một bên trai hay gái tự xưng mình là giàu có, bạc nén vàng ô, nhà lầu cửa sắt, lập tức bên kia bèn tả cái cảnh nghèo của mình cho tới mức. Trai nghèo làm sao cưới được con gái nhà giàu? Con gái nhà giàu, một khi thương con trai nhà nghèo thì có dám cãi lịnh mẹ cha chăng? Vợ nghèo chồng sinh lòng phụ rẫy. Cha mẹ già yếu, con gái làm sao xuất giá. Trả lời được là mình xứng danh thầy hò. Ông đây, hồi đó có tăm tiếng là nhờ đặt ra nhiều câu mà không ai đối ổn thỏa:
Chàng xa thiếp như cột xa kèo.
Cơm đói nghèo chẳng thấy vãng lai
Lúc túng hụt không tiền không gạo
Nàng thất vận, ôi thôi ảo não
Dạ âu sầu, ai bảo chi lo
Chàng nói gạt em rằng dưỡng nuôi săn sóc
Mấy thu chày, em bù lăn bù lóc
Nay vợ gặp chồng, ôi lỡ khóc lỡ cười
Làm gái như ai, chớ làm gái như em, dầu một hột tấm mẳn không cho sai, dầu một sợi tóc mai không cho dời đổi.
Em sợ trai như chàng ra chơi cùng anh em bạn, thấy người ta quần lãnh áo hàng, khăn bàn dọn bánh. Anh trở lộn về nhà thấy gái như em đây một người nghèo nàn cực khổ, mặc áo rách, đội cái nón rơm... anh không thương.
Còn câu nữa, nghe luôn lần chót.
Gẫm phận thiếp như thuyền kia không bánh
Thân vì muốn lập thân mà ngại nặng gánh gia đình.
Chàng ơi! Tại cảnh gia đàng em có một ông cha già đành cỡi hạc chầu tiên.
Còn bà mẹ hiền như trái chín cây trên nhành chờ khi ướm rụng:
Chàng ơi! Em ra đây, gặp chàng em hỏi thiệt:
Trai chàng tính cho em ở vậy hay là em cất bước thượng trình tòng phu.
Chàng ơi! Tại cảnh gia đàng của em, mấy ống tre ngã xiêu ngã tó.
Mấy tấm vạt cau rớt lên rớt xuống, ai ngó vào cũng chắt lưỡi lắc đầu, hỡi ôi cho phận thiếp. Anh kết nghĩa lương duyên với em tình chồng nghĩa vợ. Anh em bạn của anh đứng ngoài xa, miệng kêu, tay ngoắt. Bớ Tư ơi! Người sao không khác chi chị Thoại Khanh thuở trước khảy đờn tầm bạn mà kết nghĩa ái ân làm gì?
Ông Ba hò dứt câu. Giọng già khàn khàn nhưng còn đủ hơi để ngân dài. Nghe buồn quá! Thầy ơi! Nó đoán chừng: có lẽ ông bữa nay có tâm sự gì buồn thảm lắm. Mấy câu hò này mắc mỏ quá. Phải là người có gia thất, từng chịu bảy nổi ba chìm mới trả lời xong.
- Gặp bên gái rao như vậy; mình làm cách nào ông Ba...
- Mình tạm viện lý này lý kia. Cái thứ hò nghèo mà. Hò qua hò lại, tới rời cổng ra về mà không dứt. Cứ như vậy ngày này qua ngày kia, mùa này qua mùa khác. Không ai giỏi hơn ai mà hòng gỡ rối cho ai... Đó là cuộc đời. Người ta mượn đồng ruộng làm sân khấu, mượn sân khấu để nói chuyện trai gái. Mà chuyện tình trai gái là chuyện gay cấn vì giàu nghèo mà ra. Người hò huê tình chưa ắt là người có thói chim chuột. Chẳng qua là họ muốn nói chuyện với đời với trời đất với ngọn cỏ lá cây, từ trước đến giờ không có vị bạo chúa hôn quân nào cấm đoán họ nổi...
- Tại sao vậy ông Ba.
Ông Ba im lặng. Nhà thiếu cửa, vách nát, sương lấp đầy nhà như ngoài trời. Từ trên đầu xông nhà, một tàu lá rớt xuống kế bên ông, ông không ngó lại, không giựt mình.
- Tại sao vậy hả? Tại vì nhà nước không sợ mấy thằng cha thầy hò. Nhà nước Lang Sa có binh rồng tướng mạnh. Cháu hiểu chưa? Đánh giặc kỳ rồi, A-lơ-man còn thua Lang Sa nữa kia. Lụi hụi mấy thằng thầy hò như ông đây cũng tự nhiên nghèo mạt bỏ xứ mà đi... Nói nãy giờ như trăn trối với cháu. Kỳ hạn trong vòng tháng Chạp này ông đi trốn nợ luôn.
Thằng Tịnh giật mình nghe đau điếng trong lòng. Hồi năm ngoái năm kia, hồi tháng Sáu tháng Bảy năm nay, nó đã nghe ông Ba Hò nói cả trăm lần về chuyện bỏ nhà. Mấy lần trước, nói là nói vậy chớ không có thiệt. Nhưng đêm nay, chắc chắn rồi. Bằng cớ là nãy giờ ông bàn bạc nhiều quá về câu hò nghèo. Sáu bảy năm nay, ông dạy nó từng câu hò một chớ nào nói đến trọn cái cảnh ảo não, rộng rãi cả kiếp người. Nó thương tiếc, nhưng làm cách nào cầm chân ông Ba ở lại rạch Chà Tre này? Không lẽ nó dạy ngược lại ông là người làm ăn giỏi hơn nó, tuổi tác cao hơn cha ruột nó.
- Nán một mùa nữa nghe ông Ba. Thế nào cháu cũng gặt lúa giùm ông. Ra Giêng, cháu đốn lá lợp nhà lại, tới sa mưa, cháu hứa phát giùm ít nhất là năm công đất... Ông đi, cháu còn biết ở với ai...
Ông Ba cười:
- Đừng tài khôn! Cháu thương ông, ông biết. Nhưng mà cái gánh của ông đây nặng lắm. Người xa lạ khuyên ông như vậy, ông chửi cho một chập. Ông đâu làm biếng như người ta tưởng lầm... Nói cho cháu nghe: Cánh đồng này hồi đó là một tay ông đây khai phá. Hồi đó ông cất nhà kê táng nữa kìa. Hồi đó tới mùa hạn, mấy gốc năm sáu con rùa vàng. Mùa khô, đìa cạn nước, cá gom lại nổi đầu khít rịt như trái mù u rụng. Heo rừng nanh dài cả tấc mà ông dám cầm mác xông ra cự đương. Cọp trong rừng, có một mình ông đào hầm đặt bẫy... Ờ! Hồi đó cháu biết không, trong rừng có nhiều nhánh nhiều gốc cây ngộ lắm. Giống hình thù con nai con rồng. Ông đốn về bào chuốt lại để chưng dọn nhà cửa. Lắm khi ngồi một mình vui quá, ông hò với rừng với bụi... Hồi đó cây cỏ chim chóc như biết nghe, gật đầu đáp với mình.
Thằng Tịnh thở dài:
- Bây giờ cháu xin ông nói thiệt? Chừng bao lâu ông về đây, đi đâu? Để cháu biết chỗ tới thăm ông. Thân ông một mình, lại thêm già yếu.
- Đất nước này còn chỗ dung thân. Phận ông bây giờ tạm yên. Chỉ sợ cho phận cháu trong mai hậu.
Thằng Tịnh không hiểu:
- Cháu còn ở đây tạm sống. Còn sức lực, còn làm mướn được. Năm tới, tính làm thêm năm công...
Ông Ba Hò hớp miếng rượu cuối cùng rồi đứng dậy:
- Cháu chưa biết... Không lẽ chưa gì hết mà ông khóc trước giùm cho cháu. Giọt nước mắt đây nè! Làm thế nào lưu lại cho cháu đôi mươi năm sau mà nó không khổ. Năm nay có thể cháu làm ăn khá lắm. Rồi đây cháu vểnh râu mà khen. Đời phải đời thịnh trị, cuộc phải cuộc văn minh, như ông hồi năm nào. Nhưng mà máy tạo vần xoay. Ngày cuối tháng Chạp như vầy, một năm nọ cháu phải bỏ xứ mà đi như ông bây giờ. Chừng đó, ô hô! Cháu không còn đất để mà trốn. Đất chỗ nào cũng có người làm bá chủ rồi! Dầu là hòn đảo giữa biển, dầu là chót núi cheo leo. Chừng đó cháu quay mòng mòng như thằng say rượu ôm gốc cột mà ngao du vòng vo một chỗ. Cháu không còn tìm được, nhà cửa xập xệ, nát vách lủng nóc như nhà bác bây giờ. Chừng đó cháu thấy hột lúa của cháu làm ra không có ý nghĩa gì hết. Đời sống con người phải thay đổi.
- A ha! Lửa cháy đầy trời, cát bay mịt đất. Nhà không người ở. Ruộng thì cỏ hoang. Giếng thì có nước độc. Phật khóc giữa trời. Người sống thành xác chết. Xác chết đội mồ hóa người sống. Ở đâu cũng có hồn oan...
Vài năm sau trong vòng tháng Chạp năm xưa đó, ông Ba Hò ra đi biệt tích. Chủ đất thì mừng, vì đã mặc nhiên tống khứ được một tên tá điền cứng đầu. Chủ tiệm tạp hóa thì chửi rủa chê trách tại sao không chịu trả chút ít nợ, vài cắc vài đồng gọi là ơn nghĩa. Ba năm sau này, có kẻ bảo rằng ông đã chết bờ chết bụi vì say rượu. Kẻ thì phao tin: ông ra hòn Cổ Tron cất am, lập một môn đạo mới có kinh kệ riêng, đọc tên nghe khó hiểu nhưng giọng khi trầm khi bổng như hò như hát. Sự thật ra sao? Đến như thằng Tịnh cũng không hiểu. Nó đâm ra biếng nói biếng cười. Mãi đến một năm đó cũng vào tháng Chạp, nợ nần nhiều quá, nó trốn đi ra chợ Rạch Giá để làm cu li, vác lúa cho nhà máy xay ở ngoại ô.
Có lẽ vì vậy mà bây giờ ở rạch Chà Tre vùng U Minh Hạ tuyệt nhiên không còn ai biết hò đúng điệu có lớp lang như hồi xưa nữa.
Ngó lên sở thượng
Trong sách Trang Tử Nam Hoa kinh, có truyện Tiêu Dao Du, tạm dịch là Đi Tiêu Dao. Thoạt nghe qua, danh từ ấy đượm vẻ huyền bí, siêu hình. Nhưng suy đi gẫm lại, Tiêu Dao là thánh hiền ngày xưa cũng đồng nghĩa với “đi bát phố”, “đi phất phơ”, “thả tà tà” hoặc lêu têu kháng chiến, “cà nhổng chống xâm lăng”. Mỗi thời thế, con người đi tiêu dao tùy khả năng tài chánh và phạm vi cương tỏa của mình.
Vào năm 1948, thời kháng Pháp, tôi được dịp đi tiêu dao nhiều phen. Con người tôi bẩm sinh yếu ớt, luôn luôn có bịnh trong lục phủ ngũ tạng, hễ đến bác sĩ hoặc y tá là luôn luôn được chứng nhận... sắp ho lao đến nơi. Thật ra, tôi là người “mình dây”, ốm nhưng dẻo dai lắm, đi bộ lai rai suốt ngày cũng không thấy mệt; thuốc lá, cà phê, trà tàu là món “xăng nhớt” cần thiết hơn là cơm canh.
Tôi đến quận Long Phú, tỉnh Sóc Trăng thì nghe tin mừng: Thằng Đinh, bạn đồng học ở Cần Thơ hồi thời “tiền khởi nghĩa” bây giờ sống trong cảnh sung túc, cưới vợ giàu tại làng Long Phú.
“Dịp may hiếm có, bỏ qua rất uổng. Tại sao ta chẳng đến nhà bạn, trước là thăm viếng, sau là ăn chơi vài ngày”.
Tôi dò đường đến nhà thằng Đinh, cách đồn giặc Pháp chừng ba cây số. Vừa thấy dạng nó từ xa là tôi nhận ngay: nước da đen ngòm, lỗ mũi cao và cái lưng tôm. Hồi học tại trường Phan Thanh Giản (Cần Thơ) thằng Đinh nổi danh hào hoa phong nhã, ăn xài như nước và đánh lộn rất giỏi. Nó đang lui cui... cưa cây, một khúc cây gòn quá to.
Vừa gặp tôi, thằng Đinh hò reo.
- Hay quá ta! Thời buổi này, gặp nhau là điều sung sướng. Làm chức gì rồi?
Tôi đáp:
- Ở không, chơi lai rai. Còn mày?
- Cũng vậy thôi. Miễn là không theo Tây. Vô nhà chờ!
Nhà giống như căn chòi, cất tạm nhưng bày biện khéo léo. Thằng Đinh cho biết:
- Mới dời về đây chừng hai tháng. Bề ngoài coi vậy chớ... nội dung còn bảnh lắm.
Vừa lúc ấy, một thiếu nữ xinh đẹp, mang thai bước ra chắp tay chào. Thằng Đinh giới thiệu cô vợ cưới hồi năm ngoái. Cô ta có vẻ “con nhà giàu”, đi đứng khoan thai, tay chân trắng nõn. Bỗng dưng thằng Đinh chạy ra sân, vác vô một khúc cây gòn, dựng đứng trên mặt đất:
- Tốt không? Đây là ghế ngồi, xinh đẹp vô cùng. Mình để như vầy thì cái da cây gòn xanh tươi mãi. Giống như cẩm đôn của nhà vua, phủ gấm xanh.
Tôi phục thầm sự tính toán ấy. Cây gòn thuộc vào loại dễ trồng, chặt nhánh cắm xuống là mọc nhanh. Gốc cây gòn này đặt trên nền sẽ lấy hơi thổ mà sống lai rai, tuy không châm rễ ra lá nhưng tế bào của nó lâu chết. Không sợ ai trộm cắp. Không sợ Tây đốt phá.
Chúng tôi ngồi trên hai khúc cây gòn mát rượi, uống trà “chẻo xụi”. Vợ thằng Đinh lui cui nấu cơm, bắc nước làm thịt gà. Và trong khi chờ đợi, chúng tôi uống lai rai rượu chát trắng, ăn vài con khô lóc. Đúng là kiểu “văn minh nhàn rỗi”. Rượu mua ngoài vùng tạm chiếm. Đêm ấy chúng tôi nằm gần nhau, kể chuyện hàn huyên từ thuở rời mái trường. Đại khái đứa nào cũng khoe khoang mấy lần chết hụt vì bom đạn và tự phong cho mình hai chữ trường thọ, phước đức. Mãi đến khuya, chờ khi vợ thằng Đinh ngủ say, ngáy khò khò trong buồng, tôi mới hỏi:
- Tại sao mày phiêu bạt tới xứ này? Hồi xưa, tao nhớ rõ ba mày làm đại điền chủ ở Bạc Liêu.
- Sự tích còn dài dòng lắm. Năm 1946, tao theo Thanh niên Tiền phong rồi mang bịnh tại xóm này, nhờ bà con của vợ tao bây giờ đó nuôi nấng. Họ cảm mến tao, vì tao hiền như cục bột, ăn rồi ngủ, họ ngạc nhiên vì tao là đứa nhu mì thế gian ít có.
- Mầy mà nhu mì? Ăn gởi nằm nhờ ở nhà người ta mà phách lối thì chết đói luôn. Mầy đóng kịch nhu mì tạm thời phải vậy không? Mầy sợ chết, sợ người ta điềm chỉ cho Tây bắt.
- Lẽ dĩ nhiên. Nhưng còn lý do khác.
- Sau khi nhờ bà con săn sóc, sức khỏe bình phục, tao nghĩ cách đền ơn. Nhưng đường xá xa xôi, giấy tờ không có, tao không dám đi. Tao nhờ người bà con bên vợ mang bức thư tới Bạc Liêu. Người bà con đó trở về, hoảng hồn vì cha mẹ tao giàu quá mức.
Thằng Đinh liếc buồng ngủ của vợ rồi nói khẽ:
- Giàu bằng mười ông già vợ tao bây giờ. Đúng lý ra, còn giàu hơn nữa.
Giọng nói thằng Đinh im bặt. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng nó không khoe khoang. Hồi đi học, tôi đã nghe một học sinh ở Bạc Liêu cho biết: cha của thằng Đinh nổi danh ăn chơi hào hoa phong nhã, nuôi một con cọp bên nhà để cho ai nấy xem chơi. Cọp này suýt sút chuồng mấy lần... khiến đám tá điền báo động, đánh trống đánh mõ.
Tôi hỏi:
- Ông già mầy cho bao nhiêu?
- Ông đồng ý cho tao cưới vợ nhưng tiền bạc thì ổng xiết hầu bao. Trong gia đình ai nấy phiền hà xem tao như đứa con bất hiếu nên chia dứt khoát một phần gia tài cho tao hưởng. Đó là bầy trâu ở Vĩnh Thạch. Tao lập tức tới liền, bán đổ bán tháo tất cả 250 con trâu. Mấy người tá điền hoan nghênh quá xá vì tao bán hạ giá. Ai mua ba con trâu thì được tặng thêm con trâu thứ tư. Rồi họ đãi tiệc, ca ngợi tao là “cậu út” biết giác ngộ. Tao ẵm gần 20 ngàn đồng về Long Phú cưới vợ linh đình. Tiền đó tao đưa cho vợ tao cất giữ, gọi là làm vốn. Bấy giờ bà con bên vợ thấy tao là đứa đàng hoàng nên cho tao ăn lời...
Gà gáy điểm canh ba. Thằng Đinh lồm cồm ngồi nhúm lửa nấu chè đậu xanh. Tôi ngăn cản:
- Ăn nhiều bịnh chết. Tụi mình còn lâu ngày, cứ ăn lai rai.
Thằng Đinh cười lại:
- Bậy nè! Thời giặc giã mình nên hưởng thụ trong phạm vi có thể. Sau khi làm xong phận sự thì tráng sĩ được quyền ăn uống no say!
- Thôi đi mầy ơi! Mầy làm phận sự gì?
- Bộ mầy tưởng tao làm chức nhỏ hả? Tao vừa lãnh chức trong ban giáo dục, chống nạn mù chữ hai ba làng.
Tôi lắc đầu:
- Dóc hoài! Giao một làng cho mầy, mầy làm không xong. Có lẽ nhờ mầy mà dân chúng thêm người dốt. Thí dụ như thằng con nhà mầy sắp sanh ra...
- Bậy nè! Thời thế tạo anh hùng. Giáp ranh với làng này, còn hai làng đặc biệt lắm, toàn là người Miên, làng Tài Văn, làng Liêu Tú... Tao coi sóc hai làng đó nhưng chưa biết làm sao, còn chờ kế hoạch...
Tài Văn, Liêu Tú hai địa danh nghe lạ tai quá. Tôi nằm mơ màng thử hình dung khung cảnh. Chắc là có tre xanh, cây thốt nốt, có chùa.
- Ở đó vui không?
Thằng Đinh trả lời:
- Tao chưa đi tới. Gần bót Tây, đi lang bang là nạp mạng. Ruộng trống trơn hễ mình chạy thì ngoài đồn Ngạn Rô, Tây bắn liền. Nghe nói đồn Ngạn Rô có “thằng xếp” bắn đại tài. Nó có cây súng lạ lùng, gắn ống dòm. Hễ cái bóng của mình lọt vô ống dòm là nó bóp cò, bá phát bá trúng.
Nồi chè sôi ùng ục. Thằng Đinh quạt lửa. Bỗng nhiên một tràng súng liên thanh nổ giòn gần lắm. Tiếp theo là tiếng “mọt chê”, tiếng súng “mút” rời rạc. Thằng Đinh vẫn ung dung mở tủ.
- Đường cát trắng. Nấu chè ngon một phen.
Tôi bắt đầu lo ngại:
- Súng gần quá. Tụi nó vô bất tử thì làm sao? Có ai canh phòng, đánh mõ đánh trống, thổi tù và không?
- Cần gì! Xóm này chẳng còn ai là nhân vật quan trọng trừ ra tao với mầy. Bây giờ thì ăn. Và tiếng súng hồi nãy nhắc nhở bọn mình nên ăn gấp.
Tôi cầm đũa nhắc nhở:
- Kêu vợ mầy ăn cho vui.
- Thôi. Gần sanh đẻ, nó mệt. Hơi đâu mà lo.
Nồi chè khá to, mỗi đứa ăn ba chén mà chưa cạn. Thằng Đinh vét nồi, múc cho tôi:
- Con người tử sanh hữu mạng. Trước sau gì cũng chết. Kẻ giàu sang, quyền cao tước trọng cũng như bọn mình thôi...
- Cái triết lý của mầy nghe nhàm quá rồi. Thằng Đinh cau mày:
- Tao muốn tuyên bố rằng: Tử thần viếng ta bằng một trăm nẻo đường. Nếu cẩn thận thì ta chỉ đề phòng được chín mươi chín nẻo. Luôn luôn tử thần có sẵn một nẻo trống trải để viếng thăm bất ngờ bất cứ ai.
Tây vô! Tây vô!
Vài người chạy ngang nhà thằng Đinh đánh thức nó. Tôi ngơ ngác đứng trước sân, vừa sợ sệt, vừa xấu hổ. Rủi mà bị Tây bắt sống phen này thì... nhơ danh trong sử sách! Nụ cười vẫn nở trên môi thằng Đinh. Nó chạy lại đầu xóm rồi trở về, hơ hải.
- Nguy rồi! Một cha nội ở trong này trốn ra ngoài đồn chỉ đường chỉ nẻo cho thằng Tây Ca Rê.
- Ca Rê là ai?
- Là xếp đồn Long Phú. Tụi mình nên lánh mặt, bằng không thì bị nhìn mặt.
- Mình chạy theo anh em ở đằng “cơ quan” chớ?
Sau vài phút suy nghĩ thằng Đinh nói khẽ:
- Mấy ổng là nhơn vật quan trọng mình chạy theo thì chết chùm. Chi bằng mình giả dạng thường dân, chạy cà nhỏng ra sau ruộng, chắc ăn hơn. Chẳng lẽ tụi nó kéo đại đội hùng binh ra ruộng để bắt hai đứa tay không, ốm nhom ốm nhách như tụi mình?
Rồi nó nắm tay tôi, thúc hối:
- Đi là vừa. Tụi nó gần tới rồi đó. Tụi nó bơi xuồng, chừng 20 chiếc.
- Còn vợ mầy?
- Vợ tao là dân của... đồn Tây, có lãnh giấy “lách xê”, dán hình đàng hoàng. Thời buổi giặc giã, đàn bà con nít với người già là... sướng nhất. Hơn nữa, vợ tao có chửa, bên vợ tao thiếu gì người làm việc ở tại dinh quận Long Phú của tụi nó.
Súng nổ thưa thớt. Ngoài ruộng, mấy người nông phu ung dung đánh trâu về phía “hậu cứ”, càng xa mé sông càng tốt. Họ ngoắt, mời chúng tôi hút thuốc. Nhưng sau khi nói vài câu khôi hài thằng Đinh tạm biệt họ:
- Đừng tập trung, dụm năm dụm bảy. Tụi nó thêm nghi ngờ. Nhứt là con trâu này. Tụi nó ngứa tay, bắn con trâu rồi lạc đạn làm hư giò hư cẳng bọn ta.
Chúng tôi bắt đầu chạy trên bờ ven nhỏ. Đến gốc cây tràm, thằng Đinh dừng lại, trèo lên rồi nói:
- Quá xá rồi! Nó đổ bộ kéo ra ruộng...
- Thiệt vậy sao?
- Chạy nữa! Mau lên. Cứ theo tao!
Tôi chẳng hiểu tại sao thằng Đinh lại đâm đầu về hướng đồn Ngạn Rô. Cách đồn ấy không xa, dường như còn đồn Bàu Biển. Ghê quá. Từng hàng tre xanh tươi giăng ngang trước mặt, như bức tường thành. Bên kia hàng tre là đồng trống hoang, giáp đến mé sông Hậu Giang, vùng kiểm soát của giặc Pháp.
Người ở xứ xa mới tới như tôi làm sao dám cãi về chiến thuật quân sự với thằng Đinh, ông thổ công ở vùng Long Phú? Lát sau thằng Đinh dừng lại, ngồi xuống bên bụi dứa gai, bên bờ con rạch nhỏ đầy ô rô, cóc kèn. Tôi hỏi:
- Chờ cơ hội “chém vè” hả?
Nó đáp:
- “Chém vè” làm gì, dơ quần dơ áo. Đứng đây chờ thời, được rồi. Mầy biết tại sao có danh từ đó không?
- Thì mình giả như con cua đinh, con cần đước...
- Chưa đúng. Con cua đinh với con cần đước khác nhau. Cua đinh có cái vè mềm, giống như xương sụn, ở xung quanh có mai. Nó vùi xuống bùn thật nhanh, nhờ cái vè chém bùn đó.
- Hiểu rồi. Nhưng tại sao mình không vô xóm nhà sau hàng tre đàng kia kiếm nước uống chơi. Xóm nào vậy?
- Đó là làng Liêu Tú, đằng kia là làng Tài Văn mà tao nói hồi tối đó. Tao lãnh trách nhiệm giáo dục trẻ em, người lớn. Ngặt tao chưa làm quen với bà con. Mình vô xóm đột ngột, họ nghi ngờ. Mầy biết tiếng Miên không?
- Làm sao tao biết! Thôi thì đành ở ngoài này.
Chúng tôi hút thuốc liên miên, nhìn vòng quanh. Đồn Bàu Biển. Ngạn Rô đến đồn Long Phú, rặng tre xanh và con rạch Long Phú, nhà thằng Đinh. Dường như chúng tôi bị bao vây vòng tròn. Nắng chang chang. Súng vẫn nổ. Thằng Đinh dọn một chỗ cao ráo, dưới gốc bụi dứa gai, ngắt bỏ mấy cái lá lòng thòng rồi bảo:
- Nằm xuống cho khỏe lưng. Tao canh chừng tụi nó. Sướng quá, lần đầu tiên tới thăm, mầy gặp một kỷ niệm vui vui... Tao chạy như vầy chừng vài chục bận rồi. Lần này, mình chạy... có lý. Đôi khi tao chạy “xịt” vì chẳng có Tây tà nào vô xóm. À! Ở đầu xóm, thằng cha Tư Đông nhè đặt tên con là thằng Tây cho đúng điệu Đông Tây Nam Bắc. Bữa đó, thằng chả kêu réo đứa con: “Tây ơi! Tây!” Cả xóm ngỡ là Tây vô, chạy ẩu... Rồi cả xóm bắt buộc thằng chả sửa tên con là thằng Hai...
- Ngộ quá. Chuyện khôi hài đó đáng ghi sổ tay...
Nói xong, tôi ngáp dài ngủ thiu thiu để dưỡng sức. Đêm rồi, thức đến quá canh ba. Mấy ngày trước lại phí sức lực hơi nhiều, cuốc bộ non trăm cây số, dầm mưa, đường sình lầy, nhảy qua mương...
Đến xế chiều tôi giựt mình thức giấc. Thằng Đinh đứng thẳng người, quát to:
- Nó đốt nhà. Ngay cái nhà của vợ tao! Thây kệ.
Tôi dụi mắt, hỏi nhanh:
- Tụi nó gan quá vậy? Chừng này mà chưa về đồn, lo ăn uống.
- Múa gậy vườn hoang mà. Có người điềm chỉ, cho tụi nó biết rõ xóm này ai hiền, ai dữ, ai theo kháng chiến... và tất cả đều đánh giặc với hai bàn tay không.
- Vậy tụi mình về xóm, về gần đó cho biết. Xế rồi. Đêm nay tụi nó ngủ tại đâu? Nếu muốn trú quân thì tụi nó ngu dại gì đốt cái nhà ngói ông già vợ mày?
- Trời ơi!
Tiếng kêu la phẫn nộ gọn lỏn ấy vừa phát ra khỏi cổ họng thằng Đinh là tắt nghẹn, dường như thằng Đinh còn muốn nói nhiều hơn. Nó chỉ ngón tay:
- Cháy nhà của vợ tao rồi. Vợ tao có chửa, không biết nó chạy kịp không? Bữa nay, Tây làm lộng quá. Chắc thằng đó điềm chỉ tao là trưởng ban giáo dục hai ba làng. Tao về. Về gần nhà... Hay là vợ tao thất lạc, gặp tai nạn. Mọi khi vợ tao ngồi lì tại nhà rồi trình giấy “lách xê” khi tụi nó hỏi tới. Mầy ở đây, tùy cơ ứng biến. Nhớ đi về phía nhà tao. Tối mai tao chờ.
Nếu rủ thằng Đinh ở lại thì tôi là đứa quá hèn hạ. Trời chuyển mưa. Giữa đồng không mông quạnh, còn một mình tôi. Phía rạch Long Phú, lửa cháy đen mịt, hết nhà này nối qua nhà kia. Cả xóm bị đốt rồi. Súng vẫn nổ và ngọn lửa cháy ngùn ngụt như đầu máy xe lửa chạy trên con đường sắt vô tận.
Mưa đổ hột. Tôi thấy ớn lạnh, ho vài tiếng. Hễ đói bụng thì chịu lạnh không kham. Tôi rút hai tay lên ngực. Lại mưa to. Túng thế, tôi chạy vào hàng tre xanh trước mặt, địa phận làng Liêu Tú.
Đại khái, làng này gồm chừng bốn năm giồng cát, rời rạc, như một quần đảo. Trên mỗi giồng tập trung chừng hai mươi nhà. Mỗi nhà đều có tre bao quanh, những bụi tre um tùm thiếu săn sóc. Tôi đánh bạo vào xóm. Đất khá cao ráo, trơn trợt vì mưa. Toàn là người Khơ-me. Từ nhà này qua nhà kia là đường, quanh co. Tôi dừng bước trước gian nhà ở đầu giồng. Một ông lão đang cầm búa, đập cành cạch vào cái miệng lon, lon đựng thức ăn, đồ hộp của nhà binh Pháp. “Chắc là ông ta làm quen với nhà binh Pháp nên xin mớ lon ấy về sửa lại làm ống dắt đũa, làm lư cắm nhang”. Tôi qua nhà khác, dăm ba đứa bé ngồi dưới đất, bốc cơm ăn. Thức ăn là một chén me, trái me tươi đâm nát trộn với muối ớt. Nhà kế bên rộn rịp hơn. Vài người uống rượu, đánh bài. Dường như chẳng ai quan tâm đến tôi. Họ xem tôi như là chú lái heo, một người vớ vẩn, một bóng ma.
Làm sao bây giờ? Nếu trở ra khỏi giồng liệu tôi còn nhớ phương hướng để trở về xóm nhà thằng Đinh? Đường xa, tối om. Bụng lại đói. Tôi đánh liều bước tới. Đột nhiên từ trong căn chòi, vang ra mấy tiếng lảnh lót:
- Ngó lên Sở Thượng thêm buồn.
Muốn chăm cội rễ, ngặt đường xa xôi.
Tôi dừng lại. Tại sao trong xóm Miên này lại có thể vang ra câu hát đó, câu hát của đồng bằng sông Cửu Long. Câu hát gợi tình, sang trọng thuộc vào loại chọn lọc, tuy bình dân nhưng ít ai biết. Thật vậy, Sở Thượng là con sông nhỏ, từ bờ Cửu Long chảy vô Đồng Tháp Mười, gần biên giới Việt-Miên. Sở là cá, những “lô” đồng ruộng mà từ hồi đời vua Tự Đức nhà cầm quyền cho đấu thầu khai thác nguồn lợi cá tôm. Mấy người lái rủ nhau lên Sở mà mua cá về, bán tận Sài Gòn.
Từ trong gian nhà, câu hát được lặp lại:
- Sở Thượng thêm buồn, ý a... thêm buồn...
Tôi cúi đầu, cố nhìn bên trong. Chiếc võng đưa kẽo cà kẽo kẹt. Một thiếu phụ vụt rời võng, đốt đèn. Tôi mạnh dạn bước vào.
- Thưa cô...
Thiếu phụ cúi đầu; hai bàn tay thô kệch xoa vào nhau:
- Chú đi đâu...
- Dạ tôi lỡ đường.
Thiếu phụ cười tủm tỉm, đôi mắt đen lánh:
- Ở dưới rạch Long Phú hả? Gan dữ đa! Dám đi tới đây hả?
Tôi quay mặt, sắp sửa co chân chạy trốn. Nhưng thiếu phụ nói:
- Đừng sợ. Xóm này ai nấy làm ăn vui vẻ. Đói bụng không?
Tôi gật đầu. Thiếu phụ vo gạo, nấu cơm. Tôi yêu cầu:
- Cô khép cửa lại giùm. Từ đây ra đồn...
- Hai ngàn thước. Gần mà. Nhưng lính Tây vô đây làm gì. Xóm này ai lo phận nấy. Tại sao chú dám vô nhà tôi?
Tôi đáp:
- Dạ tôi nghe câu hát. Tại sao cô biết câu hát đó?
- Chú nằm chiêm bao hả? Tôi là người “An Nam” ở Châu Đốc. Xóm này có “một mình ên” là người An Nam. Tôi lấy chồng người Khơ-me tại đây hơn bốn năm rồi. Chồng tôi ra chợ Sóc Trăng bán lúa, hai ngày nữa mới về. Lát nữa chú ngủ trên bộ ván. Tôi ngủ trong buồng, không sợ ai hết.
Súng nổ từng loạt ngoài đồn. Tôi giựt mình. Thiếu phụ cười:
- Tin tôi không?
- Dạ tin chớ. Bằng không thì tôi chạy lủi đầu vô tre gai rồi.
- Nằm xuống. Thôi, đừng nói chuyện nữa, người ta nghe.
Nói xong, thiếu phụ đóng cửa lại. Nồi cơm sôi lên, xông hơi. Lát sau tôi ăn cơm. Nhưng suốt đêm ngủ chẳng được. Buồn buồn vô cớ. Để rồi lúc hừng đông, tôi dụi mắt bước ra, trở về nhà thằng Đinh, theo hướng mà thiếu phụ chỉ.
Từ đó tôi yêu kính ca dao. Ngoài giá trị văn chương, địa lý, phong tục... nó còn là lá bùa cứu khổ cứu nạn thời kháng chiến. Vài người đã sáng tác ca dao kim thời cải cách. Trong trường hợp này, nếu thiếu phụ hát loại ca dao cải cách thì chưa ắt tôi dám vào nhà, xin tá túc. Vì biết đâu đó là cạm bẫy của bọn gián điệp.
Ca dao sống trong không khí riêng, khó tả. Dầu trí óc ta quên, nhưng nó còn đó. Như trăng sao tạm thời lu mờ chỉ vì mây mưa che phía dưới thấp.
8/1963
Sơn Nam
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Uống trà

Uống trà Một số người tìm sự bình an, sự tịnh tâm trong việc uống trà. Có thể vì vậy mà họ thường thuộc lứa tuổi đã cao, xế chiều. Thanh niê...