Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Góc cây, cục đá và ngôi sao

Góc cây, cục đá và ngôi sao

(Bàn về thói chơi kiểng)
Tựa
Là bạn đồng tâm vớí Sơn Nam về mặt chơi cây cảnh (kiểng) và non bộ, tôi hơi tức mình khi đọc thấy phó đề của tập bản thảo của quyển sách này: “Bàn về thói chơi kiểng”. Người ta nói thói xấu, chớ không ai nói thói tốt bao giờ. Dám viết một quyển sách về một thú tiêu khiển, mà lại xem lối tiêu khiển ấy là thói xấu hay tao? Tôi càng tức mình hơn khi lại đọc thấy trong bản thảo: “Kiểng và non bộ tạo ra những ông lão yếm thế, quên tất cả thế sự”.
Cả hai đứa chúng tôi, đều không đứa nào yếm thế hết. Nếu Sơn Nam chơi kiểng và non bộ bất đắc dĩ nên không yểm thế, thì tôi chơi hai thứ ấy vì thích chơi thật sự, sao cũng không quên thế sự?
Nhưng đọc kỹ lại những gì Sơn Nam viết về kiểng và non bộ, tôi an lòng lại được ngay: Sơn Nam chỉ suy luận như vậy chớ lòng Sơn Nam vẫn thích hai trò chơi ấy. Có những suy luận đi một đàng mà cảm tình thì đi một ngã. Y như những kẻ rượu chè họ bảo rằng họ bê tha chỉ vì cần một chỗ trú ẩn cho tâm hồn để quên thói đời đen bạc; nhưng sao họ lại không trú ẩn nơi khác, chẳng hạn, trú ẩn chốn ‘‘đổ bác môn trung”; thế thì có phải chăng là sự miễn cưỡng, mặc dầu là miễn cưỡng, vẫn do sở thích của ta xô ta vào miễn cưỡng ấy?
Sơn Nam là một tâm hồn lạc lõng trong thế giới buyn-đinh và Mercedes, trong thế giới triết hiện sinh, tranh trừu tượng và nhạc tuýt. Nhưng đó là một tâm hồn đẹp không biết bao nhiêu, đẹp cái vẻ đẹp của lọ sứ Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây, có khác lọ hoa Ý Đại Lợi ngày nay, và ít được người đời thưởng thức hơn là họ đã thưởng thức một tiểu thuyết gia chuyên viết chuyện tình chẳng hạn, nhưng phải nhìn nhận rằng cái đẹp Sơn Nam “bất hủ”.
Cho rằng chơi kiểng và non bộ là “thói”, cho rằng kiểng và non hộ làm cho con người yếm thế mà Sơn Nam vẫn chơi cho đến cái mức vượt lên khỏi kỹ thuật chơi, vượt lên khỏi cả nghệ thuật chơi nữa, để đi đến những ý nghĩ sâu về trò chơi thì hẳn cái sự miễn cưỡng của Sơn Nam không phải là miễn cưỡng thật sự, chỉ tại anh tưởng thế mà thôi, tưởng thế vì một nhơn sinh quan nào đó đã tạo cho anh một lối suy luận như vậy, có thế mới ổn thỏa với chính ý thức của anh, nhưng tấm lòng của anh thì khác.
Khi con người làm gì mà vượt lên khỏi phạm vi kỹ thuật là đã làm cái ấy với cả tấm lòng rồi.
Mà có lẽ nhờ vậy mà Sơn Nam mới nghĩ được nhiều và nghĩ được sâu vì “thói” chơi kiểng và non bộ. Những ý nghĩ của Sơn Nam, nếu nói rằng đó là triết, thiên hạ sẽ cho rằng ta quá suy tôn Sơn Nam, vì theo phần đông thì tư tưởng phải thành hệ thống kìa, nó mới xứng danh là triết. Nhưng ta có bị bắt buộc phải quan niệm theo số đông đâu? Sơn Nam đã triết lý hẳn hòi về chơi kiểng và chơi non bộ đây, những ý nghĩ của Sơn Nam rất triết, mà là triết sáng tạo đấy, chớ không phải là triết vay mượn đâu. Vay mượn triết trong câu chuyện là phổ thông, là khoe chữ. Sơn Nam sáng tác. Triết của Sơn Nam có thấp hơn triết của Heidegger, của Kierkegaard bao nhiêu bực đi nữa, ta cũng thích thú mà nghe thấy cái gì mới được bày ra, chớ không phải những cái nhơi đi nhơi lại của người khác.
Vậy, mặc dầu có vài lời lẽ phủ nhận tánh cách lành mạnh của trò chơi kiểng và non bộ Sơn Nam đã chơi kiểng và non bộ “hết mình”. Và đã viết sách. Có thế chớ. Tại sao có sách đá banh, sách chơi cờ tướng, sách dạy đánh phấn sách dạy viết thư tình mà không có sách về thú chơi kiểng và non bộ? Trong một bài tùy bút về một cái chợ văn mắc mưa kia, Sơn Nam viết rằng tùng bá nằm chung lau sậy, ví von sách giá trị với sách nhảm, một hình ảnh tuyệt đẹp, sự so sánh ấy khiến tôi nhớ đến số phận của cây tùng mà tôi vuốt ve hôm nay, nó sẽ nằm chung với sách dạy nuôi gà, và tệ hơn nữa, sách dạy về các cơ quan sinh dục cho tuổi ngưỡng cửa cuộc đời, tri kỷ rất ít, sẽ lạnh như những ông tiên chơi ván cờ thiên cổ trên thạch bàn, giữa đêm khuya, ngoài sân vắng của khách chơi non bộ nào.
Nhưng những người tri kỷ hiếm hoi ấy sẽ là những người bạn rất trung thành, không chơi với tác giả một vài mùa, mà cuộc kết giao sẽ kéo dài đến ngày có một kẻ xuống mồ, kẻ ấy là người tri kỷ đó, chớ còn y mà sống ngày nào thì còn săm soi cây tùng ngày nấy, người trồng tùng, sửa tùng mà có chết, y vẫn chơi tùng mãi mãi.
BÌNH NGUYÊN LỘC
- 1 -
chơi kiểng là một cái thói, vậy thôi.
Người tham lam, người hung ác vẫn chơi kiểng. Người hiền Iành, yếu thế cũng chơi kiểng, Bởi vậy không nên chụp mũ quá vội vàng để quả quyết rằng:
- Ai chơi hoa kiểng là người yêu văn hóa cổ truyền, gần gũi với dân tộc, sống hồn nhiên. Và ngược lại, ai ghét kiểng là người mất gốc, xa lìa cội rễ Đông Phương.
Ghét kiểng được biểu lộ bằng nhiều hình thức:
- Vô tình quăng cái tàn thuốc vào chậu kiểng xem đó là cái giỏ rác.
- Cho rằng người tốn tiền mua kiểng đã lãng phí. Ngắm kiểng là việc lẩm cẩm, tốn thời giờ.
- Cho rằng chơi kiểng là thú tiêu sầu giải muộn của người mang nặng tư tưởng phong kiến. Thời chiến tranh, người ta tranh thủ từng giờ từng phút, phố phường chật hẹp tìm đâu ra cái sân trống trải...
Mặc áo lớn, thắt cà-vạt, đội khăn đống, mặc áo dài chỉ là hình thức không chứng minh rằng người ăn mặc chư vậy là đúng đắn, có giáo dục.
Ăn những “món dân tộc” như sầu riêng Lái Thiêu, mắm thái Châu Đốc, bưởi Biên Hòa, cam Cái Bè chưa hẳn là... yêu dân tộc. Người uống rượu “quýt-ky'“, ăn thịt bò hộp, Hoặc áo “ni lông” chưa hẳn là vong bổn.
Cái gì gọi là dân tộc thì luôn luôn đắt tiền. Sầu riêng, bưởi, nước mắm nhỉ chỉ dành riêng cho người dư giả ở thành thị. Chơi kiểng cũng vậy. Nó đòi hỏi thời giờ rảnh, vài thước vuông đất hoặc một cái sân thượng.
Tóm lại, chơi kiểng là một thú vui, một món ăn tinh thần, một nhu cầu riêng cho số người có bộ thần kinh như thế nào đó thôi. Không nên chụp mũ vội vàng, khen là “dân tộc tính”, “Yêu văn hóa” hoặc chê bai là lẩm cẩm, lạc hậu.
Mỗi người tìm một thú riêng ; chạy xe gắn máy cho nhanh, uống rượu say rồi lùi lũi về nhà, bàn bạc truyện Tàu, đánh cờ tướng, xem hát cải lương. Hoặc dạo phố ngày chúa nhựt để xem đó xem đây, mua sắm vài món cho hạp thời trang.
Thú tiêu khiển, tự nó không mang tánh chất chánh trị nào cả.
Dường như trong khoa tử vi, người xưa đã nhận xét rằng việc trồng tỉa, lập vườn... trông hợp với một hạng người, sanh vào năm Bính Dần, Canh Tí (thí dụ như vậy). Lại còn ngày sanh và giờ sanh.
Đàn bà con gál thích trồng bông hoa chứ không thích chơi kiểng, loại kiểng gốc, Chơi non bộ (giả sơn) dường như chỉ thích hợp với đàn ông!
Tại sao vậy?
Phải chăng đó là vấn đề sanh lý, theo nghĩa rộng của nó? Đàn bà từ khi lấy chồng... đã sanh đẻ nhiều lần, họ là kẻ sáng tạo nên không cần ngắm nghía những gốc cây già nẩy lộc non, Cơ thể đàn bà là một sự tuần hoàn, họ không cần đến cái biểu tượng “xuân hạ thu đông” của trời đất, lá vàng thì lá rụng, lá rụng rồi chồi non mọc ra.
Người trẻ tuổi không thích chơi kiểng vì sức khoẻ còn dồi dào. Để bớt bê bối về tinh thần, họ đá hanh, lội đua hoặc chạy đua với tốc lực, uống rượu, thụt bi-da. Họ khó hiểu lý do nào khiến người đứng tuổi thích chơi kiểng. Nếu yêu mến thiên nhiên, người trẻ sẽ tìm khu rừng thông, bờ suối trong lành để sống vài phút dây thần tiên với người yêu, nghe chim kêu lá rụng. Hoặc là họ vô rừng để sưu tầm những loài bướm.
Người già hiểu tại sao người trẻ thích đá banh vì người già đã trải qua tuổi trẻ. Người trẻ vì chưa già nên chẳng tài náo hiểu được những nhu cầu về tinh thần của người già. Một ông lão chơi kiểng đã khuyên can đứa cháu:
- Mới có ba mươi ngoài tuổi mà chơi kiểng thì tao e rằng mầy chỉ thích làm dáng vậy thôi.
Người cháu đáp:
- Cháu mê kiểng lắm.
- Nếu mầy mê kiểng lúc tuổi còn trẻ thì chắc là mầy sống không lâu, yểu tử.
Thử tra tự điển về chữ kiểng, theo Việt Nam Tự Điển do ban văn học của hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo, in vào năm 1931 tại Hà Nội.
- Kiểng, xem chữ “cảnh”,
- Cảnh, hình sắc bày ra trước mắt: cảnh núi non. Văn liệu:
“Cảnh nào cảnh chẳng đau sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Truyện Kiều).
- Cây cảnh, thứ cây con trồng làm cảnh chơi.
Và tiếng chơi lại được giải thích, với nhiều nghĩa:
1 - Giải trí cầu vui.
2 - Không có chủ đích.
Với những thí dụ về những tiếng chơi:
- Chơi mỗi người một thích.
Chơi trăng từ thuở trăng tròn.
Ai ơi, chơi lấy kẻo già.
“Trồng cây con để làm cảnh chơi”, đó là sự chiến thắng của khoa học. Muốn trồng cây con - tức lá nhỏ bé về hình dáng trong cái chậu thì dễ quá. Trái lại, trồng một cây suốt năm bảy mươi năm, ép xác nó, câu thúc nó trong cái chậu nhỏ là việc khó. Cây sộp, cây giữa sống 60 năm là cao đôi ba chục thước, ở trong rừng, gốc to hai ba người ôm không xuể.
Ấy thế mà chỉ cho nó cao chừng một thước rơỡi, gốc to chừng ba tấc, ở đường kính tâm.
Nhốt bao nhiêu sinh lực trồng cái chậu nhỏ! Người chơi kiểng phải hiểu rành cách phát triển của từng loại cây, ép nó lại, làm cho nó phát triển chậm chạp mà không chết, vẫn sống mãi, đâm chồi nẩy lộc: đúng là ông kỹ sưvề trồng tỉa.
Thời tiền sử con người thờ phượng gió mưa sấm sét, sông dài, núi cao, cây to. Cây là một vị thần, có thể là hung thần. Mãi đến nay, nhiều người không dám đốn cây da ở đình làng hoặc là chặt nhánh nó. Người chơi kiểng không sợ chặt nhánh, sẵn sàng, uốn nắn thân cây. Nhà dân tộc học R. Caillois (Roger Caillois) đã nhận xét khá tinh tế, xác nhận rằng người Trung Hoa không còn xem thiên nhiên như là thần thánh, từ thời Trung cổ.
Người xưa nêu ra bốn ngành tiêu khiển: cầm, kỳ, thi, họa. Ai biết dưỡng tánh tình với các ngành ấy thi được gọi là tài tử. Đờn ca là ngành phổ biến nhứt: đờn ca tài tử, bao tài tử cổ nhạc. Chơi kiểng là họa, là điêu khắc. Bởi vậy, chủ nhân của nó nghiễm nhiên là một khách tài tử.
Người Á Đông bắt đầu chơi kiểng vào thế kỷ nào? Cách đây mấy trăm năm? Ông tổ là ai?
Trước khi giải đáp về ông tổ của ngành chơi kiểng chúng lôi thử phỏng đoán về niên biểu, căn cứ vào thu dụng cụ cần thiết: đó là cái chậu.
Nói đến chậu là bước qua địa hạt làm đồ gốm. Hồi thời ăn lông ở lỗ, tiền nhân chưa biết nung đất, họ dùng gáo dừa, trái bầu khô, bong bóng trâu bò mà đựng nước. Mãi đến nay, vài bộ lạc ở Phi Châu còn dùng cái vỏ trứng con đà điểu làm chén múc nước suối, uống ngon lành. Lẽ dĩ nhiên, trong thời đại xa xưa này, chẳng ai nghĩ đến chuyện trồng kiểng vì loài người sống bằng nghề săn bắn, ăn thịt thú rừng, hái trái cây, đào xới khoai rừng. Khi dùng cuốc, dùng lưỡi cày thì bước đầu của nghệ thuật trồng tỉa mới bắt đầu in nét sâu đậm trong lịch sử văn minh. Người ta xem cây như... thần thánh, nhứt là cây cổ thụ vì nó sống nhiều năm, khác với loài rau cỏ sống phù du. Cây cổ thụ lại là mục tiêu thăm viếng của thần sấm sét.
Những đỉnh bằng đồng, có ba hoặc bốn chân là dụng cụ để nấu thịt, giữa ba cái chân ấy, người ta đốt lửa cho thịt mau chín. Đúc đồng là kỹ thuật huyền bí, thời xưa, cần đến uy quyền của pháp sư, muốn thành công, lắm khi người thợ đúc kiêm pháp sư phải cúng tế, đọc bùa. Đỉnh đồng thời xưa là dụng cụ dành riêng cho vua chúa, dùng vào việc tế tự.
Trong đám bình dân, người ta đan thúng, dùng những thanh tre chẻ nhỏ hoặc những miếng vỏ cây, xé tươm ra. Nghề đan đi đôi với nghề dệt vì cùng theo một kỹ thuật. Người ta dùng đất sét nắn những dụng cụ để chứa đựng, mô phỏng theo cái thúng và cách thức hay nhất vẫn là lấy đất sét mà trét vào lòng thúng một lớp đều, lấy thúng làm cái khuôn. Cái chậu đầu tiên thành bình, vành chậu cũng dày như vành thúng.
Đó là giả thuyết có thể chấp nhận được.
Nghề làm đồ gốm giúp con người thoát khỏi giai đoạn ăn lông ở lỗ. Với nồi, chén, lu, hũ... Người ta ăn uống sạch sẽ hơn, ngon hơn. Muối, lúa, hột giống, nước ngọt được dự trữ an toàn trong lu hũ, phòng ngừa khi thiếu kém, Kỹ thuật nấu ăn trở nên linh động, phong phú. Thay vì ăn thuần một món thịt nướng, người ta bày ra nhiều món canh, món kho.
Cái chậu đóng vai trò quan trọng trong việc trồng kiểng. Nhờ chậu, người ta thay đổi điều kiện đất đai, thời tiết. Nơi vùng sình lầy, có thể trồng những loại cây chỉ ưa đất sét, đất cát. Khi mưa quá nhiều, người ta dời chậu vào mái hiên. Do đó, ở miền nhiệt đới, nơi đất thấp, cây tùng sống được trong chậu. Và nơi băng giá lạnh lẽo, vài loại thạch lan cứ sống, trổ hoa ; luôn cả loại xương rồng.
Cây kiểng mua ở chợ, do bạn tặng cho... Khi đem về nhà mình thi lúc ban đầu nó là kiểng của thiên hạ, mặc dầu mình là sở hữu chủ về mặt pháp lý.
Tại sao vậy?
- Vì nó là công trình nuôi dưỡng của kẻ khác, nó phản ảnh tâm trạng kẻ khác, là toa thuốc bổ thích hợp với bịnh trạng của kẻ khác.
Dường như người Nhật Bổn đặt ra một nguyên tắc: Sau khi tự tay nuôi dưỡng ít nhất là hai năm thì chủ nhân mới thật sự là chủ nhân của cây kiểng.
Nuôi kiểng chớ không trồng kiểng.
“Nuôi” như nuôi đứa con, chăm sóc từng ly từng tí. Như nuôi con dấm trong cái thố. Như các nhà làm rượu nho nuôi dưỡng thùng rượu, để lần hồi nó trưởng thành, trổ ra hương vị đặc biệt. Người Pháp dùng động từ “élever” khi nói đến việc ủ rượu nho.
Có kẻ sành điệu, khi nhìn qua cái non bộ của người bạn, đã dám quyết:
- Phải sửa lại mới được, như vầy là trong nhà có chuyện loạn.
Lối chơi non bộ phản ảnh tâm trạng của chủ nhân.
Non bộ và kiểng đều bắt nguồn từ một triết lý, nói nôm na là một đạo nghệ, một đạo nghĩa: Lý thuyết của Lão Tử.
Ông tổ của lối chơi này là ai ở Việt Nam?
Theo ý kiến riêng, đó là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bên Trung Hoa, một nước cổ kính, người ta thích chơi giả sơn từ đời Tống, đời Tống cách đây mới tám chín trăm năm. Giả thuyết này căn cứ vào quyển sách dạy về phép ngắm đá, do danh sĩ Mễ Phi soạn ra.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống ẩn dật, dạy câu “Hoành Sơn nhứt đái, vạn đại dung thân” cho chúa Nguyễn Hoàng, như lời hịch Nam Trấn.
“Đức Dụ Tổ (Nguyễn Hoàng) đang có hiềm với Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm có ý muốn ám hại, đức Dụ Tổ lo sợ, không biết nghĩ mưu gì cho tránh được nạn, mới sai người ra hỏi ngài. Bấy giờ ngài đang chống gậy chơi trong vườn cảnh. Trong vườn có vài mươi ngọn núi non bộ, lại chồng chất đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rườm rà, có đàn kiến bò ngang trên tảng đá, ngài nhìn xern đàn kiến rồi tủm tỉm cười nói rằng: “Một dãy núi Hoành Sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đời”.
Non bộ là nước Việt Nam, là thế giới thu hẹp. Dưới mắt Trạng Trình đó là một đài khí tượng, một đài ra-đa (nói theo khoa học ngày nay).
Lão tử nói:
Thần hang bất tử
Cho nên gọi là Huyền Tẩn
Cửa của Huyền Tẩn
Là gốc của Trời Đất
Dằng dặc như còn hoài
Dùng hoài mà không hết.
Cây kiểng tốt, sống lâu năm nên có hang. Gốc kiểng tốt phải gợi hình ảnh một ngọn núi, một khối đá. Hang tiêu biểu cho hư không, hư không sanh ra tất cả.
Cây tùng sống lâu năm thì lá xoắn lại, thành từng cục tròn ở trong đọt. Khi thấy ở đầu cành nhiều nắm lá đổi dạng như vậy thì người xưa tin rằng dưới gốc tùng, nếu đào lên ắt gặp nhiều khối hổ phách.
Cây đào tiên kết trái, ăn trái đào tiên ắt sống lâu.
Mấy vị tiên ông thường xuất hiện với cây gậy cong queo, cổ quái, gậy làm bằng gốc đào hay nhánh đào tiên. Ông Thọ (trong tranh Phước Lộc Thọ) cũng chống gậy đào.
Khi vượt biển, Bát tiên dùng khúc gỗ trầm hương. Theo một tài liệu chúa Sãi ưa mặc áo dài trắng, chống gậy long trúc, tức là cây tre nhỏ hình thù giống như con rồng. Ngài đón tiếp Đào Duy Từ với bộ thường phục và cây gậy ấy. Nhưng Đào Duy Từ muốn cáo thối, ngài bèn thay đổi cách ăn mặc, để đóng vai một vị đế vương đang chờ đón Khổng Minh.
Bàn về thú chơi sách, thú chơi đồ sành đồ sứ, không ai muốn nói dài dòng về nghệ thuật viết sách, cách in một quyển sách, máy in hoạt động như thế nào. Hoặc là lò gốm hình dáng ra sao, chụm củi ở đâu.
Đó là công chuyện thừa, phù phiếm. Trong sách bàn về cờ tướng, ai đâu chỉ dạy những bước quá sơ đẳng: con xe, con chốt đi như thế nào, con mã gặp trường hợp nào thì bị cản?
Hễ là khách chơi kiểng thì đã phác họa ra sẵn những sẳn nét hợp với nhu cầu của tâm hồn mình. Cứ trồng, cứ uốn nắn, cứ tưới nước và ngắm kiểng thì lần hồi sẽ học khéo học khôn.
Chơi kiểng là “đi tiên về tục” như Lưu Thần, Nguyễn Triệu, như chàng ngư phủ bên Tàu, như ông Từ Thức ở Việt Nam.
Cõi tiên là cõi trường sanh mầu nhiệm.
“Sự vật có lẽ thường nhiên, bốn mùa có lớp thứ tự. Trời Đất có cái rất đẹp, đều là nhờ ở cái tâm tư không định nhất mà nhìn ra”,
‘‘Miền Nam nước Sở, có giống rùa minh linh, lấy năm trăm năm làm Xuân, năm trăm năm làm Thu. Đời thượng cổ, có giống cây Xuân lớn, lấy tám ngàn năm làm Thu”
Một đoạn khác, trích trong Trang Tử, Nam Hoa Kinh,
- Trong chỗ mờ mịt, riêng thấy rõ ràng.
- Trong chỗ thông tiếng, riêng nghe hòa vui.
Tức là dung trực giác để hòa mình vào sự vật, lá cây, ngọn cỏ, tảng đá.
Người quá bi quan, người sắp tự tử chẳng bao giờ chơi kiểng được. Thưởng thức kiểng, non bộ… chỉ dành riêng cho những người còn lạc quan tỉnh táo, tự tin, mạnh khỏe. Chúng ta thử tưởng tượng một người mê sảng đang hấp hối, họ không còn đủ nghị lực để ngắm nghía chậu kiểng.
Chuyện “đi tiên về tục” của ông Từ Thức chỉ thích hợp đến với những người yêu đời, vì yêu đời nên dám chấp nhận những giấc mơ phi lý, xa thực tế. Người bi quan sẽ cho rằng: chuyện tiên, chuyện bồng lai là giấc mơ tuyệt vọng của con người, là sự lường gạt, nhưng trẻ con thích nghe chuyện thần tiên vì chúng ở vào lứa tuổi dồi dào sinh lực.
Chuyện Từ Thức mới xảy ra chừng sáu trăm năm, đời nhà Trần. Ông Từ Thức xin với người trong chùa đừng bắt tội một cô gái xinh đẹp, cô này chỉ có tội lén vịn vào cành hoa rồi làm gãy.
Một hôm, Từ Thức thấy trên mặt cửa biển Thần Phù có đám mây lành năm sắc, kết tụ như hình hoa sen, ông dùng thuyền đến nơi, thấy có vách đá bằng phẳng. Ông đề thơ, ngắm vơ vẩn chợt thấy vách đá nứt lỗ tròn, có thể vừa người chui lọt. ông lần chui vào trong thì lỗ đó đóng bít ngay lại. Bởi vậy, ông phải đi tới để tìm lối thoát, quơ tay vào vách đá mà mò đường; lần hồi bóng sáng chiếu xuống, ông trông lên thấy núi cao chót vót, đá mọc lỏmn chỏm, ông gắng sức leo lên đỉnh núi. Nơi ấy, cây cối tươi tốt, có lâu đài cung điện.
Ông gặp bà tiên, bà này cho biết:
- Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động của núi Phi Lai, núi Phi Lai đi khắp các mặt biển, chân núi không bén đất, chỉ theo chiều gió mà hợp tan thôi...
Và bà gọi một người con gái đến, đúng là cô gái làm gãy cành hoa năm xưa và được Từ Thức xin tội cho.
Từ Thức và cô gái sống như vợ chồng, đúng một năm thì ông nhớ nhà, xin phép về. Khi về nhà thì hỡi ôi, phong cảnh đã đổi khác. Một năm ở ngoài hải đảo thần tiên dài bằng tám chục năm ở dương thể. Muốn ra hải đảo lần thứ nhì, chẳng bao giờ còn có cơ hội nữa.
Đến Thiên Thai, ngụ tại Thiên Thai, rồi dời Thiên Thai. Ba giai đoạn ấy, tạm gọi là ba nghi lễ của khách chơi kiểng khi ngẫu hứng thoáng gặp vẻ đẹp của cành lá, thả hồn vào khung cảnh riêng, quên không gian, quên thời gian rồi giựt mình trở lại thực tế.
Nơi ông Từ Thức gặp tiên là ngọn núi, núi ấy trôi lang thang trên mặt biển. Non bộ, bể cạn, giả sơn... phải gợi lại không khí ấy.
Non bộ là nơi có lai rai vài người. Những người ấy là ai? Họ làm gì mà được phép ở gần cõi tiên. Bài thơ của ông Từ Thức ca ngợi quả núi xanh đẹp, trôi bồng bềnh trên biển:
Đầu cành thấp thoáng bóng Kim ô.
Hoa bỗng vui mừng đón khách vô.
Cạnh suối nào là người hái thuốc.
Quanh nguồn chỉ có gã bơi đò
Xênh xang ghế mát cầm ba khúc.
Đủng đỉnh thuyền câu rượu một vò.
Ướm hỏi Võ Lăng chàng đánh cá.
Làng đào đâu đó cánh chừng mơ?
Người hái thuốc, gã bơi đò, người uống rượu, chàng đánh cá.
Xưa kia, chàng đánh cá theo hoa đào nước suối, đến Đào Nguyên. Lại còn ngư tiều canh mục (hay là độc)! Dường như ông Phùng Hữu Lan đã giải thích cái quan niệm trí dân của người Trung Hoa: người đánh cá đứng đầu trong làng khách phong lưu, hạng bét là người đọc sách. Sự giải thích căn cứ vào vùng trời rộng hay hẹp mở ra trước mắt trước tâm hồn. Anh chài lưới sống ở ngoài biển chân trời bao la vô tận, anh hái củi đứng trên sườn núi có thể ngắm nghía bao quát một vài thung lũng một huyện. Cày ruộng thì sống nửa vòm trời hẹp hơn ở cánh đồng.
Và đọc sách thì quả bẩn chật, bị nhốt trong trang, trong nghĩa lý từng chữ. Và chữ nghĩa tuy đẹp, cao sâu nhưng làm sao so sánh được với thực tế!
Trong toa thuốc ngọt trị ho của bác sĩ L. Guyot, tình cờ thấy một đoạn giáo đầu như sau:
“Ho là một sự phản ứng đã trục xuất ra khỏi bộ máy hô hấp chất đàm và chất thừa thãi...
Ho là một phương pháp bảo vệ cơ quan hô hấp của ta, vậy ta phải bảo vệ nó (tức là cơ.quan hô hấp)”.
Toa thuốc này nói tiếp:
“Tuy nhiên, khi có ho nhiều mà không trục xuất được chất thừa thãi, dù một ít, gọi là ho khan thì không có lợi cho cuống phổi và phổi...”
Bịnh thể xác giống như bịnh tâm thần. Chơi kiểng có thể so sánh với cái tật ho, ho vì phản ứng để trục xuất bao nhiêu phiền muộn lẩm cẩm của thế tục.
Đó là cái ho lành mạnh, chứng tỏ chủ nhân còn mạnh khoẻ, đủ sức phát ra sự phản ứng. Tuy nhiên, có những kiểu ho, bất lực, bất lợi - những người chơi kiểng để nói lên sự trầm thống của cuộc đời riêng tư. Trong Hải Ngoại Ký Sự của nhà sư Thích Đại Sán, chúng ta thấy hình ảnh của “Thiên Dương Hầu” (anh thứ ba của vua Minh Vương Nguyễn Phúc Chu) ở trong hoàn cảnh rất khó khăn, tánh nết cao kỳ, chẳng chịu uốn mình theo lưu tục, thường bị phong chiết tỏa, may nhờ Quốc Vương rộng lượng sáng soi mới được khỏi tội, nhưng ông vẫn chẳng vì thế mà đổi tiết. Ở dựa mé sông, tiêu điều mấy gian nhà cỏ, trồng cây chơi cảnh, ngồi đất uống trà, tuyệt nhiên không có vẻ vương hầu quí phái.,. Nhà rất nghèo nhưng kiếm được đồng nào tức thì tiêu vung hết, vui vẻ như không.
“Nửa năm tiên cảnh.
Một bước trần ai” (Tản Đà)
Một năm ở cõi tiên dài bằng tám chục năm nơi dương thế, theo tích xưa của ông Từ Thức.
Núi Phi Lai, nơi ông Từ Thức được may mắn viếng thăm gồm có ba mươi sáu động mà ông chỉ sống trong một động nhỏ. Núi ấy chỉ theo chiều gió mà hợp tan thôi.
Người chơi kiểng cũng như người chơi non bộ cố gắng tạo lại một núi Phi Lai, nơi con người sống trong vui sướng, ăn món ngon, uống rượu quí, nghe nhạc đặc biệt, nằm kề tiên nữ.
Tám mươi năm ở trần ai được gom vào một năm nơi tiên cảnh. Núi Phi Lai ở ngoài biển khơi được đem về trước mái hiên. Rút ngắn không gian và thời gian. Không có trở thành có.
Nguyên tắc rút ngắn, làm cô đọng không gian và thời gian ấy được làm chuẩn cho người chơi kiểng.
Gốc cây phải cổ quái nứt nẻ, đóng meo mốc, giống như núi đá. Cây sống trong chậu, cách xa chủ nhân chừng năm tấc, bảy tấc tây nhưng phải gợi hình ảnh một gốc cây trơ vơ, cheo leo - cây thông của Nguyễn Công Trứ - ở cách xa người ngắm chừng năm bảy ngàn thước, trên đỉnh núi xa vời.
Và thời gian, cũng vậy, đòi hỏi sự cô đọng. Cây mới nuôi trong chậu chừng năm mười năm nhưng phải gợi lên hình ảnh bao cuộc tang thương, vật đổi sao dời. Thời gian trôi qua, tàn phá bao nhiêu lâu đài, triều đại, cây vẫn còn sống để làm một nhơn chứng đau thương. Trước cảnh tang thương nếu đá “cau mặt” thì gốc kiểng cũng mang nhiều vết thương, bên ngoài xem như chai lì, bên trong thì vẫn đau đớn nhưng chế ngự được cái chết để mà sống. Cây đào tiên, cây tùng sống vạn niên mà lá vẫn xanh tuy gốc nó gẫn trốc, lòi rễ.
Nếu trên núi hoặc dưới thung lũng có sẵn loại cây sống hàng trăm năm mà hình vóc vẫn nhỏ bẻ thì nghệ thuật chơi kiểng không còn lý do để đứng vững. Cứ bứng cây đó trồng trong chậu, thế là xong. Nhưng nếu có sẵn thì bứng đem về làm gì? Kiểng là công phu, là tâm trạng đặc biệt của từng người. Bởi vậy, nó là nghệ thuật, gọt rũa.
Xem trong quyển sách về đồ sứ bên Tàu, tôi thấy bức ảnh một pho tượng bằng đất tráng men trắng (người Pháp gọi là blanc de chine) đề tài là ông Khuất Nguyên với thân hình gầy khô, mang thanh gươm ốm, vầng trán nhăn nheo chứa đựng bao nhiêu thần lực.
Đáng gọi là một cây kiểng.
Hội họa và điêu khắc không bị gán nhãn hiệu lẩm cẩm, phong kiến, có lẽ vì đó... có thể diễn tả thiên hình vạn trạng, từ những tỉnh vật đến con người, từng đám người.
Nguyên liệu đúng nhất của kiểng vẫn là cây sống, nếu chưa quen nhìn, nếu nóng nảy thì cho rằng đó chỉ là “quanh quẩn vài ba dáng điệu”. Nhưng kiểng vẫn diễn tả được nỗi buồn vui, sức sống, sự chiến đấu. Trường hợp của những họa sĩ Tàu vẽ con cọp, gốc tre, con cá vàng. Họ mượn những bóng dáng ấy để diễn tả con người.
Người chơi kiểng phải ngồi gần hoặc đứng gần nó để vuốt ve, sửa chữa kịp thời những đường nét và ngắm nghía, tắm rửa tâm hồn.
Tiêu chuẩn vẫn là khoảng cách một thước hoặc ngắn hơn, cho hợp với cái nhìn của ông chủ nhân “xem hoa bốn mắt đi giầy ba chân”. Nếu cần, ông chỉ vói cánh tay là đụng vào gốc. Đó là khoảng cách của một họa sĩ, một điêu khắc gia khi cầm cọ, làm việc trước giá vẽ hoặc cầm đục cầm búa để chế ngự khối cẩm thạch vừa cứng, vừa giòn. Đôi khi, chủ nhân lui ra xa vài bước để rồi xáp lại gần.
Cây kiểng không được cao quá hai thước tây, trừ vài trường hợp đặc biệt nào đó. Nếu quá cao, khỏi tầm tay vói lên thì làm sao chủ nhân uốn nắn được, chẳng lẽ bắc thang, trèo lên rồi lại trèo xuống phí sức một cách vô ích.
Kiểng không được quá cao hơn bề cao con người, kiểng phải thấp hơn mái nhà. Chúng tôi không đề cập đến những cây kiểng quá lớn để cho vừa kích thước với cái cao ốc chín mười từng, (hay bức tranh trong phòng khánh tiết, hoặc pho tượng ở nơi công viên). Trong trường hợp đó, đã có sẵn cây cổ thụ ở vườn bách thảo và cây me bên lề phố rồi.
Quái đản vẫn nằm trong khuôn khổ thiên nhiên và nếu quái đản một cách tự nhiên thì còn gì quí cho bằng. Nhiều người dùng những khúc rễ cây cong queo, để y nguyên như vậy làm chân bàn, chân ghế. Chúng ta chỉ than phiền những cây kiểng uốn éo giả tạo, quá rối rắm.
Nhốt cây cổ thụ trong chậu nhỏ, thâu ngắn bề cao hàng đôi ba chục thước của cây cổ thụ để nó chỉ còn hơn một thước hoặc một thước rưỡi là sự giả tạo rồi. Người ta đành chấp nhận nguyên tắc thẩm mỹ “đầu voi đuôi chuột”, nói đúng hơn, đó là “gốc voi ngọn chuột”, gốc phải to, ngọn phải nhỏ, thân cây kiểng giống như hình nón, nói theo danh từ kỷ hà học,
Thế đứng uốn éo hoặc ngay thẳng của cây kiểng chỉ đẹp khi sự uốn éo ấy là tất yếu ảnh hưởng của gió thổi một chiều, của chất đất quả xốp giữa kẽ đá nên cây trốc rễ mà không rơi, hoặc vì cây mọc bám vào vách đá nghiêng mình ra hố thẳm, chới với.
Người Nhựt chơi kiểng công phu hơn, gốc cây sống hàng trăm năm trong cái dĩa nhỏ - dường như họ cắt bớt rễ cây theo kỹ thuật giải phẩu đặc biệt. Hòn non bộ của Nhựt chỉ gây rung động cho số ít người: sạn trắng trải trên sàn là sóng biển, cục đá gợi hình ảnh con rùa, con cọp cõng con.., mỗi mỗi đều theo sách vở, những hình ảnh tượng trưng. Khí hậu bên Nhựt thích hợp với loại non bộ này với nền trời “rừng phong lá đổ”. Ở xứ nóng nực muỗi mòng, chúng ta chơi theo kiểu Trung Hoa, thực tế hơn, thong dong hơn. Non bộ của Nhựt quá nặng về công thức, như lá bùa bát quái với càn khảm cấn chấn...
Nhà văn Yukio Mishimi, người Nhựt, có viết câu chuyện lý thú, nhân vật chánh là một nhà sư trẻ. Ông sư này viếng kiểng chùa cổ, không thấy gì là đẹp. Nhưng khi vào chùa, chợt nhìn thấy cái mô hình ngôi chùa, ông ta “giác ngộ” ngay. Cái mô hình tuy giả nhưng quí hơn ngôi chùa thật, to lớn hơn, đang bao trùm nó. Đó là thế giới nằm trong ruột một thế giới khác. Về sau, nhà sư này nổi cơn điên, đốt ngôi chùa thật vì nó trở thành vô nghĩa khi trên đời này có cái mô hình của nó, cô đọng, tiêu biểu cho nó rồi.
Xem trong một tạng chữ Âu châu, thấy những ảnh giới thiệu nếp sống vui vẻ của nhà... chơi kiểng nọ. Chủ nhơn là cậu trai hơn hai mươi tuổi, cậu trồng nhiều cây trong vườn rồi uốn nắn những cái bàn, cái ghế để bạn bè ngồi chơi cho mát. Bốn chân bàn là bốn cây sống nhăn, bám rễ vào đất, mớ nhánh đan lại thành mặt bàn xanh tươi, khít khao, bằng phẳng: mấy chai la-ve, mấy cái ly cối đứng thẳng thớm trên đó. Ngoài ra cậu chủ nhơn còn tinh nghịch làm một cái xích đu xanh tươi, cây trụ, cây đu, sợi dây, bàn đạp.. đều là gốc cây, nhánh cây và những loại dây leo. Cậu tuyên bố:
- Tôi chống lại thời đại nhôm, phọt-mi-ca, sắt thép.
Trong quyển Sống Đẹp của Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch), có đoạn nói:
“Người Trung Hoa chơi tùng, lựa những cây già, cây già cẳng đẹp và càng hùng vĩ. Cây dành (bá) cũng hùng kỳ. Định quì gần như cây tùng, cành nó cong queo mà lại rủ xuống. Những cây mà cành lá đưa lên, tượng trưng cho thiếu niên, còn những cây rủ xuống tượng trưng cho ông già ngó xuống đàn trẻ.
“Đặc biệt là miền Mộc Độc, bên bờ Thái Hồ ở Tô Châu có bốn loại bách già có tên là thanh, kỳ, cổ, quái. Loại thanh bách thân cây đâm thẳng lên trời, cành lá xòe ra như cái tán. Loại kỳ bách, nằm ngang trên đất, thân, cành uốn thành chữ chi. Loại cổ bách, trụi lá, đưa những cành nửa khô lên trời như ngón tay. Loại “quái bách” từ gốc trở lên thân vặn như tròn ốc.”
Một khách sành điệu chơi kiểng đã đi du lịch nhiều nơi đã phát biểu:
- Rễ cây đẹp nhứt là ở Đền Đế Thiên Đế Thích, bên Cao Miên. Hột lâm vồ rơi vào vách đá, rễ to dần, bao trùm, che lấp mấy tượng đá nhỏ. Cây có sức mạnh hơn đá. Rễ cây là con mãng xà vương vô địch, gây bao cuộc hưng vong.
- Thân cây đẹp chính là ở vịnh Hạ Long (Vịnh Bắc Phần), Cây bám vào vách đá (loại đá vôi), sống cheo leo, mỗi cục đá là một hòn đảo tí hon, cao nghệu. Sóng biển đục khoét chân đá, cây đứng lên rồi thòng ngọn xuống, cựa quậy khi gió biển thổi lộng. Dường như cây chỉ sống bằng môn dinh dưỡng duy nhất là sương mù, sống đến một ngày hay một đêm định mạng nào đó thì tảng đá gãy ngang, đứt chân.
Đá và cây mất dạng đưới biển sâu như hoa lan nở rồi tàn trong hang tối, lúc có mặt tỏa hương thơm thì không ai biết, khi trở về hư vô thì chẳng ai hay. Như vì sao xuất hiện trên trời cao rồi nổ tung mà ánh sáng của nó hàng triệu năm sau mới rơi rớt xuống trần gian trong đêm tối.
Lại có người bảo:
- Cây kiểng đẹp nhứt là ở bờ biển Long Hải, biển bao vây ba mặt, gió thổi lộng hai mùa mưa nắng, thân cây bị cát lấp vì trận gió này rồi được giải tỏa vì trận gió khác. Sóng cát cứ đùa tới từng lượn. Gió và cát đã giết nhiều cây to nhưng cây nào đủ bản lĩnh thì tiếp tục sống với cành lá xơ rơ, lá và nhánh bị tỉa cắt đến mức tối đa.
- 2 -
Nói đến Lưu Nguyễn, Từ Thức thì nhớ đến bảy ông hiền ở rừng trúc, mấy ông này chống đối nhà Tấn, một kiểu bất hợp tác, bất bạo động, lập một tiểu quốc nằm trong đại quốc!
Các ông đủ sức kéo dài cuộc tiêu dao - đủ gạo, đủ rượu, đủ tiểu đồng hầu hạ.
Nhưng hỡi ôi! Chính một thi sĩ Trung Hoa khác ở giữa thế kỷ mười bảy là Trương Trào đã dám phê bình bảy ông hiền ở rừng trúc. Và theo ý chúng tôi thì câu nói của Trương Trào nên tặng riêng cho ông Lưu Linh.
Rằng:
- Điều bất bình nhỏ trong lòng, uống rượu vào có thể tiêu được ; điều bất bình lớn trong đời, không dùng gươm không thể dẹp được.
Chơi kiểng là thói hư - nhiều người phê phán như thế.
Tại sao hư?
Chúng ta nên nói thẳng vì bây giờ là thời đại kim tiền.
- Hơ bởi vì không sanh ra tiền. Nếu mỗi ngày chăm sóc kiểng mà thâu vào được năm bảy trăm đồng, thì các bà nội trợ sẽ thúc giục đức ông chồng nên chơi kiểng cho hăng say để làm giàu. Và cha mẹ sẽ cho con vào trường Cao Đẳng về kiểng để sau này nó trở thành cậu kỹ sư trẻ tuối tài cao, để sắm xe hơi nhà lầu. Chừng đó ở trung tâm thành phố sẽ có những nhà xuất cảng, nhà tổng đại lý về kiểng để thu hút ngoại tệ. Xưởng sản xuất kiểng sẽ qui tụ bao nhiêu kỹ sư nam thanh nữ tín với luật lao động quỹ bù trừ bồi thường tai nạn.
Kiểng là món hàng xa xí dính dáng với nghệ thuật. Xa xí phẩm thì khó bán, kém khách.
Lý do ấy chưa vững vì hội họa điêu khắc phẩm vẫn bán với giá cao.
Kiểng là món hàng dễ hư hao, không bón phân cắt sửa kịp thời, thiếu săn sóc thì kiểng sẽ chết, trở thành một khúc củi!
Tranh lụa, tranh sơn mài, tượng cẩm thạch hay nắn bằng thạch cao vẫn dễ bán hơn cây kiểng, vì nó không rã, không hư hao bất ngờ về thể xác.
Bởi vậy người ta đã sản xuất những loại kiểng đúc trong khuôn với chất dẻo hóa học để “kỹ nghệ hóa” để dễ phổ biến. Nhưng hỡi ôi, bướm không chịu đậu vào cây kiểng hóa học. Và cây kiểng này khó gợi cảm bằng cây trụ đèn điện hay cây cầu đúc bắt qua sông với bao nhiêu nước chảy qua cầu và những nỗi đoạn trường.
Vài người vì yêu kiểng và yêu đồ sành đồ sứ nên muốn tổng hợp đem vài miểng chén có bông hoa đầu rồng... gắn vào gốc kiểng: họ lật một khoảng da cây nhét cái miểng vào. Vài tháng sau vỏ cây mọc lấn ra, miểng chén dính vào gốc, như một miểng xa cừ cắm vào. Nhưng gẫm lại thì việc cắm miểng sành vào gốc cây sống là quá thừa, làm giảm vẻ đẹp của kiểng giống như trường hợp gắn những hình cao bồi, hình người bắn súng, hình chim bằng nhựa hóa học lên nhánh hoặc vào bên gốc kiểng,
Bên gốc kiểng vùng đất trống còn lại trong chậu phải cho đá, vài viên đá “cổ quái”.
Theo sự giải thích “cổ lệ” thì người ta không trồng cây da cây me cây khế làm kiểng vì lý do ma quái.
- Cây da quá khôn ngoan hễ nhánh vừa gie ra là rễ phụ mọc thêm thòng xuống đất để chõi lên cho nhánh khỏi nghiêng ngã. Cây da thuộc vào loại có linh tính quỉ quái.
Nhưng cây già cầy sộp cây sanh cây lâm vồ... có rễ phụ vẫn được làm kiểng. Cây có rễ phụ dễ uốn, dễ gây không khí cổ kính. Trồng một đôi năm là trở nên um tùm nào rễ phụ nào rễ dưới đất nào nhánh to nhánh nhỏ.
- Cây me nào thua cây liễu bên Tàu: lá nhỏ mịn màng rung rinh khi gió thoảng, vỏ cây răn nứt, nhánh dẻo sống mạnh bất chấp điều kiện mưa nắng, đúng là anh hùng miền gió mùa sống trăm năm quá dễ dàng.
Người ta liệt cây me vào loại phàm phu tục tử:
“Xưa mọc ngoài ranh với xó hè.
Nay trồng giữa chợ rạng danh me”,
Bởi vậy, người khó tánh, nếu tình cờ gặp me gốc nào quả tốt, cổ quái thì họ trồng riêng, để ngoài xa, bên lu nước hay ngoài vòng rào. Cây me thuộc vào loại phó thường dân!
- Cây khế có ưu điểm là tròn trịa, vui tươi, đến mùa thì trổ bông lấm tấm trắng đỏ và kết vài trái, tuy bị nuôi thúc trong chậu. Nhưng vẫn bị chụp mũ là loài phàm, chưa đáng ngồi chung một chiếu với bọn quân tử.
Theo ý kiến chúng tôi thì me và khế chỉ có một tội duy nhất là sanh trái chua. Ông bà ngày xưa răn dạy kỹ lưỡng, không cho con cháu cúng kiếng với canh chua, chuối già, khoai lang và vài món nữa.
Dường như theo người xưa nói lại, thì ma quỉ sẽ tìm tô canh chua mà rửa ráy nơi dơ dáy nhất của bọn chúng, mặc dầu tô canh ấy để trong mâm, trên bàn thờ, bọn chúng cũng trèo lên mà làm chuyện vô lễ.
Còn đậu đỏ, khoai lang... đều nhập cảng qua Việt Nam, ngày xưa theo kiểu mấy người buôn lậu giấu đút á phiện hoặc hột xoàn để qua mặt nhơn viên quan thuế. Tục truyền rằng phen ấy, vị sứ giả Việt Nam qua để triều cống, chuyến về, ông ta lén ăn cắp vài hột đậu, giấu trong hậu môn, lén cắt một cọng rau lang còn tươi, quấn chung quanh lưng quần. Nhờ vậy, khi qua ải, lính Tàu không bắt gặp. Khoai lang, đậu... đã nhiễm mùi xú uế từ đó ở đất ta.
Kiểng uốn theo thiên hình vạn trạng, miễn là cân đối, đẹp - sự cân đối và vẻ đẹp linh động của thư pháp tức là phép viết chữ nho.
Chữ nho có một nét, hoặc hàng chục nét lăng nhăng, mỗi chữ lại có thể viết rõ nét hoặc viết tháo (thảo) khi mới tập viết, kẻ thư sinh xếp giấy ra từng ô vuông mỗi chữ nhiều nét hoặc ít nét đều nằm gọn, thoải mái trong cái hình vuông tưởng tượng ấy.
Nét thẳng ngang - như chữ nhứt, làm thí dụ có thể nằm hơi xiên, bên to nét bên nhỏ nét mà vẫn cân đối trong cái ô vuông. Và phép viết chữ nho bắt buộc người viết phải tìm cái đẹp với lắm công phu, để đạt tới cái đẹp hồn nhiên, mới xem qua thì dường như dễ dàng.
Những lằn nét trong cây kiểng, toàn thể cây kiểng là một chữ nho năm bảy nét, hàng chục nét nằm trong cái ô hình chữ nhật, hình bầu dục hoặc hình tròn, bát giác, lục giác.
Người chơi kiểng thường câu nệ ở nguyên tắc gọi nôm na là chấm, phết.
Chấm, phết tức là thêm bớt để giữ cho tòan bộ cây kiểng được quân bình. Hễ cắt một nhánh nhỏ phía bên này thì phía bên kia phải có một sự thêm bớt tương xứng.
Người Trung Hoa bày ra những kiểu viết: chân thảo, lại còn chữ triện, chữ lệ.
Chữ nho viết thảo, tức là viết nhanh, tiết kiệm động tác, giảm bớt những nét không cần thiết vẫn đẹp, dễ đọc. Nhưng nó đòi hỏi sự khéo léo thần lực của ngòi bút. Cây bút, lúc viết thảo, trở thành lưỡi kiểm Lưu Cầu.
Nhiều cây kiểng gợi hình ảnh một chữ viết thảo, gốc và nhánh thì xơ rơ, còi cọc nhưng mạnh bạo, ngạo nghễ.
Cây mai ở bên Tàu được thi nhân nhắc tới, nó có hương thơm, cành mọc đâm ngang. Nhứt định là cây mai của thi sĩ Tàu khác hẳn cây mai (loại huỳnh mai, mai chiếu thủy) ở xứ ta.
Người Trung Hoa thích cây mai ở hương thơm và dáng điệu. Cây mai bên Tàu có cành đâm ngang, không cần uốn, theo dáng chữ nữ. Cây mai ở xứ ta thì mọc thẳng.
*
Cây kiểng đẹp ở thể đứng.
“Thế” là gì?
Là sự sống, là động tác, phát huy đến mức cao tột.
Là sự trang nghiêm! Trang nghiêm không có nghĩa là uể oải, thụ động, bịnh hoạn. Người ta kính nể sự trang nghiêm của nhà hiền triết, của ngôi chùa vì nó chứa đựng nhiều sinh lực, nhiều tiềm lực.
Rồng bay phượng múa là đề tài bất hủ, vì nó biểu diễn cái thế hùng mạnh, tự nhiên của hai con rồng tranh nhau một trái châu hoặc con phượng và con hoàng đang giao duyên.
- Võ sĩ Nhựt cầm gươm, đứng yên, mắt không chớp. Đó là cái thế của đống thuốc súng sắp nổ.
Hễ con rồng hả miệng giận dữ thì móng, vảy và đuôi, chân trước chân sau của nó đều biến hóa.
Con cá lội, khi sóng dậy ầm ầm xao động mặt nước thì đuôi, kỳ, phướng của nó nghiêng qua, uốn lại giữ thế quân bình, nó phải kháng cự với ngoại cảnh.
Nhiều người nói nửa đùa nửa thật rằng môn đánh cờ tướng rất bổ ích, nó đào luyện trí óc, giúp cho con người trở nên linh hoạt, sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế bất trắc, mới lạ. Nó dạy về chiến lược chiến thuật.
Nhưng hỡi ơi! Nếu bàn cờ tướng giống như mặt trận “Hán sở tranh hùng”, nếu quân cờ có những tướng sĩ tốt xa pháo, nếu quyển “Tượng kỳ bí quyết” được so sánh binh pháp Tôn Tử thì chúng ta cũng đã thấy nhiều bằng chứng cụ thể:
- Ông tướng đánh giặc giỏi ở mặt trận có thể là người giỏi về cờ tướng.
- Được liệt vào hàng kỳ vương - chưa ắt là kẻ dám cầm súng, dám xuất trận. Lắm khi, họ sợ tiếng súng hoặc tìm mưu kế, chuẩn bị tinh thần trước khi xáp chiến... bằng cách tiêu thụ vài liều thuốc phiện.
Cai trị là tiên đoán tình thế.
Nhưng cai trị dân khác với đánh cờ, mặc dầu bí quyết của chiến thắng trong ván cờ vẫn là tranh thủ, lấn đối phương bằng một hay hai nước chiếu bí. Hai bên đều tiên đoán, bên nào đi nhanh là bên ấy thắng.
Rõ ràng là cái bàn cờ tướng, thế cờ tướng khác hẳn cuộc đời với những gay go bất trắc vì sinh kế về tình cảm.
Người giỏi về cờ tướng chỉ khôn lanh, ứng phó giỏi, thông minh, sáng suốt... trong phạm vi bàn cờ thế thôi.
Chuyện giải trí cá nhân, thiền về kỹ thuật khác hẳn với chuyện xã hội. Đó là năng khiếu riêng, chẳng dính dáng gì đến việc cày cấy, làm ra cái bàn, cất nhà.
Người giỏi về bóng bàn, đỡ gạt một cách hiệu quả những cú hiểm hóc của đối phương chưa ắt là kẻ lanh lẹ, đỡ gạt kịp thời những đòn phép về ái tình, nói chi đến việc tranh thương, việc kinh doanh.
Người ưa chơi kiểng chưa ắt không màng danh lợi hoặc xem thường cái chết. Hòn non bộ là cảnh Non Bồng, Nước Nhược, chỉ có ở cõi đời này do con người xây đắp nên. Người chơi kiểng hiểu rành như thế, họ không tin vào chốn Non Bồng, Nước Nhược mà họ sẽ đến khi chết, theo lời cầu nguyện của bạn thân.
Chơi kiểng vì kiểng đem niềm vui đặc biệt, khác với rượu, cờ bạc, khác với mỹ nhân. Cây kiểng không phản bội.
Người còn hăng sức, đang nhập thế nhưng không thỏa mãn với công việc khô khan, làm việc như cái máy hằng ngày, mãn giờ làm việc là họ siêu thoát, sống trong thế giới riêng với rượu, cờ bạc, hoa kiểng. Họ muốn sống... cho họ, gọi là tự chủ.
Tự chủ là làm vua một cõi, làm chuyện mình thích, làm chuyện mà mình cho là sáng tạo đề bù trừ lại những chuyện làm bất đắc dĩ, bất dắc dĩ nhưng vẫn làm vì sanh kế. Bởi vậy, ta không nên nghi ngờ thiện chí đầu tiên của vai nhà mại bản, vài ông chủ phố, giám đốc công ty xuất nhập cảng nào đó, bỗng dưng mà các ông nổi máu văn nghệ, rước thầy về để học đờn tranh, học thổi sáo, chơi kiểng. Hoặc các ông đâm ra làm thơ, làm báo.
Dưới gốc kiểng hay trong hòn non bộ, thỉnh thoảng chúng ta gặp tượng Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm dưới gốc bồ đề. Nhiều người ngẫu hứng đã bố trí một hang đá nhỏ, với máng cỏ và đức Chúa Hài Đồng! Một hòn non bộ lắm khi có đủ Phật, Chúa Ki-Tô đúng là không khí của Thông Thiên Học. Đừng ai thắc mắc, đòi hỏi chủ nhơn giải đáp hoặc đem kinh sách, giáo lý ra chất vấn ông ta. Ông ta muốn như vậy là bố trí như vậy.
Lắm khi trong hang đá lại xuất hiện con cọp, nhà hiền triết bất mãn đang suy tư hoặc ngủ khò. Nhà hiền triết bằng đất nung nằm vắt chân chữ ngũ, nằm kín đáo trong hang. Con cọp thì rình mò nhưng chưa xông vào ăn thịt người. Hay là con cọp nọ chán đời, bất mãn nên cúi đứng im, soi vào gương nước!
Ở quê tôi, có ông cai tổng rất bậm trợn. Tôi kể chuyện đời Pbáp thuộc, lúc tôi còn bé. Ông cai tổng này chạy chọt rất giỏi, nịnh hót quan tham biện chủ tỉnh, được thăng chức huyện hàm, được ban đôi ba thứ mề đay và sợi dây tam sắc. Nghe đâu ông tốn rất nhiều tiền để vận động những chức tước, huy hiện ấy và khi hầu hạ quan trên, ông khoanh tay với bộ áo dài cổ truyền và cái khăn đống “Suối Đờn”.
Mỗi ngày, ông cai tổng dạo kiểng xem huê hai lượt, buổi sáng buổi chiều, ông chống cây “ba-ton”, đứng hàng nửa giờ để ngắm cái hòn non bộ đầy đủ ngư tiều canh mục, chùa chiền, tháp, hang động với phật tiên.
Là người thông minh, biểt ứng phó thời cuộc lúc bấy giờ, biết chữ nho lai rai, nhứt định là ông biết mình làm những gì: nước mất về tay thực dân Pháp, ông đã hưởng bổng lộc, công danh. Và ông cũng xa lánh bổng lộc công danh, khi thả hồn vào cái thế giới xem nhẹ công danh xem thế sự là phù vân của gốc kiểng già của hòn non bộ. Nước mất về tay kẻ khác, nhưng cái hòn non bộ, cái Bồng Đảo lại hoàn toàn về tay ông, do ông làm chủ.
Cái hòn non bộ nằm trong sân, giữa sân rộng rãi, chung quanh nhà có vòng kẽm kiên cố. Một hai người đứng nhìn lén vào thì ông bỏ qua, nhiều người nhìn lén thì ông nổi giận, nhứt là khi ông đang ngắm hòn non bộ mà có năm bảy đứa con nít bàn tán, chỉ trỏ vào.
Hồi đó, tôi cho rằng ông khó tánh, ích kỷ sợ trẻ con lén vào sân để gỡ mấy cái chùa nhỏ bé, mấy ông tiên, ông tiểu bằng đất. Tôi đã lầm to.
Ngắm kiểng, ngắm hòn non bộ là siêu thoát thả hồn vào thế giới riêng, linh động, vui tươi, một thế giới trường sanh bất tử của nàng Giáng Tiên Giáng Kiều, của chư Tiên chư Phật, ở ngoài càn khôn.
Nhưng đây là thế giới tưởng tượng, trừu tượng chập chờn của ảo giác như Trang Chu ngỡ mình là một con bướm với đôi cánh to như cái bánh xe.
Thả hồn phiêu lưu vào cái vũ trụ riêng tư ấy là động tác tách rời xã hội, kín đáo, cần được che giấu như trường hợp đôi tình nhân âu yếm bên nhau. Phải có bóng tối chập chờn, công viên hoặc bãi biển phải vắng người.
Aí lại ngắm kiểng ngắm hòn non bộ được trong khi có năm ba người nhín chòng chọc, xoi mói? Như vậy là cụt hứng vì đời tư - hay nói cho văn hoa hơn là đời sống tinh thần, phút thoát trần siêu hình bị xúc phạm rồi! Cụt hứng vì ngượng ngập, hơi bẽn lẽn.
Đạo sĩ luyện linh đơn hoặc thầy pháp luyện “thiên linh cái” bao giờ cũng làm việc ở nơi hẻo lánh, bí mật, không cho người hàng xóm hoặc nhà cầm quyền hay biết.
Dùng thái độ xa rời xã hội, xa thực tế để bù trừ lại lúc dấn thân vào xã hội. Như vậy là quân bình chăng?
Tại sao cần bù trừ? Ngắm kiểng là hành động giả tạo, tự đối lòng hay là lúc giao thiệp với người chung quanh, lúc tranh giành đồng tiền chén cơm ta đã làm những chuyện bất đắc dĩ, có lợi cho ta nhưng có hại cho kẻ khác, ta đã dối ta.
Hay là trong lúc giành chén cơm manh áo, ta đã bị lấn hiếp, bị đọa đày, bị xé nát nên khi về nhà ta ngắm non bộ để xoa dịu vết thương lòng, trở lại với vũ trụ, với khí âm khi dương, với đại khối?
Lúc tập Yoga, người ta làm nhiều động tác quái đản, trồng chuối ngược, dộng đầu xuống đất, đưa chân lên trời hoặc ngồi tréo tay tréo chân như bị trói.
Ngơởi tập Yoga chắc không thích cho ai chụp ảnh, ngoại trừ trường hợp biểu diễn để đăng báo, làm quảng cáo.
Ngắm kiểng cũng vậy. Đó là hoạt động ngoài xã hội, riêng tư. Nếu chụp ảnh thì chủ nhơn khó giữ gương mặt tự nhiên. Chủ nhơn chỉ có thể giả bộ cầm cây kéo để cắt nhánh cây, hoặc đứng gần gốc kiểng, nhìn vào máy ảnh. Có lẽ khi đăm chiêu nhìn vào gốc, thả hồn theo giấc mơ của Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai gương mặt con người trở nên ngây ngô, hơi đần độn, chụp ảnh lúc đó thì xấu xí quá. Muốn chụp thì nên có sự “dàn cảnh” cho hợp với khán giả, với xã hội. Bằng không thì bức ảnh của người ngắm kiểng sẽ hơi buồn cười. Chủ nhơn đang sống bằng trực giác, thả hồn chơi vơi bởi vậy cái phần xác dường như tê liệt, như con ếch nằm “mà” dưới hang, như người ngủ gục, người đang đi thiếp, đang sai ma. Lúc ấy chủ nhơn đang sống nửa tiên nửa tục, nhưng quả thật là tục, dường như ông ta đang suy gẫm cái triết lý gì cao siêu lắm nhưng thật ra cái triết lý ấy hơi nhàm. Và ông ta đang ngồi trên mặt đất nầy chớ không phải ở chốn Đào Nguyên, ông ta sống chân thật với mình nhưng lại đóng kịch
Đó là trạng thái lẩm cẩm. Người ghét kiểng và người yêu kiểng đều nhìn nhận sự lẩm cẩm ấy. Đã lẩm cẩm thì khó diễn đạt, khó định nghĩa. Định nghĩa chữ “lẩm cẩm” hóa ra lẩm cẩm luôn.
- 3 -
Lẩm cẩm là gì? Là diễn tả mãi mà không hết ý, bởi vậy, đương sự nói tới nói lui một vấn đề, lắm khi ngụy biện, mâu thuẩn với chính mình. Diễn tả không hết ý không phải vì thiếu danh từ, thiếu lý luận nhưng chính vì vấn đề quá mơ hồ - vừa cụ thể, vừa mơ hồ - khiến đương sự nắm không được vững, vừa nắm là đã vuột. Không chơi kiểng thì tiếc, thấy thiếu thốn chút gì nhưng sau khi ngắm kiểng thì lại không hoàn toàn thỏa mãn ; sự thỏa mãn chỉ phù du như người chợt tỉnh giấc mơ, trở lại thực tế.
Sự quân bình được ví như cái cân, có hai cái vá, một bên là món hàng, một bên là trái cân và chính giữa có cây kim chỉ thẳng lên trời.
Hoàn cảnh sanh sống, nếp sống ích kỷ đã chia con người ra hai mảnh hoặc nhiều mảnh, phần xác phần hồn, phần tàn nhẫn và phần hướng thiện, khi thì ngạo nghễ, lúc lại khiêm tốn, lúc xem đồng tiền là huyết mạch và lúc xem tiền tài như phấn thổ. Đặc biệt là có lúc ham sống và có lúc chán đời, muốn được tan rã một cách dịu dàng, trở về hư vô. Những tâm trạng trái ngược.
Bên này một kí-lô điều ác, bên kia một kí-lô điều thiện có thể làm cho cán cân chi phó được quân bình chăng? Nhất định là không vì con người khác với cái cân. Con người là một, chia hai là giả tạo, so sánh không đúng.
Người cho vay ăn lời cắt cổ có thể nào chuộc tội lỗi khi mỗi buổi chiều ngồi nghiêm trang, tụng vài thời kinh? Đó là dối thế và dối lòng mình.
Một nhà sư Việt Nam đã nói:
“Dân tộc và đạo pháp vẫn là ánh sáng dắt dẫn chúng tôi và chúng tôi vẫn tiếp tục đi vào chông gai như đi vào nơi gió mát trăng thanh đề đạt đến lý tưởng của mình”.
Chông gai và gió mát trăng thanh là một, không tách rời nhau. Chông gai là chướng ngại, gây đau khổ. Gió mát trăng thanh chỉ có khi con người biết kiên nhẫn phấn đấu, đó là phần thưởng dành riêng cho người tích cực. Người thụ động không bao giờ hưởng được thứ gió mát trăng thanh từ cõi lòng chiếu sáng ra.
Đây là quan niệm đứng đắn về con người, kết hợp Đời và Đạo làm một khối thuần nhất, không đặt Đời trên cái vá cân bên này và Đạo ở vá cân bên kia để tìm thế quân bình giả tạo, hình thức.
Tôi chưa được đi xa để thấy tường tận những cách thức uốn kiểng ở miền Bắc, miền Trung Việt Nam. Nếu tôi không lầm thì mỗi vùng uốn kiểng hơi khác nhau. Ở Nam phần, chơi kiểng sành điệu nhất là ở vùng Biên Hòa (Bồng Nai) và Vĩnh Long, Sa Đéc (Cửu Long).
Người Việt gốc Hoa chơi kiểng theo lối riêng, khác với người Việt về hình thức sửa kiểng.
Cây kiểng uốn theo lối gọi là cổ điển với cái gốc hơi nghiêng - gọi là xuy phong - với năm cái tàng, bên này ba, bên kia hai, và một cây con là do ai phát minh hoặc cải tiến trước tiên?
Tôi chưa được đi viếng miền Nam Trung Hoa để so sánh, tìm hiểu thêm.
Chúng tôi nghe nói rằng người Việt Nam uống trà theo người Trung Hoa đời nhà Minh, với cái chén tống chén quân, cái dĩa dầm. Người Trung Hoa lúc sau này uống trà theo kiểu Mãn Thanh?
Cây kiểng ở miền Nam uốn theo kiểu đời nhà Minh, cải biến ít nhiều chăng? Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch đã dẫn đám tàn quân bài Mãn phục Minh đến vùng Đồng Nai và Cửu Long, đám tàn quân này sanh con đẻ cháu và giữ được hương vị cũ?
Có lẽ tôi đã suy luận quá viễn vông và sai lạc.
Kiểng vẫn còn. Hễ sắm hoặc mướn được căn nhà rộng, có sân thì chủ nhơn nghĩ đến việc trồng kiểng, nhất là chủ nhơn tuổi quá tứ tuần.
Người chơi kiểng không phải có dụng ý dối lòng minh và dối thế vì như đã nói - họ chơi vì quả thật họ khát khao, tâm hồn họ đòi hỏi “món ăn tinh thần” và họ không muốn cho người khác rình rập lúc họ ngắm kiểng. Xin để cho họ hai chữ bình yên. Đừng xoi mói tới cái số thích, cái quyền tự do của họ: chưa có luân lý hoặc luật pháp nào lên án việc chơi kiểng!
Lắm khi, người chơi kiểng cảm thấy thất vọng với cái trò chơi của mình, như kẻ đau Nam chữa Bắc, như người đau chân được tạm thời khoẻ khoăn nhờ mũi thuốc tê rồi thì đau đớn vẫn hoàn đau đớn, cô độc vẫn hoàn cô độc. Hỡi ôi! Khi đã dời Thiên Thai, con người chẳng bao giờ trở lại một lần thứ nhì được. Hay là câu chuyện Thiên Thai là láo? Nhưng tại sao láo mà có nhiều người tin, luôn cả những nhà hiền triết, nhà khoa học?
Nhiều hình thức nghệ thuật, dùng nhiều nguyên liệu khác nhau. Người Á Đông cho rằng trái đất này do khí âm, khí dương tạo ra, rồi do đó mà có kim mộc thủy hỏa thổ.
Ngọc là loại quí nhứt trong các loại đá, ngọc có màu sắc, cứng rắn, để ngàn năm không nát, trái lại càng lâu càng đẹp. Ngọc tiêu biểu cho dương, hơi nóng, sự sống. Cẩm thạch mà các bà các cô ưa đeo là loại ngọc xanh, vì tiêu biểu cho khí dương nên cẩm thạch được tẩm liệm trong quan tài để gìn giữ sự sống của chủ nhơn ở kiếp sau. Người còn sống nếu đeo ngọc hay cẩm thạch thì khi bị té thang lầu vẫn... có thể sống, đó là lời đồn đãi, căn cứ vào khí dương, sự hồi dương mà ngọc là tiêu biểu.
Ngọc là tinh hoa của vũ trụ, là sự sống bất diệt. Người đeo ngọc hoặc dự trữ vài món cổ ngoạn bằng ngọc trong nhà thì có hy vọng được thịnh vượng, tất cả sức mạnh của vũ trụ đã túc trực để hỗ trợ, xua đuổi ma quỷ vì ma quỷ thuộc về âm. Ngọc là bùa phép, đượm ý nghĩa thần bí.
Đồ gốm được so sánh với Ngọc, sáng sủa, để lâu không hư hao, càng ngắm càng thích; ngoạn ngọc. Nó là đất (thổ), loại đất tốt nhứt đem luyện trong lò lửa, lửa càng nung nấu thì đất càng cứng rắn, phô bày sắc đẹp, như con người bị nung nấu trong lò cứ nếu vượt qua, chế ngự được đau thương thì trở thành minh triết.
Người chơi đồ gốm yêu chuộng những món sản xuất từ đời Tống, do các vị tiên sư của ngành “đồ kiểu, đồ sứ” nắn ra, đôi khi tinh cờ còn dấu vết con ốc tay, khi đất còn mềm. Dấu tay để lại, nóng hổi, ngàn năm chưa phai mờ. Vài giọt men đỏ hoặc xanh được nghệ sĩ cố ý để cho chảy dài trên nền đất, như giọt nước mắt.
Đồ gốm là đất lửa và sự hãnh diện của con người cọng lại.
Ngọc và đồ gốm xưa đáng được ngắm để trong lúc cô độc con người được gắn liền với vũ trụ, dầu là trong ảo tưởng.
Vua chúa Trung Hoa đã tranh giành những viên ngọc quí, xua binh đánh nhau. Viên ngọc là cái cớ, là tượng trưng cho chánh nghĩa, cho sự ủy quyền của Trời.
Cây sống bắt rễ vào đất, bám vào đó đồng thời hấp thụ sương tuyết, mưa gió, ánh sáng và hơi nóng của mặt trời. Thiếu đất, thiếu nước, thiếu mặt trời thì cây khó sống được. Cây đã kết tinh được khá nhiều yếu tố của ngũ hành, sống nhờ âm dương, khi thạnh khi suy theo sự tuần hoàn của mỗi mùa. Cây gợi lại kiếp sống con người minh triết, gặp gian nan nhưng vẫn khắc phục được, tuyết phủ mà lá vẫn xanh, không rụng.
Người ghiền á phiện thường nói nửa chơi nửa thật rằng cái việc đi mây về gió của họ vẫn là tổng hợp ngũ hành, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ: nhựa là mộc, đèn dầu phọng là lửa, mấy cây tim là kim, cài tẩu nắm bằng đất là thổ... Nhưng xin gác vấn đề nầy qua một bên.
Ngọc, đồ gốm, cây kiểng, nối tiếp con người với trời đất. Xét cho kỹ thì nó nối tiếp con người với con người. Muốn trở thành nghệ thuật, ngọc, đất sét và cây đều phải rũa gọt, uốn nắn cho hạp tình hợp cảnh.
Ngọc đời Thương, đời Châu, đời Tần, Hán... luôn cả những món bằng đồng, bằng đất nung đều ra đới để làm trung gian giữa con người và vũ trụ, đượm tánh chất tôn giáo. Đó là những đồ minh khí chôn trong huyệt, bên cạnh người chết để họ tiếp tục sống ở cõi âm.
Ngọc quí ở đặc tính cứng rắn và gõ kêu thành tiếng. Nó tiêu biểu cho khí tượng con người, cho dòng máu quí phái. Ông Khuất Nguyên đã tự thuật:
- Châu Minh Nguyệt hề, ta đeo.
Ngọc Bảo Lộ hề, ta có.
Những đề tài thường được chạm vào ngọc, vào đồ đồng, đồ đất thời xưa gồm vài sinh vật: con thao thiết, con giao long, con ve, con cọp, con dê... để xua đuổi tà ma, cầu mưa thuận gió hòa kích thích sự sống bất tử.
Cây kiểng đóng vai trò viên ngọc cái đỉnh đồng. Nó gần gũi con người hơn, tiến hộ hơn. Nó làm thỏa mãn cái khát vọng được hòa mình vào vạn vật nhưng không đượm màu sắc huyền bí. Nó chỉ thơ mộng, một bài thơ siêu thoát, hiền lành. Người chơi kiểng biết chắc con người sớm muộn gì cũng chết, chết là hết với hai bàn tay không. Bởi vậy, họ muốn tận hưởng cuộc sống, họ điều chỉnh cuộc đời cho có quân bình. Họ biết rằng ngọc ngà châu báu, đồ minh khí nếu có chôn theo quan tài thì cũng là những thứ kiểng đem theo để trang trí cho “vui nhà vui cửa” vậy thôi, những thứ kiểng chết vì không có người ngắm nghía.
Hòn non bộ, chậu kiểng chỉ sống khi có người ngắm. Nó là vật vô tri vô giác nhưng có hồn là do con người trao hồn cho nó. Tự nó, không có gì cả. Thiên Thai trở nên thơ mộng vì có Lưu Thần Nguyễn Triệu. Họ Lưu họ Nguyễn là tiếng nói của một thi sĩ, là hai nhân vật được người đời bịa đặt ra.
Bởi vậy, muốn chơi kiểng, chơi non bộ, con người phải tiến đến một giai đoạn văn minh nào đó.
Hồi thời ăn lông ở lỗ, lột vỏ cây hoặc lột da beo da cọp để che thân, chắc chắn là con người không cần, không biết chơi kiểng, chơi non bộ. Khi bước vào thời đại văn minh nguyên tử, liên hành tinh, liệu con người khi đáp xuống và định cư ở mặt trăng còn chơi kiểng nữa không?
Chúng ta không lấy làm lạ khi thấy vài ông chủ sở mướn cô thơ ký để... làm kiểng, nghĩa là ngắm nghía cho cuộc đời thêm tươi mát. Hoặc là một anh nào đó, bất luận tuổi tác, nghề nghiệp sang hèn đã lộng kiếng bức ảnh cô đào cải lương, nữ diễn viên điện ảnh hoặc nữ ca sĩ, đem treo ở đầu giường.
Người ta thèm khát cái gì thiên nhiên, tự nhiên để bù trừ lại cái khung cảnh đầy bụi bậm, tiếng động cơ, khói xăng nhớt.
Một nhà xã hội học Pháp nhận xét: pho tượng Hy Lạp bằng cẩm thạch trắng, tạc vị nữ thần trần truồng đã khiến chúng ta ngạc nhiên kính nể, nó giống hệt con người với ni tấc cân đối, tiêu biểu cho Thiên Nhiên.
Người đẹp đóng vai trò trung gian giữa người và thiên nhiên, giữa người và người, người và thần linh. Thuở xưa, người trinh nữ là vật hy sinh dùng tế thần. Chiêu Quân, Huyền Trân công chúa, Ngọc Hân công chúa là trung gian để giảng hòa việc tranh chấp biên giới khiến đám dân đen thoát nạn binh đao. Ngắm hoa nở, thưởng trăng thì nên có người đẹp để làm cái gạch nối liền giữa người và tạo vật.
Người ta bắt buộc đàn bà phải đẹp vì tạo vật, thiên nhiên là đẹp, một thi sĩ Trung Hoa đã viết:
- Gọi là mỹ nhân thì mặt đẹp như hoa, tiếng nói như chim, tinh thần như trăng, vẻ như liễu, xương như ngọc, da như băng tuyết, dáng như nước thu, lòng như thơ”.
Chúng tôi nói và cố chứng minh dông dài như thế để trả lời câu hỏi:
- Tại sao đàn bà không chơi kiểng, hòn non bộ?
- Bởi vì họ là hoa, là trăng, là liễu, là nước mùa thu. Thiên nhiên là bất diệt.
Có lẽ cũng vì vậy mà ông hoàng bà chúa ít khi sưu tập những món cổ ngoạn, lúc túng tiền hoặc cao hứng thì họ bán hay tặng chén ngọc đũa ngà một cách dễ dàng; xương cốt, máu huyết của họ đã là hiện thân của vàng ngọc rồi, đâu cần phải phô trương, trang trí bằng những món phụ tùng lẩm cẩm như kẻ lê dân...
“Người đẹp vẫn thường hay chết yếu” là câu thơ của thi sĩ J. Leiba. Nói rằng chết yểu là quá đáng, có lẽ nên nói rằng thời trước đây, nhan sắc người đẹp dễ tàn phai, khi phải một nắng hai sương, gánh gạo chợ chiều để nuôi con.
- Bèo nổi nước trôi em vẫn trẻ.
Cái già như sợ cái “hồng nhan” là lời tán dương của nhà văn Thúc Tề dành cho cô Ba Trà, cô Sáu Huỳnh Kỳ, những mỹ nhân mà bọn công tử thời Pháp thuộc đã cố chiếm đoạt. Già mà vẫn đẹp là chuyện khó, hy hữu, chỉ dành riêng cho một thiểu số được cái nhan sắc thiên phủ.
Ngày nay, con người sống dai hơn thời xưa - nếu không gặp chiến tranh, thiên tai - đàn bà có khá nhiều phương tiện để giữ gìn sắc đẹp, nào là giải phẫu thẩm mỹ, bơm ngực, cái nếp nhăn, thoa bóp, dùng tia sáng “điện tử”, lại còn những chất hóa học làm thức ăn cho làn da - một đại kỹ nghệ về mỹ phẩm với những viện bào chế.
Thiên nhiên giống như hình ảnh mà người Hy Lạp đã tạo ra không? Pho tượng có đẹp nhưng thiếu sự đau xót, thiếu sự phấn đấu. Cây kiểng trong chậu không bao giờ che giấu sự phấn đấu, người chơi kiểng dám chọn lựa những gốc cây bật rễ với những nhánh khô gãy. Người đẹp thời nay không dám phô bày những nỗi phiền muộn riêng tư, âm thầm hoặc lộ liễu mà họ gánh chịu để làm thế nào có tiền hòng mua sắm mỹ phẩm, đi mỹ viện, để giữ mãi mùa Xuân.
Có lẽ vì vậy mà họ chỉ thích trồng hoa hoặc cắm hoa trong bình mà thôi. Hoa trong bình sống với nước trong, không có bùn đất nhưng thử hỏi hoa tươi được bao nhiêu ngày?
Người đẹp chưa thắng nổi cây kiểng cổ điển, mặc dầu cây kiểng là món giả tạo, còn nhiều thiếu sót để tiêu biểu cho thiên nhiên.
Đọc trong quyển sách Pháp, quên nhan đề, mới xuất bản gần đây thấy giai thoại về anh chàng nọ mời bạn thân đến nhà, đem rượu quí ra thết đãi rồi sau đó long trọng giới thiệu một công trình độc đáo. Đó là cái máy thâu thanh, to lớn như cái tủ (vì vỏ của máy là cái tủ rượu) bên trong có nhiều sợi dây điện chằng chịt, những cái bóng đèn, những chỗ hàn để ráp mối dây! Chủ nhơn vặn nút. Cái máy thâu thanh vĩ đại ấy phát ra tiếng khá to, có thể bắt được làn sóng ở vài đài phát thanh địa phương. Chủ nhơn không quên tuyên dương công trạng của mình: việc ráp máy ấy tốn ba bốn tháng, làm lúc rảnh việc, tốn kém gấp mười lần cái máy thâu thanh mua ở tiệm. Lúc rảnh, anh mua sách dạy về vô tuyến điện, tìm dụng cụ ở trong nhà, gom góp mở dây điện hư... Và tập tành làm công việc của một kỹ sư. Sau nhiều lần thất bại anh lại tiếp tục đến mức thành công vẻ vang. Đúng là một kiểu chơi kiểng!
Khi săn sóc cây kiểng để riêng mình hưởng thụ thì chủ nhơn là tài tử. Nếu sản xuất kiểng để bán, chủ nhơn là nhà nghề.
Tài tử là người trau dồi nghệ thuật để dưỡng tánh tình, với năm ba người bạn hưởng ứng, không vụ lợi. Bởi vậy, khi ban tài tử biểu diễn đờn tranh, đờn kìm và ca hát trên sân khấu để thâu tiền vô cửa hoặc không thâu tiền nhưng với mục đích phô trương cho người khác xem thì nó chẳng còn là tài tử nữa. Nó dính với xã hội, chiều theo thị hiếu cao hay thấp của người xem, người nghe. Dính với xã hội là điều tốt cho nghệ thuật, nhưng lúc bấy giờ đối tượng của nghệ thuật là kẻ khác chớ không còn là bản thân người biểu diễn nữa. Khi còn là tài tử, người nghệ sĩ biểu diễn cho riêng anh ta, anh ta có thể mặc quần đùi, ngồi trong khu rừng vắng: nội tâm và ngoại cảnh là một.
Đứa bé thả diều trên bờ đê, đứa bé nằm thổi sáo trên lưng trâu, cô gái hái dâu hát bài huê tình đáng gọi là tài tử.
Người nghệ sĩ khi bước lên sân khấu đã mặc nhiên trở thành “nhà nghề”, anh ta diễn theo thời khắc qui định, theo bổn tuồng do người khác soạn ra và lãnh việc đạo diễn, anh ta ít khi được chọn lựa một vai đúng sở thích, lúc đau ốm cũng phải diễn để kiếm cơm.
Tuy nhiên, trong những phút diễn xuất nhập thần, anh ta vươn lên cương vị một tài tử theo nghĩa cao đẹp hơn, lúc ấy anh ta diễn cho riêng mình đồng thời số khán giả bên dưới bị lôi cuốn, hòa đồng với anh ta, diễn viên và khán giả kết hợp thành một khối thuần nhất. Trong phút dây thần diệu ấy, mặc dầu phải trả tiền để mua giấy vô cửa, khán giả vẫn được lên ngôi tài tử. Tất cả cùng nhau dưỡng tánh tình, thông cảm với vũ trụ, tưởng chừng như thế gian nầy đã tan biến không còn gì nữa, ngoại trừ cái tâm trạng bi hùng đang chói lòa trong rạp hát Bấy giờ sân khấu trở nên mầu nhiệm hơn cuộc đời và đáng được thần thánh, chư tiên chư Phật chứng giám, không còn phân biệt tiên và tục, tài tử hay nhà nghề, đạo diễn, soạn giả hay diễn viên, người và vai tuồng.
Nhạc và vũ là món được dùng để cúng dường, vì lý do ấy.
Khi người chơi kiểng bắt đầu sản xuất kiểng để bán thì anh ta rời khỏi tư thế tài tử để bước sang địa hạt nhà nghề. Kể từ đó, cây kiểng được uốn nắn theo thời thượng, tùy theo đa số thân chủ đề dễ bán.
Nói chung, có chừng hai hạng người mua kiểng:
- Mua lấy cái gốc, đem về sửa lại cho hợp với sở thích riêng.
- Mua đem về để trang trí. Khi đóng vai trò món trang trí thì cây kiểng chỉ còn là hình thức suông, như cây kèn, như những bộ phận lẩm cẩm “mạ kền” gắn vào chiếc xe máy. Nó trở thành một “món đồ” huê dạng, không cần thiết, có nó thì chiếc xe gắn máy không chạy nhanh thêm chút nào, trái lại, còn làm cho chiếc xe thêm bề bộn.
Tốt phước nhất là cây kiểng ngự trị trước cửa những cao ốc chín mười từng, bên cạnh cây kiểng, người lính Mỹ đứng canh gác cẩn thận. Cây kiểng trở thành món đồ chướng ngại.
Hoa làm bằng chất nhựa dẻo được phổ biển, không bao giờ héo, nếu dính bịu thì cứ đem rửa ráy. Người ta đã làm những chậu kiểng nhỏ uốn theo kiểng Nhựt bằng chất nhựa dẻo, với kỹ thuật rất tinh vi. Hoa đã mất hồn, dễ nhàm chán nhưng bán rất chạy trên thị trường, được dành chỗ đặc biệt trên bàn thờ, trong chùa miễu.
Nhiều người nông dân thích mua loại hoa này. Nông dân sống gần thiên nhiên, chuộng thiên nhiên nhưng tại sao lại mua món giả tạo? Nếu khó tánh, người ta sẽ bảo:
- Đó là những người bị văn minh vật chất ám ảnh, muốn làm sang, gẫm lại thì quê mùa, không biết xài tiền.
Vấn đề này khá tế nhị, đáng được phân tích kỹ lưỡng hơn.
Kim cương là quí, mua sắm kim cương quá tốn kém ; người giàu có, bực vua chúa gần như nắm độc quyền trang sức bằng kim cương. Ấy thế mà khi kim cương giả ra đời, nhiều người lại mê thích, mua sắm, trong số ấy có những người đã sắm kim cương thứ thiệt. Người có sáng kiến để chế tạo kim cương giả dường như là Lalique, ông ta mài gọt thủy tinh, nhuộm cho thủy tinh đượm nhiều màu, óng ánh nào kém gì bích ngọc, lam ngọc, hồng ngọc.
Ngirời nông dân mua sắm loại bông bằng nhựa giống như bực vua chúa mua sắm kim cương, ngọc nhân tạo. Họ ca ngợi sự khéo léo của người thợ dám cạnh tranh với thợ trời. Loại giả tạo này được thông dụng, làm mất cũng không tiếc vì chỉ đóng vai tuồng trang trí, theo thời trang.
Bá Di và Thúc Tề không chịu ăn thóc lúa nhà Châu, lên núi Thú Dương hái rau vi. Hai ông này không chịu phản Trụ, đầu Châu, ăn rau vi là thái độ bất hợp tác.
Nghe đâu có người đàn bà nọ chất vấn hai ông:
- Ở trên đất nhà Châu thì ngọn rau tấc đất là của nhà Châu, không ăn lúa mà ăn rau thì cũng vậy thôi.
Thế là Bá Di, Thúc Tề xấu hổ, thề nhịn đói mà chết. Bá Di, Thúc Tề quả là hai cây kiểng lớn, đáng cho khách yêu kiểng đời sau suy gẫm,
Thời phong kiến, vua cai trị thừa ủy nhiệm của Trời. Trời sanh ra vạn vật, cây cối, chim chóc, sông núi. Nói theo quan niệm xưa thì khi nhà Châu đắc thắng, cả vũ trụ đều thuộc quyền sở hữu của dòng họ này. Bá Di và Thúc Tề không còn gì riêng để ăn, để ngắm nghía, vũ trụ về tay kẻ thù thì nương tựa vào đâu mà đứng, giữ lấy thế ngạo nghễ, độc lập. Hai ông sách động bản thân mình, dùng cái luân lý giáo điều phong kiến để chống lại một hành động mà luân lý phong kiến cho phép: khi đắc thắng nhà Trụ, Châu Võ Vương đã tự tấn phong là thừa mệnh Trời rồi.
Khí giới của Bá Di, Thúc Tề đã quay trở ngược lại để giết người cầm nó, nhưng cái chết ấy được đề cao về sau này:
“Danh chẳng tham mà lợi chẳng mê.
Ấy gan hay sắt? Hỡi Di, Tề!”
“Không màng danh lợi” là lời mà người chơi kiểng tự phong cho mình trong phút giây siêu thoát, bắt gặp con nhền nhện đang giăng tơ hoặc giọt sương ở đuôi lá, trong chậu kiểng.
Bá Di, Thúc Tề đã chết, trở về Thiên nhiên và trở thành Thiên nhiên - đặc tính của Thiên nhiên là vô tâm, không màng danh lợi.
Trên hòn non bộ, thỉnh thoảng ta gặp hình ảnh Bá Di, Thúc Tề hoặc linh động hơn, hình ảnh Sào Phủ và Hứa Do với con trâu bên dòng suối.
“Quán rằng: Nghiêu Thuấn thuở xưa.
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu”
(Lục Vân Tiên)
Tuy ghét Bá Di, Thúc Tề nhưng chắc rằng Châu Võ Vương ao ước có bầy tôi trung dám noi gương Bá Di, Thúc Tề nếu trong mai hậu nhà Châu bị nguy khốn, sụp đổ ngai vàng.
Trúc Lâm Thất Hiền vẫn là hình ảnh đẹp, giúp cho kẻ sĩ thời phong kiến được “xả hơi, bớt giận” có nẻo thoát thơ mộng nếu không được ông vua đương thời trọng dụng, chiều chuộng. Nẻo thoát ấy có lợi cho nhà vua đương thời, đau như thái độ võ trang bạo động.
Nhà triết bọc Phùng Bữu Lan cho rằng bảy ông hiền trong rừng trúc tiêu biểu cho “thói phong lưu”, phong lưu tức là lãng mạn theo nghĩa của văn chương Tây phương. Phong lưu cũng là sống theo ý mình thích, có những nết ăn thói ở tự nhiên, không lệ thuộc vào lễ giáo, nghi thức xã giao.
Nguyễn Tịch, một trong bảy ông hiền, uống rượu đựng trong cái hũ lớn, lúc đang uống thì có vài con heo chạy tới thọc mõm vào hũ. Nguyễn Tịch cứ uống tự nhiên với mấy con heo.
Lưu Linh uống rượu rất cừ khôi và được nhắc nhở với cái tật thích ở trần truồng khi nằm nhà. Ai chê bai thì được nghe ông ta trả lời: “Trời cao đất rộng là nhà của ta, cái căn chòi nầy là quần áo của ta. Bạn vào đây, tức là bạn chun vô cái quần của ta rồi đó!” Ông Lưu Linh sống tự nhiên giữa thiên nhiên.
Yêu thiên nhiên, sống tự nhiên là sự chuyển mình lớn của tư tưởng Âu Mỹ, vận động cho chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương và cho cuộc cách mạng dân quyền Jean Jacques Rousseau tranh đấu đòi bình đẳng giữa con người, để ra phương pháp giáo dục mới.
Bên Mỹ Châu, văn hào Henry David Thoreau cất nhà, sống tự túc bên hồ Walden, ca ngợi tánh chất vui tươi và khỏe mạnh của rừng núi, của nắng sớm, phê phán cái chế độ “dân chủ không dân chủ”, để ra chủ trương bất bạo động: Một khi bất mãn với chánh quyền thì ta đừng đóng một đồng xu thuế nào cho chánh quyền”. Thuyết của Thoreau được thánh Găng-Đi, mực sư L. King tiếp nối, áp dụng.
Rousseau và Thoreau sống tự nhiên, chống phong kiến đòi dân chủ, rất lãng mạn và phong lưu, lý thuyết đưa ra kịp thời, hướng dẫn nhân loại tiến lên. Bấy giờ ở Âu Mỹ kỹ nghệ đang phát triển và sắp bành trướng mạnh hơn. Hai ông hướng về tương lai, có đất đứng.
Mấy ông hiền ở rừng trúc thì ao ước trở lại đời Nghiêu Thuấn, mơ ước dĩ vãng, sống lãng mạn trong khuôn khổ một nước Trung Hoa nông nghiệp với những cộng đồng nguyên thủy chưa tan rã - Việc làm của các ông hiền như bầy kiến bò quanh miệng chén, như cây pháo bông cháy rực rỡ trong phút giây rồi tàn trong đêm tối.
Rừng trúc và bảy ông hiền đã hòa điệu, người và cảnh bồi bổ cho nhau. Mấy ông là tiếng nói của rừng trúc, rừng trúc là phong độ của mấy ông. Bởi vậy rừng trúc phải đẹp, xanh mát, không một lá vàng, thân trúc mọc thẳng, không một nháng gẫy. Bởi vậy ông hiền luôn luôn tươi tắn, với nụ cười “chịu chơi” dưới mắt họa sĩ. Rừng trúc đẹp mà thiếu các ông thì không xong,,như thiếu trận gió rì rào. Các ông mà ngồi trơ trẽn thiếu rừng trúc làm bối cảnh thì gương mặt thiếu nghiêm chỉnh, trở thành những vai hề đần độn.
Các ông không mất thời giờ để ngắm nghía từng lá trúc. Bụi trúc cứ mọc lên, đón trăng gió, không cần nghiêng mình để cố ý che mát cho các ông. Người và trúc đều sống tự nhiên vậy.
Ngày nay, hoàn cảnh đã thay đổi. Đừng mơ ước khung cảnh cũ đừng hòng được yên ổn tâm thần nếu chỉ nhái theo hình thức của người xưa. Có những chén rượu phong lưu cũng như có những chén rượu nhục. Nhục vì không hợp với tự nhiên.
- 4 -
Kiểng đánh dấu thái độ tự túc tự mãn của con người khi nắm vững nông nghiệp với kỹ thuật thô sơ. Cây kiểng trở thành biểu tượng (symbole), người ia uốn cây kiểng tiêu biểu cho tam cang, ngũ thường, tam tùng tứ đức. Vì là nghệ thuật cổ điển nên qui tắc rất chặt chẽ, muốn được chấp nhận thì cân tuân theo những kiểu mẫu sẵn có, mô phỏng trở lại như thơ bát cú với niêm luật bằng trắc.
Việc thám hiểm trên phương diện nào đó, là hành động giúp con người tìm tự nhiên, trở về vũ trụ: đến hoang đảo, đến giữa biển để nhìn sóng nước, thử đặt chân lên vùng băng tuyết miền Nam cực hoặc sờ mó vào mõm đá ở chót Hy Mã Lạp Sơn, lặn xuống biển, tìm hang động... Sóng nước, băng tuyết chỉ làm xúc động người thám hiểm khi nó chưa được ai nhìn tới lần nào. Người thám hiểm còn tò mò tìm những bộ lạc bán khai mà chưa người văn minh nào tới khảo sát. Người ta đòi hỏi sự trinh nguyên. Niềm vui sướng tột độ của người chơi kiểng là thấy một mầm non, một cọng rễ mọc ra đúng nơi đúng lúc, theo sự bố trí từ trước. Cọng rễ và mầm non ấy là sự sáng tạo riêng của chủ nhơn. Người ngoại cuộc có thể trông thấy cái mầm ấy nhưng nó nẩy ra không phải vì sự ao ước và sự bố trí của họ.
Mỗi dân tộc lập huê viên, tạo vườn kiểng theo một kiểu riêng ở chung quanh lâu đài hoặc nơi nghỉ mát của vua chúa: những bồn bông, những hàng cây thẳng tắp với bồn nước. Những chánh thể kế tiếp luôn luôn nghĩ đến việc bảo vệ các di sản văn hóa này vì nó tiêu biểu cho “dân tộc tính”.
Bên Pháp, vài “câu lạc bộ” đặc biệt đã thành lập, thu thập nhiều hội viên yêu chuộng thiên nhiên và... nếp sống khỏa thân. Họ dùng thuyền máy, đến cắm trại tại góc hải đảo nào đó để sống bằng thích với mặt trời, sóng biển. Nhưng đó là những người... đời Bàn Cổ biết mang kiếng đen, ăn đồ hộp, uống rượu bọt.
Đáng ca ngợi nhứt là vài chàng trai dùng bè hoặc thuyền buồm cỡ nhỏ vượt Đại Tây Dương hoặc đi vòng quanh thế giới. Gặp lúc nguy nan, họ kêu cứu, với cái máy phát thanh nhỏ.
Họ ôm ấp cái mộng chinh phục không gian. Ra giữa biển, họ sống lại bằng tưởng tượng những phút huyền diệu của con người đầu tiên nhìn mặt trời vừa mọc trên biển cả. Mặt trời đầu tiên, biển cả đầu tiên của con người.
Thoát ly thực tế, sống bằng tưởng tượng là phản ứng tất yếu trước cảnh ngộ không được như ý. Con người muốn bài trừ những thiếu sót, phản kháng nếp sống giả tạo. Nên đề cập đến trường hợp người già, sống mãn nguyện, được xã hội ưu đãi. Đáng lý ra thì họ hài lòng nhưng họ vẫn bất mãn vì cuộc đời quá ngắn ngủi, thân xác con người bị hao mòn với tuổi tác và họ không được sống lâu mãi mãi để hưởng công danh phú quí.
Họ run sợ trước luật vật đổi sao dời, hữu hình hữu hoại.
Vì vậy họ chơi kiểng.
Thanh thiếu niên Âu Mỹ lúc sau này đã bất mãn, nổi loạn người ta giải thích rằng họ bất mãn vì quá đầy đủ về vật chất. Có thật như thế không? Hay còn lý do nào khác?
Lúc bất mãn, họ không chơi kiểng và nếu gặp ai lui cui chăm sóc chậu kiểng thì ắt là họ xem thường, hoặc nhổ cây kiểng quăng bỏ. Lứa trẻ này gào thét sự cô độc với “khoảng trống sau lưng và bóng tối trước mặt” và cây kiểng kết tinh không gian, thời gian không trị nổi cơn bịnh. Dường như họ thích uống rượu vì men rượu giúp con người thoát ly thực tế; người, cây cối, viên sỏi đều giống hệt nhau, con người quên nơi mình đang đứng, quên ngày tháng, tên tuổi và trở thành “cây kiểng cổ quái” dưới mắt người không say. Lúc say, con người sống trong thế giới riêng, ngăn cách với xã hội thực tế. Khi tỉnh rượu, con người bèn cười để chế giễu lấy mình.
Tại sao ngủ giường nệm, có máy thâu thanh, ghi âm, truyền hình, có xe đua, máy ảnh, có tình nhân mà các cậu lại bất mãn? Ngành xã hội học, tâm lý học, ngành thống kê, phân tâm học phát triển mạnh để theo dõi, bắt mạch những con bịnh ấy,
Ngày nay, con người đóng vai trò nhỏ bé trong bộ máy xã hội, mỗi người làm một công việc lụn vụn nên cảm thấy cô độc, tách rời khỏi đồng loại. Thí dụ như anh thợ cắt giấy ở nhà in. Anh ta cứ ấn nút cho lưỡi dao ăn xuống, hết mớ sách này đến mớ sách khác, hết giờ làm việc thì về nhà. Anh ta chỉ có trách nhiệm là cắt cho ngay ngắn, theo tốc độ qui định sẵn để ăn khớp với những cái máy xếp giấy, đóng xếp giấy ấy thành quyển sách, quyển sổ. Mớ giấy do anh ta cắt sẽ dùng vào việc gì? Nếu là quyển sách thì dày bao nhiêu trang, nội dung đề cập tới chuyện chi? Viết và in cho ai đọc? Đem bán ở đâu? Với giá bao nhiêu? Toàn là những vấn đề mà bản thân anh không được quyền quyết định! Đó là chưa nói tới trường hợp mớ giấy ấy sẽ vô dụng, trở thành quyển sách xấu xí vì sự sơ xuất của người thợ khác.
Anh thợ làm việc với nhiều bạn, cùng chung một ngành. Bạn bè cười vui với anh, bắt tay anh lúc vào sở, lúc ra về hoặc cụng ly với anh, buổi chiều thử bảy, xem ra thì ấm cúng lắm nhưng gẫm lại là phép xã giao hời hợt. Nhà anh ở một xóm ngoại ô, bên cạnh những người làm nghề khác. Con cái anh, vợ con anh thì sống chung đó nhưng vợ lo nghĩ đến áo quần, đến phim ảnh, con thì đọc truyện bằng tranh về cao-bồi phiêu lưu.
Thầy giáo dạy dỗ con anh. Vợ anh lại ăn mặc mua sắm theo phong trào, bắt chước các bà láng giềng. Đã bất lực trong gia đình, anh lại càng bất lực trong xã hội: chánh phủ này lên, ông bộ trưởng kia từ chức, đồng tiền bị phá giá hoặc lên giá, Do Thái đánh với Ai Cập, Trung Cộng thử bom khinh khí... là điều mà anh không thể nào can thiệp được, mặc dầu anh là công dân trong nước, là con người trong khối nhân loại.
Hoàn cảnh làm việc manh mún ấy khiến anh ta bất mãn, tìm cách thoát ly thực tại. Những người “minh triết” đã nhắc nhở anh:
- Cứ hưởng thụ, đừng thắc mắc gì cả!
Câu ấy có thể hiểu ngầm rằng:
- Ăn xôi cho no rồi ngậm miệng!
Hoặc nó trở thành một mạng lịnh sắt đá:
- Đừng làm chánh trị, đừng làm cách mạng lôi thôi gì cả. Nhiều “chuyên viên” về chánh trị, về cải cách xã hội đã làm giùm anh rồi. Cứ hưởng thụ trong cộng đồng xã hội.
Cái nhu cầu hòa mình vào nhân loại, sống gần thiên nhiên, sống thênh thang trong vũ trụ được các kỹ nghệ gia khai thác triệt để, đem bán sẵn. Muốn gần gũi vũ trụ thì tung tiền ra mà mua.
Giờ làm việc trong hãng xưởng đã rút ngắn, ngày làm tám giờ, bị tai nạn thì có bồi thường, mỗi năm được nghỉ mười ngày mà vẫn lãnh lương. Ở các nước kỹ nghệ tiền tiến, bao nhiêu yêu sách căn bản nêu ra hồi thế kỷ 19 đều được thỏa mãn phần nào đối với giới thợ thuyền. Do đó, họ được rảnh rỗi. Lúc rảnh rỗi, người ta được quyền hưởng thụ để thâu hồi sanh lực, đuổi xua mệt mỏi.
Thời giờ nhàn rỗi đã có. Tiền bạc cũng có lai rai. Người ta gọi đó là bước đầu của nền “văn minh nhàn rỗi”. Để phục vụ thân chủ quí mến, các hãng buôn bày ra thể lệ mua trả góp. Người nhàn rỗi luôn luôn leo thang về hưởng thụ, lần lần họ ao ước sắm máy điều hòa không khí, sắm xe hơi hoặc sắm những máy hát mới. Muốn trả nợ, họ đành tự nguyện làm việc thêm những giờ “xúp”. Họ tự bóc lột họ.
Khai thác sự nhàn rỗi là ngành kỹ nghệ quan trọng: người ta bán những máy thâu thanh, máy hát dĩa, máy truyền hình, cất thêm nhiều rạp chiếu bóng, quán rượu, hộp đêm. Rốt cuộc, con người nhàn rỗi suốt ngày lo lắng để trả nợ, để được nhàn rỗi thêm. Càng nhàn rỗi thì càng nhức đầu nhức óc để mua sắm.
Máy móc không thay thế thiên nhiên được. Thiên nhiên đem cho ta niềm lạc quan, từ nội tâm tỏa ra. Máy móc chỉ hấp dẫn tạm thời rồi trở nên nhàm chán. Mua cái máy ghi âm, thâu vô, phát ra, kéo nút tự động này, nhấn nút tự động kia chừng vài chục lần là thấy cái máy không có gì mầu nhiệm, nên bán để... mua cái máy khác tinh xảo hơn. Màn ảnh cũng vậy, vào rạp hát trở thành thói quen để giết thời giờ, ngủ lim dim vì tuồng này gần giống như tuồng kia nhưng hơi khác nhờ kỹ thuật quảng cáo, nhờ “đào kép mới”. Du lịch trở thành ngành thương mãi, thầu khoán: gặp thắng cảnh, được giải thích, nhìn sơ qua rồi vào quán trọ rồi lại đi, chụp vài kiểu ảnh, để đến mục tiêu cuối cùng là trở về nhà, thuật lại những hình ảnh giai thoại mà báo chí đã nói nhiều rồi. Nghe hát trong dĩa, tuy thoải mái nhưng là thụ động, chẳng bù đắp lại các nhu cầu của nội tâm là chủ nhơn phải ca, phải hát để bày tỏ nỗi lòng với trời đất.
Mỗi người, mỗi gia đình đều được trang bị châu đáo. Người lớn được chăm sóc không kém gì đứa bé, phòng ngủ là nơi êm ái, sạch sẽ như cái nôi, “tiền là có tất cả. Thiên nhiên trở thành món hàng, theo lời các quảng cáo viên: mua cái tủ lạnh là mua một hòn đảo trinh nguyên ở miền Bắc Cực, chai dầu thơm là giấc mơ của nàng tiên ngủ trong rừng, kem đánh răng là hơi mát của rừng thông, chai nước suối là trăng rằm nhốt trong chai, đậy nút cẩn thận, cái đồng hồ đeo tay là đóa hoa ở đáy biển hay trên chót núi (vì người thám hiểm đã mang theo đến đó). Viên thuốc trị bịnh táo bón trở thành thứ linh đơn “cải lão hườn đồng”, vân vân...
- Chúng ta sung sướng lắm rồi. Mục đích của đời sống là tìm thấy hạnh phúc, chúng ta đã thấy hạnh phúc cá nhân. Chân trời đang mở rộng: nay mai, con người chỉ cần làm việc mỗi ngày chừng 4 giờ, 20 giờ còn lại thì tha hồ mà hưởng thụ. Đòi hỏi gì nữa? Con người sẽ lên mặt trăng, sẽ trị được bịnh ung thư.
Nhưng một số đông người – nhứt là giới trẻ ở Âu Mỹ - đã phản đối lại:
- Văn minh nhàn rỗi là văn minh thiếu nhơn tính. Phải làm cách mạng xã hội, không chấp nhận thứ “cách mạng kỹ thuật” thay thế loại dầu thơm này, loại máy chụp ảnh kia bằng những kiểu khác. Văn minh nhàn rỗi đã tạo ra những con người thụ động, cười tươi để che giấu sự ích kỷ, sống theo công thức, theo thời trang, giống như những đứa hài nhi to xác (grand bébé) ăn mặc sạch sẽ, nhút nhát, thiếu bản lĩnh, thủ cựu và đạo đức giả.
Bọn người ngoan ngoãn kia lại trả lời:
- Chúng bây chỉ biết đập phá. Thời buổi này,
nhân loại tiến xa rồi, không còn ở giai đoạn cách mạng đổ máu nữa. Chúng bây ganh tị, lười biếng, muốn hưởng thụ nhưng giả vờ “đạo đức gương mẫu”, khổ hạnh. Ăn không được, chúng bây đập phá chớ thật ra chúng bây thích ăn. Đừng xúc phạm sự tự do và quyền sống của kẻ khác!
Bạn trẻ nổi loạn đáp:
- Đó chỉ là tự do làm tình ái và quyền sống
Để thỏa mãn xác thịt. Nhưng lçàm tình bừa bãi lại là phi nhân vì nó khiến con người cô độc hơn, gặp nhau trong nhục dục nhưng chẳng ai thật lòng yêu ai cả. Như vậy là xa nhau, tách rời nhau, lúc yêu đương.
“Phi nhân” tức là không hợp với... lẽ trời, với đạo lớn của Lão Tử, tức là phản nghĩa vởi thiên nhiên.
Bây giờ thử nhìn thẳng vào nước ta, tại đô thị, lúc máy bay to, máy bay nhỏ bay không ngớt trên trời và tiếng súng, tiếng bích kích pháo nổ rền.
Người chơi kiểng, ngắm non bộ chiếm một tỷ lệ bé bỏng so với dân số chen chúc ở đô thị. Nhưng không nên căn cứ vào bản thống kê đó mà kết luận rằng đa số người còn lại sống sát thực tế, tắm trong thực tế nóng hổi.
Chơi kiểng chỉ là một trong nhiều hình thức thoát ly thực tế. Người ta ít chơi kiểng vì đã có nhiều trò chơi khác, hấp dẫn hơn, Ông Từ Thức, chàng Lưu Thần Nguyễn Triệu ngày xưa mặc áo dài, mang búi tó củ hành, đi bộ. Ngày nay, Từ Thức và Lưu, Nguyễn mặc áo ni-lông, đi giày, chạy xe gắn máy. Đặc biệt nhứt là có thêm nhiều phụ nữ đóng vai Từ Thức (xin lỗi)! Các cô, các bà
muốn được sống “nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai” trong cái thế giới đầy tiện nghi nào xe du lịch, nào biệt thự với những ông hoàng tử trẻ mãi không già.
Ở nông thôn, hằng ngày đối diện với cái chết, tâm trạng con người ra sao? Điều chắc chắn là mấy chậu kiểng xưa và quí ắt đã tan xác, khô lá rồi. Chủ nhơn bận rộn với nhiều vấn đề khác, cấp bách hơn. Mạng người là quí. Làng mạc, đồng lúa, bụi chuối, ao nước - cái thiên nhiên do con người xây dựng từ bao thế hệ càng quí hơn.
Người nông dân ra thành thị lúc chiến tranh đang tiếp diễn đã gặp khung cảnh lạ. Nếp sống bị xáo trộn. Nhiều ông lão sống ủ rũ để chờ ngày thanh bình rồi về nhà quê cho bớt nhức đầu nhức óc. Con cháu trở nên xa lạ với các ông. Kinh nghiệm đối nhân xử thế, luân lý gia đình của thời xưa trở nên lỗi thời, vô ích. Khi các ông ngồi ngắm kiểng, người ta cho rằng đó là “vang bóng một thời”, hình ảnh đẹp lắm nhưng cái đẹp ấy chỉ nên đăng báo, đưa lên đài truyền hình mỗi năm nhiều lắm là một lần, vào dịp gần Tết. Hoặc đưa hình ảnh ấy với nước ngoài để giới thiệu “văn hóa cổ truyền”.
Cây kiểng và hòn non bộ đã chết, chẳng còn đóng vai trò “dưỡng tánh tình” như hồi xưa.
Nhìn phớt qua, có người giải thích cái chết ấy như sau:
- Chơi kiểng đòi hỏi thời giờ rảnh rỗi.
- Chậu kiểng đòi hỏi nơi rộng rãi, đủ sương nắng,
Sự giải thích ấy hơi gượng gạo, giống như sự giải thích cũng gượng gạo của mấy ông lão khi gặp con cái phản ửng:
- Tụi bây quên lễ nghĩa, bất hiếu. Ra chợ búa để làm ăn, tụi bây lần hồi quên... ngọn rau tấc đất!
Người thành thị nếu gặp dịp rảnh hoặc dư giả chút ít tiền thường đến quán nhậu, ngồi lân la với bạn bè hằng đôi ba giờ, lắm khi họ nhậu từ chín giờ sáng đến giờ thiết quân luật. Như vậy là thời giờ nào quá bận rộn, nhậu nhẹt tốn thời giờ như... cờ bạc, một chứng bịnh mà nhiều người mắc phải. Khách sành điệu thường tìm tòi món ăn đồng quê, rừng rú: lươn, ếch, rắn, nai, heo rừng để thay cho cá mòi hộp, thịt heo, cá biển, cải bắp mà ho ăn ở nhà. Chiếc xe gắn máy, cái máy truyền hình chiếm khoảnh đất to hơn chậu kiểng và tốn kém tiền bạc hơn nhiều. Nếu quả thật chơi kiểng là nhu cầu thiết yếu, chúng tôi tin rằng dân đô thành sẽ phá một góc nhà hoặc đúc cái sân nhỏ rất dễ dàng.
Kiểng không được phổ biến vì lý do sâu xa hơn. Kiểng là Thiên Nhiên, là Bồng Lai Tiên cảnh, là giấc mơ siêu thoát giúp con người tạm quên cuộc sống nhọc nhằn. Nhưng “hiệu năng” của kiểng quá yếu ớt, lạnh lẽo. Cảnh Bồng Lai mà gốc kiểng gợi ra thật là… mơ hồ, khó tin.
Đã có một “món” khác sống động hơn cây kiểng, hấp dẫn hơn, công hiệu hơn. Đó là đàn bà, là hình ảnh khêu gợi của thần tượng mới...
Đệ nhứt thi hào Việt Nam là Nguyễn Du đã viết, trong Kim Vân Kiều:
- Rõ ràng trong ngọc trắng ngà.
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Một tòa thiên nhiên với thu thủy, xuân sơn, mây là tóc, tuyết là da, mai là cốt cách, khuôn trăng đầy dặn, hoa cười ngọc thốt...
Gần người đẹp, bọn đàn ông cảm thấy lâng lâng như siêu thóat vào chốn Bồng Lai tiên cảnh.
Thời xưa, đàn bà con là món giải trí của vua chúa, quan lại, phú thương, rất dễ kiếm. Vua tuyển hàng trăm cung phi, ông quan bực trung mua hàng chục hầu thiếp trẻ măng. Lúc thiên tai hạn hán, dân nghèo đem con gái giao cho chủ nợ. Đàn ông chỉ cần gìn giữ nuôi nấng người chánh thất và bầy con do bà này sanh ra để mà nối dõi tông đường, gìn giữ gia tài. Đối với hầu thiếp thì họ tha hồ thay đổi, sắm thêm hoặc phế thải (như ngày nay người ta thay đổi chiếc xe gắn máy, cái máy ghi âm lỗi thời, còn xài được nhưng kiểu mẫu không theo kịp cuộc “cách mạng kỹ thuật” xảy ra thường trực).
Mỹ nữ là thiên nhiên, nhưng là thiên nhiên phàm tục, theo quan niệm xưa. Ngoại trừ những mối tình ngoại hạng của tài tử giai nhân (như Trương Quấn Thụy và Thôi Oanh Oanh trong Tây Sương Ký) thì việc làm tình chẳng có gì để ca ngợi quá đáng hoặc phô trương. Người xưa gọi tổng quát là “việc mây mưa” không mô tả chi tiết. Nàng hầu, tì thiếp là món trang trí lẩm cẩm trong nhà, mấy cô nàng lo việc pha trà đãi khách, tưới mấy chậu lan, bơi thuyền hái sen...
Bởi vậy, người xưa nếu muốn sống trọn vẹn, hòa mình vào thiên nhiên thì chơi kiểng. Ông lão sáu mươi tuổi vẫn chơi kiểng, chơi hòn non bộ mặc dầu cô hầu non và cô này sanh đứa con đầu lòng mới được một hai tuổi với ông ta.
Thuở ấy, đàn bà chưa lên ngôi thần tượng, chưa là “tất cả”. Tình ái chưa được xem là hành động sấm sét, thiêng liêng (vì thiêng liêng nên cần được mô tả tỉ mỉ từng cử chỉ) tiêu biểu cho quyền tự do, sống cho đáng cái sống!
Ngày nay, đàn bà đã truất phế cây kiểng. Nàng là Thiên Nhiên, là tất cả. Cây kiểng trở thành món trang trí lẩm cẩm, làm tăng vẻ đẹp cho cái gian nhà, đóng vai trò người tì thiếp ngày xưa. Những cành hoa bằng chất dẻo hầu hạ cái máy truyền hình, đứng trên nóc tủ rượu hoặc cái tủ lạnh.
Kinh nghiệm về cách làm ăn, về cách dưỡng tánh tình của mấy ông lão không được bọn trẻ nghe theo. Bọn trẻ biết phục thiện lắm nhưng hỡi ôi, ở thành phố, lúc văn minh Tây Phương tràn ngập thì điều mà các cụ răn dạy lại giống như bài thuốc “đau Nam chữa Bắc”. Ở nông thôn, có tiền là chưa đủ, phải có thêm láng giềng gần, phòng khi tối lửa tắt đèn. Ở thành thị, tiền là tất cả: Những việc ma chay tẩn liệm, sanh đẻ, tiệc tùng lúc cưới hỏi đã trở thành những dịch vụ, có thể mướn - bạn bè cứ giúp tiền bạc mặt là xong tất cả. Trước Đệ nhị Thế chiến, thành phố tuy Tây Phương hóa nhưng là đợt một, giờ đây việc Tây Phương hóa mang nhiều tính chất mới lạ hơn. Người lớn tuổi, sống nhiều năm ở Sàigòn vẫn khó lòng điều khiển bầy con cháu. Đây là giai đoạn “trang bị cá nhân”, giai đoạn cá nhân hưởng thụ. Nhiều nhà kinh tế ngoại quốc rêu rao rằng:
- Đừng làm cách mạng chánh trị theo kiểu đổ máu. Cứ ngoan ngoãn làm việc để chờ những cuộc cách mạng kỹ thuật giải quyết dùm cho! Những công ty kỹ nghệ với sự hợp tác của chuyên viên kỹ thuật sẽ cung cấp mọi sản phẩm, với giá rẻ trong vòng vài năm tới đây. Giai đoạn thịnh vượng đang bắt đầu vân vân...
Quyển Minh Tâm Bửu Giám trở thành sách khảo cổ. Nó bị đánh bại, quyển sách đang chiến thắng là “Muốn thành công trên trường đời”, “Bảy bước đến thành công”, “Quẳng gánh lo đi”. Loại sách học làm người của thời đại kim tiền. Người đây có nghĩa là người làm “áp-phe”, làm tiền. Nó dạy chúng ta nên bộc lộ lòng tốt như thế nào cho vừa phải, khỏi lỗ vốn. Đồng thời, nếu trót mang tật xấu, muốn lừa đảo, đóng kịch thì phải che giấu như thế nào cho người đối thoại đừng thấy tật xấu. Học làm người theo công thức ấy, rốt cuộc chúng ta luôn luôn cười tươi để gây sự tin cậy cho kẻ khác, gặp ai cũng siết tay, cũng mời họ hút thuốc và nghe người ta nói hơn là mình nói. Làm áp-phe, bắt áp-phe là chiến lược và chiến thuật.
Hưởng thụ là đức tính cần thiết để nền kinh tế được điều hòa. Hưởng thụ, mua sắm tới mức nào thì giá trị con người tới mức ấy. Áo quần, đồng hồ đeo tay, quán ăn, thuốc hút, hiệu chiếc xe hơi, địa chỉ cư trú tiêu biểu cho nấc thang xã hội. Biết rằng đó là xa xí phẩm nhưng là thứ xa xí phẩm rất cần thiết để đi làm ăn, giao thiệp. Đến đỗi những kẻ thoát vòng tục lụy, mơ trăng gió như thi sĩ, tu sĩ cũng phải ăn ở “coi cho được” như thế nào đó để gây sự tín nhiệm tối thiểu.
Nhiều món đắt tiền, không có công dụng thực tế cho đời sống vật chất con người nhưng lại là cần thiết để đi làm ăn.
Thời xưa, cây kiểng hòn non bộ nếu chăm sóc công phu, thì “biến”, “hóa” trở thành cõi tiên nơi trường sanh bất tử, tỏa ra bao nhiêu phép mầu nhiệm.
Thời nay, đàn bà đã “biến” và “hóa” thành tiên, thành nữ thần, nữ hoàng.
Nghệ thuật điện ảnh góp công lớn trong sự biến hóa ấy với những thần tượng vừa hư vừa thật, Minh tinh điện ảnh ở Hồ Ly Vọng (Holywood)đã lãnh đạo nếp sống của bao nhiêu người khắp thế giới và họ mới là kẻ giết cây kiểng, đập nát cái hòn non bộ.
Xăm mình dường như là hình thức để cảm thông với thiên nhiên, với thần linh. Anh chị dao búa ưa xăm chữ bùa, con rồng con phụng hoặc năm tháng lịch sử, kỷ niệm lúc kết bạn, lúc ở tù. Khi văn hóa Tây phương du nhập vào đất nước ta, nhiều tay hảo hớn bắt chước bọn lính thủy quốc tế xăm hình nhơn ngư - cô gái đuôi cá, hình mỏ neo, chiếc tàu buồm. Ngoài ra, nhiều tôn chỉ mục đích được gắn liền vào da thịt. Xăm mình có điều lợi là chủ nhơn mang những biểu tượng ấy vào quan tài, chẳng ai cướp bóc hoặc sang đoạt như trường hợp người sưu tầm đồ gốm, tem, ngọc ngà hoặc chơi kiểng.
Xăm mình là hóa trang, là tu luyện, là đóng vai thần thánh. Sắt luyện mãi thành ra thép, con người quá đau khổ, chịu nhiều nỗi gian truân thì nhất định trở thành siêu nhân. Người xưa xăm mình để xuống biển chài lưới, loài thủy tộc ngỡ rằng gặp con giao long nên chẳng dám lại gần.
Người xăm mình muốn được biến, được hóa.
Chơi kiểng phải noi theo sách vở. Nghề chơi cũng lắm công phu. Cây kiểng là hiện thân của luật luân hồi, của sự chuyển hóa. Kinh dịch có quẻ Càn. Phật có luật nhơn quả, lá cây ngọn cỏ, thú vật sẽ đầu thai đời đời kiếp kiếp. Đạo sĩ trên núi lo luyện linh đơn, với thời gian bao nhiêu vị thuốc tầm thường sẽ biến chất, kết hợp lại để thành một loại thuốc quí, lò lửa tiêu biểu cho mặt trời nung nấu sự đời.
Cây trúc phải uốn theo hình con rồng, gốc là đầu, ngọn trúc là đuôi. Rồng hả miệng ngậm trái châu, mắt lộ ra, đuôi thì vùng vẫy: Thảo mộc biến ra thú vật, từ vô tri tiến đến hữu tri, tịnh trở thành động, phàm tục hóa ra linh hiển.
Gốc cây sung phải uốn theo hình con cóc, Sung là sung túc, con cóc nghiến răng thì trời mưa, nhà nông tha hồ cày cấy. Cóc là con thiềm thừ ở cung trăng.
Cây mai chiếu thủy, cây sộp uốn theo hình con kỳ lân. Kỳ lân xuất hiện là điềm hòa bình, tức là sự bình yên cho gia chủ.
Có người chơi kiểng theo kiểu ma quái: họ đến ngôi mộ xưa nào đó, tìm cây gừa, cây sộp nhỏ. Hột gừa, hột sộp từ trên không trung đáp xuống theo gió (hoặc do con két, con sáo tha đến), châm rễ trên gạch vôi, trên đá. Họ bứng cây gừa ấy, cạy luôn cục gạch hoặc cục đá của ngôi mộ. Cây và đá được trồng trong chậu, lớn dần. Họ chặt ngang gốc cây để dưỡng bộ rễ, tạo ra cái đuôi và bốn chân con kỳ lân, hai chân sau dính trên cục đá để giữ khí âm của ngôi mộ. Gốc cấy ấy trở thành cái đầu kỳ lân. Họ dưỡng hai nhánh nhỏ rồi chặt ngang, lấy lửa thui cho chết, đó là con mắt. Họ tạo thêm nhánh khác, to hơn, từ miệng con kỳ lân phun ra, tiêu biểu cho ngọn lửa. Tóm lại, cây kiểng ấy bao gồm ngũ hành, cõi âm, cõi dương. Khi chăm chú theo dõi để uốn nắn. chủ nhơn ngỡ mình là đạo sĩ đang luyện linh đơn, lúc con kỳ lân thành hình như ý muốn, chủ nhơn sống phút giây “biến, hóa” thần tiên, hãnh diện như... nhà bác học vừa tìm ra tính chất phóng xạ của radium hoặc phá hạt nhân nguyên tử!
Người chơi đồ gốm cũng thích sự biến hóa của nước men, khi đốt trong lò. Thỉnh thoảng, vì trục trặc kỹ thuật, lửa cháy không đều, quá non hay quá già nên nước men thay đổi màu sắc. Đó là “hỏa biến”. Người sưu tầm đồ gốm cho rằng những món “hỏa biến” là độc nhất vô nhị. Đáng lý ra, đó là món hàng mất giá trị, hư hỏng. Nhưng màu sắc nước men hỏa biến ấy được xem như màu máu, hoặc ánh trăng, bức tranh vân cẩu.
Người đàn bà đã “biến” với kỹ nghệ điện ảnh, với việc quảng cáo, việc đào tạo minh tinh màn bạc. Từ địa vị cô gái làm mẫu ở tiệm may hoặc bán hàng rong, họ trở thành thần tượng, do bàn tay phù thủy của nhà sản xuất, nhà đạo diễn.
Cây trúc biến thành con rồng, một trong tứ linh!
Người đàn bà biến thành “minh tinh”, vì sao trên đời! Khi biến thì cây cối hoặc con người đều trở thành mầu nhiệm. Cây trúc sẽ phò hộ gia chủ, đem điều may mắn. Và người chủ lại mang nợ đối với nó. Nếu không săn sốc kỹ lưỡng, cây trúc sẽ héo, chết khô hoặc… thay đổi hình dạng xấu xí thì vận mạng chủ nhân bị ảnh hưởng xấu.
Nữ minh tinh là bà hoàng hậu, là nàng tiên xinh đẹp, đầy phúc đức trong chuyện cổ tích. Ai được nàng ban cho nụ cười, bức ảnh có chữ ký hoặc món quà thì sẽ yên ổn, gặp muôn vàn may mắn.
Những cuộc triễn lãm về hội họa, kỹ nghệ, những cuộc phát quà từ thiện nếu được nữ minh tinh đến dự phần khai mạc thì trở thành long trọng, nhiệm mầu.
Ngày nay, chúng ta khỏi cần lên non cao để tìm cơ hội may mắn như Lưu Thần, Nguyễn Triệu, như ông Từ Thức. Vẻ đẹp nhiệm mầu của Thiên nhiên đã xuất hiện, trong rạp chiếu bóng, trên sân khấu hoặc ở phụ trang kịch trường và điện ảnh của nhật báo, tuần báo.
Hình bóng minh tinh điện ảnh đóng một vai trò quan trọng trong đời sống vật chất và tình cảm con người! Hình bóng ấy là thủ phạm của hiện tượng mà thiên hạ gọi là “văn minh vật chất, văn hóa ngoại lai, lãng mạn khiêu dâm, sa đọa”.
Ai tạo ra những hình bóng ấy?
Đó là nền văn minh trưởng giả, lấy sự hưởng thụ cá nhân làm nền tảng.
Minh tinh điện ảnh là Thiên nhiên với những nét quyến rũ. Ở nước ta, các nàng ca sĩ, đào kép cải lương, cô gái bán bar... đã mô phỏng theo minh minh điện ảnh Hồ Ly Vọng từ cách tô son đánh phấn, cách uốn tóc đến kiểu đi đứng. Lần hồi, những thói ăn nết ở ấy được phổ biến, không phân biệt giai cấp, đảng phái.
Thời buổi văn minh vật chất, mật ít ruồi nhiều, con người sống với bề ngoài. Họ mua sắm đủ món... Trước kia, người chồng đi làm việc, nuôi cả gia đình gồm vợ và ba bốn đứa con.
Lần hồi, với đà mua sắm lẩm cẩm, hai vợ chồng đều làm việc đầu tắt mặt tối mà tiền bạc cứ thiếu hụt liên miên. Tình ái là lối thoát duy nhất, chính trong lúc làm tình người ta cảm thấy “được tự do”. Tình ái là liều thuốc hiệu nghiệm để tạm thời trị bịnh “lo âu, sợ sệt”. Ngoài cái lo về sanh kế, nợ nần còn nhiều thứ lo khác như giữ thể diện với bạn bè chòm xóm hoặc là tai nạn chiến tranh.
Hột giống chỉ mọc lên khi nào có sẵn mảnh đất tốt, đầy đủ phân bón, khí hậu thích hợp.
Hình ảnh minh tinh màn bạc được phổ biến, bao trùm đời sống con người khi mức sản xuất dồi dào, khi con người cảm thấy khô khan, cô độc cần tìm nơi nương tựa.
Nhiều người làm thơ ký ở hãng buôn, làm thợ ở lò đúc đã xác nhận rằng mỗi ngày họ đi cày hai buổi để kiếm tiền. Làm việc, đối với họ, là một cực hình, một sự ràng buộc, đọa đày vì thiếu hứng thú. Họ chỉ sung sướng, cảm thấy tự do khi “ăn nhậu” “ăn chơi” với bạn bè mà thôi. Sống để mà ăn chơi. Ăn chơi là phương thuốc để trốn thực tế. Lúc ăn chơi, con người ngỡ mình là một “tiểu thần tiên”. Tiên thì sống trong Bồng Lai. Lưu Thần Nguyễn Triệu, ông Từ Thức đời nay đã viếng những “Bồng Lai giả tạo”: rượu, á phiện, gái đẹp, cờ bạc.
Khi điện ảnh chưa phát triển mạnh, cô đào ở sấn khấu thu hút được một số khán giả có giới hạn. Các cô là bông hoa đẹp, dành riêng cho vài nhà triệu phú hoặc vài cậu công tử thuởng thức. Lúc bấy giờ, thành kiến xướng ca vô loại còn hiệu lực nên các cô bị người đời nhìn bằng cặp mắt mỉa mai.
Ngắm hòn non bộ, ngắm cây kiểng đòi hỏi chủ nhơn khả năng vận dụng sức tưởng tượng. Sức tưởng tượng ấy chỉ đem lại kết quả khi chủ nhơn hiểu ít nhiều về lý thuyết Tam giáo (nhất là Lão giáo), hiểu về thi phú cổ điển Trung Hoa.
Xem điện ảnh, người khán giả rất khỏe khoắn, không cần dọn mình sẵn, không cần vận dụng sức tưởng tượng. Bao nhiêu hình ảnh hiện ra, biến hóa nhiệm mầu, tuy là giả nhưng rất thực. Khán giả có ngồi ngã lưng, giữ thái độ thụ động, hình ảnh sẽ bao vây, tràn ngập gian phòng, khán giả trở thành một con mồi dính trong lưới, một con cá cựa quậy giữa biển. Mắt và tai của khán giả bị kích thích dồn dập. Khung cảnh trên màn bạc cứ thay đổi nhanh chóng, không như trên sân khấu cải lương hoặc thoại kịch. Khi diễn xuất, bộc lộ nỗi đau buồn hoặc sự kích động đê mê, gương mặt của diễn viên được phóng đại, to gấp chục lần, trăm lần con người ngoài đời, hình ảnh phóng đại ấy là giả, là ảo ảnh nhưng rất thực, với ánh mắt, sợi lông nheo, làn môi phập phồng. Điện ảnh đã gợi lại những phép tiên, những điều mà khoa học huyền bí thường ao ước thực hiện: bóng người di chuyển trên trần nhà, giọt sương lóng lánh hơn kim cương và chứa đựng hình ảnh con người, giọt nước mắt trở thành thác nước, gò má con người trở thành gành đá. Vật vô tri vô giác như cái bình hoa, pho tượng đá đều trở thành linh động, có hồn nếu đạo diễn biết rọi ánh sáng, chụp ảnh đúng góc cạnh.
Tại sao nước ta phải vay mượn hình bóng nữ minh tinh ngoại quốc?
Ở ngoại quốc tạo ra minh tinh vẫn là việc khó. Khi minh tinh xuống dốc, không còn “ăn khách” thì nhà sản xuất, nhà đạo diễn tài ba cũng không cứu vớt nổi. Nhiều minh tinh xuất hiện nhờ quảng cáo ồ ạt để rồi bị đào thải nhanh chóng. Nhiều cô đào chịu kiên nhẫn học tập, theo đuổi nghề nghiệp nhưng suốt đời chẳng bao giờ trở thành minh tinh sáng chói trên vòm trời nghệ thuật.
Minh tinh chỉ xuất hiện được ở một nước có kỹ nghệ phim ảnh khá mạnh. Nữ minh tinh phải diễn xuất nhập thần trong vài cuốn phim có giá trị mà nàng đóng vai chánh. Vai tuồng ấy bao gồm vài nét điển hình. Nàng cần đủ tài năng để diễn xuất mà không bị vai tuồng nuốt trọn - thí dụ như trong vai Dương Quí Phi, nàng đã chuyển vài nét tươi vui, sầu muộn nào đó mà minh tinh khác không bộc lộ được. Hơn nữa minh tinh phải thành công trong loại tuồng xã hội, nhân vật tuồng xã hội gần gũi với cuộc sống hơn là nhân vật tuồng lịch sử.
Thiếu điều kiện căn bản (có kỹ nghệ phim ảnh mạnh) nên nước ta chẳng sản xuất được thần tượng nào cả. Những thần tượng nếu có thì chỉ là mô phỏng theo Âu Mỹ từ cách đi đứng, cách hóa trang, nếu không mỏ phỏng thì không sống được.
Minh tinh là nàng tiên, cao hơn thiên nhiên vì chính nàng đã tạo ra thiên nhiên, nhờ bùa phép, chiếc đũa thần. Khi được suy tôn là minh tinh thì mặc nhiên nàng là thông minh (thân thể đều đặn là tiêu biểu cho sự thông minh), bởi vậy, nàng thích được chụp ảnh với quyển sách ngoại ngữ trong tay, đôi khi nàng khoe với các ký giả rằng thích nghiên cứu triết học, thích nghe nhạc cổ điển Tây phương. Nàng là kẻ vô tội, luôn luôn trong trắng mặc dầu thay đổi năm bảy người tình nhân. Nàng thích bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo túng. Là siêu nhân, nàng tha hồ lãng phí, ăn xài ngông nghênh. Là hoàng hậu, mẫu nghi thiên hạ nên nàng được quyền đội cái vương miện, mặc áo theo kiểu hoàng hậu, Là sự sống vĩnh cửu, là quyền phép vạn năng nên nàng luôn luôn khỏe mạnh tươi cười, lúc đau ốm thì chẳng muốn xuất hiện trước công chúng.
“Tuần báo tâm tình” thu hút nhiều nữ độc giả, không phân biệt giai cấp, mô phỏng theo tuần báo tâm tình Âu Mỹ từ hình thức đến nội dung.
Nhật báo nào muốn giữ được một số độc giả phụ nữ thì phải chú trọng đến phần ướt át.
Trang nhứt và trang tư là khô khan vì đề cập đến chuyện chánh trị, kinh tế. Cái khô khan ấy vẫn chủ trọng đến khía cạnh “giựt gân”, nói nôm na là những tin tức mầu nhiệm, lạ thường, bất ngờ. Trang hai và trang ba của nhật báo gồm những mục thuộc vào loại “tâm tình”, “ướt át”. “Ứớt át” không có nghĩa là “khiêu dâm” nhưng là gần gũi thiên nhiên - một kiểu chơi kiểng - đề cập đến tình cảm đàn bà. Trang kịch trường và màn ảnh thu hút một số khách mộ điệu nhưng họ đọc là để tìm hiểu sự thăng trầm của minh tinh thần tượng: cô đào X, đang ly dị,
đòi đi tu, anh kép Y đang ký giao kèo bạc triệu, cô đào A. tuyên bố chưa hưởng hạnh phúc tình yêu mặc dầu đã có chồng. Lại còn mục dạy trang điểm. Phấn son là bùa phép nhiệm mầu, nhờ nó mà người đàn bà trở nên xa xôi tuy gần gũi, quen mà lạ, vừa trang nghiêm vừa quyến rũ. Thêm vào đó là mục bí quyết bảo vệ hạnh phúc gia đình... vân vân... Tiểu thuyết đăng báo - loại tình cảm tranh đấu xã hội - chỉ ăn khách khi nhắm vào mục đích đề cao quyền yêu đương, mình oan cho đàn bà: Họ luôn luôn tốt, cao cả, nếu phạm tội lỗi thì chẳng qua vì hoàn cảnh, vì đời hiểu lầm. Lại còn tử vi, giải thích cuộc đời theo quan niệm huyền bí. Đời ông hoàng bà chúa, tình sử Tây Phương, Đông Phương giúp con người sống thoải mái vì cô gái nghèo nàn, xấu xí nhất cũng có vài điểm giống như bà hoàng. Kiếm hiệp “chưởng” là món ăn thiên nhiên được bọn đàn ông ưa thích. Chưởng lực, tâm chưởng là sức mạnh tự nhiên của con người. Hiệp khách là nhân vật sống ngoài những câu thúc của xã hội dối trá, họ di chuyển luôn luôn, đầu óc họ là sự kết tinh của tinh hoa cổ kim, họ ở hải đảo, trong hang, trên núi. Họ tranh đấu chống những gì giả dối, trái với tự nhiên, trái với đạo lớn...
Hạnh phúc cá nhân, hình ảnh thơ mộng, huyền diệu của đàn bà có xoa dịu nổi những mệt nhọc đau thương hằng ngày không? Người ta mua những ảo tưởng ấy với giá nào? Anh tư chức chạy xe gắn máy, mang đồng hồ tay tự động, ngày hai buổi về ngõ hẻm lầy lội, sống trong căn nhà chật hẹp “nước bắc, điện câu, cầu hàng xóm”, ăn bữa cơm rau muống, cá kho! Cô thơ ký sáng ăn xôi, trưa nằm tại sở đã phí hơn phân nửa tiền lương để mua sắm áo quần, son phấn. Vợ chồng rất sợ việc sanh thêm con cái. Cô vợ thấy anh chồng hơi cù lần, thiếu vài nét hào hoa phong nhã, anh chồng hơi thất vọng vì cô vợ kém xa cô ca sĩ nào đó, từ vóc dáng đến mái tóc, làn da.
Báo Đất Mới số 4 có một đoạn như vầy, trích trong bài Nhà Cửa và Đời Sống:
“Chiến tranh giới hạn phạm vi di chuyển của mọi người. Đi từ nơi này tới nơi khác là một sự xa hoa, tránh được càng tốt.
Tù túng trong những căn nhà lup sụp, người ta trở nên độc ác hơn. Hàng xóm láng giềng không còn là một thứ tình người nữa. Dân chúng ở một xóm có thể đứng thản nhiên nhìn một trận đập lộn. Họ lý luận hơi đâu mà dây vào cho mệt xác, lên cò lên bót lại phải làm chứng!
Đối với hiện tượng này, nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng “chúng ta nhàm chán lẫn nhau. Đi ra tôi thấy mặt anh, đi vào anh thấy mặt tôi. Chúng ta ích kỷ hơn, tâm hồn chai”. Thái độ sống phi nhân được mọi người chấp nhận như một sự đương nhiên, một sinh viên tâm sự rằng suốt gần mười năm anh chưa bao giờ sang chơi nhà hàng xóm lấy một lần.”
Trốn lánh thực tế vì không chấp nhận thực tế. Tìm thiên nhiên tức là tìm một khung cảnh mà con người tha hồ bay nhảy, phát triển năng khiếu như ý muốn, để tô điểm cho cuộc đời, giúp đời.
Hoàn cảnh ấy làm sao có được? Chúng ta nhớ lâng lâng đến những bà lão nuôi heo, săn sóc kỹ lưỡng, gọi heo bằng con. Có những nông phu cày sâu cuốc bẫm, khi lúa chín thì đi dạo ngoài ruộng suốt ngày để ngắm nghía, hột lúa liền với giọt máu. Hễ bán heo thì bà lão khóc, hễ lúa gặt rồi thì quét sân, trả không hết nợ nần. Sanh kế càng thêm phức tạp. Đến như nghệ sĩ ngày nay đã khó sáng tác theo ý muốn, vì còn vấn đề thị hiếu của người tiêu thụ, khác thời xưa.
Người làm cách mạng có lẽ chẳng cần đến cây kiểng hoặc cái hòn non bộ vì họ đã hăng say, hòa mình vào “đạo lớn” rồi. Nhưng khi anh hùng thấm mệt, mỏi gối thì họ trở thành mềm yếu, thua sút thiên hạ, tuột xuống dưới mức trung bình. Bấy giờ họ chơi đủ thứ kiểng để khỏi buồn tủi hoặc khỏi đi tu.
Bên Trung Hoa có cuộc Ngũ Tứ vận động, bài xích Tống Nho. Ở nước ta, các cụ Phan Bội Châu, Trần Quí Cáp, Phan Châu Trinh lên án bọn “hũ nho”.
Tống Nho, hủ nho đã khiến nước nhà suy vong rồi mất vào tay liệt cường Tây phương, hồi thế kỷ qua.
Xưa kia, lúc sanh tiền, Khổng Tử dạy người quân tử nên lo tu thân, tề gia, trị quốc. Ba nhiệm vụ này liên quan với nhau, ngang hàng như nhau. Nhưng đến đời nhà Tống, đạo nho suy đồi, một lý luận gia là Châu Hi đã diễn giải sai lạc lý thuyết Khổng Tử: xem tu thân là trọng, trị quốc là khinh. Phải chăng đó là niềm an ủi gượng gạo của nho sĩ khi nước Trung Hoa đang mất lần hồi về tay bọn du mục phương Bắc.
Nếu chỉ làm thơ ca ngợi vẻ đẹp của non sông, hoa lá, bóng liễu, ánh trăng thì đâu cứu được đất nước lâm nguy. Uốn nắn cây kiểng cổ quái cheo leo rồi trồng trên tảng đá dốc chưa hẳn là đã làm xong phận sự đối với non nước vì người uốn cây kiểng chỉ can đảm... trong tưởng tượng trong khi thực tế đòi hỏi sự can đảm ở chiến trường.
Sống theo thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên là thái độ thụ động, ngăn cản mọi tiến bộ về khoa học tự nhiên. Vẽ bức tranh sơn thủy có thác nước đổ ầm ầm là thụ động. Tương lai của con người đòi hỏi những người biết sử dụng thác nước để tạo ra điện khí, hoặc nấu nước bốc thành hơi, dùng hơi nước để chạy máy.
Cây kiểng và hòn non bộ tỏ ra bất lực vì nó tạo ra những ông lão yếm thế, quên tất cả thế sự.
Loại kiểng “thần tượng đàn bà” tạo ra những người còn trẻ mà cằn cỗi nên “chơi kiểng” quá sớm hoặc những người già muốn kéo dài tuổi trẻ để hưởng thụ vật chất. Mua sắm để riêng mình xài, mua sắm để theo kịp và hơn thiên hạ. Món mình mua sắm thì không ai được xài chung. Bởi vậy có thù hằn, ganh tị, bất chấp đồng loại. Hộp đêm, tiệc tùng theo kiểu ‘‘nhứt dạ đế vương” là thiên đường giả tạo, chứng tỏ rằng đàn bà chưa được giải phóng, vẫn là món hàng giải trí như hồi thời Trung cổ, dành riêng cho bọn đầu cơ thời cuộc.
Vào thế kỷ thứ mười, một họa sĩ Trung Hoa đã vẽ bức tranh sơn thủy nhan đề là “Lên non vào mùa thu để tầm đạo”. Núi cao chập chùng, gồm nhiều bực, con đường dẫn lên chót đỉnh cứ chạy cong quẹo, lắm khi đứt đoạn. Như một bức tranh đố. Người xem phải dụng tinh thần để tự ý vạch thêm con đường nối tiếp hay chặt đứt, con đường gay go mà họa sĩ không muốn vẽ, có lẽ nó chạy bên vách đá sát miệng hố. Đạo là con đường. Khi cố gắng vạch cho mình một con đường nguy hiểm để lên cao, dọc đường người ta đã gặp đạo rồi vì trên chót đỉnh chẳng còn con đường nào cả, họa chăng là mây mù.
1969
Sơn Nam
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Uống trà

Uống trà Một số người tìm sự bình an, sự tịnh tâm trong việc uống trà. Có thể vì vậy mà họ thường thuộc lứa tuổi đã cao, xế chiều. Thanh niê...