Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Biển cỏ miền Tây và hình bóng cũ 2

Biển cỏ miền Tây và
hình bóng cũ 2

Người đi đêm
Tôi đến chợ Vĩnh Hưng để thăm người cậu ruột. Từ ba năm qua, vì bận sinh kế nên người một nơi kẻ một ngả. Cậu đón tiếp niềm nở, cầm tôi ở lại:
- Cháu ăn cơm? Tối nay, ngủ đây cho vui. Hổm rày, có chuyện buồn.
Tôi hỏi:
- Dạ, chuyện gì?
Cậu tôi im lặng hút thuốc liên tiếp. Lát sau mâm cơm dọn lên. Tôi ngồi ăn. Cậu cầm đũa gắp cái chân gà, nhậu rượu đế.
Đồng hồ trên vách thong thả điểm chín tiếng. Bỗng dưng Ngọc - con gái của cậu tôi - từ nhà bếp đi rón rén tới kéo ghế ngồi bên cạnh tôi rồi run run cầm đũa.
Cậu tôi lườm Ngọc:
- Mới ăn hồi chiều, bây giờ còn đói nữa sao?
Ngọc bẽn lẽn, giọng uất ức:
- Dạ, chín giờ rồi.
Cậu tôi thở dài:
- Mọi khi chừng này nhà cậu đóng cửa ngủ. Chợ Vĩnh Hưng buồn lắm. Cháu tới thăm cậu dịp này...
Ngọc cúi mặt như muốn giải thích điều gì.
Nàng liếc nhìn lên chiếc đồng hồ, kéo ghế đến sát cạnh tôi rồi gục đầu, đưa hai tay che mặt.
Cậu tôi gắt:
- Ngọc “điên” rồi hả? Riết rồi nhà này chẳng còn thể diện gì hết.
Rồi day qua tôi:
- Lát nữa cháu thấy.
- Dạ, chuyện gì vậy cậu?
- Khó cắt nghĩa lắm.
Ngoài sân có tiếng nói lao xao. Tôi muốn tìm hiểu sự thật Ngọc sợ nỗi gì? Đây là chợ Vĩnh Hưng, tuy là chợ làng nhưng tấp nập, có an ninh trật tự. Trong bóng tối, đôi ba chục người sắp hàng dài dọc theo bờ kinh xáng. Họ ở trần, mặc quần ngắn. Lại còn thêm những ông già bà cả gần đất xa trời. Một ông lão khoát tay. Bọn người nhìn nhau rồi đồng hè ngồi xuống.
Tôi hỏi cậu tôi:
- Họ làm gì, như là bao vây nhà mình vậy?
Cậu tôi vặn tim đèn xuống rồi nói:
- Ngọc! Con dọn cơm xuống bếp. Rần rật như vầy, ăn uống làm sao được?
Tôi hỏi:
- Ai rần rật? Họ toan hành hung đập phá à! Để cháu ra sân xem thử.
- Úy, không nên.
Ngoài sân tiếng xôn xao nổi lên, bàn cãi qua lại:
- Thẩy tới kìa!
- Đừng lớn tiếng. Rủi bề gì, thường nhơn mạng!
Không kiên nhẫn được nữa, tôi chạy ra đường cái. Từ xa, một người tiến tới. Hắn che cây dù, đi khoan thai dưới bầu trời không có mưa, kỳ dị hơn nữa là hắn ở trần, mặc quần đùi. Tôi chợt hiểu:
- Thằng điên!
Nhưng mấy người ngồi sắp hàng bên lề đường vội vã khoát tay như ra lệnh cho tôi giữ im lặng:
- Nó không điên đâu!
Tôi vào nhà, nói với cậu tôi:
- Tại sao lại sợ thằng điên đó? Nó xách cây dù chớ nào phải súng ống dao búa. Cậu đóng cửa lại là xong.
Vẻ sầu thảm hiện trên gương mặt cậu tôi. Cậu nói:
- Mọi lần cậu đóng cửa. Nó không thèm ghé nhà khác mà chỉ muốn ghé nhà này thôi.
Người nọ dừng ngay ngoài sân, sập cây dù xuống. Tôi nhìn kỹ. Hắn như chẳng cần chào hỏi đáp lễ, mặc dầu tôi chào hắn trước.
Hắn nói lảm nhảm:
- Mưa gió, mặc cho mưa gió. Rồi hắn quỳ xuống đất:
- Ngọc ơi! Đêm nay em ngủ yên không? Trời lạnh lắm. Em có đắp mền cho kín không? Coi chừng ho đó em. Em đành lòng nào im hơi lặng tiếng? Anh thề ở đây hoài, chờ em cho đến xế chiều.
Nghe qua, tôi tự cho rằng mình đã am hiểu tình thế. “Hắn” mang bệnh thần kinh, gọi nôm na là bệnh “mị” theo khoa học gọi là “mộng du”. Thay vì nằm chiêm bao trên giường thì hắn đi, mắt mở trao tráo nhưng chẳng thấy chung quanh, cứ sống trong thế giới riêng. Hắn tưởng là hừng sáng nên chờ khi xế chiều. Như vậy có nghĩa là hắn ngồi chầu chực trước sân suốt đêm nay!
Tôi nói với cậu:
- Mình đóng cửa lại là xong.
Cậu tôi lắc đầu:
- Khó lắm, hắn sẽ tự tử, nhảy xuống rạch!
- Dễ quá! Mình nhờ bà con coi chừng, đưa hắn hoặc bắt trói, khiêng hắn đem về nhà.
- Mình mẩy hắn lạnh ngắt, rủi hắn đứt hơi thở thì sao?
Hắn bước đến bực tam cấp nhà cậu tôi, để cây dù ngoài sân, rồi dậm chân như chùi cho sạch. Hắn nói:
- Mưa hoài, chân tôi dính bùn. Xin bà con cảm phiền.
Hắn vào nhà. Lần này tôi lắng tai nghe kỹ: Hắn ngáy ngủ đều đều. Mắt hắn cứng ngắc như đôi mắt vẽ trên pho tượng bằng cây mà bọn phù thủy dùng làm ông tướng.
Tôi kéo ghế:
- Anh bạn ngồi đây cho khỏe!
Cậu tôi lắc đầu:
- Nó đâu có nghe mà hòng nói chuyện với nó?
- Đừng la lớn. Nó té sấp rồi nhập hơi thổ, mắc nhân mạng cả đám bây giờ.
Đúng như lời, hắn chép miệng, đôi mắt mơ màng, rồi trong một thoáng liếc vào phía cửa buồng.
- Ngọc ơi! Vì em mà anh xông pha nơi mưa gió.
Vừa nói hắn vừa đặt chân lên bộ ván gỗ đi tới đi lui, tưởng như bộ ván là mặt đất.
Người hiếu kỳ bao vây quanh nhà. Họ đưa ý kiến:
- Sao cô Ngọc không ra cho hắn gặp mặt?
Bây giờ tôi mới vận dụng tất cả sự hiểu biết của mình để tìm ra một lối thoát cho gia đình. Ngọc đã lớn tuổi, nếu nàng ra ăn nói, giả vờ đóng vai người tình nhân của thằng điên thì dư luận sẽ ra sao? Đời Ngọc kể như tàn tạ, ai dám hỏi nàng làm vợ? Tôi nói to:
- Ờ, anh về đi. Cám ơn anh có lòng tốt tới thăm viếng em.
Hắn nhảy nhót như đứa trẻ:
- Ngọc đoái tưởng đến anh rồi hả?
Khách bên ngoài cười ầm lên vì chàng điên si tình kia chẳng phân biệt được giọng nói ồ ề của tôi với giọng dịu dàng của Ngọc! Và hắn chẳng buồn, day lại trách mắng cử tọa.
Được trớn tôi nói tiếp:
- Anh về đi. Sáng mai em đến thăm anh.
Ngọc nói khẽ:
- Hắn tên là Thuận. Tại sao sáng mai? Anh nên nói ngược lại chớ!
Tôi nói to:
- Anh Thuận đừng buồn, tối này tôi đến thăm anh.
Hắn múa tay:
- Nếu vậy thì đời anh hạnh phúc như kẻ lên trên mây rồi hả em? Nhớ tối nay. Anh chờ.
Tôi đáp:
- Chào anh. Anh về cho sớm kẻo trời mưa.
Hắn mỉm cười, rút trong túi đem ra một cái lược, chải đầu, trợn trợn mắt nhìn vào tấm kiếng bên vách.
Xong xuôi hắn đáp vơ vẩn:
- Đời ta như trên mây.
Đến cửa hắn cầm cây dù giương lên để che trận mưa trong tưởng tượng. Bây giờ ai nấy bước ra xa như để nhường bước cho kẻ anh hùng.
Tôi nói khẽ với cậu tôi:
- Đuổi nó ra kiểu đó được không cậu? Cậu nên đóng cửa lại, kẻo nó trở lại một lần nữa. Tôi đóng kịch không quá tệ.
Ngọc chạy tới bên tôi ngỏ lời trách mắng:
- Anh nói bậy nói bạ quá!
- Nhưng thiên hạ hiểu hoàn cảnh của em. Chuyện rõ như ban ngày. Chính anh tình tứ với hắn mà!
Cậu tôi chẳng đưa ra ý kiến nào hết. Người ngoài đường xì xào:
- Hồi nãy nó thấy trời mưa, nó vui sướng như kẻ “lên mây”. Chết cha. Phen này mới lên ruột, mới có “nhơn mạng”.
Cậu tôi ra sân thay vì đóng cửa. Tôi đứng ngơ ngác, chưa hiểu tài ngoại giao của mình thất bại ở điểm nào? Ngọc cũng ra sân. Bóng tối lan tràn. Đám người hiếu kỳ trở lại bờ rạch rồi ngồi xuống như tuân theo một hiệu lệnh chung.
Họ ngóng lên nóc nhà của cậu tôi.
Bây giờ tôi mới rởn tóc gáy, hiểu rõ hai tiếng “lên mây” của hắn. Hắn trèo lên ngay đỉnh nóc nhà từ bao giờ, tay này nắm cây dù che khỏi đầu, tay kia đánh “đồng xa”, hai chân chạy thoăn thoắt. Đến gần đầu tường, hắn dừng lại đưa một chân ra ngoài khoảng không tưởng chừng như hắn sắp té tan xương nát thịt. Nhưng hắn vẫn đứng vững như trồng, đưa tay lên sập cây dù, đặt xuống nóc nhà.
Rồi như pho tượng bằng đồng đen, đen hơn nền trời không trăng, hắn co tay, làm động tác hô hấp kiểu Tây phương. Ghê quá! Bây giờ tôi thấy hắn tài tình hơn kẻ đi dây trong buổi hát xiệc. Hắn đứng rất lâu, cười ha hả, rồi tuột xuống, ra mé rạch.
Tôi nhanh chân chạy theo, cậu tôi cản lại:
- Để cho nó về ngủ, đêm nào nó cũng hát xiệc một trận như vầy! Nhàm lắm rồi! Để nó về ngủ cho gia đình này khỏi mang tai tiếng.
Tôi đáp:
- Thưa cậu, tại vì nó “ngủ” nên mình mang tai tiếng. Cháu phải theo dõi để trừng trị khéo léo, cho nó “thức, thức mãi mãi”!
Hừng sáng hôm sau, tôi tìm hiểu thêm về lý lịch người điên ấy. Hắn tên là Lý, làm giáo viên tư thục, học đến sơ học, gia đình khá giả nhờ của phụ ấm, còn sống độc thân. Khi tôi đến thăm thì hắn còn ngủ dưới gầm giường. Đứa ở nói:
- Lát nữa, thầy tôi mới thức.
Tôi ngồi uống nước trà. Hồi lâu, nghe đồng hồ gõ chín tiếng.
Có tiếng ngáp dài như khoái trá. Tôi hỏi đứa ở:
- Thầy giáo thức rồi đó. Em mời thầy ra đây nói chuyện chơi!
Đứa ở trố mắt:
- Khó lắm. Bây giờ thầy tôi chẳng muốn nói chuyện với ai cả!
Cửa phòng vụt mở, giáo Lý ra nhà bếp, sau khi chào tôi. Hắn chải tóc, rửa mặt, thay quần áo rồi đi vụt ra ngoài cổng.
Tôi nhắc chừng đứa ở:
- Mời thầy vô đây!
Nó lắc đầu:
- Tôi không dám. Vì thầy ưa làm công chuyện riêng. Mà ông theo dõi thầy tôi làm gì? Thầy tôi hiền lắm. Tội nghiệp! Thầy làm toàn những chuyện hiền từ.
Tôi thuật lại chuyện thầy giáo Lý đến thăm Ngọc đêm rồi và trò hát xiệc của thầy trên nóc nhà.
Đứa ở mỉm cười:
- Thầy tôi chưa làm việc gì hại cho ai cả.
Rồi đứa ở kể thao thao bất tuyệt cho nghe vài thành tích lẫy lừng, thơ mộng của thầy Lý: Phen đó thầy ôm sách vở, nói là để vào lớp học nhưng đi biền biệt đến sáng hôm sau chưa thấy về. Cả vùng chợ Vĩnh Hưng náo động lên. Học trò tha hồ trửng giỡn. Ông giám đốc tư thục bèn “cớ” cho nhà cầm quyền hay biết. Cha thầy giáo bèn mướn mấy anh thợ chài để bủa lưới, lặn hụp dưới rạch Vĩnh Hưng, họ gặp toàn là cá, tôm. Mấy ông chủ tàu đò lắc đầu. “Chẳng bao giờ thấy thầy giáo Lý xuống tàu cả”. Dè đâu lúc đó thầy ngồi ngủ trong một bụi tre gai tận ngoài bờ ruộng.
Tôi chận lời:
- Bị ma giấu chớ gì? Thầy ta giả bộ điên khùng để che mắt thiên hạ.
Đứa ở vội thanh minh:
- Xin ông đừng nghĩ oan cho thầy tôi. Thấy tại trận một lần ông mới hiểu rõ. Thầy tôi ngồi ở tuốt chính giữa bụi tre gai. Ai nấy xúm lại coi, chẳng hiểu thầy tôi làm cách nào chui vào cho được trừ phi có thánh thần giúp đỡ. Phải dùng dao búa và câu liêm chặt gai rồi mời thầy tôi về. Gần đây, thầy tôi ưa thức đêm, tới lui thăm viếng cô Ngọc như ông thấy.
Tôi hỏi gắt:
- Thầy Lý si tình hay mang chứng bịnh đặc biệt! Có lẽ thầy nằm chiêm bao, thấy người bạn mời du lịch.
Đứa ở lấy tay che miệng:
- Ban đêm thầy đọc sách rồi viết sách. Tôi là đứa ở làm sao dám hỏi công việc riêng của chủ. Có bận đó, thầy tôi trốn biệt suốt hai ngày ở ngoài bãi tha ma đói rã ruột, thầy tôi vẫn cười mà nhai suốt từng cục đất sét. Có lẽ ai rủ thầy tôi đi ăn giỗ.
Cậu tôi đi ngang qua, lên tiếng:
- Cháu về nhà nghỉ, lát nữa ăn cơm. Hơi đâu mà lo chuyện thiên hạ. Thằng nhỏ này đâu phải thầy bùa hoặc bác sĩ?
Tôi cáo từ, hẹn trở lại. Cậu tôi nói:
- Cháu về trước đi, cậu đi chợ mua thêm miếng thịt quay.
Ngọc đứng sẵn ngoài ngưỡng cửa, vui tươi hơn bao giờ hết. Nàng hỏi:
- Anh ở nhà thầy Lý?
- Ờ, khó hiểu quá. Thầy ta khéo sắm một đứa ở. Thằng nhỏ đó cũng bí mật như thầy ta. Không khéo hai thầy trò phát điên.
Ngọc vào nhà:
- Anh vô đây.
Rồi nghiêm mặt:
- Chừng nào anh về? Anh có gặp ba tôi ngoài chợ không?
Tôi đáp:
- Đúng ra lát nữa tôi về nhưng tối nay tôi phải ở lại theo sát thầy Lý.
Ngọc thở dài:
- Anh nên về là hơn, đừng làm khổ những người đã khổ.
Tôi nói gắt:
- Ai khổ? Thầy Lý à? Hắn gieo nỗi khổ cho bao nhiêu người khác. Ngọc chẳng nghe dư luận bên ngoài sao?
Ngọc cúi đầu:
- Người khổ là thầy Lý mà cũng là em.
Rồi nàng cúi đầu, vào phòng, ngoắt tay như bảo tôi vào. Nàng mở cái hộp bằng thiếc, trong hộp có ba bốn phong thư rồi mỉm cười.
Như chợt tỉnh giấc mơ, tôi hỏi nhanh:
- Thế là Ngọc yêu thầy ta?
Ngọc đáp:
- Yêu thì không hoàn toàn yêu nhưng anh Lý làm thơ giỏi lắm. Thơ lục bát, thơ bát cú có vần có điệu. Rất tiếc em khó lòng cho anh xem.
Tôi giựt một phong thư màu xanh trong tay Ngọc, Ngọc toan chận lại nhưng lẩm bẩm:
- Anh đọc thử. Đừng cười, tội nghiệp ảnh.
Trong phong bì có miếng giấy màu tím và mấy chữ:
“Em Ngọc! Sáng nay anh bận rộn quá không biết viết gì hơn. Anh xin tặng em hai câu này, tuy là thơ xưa nhưng hay lắm. “Ngọc xem trang trọng khác vời, khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”.”
Ngọc chụp bức thơ, giành lại:
- Anh Lý đâu phải điên khùng như thiên hạ lầm tưởng. Anh mắc bịnh mộng du, thiên hạ nói vậy nhưng em chưa tin. Ảnh thỉnh thoảng đến đây, che dù, rồi bí mật nhét lá thư ở dưới chậu kiểng, chỉ riêng em mới thấy. Đó là mưu trí.
Tôi đáp:
- Cô này lẩn thẩn quá. Không chừng cô bị truyền nhiễm tật mộng du của hắn!
Ngọc chạy xuống nhà bếp vừa chiên cá vừa nói:
- Em thì chắc ắt lẩn thẩn. Như anh, như tất cả xóm này mới là kẻ bị truyền nhiễm.
Rồi Ngọc trợn mắt. Trong một thoáng, tôi thấy đôi mắt nàng trợn trắng, đứng tròng giống hệt mắt của giáo Lý. Nàng nói:
- Người ta làm gì thây kệ người ta. Mấy người sao cứ tò mò hoài? Xóm này, có mấy thằng con trai nó mê tôi, nó không biết làm cách nào để gởi thơ cho lọt. Tụi nó ức rồi nói xấu, gẫm đi gẫm lại, tụi nó dại dột hơn anh Lý.
Vài năm sau tôi trở lại. Ngọc và Lý đã thành chồng vợ và sanh được một con. Cha mẹ thầy Lý giúp tiền bạc, xây cho ngôi nhà ngói. Lý vẫn ngâm thơ. Ngọc nói cho tôi rõ: Chồng nàng đã hết chứng mộng du nhờ đi nhà thương Chợ Quán, bác sĩ cho uống thuốc đặc biệt. Trước đó có rước mấy ông đạo ở Bảy Núi tới, điều trị không xong. Nhưng tôi nghi ngờ quá. Giáo Lý đi guốc, hai chiếc hai thứ quai khác nhau, một chiếc của anh ta, một chiếc của Ngọc. Lâu lâu anh ta vỗ về thằng bé: nó ngủ mơ màng nhưng đôi mắt mở trao tráo, để thách thức những kẻ ngủ nhắm mắt, khác với nó.
- Thế gian này, ai thức? Ai ngủ?
Qua hiệu sách
Thi sĩ và kẻ trộm có một điểm giống nhau: ở bất cứ nơi nào, họ cũng tưởng như là đang ở nhà của họ.
(Honoré de Balzac)
Như thường lệ, sáng hôm ấy Huệ đến trước cửa hiệu sách Hoa Hồng từ hồi bảy giờ năm chục phút.
Đúng bảy giờ năm mươi lăm ống khóa bắt đầu khua động. Cánh cửa sắt rít lên, xếp lại, chừa đủ khoảng nhỏ để thân hình mảnh mai của Huệ lách vào trong. Suốt đêm mấy ngọn đèn nê ông vẫn để sáng, giữa tủ kiếng mấy bộ sách bách khoa in màu, chiếu ngời đủ ánh xanh, đỏ, tím, vàng. Trên bìa sách láng bóng, hình mấy con cọp, sư tử... linh động, nhe răng suốt đêm. Các nữ minh tinh vẫn cười duyên, không bao giờ ngủ, ở bìa trước và mặt sau tạp chí điện ảnh.
Chiếc đồng hồ trên vách ghi bảy giờ năm mươi tám phút. Chị lao công lau chùi nền gạch đã xong. Bà chủ hiệu Hoa Hồng đi dép xuống thang lầu tỏ vẻ hài lòng vì Huệ đã đến đúng giờ. Trong khi bà đi rảo một vòng quan sát các tủ kiếng, Huệ cố sức bình sanh đẩy mạnh cho hai cánh cửa sắp xếp gọn gàng. Bà chủ ngồi trên chiếc ghế nhỏ, ngay tủ tiền rồi gắt giọng với người lao công:
- Này chị bếp.
- Dạ, thưa bà...
- Lên bảo cô Hai xuống đây coi chừng trộm. Chừng giờ này đã quá tám giờ rồi mà còn ngồi trang điểm! Mùa tựu trường, lát nữa khách đông lắm, mỗi năm có một tháng tựu trường...
Huệ cầm cây chổi lông gà, tới lui quét bụi ngoài tủ. Thỉnh thoảng, nàng liếc nhìn ra đường. Người qua kẻ lại còn thưa thớt trên hè phố.
Đúng tám giờ, cô Hai mặc áo dài tím, đi chậm rãi đến tủ tiền, ngồi thay thế cho mẹ đang ăn điểm tâm.
- Con thức từ nãy giỡ, lúc chị bếp lên gọi, con đang ăn sáng.
Trước khi trở về từng lầu trên, bà chủ căn dặn lần chót:
- Con phải cẩn thận. Thừa lúc đông khách, bọn bất lương ưa lẻn vào ăn cắp sách. Hồi hôm qua, ở tiệm X, có đứa bị bắt quả tang đang đánh cắp bộ sách giá hai trăm đồng.
Cô Hai ngạc nhiên:
- Rồi giải nó ra tòa chớ? Bọn đó là ai vậy mẹ? Hèn chi hồi tháng trước, thỉnh thoảng tiệm mình cũng mất vài quyển sách, vô lý. Thôi mẹ yên tâm. Ở dưới này, con và Huệ cố gắng xem trong xem ngoài.
Sau khi bà chủ đi khuất, bầu không khí trở nên thân mật, dễ chịu. Huệ và cô Hai vốn là bạn thân hồi còn học trường Gia Long, giữa hai người tuy là kẻ chủ, người làm công nhưng mối tình bạn ngày xưa còn thắm thiết.
Huệ hỏi cô Hai:
- Làm thế nào mình nhận ra kẻ ăn cắp sách được? Mỗi ngày, hàng ngàn người ta vào lựa chọn, một mình em đâu đủ sức theo dõi... Hơn nữa đó là vấn đề xã giao, mình cần chiêu hàng.
Cô Hai đáp:
- Nghe cô Y thuật lại thì chúng nó ăn mặc sạch sẽ, còn sạch sẽ hơn đa số học sinh. Lúc vào tiệm chúng mang theo một cái “classeur” bìa cứng bên trong để sẵn vài quyển sách. Chúng giả vờ chọn lựa, rồi thừa lúc người trong tiệm không chú ý, đưa một vài quyển sách vào trong “classeur”. Đâu đó xong xuôi, chúng bình thản bước ra.
Đôi mắt Huệ sáng lên:
- Tài thật, nhứt định là chúng đánh cắp những quyển sách đặt trên kệ, cao ngang ngực... Vậy thì từ nay về sau em chú ý những chàng mang “classeur” vào tiệm...
- Em đã có ý nghĩ không tốt rồi đó. Suy luận như em, tiệm mình sẽ bị ế khách. Cứ để họ tự do lựa chọn.
- Em chưa hiểu làm cách nào. Em mới tập tành nghề này.
- Còn nữa... Lắm khi chúng vào tiệm với một quyển sách trơn, cầm trên tay. Tức quá! Phen đó chị nghi nhưng rốt cuộc chị vẫn bắt không được... Hắn tỏ vẻ lương thiện, mới bước vào tiệm là đặt quyển sách của hắn ở kệ sách phía ngoài, rồi với tay không, hắn vào mấy tủ kiếng phía trong, lựa chọn đôi ba phút hoặc lâu hơn nữa, lúc ấy chị quên chú ý. Thế rồi hắn trở ra, liếc nhìn chị rồi xin lại quyển sách mà hắn gởi khi mới bước vào. Chập sau, thì chị mới biết là hắn đã ăn cắp một quyển sách. Huệ biết hắn làm cách nào không?
Huệ ngạc nhiên:
- Hắn là một tay ảo thuật em chịu thua.
- Thì hắn lấy luôn quyển sách đặt dưới quyển sách của hắn. Thay vì lấy một cuốn, hắn nhanh tay kèm thêm một cuốn nữa rồi bước ra khỏi cửa, đi lẫn vào đám đông lập tức.
Câu chuyện đang vui vẻ, sôi nổi bỗng nhiên cô Hai dịu giọng... Năm ba khách hàng lần lượt bước vào, kẻ tìm sách học, người lật mấy tờ tạp chí Âu Mỹ để xem hình. Không muốn lợi dụng tình bạn, Huệ trở lại địa vị người làm công: nàng định áp dụng những lời chỉ dạy của cô Hai. Nhưng khi nàng vừa quay mình, cô Hai cản lại:
- Ở đây nói chuyện chơi. Mình đừng quá theo dõi khách hàng, họ không thích, cho rằng lối tiếp đãi của chúng mình kém nhã nhặn. Để họ tự do lựa chọn mà! Nên tránh cái thái độ tò mò... Mình đâu là thám tử, phải không Huệ? Nhưng kìa... Huệ xem ra đường, cái anh thắt cà vạt tím...
Đúng như lời cô Hai. Huệ thấy một người trạc bốn mươi tuổi đang đứng ở sạp bán thuốc lá, ngoài vỉa hè, sát gốc me, cách cửa tiệm chừng vài thước. Trong số người hơi đông đảo, chỉ riêng hắn là thắt cà vạt. Hắn móc trong túi áo một đồng để mua hai điếu thuốc lá.
Cô Hai nói khẽ:
- Huệ hãy xem, nhứt định hắn vào đây, chị đoán không sai mà!
Nhưng sau khi cầm cây nhang đốt thuốc, người nọ đi thẳng.
- Chị đoán sai rồi. - Huệ nói.
Cô Hai mỉm cười:
- Nhứt định ông ta trở lại đây! Chắc là đi qua “coi cọp” ở tiệm sách kế bên.
Huệ vào trong gói sách, ghi phiếu cho vài ông khách, rồi sắp mớ sách cho ngay ngắn. Nàng đang chăm chú lựa vài quyển quốc văn cho khách hàng, bỗng nhiên thấy chiếc cà vạt màu tím bay phất phơ trước mặt... Nàng nực cười, khen thầm sự dự đoán của cô Hai khi nãy. Khi gói xong quyển quốc văn, nàng đem đến tủ tiền. Cô Hai thối tiền, chờ khách bước ra khỏi tiệm rồi nói:
- Đổ đồng mỗi tuần lễ, ông ấy đến “điểm sách” ở tiệm mình chừng mười bốn lần!
Một bài toán hiện ra trong trí của Huệ. Nàng vẫn thắc mắc:
- Mình mở cửa suốt tuần, trừ chiều chúa nhật, tất cả chỉ mười ba buổi thôi.
Cô Hai vẫn cười:
- Ngặt nhiều buổi, ông ta đến viếng hai lần liên tiếp. Huệ hơi khó chịu. Nàng nhận thấy câu nói của cô Hai ngụ ý mỉa mai, tàn nhẫn đối với ông khách vô tội.
- Nếu vậy thì ông ta viếng cả mười lăm, mười sáu! Biết đâu buổi chiều chúa nhựt hoặc lúc hừng sáng, đêm khuya, lắm khi, ông ta đi ngang Hoa Hồng thư quán này, dừng lại đôi phút trước cánh cửa sắt đã khép lại, để “coi cọp” trong tưởng tượng, phải không chị?
Nhờ bản chất ít nhiều thông minh, giàu lòng nhân đạo nên cô Hai cau mày chợt hối hận trong phút giây. Huệ vừa cảm thấy mình vừa đắc thắng, thắng một trận nhỏ. Nàng đã gợi ý cô chủ, gợi khéo léo vài ý niệm luân lý mà cả hai hấp thụ ở nhà trường về sự công bình và lòng nhân đạo. Để cô Hai khỏi nhột nhạt, Huệ quay mặt, đi vào phía trong với sự hãnh diện cỏn con: nàng vừa bênh vực một kẻ vô danh! Rồi với tinh thần vô tư, nàng bắt đầu theo dõi ông khách không bao giờ mua sách nọ. Tuổi của ông cũng tạm xứng đáng cho nàng gọi bằng chú, bằng bác. Ông ta đọc chăm chú tất cả các loại sách Pháp, sách Việt, thơ, tiểu thuyết đến các sách mỹ thuật, hội họa... Sau khi xem vài trang, ông ta cẩn thận xếp sách, sắp đặt ngay ngắn đúng vị trí cũ. Đối với những quyển sách quý, bọc giấy bông, dán kín mít bốn phía, ông ta cũng tỏ ra nhã nhặn, tuyệt nhiên không mó tay vào, nghĩa là chỉ nhìn nó bằng đôi mắt tò mò...
Ngày qua ngày, hình dáng ông khách “coi cọp” trở nên quen thuộc với Huệ, nàng thấy rằng những lời nhận xét của cô Hai đối với ông ta nào có gì quá đáng! Bắt đầu, Huệ bực mình vì con người gan lì, mặt chai mày đá nọ. Nhứt là những buổi sáng vừa mở cửa tiệm là ông ta đã “xông đất”, mở hàng trước. Có lẽ để bù trừ lại, nên nhiều hôm đến tám giờ tối, lúc tiệm gần đóng cửa, ông ta vẫn đứng lầm lì xem nán một trang quảng cáo diễn huyền về dầu thơm hoặc “quần áo phụ tùng” của phái yếu đăng ở trang gần chót các tạp chí Âu Mỹ. Đôi khi, ông vào chớp nhoáng, như giông, như gió, tìm quyển tự điển, lật nhanh, tra vài chữ rồi xếp lại, trở ra, sau khi nói bâng quơ mà không nhìn thẳng vào mặt Huệ hoặc cô Hai: “Cám ơn”. Phiền nhất là buổi sáng chúa nhật, thân chủ quá đông, người ra kẻ vào chen chân khó lọt, vậy mà ông ta cứ đứng mãi mê xem liên tiếp năm sáu trang sách triết học. Thỉnh thoảng ông sờ vào túi, đem thuốc ra hút, phun khói, rồi cau mày suy tư khiến người lân cận ho hen, sặc mũi. Mỗi lần đi qua lại, Huệ đành nói khẽ:”Xin lỗi ông” rồi nàng bĩu môi. Ông thấy lạnh lùng dường như câm, điếc và mù đối với riêng nàng! Quá bực tức, nàng muốn nguyền rủa lên thật to: “Ông nên coi cọp quyển “Phép tắc xã giao” hoặc quyển “Đắc nhân tâm” là hơn. Loại sách ấy, chữ Pháp chữ Việt đều có: “Nhưng rồi thôi, ông khách ra đi tự bao giờ, Huệ nào hay! Quá mười hai giờ trưa hôm ấy, trên đường về, Huệ gặp ông ta lần nữa, đứng lóm thóm chờ xe ô tô buýt, tay cặp mớ sách khá nhiều nhưng mua ở lề đường, gói kỹ lưỡng với thứ giấy báo cũ chớ nào phải loại giấy đặc biệt in rõ ràng nhãn hiệu của một thư quán tăm tiếng...
Mưa gió lê thê từ giữa tháng đến cuối tháng. Mùa bán sách tựu trường hầu như chấm dứt. Ông khách cố cựu vắng bóng ba hôm liên tiếp. Lúc rảnh rang, Huệ đến bên cạnh cô Hai để tán nhảm:
- Chắc ổng bịnh rồi! Cả nhà tôi, già trẻ bé lớn đều bị bịnh cúm, huống hồ là ổng...
Cô Hai như sực nhớ điều gì:
- Hồi hôm qua, lúc Huệ ra nhà sau, ổng lại đến, mua của tiệm mình hai quyển “Phép trị bịnh gà toi”. Nhứt định ổng về quê nuôi gà! Mô Phật! Vái trời cho ổng về luôn.
“Người bê tha lêu lổng như thế ấy mà nuôi gà!” Huệ toan cãi lại nhưng chưa tìm ra lập luận nào cụ thể, vững chắc. Ngoài lề phố, bỗng nhiên, nàng thấy ông ta xuất hiện với chiếc áo sơ mi ca-rô:
- Cô Hai? Ổng kìa! Trời ơi! Bữa nay ổng theo “đợt sống mới”.
Trố mắt, cô Hai buột miệng nói nhanh:
- Ủa ổng thiệt. Ổng đi song song với con Ti bán sách đằng tiệm Hoa Lý. Hay là con Ti cưới ổng mà chưa cho đằng mình hay biết.
Vừa đến tiệm, ông khách cũ đi xăm xăm vào kệ phía trong, lật tới lật lui từng quyển sách mới phát hành và xem qua tất cả các loại tập san, như người đời lâu ngày gặp miếng ăn ngon.
Tại tủ tiền, cô Hai hỏi nhanh, giọng hài hước:
- Cô Ti đi đâu vậy? Có chồng rồi ư?
Ti ngạc nhiên:
- Nói giỡn hoài! Có chồng thì mình gởi thiệp mời đàng hoàng chớ. Để tôi nói phứt rồi trở về tiệm liền bây giờ.
Huệ sốt ruột:
- Chuyện gì?
- Ông khách đó nhứt định đòi mua cho kỳ được mấy bộ Địa Tạng kinh, Phật thuyết A di đà kinh, thêm hai bộ Cao ly đầu hình, Diễn cầm tam thế, sách coi quẻ, coi tử vi.
Cô Hai nói nhanh:
- Ở đằng Hoa Lý hết rồi sao Ti?
Ti trả lời:
- Nhưng ổng đòi mấy bộ kinh in lần thứ nhất do hòa thượng Trí Huệ phát hành đâu từ hồi Bảo Đại mới lên ngôi! Tôi nhớ chắc chắn đằng này còn vài bộ kinh xưa đó, nghe bà chủ nói rằng năm xưa có dự trữ trên lầu chừng hai mươi bộ. Cô tìm thử.
Cô Hai vội vã lên lầu. Dưới này Huệ chăm chú nhìn ông khách... Bất chấp thế sự, ông ta mải mê khảo sát...
Nàng trêu ghẹo Ti:
- Chị có quen ông đó hả?
- Đâu có. Ổng là anh em bạn cũ của ông chủ tiệm tôi, bạn học hồi hai mươi năm trước, hôm nay họ mới nhìn ra được tung tích. Ổng khoe với ông chủ tôi rằng bây giờ ổng nhàn rỗi lắm, ăn no rồi thì đi chơi tối ngày để đọc sách của thiên hạ. Ổng khen với ông chủ tôi về cách tiếp đãi lịch sự, vô cùng nhã nhặn của các cô bán hàng ở tất cả tiệm sách to, nhỏ thuộc đất Sài Gòn! Đó là... “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc”.
- Chị Ti bữa nay nói chữ nho nghe điếc con ráy...
- Ổng nói chớ đâu phải tôi. Theo lời ổng thì câu đó nghĩa là “trong sách vở thánh hiền có người con gái tuyệt đẹp”, tức là tinh hoa của tư tưởng nhân loại, hoa thơm cỏ lạ gì gì đó. Nhưng chập sau, ổng nói khẽ với ông chủ tôi: “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc” cũng ám chỉ rằng... ở bất cứ tiệm sách nào cũng có nhiều cô bán hàng đẹp như ngọc, dễ yêu.
Huệ mỉm cười:
- Ổng ghé đây hoài... Té ra ổng... ba mươi lăm, tuổi mùi!
Ti cười còn day lại che miệng, dòm chừng ông khách rồi nói khẽ với Huệ:
- Huệ cưới ổng đi. Tớ gả cho đó! Coi bộ ổng là người biết điều.
Huệ cau mày, đôi má đỏ ửng vì giận dỗi, vì tức cười. Trao thân gởi phận cho con người đáng chú bác kia, thà tự tử còn hơn. Cả bốn điều kiện: đẹp trai, con nhà giàu, sạch sẽ, không ăn cắp vặt... ông ta đều thiếu bảo đảm cả. Nàng nghe ớn lạnh trong xương sống! Một mai, thí dụ như chuyện đời éo le đến mức ấy, chắc Huệ sẽ khổ tâm gấp ngàn lần hơn khi công chúa Huyền Trân nằm chung chăn chung gối với Chế Mân. Dầu sao đi nữa là người đàn ông thì cũng phải lo làm ra tiền săn sóc vợ con. Ai lại như ông ấy! Lười biếng quá!
Cô Hai từ trên lầu vừa xuống thang vừa thổi mạnh vào lớp bụi phủ dày lên bộ Địa tạng kinh. Biết rằng nhiệm vụ trung gian của mình đã làm xong, cô Ti bước nhanh về Hoa Lý thư quán.
Sách đã gói để trên bàn tủ tiền. Ông khách đến hỏi về tiền phải trả. Trong đôi ba phút, mặt của ông và mặt của cô Hai, của Huệ gần kề nhau hơn bao giờ hết.
Hơi ngượng cô Hai nói nhanh:
- Cám ơn ông. Ông mua mấy bộ kinh này làm gì? Toàn là chữ nho không có giảng nghĩa thì làm sao mà hiểu đạo lý?
Ông khách cười mỉm môi rồi nói một hơi dài:
- Tôi mà tu hành gì! Tôi mua dùm người bà con ở lục tỉnh. Tôi nào làm điều gì quá tội lỗi với ai đâu mà cần đi tu sớm! Về già họa chăng đi tu.
Huệ và cô Hai trố mắt, nào dè ông khách “coi cọp” nọ lý sự quá giỏi! Nhưng ông khách ngỡ rằng hai người đẹp đang hiểu lầm.
Ông tiếp tục thanh minh:
- Thời giờ rảnh rang, tôi đi dạo đó đây, hết ngồi quán cà phê thì đi rảo từ tiệm sách này qua tiệm sách nọ. Âu cũng là một cách giải trí lành mạnh.
Cô Hai nghĩ thầm: “Ông này quên rằng tiệm Hoa Hồng do tư nhân sáng lập, hàng tháng phải trả tiền đèn, tiền phố, tiền nhân công”. Như thông cảm nỗi thắc mắc chính đáng của cô, ông ta giải đáp:
- Ở thư viện công cộng được ngồi ghế, sách nhiều thật nhưng mình có cảm giác sống trong tháp ngà. Coi sách ở tiệm mặc dầu đứng mỏi chân nhưng mình thấy ấm áp, gần hơi thở của cuộc đời, của nam thanh nữ tú.
Ông ta tiếp tục nói, công khai thú nhận rằng việc xem sách cọp ở tiệm là phương pháp luyện chí rất sống động - đó là một nghề nghiệp của ông. Rồi đặt vào địa vị của một chủ tiệm sách, ông ta không ngượng miệng dạy bảo cô Hai và Huệ như dạy bảo người làm công mới tập sự cho ông ta:
- Bán sách là chức vụ cao quý. Lúc rảnh rang cô hãy đọc sách, ít nhứt là đọc qua tựa sách. Xin lỗi, bứt mây động rừng, tôi xin kể lại câu chuyện: Hôm đó, tôi vào tiệm sách đó, chợt nghe một thân chủ bước vào hỏi cô bán sách để tìm quyển “Mái Tây”. Cô bán sách vào trong, lục lạo suốt năm ba phút rồi trở ra nói thản nhiên: ở đây không có “Mái Tây” chỉ có quyển sách dạy về “Mái dầu cặn”, “Mái trăn-si-to”.
Cô Hai chận lời:
- Dạ tôi biết quyển Mái Tây tức là Tây Sương Ký do Nhượng Tống dịch, áng văn bất hủ của Trung Hoa.
- Thật vậy à? - Ông khách hỏi nghiêm nghị.
- Dạ thật chớ, trong Mái Tây có nàng Thôi Oanh Oanh yêu chàng Trương Quân Thụy - Cô Hai đáp.
Đằng kia bà chủ bước xuống thang. Bỗng dưng bà đứng lại cau có chưa hiểu vì sao Huệ đứng bên tủ tiền với ông khách nọ trong khi hàng chục thân chủ khác đang ngơ ngác tìm kiếm người trong tiệm để hỏi han về các loại sách mà họ chưa tìm ra.
Biết giờ phút nguy ngập đã đến, Huệ nói nhanh:
- Cảm ơn ông. Thỉnh thoảng mời ông ghé viếng chúng tôi.
Huệ bước nhanh vào trong. Tuy cầm quyển Địa Tạng kinh, Cao ly đầu hình... đã gói xong, đã trả tiền xong nhưng ông khách vẫn nói mơ màng với cô Hai:
- Thì tôi ghé viếng tiệm Hoa Hồng này hoài, quý cô cần gì mời! Tự cổ chí kim, ở nước văn minh nào cũng vậy, bán sách vốn là nghề tao nhã, tôn trọng sự tự do của thân chủ. Đuổi khéo chưa chắc người ta đi. Mời duyên chưa chắc người ta đến. Phức tạp lắm, cô ơi! Tôi biết suy nghĩ lắm. Đây cô còn trẻ quá mà.
Giọng của ông khách ngậm ngùi như giọng đọc bài văn tế. Khách ra đi từ lâu rồi mà nỗi bực dọc của cô Hai, của Huệ vẫn kéo dài như một cơn mưa dai dẳng. Đôi ba ngày sau, năm bảy ngày sau, tiệm Hoa Hồng vắng bóng ông khách nọ, mặc dầu thỉnh thoảng cô Hai và Huệ còn thấy ông ta đi ngang qua, lúc cửa tiệm đang mở thật rộng. Theo dõi thì cô Hai mới hiểu dạo này ông ta ưa lân la đằng tiệm Hoa Lý, nơi cô Ti đứng bán. Đôi khi đi cặp kè với người bạn nào đó, ông để cho người bạn vào tiệm Hoa Hồng một mình. Riêng ông thì đứng ngoài lề phố mà chờ, mặc cho trời mưa lớt phớt ướt áo, thắm xuống đôi vai gầy yếu.
Cô Hai thở dài, lần đầu tiên cảm thấy mình hơi vô duyên, phàm tục, không còn là đề tài đối với một kẻ khác. Kẻ ấy đã gan lì để giữ vững niềm tin bé bỏng riêng tư trong thời khói lửa. Hiệu bán sách có thể là nơi ẩn náu cuối cùng của nhân nghĩa, của tình người.
Trong lòng bàn tay
Từ bảy tháng qua, Bạch lấy làm thỏa mãn vì đã được đổi nghề. Chàng nghỉ dạy học, đến làm thơ ký cho nhà máy xay lúa gạo Hiệp Hưng, cách tỉnh lỵ chừng hai mươi cây số. Nghề ghi chép lặt vặt ấy giúp Bạch rảnh rang thời giờ, tuy nhiều khi bận rộn suốt chúa nhật. Chàng ngồi bàn “bua rô”, đón nhận những thân chủ từ thôn quê chở lúa đến xay. Lúc nhà máy nghỉ chạy, chàng tha hồ đi tới lui, hút thuốc nhìn khung cảnh quá nhàm: vài gốc me cổ thụ, con đường mòn và dòng rạch hiền hòa. Lẽ dĩ nhiên, khung cảnh ấy lắm khi tươi hẳn lên nhờ bóng dáng mấy thiếu nữ. Bạch mở hộc tủ, đem ra bộ truyện Phong Thần và quyển sách coi chỉ tay. Chàng lựa chọn rồi quyết định:
- Trong lúc chờ cơm trưa, mình nên trau dồi nghệ thuật coi chỉ tay. Đó là một khoa học. Nhiều nhà bác học tỏ vẻ tin tưởng khoa coi chỉ tay. Đến như ở Pháp Quốc, ông hàn lâm Mô-roa đã xác nhận giá trị thực tiễn của khoa này. Người biết coi chỉ tay thì nghiễm nhiên trở thành “giáo sư”, sang trọng hơn mấy thầy coi quẻ mai rùa.
Chàng cầm quyển sách, gật đầu hứng thú:
- Sách coi chỉ tay với truyện Phong Thần đều giống nhau ở điểm: mơ hồ, vu vơ nhưng kẻ phàm phu thất học đến giới trí thức thượng lưu, ai cũng thích.
Chàng ôn lại chương thứ nhất, nói về hình dáng bàn tay. Đúng quá, loại bàn tay vuông tiêu biểu cho tánh khí khái, cộc cằn. Mấy hôm trước, chàng đã chứng minh điều ấy khi xem cho thầy hương quản! Đây này chương thứ hai nói về đường sanh đạo hoặc mạng đạo. Trên mạng đạo, cái ô hình vuông là điềm chết bất đắc kỳ tử. Ơi! Tuyệt diệu. Hồi năm ngoái, Bạch gặp dịp may mắn lạ thường. Một ông lão bị chết đâm vì ghen tuông. Bạch đến gần ông ta rồi xem chỉ tay thử cho biết: Đường mạng đạo ghi rõ hình vuông tiền định.
Bạch mỉm cười một mình. Có lẽ một ngày nào đó, lúc thất nghiệp chàng sẽ dùng khoa học coi chỉ tay làm kế sinh nhai. Cứ đến nơi đám tiệc, đám giỗ, chàng giả vờ xem chơi cho vài người, tán tỉnh vớ vẩn. Họ sẽ năn nỉ chàng xem giùm rồi đền ơn bằng một số tiền đủ ăn cơm hoặc uống cà phê cho tới ngày hôm sau. Nghe đâu nhiều người chuyển nghề coi chỉ tay đã sống dư dả, mua nhà cưới vợ hoặc hút thuốc phiện.
Ngoài cửa bỗng có tiếng cười khanh khách. Bà chủ Hiệp Hưng nói một hơi:
- Cha chả, tới đây hồi nào vậy? Có chồng chưa vậy? Ờ hai cháu.
Bạch giật mình, đem bộ Phong Thần và sách khoa học huyền bí bỏ vào hộc tủ. Mỗi khi bà chủ “Hiệp Hưng” gặp khách quý, Bạch hiểu mình nên đi nơi khác để bà tiếp chuyện riêng. Trước khi quay mặt, Bạch liếc nhìn: Đẹp quá! Tất cả ba mẹ con. Người mẹ tuổi non bốn mươi, hai cô gái cỡ 17, 18 xuân xanh. Lạ thay, người mẹ vẫn trẻ về hình thức, thoạt trông qua ngỡ là ba chị em. Ban nãy bà chủ Hiệp Hưng lên tiếng hỏi “có chồng chưa vậy?”. Điều ấy khiến Bạch vui mừng khôn xiết. Rõ là người mẹ ấy đã có chồng nhưng giờ phút này sống ly thân, Bạch được quyền yêu thầm, chiêm ngưỡng người bạn của bà chủ.
Người mẹ bước vào với hai cô con gái. Bạch vẫn đứng lấp ló xem.
Bà khách chào hỏi vài câu qua loa:
- Mới tới hồi nãy và tôi tới đây thăm chị. Sao? Hổm rày làm ăn thế nào?
Bà chủ Hiệp Hưng đáp:
- Ngày mưa tháng gió, công việc nhà máy cũng nhờ trời mà phát đạt hơn mọi năm.
Rồi hai người bàn bạc rất lâu về những người bạn riêng của họ. Bạch bực bội vô cùng. Nàng tên gì? Đã có ai ghé gắm chưa? Chàng thả hồn theo giấc mơ riêng tư, quả tim nhảy thình thịch trong lồng ngực. Môi nàng đỏ lợt màu hoa anh đào, lúc nói cũng như lúc cười, đôi má để lộ hai lúm đồng tiền xinh xắn. Chàng giả vờ đi qua đi lại phía sau nhà để ngắm kỹ hơn. Tuy đê mê, chàng vẫn đủ trầm tĩnh để làm bài toán:
- Con gái lớn chừng mười bảy hoặc mười tám tuổi, nghĩa là người mẹ vào khoảng tuổi ba mươi sáu, thí dụ như nàng có chồng vào tuổi mười tám. Mười tám cộng với mười tám là ba mươi sáu.
Chàng mỉm cười, nhủ thầm rằng năm nay mình ba mươi bốn tuổi, nhỏ hơn nàng hai tuổi. Gái hơn hai trai hơn một. Cô khách của bà chủ Hiệp Hưng bỗng nghiêm mặt, nhìn vào phía Bạch.
Hoảng hốt, chàng day một bên. Cô khách hé môi. Trong một thoáng Bạch nín thở. Trông chờ cho nàng hỏi là chàng ló mặt ra để làm quen với người đẹp.
Hỡi ôi! Làn môi xinh xắn và đôi má đồng tiền ấy lại nói qua chuyện khác:
- Hồi nãy, ghé nhà cô X. vui ghê. Lâu lâu tới đây một lần, ai cũng quở sao tôi chưa chồng.
Bà chủ Hiệp Hưng nói:
- Bền gan như chị, giỏi thật. Nhớ hồi nào, mình học chung một trường.
Bạch thở dài, vì cô nọ quá đầy đủ bản lãnh. Nàng đã từng gặp quả tang hàng trăm chàng trai rình trộm như vầy. Nàng biết đè nén sự hãnh diện. Nhờ vậy vẻ đẹp của tuổi xuân muộn càng lộng lẫy, bí mật hơn.
Bạch hơi thất vọng vì người đẹp đã xem chàng như một kẻ nhảm nhí, chẳng có tí gì đáng chú ý hết. Chàng tự an ủi:
- Mình đừng đòi hỏi nhiều. Thôi thì mình rút lui phía sau nhà. Nãy giờ mình đứng nơi sáng sủa mà người đẹp chẳng đoái hoài tới. Yêu được nàng, chuyện xa xôi quá. Nhưng bỏ qua cơ hội hi hữu này, liệu năm bảy năm nữa, còn gặp người khác đẹp như vầy không? Như một thi sĩ thời tiền chiến đã cúi đầu mô tả một người đẹp trong cõi xuân muộn: “Bèo nổi nước trôi, em vẫn trẻ. Cái già như sợ cái hồng nhan”. Hai chữ “cái” tuy thô kệch nhưng được dùng đúng nơi, đúng lúc.
Phía trước, bà chủ Hiệp Hưng đứng dậy đưa tiễn cô khách.
Tan vỡ giấc mộng rồi!
Bạch chạy theo, người đẹp và hai cô gái đã khuất ngoài cổng.
Bà chủ Hiệp Hưng đến bên cạnh:
- Ủa! Thầy làm gì mà ngơ ngẩn vậy?
Như kẻ trộm bị bắt quả tang, Bạch bẽn lẽn:
- Dạ, ai vậy bà?
- Bạn của tôi. Hồi nhỏ, học trường bà xơ ở Sài Gòn chung một lớp.
- Dạ, cổ ở đâu? Chồng của cổ, sao tôi không thấy? Cổ tên gì?
Bà chủ Hiệp Hưng hơi bực mình:
- Cái thầy này, bữa nay sao rắc rối quá.
Bạch yên lặng, trở ra đứng bên bàn “bua rô”. Bà chủ như hối hận vì trót nặng lời với người làm công. Từ hồi lãnh việc đến giờ Bạch tỏ ra siêng năng, tận tụy, chẳng gian lận tiền bạc lần nào cả. Bà cau mày, chợt cười giòn khi bắt gặp lần thứ nhì gương mặt thiểu não của kẻ si tình vặt. Bạch đứng tần ngần mất cả tinh thần, thở nhè nhẹ, im lặng như tiếc nuối chút hương thừa thoang thoảng, mà mái tóc cô khách còn lưu lại.
- À! Tôi quên trả lời. Cô bạn đó tên Thêu, làm giáo viên ở Gò Quao. Cổ vui lắm.
Bạch sáng mắt lên, nói thẳng những ý nghĩ ấp ủ tự nãy giờ. Chẳng lẽ chàng bị đuổi vì chuyện cô giáo Thêu: Bà chủ Hiệp Hưng xưa nay thường tỏ ra độ lượng khi thấy Bạch chọc ghẹo những bạn hàng đến xay lúa.
Chàng nói nhanh:
- Trời! Phải hồi nãy bà chủ giới thiệu với tôi.
- Giới thiệu để làm gì? Tôi đâu dè thầy “tệ” quá vậy. Thầy thiệt là... túi tham không đáy.
Bạch muốn cãi lại. Bản chất của tình yêu là sâu thẳm, không bao giờ có đáy nhưng ngại làm phật ý bà chủ, chàng nín thinh.
Bà chủ nói, an ủi:
- Tôi biết làm sao bây giờ. Cô Thêu khó tánh lắm. Lát nữa cổ trở lại.
Tình yêu khiến con người chủ quan, u mê trong cái thế giới bé bỏng nhưng nó làm cho kẻ si tình vô cùng sáng suốt. Bạch chợt nhớ sở trường của mình, khoa coi chỉ tay. Chàng mở lời:
- Tôi muốn xem chỉ tay cho cô Thêu. Tôi mong bà chủ tạo hoàn cảnh. Được vậy, tôi...
- Thôi đừng nói nữa. Được rồi. Bữa nay tôi mới biết thầy là ma quỷ hiện chân tướng.
Bạch nhận những lời trách mắng thân mật ấy. Chàng hỏi tiếp:
- Dạ, chừng nào cổ trở lại? Lát nữa là chừng nào? Thưa bà.
- Chừng nửa giờ. Thiệt, cái thầy này dở hơi quá.
Nói xong bà chủ vào phòng. Ngoài này Bạch ngồi hút liên tiếp ba bốn điếu thuốc. Hạnh phúc biết bao! Lát nữa, nửa giờ nữa thôi, chàng sẽ có diễm phúc nắm tay người đẹp. Chàng khen lấy mình:
- Quả là một thời gian kỷ lục. Vừa gặp mặt là mình đã hưởng cái vui sướng, thơ mộng như có thi sĩ giãi bày: “Với bàn tay ấy ở trong tay, anh muốn quên đi hận tháng ngày”. Lắm kẻ si tình đa mưu túc trí mà vẫn chưa nắm được bàn tay người mình yêu. Mặc dù đã tốn công theo đuổi tán tỉnh suốt mấy tháng trời ròng rã. Vạn tuế khoa học coi chỉ tay!
Hơn mười năm qua, từ khi ly dị, Thêu vẫn ở vậy nuôi con. Đã nhiều nơi đến dạm hỏi, ngặt nàng chán ghét bọn đàn ông. Dường như bọn đàn ông lớn tuổi chẳng bao giờ nói thật, họ chỉ thành thật khiêm tốn, tỏ vẻ đạo đức trong phút giây nào đó để hòng chiếm đoạt quả tim nàng. Chừng xem kỹ, toàn là kẻ xấu. Nhất là bọn có vợ con đùm đề rồi mà còn đóng kịch “ta đây trẻ trung”, công khai ca ngợi luân lý phong kiến. Thêu nhớ lần nọ nàng gặp vị Đốc phủ sứ tuổi gần lục tuần, chống gậy. Ông ta nhắc lại câu ca dao để bào chữa trường hợp của mình:
- Thú thật với em, anh đã có vợ nhà. Vợ thì mặc vợ anh xử hòa thì thôi.
Cách đây chừng hai tháng. Thêu lại gặp một ông Phán góa vợ chưa con. Ông ta hứa bảo đảm hạnh phúc cho Thêu và lập tờ chúc ngôn để chia sẵn ruộng đất. Thêu chưa dứt khoát nhận lời. Đôi khi soi gương mỉm cười với bóng, nàng chưa dám tin nơi nét “hường nhan” của mình, “người đẹp vẫn thường hay chết yểu”. Nàng chưa chết, còn yêu đời, lúc này chưa yêu thì đợi lúc nào nữa. Đêm đêm nằm lạnh một mình, nàng chợt nhận ra, sống kiêu hãnh với tuổi xuân là khờ dại. Kiêu hãnh trong cô độc có sung sướng gì? Chẳng khác bức tranh tố nữ chết cứng! Người đời ngắm xem bức tranh thiếu máu nóng.
Ban nãy, Thêu đến thăm bà chủ Hiệp Hưng để thăm dò về cuộc chấp nối sắp tới. Bà chủ đáp:
- Tôi còn khổ hơn chị nhiều. Chồng tôi thường đi mua bán phương xa, mỗi tháng về không được một lần. Tôi hứa giúp ý kiến thêm. Chúng ta vẫn xem nhau là bạn thiết như từ hồi còn đi học kia mà!
Thêu trở lại thăm bạn.
Nàng bước vào cửa, theo sau là hai đứa con gái. Bà chủ Hiệp Hưng đón chào, đưa sang phòng khách cho có vẻ trịnh trọng:
- Này chị Thêu, ở đây có người xem chỉ tay hay lắm. Thêu nghĩ ngay: Tại sao không nhờ người đó tiên đoán cuộc tình duyên của ta với ông Phán như thế nào?
Nàng nói khẽ:
- Ờ ai vậy? Coi trúng không?
Vì thương xót kẻ làm công, bà chủ cố tình nói hơi sai sự thực:
- Người em họ của tôi. Nó nghiên cứu dữ lắm. Sách coi chỉ tay nó đọc hàng chục cuốn. Nó ít khi chịu coi cho ai lắm. Bà con vùng này khen nó vì thỉnh thoảng nó nói rất đúng chuyện quá khứ vị lai.
Thêu mừng thầm. Bấy lâu, nàng dang dở tình duyên chỉ vì thời vận chớ đâu vì kém “hường nhan”. Nhiều cô bạn xấu xí, học dở nhưng họ gặp ông chồng giàu sang, sống trong nhung lụa, trở thành “mệnh phụ phu nhân”. Nhiều bà vợ bác sĩ, vợ quan chủ quận kém nhan sắc hơn nàng! Nên gặp ngay ông thầy coi chỉ tay để giải đáp điều đó.
Bà chủ bước ra ngoài phòng, gọi nhanh:
- Mời, ông thầy vô!
Nhưng Bạch đâu rồi? Bà chủ hơi giận: rõ chàng thư ký si tình này là kẻ khôn nhà dại chợ.
Bạch lên tiếng, đôi mắt giả vờ ngơ ngác:
- Dạ.
Vừa gặp Bạch, Thêu đưa bàn tay ra. Bạch hơi đau xót, chàng nghĩ:
- Cô này kiêu hãnh, chẳng thèm chào hỏi hoặc cười duyên với mình. Hai núm đồng tiền trên má cô ta để dành cười với kẻ khác. Mình đã có cách.
Chàng nắm tay Thêu và khéo léo đè mạnh ngón tay cái vào lòng bàn tay nàng. Mấy ngón tay búp măng bỗng co lại vì nhột. Thêu trợn mắt:
- Coi tay này hay tay kia cậu?
Bạch cười thầm. Nàng gọi mình bằng cậu, xem mình như đứa em khờ dại. Được rồi! Mình sẽ trổ tài đem bao nhiêu kinh nghiệm ra để nói, nói thật đúng. Không cần đến sách vở, mình phải “lòe” để nàng xem mình là kẻ đủ tư cách để yêu nàng.
Bạch nói, nghiêm giọng:
- Dạ coi đủ hai tay. Theo sách ra thì nữ hữu. Theo phương pháp Bắc Nam của giáo sư người Đức thì tay trái thuộc về thiên mạng, tay mặt thuộc về nhân định. À! Cô là người nhát, sợ ma.
Thêu giật mình. Thầy xem đúng. Bạch tuôn ra mớ lý luận:
- Người sợ ma thì lòng bàn tay nhạy cảm. Hồi nãy tôi đã thí nghiệm.
Bà chủ Hiệp Hưng cau mày: cái tật ưa nói nhiều của Bạch có thể làm mất lòng người bạn. Nhưng bà chủ quá lo xa. Chàng giả vờ nhìn từng lằn nét trong lòng bàn tay của người đẹp lấy lệ. Người đẹp cúi đầu xuống, chờ phán quyết. Chàng vội ngẩng mặt lên:
- Hồi thuở nhỏ cô thường đau yếu, nhờ phước đức ông bà, cô thoát nạn dễ dàng.
Bà chủ Hiệp Hưng nhắc nhở khéo léo:
- Chừng nào cô Thêu khá giả?
Bạch nói qua nẻo khác để chứng tỏ là thầy coi chỉ tay theo lương tâm nhà nghề, tôn trọng khoa học:
- Xin lỗi cô năm nay bao nhiêu tuổi?
Thêu đáp:
- Ba mươi chín.
- Từ bốn mươi tuổi trở lên cô mới khá được. Cô có tài mà chưa gặp thời. Giờ đây hạnh phúc sắp tới kề.
Thêu nghĩ đến cuộc tình yêu vụng của ông Phán góa vợ. Nàng nhờ “thầy”:
- Cậu xem thử tôi sắp có hạnh phúc gia đình không?
Bàn tay nàng xoay trở trong lòng bàn tay Bạch. Chàng như bay bổng tận cung trăng, nhìn thẳng vào mắt Thêu. Nàng thẹn thùng vì chuyện ông Phán già nhưng chàng thì ngỡ nàng có lẽ bắt đầu yêu...
Chàng nói:
- Hạnh phúc gia đình, rõ rệt quá. Dưới chân ngón trỏ của cô nổi lên chữ thập.
- Chắc không ông?
- Chắc lắm, bảo đảm đúng chín mươi chín phần trăm. Thí dụ như bàn tay tôi. Cái chữ thập đã hiện từ lâu. Tôi đang chờ một thứ hạnh phúc tương tự, cô xem thử.
Thêu trở bàn tay để đóng vai thầy bói. Bạch cảm thấy nóng bừng khi người đẹp sờ vào tay chàng.
- Tay cậu tốt quá. Ờ sẵn dịp tôi hỏi luôn. Cậu nhắm chừng nào tôi có tiền vô?
Bạch nói, không ngần ngại:
- Hiện giờ, đã gần rồi. Người ta yêu cô ngặt cô quên họ đó thôi.
Câu trả lời lạc đề ấy khiến bà chủ Hiệp Hưng sốt ruột. Thầy ký Bạch đang si mê. Nên đánh thức cho chàng ta trở về nhiệm vụ. Ngoài sân, bạn hàng xay lúa tới tấp nập. Họ đứng lóng ngóng chờ nạp tiền cho nhà máy Hiệp Hưng mà chàng thư ký còn coi quẻ.
Bạch nói mơ màng.
- Người ấy yêu cô, cô quên người ấy. Cô thấy mặt người ấy sơ qua, cô không để ý. Người ấy khổ tâm vì cô. Thêu mỉm cười, nghĩ đến cuộc chắp nối với ông Phán. Nụ cười ngọt ngào quá. Bạch thấy người đẹp chánh thức dành riêng nụ cười ấy cho chàng. Không thể kéo dài tình trạng bất lợi ấy, bà chủ Hiệp Hưng liếc nhìn hai đứa con gái của Thêu, hai cô bé ấy như cười như giận.
Bà chủ hạ một câu:
- Cậu Bạch à! Cô Thêu sắp về nhà ông Phán X đó! Nãy giờ cậu đoán đúng quá.
Như bị sét đánh, Bạch buông tay Thêu ra:
- Thiệt vậy hả cô?
Thêu cười bí mật:
- Đời này thiệt cũng như giả, giả cũng như thiệt.
Rồi nàng đứng dậy, cám ơn Bạch. Bà chủ Hiệp Hưng đưa Thêu đến tận ngoài cổng. Hai người nói chuyện rất lâu, vỗ vai nhau, cười từng chập, giọng cười trong trẻo như của hai nữ sinh thuở nào. Bây giờ Bạch mới thấy chua chát. Té ra lúc nãy người đẹp không có cảm giác gì ráo khi đặt bàn tay vào lòng bàn tay chàng! Tình yêu chẳng bao giờ nở được khi bên này rung động nhưng bên kia thì lạnh nhạt. Nàng xem chàng như một tên thầy bói. Cũng giống như nàng đưa bàn chân để cho thợ đóng giày. Thế thôi! Bỗng dưng, Bạch nảy ra ý tưởng:
- Phải dẹp nghề, đốt tất cả sách coi chỉ tay, khoa học ấy giả dối! Trong lòng bàn tay người đẹp, đã có đường trí đạo khá dài chạy xuống phía cườm tay! Đó là dấu hiệu của kẻ rộng lượng, nhiều tình cảm. Căn cứ vào đường chỉ ấy, chàng đánh bạo dò xét tim nàng. Nhưng trật rồi. Nàng quá ác nghiệt.
Bạch đi tới đi lui, mắc cỡ thầm. Ván bài xem chỉ tay này quả là do mình bày để gây khổ cho mình. Chẳng hiểu người nào xưa kia bày ra xem chỉ tay. Vô lý quá. Chàng đã xem lòng bàn tay của nhiều con khỉ. Nó cũng có đủ tâm đạo, trí đạo và chữ thập hình tam giác, con ốc tay, đường du lịch...
Kìa! người đẹp sắp sửa rời cổng. Nàng cười, day lại như cúi đầu - cúi rất khẽ - để chào Bạch. Bạch thở dài. Mơ hồ quá. Vẻ đẹp sắc bén của nàng đã vượt thời gian như bức tranh tố nữ. Nàng tố nữ ban bố đồng đều nụ cười cho tất cả mọi người.
Ý nghĩ lẩm cẩm ấy vẫn chưa đem lại sự bình thản cho Bạch.
Cái máy xay ở bên cạnh chạy ầm lên. Bà chủ Hiệp Hưng nói át tiếng động cơ:
- Thầy lo làm việc đi chớ! Máy chạy rồi. Thủng thẳng rồi tôi định liệu cho. Dường như thầy giận ai điều gì!
Bạch ngoan ngoãn cầm viết. Chàng muốn trả lời với bà chủ một câu nhưng chưa dám thốt ra. Sợ mất sở làm:
- Tức quá! Quả tim tôi là cái máy cũ sét nhưng nó vẫn chạy rầm rầm. Tiếc cho cái máy yêu đương của ai kia còn tốt quá, đủ xăng nhớt mà chết im một chỗ.
Tục lệ ăn trộm
Cuối tháng Chạp năm ấy, Thiệp mặc nhiên trở thành người nghèo túng nhất của làng Đông Yên. Anh trồng ba công dưa hấu, một sáng kiến táo bạo, liều mạng, với số vốn 300 đồng: 50 ngày sau, bán được 3 ngàn đồng. Sau khi trang trải vài món nợ lặt vặt, anh sắm ngay cái nón nỉ rồi ra chợ Rạch Giá để mua cái đồng hồ đeo tay. Rủi thay, trước khi đến tiệm để mua, gặp sòng bài cào, anh tin vào thời vận đang đỏ, ngồi xuống chơi khoảng nửa giờ là... không còn đủ tiền đi tàu đò về quê.
Đến xóm, bẽn lẽn như kẻ trộm, buổi trưa nóng nực, anh ra giữa ruộng, nằm vắt chân chữ ngũ trong căn chòi giữ dưa dạo trước.
Có tiếng kêu réo:
- Anh hùng mạt lộ đang tính chuyện lấp biển vá trời hả?
Thiệp tức giận: Mình đã biết thân phận, lánh mặt bà con cô bác, cớ sao họ chẳng buông tha cho mình. Anh nói to:
- Thằng này què quặt rồi. Không có lấp, không có vá cái quần cái áo gì hết.
- Em cháu bữa nay nói chuyện hơi khó nghe. Bộ thua me rồi gỡ bài cào hả? Bác đây mà Thiệp.
Thiệp sửng sốt, ngồi dậy, vuốt mái tóc cho ra vẻ đứng đắn. Nguy quá rồi, anh vừa phạm tội vô phép với ông hương thân Chỉ. Ông này hiền lành, vui vẻ lắm. Đứa con gái độc nhất của ông lại càng hiền hậu, vui vẻ hơn.
- Nói chuyện đi chợ Rạch Giá cho bác nghe chơi. Ở ngoài đó, đầy đủ hàng hóa. Cam tàu, chà là năm nay bao nhiêu một ký mà chú Kịp đem về đây, “đập” tới bảy cắc rưỡi.
Với cử chỉ thân mật, ông hương đưa gói thuốc rê cho Thiệp:
- Rứt một cục, vấn vài điếu để dành. Đừng buồn. Thua cờ bạc, thế gian sự thường, chẳng có gì xấu hổ hết, nhứt là trường hợp của cháu.
Đôi mắt Thiệp vụt sáng lên. Rõ ràng ông hương thông cảm hoàn cảnh của anh, rất rộng lượng.
Vậy mà hai ngày rày họ cười chê, gặp mặt cháu, họ nói “hoạnh tài bất phú”. Độc hại hơn, họ xầm xì: Thiệp là thằng ăn trộm gặp ăn trộm. Thú thiệt với bác, cháu buồn, chảy nước mắt thầm.
Để an ủi chàng trẻ tuổi dễ thương, tháo vát, siêng năng ấy, ông hương giải thích:
- Cháu là đứa có tài trồng tỉa. Tụi nó không dám trồng, hoặc trồng thất bại, thiếu kinh nghiệm rồi ganh tị với cháu. Cháu là đứa ăn trộm, nhưng là... ăn trộm lộc nước ơn trời. Thật đáng khen ngợi. Nếu suy luận kiểu đó thì bác đây làm ruộng từ đời ông, đời cha lại là hạng ăn trộm chúa, thuộc dòng họ ông Thần Nông, gặp lúc lúa đầy bồ.
Sau vài câu tâm sự, khuyên nhủ, ông hương đưa Thiệp về nhà. Trước sân, cá lóc, cá sặt đã muối phơi nắng, xông mùi nồng nực, ruồi bu từng cụm xanh lè, mặc dù Huệ con gái ông hương ra sức un khói. Huệ mừng rỡ khi thấy Thiệp đến chơi với cha của cô. Mọi khi, anh ta đi thầm lén, phía sau vườn, hoặc đón đường khi cô ra chợ làng mua thức ăn.
Ông hương nói:
- Quạ kìa. Con Huệ này thiệt là vô ý vô tứ. Quạ ham ăn cá...
Thiệp cố binh vực cho người yêu:
- Đàn bà con gái đuổi, quạ đâu sợ. Để lát nữa cháu đem cái giàn thun tới, bắn tỉa vài con, rồi bêu xác tòn teng. Mấy con khác lấy đó... làm gương.
Ông hương cau mày:
- Làm vậy, tội chết. Gần tết, mùa cá, quạ bu lại kiếm cá khô mà ăn cho đã thèm. Cũng là một kiểu ăn trộm gặp ăn trộm.
- Bác nói hơi lạ, cháu chưa hiểu.
- Thì cũng như cháu vậy thôi. Bác tát đìa, ăn trộm cá của trời đất, vì cá chẳng ai nuôi, trời sanh. Rồi quạ rình mò, ăn trộm trở lại. Sẵn đây, bác chỉ bảo điều bất lợi nhân cái ý kiến bắn quạ, lấy xác quạ mà bẹo. Vô ích. Bác làm thử rồi. Quạ bu lại càng nhiều hơn, kêu la nhức đầu nhức óc.
Thiệp hơi ngạc nhiên:
- Tụi nó thương tiếc...
- Đâu phải. Tụi nó giành nhau cái xác con quạ chết để ăn thịt, có lẽ ngon hơn cá khô. Rốt cuộc, con quạ chết còn treo lủng lẳng, quạ sống thì cấu xé, lãnh thương tích.
Vào ngưỡng cửa, Thiệp lại ngạc nhiên khi ông hương đối xử như bực thượng khách:
- Cháu kéo ghế ngồi tự nhiên.
Rồi nhìn ra sân:
- Huệ ơi. Rót hai tách nước. Khách quý tới nhà mình. Cạm bẫy gì đây? Ông hương thân mật, đến mức khó hiểu. Hay là Huệ hơi lớn tuổi, ông muốn gã nhanh cho anh, trong năm nay. Hoặc là ông muốn gây cảm tình, để hỏi vài bí mật về nghề trồng dưa hấu, làm thế nào cho dưa lớn trái, ít tốn tiền mua phân. Anh tưởng tượng lát nữa Huệ sẽ rón rén, bước ra cúi đầu chào, anh đáp lễ, trước sự hiện diện của ông Hương. Nhưng thời khắc trôi qua im lặng, ông hương hơi bực dọc:
- Con nhỏ này kỳ lạ. Hay là mắc cỡ. Huệ đâu rồi?
Từ phía ngoài sân, ông hương hào Ngọc bước vô:
- Con Huệ hả? Nó xuống xuồng của tôi để xách mấy con rùa cha tôi tặng ăn tết cho sống dai như rùa. Mùa này, rùa còn ít.
Biết vai trò của mình bắt đầu lu mờ, Thiệp đứng dậy, qua bộ ván sát vách mà ngồi. Hương hào Ngọc vội nắm tay anh, kéo lại:
- Ngồi chơi cho vui. Bác tới đây đâu phải để đuổi cháu về nhà. Gần tết, mình nói chuyện... tự do, bình đẳng, bác ác với nhau như nhà nước Pháp đã dạy. Nghe đồn rằng cháu... bị ăn trộm hả?
Khổ tâm biết bao nhiêu. Thiệp ghét cay ghét đắng tất cả mọi người ở cái làng nghèo nàn, xa xôi này. Lòng ganh tỵ còn hơn miệng hùm nọc rắn. Tại sao người lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm trường đời mà lại tin vào lời đồn đại ấy? Anh mong ông hương thân giải thích giùm cho ông hương hào rõ.
Nhưng kìa, Huệ bước ra, bưng cái khay, có ba tách nước. Huệ chào từng người khách, đặt tách nước dành cho Thiệp thật xa, ở góc bàn.
Ông hương thân nói:
- Con nhỏ này không khéo lại làm bể tách. Bộ tay của thằng Thiệp dài như tay con vượn thì nó mới với tới.
Huệ bẽn lẽn, chạy nhanh xuống nhà bếp. Bấy giờ, hương hào mới vỗ vai Thiệp:
- Cháu có tài quá, bực nhứt xóm này. Bác biết rồi. Cháu trúng dưa hấu, làm giàu hơn thiên hạ.
Thiệp hứng chí, nói dõng dạc:
- Dạ, suốt năm cháu ở không, đi chơi. Tới tháng Mười, cháu ra sức một đôi tháng, thức luôn ban đêm để thâu huê lợi bằng kẻ khác cày sâu cuốc bẫm lai rai trong một năm. Họ ghen tức.
Hương hào gật đầu, day qua chủ nhà là ông hương thân:
- Hơi đâu mà giận. Theo cổ lệ ông bà, bắt đầu từ ngày này trở về sau, ăn trộm không còn là tội, nhiều khi lại là danh dự.
Một người có quyền lực trong hương chức hội tề lại ngang nhiên xúi giục ăn trộm. Thiệp há miệng, chập sau, hương hào mới chịu giải thích. Tuy sống vào thời buổi văn minh Âu Tây nhưng người Việt Nam còn giữ thói ăn nết ở thời đàng cựu. Thời xưa, hàng năm, đúng ngày 25 tháng Chạp, nhà vua ra lịnh cho tất cả quan lại, từ trên xuống dưới, phải ngưng mọi công việc nước, để ăn chơi suốt một tháng, tới ngày 25 tháng Giêng. Quan phủ, quan huyện phải chùi ấn cho sạch, bỏ trong cái hộp, chờ tháng sau mới xài.
Thiệp thắc mắc:
- Thưa bác, gặp trường hợp sát nhân, cướp của thì sao?
- Thì quan trên tạm thời giữ nó lại. Nếu liệu bề nó không trốn đi đâu xa thì cắt đầu tóc, cạo đầu nó để làm dấu hiệu riêng, đợi tới cuối tháng Giêng sẽ tính. Bởi vậy, những ngày gần cuối năm ăn trộm nổi lên lung tung. Ăn trộm ghe xuồng, lu hũ, ăn trộm nồi thịt kho, cái nồi bánh tét trên bếp sôi sùng sục. Năm hết tết tới, kẻ lỡ vận đâu còn cách nào chạy ra tiền, ai dám cho họ mượn. Họ lợi dụng tình trạng không luật lệ, không ai cai trị để làm “lung”, múa gậy vườn hoang.
Ông hương thôn phục thầm trí nhớ và sự hiểu biết khá rộng của ông hương hào. Ông moi trí óc, đưa ra vài ý kiến, chứng tỏ “ta đây nào kém tri thức”.
- Nước đục thả câu. Ngày đầu năm, người trong xóm tránh gây gổ, kiện tụng. Nếu bắt được thủ phạm, nhiều khi họ bỏ qua, vì lòng nhân đạo. Ăn trộm trong dịp quan trên treo ấn là điều vạn bất đắc dĩ. Mình nên thương họ. Họ là người Việt Nam như mình. Biết đâu ông bà họ xưa kia sống nghề ăn trộm, bây giờ họ báo hiếu ông bà bằng cách đó.
Đến lượt ông hương hào sửng sốt:
- Anh hương thân nói gì? Cái kiểu báo hiếu đó khó coi quá. Nghe nói hồi xưa có “ăn mày lề”, con cháu phải đi ăn mày vài bữa nếu ông bà thời trước sống với nghề đó. Lề là thói quen, lệ cũ, phải noi theo.
- Tôi kể cho anh nghe, chuyện nhãn tiền. Hồi năm tôi làm ruộng sạ ở Mốp Giăng, đến 29 tháng Chạp, làng xóm la ỏm tỏi vì có kẻ trộm đi ngao du từng nhà. Lạ thay tên “đạo chích” ăn cắp sơ sơ vài món kỳ cục, nào chổi cùn, guốc đứt quai, quần rách. Kẻ trộm đó quần áo lành lẽ, túi đầy tiền, mặt mày trắng trẻo, xưng làm chức “cựu cai tổng” ở tỉnh lân cận. Bị thiên hạ mắng chửi, ổng thú thật: “Hồi xưa, ông cố tôi làm nghề ăn trộm, bị nhà vua lưu đày vô Nam, làm lính đồn điền. Bây giờ giàu rồi, nhưng hằng năm tôi muốn ghi ơn cốt nhục sanh thành của tổ tiên bằng cách đi ăn trộm, theo lệ. Bà con tha thứ cho tôi, tôi không rớ tới những món quý giá, tôi là đứa dư ăn mà. Bằng không, bà con cứ chửi rủa thậm tệ, chửi nhiều chừng nào tôi được tiếng hiếu thảo chừng nấy”.
Ai nấy cười vang, Thiệp gãi đầu, nheo mắt, chợt nghĩ đến sáng kiến táo bạo. Mấy ông hội tề này vừa nói rằng suốt một tháng trước sau tết, ăn trộm là vô tội, là hiếu thảo. Nếu vậy mình nên thừa dịp này, ăn trộm một món, món đó quý giá đối với cuộc đời mình còn hơn tiền bạc dịp năm hết tết đến.
Ông hương thân nói:
- Thiệp à, cháu thấy chưa, đi quãng đàng, học sàng khôn, tội tình gì mà nằm chèo queo ngoài chòi giữ dưa. Đừng buồn tủi vì tiếng thị phi “ăn trộm”. Kẻ thất phu chưa hiểu cổ lệ ông bà. Lát nữa, ở đây ăn cơm nghe, có gì ăn nấy. Bây giờ thì... (hương thân nói nhỏ với hương hào) anh em mình đánh cờ tướng vài bàn.
Thiệp cúi đầu, ra sân rồi len lén trở xuống nhà bếp.
Huệ đang lui cui luộc mấy con rùa. Anh đến bên cạnh:
- Em nhớ anh không?
Huệ giựt mình, bước lui:
- Kỳ quá hè. Thiệt là “ba sớn ba sác”. Ổng xuống bây giờ. Cỡ này, ổng hay quạu bất tử lắm. Chờ mai mốt, hẹn chỗ khác, bộ chết sao mà nóng nảy dữ vậy.
Thiệp đắc ý:
- Cỡ này, ba của em “xả cản”. Chờ cuối tháng giêng, ổng mới làm khó dễ thằng con rể này.
- Nói dóc hoài. Đứng dang xa ra, bằng không em chạy lên nhà méc ba bây giờ.
Thiệp mạnh dạn nắm tay Huệ:
- Vô ích. Ổng mê đánh cờ tướng với ông hương hào. Mấy ổng cho phép anh làm nghề ăn trộm, vì gần tết rồi.
- Nói giỡn hoài. Anh giỡn nhây rồi đó.
Thiệp đến sát bên Huệ. Huệ xô anh ra. Anh cười hề hề:
- Ông già có câu truyền lại rằng: Thương thì hót cổ, choàng lưng. Việc ấy xin đừng, phải có mẹ cha. Anh luôn luôn giữ lẽ phải, chớ chưa dám đá động tới “việc ấy”.
Bỗng dưng căn nhà bếp này như có sấm nổ, rung chuyển:
- Việc ấy là việc gì? Nói mau. Đi ra khỏi nhà tao lập tức. Cái thằng Thiệp này. Còn con Huệ nữa, lớn rồi mà không nên nết.
Ông hương thân hươi cây ba-ton, môi run run như sắp tuôn ra loạt sỉ vả thứ nhì. May sao, ông hương hào đã chạy đến, giựt cây ba-ton rồi cười:
- Bớt nóng giận, ông anh ơi. Thằng Thiệp chưa có phạm tội gì hết.
- Nó mang tiếng... ăn trộm. Thiên hạ đàm tiếu, chê bai nó. Tôi tội nghiệp cho nó, dè đâu...
Ông hương hào cười:
- Dè đâu nó tới nhà tôi, dở thói ăn trộm. Nhưng ăn trộm như nó, tội tình gì trong mấy ngày cận tết này, nhứt là... ăn trộm hái hoa tươi.
Chợt thấy thằng Thiệp đang co chân chạy ra sau vườn, ông hương thân nói khẽ:
- Phải dằn mặt nó như vậy mới được. Tôi đâu ghét nó. Mình tiếp tục ván cờ, chờ rượu, chờ mấy con rùa luộc.
Đến nhà trên, hương hào đắc ý:
- Tôi là người khách, cho tôi nói thêm cho đủ lời. Theo ý tôi, bông hoa là món đẹp của tạo hóa ban cho mọi người. Ăn trộm hoa cũng như ăn trộm dưa hấu, lúa gạo, cá tôm của trời đất. Nghề nào cũng có công phu, vinh nhục. Thằng Thiệp đáng được tha tội. Vả lại, chính ông anh là chủ nhà... xúi giục nó bẻ hoa.
- Tôi cho phép nó xuống bếp để ve vãn con Huệ hồi nào? Gia phong ở đâu?
- Ông anh nói đó là cổ lệ ông bà, có kiểu ăn trộm để báo hiếu. Hồi nhỏ, tụi mình cũng ngỗ nghịch như nó. Thói ăn trộm bẻ hoa đã có từ thời thiên địa sơ khai. Mai chiều đây, nếu xuôi chèo mát mái, thằng Thiệp báo hiếu cho cha nó một đứa cháu nội, con Huệ thì báo cho anh một đứa cháu ngoại.
- Thôi nín đi. - Ông hương thân nói gọn.
Ông hương hào chưa chịu buông tha:
- Thằng Thiệp giỏi, dám làm ăn, không như gà què ăn quẩn cối xay. Nhỏ mà khí phách như người lớn. Nếu sợ dư luận, tôi mời chánh lục bộ với xã trưởng làm tờ hôn thú cho tụi nó. Con mộc ở hội tề làng mình còn giữ, theo luật của Tây, đâu cất giấu như hồi đàng cựu. Vui vẻ mà.
Vẹt Lục Bình
Hai Cần vào bếp chụm lửa nấu cơm, chợt nghe giọng quen thuộc của lão Ngượt:
- Ráng chịu cực vài ngày nữa, rồi thì có vợ có con như thiên hạ.
Hai Cần đáp:
- Cháu chán cái cảnh sống một mình, một nhà như vầy. Ngặt vì xứ lạ quê người, tứ cố vô thân, thiên hạ chê cháu nghèo, chẳng ai thèm gả con.
Câu nói của Hai Cần ngụ ý hờn mát. Trước đó vài tháng, người bạn già của lão Ngượt từ rạch Tràm Trốc tới thăm, mua mắm ruốc và ba khía, đem về xứ bán lại. Bạn già ấy tên là Khâm, đi với đứa con quá tuổi cập kê tên là Hiếm. Hai Cần thương mến cô gái miền “gạo trắng nước trong”, khen ngợi nết na của cô Hiếm với lão Ngượt rồi nói e dè:
- Phải chi cô Hiếm xuống đây mỗi tháng vài lần thì vui lắm. Xứ mình nào rừng tràm, nước mặn, muỗi mòng ai cũng chê.
- Được rồi, thủng thẳng, bác lo liệu thử. Bác nói với lão Khâm, họ chưa trả lời ngay được, nhưng thế nào cũng nhắn tin, để bác cháu mình đi Tràm Trốc, thăm nhà đàng gái.
Giờ đây, lão Ngượt muốn dành cho Hai Cần sự ngạc nhiên thích thú. Chờ khi Hai Cần vo gạo xong, lão nói:
- Dừng tay lại. Cháu chịu khó “rinh” cái cà ràng, cái nồi cơm đó xuống xuồng để đi du lịch đường xa.
Hai Cần chưa hiểu:
- Vô rừng ăn ong hả? Mùa này, đâu còn ong mật.
Lão Ngượt vấn điếu thuốc rồi cười:
- Không trúng. Cho cháu nói thêm một lần nữa.
- Hay là bác cháu mình vô rừng đốn củi lậu thuế.
- Càng trật. Hôm nay, bác rủ cháu đi một việc hiên ngang, đầu đội trời, chân đạp đất, đúng theo lễ giáo ông bà truyền lại. Mình tới Tràm Trốc thăm bác Khâm, sẵn dịp ra mắt cô Hiếm. Người ta mời mình. Cháu nên đi một chuyến để biết sự đời.
Quá mừng rỡ. Hai Cần lại lúng túng:
- Đi như vậy, coi kỳ quá. Mua cái gì cho người ta chớ?
- Đi chơi, như là tình cờ. Thôi, mau bưng nồi, cà ràng xuống xuồng.
- Xuồng của ai. Xuồng bác hay xuồng cháu?
Lão Ngượt như suy nghĩ, đắn đo:
- Đi xuồng của cháu tốt hơn, dọc đường khỏi tát nước, từ đây tới Tràm Trốc bảy tám giờ đồng hồ, gay go lắm.
Tuân lịnh, anh bưng cà ràng, nồi, củi xuống xuồng của mình nhưng lão Ngượt lại thay đổi ý kiến:
- Như vầy... đi với chiếc xuồng của bác. Xuồng bác xấu xí mục rồi, mặc kệ nó.
Hai Cần thắc mắc. Phận mình nghèo, ra mắt đàng gái, lần đầu thì nên phô trương, không khéo gia đình cô Hiếm chê anh nghèo chí tử. Chiếc xuồng quá cũ giống như chiếc áo rách dễ gây dư luận không hay cho chòm xóm.
Lão Ngượt trông theo ngọn nước lớn đang chảy hăng rồi quyết định:
- Cháu cưới vợ chớ đâu phải chiếc xuồng cưới vợ. Dọn cà ràng qua xuồng của bác, cho kịp con nước, ăn cơm dọc đường.
Vừa mở sợi dây phía mũi xuồng của lão Ngượt, Hai Cần vừa phân vân: điềm dị đoan, mê tín gì đây? Chắc lão Ngượt chọn chiếc xuồng là mạng Mộc, xuống sông là mạng Thủy, xuất hành đúng giờ Thìn, giờ Tỵ gì đó, nào đại kiết, sát chủ, lung tung khó hiểu quá.
Nước chảy xoáy cuồn cuộn ở đầu doi. Lão nói:
- Bác điều khiển một mình, cháu nấu cơm.
- Dạ để cháu chèo lái, còn trẻ, sức lực dẻo dai mà.
Từ đây tới Tràm Trốc, xa dữ không bác?
- Xa chớ. Muốn thử sức, chèo lái.
Gió thổi mỗi lúc càng mạnh, nước chảy xuôi nhưng gió ngược. Trên sông Cái Lớn, sóng dấy lên, bỏ vòi, bọt trắng xóa, như ngoài biển khơi. Hai Cần hơi thối chí. Từ bé đến giờ, anh quen bơi hoặc chống xuồng nơi lau sậy mịt mùng, cạn nước, hoặc trên bãi bùn giữa ruộng, có con đường làng cong queo. Thỉnh thoảng anh “quá giang” ghe lưới ra Hòn Tre, làm quen với biển và mấy con nhạn. Anh nghĩ thầm:
- Cọp sấu trên rừng, cá mập ngoài biển mình không nao núng, lẽ đâu lại ngán sóng gió ở con sông nhỏ này. Nhưng gió vẫn làm chúa tể cả bầu trời. Mỗi mái chèo có thể đưa chiếc xuồng lướt tới năm bảy thước, nhờ nước xuôi, nhưng sức gió cản lại quá mạnh, mặt nước gồ ghề, đôi khi sóng đập mạnh vào mũi xuồng, nước văng lên ướt mặt mày lão Ngượt. Nhìn lên cây cối bên bờ, Hai Cần thấy rõ là chiếc xuồng như dừng một chỗ.
Lão Ngượt cười:
- Theo cái điệu này, ngàn năm nữa bác cháu mình vẫn chưa tới nơi tới chốn. Cháu ghé vô bờ, ngay gốc bần bên kia sông.
- Cháu đủ sức chèo nữa mà.
- Ậy, ghé giây lát thôi.
Xuồng vừa tới bờ, lão Ngượt xách cây búa nhảy lên bãi, lựa cây bần khá to, đốn nghe “cum, cum” vào gốc. Dưới mắt Hai Cần, dường như lão ta đang làm chuyện ngược đời. Gốc bần bị đốn phía trong bờ, lát sau nghiêng nghiêng rồi đổ xuống, răng rắc, rớt nguyên xác xuống sông.
- Làm gì vậy? Để cháu vớt nó lên. Coi bộ nặng nề, nhánh nhóc lung tung.
- Đừng nóng. Cháu lấy sợi dây ở mũi xuồng buộc vô gốc cây bần này cho thiệt chắc. Nó trôi theo dòng nước rồi nó kéo chiếc xuồng mình đi tới, khỏi chèo cho mệt.
Chiếc xuồng trở mũi ra giữa sông, lão Ngượt ra lịnh:
- Cháu ngồi xuống mà cầm lái, đứng làm gì cho cản gió. Thấy chưa, gặp nước xuôi mà gió ngược thì ta “chạy buồm dưới nước”. Cây bần này trôi, kéo chiếc xuồng, nó là một cánh buồm.
Hai Cần thích chí, khen ngợi sáng kiến của lão Ngượt, nhưng đưa ra lời phê phán:
- Ngộ quá, như có con trâu nước hoặc con sấu, con thuồng luồng lội tới, kéo xuồng. Gốc bần càng to, nhánh nhóc càng nhiều thì xuồng đi càng lẹ. Ngặt xuồng khẳm, phía trước mũi.
- Ừ, lại thường xảy ra nguy hiểm. Rủi “con trâu nước” đụng vô cột hàng đáy, đụng ghe xuồng của người khác thì thiên hạ bồi thường. Mũi xuồng ghịt tới, khó cầm lái cho vững.
Lâu lâu, lão Ngượt quát to:
- Coi chừng đụng. Đừng ai lại gần...
Vài chiếc ghe từ miệt trên chạy buồm phăng phăng, ngược chiều, họ nhìn, chỉ trỏ ngón tay, như thán phục kẻ có sáng kiến lúc nước xuôi gió ngược.
Đến xế, tới vàm rạch Nước Trong, quẹo qua nhánh nhỏ, bên trái. Trên chặng đường này, tình thế đảo ngược lại: gió thổi xuôi nhưng nước chảy ngược. Anh ta hỏi:
- Để cháu ra sức chèo. Nãy giờ, nhờ trời. Bây giờ, nếu chiếc ghe to, có buồm, khỏe biết mấy.
Lão nói:
- Để coi. Bày cách khác, miễn là con rạch đừng quá hẹp. Lời tục thường ví “Một nắm gió bằng ba bó chèo”. Bắt đầu từ đằng kia, cháu lãnh công việc nặng nhọc một chút.
Lão cho xuồng ghé lại bãi, tìm một tàu lá dừa nước khá to, vừa ý:
- Hai Cần. Ngồi trước mũi, dựng tàu lá này lên cao, cho nó bọc gió. Tháo dây, bỏ cây bần cho Hà Bá đi. Nãy giờ nó kềm chiếc xuồng mình, làm mất trớn.
Sáng kiến thứ nhì này đem cho Hai Cần niềm vui mới. Anh ta ngồi xếp bằng ở giữa xuồng, ôm phần gốc của tàu lá, dựng thẳng lên cao. Gió thổi mát mẻ, phía sau lưng, từng luồng mát lạnh, sức cầm giữ của anh có hạn, đôi khi tàu lá đảo qua đảo lại, chiếc xuồng chao đảo, nước tạt vào.
Lão ra lịnh:
- Coi chừng nó nghiêng rồi chìm luôn. Mắt nên nhìn phía chót tàu lá, coi hướng gió.
Chiếc xuồng lướt nhanh chóng hơn khi nãy được kéo với gốc cây bần, cứ phóng tới, mũi xuồng như sôi bọt khi rẽ nước. Mây trắng trôi trên nền trời xanh thẳm. Lão lẩm bẩm:
- Ráng chịu cho quen tay. Nhiều người lanh tay, vừa giữ tàu lá, vừa cầm lái, tùy làn gió mà quơ qua quơ lại như ông tướng phất cờ ra trận.
Khoảng bốn giờ chiều, tới Xẻo Nước, nước ngưng chảy, gió im bặt, lâu lâu, vài luồng hiu hiu. Tàu lá dừa nước chẳng còn vai trò gì cả. Lão hút thuốc, loan tin:
- Giỏi thì nửa giờ thôi, mình tới Tràm Trốc, khỏi ăn cơm dọc đường.
Hai Cần mừng ra mặt, lát nữa, gặp cô Hiếm, hai người chào nhau chắc bẽn lẽn, thẹn thùa. Lão Khâm đang chờ đợi, biết đâu cô Hiếm đang nhổ lông vịt, mời vài bạn gái tới tiếp cơm nước.
- Mình bỏ tàu lá, nghe bác.
- Quăng đi, để làm gì cho nặng chiếc xuồng.
- Hồi nãy gió thổi mạnh, tàu lá này đong đưa, mấy lá nhỏ tua túa ra, như răng cây lược thưa. Người ta hát ví: Gió đẩy đưa, lược thưa uốn éo.
- Cháu nhớ dai quá. Nay mai sanh con đầu lòng, hát câu đó cho con nít nghe, êm tai, nhưng hát như vầy mới đúng: Gió đẩy đưa, đọt dưa uốn éo, không phải lược thưa. Đọt dưa hấu, lúc mới trồng, bò lan ra, ngóng lên trời, gặp gió tết nhè nhẹ. Cảnh đó coi hay lắm. Bây giờ, nghỉ lâu rồi, để bác chèo cho giãn gân cốt. Cháu ngồi dưỡng sức, lát nữa làm công việc khác, khá nặng nhọc.
Trong phút giây, Hai Cần nhớ tới những việc mà chàng rể nào cũng đảm nhận, khi thăm viếng bên vợ, lúc chưa làm lễ cưới. Gặp gì làm nấy. Nào bửa củi, gánh nước, làm cỏ vườn, xay lúa, hoặc gặt hái, tùy mùa. Phía sau lái, lão Ngượt ra sức chèo, rõ ràng là lòng tốt của bực cha chú, đối với một thanh niên đơn chiếc, không họ hàng.
- Chừng bao lâu nữa tới Tràm Trốc? Lo cơm chớ, sợ bác đói bụng. Đủ gạo, củi, nước mắm, mấy con khô lóc và rượu.
- Sách có chữ “nhập giang tùy khúc” tùy doi vịnh, gió nước.
- Hết gió nước xuôi ngược, còn gì mà lo nữa đâu?
- Còn chớ. Trước mặt mình, đằng kia, không còn là con sông trời xanh. Nó thẳng băng. Cái kinh xáng của Tây hồi xưa, dùng xáng múc. Ngặt nghèo lắm. Lát nữa, tới đó coi thử. Ở đây nước lình bình, lớn cũng như ròng.
- Để cháu chèo thay bác.
Lão nhìn mấy giề lục bình khá to, như bèo trong ao tù đọng.
Bởi vì lình bình, nên lục bình mới là báo hại. Thò tay xuống nước, anh nắm giề lục bình, đem lên xuồng. Lão nói:
- Xứ mình, gần biển, gặp nước mặn, lục bình chết, ở đây nước ngọt. Nhiều người kêu nó là sen Nhựt Bổn. Nghe đâu nó tràn qua xứ mình hồi bão lụt năm Thìn, người thì nói Tây đem qua để trồng làm cây cảnh cho đẹp mắt. Lần hồi, nó sanh sôi nảy nở tràn đồng, tràn mương. Trước mặt mình, trên kinh xáng, nó gom lại dày bịt. Nhà ông già Khâm với con Hiếm ở phía trên đó, chẳng xa xôi gì.
Hai Cần đứng dậy, quan sát. Đằng kia, lục bình chận ngang con kinh, bề dài cỡ bảy tám trăm thước, hoặc ngàn thước. Anh ta ước lượng: mỗi giề nặng hơn kí lô, quỳ xuống trước mũi xuồng để lấy thế, mỗi lượt hai bàn tay vẹt (vạch) ra được hai gié, quăng ra gần đó, miễn là trước mũi không gì ngăn cản, chiếc xuồng vượt lên được một thước, đầu đuôi, vẹt chừng một ngàn lần, khom lưng một ngàn lần, đủ sức chịu đựng.
Lão Ngượt hỏi:
- Bày thử mưu kế gì lạ coi. Tới đây, bác hết biết cách... chạy buồm rồi.
Lão Ngượt như chịu thua, ắt là khó. Anh tỏ ra dè dặt:
- Ở xóm mình mùa hạn, kiếm một nhánh không ra, nó tàn lụi hết.
- Xứ này nước ngọt quanh năm, bốn mùa xuân hạ thu đông; nó sống lưu niên. Một giề tách ra hai giề con.
Hai Cần nhạy miệng:
- Ba giề đẻ ra sáu giề.
- Trật rồi, cháu ơi. Đẻ ra cỡ chín giề, phải cộng thêm ba giề mẹ, nghĩa là một ngàn giề, trong nửa tháng, ra mười ngàn giề có dư. Như chuột, như con dòi.
- Nhưng tại sao nó không cuốn ra biển khi nước ròng? Dông dài lắm. Chỗ này kêu là “giáp nước”, do Tây đào kinh xáng gây ra. Nước lớn phía Cần Thơ dồn qua, nước lớn phía Rạch Giá dồn lại. Hai ngọn nước gặp nhau tại đây. Suốt ngày đêm, nước đứng tại chỗ. Xa biển, ngoài biển vừa ròng, thỏm nỏm, chưa rút hết thì đứng lại, rồi nước lớn. Bởi vậy, từ mấy chục năm rồi, nó sanh đẻ tại chỗ, dày bịt, qui tụ nào xác chó, rắn nước, cá tôm. Giống như cái trấp ở U Minh, trên mặt cứng, phía dưới nước lõng bõng, coi như bơi xuồng được, nhưng rốt cuộc là chịu thua, sa lầy.
- Rồi thiên hạ làm sao qua khỏi cái giáp nước này?
- Ghe xuồng thứ lớn thì đi vòng ngả trên, đường xa hơn, nhưng chắc ăn. Còn xuồng nhỏ, họ khiêng lên bờ kinh xáng, đi bộ, hơi nặng vai, tới đầu kia thả xuồng xuống nước, tiếp tục. Thôi, hai bác cháu mình, người mũi, kẻ lái như thiên hạ.
Khó định đoạt quá. Lão Ngượt chịu cực khổ để làm mai mối cho anh. Đường dài vượt chín phần mười rồi, chẳng lẽ phần chót, nỡ lòng nào để lão khiêng vác. Xuồng này, thêm nồi chén, dao, củi lung tung, đâu nhẹ.
Hai người nhìn nhau. Lão lên tiếng trước:
- Cháu tính sao?
Hai Cần hỏi ngược lại:
- Bác thấy sao?
- Bác muốn khiêng lên bờ.
- Bác ngồi sau lái, nghỉ ngơi, cháu ra trước mũi, quỳ gối khom xuống, lấy tay mà vẹt.
Lão Ngượt mỉm cười, bí mật:
- Bác ngồi, thêm nặng. Chi bằng bác đi bộ lại nhà... đàng gái, báo tin trước cho họ yên tâm, gặp cháu, họ khỏi ngỡ ngàng, ban đêm, họ thắp đèn đuốc, vài người gần nhà, qua chơi cho ấm áp.
Hai Cần mừng thầm. Là người mang dòng máu “lên rừng xỉa răng cọp, xuống biển hốt trứng sấu”, anh nhứt quyết trổ tài cho nhà gái biết mặt. Chưa ai dám lập kỳ công ở khu vực giáp nước ác hại này. Cây trên rừng, thiên hạ còn lần hồi đốn sạch, cỏ ở U Minh có thể lần hồi nhổ hết, huống gì mớ lục bình nhẹ cân, lêu bêu không căn cội gì trên mặt nước. Ta nắm chóp từng giề mà quăng bỏ, như con nít đùa giỡn.
Trước khi lên bờ. Lão Ngượt căn dặn:
- Nhà ông Khâm khỏi đám lục bình này, bên kia chừng mười công đất, phía tay trái. Một căn hai chái, trước sân trồng bốn cây dừa lùn. Cả nhà chờ cháu tới ăn cơm chiều, nghe không. Đêm nay có trăng sáng.
Cởi áo ra, Hai Cần tới mũi xuồng, khom lưng, vẹt lục bình, ném từng giề, quăng lên cao và thật xa. Xuồng nhích tới nhanh chóng. Mặt trời còn khá cao. Sức anh còn thừa. Hồi lâu, xuồng đến một phần ba vùng giáp nước. Anh lau mồ hôi trán, bụm hai tay, múc nước uống. Bóng dáng lão Ngượt khuất dần, khuất dần trên bờ kinh, năm sáu chiếc xuồng được vác đường bộ, kẻ mũi người lái, thêm trẻ con phía sau, xách nóp, bưng thúng. Vài người trông xuống kinh, với thái độ ngạc nhiên, bàn tán qua lại. Trước mặt chừng năm chục thước, có chiếc xuồng đang... vẹt lục bình như anh, họ day lại, đưa tay ngoắc, như khích lệ. Hoặc họ chờ anh tới tiếp sức, với mưu mẹo gì đó. Anh khom lưng, cố sức nhưng mỗi lúc dường như mỗi giề lục bình nặng gấp ba, gấp bốn, dính chùm với nhau. Vừa kéo lên một chùm là hàng chục chùm ở chung quanh tràn tới, che kín hẳn mặt nước.
Anh bực tức: Tại sao mình không nhảy xuống, nương vào chiếc xuồng mà kéo. Mặt nước hơi cứng cứng, mềm mềm như mặt đất. Lại thất vọng, bị lún ngang gối, anh vội trèo lên, e chìm lỉm, khó trồi đầu, vẹt lục bình để thở. Nhìn trở lại, mới vượt chừng một phần ba đoạn đường, phía trước, muốn vượt một thước, mệt gấp mười lần.
Lão Ngượt ngồi nhậu với lão Khâm, nói chuyện thời tiết, khá tương đắc. Ở nhà bếp, cô Hiếm nửa mừng nửa lo. Bước qua canh hai rồi, sao chàng trai trẻ chưa tới. Cơm cá trên bếp lạnh tanh, rau sống sắp sửa héo. Lão Khâm khuyên chờ, để lát nữa ăn cơm một lượt cho vui.
Lão Ngượt hỏi:
- Mấy giờ rồi?
Lão Khâm đáp:
- Ai biết, nhắm chừng khoảng 10 giờ. Con nít người lớn trong xóm ngủ hết rồi. Tại sao...
- Chắc nó lạc đường. Tôi dặn kỹ rồi mà: nhà một căn hai chái với bốn cây dừa lùn... Từ đây tới chỗ giáp nước chẳng xa gì. Mình đốt đuốc, đi trở lại kiếm thử, hay là...
Vừa ra tới hàng rào trước sân, lão Ngượt trố mắt, nhận ra một bóng dáng đứng lóm thóm bên cây dừa:
- Ủa, Hai Cần tới hồi nào. Sao chưa chịu vô. Chờ nãy giờ... gần chết. Tới đây bằng cách nào?
Vào nhà, chắp tay chào hỏi, anh thấy mệt lả người, chẳng còn che giấu gì nữa:
- Dạ thưa hai bác, cháu bỏ chiếc xuồng trong đám lục bình rồi lên bờ đi bộ. Một mình, vác xuồng không nổi. Sợ hai bác chờ đợi thành ra cháu mang tiếng thất lễ.
Cô Hiếm dọn cơm ra. Chưa chi Hai Cần cúi đầu ăn lua láo, quá đói. Lão Ngượt nói lai rai:
- Thôi đừng buồn. Vậy là giỏi. Năm xưa, nhớ coi, ông Lơ Pheo khẩn đất gần đây đâm đơn kiện hãng Xáng, con kinh ác hại gây ra cái giáp nước, nước ngọt vô ruộng, làm ăn khá, nhưng tá điền khó đem lúa đong cho ông.
Lão Khâm nói xen vào:
- Nói chi cho xa, mới đây hai năm thôi, nghe đồn võ sĩ vô địch là Sáu Cường từ Trà Vinh tới, thử chạy như bay qua chỗ lục bình, bị sụp, tưởng chết luôn, hồi lâu mới trồi đầu lên để thở.
Ăn xong hai chén, Hai Cần đã tỉnh táo, vuốt mái tóc:
- Cháu xin hỏi, lục bình nhiều quá, tại sao mình chưa xài nó vô việc này việc nọ, thưa bác.
Lão Khâm mừng rỡ, vì chàng rể tương lai rõ ràng chí thú làm ăn, muốn khai thác kinh tế, bất cứ nơi nào. Ông đáp:
- Có ông bác vật tới giáp nước, đem vài giề lục bình về chợ Cần Thơ thử làm giấy hút thuốc. Ổng đi mất dạng luôn, nhờ vậy mà Nhà nước chưa cấm... ăn cắp lục bình. Lại có ông “đốc tưa” khuyên dân xứ này ăn thử lục bình, hái đọt, luộc chấm mắm, vì đầy đủ chất tươi. Có thầy nọ rỉ tai với dân: Đừng nghe dại, lục bình độc lắm, ăn nhiều bị... mục xương, thà rằng ăn bông súng, cỏ lá hẹ, rau dừa. Thêm một điền chủ ở Xà No muốn lập trại nuôi heo, tới đây, đem con heo Ma-ni, heo ăn thử một vài giề, vài ngày sau, kêu la ỏm tỏi, heo đòi ăn... cháo heo.
Hai Cần tự an ủi, dầu cho thất bại trong vụ vẹt lục bình anh đã được “ông già vợ tương lai” và lão Ngượt ca ngợi, xem ngang hàng với chủ hãng Xáng, bác vật, “đốc tưa”, điền chủ. Bỗng dưng, anh thấy lo lắng nghĩ tới chuyện về. Chiếc xuồng nọ giờ này ra sao?
Lão Ngượt nói:
- Cháu ngủ mà dưỡng sức, qua bộ ván bên kia, lát nữa, con Hiếm giăng mùng cho.
- Sáng mai, nhớ kêu thức sớm, cháu trở lại, kiếm thử chiếc xuồng của bác.
- Thôi bỏ luôn đi. Ai tới đó mà lấy, lấy rồi làm sao đem chiếc xuồng ra khỏi vòng vây. Hồi ra đi, bác đoán trước cái tánh hăng hái của cháu. Nó hư rồi, đem về mất công. Sáng mai mình mượn chiếc xuồng của bác Khâm mà về. Bác Khâm hứa tới xóm mình một lần nữa và cháu còn trở lại đây một lần nữa cho xong xuôi...
Lão Khâm nói khẽ:
- Mai mốt, nên nhà nên cửa, còn khó bằng mười lần cái vụ qua chỗ giáp nước này. Rốt cuộc qua được nhưng... nhập giang tùy khúc, chuyện vợ chồng tát biển Đông cũng cạn là vậy đó cháu.
Vọc nước giỡn trăng
Điệu mới đến ngọn rạch này từ sau ngày rày. Anh chưa có nghề gì sanh sống, không ai quen thuộc để dạy bảo những bước đầu tiên trên đường đời. Cha mẹ anh nghe đâu mất sớm. Ông Năm Lượng nghĩ vậy mà thương, gọi về ở chung nhà, cho ngủ trên cái vạc tre, phía trước.
Gặp những công việc lặt vặt như nấu cơm, rửa chén, bửa củi thì anh khỏi mó tay vì đã có cô Hậu - con gái ông Năm Lượng đảm đương giùm.
Tháng Giêng, buổi chiều thật là êm ả, nếu quên đi chuyện muỗi mòng. Mùi lúa chín từ đồng khơi đưa về nồng ấm. Nước giựt xuống thấp, cây rừng bày gốc rễ trông cao lớn hơn mọi lần. Mớ lá khô nằm đó, vàng sẫm như lót đường cho chim cò, rùa rắn. Ngọn rau muống từ giã bờ rạch, bò lên mé rừng, dây ốm tong teo nhưng dẻo dai, lá nhỏ cuốn tròn bên mấy chùm bông tím đang rũ xuống, kết trái, thứ trái nhỏ tròn như cái nút áo. Bươm bướm bay tung tăng, đậu trên đó. Rồi bươm bướm lại bay, màu cánh vàng chan hòa trong nắng hoàng hôn. Lát nữa, khi đêm về tràn ngập, bươm bướm sẽ về đâu? Bươm bướm có ngủ không? Hay là cứ bay như vậy mãi? Điệu bâng khuâng, tự hỏi.
Ông Năm Lượng cất tiếng:
- Sao ngồi đây cú rũ hoài vậy cháu? Tháng tốt mà! Nói chuyện này chuyện nọ cho vui. Suy nghĩ gì đó?
Điệu trả lời:
- Dạ, ở không hoài sinh buồn bực, phải có công chuyện gì làm ăn như thiên hạ thì mới vui.
Ông Năm Lượng thấy cậu trai nọ là người tốt.
“Ở không hoài sanh buồn bực. - Phải có công chuyện làm ăn như thiên hạ thì mới vui”. Thánh hiền ngày xưa dạy “nhàn cư vi bất thiện”, gẫm lại cũng chẳng hay ho gì hơn câu nói nôm na ấy.
- Thằng này coi bộ được.
Ông Năm nghĩ như vậy, khoái chí:
- Cháu siêng năng lắm. Bác khen cháu. Ngặt xứ này làm lúa muộn. Ngoài đồng lúa chín vàng mơ, trong nhà mờ con mắt là cảnh này đó. Cứ ở không mà chờ. Chịu túng thiếu.
Điệu trả lời:
- Cháu muốn làm nghề gì cho hợp với xứ này. Nhờ bác chỉ dạy giùm.
- Xứ này có cả trăm nghề: đốn củi, bắt rùa, bắt rắn, ăn ong, gặt lúa. Nghề gì cũng học tại trận mới nên; ngồi nói tầm phào đâu được. Biết nghề gì bây giờ? Nằm một chỗ, tháng Giêng, bác dạy cháu một nghề này hay lắm. Cái nghề hát huê tình!
Điệu nửa mừng nửa lo. Mừng vì anh được dịp tiêu khiển. Lo vì khó bề ăn nói. Trong nhà, còn có cô Hậu, con gái ông Năm, chưa chồng cũng như anh chưa vợ. Hát huê tình, mắc cỡ miệng quá, sợ bị hiểu lầm.
Anh hỏi:
- Hát huê tình dễ không bác. Đó là một nghề sao? Lạ quá.
- Gì mà lạ. Học ăn, học nói, học gói, học mở. Ăn nói là điều trời phú cho, ai cũng nói ra tiếng, vậy mà còn phải học, hà huống chuyện hát huê tình đối đáp. Tóm lại, nó như nghề hát bội. Mà có lẽ nó khó hơn vì không có sách, không có bổn tuồng.
Điệu tò mò, đi sâu vào vấn đề:
- Sao vậy bác? Mình đâu cần múa men tay chân, hoặc hát theo nhịp kèn nhịp trống.
- Chưa ắt. Làm sao học thuộc lòng như hát bội được? Người hát huê tình không theo bài bản nhất định. Lúc lom khom gặt lúa, mình làm cho thiên hạ hiểu rằng mình đang chèo ghe hoặc ở lầu cao gác tía hay là hóa phép như Tề Thiên Đại Thánh.
- Khó như vậy, làm sao cháu học được?
- Đừng ngại. Phàm người Việt Nam ai cũng có tài về môn đó. Mới lọt lòng ra đã nghe hò hát rồi.
Điệu nói:
- Đó là hát đưa em.
- Hát đưa em với hát huê tình không khác nhau. Đưa em ở trong nhà. Hò hát ở ngoài đồng ruộng. Nhưng guồn gốc của nó là ở ngoài đồng. Tỷ như người thất tình nọ than thở với mớ dây rau muống ngoài đồng.
Chờ em cho mãn kiếp chờ.
Chờ cho rau muống vượt lên bờ trổ bông.
Câu đó được đưa vô nhà để đưa em ngủ. Nhưng người ta đem nó trở ra đồng ruộng để... hát huê tình. Có người trả lời:
Rau muống trổ bông, lên bờ nó trổ.
Ai biểu anh chờ, anh kể công ơn!
Rồi thì nó trở vô nhà, dùng để đưa em, từ một câu sanh ra hai câu.
Chợt thâu nhận một bài học ngồ ngộ. Điệu cười tươi. Ông Năm Lượng cao hứng vì gặp người biết nghe, chịu nghe.
- Nè! Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi.
Kẻo giông gió đến, rồi bờ bụi tối tăm...
Bên gái trả lời:
- Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể.
Cưới vợ có chửa về, thổi lửa queo râu.
Rốt cuộc, mấy câu hát huê tình trở thành câu hát đưa em. Câu hát đưa em trở thành câu hát huê tình. Nhà lạc nghiệp, tha hồ bỏ ngỏ, trăng gió ra vào không có trăng gió nào là của riêng ai. Cháu thấy rõ chưa? Nhờ hát huê tình mà lòng dạ con người thơ thới, khỏe khoắn. Ngồi trong chòi chớ mà đầu óc bao trùm trời đất. Đứng giữa trời đất đầy nắng mưa giông tố mà thấy ấm áp như trong chòi hẹp.
Điệu muốn học sớm chừng nào hay chừng ấy để kịp thi thố tài năng, vào cuối tháng Giêng.
- Tập tành bao lâu là xong, thưa bác?
- Học mau lắm. Như đứa con nít mới đẻ nhờ bà mụ dộng đầu xuống đất, đánh một cái bốp thì là nó khóc ré lên. Đó là nói sơ qua chớ nói kỹ lưỡng thì không cùng. Cái chuyện thở của con người, tới ngày nay mấy ông thầy thuốc cũng chưa rành nữa kia. Bằng cớ là còn lắm thứ bịnh ho mà thuốc bổ phế, dưỡng lao trị không xuể. Chờ lát nữa, con Hậu rảnh tay, dạy cho cháu mấy lối hát huê tình. Nó hát khá lắm đó...
Cô Hậu dẫn giải rằng hát huê tình gồm ba loại. Loại thứ nhất là “truyện”, dùng sự tích trong truyện Tàu để so sánh với tình cảm người đời nay.
Kế là loại “văn”, dùng cách ngôn thánh hiền, trích trong sách Minh Tâm Bửu Giám.
Thông thường hơn hết - và khó hơn hết - là loại “mép” tức là nói mép, chuyện con chó, con gà, bụi chuối, trận mưa...
Cô đưa ra vài thí dụ:
Bên trai hát:
Văng vẳng bên tai, tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?
Anh đây là chàng Lữ Bố kết nguyền thuở xưa.
Bên gái đáp:
Thiện xử ngã, chẳng qua duyên gió. Lòng tương tư nhớ đến bạn vàng. Thôi thôi, anh đừng có nói lôi thôi. Từ đây, tôi với đó kẻ một nơi, người một nhà...
Hoặc bên trai mở lời:
Phòng loan trải chiếu rộng thinh.
Anh lăn đụng gối, tưởng bạn mình, anh hun.
Bên gái trả lời:
Phải chi em được ở chung.
Thì đâu có ra nông nỗi anh phải hun gối gòn.
Điệu giựt mình, bẽn lẽn, không dè cô Hậu ngỗ nghịch bạo ăn nói đến nước đó. Anh liếc ra sau nhà, trông chừng ông Năm Lượng. Ông ngồi chẻ củi, lại nói lớn:
- Con nhỏ này kỳ cục. Đã dạy thì phải dạy kỹ lưỡng, cho hết lời. Tại sao ngập ngừng?
Cô Hậu thưa:
- Con sợ dạy chưa đúng, nghe kỳ quá.
Ông Năm nói ôn tồn:
- Không kỳ gì hết. Thằng Điệu mới học, con nên dạy nó hát mép như câu hồi nãy. Đừng đem tích Lữ Bố, Điêu Thuyền ra làm chi cho cầu kỳ. Dùng tích xưa, khó mà đúng, lắm khi nghe nhức xương nhức cốt. Ghét nhứt là mấy người hát chạy tới chạy lui: Tiết Nhơn Quí thành ra Tiết Ung Quí, Võ Văn Thành Đô thành ra Võ Văn Ùng Đô! Cứ lựa mấy câu hát mép mà “môi” ra thêm, hoặc “bẻ” cho đúng với tình cảnh. Đó mới là cái hay cái dở của nghề.
Cô Hậu mũi phập phồng. Điệu ngồi bên người đẹp thẹn chưa dám nhìn tự nhiên vào đôi mắt cô. Mấy tiếng “ở chung”, “hun gối gòn” còn văng vẳng, ngọt ngào bên tai.
Như hiểu tâm trạng của chàng trai, cô Hậu tìm những câu hát ít sỗ sàng hơn:
- Anh à! Hát huê tình cần nhất là tùy cơ ứng biến lanh trí, sắp sẵn trong bụng nhiều chữ bắt vần với nhau. Như nàng, gươm vàng, phụng hoàng, viễn tẩu khá nan tàng...
- Chi vậy cô?
- Để khi bí lối, mình hát rao lên vài phút. Miệng mình hát láp dáp câu này để cho đầu óc rảnh rang tìm ra câu kia:
- Tin ve chai năm nay sụt giá. Tôi bán không khá. Tôi trở về Rạch Giá chở một chuyến khoai lang. Tôi xuống chợ Trà Bang... để tìm con bạn ngọc, tôi thở than đôi lời. Phải chi tôi đặng lên trời. Hỏi thăm duyên nợ đời đời về đâu?
Điệu hỏi bối rối:
- Cô bắt nhiều vần lung tung, làm sao tôi nhớ kịp?
Cô Hậu mỉm cười:
- Chỉ cần nhớ hai câu chót mà thôi. Khúc đầu: khoai lang, Trà Bang... không quan trọng. Nói mà nghe chớ tiếng nào mà không quan trọng. Mấy câu đầu giống như tranh sơn thủy. Câu chót là tình ý của riêng mình. Giống như con chim đậu trên nhánh cây. Nhánh cây tốt, có trổ bông thì con chim càng đẹp.
- Còn “môi” là làm sao?
- Là như vậy đó!
- Như vậy đó là làm sao chớ?
- Để tôi nói rõ cho anh nghe thêm... Câu hát này cộc lốc quá:
Chim kêu nhiều tiếng lạ lùng. Kêu cho quân tử nghe cùng, phải duyên thì đẹp, phải lòng thì ưng...
Người hát phái “môi” nó trở lại, cho lảnh lót như tiếng chim kêu:
Con chim (nho nhỏ, mỏ đỏ xanh lông, đỏ mồng xanh kiếng, nó) kêu (xao xuyến) nhiều tiếng lạ lùng. Kêu (sao? Kêu lại) cho quân tử nghe cùng. Phải duyên, quân tử kết: phải lòng quân tử ưng...
Điệu nói:
- Tôi hiểu rồi. Đó là “môi”. Còn “bẻ” câu hả! Nghĩa là sao?
- Là sửa lại mấy câu hát cũ, sẵn có. Thí dụ như ở Sài Gòn người ta khoe khoang:
Xứ đâu thị tứ bằng xứ Sài Gòn.
Dưới sông tàu chạy, trên đường ngựa đua.
Thì ở miệt rừng U Minh, mình bẻ lại là:
U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường.
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.
Như đắc ý, cô Hậu bèn hát khe khẽ một câu quá dài:
Anh thấy em bịnh chắc, anh chạy lại ông thầy thuốc bắc, anh hốt một thang thuốc về sắc hai chén còn lại bảy phân. Tay bưng chén thuốc, anh vuốt ngực chung tình. Chung tình ơi! Chén thuốc kia nóng mà có khi còn nguội, huống chi hai đứa mình giận nhau.
Điệu há miệng ngạc nhiên. Cô Hậu vội nói tiếp:
- Còn nữa. Câu hát buồn bã ấy có thể trở thành khôi hài, vô cùng tận như sau:
Em thấy anh tương tư bịnh chắc, em rước ông thầy thuốc bắc, em sắc hai chục chén còn lại một phân. Bỏ thêm một lát gừng sống, một đống gừng lùi, một nùi chuối hột, một hộp đơn qui, một ky trái táo, năm sáu chục trái cà na, thần sa một lượng, khoai sượng một chục, măng cụt một trăm, rau răm một đám, cám một bao, con gái rao rao mười hai đứa, sứa lửa vài trăm...
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm...
Uống ba thang mà anh không mạnh thì em đào hầm chôn luôn!
Nghe qua Điệu cười như nắc nẻ. Ông Năm Lượng và cô Hậu cũng cười theo.
Điệu nói:
- Câu hát đó “bẻ” thiệt hay mà “môi” thêm cũng tài!
Ông Năm Lượng thích chí:
- Vậy là cháu hiểu cách hát huê tình rồi đó. Vô nghề đi. Dễ lắm. Nhưng thủng thỉnh rồi cháu thấy nó khó vô cùng tận. Còn nhiều câu “ế tử” không ai đáp nổi. Phải là tay đầy đủ khí phách mới mong qua khỏi cơn gió độc hiểm nghèo. Ờ. Câu gì năm ngoái đó Hậu?
Cô Hậu ngập ngừng, cười rồi cúi mặt:
- Dạ cái câu: Lỡ chân em té xuống bùn. Áo quần lem lấm, anh hun chỗ nào?
Ông Năm Lượng hỏi:
- Đâu! Thằng Điệu mày trả lời thử coi. Nghe qua mà phát nóng lạnh. Chẳng lẽ bọn con trai thua trí một cô gái?
Điệu ấp úng:
- Dạ không biết... mà cháu cũng không dám lên tiếng.
Ông Năm cười giòn:
- Người con gái kiêu hãnh, khinh khi bọn đàn ông. Đàn ông nên tỏ ra rộng lượng khoan hồng cho cô gái ngán. Mình gỡ lại như vầy: Cô ơi! Đừng nói thấp cao, thân cô lem lấm chỗ nào tôi cũng hun!
Điệu buộc miệng:
- Hay quá. Nhưng mà ghê quá!
- Cái gì mà ghê? Hát huê tình phải vậy đó cháu. Ở ngoài ruộng, trời mây bao la gió thổi mạnh, trong sạch lắm. Người ta xúm nhau thách đố, cười thật lớn, châm chọc thật đau, cho qua cơn mệt nhọc. Để rồi quên tất cả. Như diễn tuồng hát bội: người trẻ đóng tuồng làm cha của người già tuổi hơn. Huê tình là chuyện ngàn xưa ai ai cũng có, cũng ưa. Nó như ao bùn có bông sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Chỉ ngại là: khi về nhà, ngồi một mình trong phòng the cửa kín mà nghĩ chuyện xằng bậy. Để bác nhớ thử. Dường như ông vua Thành Thái đã răn phạt một bà cung phi chỉ vì bà ta vô ý hoặc cố tình hát câu này “ngồi buồn vọc nước giỡn trăng... Nước xao trăng dợn biết rằng về đâu?” Hai đứa bây hiểu chưa, thằng Điệu con Hậu?
Đôi trai tơ gái lứa nghiêm mặt, lẳng lặng nghe ông Năm Lượng nói tiếp:
- Vua Thành Thái có lý lắm. Bà cung phi có ý mơ ước tình ái viển vông với một người khác, phụ bạc nhà vua. Câu đó gồm những chữ tao nhã trong sạch. Nhưng hát không đúng lúc thì nó chứng tỏ người hát mang tâm địa xấu xa. Thanh hay tục là do lòng người chớ nào vì câu hát. Bùn không có tội. Bông sen không có tội. Câu hát huê tình cao siêu lắm. Bởi vậy thiên hạ gìn giữ nó hoài hoài...
Hình bóng cũ
Truyện vừa
Hồi cuối năm 1949, tôi tản cư ra chợ Rạch Giá, ăn nhờ ở đậu tại xóm Sân banh, sát mé biển. Ở tỉnh nhỏ, thật khó kiếm một chân giáo viên tư thục hoặc thơ ký hãng buôn, vì vậy suốt ba bốn tháng trường, tôi cứ nằm nhà mà tập tành việc văn chương, gởi những bài thơ thuộc loại “đồng quê” cho hầu hết các nhựt báo, tuần báo ở Sài Gòn với hy vọng sẽ được các nhân viên tòa soạn lưu ý nâng đỡ. Đôi ba lần tên tôi được nêu trong mục Cánh nhạn bốn phương với kiểu trả lời: “Bạn Hoài Hương: nhận được tác phẩm của bạn. Rất tiếc vì nội dung cưỡng ép, kỹ thuật hơi vụng... nên chúng tôi hy vọng vào những sáng tác về sau. Chúc bạn cố gắng”. Có bạn phụ trách mục Cánh Nhạn, Thư Tín vô tình hay cố ý gọi tôi là cô Hoài Hương và (điều này chắc họ vô tình) đã loan tin nhận được một thiên tiểu thuyết của tôi với nhan đề quá lạ vì chưa bao giờ tôi gởi đến báo ấy thiên tiểu thuyết nào cả. Thế rồi “hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai”, đến bài thơ thứ mười lăm, tôi hân hạnh được giới thiệu trong mục Vườn Hoa. Họ trích đăng vài câu, kèm theo đôi hàng bình luận, liệt nó vào xu hướng “tiến bộ, lành mạnh” - những danh từ quá khái quát mà tôi chưa hiểu rõ nghĩa. Tháng sau, vài bài thơ của tôi được đăng trọn, đóng khung, bên góc lại thêm bức tranh con trâu ăn cỏ, cô gái gặt lúa. Trong làng thơ, tôi tự nhận rằng mình đã bắt đầu có chỗ ngồi. Những bài ấy tôi cắt ra, dán kỹ vào quyển Nhựt ký. Đêm đêm, tôi thao thức, sáng tác thật nhiều, hy vọng đến năm sau sẽ hoàn thành một tập thơ khá dày chứa đựng nhiều đề tài độc đáo, phong phú. Vài người bàn cận đã quở trách:
- Cỡ này sao chú hút thuốc vàng móng tay, đầu tóc rối nuồi, quần áo ít giặt. Coi chừng bịnh đa. Xóm Biển này nhiều âm binh khuấy rối.
Tôi khoe khoang công trình làm thơ của mình, trình bày những kết quả cụ thể đăng trên báo. Ai nấy tỏ thái độ nghi ngờ. Hai chữ Hoài Hương có gì bảo đảm đó là bút hiệu của chính tôi. Tôi quyết trả lời cụ thể cho họ biết. Tuần sau, bài thơ nhan đề “Một trăm thiếu một” in rành rành trên mặt báo “Tiến” trước khi vào bài có hàng chữ xiên: Gởi về các bạn Xóm Biển và dưới bút hiệu Hoài Hương còn ghi chú thêm: 137, lô A Xóm Biển, Châu Thành, Rạch Giá, địa chỉ căn nhà mà tôi đang ăn đùm ở đậu.
Nhờ địa chỉ ấy, người trong xóm nể trọng ra mặt, gọi tôi là thầy Hai thi sĩ. Họ thúc hối tôi gởi thơ đăng báo để họ hưởng lây chút danh dự. Hỡi ôi! Dường như nguồn cảm hứng cạn dần, loại thơ “đồng quê” của tôi quanh đi quẩn lại chỉ nói về “mồ hôi thấm luống cày”, “máu thắm chan hòa mạch đất”, “lúa xanh vươn lên” rồi “lúa vàng vàng, lúa chín giữa ngày mùa thơm ngát”. Hoặc cô lái đò hờn duyên tủi phận, ông lão buông câu bên gốc dừa, dưới ánh trăng thanh. Sáng hôm nọ, tôi viết liên tiếp trên hai mươi câu thơ rồi xé bỏ, lơ đãng nhìn ra khung cửa. Trong ngõ hẹp này, ai hay là cả một bầu trời thơ mộng! Vài ông chủ nhà thiếu công ăn việc làm đang rủ nhau đánh đáo lạc, người thua cuộc phải cõng kẻ thắng trên lưng. Vài người tuổi hơn bốn mươi, có cháu nội, cháu ngoại mà vẫn đam mê vùi đầu vào trò chơi trẻ con ấy một cách hồn nhiên. Bên cạnh họ, trong khi chờ đợi mẹ đi chợ về, lũ trẻ xúm nhau bên đống rác, rình rập bắt từng con ruồi như hồi nào trước khi tản cư, chúng bắt chuồn chuồn, bươm bướm ở miền quê. Vài đứa tinh nghịch hơn, tìm dây nhợ, tìm giấy bìa để tẩn liệm rồi cử hành đám táng của một con chuột sình dưới đường mương. Có tiếng nói thơ Vân Tiên vang ra não nuột từ căn nhà của lão Tư Hiếm. Tôi qua đó. Lão gật đầu chào trước:
- À! Cỡ nào rảnh, thầy dạy cho tôi cách thức làm thi phú.
Tôi đáp:
- Dạ, bác cứ lựa những chữ có hơi lên hơi xuống giống như câu hát đưa em, như thơ Vân Tiên là được.
- Nhưng còn vài điệu ngâm khác ngộ hơn. Ngày xưa, tôi đờn cò, vỗ trống cơm cho họ lên xác ông, xác bà. Lâu lâu nghe vài câu tứ cú, bát cú gì đó. Vui lắm. Hồi đó tôi làm ăn khá, nhà rộng, bàn thờ to lắm, đâu như bây giờ.
Giữa nhà lão, cái thùng thông lơ lửng, mí trên đóng đinh sát vào cây đòn dông sần sùi. Mái nhà quá thấp, chỉ cần đứng trên bộ ván để vói tay lên cắm nhang vào cái lon sữa bò đã sét vì mưa tạt. Tấm giấy hồng đơn dán trên trang có bốn chữ Thái Thượng Lão Quân, nhưng nét mực đã nhòa rồi.
Lão nói tiếp:
- Hồi đó, ở nhà tôi thờ hơn mười nơi: Thái Thượng Lão Quân, Ông Quan Đế, Bà Cữu, Thổ Chủ, Tài Thần, Ông Táo... chưa nói đến ông bà và các bài vị khác của thân chủ. Bây giờ, giảm bớt chỉ còn trang thờ trên kia. Điều quan trọng là mình nên tôn kính; lư nhang tuy thô kệch nhưng mình cần giữ đúng nghĩa: trong cái lon sữa bò, tôi đổ gạo lức để cắm chân nhang cho chắc. Gạo là nền móng...
Nói xong, lão vói tay kéo từ nẹp vách đem ra một cái ống điếu dài, có u có nần - kiểu ống điếu bằng cây ớt hiểm rừng, dài cỡ bảy tấc tây, bóng láng vì xài quá lâu năm. Lúc châm thuốc, lão để một đầu ống điếu chỏi sát mặt ván, lưng lão thẳng, đầu hơi cúi xuống, giống như người hút thuốc lào. Chòm râu bạc, mái tóc bạc, hàng chân mày bạc lẫn lộn khuất lấp trong màn khói thuốc mù mịt. Dáng điệu lão giống như một nho sĩ ngồi dưới cội tùng, trong bức tranh cổ Trung Hoa, nếu lão còn giữ cái búi tóc như hồi bốn tháng trước. Và nếu tấm vách lá đừng quá rách loang lổ như từng cánh cửa sổ khép hờ, để lộ bối cảnh ngoài kia: không là núi nhưng là biển - mặt biển xanh như chàm lấp loáng nắng, Hòn Tre nổi lên như con rùa rút cổ, đôi ba chiếc tàu sắt trắng bạc như vôi, treo cờ tam sắc.
- Mau đi! Vợ tôi về rồi kia! Khòm lưng xuống cho tôi cõng! Anh còn thiếu tôi hai cõng. - Một người nói ngoài sân.
Đối phương của anh ta đáp nhanh:
- Tôi khòm lưng đây. Hai cõng kia, anh cho tôi đình lại. Coi như huề. Hồi chiều hôm qua, anh thua tôi liên tiếp hai bàn cờ tướng, nhớ không?
- Để đó! Đáo lạc tính theo đáo lạc. Cờ tính theo cờ. Tôi đánh cờ tướng quá dở. Nếu gặp cờ gánh hoặc cờ chó, tôi hạ anh sát ván. Tụi mình còn ở không ăn chơi nhiều ngày mà. Mai hãy tính.
Hai người đàn ông giải tán cuộc chơi, chạy ngang cửa. Lão hút điếu thuốc thứ nhì, phun khói rồi thở dài:
- Ngao ngán quá!
Tôi hỏi:
- Ngao ngán nỗi gì? Vài năm nữa, thế nào cũng hết giặc. Nhưng tại sao họ giỡn hoài như vậy hả bác! Rồi họ lấy gì làm tiền mà mua gạo hàng bữa? Hăng hái lên mới được chớ!
- Ở tỉnh nhỏ khó kiếm công việc làm. Lóng trước họ vác lúa cho nhà máy Tư Đài. Bây giờ cặp rằng bảo họ tạm nghỉ, chừng có việc làm hãy hay. Họ mới bắt đầu chơi giỡn từ nửa tháng nay, cam phần giữ nhà để cho vợ đi mua bán tần tảo. Hồi mới nghỉ việc, họ siêng năng bươn bả, tối ngày trông mong kiếm sở làm. Tối về, họ khuyên vợ con nên tiện tặn rút bớt việc chi tiêu.
“Nhưng thầy ơi! Có giỏi cắn hột muối ra làm hai làm ba, hoặc làm tư thì lụi hụi hai ngày hoặc bốn ngày cũng ăn hết hột muối. Tiết kiệm nỗi gì! Rầy rà khuyên răn vợ con làm gì? Điều quan trọng là làm sao tạo thêm năm mười hột muối... Tôi thấy vợ con họ bây giờ giống như mấy bà hồi xưa thắt lưng buộc bụng, gánh gạo đường xa để nuôi mấy ‘ông đồ’ cho dài lưng tốn vải. Thôi! Đèn nhà ai nấy sáng. Thầy làm thơ đăng báo, còn có ngày bay nhảy xa xuôi tới Sài Gòn, Chợ Lớn. Phần tôi thì nói thơ Vân Tiên chờ ngày về xứ như họ. Chán ngán quá!”
- Xin lỗi, quê quán của bác ở đâu?
Ngần ngại lắm tôi mới dám hở môi hỏi ông Tư Hiếm một câu mất lịch sự như vậy. Quân đội viễn chinh Pháp còn đồn trú khá nhiều tại chợ Rạch Giá. Nhiều người từ thôn quê tản cư ra chợ, họ giấu giếm tên tuổi, họ hàng và quê quán vì lý do này hoặc lý do khác.
Ông Tư Hiếm mỉm cười:
- Tôi xin giấy “lách xê” rồi. Tôi ở làng Mỹ Lâm.
- Gần núi Ba Thê?
- Sao thầy biết?
- Tôi thấy trên bản đồ. Hồi xưa đi dạo Hà Tiên, tôi có qua ngang đó. Xứ coi bộ buồn quá. Bùn lầy nê địa...
- Nhưng là xứ lâu đời! Nhà tôi ở xóm Mốp Giăng. Cây mốp mọc giăng ngang xanh um, tứ thời mát mẻ, đào xuống đất là gặp mạch nước ngọt. Hàng cây mốp thiên niên đó chính là bờ biển ngày xưa. Bây giờ cày ruộng lâu lâu người ta gặp tượng Phật bằng đá, hột chuỗi hổ phách, chén đá, lưỡi tầm sét hoặc chiếc ghe biển có chèo, cột buồm, đặc biệt là dây đỏi ghe, sợi lớn hơn cườm tay, mục như bùn nhưng còn thấy từng thớ gai xe lại... Người ta nói hồi ngàn năm trước, xóm tôi vui như chợ Rạch Giá bây giờ: cũng ở sát mé biển, tàu bè tứ xứ ra vào mua bán tấp nập. Rồi gặp thiên tai đại họa gì đó, bãi biển bồi lan ra xa, năm này qua năm khác hơn chục cây số.
Tôi phụ họa vào để kéo dài câu chuyện, chờ buổi cơm trưa:
- Đại khái, xóm Mốp Giăng của bác văn minh hơn chợ Rạch Giá ngày nay. Nó ở sát mé biển. Ngặt vì năm tháng trôi qua...
Ông Tư Hiếm đắc ý, vói lấy ống điếu kê xuống ván nhồi thuốc rồi trở bộ xếp bằng, đánh diêm quẹt:
- Bãi biển hóa ruộng dâu... Chừng vài trăm năm nữa, đất bồi lấp cái eo biển sau lưng mình, nối liền đường bộ ra tới ngoài Hòn Tre kia.
Thật ra, tôi ít tin tưởng vào những dự tưởng như vậy. Hồi cuối thế kỷ thứ XIX, nhiều thuyền trưởng Pháp đã tiên đoán thế nào rồi đây mũi Cà Mau cũng nối liền tới Côn Nôn, Tân Gia Ba, căn cứ vào số lượng đất phù sa do sông Cửu Long tuôn ra biển. Nhưng đến nay, chưa xảy ra điều gì quan trọng về mặt địa lý.
Tôi đáp:
- Cách đây tám mươi năm, ông Nguyễn Trung Trực đổ bộ ngay chỗ xóm mình để đánh đồn Kiên Giang. Từ đó tới giờ, dường như đất chưa bồi ra thêm được mấy thước. Biển vẫn còn là biển, thưa bác.
Lão Tư Hiếm cười khì:
- Nhưng đất vẫn bồi. Xứ mình như vậy đó. Nếu trời đất không bồi thì mình bồi để mà sống. Thầy chưa hay rằng...
Lão tạm ngưng câu nói. Tôi nhìn dáo dác, e rằng lão muốn ám chỉ chuyện “quốc sự”, “vá trời lấp biển” kháng Pháp. Nhưng lão gật gù:
- Xóm Biển của mình đây hồi năm ngoái còn là bãi bùn; cây bần, cây vẹt mọc um tùm. Tuy sát bên chợ nhưng ban đêm vẫn nghe tiếng âm binh kêu rú, Mới hôm qua, một cái xác chết trôi tấp vô, thối om rã xương mà ông Cò chẳng thèm hay biết.
Bỗng nhiên, phía trước nhà tôi, dường như thấp thoáng bóng người trạm đưa thư. Tôi phập phồng, liên tưởng đến số tiền nhuận bút của nhà báo từ Sài Gòn gởi xuống, theo địa chỉ.
Tôi đứng dậy nói vói lại:
- Có ai kiếm tôi kia... À, chắc ông Cò biết chuyện thây ma chết trôi đó chớ, nhưng ổng bỏ qua. Ở bót mé sông, hằng đêm Tây giết người rồi thả xuống.
Lão Tư Hiếm giựt mình:
- Điều đó, tôi nghe dân chài lưới nói lại chớ tôi nào dám đề quyết, vu oan cho Tây... Thôi, thầy về ăn cơm hả? Đừng nhắc tới nhắc lui chuyện đó cho người khác nghe, tội nghiệp tôi. Tôi đâu dám kích bác ai... Nói mà nghe vậy thôi.
Ngồi trong quán cà phê tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ: 11 giờ thiếu 25, rồi mở bốp ra, đem bức thơ đọc lại, vừa vui sướng, vừa hồi hộp:
Kính gởi thi sĩ Hoài Hương,
Hân hạnh được thưởng thức tài nghệ của ông qua những vần thơ điêu luyện trên tuần báo X. Thấy địa chỉ của ông đăng ở cuối bài thơ Một trăm thiếu một, tôi vội vã viết thơ này, hy vọng nó sẽ đến tận tay ông. Mong ông nhín chút thời giờ đến biệt xá của tôi, số 23 đường Mé Sông vào khoảng 11 giờ sáng, trong tuần này càng sớm càng hay vì vợ chồng tôi đang có việc cần ông hợp tác về mặt văn nghệ. Xin ông chớ từ chối.
Ông Bà Henri Nguyễn văn Nhan.
Kim đồng hồ chỉ 11 giờ thiếu 15. Tôi nghĩ thầm: “Mình lên đường là vừa”. Từ quán cà phê đến nhà ông Henri Nguyễn văn Nhan, khoảng đường dài chừng hơn năm trăm thước. Đến đấy quá trễ, e ông bà hiểu lầm cho tôi lập dị hoặc thiếu đứng đắn. Đến quá sớm, biết đâu họ đánh giá tôi quá thấp. Tôi rảo bước, con đường quá quen thuộc, hơn nữa hồi hôm qua tôi đã tìm biết rõ số 23 đường Mé Sông này một lần rồi. Một ngôi biệt thự, xung quanh có sân rộng. Điều đáng chú ý: cách đó chừng bốn căn nhà là tới đồn Pháp, đa số gồm lính Lê dương, canh gác cẩn thận. Ít ai dám đi ngang qua cái đồn Lê dương nổi tiếng hung dữ ấy. Thời buổi loạn lạc, sống chết bất thường. Lính Lê dương đi tới lui, tốp ra chợ, tốp về đồn, mặt mày hầm hừ đỏ khé vì nắng, vì rượu. Tôi yên tâm hơn bao giờ hết, với tấm giấy “lách xê” trong túi và nhứt là với bức thơ của ông bà Henri Nhan, một tài liệu cho phép tôi bén mảng đến gần đồn vì lý do chánh đáng, theo lời mời của một nhân vật tăm tiếng có quốc tịch Pháp.
Tiên đoán những câu hỏi sắp tới của ông bà Henri Nhan, tôi chuẩn bị sẵn những câu trả lời. “Hợp tác về mặt văn nghệ”. Mơ hồ quá, biết đâu ông bà muốn bỏ vốn ra để xuất bản thơ. Hoặc cùng hợp soạn một tuyển tập.
Nhìn kỹ tấm bảng ghi số 23 trước biệt thự, tôi mạnh dạn bấm chuông. Chị ở trong nhà chạy ra:
- Ông kiếm ai?
- Tôi muốn gặp mặt ông bà.
- Ông đi vắng rồi.
- Chị cứ nói có khách đến, chuyện cần.
- Dạ tôi không dám, hay là ông đợi lát nữa.
Tôi nhanh trí, đưa bức thơ hôm nọ và luôn cả phong bì cho chị ở:
- Chị mang vào cho bà. Tôi đứng chờ ngoài này.
Chị ở ngạc nhiên, vừa đi vừa liếc phong thơ đã xé. Chập sau, chị kéo nhẹ cánh cửa sắt:
- Mời ông vô.
Qua một cái sân khá rộng trải đá mịn, tôi đứng ngượng ngùng trước bực tam cấp. Phòng khách vắng hoe.
- Mời ông ngồi. Bà tôi lát nữa ra bây giờ.
Tiếng dép kéo nghe lẹp xẹp, ngày càng gần. Một thiếu phụ nhanh nhẹn khoát màn:
- À! Ông là Hoài Hương.
Tôi đứng dậy cúi đầu chào:
- Thưa phải...
- Ông cứ ngồi.
Ngồi xong, tôi cảm thấy lúng túng lạ thường vì bà chủ nhà vẫn đứng dựa lưng vào vách, bên khung cửa sổ. Tuổi bà trạc ba mươi, vóc dáng cao ráo, hai bàn tay ngón thuôn, móng thoa màu hồng dịu; cườm tay no tròn lộ ra thảnh thơi trong tay áo lụa quá rộng phủ xuống vừa khỏi cùi chỏ. Bà day lại, mỉm cười để lộ hai núm đồng tiền và một cái răng vàng:
- Nhà tôi vừa đi khỏi, chừng nửa giờ nữa mới về. Thôi, chắc ổng mừng lắm, ông đến đây thiệt hợp thời.
Chị ở bưng ra một tách nước trà hơi nguội. Bà nói tiếp:
- Ông cứ uống tự nhiên một mình. Chẳng mấy khi... thi sĩ đến nhà. Một thi sĩ hữu danh.
Tôi cúi mặt, đưa tay vói tách nước.
- À, này ông...
Giựt mình, tôi buông tay xuống. Cũng may tôi chưa nâng tách nước. Bằng không chắc chắn nó sẽ rơi xuống nền gạch bông quá bóng láng.
- Ông uống tự nhiên đi. Tôi đứng đây, luôn thể... chờ nhà tôi về. Tôi muốn nói điều gì bây giờ. À... quê quán của ông ở quận An Biên, nếu tôi không lầm.
Tôi trố mắt ngạc nhiên, phục thầm tài nhận xét của bà Henri:
- Dạ, sao bà biết? Hay là quê của bà...
Bà vội cướp lời tôi:
- Xin lỗi để tôi nói trước. Qua lời thơ của ông, tôi chú ý câu: “Mười con sông nhỏ song song, Chảy về một biển mà không giao đầu”, tôi quả quyết ông là người Miệt Thứ, nơi có mười con rạch nhỏ, từ rạch Thứ Nhứt đến rạch Thứ Mười, giáp rừng Cán Gáo. Với lại “Lòng đất sục sôi, hoa trắng soi mình trong màu đỏ”! Mới nghe qua thì ghê rợn xương máu, nhắc nhở chiến tranh.
Tôi sượng sùng, toan thanh minh trường hợp “tình ngay lý gian” ấy. Nhưng bà Henri lại khéo biện hộ giùm tôi:
- Thật khiêm tốn, hiền lành, cái miền quê An Biên! Ông tả đúng quá. Đất xốp, mưa thấm xuống, cứ đào là gặp mạch nước chảy tuôn. Thứ nước chát, đỏ bầm vì nhuộm màu vỏ tràm, dây choại, dây dớn; bông trắng, màu bông cây tràm.
Bên đồn, lính Lê dương bỗng rộ lên cười hát ỏm tỏi... Tôi liếc qua cửa sổ bên trái: hai họng súng “ô buýt” vừa ló ra cách nhà chừng hai chục thước.
Bà chép miệng:
- Chừng này sao nhà tôi chưa về? Ông quan tư Ca Rê là bạn của nhà tôi. Họ đang uống rượu bên đồn. Ông ráng chờ vài phút. Tới giờ lính ăn cơm rồi. Ông Ca Rê học giỏi lắm, xuất thân trường Thuộc địa, rành về tâm lý các dân tộc Đông Phương, nhứt là Ấn Độ. Ổng thích tìm bạn Việt Nam... để điều tra thêm... Vì vậy, nhà tôi cần gặp một thi sĩ Việt Nam để tiếp tay.
Nỗi lo âu hiện lên. Tôi ngồi im, cố gắng che giấu sự thất vọng. Tâm lý các dân tộc Đông Phương, Ấn Độ, Việt Nam? Những môn mà tôi chưa từng chú ý. Ông bà Henri Nhan quả thật đã gõ lầm cửa khi biên thơ cho tôi. Chẳng khác nào ông bà xúi biểu một ngư ông ở đồng bằng đi săn cọp tận đỉnh Hy Mã Lạp Sơn! Những bức hoành phi cẩn xa cừ, cái lục bình cao hơn tám tấc ở bàn giữa, cái ghế bành lót nệm màu xanh dương, đôi chim hoàng yến treo ngoài cửa cái, không khí mát mẻ trong phòng khách, pho tượng Phật Quan Âm trên bàn thờ riêng biệt, tất cả như mai mỉa sự có mặt của tôi tại đây. Tôi toan đứng dậy, cáo từ bà chủ nhà để trở về gian nhà Xóm Biển rồi nằm trên bộ vạc tre, kê đầu lên chiếc gối bằng cây mốp, tìm nàng thơ đang đi lởn vởn bên cạnh những em bé bắt ruồi, hoặc lão Tư Hiếm với chiếc ống điếu cổ lỗ.
Bà chủ nhà nói nhanh:
- Ý mà quên! Nãy giờ tôi quên mời ông hút thuốc. Thuốc điếu, ống quẹt... ở trong cái hộp cây sơn mài trước mặt ông đó. Ông cứ tự tiện mở ra.
- Dạ tôi... không ghiền thuốc.
- Không ghiền thuốc, làm sao cảm hứng được? Kìa! Nhà tôi về.
Rồi bà đổi giọng, day ra ngoài cửa sổ:
- Ông có mượn giùm tôi mấy cuốn Paris Match đó hả? Nãy giờ, thi sĩ tới chờ đợi ông rã ruột.
Ông Henri Nguyễn văn Nhan bước nhanh vào:
- A! Chào thi sĩ.
Tuổi ông trạc năm mươi, da mặt hồng hào. Tuy mặc bộ quần áo kaki vàng nhưng chân ông mang dép săn-đan với đôi vớ trắng.
Ông bắt tay tôi rồi trao xấp báo cho bà vợ trẻ:
- Bà à, ông Còm-măn-đăn Ca Rê hứa giải quyết gấp cái “áp phe” điền đất của mình ở Mỹ Lâm. Báo thì tôi mượn về mấy tờ đây cho bà.
Bà vợ liếc xem ngay bức hình màu ngoài bìa báo, trả lời vắn ngủn:
- Ổng hứa từ mấy tháng rồi...
- Ậy, lần này tôi nói gắt với ổng. Ổng hứa sẽ thi hành gấp trong tuần này, với điều kiện là tôi giúp ổng tài liệu... Chẳng biết người mình kêu bằng cái gì... cái monographie vùng phụ cận núi Ba Thê, từ khi người Pháp mới sang và những phong tục hồi xưa còn sót lại trong dân chúng.
Day qua tôi, ông tiếp:
- Ông giúp tôi phần ấy được chớ! Viết bằng chữ Việt Nam để tôi căn cứ vào đó dịch ra chữ Pháp. Văn chương của ông được đăng báo. Theo ý kiến của nhà tôi thì ông thuộc vào hàng trên mức trung bình. Nhà cửa, quê quán ông ở đâu? Học lực tới lớp nào? Từ mấy năm nay ông đã làm gì?
Cơn giận lại nổi lên ngấm ngầm. Tay tôi hơi run run. Tôi quên rằng thời chiến tranh mỗi chủ nhân cần điều tra lý lịch của bất cứ người làm công nào, nhứt là trường hợp ngôi nhà của chủ lại ở sát đồn bót. Tôi đứng dậy, nói lập vập:
- Thưa ông, tôi chưa từng soạn thảo những quyển địa phương chí lần nào cả. Viết tổng quát về lịch sử, địa lý, thói ăn nết ở, nguồn lợi kinh tế của một vùng... tưởng việc ấy dành riêng cho những nhà chuyên môn, học cao hơn. Rất tiếc vì tài mọn, tôi khó làm vừa lòng được. Xin...
Mấy tiếng “kiếu từ ông” chưa thốt ra khỏi miệng tôi là ông Henri Nhan đã chận ngay:
- Đừng ngại, chuyện cần gấp lắm. Tôi sẽ chỉ biểu rành mạch đầu đuôi gốc ngọn tất cả công việc; ông cứ noi theo lời tôi mà thi hành. Tôi đã trình bày với ông quan tư Ca Rê: Lịch sử vùng Mỹ Lâm tức là lịch sử của tôi! Tôi ra công khai phá vùng ấy hơn ba chục năm trường, lập đình chùa, làng xóm. Tôi hiểu từng cọng cỏ. Tôi đã gặp nhiều di tích xưa, trước khi người Pháp đến đào xới kho tàng Óc Eo ở núi Ba Thê mà họ cho rằng quan trọng, đánh dấu sự gặp gỡ với Tây Phương từ đời Thượng cổ ở Đông Nam Á. Chung qui công việc mà ông thi sĩ sắp làm chỉ là viết tiểu sử của tôi, theo kiểu tiểu sử các bực danh nhân, công thần trong quốc sử.
Tôi giữ thái độ im lặng mặc dầu tôi biết lão Tư Hiếm có thể giúp tôi nhiều tài liệu về phần đất ở Mỹ Lâm. Nhưng tôi cố tìm lời lẽ để rút lui vĩnh viễn, thề chẳng bao giờ đặt bước trở lại căn nhà khó thở này. Bà Henri Nhan như nóng nảy, nháy mắt, khoát nhẹ bàn tay búp măng, ra dấu hiệu bảo tôi cứ gật đầu.
Tôi đáp:
- Thưa ông, tôi suy nghĩ lại, trả lời sau.
Bà Henri Nhan cười giòn, bước tới vịn vai chồng:
- Dường như thi sĩ đồng ý rồi đó. Thôi bây giờ cũng đã trưa, để ông ấy về nghỉ rồi sáng mai trở lại nhận việc.
Ông Henri Nhan lẩm bẩm, nhìn tôi:
- Được, tôi nhức hai bàn chân quá. Chịu phiền nghe ông bạn. Tối nay tôi thảo kế hoạch để công việc tiến hành gấp rút. Tâm lý người Âu Châu... kỳ lắm.
Ông ta vào phòng.
Tôi đứng dậy, cúi đầu chào bà chủ. Bà đi trước.
- Để tôi mở cổng cho ông về.
Tiễn tôi đến khỏi bực tam cấp, bà nói khẽ:
- Công việc chẳng long trọng, to tát như ổng nói đâu! Cứ nhận lãnh đi, ông đừng quá khiêm tốn. Ban nãy, dường như ông hơi phật ý.
Cơn buồn giận của tôi đã bắt đầu dịu xuống:
- Dạ, tôi đâu dám phiền ai.
- Một hai ổng muốn trở về điền đất cũ ở Mỹ Lâm. Thật là khuấy nước giỡn trăng! Tôi khuyên ổng nên bỏ hết, vợ chồng đi lên Sài Gòn tìm huê lợi khác. Rầu quá. À, ban nãy tôi quên hỏi...
- Thưa bà...
- Ông ở Miệt Thứ, thuộc xóm nào? Chú ruột tôi là ông hội đồng X, chắc ông biết.
- Dạ ông hội đồng là bạn của ông dượng tôi.
Bà Henri tiếp:
- Tôi ít về quê lắm. Đi học Sài Gòn từ nhỏ tới lớn.
Đến cổng rào, bà kéo nhẹ cánh cửa sắt, đứng nép một bên, sờ vào túi:
- Đây, tôi gởi sở phí ông về xe. Ngày mai nhớ trở lại nghe. Chừng một tuần lễ thôi. Về tiền bạc, tôi lo liệu để ông được bề rộng rãi.
Tôi lưỡng lự hồi lâu. Bà mỉm cười, trao tấm giấy một trăm đồng tận tay tôi. Tôi nói bẽn lẽn:
- Cám ơn bà.
Bà từ từ khép cổng rồi nở nụ cười thành thật:
- Nhớ trở lại, dịp may cho ông đó. Đừng buồn điều gì ráo!
Đến chiều hôm ấy, tấm giấy một trăm đã tan manh mún, chỉ còn chừng mươi đồng: năm chục đồng đền ơn cho bà chủ nhà, mười đồng gói thuốc thơm, mười đồng mớ thuốc Gò Vấp. Và tôi xài linh tinh. Giấy trắng, mực, viết chì tôi mua dự trữ sẵn để dành làm thơ. Hơi gió biển thổi mát rười rượi. Tôi hút thuốc, tưởng đến dung nhan quý phái của bà Henri Nhan. Hồi còn ở quê nhà, cha tôi nhiều lần nhắc đến ông hội đồng X. mà bà chủ Nhan bảo là chú ruột. Tôi tin rằng bà không nói dối. Cha tôi thuật lại: Ông hội đồng X. ăn xài sang trọng như Tây, phòng khách của ông trưng bày nhiều thứ lạ, thí dụ như pho tượng cẩm thạch tạc kiểu người đàn bà khỏa thân đang giương cung bắn con nai, hoặc chàng lực sĩ Tây Phương đánh sư tử; ông hội đồng gởi thơ qua tận bên Pháp mua một cái đồng hồ đặc biệt, cứ đúng mười lăm phút một đứa bé bằng đồng bước ra cầm dùi nhỏ, gõ tự động vào cái chuông. Tóm lại, những kỳ quan - so với cách sống của đa số điền chủ quê mùa khác ở vùng U Minh. Ông nhận một đứa cháu gái đem về làm con nuôi. Cô này nghe đâu học ở Sài Gòn, sau khi rời nhà trường về chợ Cần Thơ, kết nhân tình với một ông y khoa bác sĩ trẻ tuổi. Rồi cuộc hôn nhơn bất thành, ông bác sĩ tự tử bằng thuốc ngủ. Phải chăng vì lẽ ấy mà cô ta chẳng muốn nói rõ lý lịch cho tôi nghe? Và cuộc gặp gỡ giữa cô ta với ông Henri Nhan chỉ là do tình thế loạn lạc đưa đẩy?
Tôi qua nhà lão Tư Hiếm. Lão lồm cồm ngồi dậy, quét bộ ván.
- Hồi sáng thầy đi đâu quá sớm?
- Sao bác biết?
- Thì tôi qua mời thầy uống rượu, chẳng gặp ai.
Nghĩ rằng trước sau gì mình cũng cần nói thật với lão, tôi bắt đầu vào chuyện:
- Số là vợ chồng ông chủ Henri Nhan đọc báo thấy mấy bài thơ của tôi, ổng bả hâm mộ tài nghệ, mời tôi tới, nhờ vài việc.
Lão Hiếm sửng sốt:
- À, ông chủ Nhan, đại điền chủ ở Mỹ Lâm phải không?
- Dạ phải.
- Ổng nhờ thầy làm công việc gì?
- Ổng muốn tôi viết lại những sự tích ngày xưa ở Mỹ Lâm, để... in thành sách cho quan Tây đọc chơi. Ổng kể câu chuyện, tôi viết lại cho có đầu có đuôi.
- Thầy nhận lời chưa?
- Chưa dứt khoát. Tôi muốn nhờ những người sống cố cựu ở Mỹ Lâm như bác giúp tôi tài liệu. Nhà bác hồi xưa chắc ở trong điền ổng?
Đôi mắt lão Tư Hiếm mấp máy. Lão gãi đầu rồi vói tay vào vách, tìm cái ống điếu... Sự bối rối hiện rõ rệt quá! Ngón tay của lão cầm que diêm, run run châm đôi ba lần mà vẫn không cháy điếu thuốc. Đóm lửa tắt. Lão đánh cây diêm thứ nhì, cố nín hơn hồi lâu rồi mới kéo thẳng một hơi, nhưng đứt đoạn.
- Ruộng ổng cò bay thẳng kiếng, trên ba ngàn mẫu. Tôi ở đất ổng trên bốn chục năm. Tá điền ổng hồi xưa trên hai trăm gia đình. Bây giờ còn chừng hai chục, phần lớn thất lạc như tôi đây chẳng hạn.
Ngừng một chập, ông nói nhỏ:
- Ổng có hỏi tên tôi không? Bà vợ của ổng hiền lắm. Vợ chấp nối.
Tôi hơi ngạc nhiên:
- Ổng nào biết bác ở Xóm Biển gần nhà tôi.
- May lắm. Giữa tôi với ổng, tôi muốn đừng ai nhắc tới tên ai nữa. Tôi già rồi. Tôi chẳng thiếu nợ ổng đồng bạc nào, hột lúa nào. Tôi chẳng hề ở ác với ổng. Quê xứ tôi buồn lắm. Ai làm ruộng đâu mà góp lúa ruộng? Nhà binh Tây chê xứ tôi, chẳng thèm đóng đồn bót. Mấy “ông” Việt Minh thì ở đâu xa xa. Tận trong núi Ba Thê.
- Hồi nãy bác nói còn chừng hai chục gia đình tại đó.
- Thì họ ở lấy lệ nhưng suốt ngày ra đồng sống bằng nghề khác như hái lá sen, bắt ốc, câu cá, gài bẫy chim chớ đâu làm ruộng như xưa. Để tôi nhớ coi... chắc chắn là mười sáu gia đình, trong đó có gia đình một bà già mù, một gia đình cùi. Nghĩa là còn mười bốn. Với một cái miễu thờ Chúa Ngung, Ma Nương.
- Chúa Ngung, Ma Nương là vị thần gì? Tôi ít nghe nói tới.
- À, điều đó ông chủ Nhan rành hơn tôi, ổng bày ra cái miễu đó. Thôi để thầy ngủ sớm, sáng mai đi làm.
Tôi lững thững ra cửa, hơi buồn vì lão dường như muốn đuổi khách. Lão bước xuống bộ ván, gọi theo giọng nhỏ rí:
- Xin lỗi thầy... tôi muốn...
Vì tôn kính người lớn tuổi, tôi vui vẻ trở lại, lão lẩm bẩm:
- Đối với chủ Nhan, thầy nên cẩn thận trong công việc làm. Nhứt là đừng bao giờ nói có bất cứ người tá điền nào của ổng ở xóm này. Tội nghiệp tôi.
- Bác khỏi lo. Tôi hứa điều đó. Tối mai tôi qua gặp bác. Tôi chỉ muốn làm thơ. Thời buổi giặc giã...
Đêm ấy, tôi lại suy nghĩ liên miên. Thái độ lão Tư Hiếm làm cho tôi ái ngại. Dường như lão quá sợ. lần thứ nhứt lão nài nỉ tôi đừng tiết lộ chuyện lão nói xấu Tây. Phen này, lão hốt hoảng khi nghe đến chuyện ông đại điền chủ Henri Nhan muốn sưu tầm chuyện cổ tích. Nỗi lo sợ đó thật khó hiểu. Trong phút giây, tôi muốn từ khước công việc làm mà ông Henri Nhan sắp giao phó. Nhưng tôi cần tiền, chẳng lẽ tôi bắt buộc ông chủ nhà phải nai lưng đạp xe ba bánh từ tháng này qua tháng kia để nuôi dưỡng một thanh niên tay chân đầy đủ như tôi. Nàng Thơ sống chẳng cần cơm áo, nhưng muốn tao ngộ với nàng, kẻ phàm tục cần sống nhiều năm bằng cơm áo tối thiểu để chờ đợi phút giao cảm, ngàn năm một thuở. Hơn nữa, tôi tin tưởng nơi bản chất hiền hòa và sự ân cần của bà Henri. Khách yêu thơ chẳng lẽ nhẫn tâm giết thi sĩ! Trên con đường tranh danh đoạt lợi, bà ta chẳng cần đạp lên trên xác chết của tôi và xác chết của lão Tư Hiếm mà làm gì.
Mặt trời mọc cao hơn một sào khi tôi giựt mình thức dậy.
Đằng kia lão Tư Hiếm đi tới lui trong ngõ hẻm như ngóng chờ tôi. Thay quần áo xong, tôi hối hả lên đường, sợ trễ mặc dầu hồi sáng hôm qua bà Henri Nhan chưa nói rõ giờ khắc làm việc. Lão Tư Hiếm tằng hắng rồi ho lớn. Tôi đến bên lão để trấn an:
- Tôi hứa chắc mà, bác vững bụng đi. Bác cũng đừng cho chòm xóm biết tôi có công việc làm tại nhà ông ấy. Ngày hôm qua, tôi nói dối chủ nhà rằng tôi mới lãnh chút ít tiền của nhà báo từ Sài Gòn gởi xuống. Chưa chắc ông Henri mướn tôi làm việc lâu ngày đâu! Không chừng lát nữa ông ta đuổi tôi. Sáng nay, tôi như người đi dạo mát để giết thì giờ.
Lão gật đầu, mỉm cười:
- Đâu phải vậy. Thầy gặp cơ hội tiến thân, tôi mừng, cầu chúc thầy gặp may mắn, tiền bạc khá giả chớ! Tôi nào dám ngăn cản thầy.
Lại một sự hiểu lầm nữa. Hết sợ ông cò Tây, lão sợ ông Henri Nhan rồi giờ đây lão sợ đến tôi. Chẳng lẽ đứng lì ở đây để thanh minh một trường hợp chưa rõ rệt? Tôi lại kiếu từ, đi phăng phăng đến đường Mé Sông.
Lần này chị ở nhanh nhẹn mở cổng, dẫn tôi đi thẳng vào dãy hành lang khá rộng nối liền biệt thự xuống nhà bếp.
Bà Henri Nhan ngồi dựa lưng trên chiếc ghế mây, nhìn tôi nhưng tay vẫn nâng tờ báo.
- À, chào ông, ông làm việc tại chỗ này cho mát mẻ. Chị ở châm cà phê đem lên bây giờ. Nè ông, kỳ này báo Paris Match hay quá.
- Dạ, tin tức mới mẻ về chiến sự Việt Nam, thưa bà.
- Tôi ghét giặc giã lắm. Dầu là phim hát bóng nói về giặc giã. Tôi chú ý điều khác vui vẻ hơn... Vợ chồng quận chúa Anh Quốc rủ nhau hưởng tuần trăng mật tận giữa rừng già Nam Phi Châu, nơi loài người chưa đặt chân đến lần nào. Một vị tù trưởng nọ huy động dân bổn xứ xây cất một cái “thum” khá to cheo leo trên ngọn cây. Trong “thum” sắp đặt một cái giường nệm, bàn uống rượu, máy thâu thanh, máy hát và tư bề có giăng lưới mành mành để ngăn cản lũ muỗi sốt rét tsé-tsé... Thổ dân đem vài con ngựa rằn, buộc vào chân cây để làm mồi. Tối đến dưới ánh trăng rằm, vợ chồng quận chúa uống rượu, vặn máy hát nghe hòa âm Beethoven, thỉnh thoảng liếc mắt xuống chân cây ngắm từng cặp sư tử đang gào thét để tranh nhau ăn thịt ngựa rằn. Đêm về khuya, bọn sư tử vẫn còn nằm đó mơ màng. Có lẽ chúng nó say mê âm hưởng nhạc cổ điển hồi thế kỷ mười tám của Beethoven. Phóng viên nhà báo đã săn được những bức ảnh ly kỳ ấy, ghi chú là “Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu”.
Ly cà phê đã mang đến. Bà mời tôi rồi nói tiếp:
- Bà quận chúa năm nay bốn mươi tuổi mà trẻ măng như minh tinh màn bạc. Bà có tật thích ăn nho tươi, thứ nho đen trồng tại Tây Ban Nha. Bà quận chúa cười, lộ hai núm đồng tiền... rõ ràng.
Tôi vừa nghiêng đầu tới phía trước cho gần trang báo hơn, chợt nghe chị ở nói:
- Thưa ông, ông tôi mời ông nói chuyện riêng.
Bị giựt mình vì lối xưng hô bất lợi ấy, tôi nghiêm mặt, nói với chị ở:
- Chị cứ gọi tôi bằng “thầy” cho tiện. Tôi làm công như chị chớ đâu phải làm chủ mà kêu tôi bằng ông.
Bà Henri Nhan thấm ý, cười mủm mỉm:
- Ông thi sĩ ưa thắc mắc quá. Ừ, ông vào trong phòng xem nhà tôi nói gì.
Bấy giờ tôi mới hiểu cái tật mang vớ kinh niên của ông Henri Nhan. Ông ta thú nhận mắc bệnh tê thấp từ hơn mười năm, rồi than phiền thời vận nước nhà, nhân tình thế thái, người Pháp chưa hiểu rõ hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ông cố gắng tranh đấu tới cùng để giữ... “thể diện dân tộc”.
- Ông thi sĩ hãy noi theo khuôn mẫu quyển sách này, đọc kỹ dàn bài. Còn đây, miếng giấy nhỏ tôi ghi chú ngày sanh tháng đẻ, bước đường lập thân tiến thủ của tôi lúc nhỏ. Ông ra ngoài bàn, thảo vài trương, lát nữa trình cho tôi xem.
Thật là mệt trí, khó xử. Suy nghĩ hơn mười phút rồi mà trí óc của tôi ngày càng tối om. Quyển tiểu sử làm mẫu nọ nhan đề “Từ Dũ Hoàng Thái Hậu truyện” của Nguyễn Liên Phong, phụng lược dịch, do nhà F.H. Schneider in từ năm 1913. Bìa sách trình bày lối xưa có hai con rồng chầu; hai câu đối được ấn công sắp từng chữ, từ trên xuống dưới theo kiểu viết liễn:
Cội nền vững chắc, nước Nam Việt trường xuân
Tánh nết hiền lành. Phật Quan Âm tái thế.
Trước khi vào bài, người biên soạn đã sắp xếp một loạt năm sáu bài tựa, viết theo lối biền ngẫu.
Bà Henri nói nhanh:
- Để ông làm việc. Ông nhái theo sách xưa cho êm chuyện. Đừng suy nghĩ nhiều mất công. Cứ viết đại cho vừa lòng ổng. Ông thấy thế nào?
- Dạ, làm sao so sánh công đức của ông nhà với bà Từ Dũ được? Bà Từ Dũ, mẹ của vua Thiệu Trị, đã dạy vua Tự Đức trở thành đấng minh quân. Vả lại, tiểu sử của đàn bà khác với tiểu sử của đàn ông, thời xưa khác với thời nay.
- Ông cứ liệu chừng vậy; theo ý kiến riêng của tôi, đàn ông đàn bà đều như nhau, bất luận xưa hay nay. Đàn bà lần lần giống như đàn ông, đàn ông lại giống như đàn bà về thói ăn nết ở, công danh sự nghiệp. Xã hội ngày một tiến mà. Ông tùy ý.
Nói xong, bà Henri lên phòng khách. Tôi ngồi trơ trẽn một mình, nhìn lơ đãng ra ngoài vòng rào bên kia. Vẫn hai cái họng súng đen ngòm; vài tên lính Lê dương tới lui. Nhưng tiếng ho sù sụ trong phòng nhắc nhở tôi trở lại nhiệm vụ. Chắc chắn ông Henri Nhan đang nóng lòng chờ đợi. Tôi căn cứ vào mớ tài liệu của ông, cúi đầu viết thao thao lấy lệ.
- Xong rồi chớ?
Tôi day lại:
- Thưa ông, chưa xong hẳn. Mới viết tạm vài trang để chờ ông sửa lại.
Ông Henri ngồi xuống chiếc ghế bành bằng mây, châm điếu thuốc:
- Cứ đọc nghe thử.
Tôi lần lượt trình bày:
- Quyển sách sẽ lấy nhan đề “Mỹ Lâm nhân vật: Ông Henri Nguyễn văn Nhan” mở ngoặc: 1897 đến năm... chấm, chấm, chấm... đóng ngoặc lại (1897...) Vì ông vẫn còn sống.
Ông Henri hé nụ cười:
- Đắc co!
- Mở đầu ở trang 5, tôi dẫn hai câu châm ngôn: Muốn là được (Vouloir c’est pouvoir) và “Người đời muôn sự của chung. Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”.
- Hay lắm. Một câu Pháp, một câu Việt Nam. Tây Phương và Đông Phương hòa hợp với nhau. Ông ghi rõ câu trên của Victor Hugo, câu dưới là ca dao thuần túy Việt Nam.
- Phía trước hai câu này, thưa ông, tôi muốn để hai trang trắng dành cho người đề tựa.
- Được quá, danh dự đề tựa ấy tôi xin trao cho quan tư Ca Rê.
- Và đây, phần tiểu sử: Ông Henri Nguyễn văn Nhan sanh vào ngày... tháng... âm lịch Ất Dậu... tính dương lịch nhằm mười sáu Avril năm một ngàn tám trăm chín mươi bảy. Thân phụ của ông là Nguyễn văn Mổ ở làng Đức Mỹ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam vào lập nghiệp ở Bình Dương (Gia Định) kết hôn cùng bà Vương thị X., rồi hạ sanh ông tại Tân Lộc Thôn, nay đường X, Sài Gòn.
Vì cha mẹ đều qua đời quá sớm, năm chín tuổi ông được người cô đem về làm dưỡng tử cho học chữ nho. Năm ông mười hai tuổi cô đến Cần Thơ mua bán, ông vào tiếp tục học trường bổn quốc Cần Thơ đến năm thứ hai ban Trung học...
Bàn tay ông Henri Nhan khoát nhẹ, ra dấu bảo cho tôi ngưng lời. Thật ra trang giấy cũng chẳng còn chữ nào mà đọc; ông lắc đầu, cau có:
- Chưa được! Về quê quán và trường hợp vào đất Gia Định của cha mẹ tôi, ông thi sĩ hãy tự ý tô điểm thêm, rồi nói rõ: vì lý do yêu nước, chống Pháp hồi thế kỷ vừa qua. Người Pháp bây giờ muốn làm bạn và nâng đỡ những người Việt Nam thuộc dòng máu khẳng khái đã dám chống đối họ trong quá khứ... Hơn nữa, lúc đi học, tôi phải tỏ ra thông minh hơn các bạn đồng môn. Và tôi phải bỏ học nửa chừng vì lý do làm quốc sự, cho “ngon” một chút!
Tôi lộ vẻ ngạc nhiên:
- Thưa ông, như vậy e phật ý nhà cầm quyền Pháp. Rủi bề gì ông còn có người che chở; riêng tôi thì mang vạ lây. Ông hồi đó theo gương chí sĩ nào?
- Thi sĩ này ngớ ngẩn quá! Cứ viết rằng tôi chống Pháp hồi năm một ngàn chín trăm hai mươi sáu gì đó theo tài liệu lịch sử cách mạng Việt Nam.. để ông quan tư Ca Rê hãnh diện. Còn bây giờ, đối với quân đội Pháp, sau Đệ nhị Thế chiến...
Có người bấm chuông ngoài cửa. Chị ở mang vào tấm danh thiếp. Ông Henri lập tức đứng dậy, nói vói lại:
- Tôi qua ông quan tư Ca Rê có việc cần. Cái “áp phe” ở điền Mỹ Lâm của tôi sẽ thành công trong vài ngày. Để nhà tôi đến chỉ dạy ông thêm. Nhớ viết gấp lên. Phần thứ nhì của đời tôi mới là quan trọng, quyết định. Nãy giờ, chỉ mới là cái phần giáo đầu tuồng... Ông phải cố gắng, tranh thủ thời giờ.
Từ nhà trên, bà Henri trở xuống mân mê tờ báo Pháp:
- Công việc tiến hành như vậy được chớ! Ông thi sĩ đừng cãi với nhà tôi làm gì. Ban nãy, dường như ông thi sĩ cãi một đôi lần. Nguy lắm. Nhà tôi chẳng bao giờ chịu nhìn nhận rằng mình kém thông minh hơn một kẻ khác. Ông thi sĩ chớ nên nói câu nào đá động tới vấn đề chánh trị, rủi nhà tôi vui miệng rồi tên tuổi của ông lại thấu tai nhà binh Tây. À, trưa rồi, ông cứ về nhà viết tô đậm thêm, khen ngợi... cho ổng xong cái “áp phe”. Tôi nhức đầu lắm.
Gương mặt khổ sở, dằn vặt của lão Tư Hiếm đột nhiên hiện ra. Tôi linh cảm mơ hồ rằng cái “áp phe” này khá rắc rối. Các ông đại điền chủ thường núp oai của nhà binh Pháp để bảo vệ cái tài sản “cò bay thẳng kiếng” của họ. Tuy không sống bằng nghề nông, tôi vẫn cảm thông mơ màng với nguyện vọng “có đất cặm dùi” chánh đáng của nông dân. Biết đâu tôi sẽ tìm thêm nhiều thi tứ mới: những cô thôn nữ tươi vui hơn, những con trâu tơ mập mạp hơn... Nhưng khó hiểu quá! Đứng về quyền lợi thực tế mà xét, nếu tá điền ở Mỹ Lâm đều tản lạc, còn chừng mười lăm gia đình - theo lời lão Tư Hiếm - thì ông Henri Nguyễn văn Nhan vận động với nhà binh Pháp để hưởng huê lợi gì. Thừa lúc bà Henri Nhan lơ đãng, tôi giả vờ hỏi, vô tình:
- Thưa bà, ở Mỹ Lâm bây giờ chắc sung túc lắm?
Bà cười giòn:
- “Khỉ ho cò gáy” chớ sung túc! Còn một cái miễu thờ một pho tượng đá, ông chúa bà chúa gì đó. Ruộng bỏ hoang đâu hồi năm ngoái năm kia. Ông quan tư Ca Rê muốn khảo cứu cái pho tượng đá xưa đó tại chỗ, luôn dịp sưu tầm phong tục dân chúng cũng tại chỗ cho xác thực, khoa học. Nhà tôi muốn nương cơ hội ấy xây dựng thanh thế, nhờ Tây đóng bót... cho tá điền biết mặt! Tôi can ổng hết lời. Thà đi Sài Gòn mua bán xuất nhập cảng gì đó làm giàu mau hơn, ít nguy hiểm hơn... Một đồng bạc Đông Dương ăn tới mười tám quan. Thôi ông về, viết theo ý của nhà tôi, nếu chiều nay trời mưa ông cứ viết tiếp phần sau. Đại khái, rời nhà trường, nhà tôi thấy vùng đất Mỹ Lâm, xóm Mốp Giăng còn âm u hoang dại, đầy chuột, đầy bưng sen, bưng bông súng... vân vân. Ông cứ tự do làm thơ ở phần đó.
Bà đứng dậy, trao cho tôi năm tấm giấy một trăm đồng rồi gọi chị ở mở cổng. Tôi lưỡng lự muốn trả bớt lại hai trăm, nghĩ thầm rằng lãnh tiền càng nhiều, lương tâm càng bức rức. Tôi liên tưởng đến những câu hỏi thăm dò của lão Tư Hiếm khi gặp mặt vào trưa nay. Gương mặt lão chắc chắn trở nên lo âu, bí hiểm với nụ cười gượng gạo, gợn chút gì mỉa mai rõ rệt.
- Ông muốn xem số báo này à? Báo bên Pháp gởi riêng cho ông quan tư. Tôi sẵn sàng cho mượn, ngặt bất tiện cho ông. Người lối xóm, họ dòm ngó. Cái xóm Biển, lô A của ông hẻo lánh quá, từ đây tới đó hơn một ngàn thước mà chẳng bao giờ tôi dám tới, bởi vậy hôm trước tôi phải gởi thơ cho ông theo đường bưu điện. Báo kỳ này hay lạ: “Nhạc Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu”. Lá tử vi của ông bà quận chúa Ăng Lê tốt thật. Không hiểu họ sanh nhằm giờ nào, ngày nào, năm nào, cung nào? Phần tôi, hồi nhỏ đã có lần đem dĩa nhạc Beethoven hát inh ỏi ở Miệt Thứ, ở Mốp Giăng, giữa rừng tràm, muỗi mòng, khỉ, rắn, cá lóc... Tạm gọi là “Nhạc Beethoven ở U Minh, ở Mốp Giăng” được không ông thi sĩ?
... Hăm ba tháng Mười, mưa dại gió may
Ngoài khơi Hòn Tre, chiếc tàu tuần chạy tới lui qua lớp mưa thưa, màu cờ tam tài lu mờ chỉ còn hiện lên một đốm đỏ lợt lạt. Đoàn ghe lưới nằm lúc lắc trên bãi bùn, con mắt sơn trước mũi ghe trông phờ phạc như con mắt cá chết. Sóng đánh từng hàng dài trên mặt biển dâng cao, gợi hình ảnh những luống cày quanh sườn đồi... Trước khi tan vỡ trên bãi bùn, bọt sóng vung ra, rơi lấm tấm trên ngọn mấy cây bần đã bị ngập mất gốc mất cành.
Nhà của lão Tư Hiếm day mặt theo hướng gió xuôi, cửa cái vẫn mở; lão bắc ghế ngồi sát hàng ba, làn khói thuốc tuôn thoăn thoắt vươn mạnh lên bầu trời quá thấp.
Nhà của tôi bên này đâm ngang lưng gió, mưa hắt thỉnh thoảng đưa từng luồng ướt át. Tôi vói tay khép cửa lại. Chắc chắn lão thừa hiểu rằng tôi đã về nhà. Đúng ra, tôi phải đích thân đến gặp lão từ hồi trưa, liền sau khi rời khỏi nhà ông Henri Nhan. Nhưng gặp để nói chuyện gì? Kế hoạch trở về Mỹ Lâm của ông Henri Nhan chưa có gì rõ rệt, quan tư Ca Rê sẽ áp dụng chiến thuật nào? Vào ngày giờ nào? Tất cả thuộc về phạm vi bí mật quân sự. Biết chừng đâu quan tư Ca Rê hứa ẩu để làm vừa lòng một “nhân vật bổn xứ”; lực lượng Lê dương cần được sử dụng ở những trường hợp thiết yếu; “đại sự” hơn. Vả lại, lão Tư Hiếm chẳng còn tài sản nào ở Mỹ Lâm cả. Một mình lão tài nào chống nổi, nếu muốn chống lại.
Trận mưa dai dẳng bên ngoài đem tới cho tôi một duyên cớ để trì huỡn việc gặp mặt lão Tư Hiếm. Lật qua lật lại mấy trang giấy hồi sáng, tôi hút nối đuôi một lượt ba điếu thuốc rồi viết sạch sẽ cho xứng đáng với số tiền nhận trước năm trăm đồng.
“Ông Henri Nguyễn văn Nhan sanh ngày... năm... Thân phụ là cụ Nguyễn văn Mổ, người làng Đức Mỹ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, đậu Cử nhân kỳ thi Ất Mão tại trường Tứ Quảng, sung Cẩm Y Vệ Thị Lang, sau thuyên chuyển vào đất Gia Định nhận chức Vệ úy trong cơ binh của quan Tổng đốc Nguyễn văn Mỗ. Nhơn thành Gia Định thất thủ, ngài Vệ úy treo ấn từ quan, ẩn sĩ qui điền không chịu hợp tác với tân trào, về mở trường dạy học tại Phú Cường, Bình Dương. Dịp này cụ sánh duyên cùng bà Vương Thị... hạ sanh được một đứa con trai duy nhất đặt tên là Nguyễn văn Nhan, tự Nhàn Vân, biệt hiệu Nhật Luân.
Lúc còn nhỏ, ông Nguyễn văn Nhan tỏ ra thông minh dĩnh ngộ hơn người, mới tám tuổi đã thuộc làu Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám. Trong hoàn cảnh mồ côi cha mẹ quá sớm, ông luôn luôn phấn đấu lập thân, tiết kiệm tiền ăn quà để mua sách vở cố theo chương trình sơ học tại tỉnh nhà (Bình Dương). Ông Đốc phủ sứ Trần văn M. bạn đồng môn của ông hồi xưa còn nhớ lại một giai thoại kỳ thú: Phen đó, thầy giáo bày cuộc thi thủ công, đầu đề: chiếc tàu thủy. Các học sinh được dịp trổ tài. Đứa này đóng tàu bằng giấy bồi, dùng keo dán mấy kẽ hở, cắt ống trúc làm ống khói. Đứa kia - con nhà khá giả - được cha dẫn ra tiệm bán sắt tây, bày kiểu cho thợ đóng tàu nhỏ bằng thiếc, trong tàu có bố trí cái nồi “sốt de” tí hon, khi đốt ngọn đèn cầy lên, nước sôi thổi hơi ra đẩy chiếc tàu tiến tới.
Ngày chấm thi, thầy giáo đặt một chậu nước khá rộng giữa sân. Chiếc tàu bằng giấy bồi lần lần chìm vì keo rã. Riêng chiếc tàu chạy bằng hơi nước đáng chú ý hơn hết nhưng các học sinh nhao nhao phản đối vì nó do người lớn tuổi chế tạo. Đến lượt ông Nguyễn văn Nhan trình bày chiếc tàu của mình. Thân tàu chỉ là một khúc cây mốp (gỗ nhẹ) tiện sơ sài. Thầy giáo phê phán: “Nó không chìm, nó được chính tay học sinh tạo nên nhưng nó không xê dịch được”. Tức thì ông Nguyễn văn Nhan móc trong cái lon thiếc đem ra một con tôm còn sống nhăn. Ông cắm cái gai to lớn ở đầu con tôm vào phía sau lái tàu. Ai nấy trố mắt; chiếc tàu vừa thả xuống, tức thời con tôm nọ búng mình... mũi tàu phóng tới rẽ sóng, xắn vào vành cái thau, dội trở lại, chuyển qua hướng khác rồi vẫn xắn tới. Các học sinh vỗ tay, hò reo tán thưởng kiểu “tàu... con tôm”, chạy máy tự động ấy. Thầy giáo phải mệt nhọc lắm mà không kéo các học sinh trở về vòng kỷ luật được. Quan đốc học hoảng hốt chạy tới, thay vì rầy la các học sinh, ông tìm cậu Nguyễn văn Nhan, khen ngợi nức nở: “Trò đây quả thật là ông trạng Lương Thế Vinh tái sanh. Ngày xưa Lương Thế Vinh lúc còn bé đã biết đổ nước xuống lỗ để đem trái bưởi lên. Ngày nay, trò sáng chế ra kiểu tàu... tự động này, tài trí đâu kém?”.
Khi theo học năm thứ ba ban Cao tiểu, ông Nguyễn văn Nhan tuy thường được ghi tên vào bảng danh dự của toàn trường về đạo đức, về năng lực nhưng ông lại tỏ vẻ tư lự, đăm chiêu. Ông bắt đầu làm thơ, gởi đăng các báo ở Sài Gòn với nội dung thán phục các vị anh hùng cứu quốc kim cổ, từ Đông sang Tây: Gởi chiến sĩ mười bốn Juillet phá ngục Bách Ti, Vịnh ông Tôn Văn, Tâm sự Thủ khoa Huân... Nhơn phong trào lạc quyên ủng hộ các học sinh Đông Du do quan phủ Gilbert Trần Chánh Chiếu đề xướng, ông Nguyễn văn Nhan đã nhịn ăn quà sáng, gởi giúp được một đồng bạc trong thời kỳ giá lúa mười lăm xu một giạ.
Nhà cầm quyền thực dân đâu để yên cho chàng thanh niên giàu nhiệt huyết ấy. Sở Mật thám Pháp gây áp lực, khiến quan giám đốc ra lịnh đuổi ông Nguyễn văn Nhan khỏi trường. Chán nản, ông đi ngao du sơn thủy, lê gót lãng du khắp Hà Tiên, Bạch Mã, đảo Phú Quốc... tìm cơ hội khác hầu gióng hồi chuông cảnh tỉnh bé nhỏ, khiêm tốn nhưng hữu hiệu cho quốc dân...”.
Mưa chưa tạnh. Ăn xong cơm chiều, tôi nằm im nghe sóng biển vỗ ầm ầm lên bãi. Ngọn đèn dầu leo lét bỗng phựt lên cao hơn ống khói, gió biển tạt mạnh qua khe cửa hé mở.
Lão Tư Hiếm bước nhanh vào, vuốt mấy giọt nước trên mặt:
- Ở nhà một mình buồn quá, tôi qua đây thăm thầy. Mưa gì mà mưa hoài. Ở miền biển, thầy thấy điều gì đặc biệt không? Nước mưa trên mặt mình, nó mặn đắng như nước biển.
Tôi đáp:
- Có lẽ chất mặn của mồ hôi thấm lâu đời trên trán mình, thưa bác.
Lão gật đầu, cúi mặt xuống tránh ánh đèn, hồi lâu mới nói:
- Bữa nay, thầy làm việc rồi chớ? Ông chủ Nhan mướn thầy viết chuyện đời xưa ở Mốp Giăng, ở Mỹ Lâm thiệt sao?
Tôi ái ngại, che giấu một tiếng thở dài rồi cố ra vẻ hồn nhiên:
- Dạ, thiệt chớ. Chiều nay tôi ở nhà viết. Ổng căn dặn tôi tả lại vùng đất hoang ở Mốp Giăng ngày xưa, nào chuột, nào bưng sen, cảnh nê địa trước khi ổng tới khai khẩn. Nếu còn nhớ rõ cảnh xưa, nhờ ông giúp tài liệu. Tôi viết nhắm chừng, hồi nào tới giờ chưa từng tới Mốp Giăng.
Đột nhiên, lão day mặt lại:
- Vùng Mốp Giăng đã trở thành “đất thuộc” từ lâu rồi. Ổng tới làm chủ lúc sau này. Ổng chẳng bao giờ thấy chuột bầy, thấy bưng sen gì ráo! Miệt Mốp Giăng xưa kia do nhiều người tứ xứ tới mạnh ai nấy khai phá, cắm ranh, khai diện tích sơ sài rồi đóng thuế cho làng... Dè đâu... Thôi... tôi nói ít, thầy ăn học nhiều, chắc hiểu rộng hơn. Nếu tôi nói lỡ lời, thầy bỏ qua cho.
Lại chuyện cường hào ỷ thế thực dân Pháp, cưỡng chiếm đất đai! Thời xưa, lắm tay mưu sĩ lên Sài Gòn xin khẩn những “lô” đất chưa có ai đứng tên trong địa bộ quản hạt rồi họ mướn người chuyên về trắc địa đến quy định ranh giới. Lô đất ấy nghiễm nhiên thuộc về quyền sở hữu của họ. Đứng về mặt pháp lý thực dân phong kiến, mảnh vườn đất nhỏ của người nông dân “tiền phong khai hoang” mặc nhiên bị sáp nhập vào đồn điền của kẻ đến sau nhưng hiểu rành về quy chế điền địa hơn.
Tôi đánh tan bầu không khí oi bức nọ, đưa câu chuyện trở lại địa hạt khác, êm dịu hơn:
- Thưa bác, chuột ở Mốp Giăng hồi xửa hồi xưa chắc nhiều lắm? Mấy bưng sen còn không? Mỗi bưng rộng bao lớn? Nhiệm vụ tôi là viết chuyện đó cho ổng.
- Thầy cho tôi điếu thuốc. Hồi tôi còn nhỏ, tôi thấy dân chúng Mốp Giăng sống nhờ chuột. Mùa nước nổi, chuột cắn đuôi nhau nối liền thành một sợi dây dài, chẳng biết nó từ xứ nào tới để đi về đâu. Tụi nó lội chập chững, con này nương sức của con kia... Mỗi tháng, mình gặp năm sáu bầy như vậy. Nước giựt xuống, chuột làm ổ, trời sa mưa, cỏ non mọc nhú lên, tha hồ xây rọ mà bắt. Cứ dùng đăng sậy bao chung quanh một vùng cỏ lớn rồi lần lần mình siết vòng vây... bắt hàng trăm con. Mình ăn thịt chuột trừ cơm. Chuột bị chặt đuôi, lột da nằm dài trông thật giống con heo con... Thôi thì chuột rô ti, chuột bằm nhỏ xào lá cách lá lốt, chuột kho tiêu. Ăn không hết, mình bày ra khô chuột, treo lủng lẳng hàng trăm con từ trên kèo nhà. Lại còn mắm chuột nhận đầy lu, mỡ chuột thắng đầy hũ. Đèn thắp bằng mỡ chuột, sáng lắm... Nghe nói lâu lâu có người gặp con chuột bạch ngậm trong miệng “hột ngọc chuột” sáng ngời... Ôi thôi! Chuyện con chuột kể tới sáng thầy nghe không hết.
- Còn cái bưng sen ngày xưa?
- Nó còn hiển hiện đó. Rải rác đôi ba mẫu đất, đầy loại sen bạch, sen hồng. Cuối mùa mưa, gương sen cằn cỗi, hột sen khô nổi lình bình đen mặt nước; mình cứ đem thúng mà xúc, mỗi người xúc một buổi sáng hằng năm sáu chục lít đem bán cho Huê kiều... Nhưng dân mình ưa làm ruộng hơn là xúc hột sen.
- Dạ thưa bác, tại sao bây giờ hết chuột?
- Mấy năm sau thiên hạ làm ruộng nhiều nơi, chuột chia nhau tứ tán kiếm ăn, mỗi bầy đi một chỗ. Hồi xưa chuột đói vì ít ai làm ruộng. Đám ruộng nào bị tụi nó bu lại, kể như còn rơm trơ cọng.
- Còn sen? Tôi tưởng mình nên để vài lõm xem chơi. Sen mọc nhiều, hao đất quá.
- Nó là thứ xa xí. Muốn trừ sen, thêm đất làm ruộng, mình phải đào kinh cho nước rút bớt... Nói chí miệng, ông chủ Nhan hồi đó muốn mở mang đất đai lắm, ngặt ổng ít vốn. Ổng hứa với tá điền: nếu ai nấy đều góp lúa đầy đủ cho ổng, ổng mua thêm vài chục ngàn mẫu đất nữa cho bằng điền Tây của ông Kho... Ngặt vì... vợ lớn của ổng chết, ổng buồn. Hai vợ chồng không con. Rồi cưới bà sau này, cũng không con...
Lão chép miệng, hút điếu thuốc nữa:
- Thôi tôi về, khuya rồi. Lát nữa sợ mưa lớn.
Thấy câu chuyện còn hấp dẫn, tôi mời lão ở nán. Lão từ khước:
- Hút thuốc vấn không quen, để tôi về bển hút ống điếu cây ớt núi. Tháng rộng ngày dài, mai chiều tôi nói thêm. Chỉ sợ thầy không muốn nghe. Còn nhiều chuyện ở Mốp Giăng, ngậm ngùi lắm!
- Bác cứ nói. Tôi đi lấy cái ống điếu qua đây cho bác. Hay là tôi qua nhà bác cho tiện.
- Phải à! Thầy qua bên tôi đi. Hồi chiều tới giờ mảng lo nói chuyện, tôi quên thắp nhang.
Mưa cứ rơi đều đều. Đèn đường phía chợ ửng sáng một vầng quá rộng. Biển đen ngòm, bãi bùn, sóng nước và Hòn Tre lẫn lộn dưới vòm trời thiếu trăng. Lão Tư Hiếm vào nhà trước. Tôi bước vào chậm hơn, đưa tay đóng cánh cửa lại cho bớt lạnh. Lão nói nhanh:
- Ban đêm đóng cửa nói chuyện rì rào trong nhà, thiên hạ hồ nghi. Cứ để vậy.
Thắp nhang xong, lão hút thuốc uống trà, hớp từng hớp một.
- Tôi còn câu chuyện cổ tích này, liên quan tới cái ngôi đình làng không bao giờ xây cất ở làng Mỹ Lâm, trong điền ông chủ Nhan.
Tôi gật đầu, lộ vẻ nóng nảy:
- Tại sao chẳng bao giờ xây cất? Làng Mỹ Lâm quá nghèo à? Lạ vậy!
- Số là năm đó, lâu lắm rồi... Hồi còn bà chủ trước lận kia, hồi ông chủ Nhan... chưa làm điền chủ, ổng còn là hương quản, ngày hai bữa đạp xe máy lại nhà việc. Ruộng trúng ba bốn mùa liên tiếp, dân làng ai nấy mừng vui ăn tết tưng bừng, cờ bạc suốt tháng Giêng qua tháng Hai. Ngày rằm tháng Giêng, mấy ông kỳ lão đành bơi xuồng ra chợ Rạch Giá, thuộc làng Vĩnh Thanh Vân để dự lễ kỳ yên lạy tạ Thành hoàng bổn cảnh, thay mặt giùm cho dân làng Mỹ Lâm. Thật là mất thể diện. Tại sao làng Mỹ Lâm lại chẳng cất được một ngôi đình riêng biệt? Nghĩ vậy, ai nấy hùn tiền kẻ ít người nhiều. Ông chủ Nhan - hồi đó là hương quản Nhan - được cử làm thủ quỹ vì trong tổng số năm ngàn đồng lạc quyên, phần ông góp tới hai trăm đồng, nhiều hơn mọi người khác. Người lãnh thầu mua về một mớ gạch đá, rồi xin lãnh thêm tiền để mướn nhân công, mua thêm vôi cát, xi măng. Rủi thay, đêm nọ người thầu bị bọn cướp giết chết trên đường về Rạch Giá. Hương quản Nhan đến nơi làm “ăn kết” chạy tờ về quan trên để cho biết: xác người thầu nọ chẳng có một đồng xu dính túi! Mặt khác, nhơn danh thủ quỹ, hương quản Nhan trưng ra hai cái biên nhận tổng cộng bốn ngàn chín trăm năm mươi đồng do người thầu ký tên, lãnh trước rồi... Dân làng nhìn nhau, lắc đầu, bàn tán thì thầm.
Tôi hỏi nhanh:
- Họ hồ nghi ông chủ Nhan sắp đặt giết người thầu để giựt tiền lại?
Lão ung dung hút thêm điếu thuốc, im lặng giây lâu:
- À, thầy đoán chừng như vậy thì tôi nghe vậy. Tôi đâu dám nói gì hơn. Ai đã mắt thấy tai nghe... mà đề quyết thủ phạm là ai! Chỉ biết vài tháng sau, hương quản Nhan xin từ chức, đi Sài Gòn rồi trở về làm chủ của “lô” đất đã có sẵn huê lợi ở Mốp Giăng. Ổng thề chẳng bao giờ đứng ra góp tiền cất ngôi đình khác. Ổng muốn tránh tiếng dị nghị của người đời khi có cuộc lạc quyên thứ nhì. Ổng nói “Thà cất riêng một cái miễu trong điền để tạ ơn đất nước, do tiền túi của một mình tôi xuất ra thôi”.
- Cái miễu đó còn không?
- Còn chớ. Linh hiển lắm. Tôi nói cho thầy nghe hồi bữa hổm rồi mà. Thờ Chúa Ngung Ma Nương. Mai mốt nhứt định ông chủ Nhan nhắc tới tích đó. Tôi nhớ mờ ớ vậy thôi. Nói nhiều quá, mình mang tội với người sống và người chết... Thầy đừng chép vô sách vở, nguy lắm.
Trở về bàn viết, tôi thao thức mãi. Đêm ấy, qua khe cửa, tôi thấy ngọn đèn chong bên nhà lão Tư Hiếm còn leo lét đến nửa đêm. Phải chăng lão cố tình đánh một đòn ly gián giữa tôi và ông bà Henri Nhan? Nhưng, đứng về phía của tôi mà xét, tôi cần tiền ăn cơm, tôi đã lãnh tiền trước của bà Henri Nhan rồi. Tôi tin rằng quyển tiểu sử mà tôi đang soạn thảo chẳng bao giờ in ra. Mà dầu có in thì cũng chẳng ai thèm đọc! Tôi thầm cám ơn lão Tư Hiếm đã nhắc nhở khéo léo cho tôi về ý thức tôn trọng sự thật, bất cứ về vấn đề gì. Câu chuyện ông Henri Nhan giết người rồi kiếm tiền đút lót cho quan Tây để khẩn đất tuy đáng chú ý nhưng tôi chưa vội tin, vì chính lão cũng bảo là còn trong vòng giả thuyết.
Đã quá một giờ đêm.
Viết gì bây giờ? Chuyện mắm chuột, chuyện hột sen. Và đừng đi xa hơn. Tôi ngáp dài, nhướng đôi mắt hơi cay, viết lia lịa, tùy hứng... nhưng trong khuôn khổ, tránh những chi tiết quá lộ liễu khiến ông Henri Nhan có thể hồ nghi rằng tôi đã liên lạc với người tá điền xưa nào của ông để tìm tài liệu.
Đúng như dự đoán của tôi, ông bà Henri Nhan rất hài lòng. Bà yêu cầu tôi ngưng đọc từng chập. Bà đập mạnh vào vai chồng:
- Ông trạng Lương Thế Vinh của tôi! Bấy lâu tôi làm bà Trạng mà không hay biết.
Ông cúi đầu nói lảng:
- Về khung cảnh chuột cắn đuôi nhau lội dài hàng mấy trăm thước, ông thi sĩ suy luận hay quá. Nhớ thêm thắt vài câu, nói lên vẻ đẹp hùng vĩ của miền núi Ba Thê. Xưa kia, thương cảng quốc tế; bây giờ, đất bồi... cả thời xưa huy hoàng vàng son đã chìm lĩm chẳng khác nào thành phố Pompéi ở Ý Đại Lợi bị lấp dưới lớp tro của núi lửa Vésuve.
Ông vuốt râu thò tay kéo đôi vớ lên sát đầu gối:
- Thời lai phong tống... Tôi tin rằng kỳ này mấy ổng dám giới thiệu tôi vô Hội đồng Liên hiệp Pháp, đi du lịch chơi lai rai. Hằng năm chánh phủ Pháp sẽ đài thọ cho tôi hai chuyến du lịch để tìm hiểu các nước trong Liên hiệp Pháp, khắp vòng quanh thế giới: nào Algérie, nào Guyane ở Nam Mỹ, nào Nouvelle Calédonie ở Thái Bình Dương...
Bà Henri mỉm cười:
- Tôi mơ ước đi vòng quanh thế giới. Như vậy vui hơn chớ về đồn điền ở Mốp Giăng làm gì. Huê lợi không có, suốt ngày quanh quẩn.
Ông nghiêm giọng, chỉ ngón tay thẳng vào mặt tôi:
- Thời giờ cấp bách lắm. Tôi hứa trưa mai nạp đoạn thứ nhứt của cái monographie vùng Mỹ Lâm cho ông quan tư Ca Rê. Ông thi sĩ chần chừ gì nữa? Ông nghe lời của nhà tôi à?
Day qua bà vợ, ông lẩm bẩm:
- Ngạn ngữ Tây có câu: Đàn bà tuy tóc dài nhưng tư tưởng của họ rất ngắn! Cái “áp phe” đất Mỹ Lâm với cái tương lai của Hội đồng Liên hiệp Pháp đi đôi. Hiện nay các nhà khảo cổ Tây phương đang chú ý về vùng núi Ba Thê. Ai tìm được điều gì mới lạ thời sẽ nổi danh, được thế giới chú ý. Nhưng muốn tìm được điều mới lạ, họ phải lạy lục tôi!
Ông Henri Nhan đứng dậy thở phều phào, gương mặt đỏ ửng với cái vẻ mệt mỏi của con ngựa già cố chạy đường khuya nước rút. Bỗng dưng, tôi quả quyết rằng: chính ông ta đã bố trí giết người thầu khoán năm xưa, theo lời thuật lại của lão Tư Hiếm! Bỉ ổi quá! Bà Henri cười hồn nhiên, chắc bà chẳng lạ lùng gì cái bản chất háo thắng của ông chồng. Thừa lúc ông đi thẳng lên nhà trên, bà nói khẽ với tôi:
- Cứ viết nhanh cho vừa ý ổng. Ông hãy xem như chuyện viết chơi chơi... kiếm tiền xài.
Tôi lẩm bẩm:
- Dạ rầu quá, tôi lỡ lãnh tiền rồi, bằng không thì...
- Ông cứ nghe tôi. Nếu ông rút lui, nhà tôi tìm cách gièm xiểm... ổng ưa thù vặt vô cớ... Ông đừng bực mình. Cái “áp phe” nọ chẳng đi tới kết quả gì đâu. Tôi nói, ông chờ xem... Chuyện “vọc nước giỡn trăng” tôi biết trước rồi. Tụi Tây đâu dễ gạt như nhà tôi tưởng...
Ngòi bút của tôi bắt đầu bay nhảy trên mặt giấy:
“Trước khi ông Nguyễn văn Nhan đến khai khẩn thì vùng thương cảng Ba Thê đã hoang tàn; đất phù sa hằng năm bồi lên, chôn vùi bao di tích của nền văn hóa xa xưa cổ kính của Đông Nam Á. Mùa nước nổi, từng đàn chuột cắn đuôi nhau mở cuộc ‘vạn lý trường chinh’ từ chân trời vô tận đến chân trời vô tận...
Nhưng khi ông đến, mấy đàn chuột ấy bỗng nhiên biến mất, chẳng bao giờ xuất hiện. Các bô lão địa phương bảo nhau: Ấy là điềm lành. Đất Ba Thê Mỹ Lâm đã đến thời hưng thịnh...”
Chị ở bước lại gần tôi, nói khẽ:
- Ông tôi mời ông vào trong phòng.
Tôi, cau mày:
- Hôm trước, tôi dặn chị kêu tôi bằng thầy, đủ rồi.
- Ông tôi cũng kêu ông bằng ông. “Thầy” sao khó tánh quá!
Tôi đi thẳng vào phòng ông Henri. Chắc rằng phía sau lưng tôi, bà Henri và chị bếp nhìn nhau mỉm cười. Nhưng thái độ tiểu nhân của tôi phát sanh do động cơ khác.
- Ông thi sĩ hãy ngồi chờ tôi tìm chuyện cổ tích Lộc Giác Chân Nhân trong quyển sách Tây do ông quan tư Ca Rê cho tôi mượn nghiên cứu. Đàn ông bọn mình ưa làm những việc mà đàn bà không ưa, tuy rằng chung qui mình chỉ lo lắng cho họ để rồi mình hưởng rất ít. Tôi muốn ông vào đây để tránh những câu nói đâm họng, làm “thối chí anh hùng” của nhà tôi. Và cũng để đứa ở khỏi tò mò. Ông ráng giữ bí mật. Ông quan tư Ca Rê lợi dụng, muốn nhờ tôi giúp cho vài món cổ ngoạn của thị trấn Óc Eo ở chân núi Ba Thê. Tụi Tây khảo cổ xưa kia chỉ mới đào bới sơ sài. Hồi năm một ngàn chín trăm bốn mươi mốt, gặp giặc Nhựt Bổn, tụi nó bỏ luôn không dám trở lại. Mấy món đó xưa trên một ngàn năm trăm năm, ông Ca Rê định kiếm vài kiểu đem về Tây, tặng cho người tình nhân là bà bá tước De L... Đồng thời ông ta muốn ghi chép vài phong tục địa phương mà giới khảo cổ chưa từng nói tới. Hiện giờ ở Mốp Giăng, tại điền của tôi còn miễu thờ Chúa Ngung, Ma Nương với pho tượng đá xưa và những người chuyên môn “lên xác”. Nếu mình trình bày rõ rệt, đủ sức hấp dẫn tức nhiên ông Ca Rê sẽ cao hứng mở cuộc hành quân cấp tốc tới Mốp Giăng để đóng đồn... Nhơn dịp đó, uy thế của tôi đối với các tá điền nhứt định tăng lên... Và ông Ca Rê sẽ đền ơn tôi xứng đáng, trong mức quyền hạn của ổng. Chuyện Lộc Giác Chân Nhân đây này. Đọc đi. Trong khi đó, tôi sắp xếp thứ tự. Bộ óc tôi cỡ này nôn nao, lộn xộn quá.
Chuyện Lộc Giác Chân Nhân rất ngắn, chiếm vỏn vẹn bốn trang sách khổ nhỏ, trong quyển tập Cổ tích An Nam, in bên Pháp hồi năm 1926... Tay tôi hơi run run. Cái “áp phe” Mỹ Lâm này rõ ràng là vấn đề máu lửa mà tôi và bọn lính Lê dương đều đứng trong cuộc, họ bắt buộc đóng hẳn hòi những vai trò quan trọng. Tôi nhớ tới cái lon sữa bò đầy gạo để cắm nhang trên trang thờ Thái Thượng Lão Quân. Lão Tư Hiếm - con người vừa hiền hòa vừa bí hiểm - với vầng trán mặn mồ hôi sẽ nghĩ gì? Rồi đây quân đội viễn chinh Pháp dùng xe, dùng tàu sắt tiến vào Mốp Giăng giữa cảnh thiếu người, chỉ còn chuột, bưng sen với hơn mười gia đình, trong ấy có người cùi người mù - nếu lão Tư Hiếm không nói dối.
- “Ông cứ kéo ghế qua ngồi sát bên tôi! Câu chuyện như vầy. Khi tôi mới khẩn đất hoang thì ở Mốp Giăng đã có sẵn, một cái miễu xiêu vẹo, cất trên gò đất cao bên gốc cây bàng cổ thụ. Miễu thờ bốn năm cục đá phủ vải đỏ bạc màu. Vì ít tin đồng bóng phù phép, tôi khuyên dân chúng nếu ốm đau thì cứ uống thuốc, đừng cúng kiến vô ích. Năm đó, một thiếu nữ bỗng nhiên nổi cơn điên xé quần áo, nói xàm, đi lang thang. Vài ngày sau thi thể cô ta bỗng nhiên nổi lên, trôi tấp vào chiếc cầu ván trước nhà tôi, một buổi sáng đại khái vào tháng Giêng năm 1937... Tôi xuất tiền mua hòm giúp việc ma chay. Sáng hôm sau, đến lượt một người trong xóm nổi cơn điên chạy tới trước miễu nọ múa men tay chân, tự xưng là Chúa Ngung, Ma Nương, vị thần đến khai khẩn vùng đất Mốp Giăng từ ngàn năm về trước đã chết rồi hóa đá. Thấy chuyện lạ tôi cầu xin Chúa Ngung, Ma Nương trình bày mọi thắc mắc. Người ‘xác’ vào miễu dở tấm vải, chỉ ngay một tượng đá, bảo rằng đó là tiền kiếp của mình. Pho tượng quá cũ, tạc hình một vũ nữ đang uốn mình, đầu đội mão vuông, chân mang vòng, tay cầm thếp đèn chong kiểu vũ nữ Chiêm Thành, Ấn Độ. ‘Xác’ lại ra lịnh cho tôi hằng năm phải cúng kiến, mướn lại đất của Chúa Ngung, Ma Nương trong vòng một năm. Thế là đứng về mặt tinh thần, tôi phải nhận mình là tá điền của kẻ khuất mặt, mặc dầu tôi nghiễm nhiên là chủ điền. Tôi đồng ý. Xác đòi ăn mắm sống, ăn xong ‘xác’ bảo tôi đem một tờ giấy trắng để trước miễu rồi ‘xác’ hái bốn nhánh cây, chạy băng ngang đồng ruộng suốt mấy chục cây số từ sáng tới xế chiều để cắm bốn nhánh cây xuống ở bốn góc. Lạ thay, ‘xác’ cắm ngay ranh đất đúng như trong tờ bằng khoán mà sở Quan thủ địa bộ đã cấp cho tôi.
Xác về miễu nhúng tay xuống bùn, áp vào tờ giấy rồi dạy tôi hằng năm phải làm lễ như hôm ấy, gọi là lễ ‘tá thổ’. Bằng không dân làng lần lượt phải bị Chúa Ngung, Ma Nương bắt chết như trường hợp người thiếu nữ điên nọ”.
Khổ tâm quá! Tôi đã đoán phần kết luận ngay từ khi ông Henri Nhan mới kể đến phân nửa câu chuyện. Tôi tin nơi trực giác của mình. Nhơn phong tục cúng Chúa Ngung, Ma Nương, ông Henri Nhan đã hành động khéo léo - khéo gấp bội phần kế hoạch giết người thầu khoán. Chúa Ngung, Ma Nương là vị thần gì... Sự thật ra sao? Tôi nóng nảy, đứng dậy định kiếu từ về tìm lão Tư Hiếm để nghe thêm một tiếng chuông khác.
Ông Henri như bực dọc:
- Ông viết liền được chưa mà im lìm như vậy? Nếu chưa hiểu, cứ hỏi lại tôi.
- Dạ hiểu phần nào. Xin phép ông, để về nhà sắp xếp đầu đuôi viết kỹ lưỡng rồi tôi trở lại đây nhờ ông dạy thêm.
Ông Henri liếc lên vách:
- Để coi... mười giờ rồi. Ông ráng viết, ba giờ chiều trở lại liền, kịp không? Tôi muốn ông ăn cơm trưa tại đây rồi viết luôn, đừng về mất thời giờ quý báu.
- Dạ, ở đây không khí hơi lạ. Về nhà ăn cơm xong tôi đóng cửa lại, viết một mạch là tạm xong. Tôi trở lại cỡ hai giờ rưỡi chiều.
Chắc hẳn ông Henri vừa ý khi nghe tôi nói “đóng cửa lại”, “hai giờ rưỡi”.
- Ông ra nói nhà tôi đưa chút ít tiền... Hổm rày tôi vô tình, quên phứt.
Đến cổng, bà Henri với nụ cười lúm đồng tiền, trao cho tôi năm trăm đồng.
- Nhớ kỹ nghe, nhà tôi bắt đầu khó tánh rồi đó. Ông nên viết như kỳ rồi vậy thôi. Theo quẻ tử vi, nhà tôi năm nay tuổi Mẹo, ngôi sao... ác liệt lắm! Vái trời cho nhà tôi được vô... Liên hiệp Pháp để tôi đi du lịch Phi Châu coi sư tử, ngựa rằn chơi. Ông thi sĩ nhớ “Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu” chớ? Đó mới thật là thơ.
Tôi cười, nụ cười khô héo:
- Thơ của rừng thiên nhiên Phi Châu... sang trọng hơn thơ đồng quê của tôi một bực.
Bà Henri nói vói theo:
- Nhà tôi cũng ưa đồng quê vậy. Nhưng sao khác với đồng quê của ông... Coi bộ hai thi sĩ đồng quê kỵ tuổi, kỵ ngôi sao... Chiều, ông nhớ trở lại sớm nghen!
Hình bóng cũ (tt)
Tôi ăn lua láo mới vừa được nửa chén cơm, chợt lão Tư Hiếm bước vào:
- Ủa! Bữa nay thầy ăn hơi sớm đó. Mời thầy qua ăn với tôi. Hồi sáng tới giờ, tôi chờ... Thầy về hồi nào mà tôi không thấy kìa?
Tôi hiểu rằng mình nên chiều theo ý muốn của lão, đừng từ chối bất cứ vì một lẽ gì. Lão dọn ra một con cá lóc nướng, một dĩa muối ớt. Chắc lão vừa cúng xong: trên lớp vảy cá cháy khét, mớ tàn nhang rắc lốm đốm. Từng khúc nhang cong queo tuy đã hóa ra tro nhưng còn giữ nguyên hình dáng cũ. Lão nói nhanh:
- Thôi mình ăn.
- Còn ai nữa không bác?
- Đâu còn ai. Dịp này chỉ có thầy với tôi. Món ăn ít quá. Rượu đây, tiên vi chủ - lão uống một hớp rồi trao cho tôi - hậu vi khách.
Rồi lão nhướng mắt, dò hỏi ngay:
- Thầy uống cạn đi. Say sưa gì mà sợ... Công việc của thầy tới đâu rồi?
Tôi hiểu đó là nỗi thắc mắc thầm kín nhứt của lão. Vì thời giờ còn lại quá ngắn, tôi đi thẳng vào đề:
- Dạ, ổng nhắc tới sự tích cái miễu Chúa Ngung, Ma Nương. Trong điền đất của ổng, năm đó, một thiếu nữ mang bịnh điên té xuống sống chết trôi tấp trước bến nhà ổng, rồi “đạp đồng” lên... Là kẻ sanh sau đẻ muộn, chưa từng sống ở Mốp Giăng, tôi thắc mắc quá định về đây hỏi bác.
- Thầy tin tôi hay tin ông chủ Nhan? - Lão trừng mắt hỏi.
- Tôi tin ông chủ Nhan nhưng cũng tin nơi bác. Ổng là người trong cuộc, thưa bác.
Lão cười nhếch mép:
- Đúng như thầy nói. Ông chủ Nhan mới thật là... người trong cuộc! Nhưng còn người khác nữa, cũng trong cuộc. Đó là người lên “xác” Chúa Ngung, Ma Nương...
Lão nhìn trân trân vào bộ mặt vừa ngơ ngác vừa “thông minh vặt” của tôi mà nói gằn:
- Bộ thầy tưởng tôi là kẻ “lên xác” hồi đó hả?
- Dạ, tôi đâu có nghĩ như vậy. Nếu người đó là bác thì chủ Nhan đâu để bác sống kham khổ như vầy. Chẳng hay người đó là ai, ở đâu? Chắc chắn ông ta rành sự tích Chúa Ngung, Ma Nương hơn ông chủ Nhan.
- Người đó... còn ở lại giữ cái miễu đó. Anh ruột của tôi. Anh ấy còn sống cũng như đã chết... Chết mà chưa chôn.
Rồi lão Tư Hiếm hạ thấp giọng:
- Theo lời anh tôi thì người con gái năm xưa bị đâm bằng dao phay vì cô ta dám cả gan chống báng luật lệ của Tây, lúc quan kinh lý tới đo đất lập địa bộ cho ông chủ Nhan.
- Nhưng ông anh đó “lên” thiệt hay “lên” giả?
- Làm sao lên thiệt được? Anh tôi thua cờ bạc, trở về nhà gặp lúc dân chúng đang xôn xao, bất mãn. Họ hồ nghi kẻ giết cô gái chính là... ông chủ Nhan. Anh tôi tới gặp ông chủ, hai người bàn mưu bàn kế. Ngày sau, anh tôi “đạp đồng” trước miễu rồi cả gan dở miếng vải phủ từ bao nhiêu đời trên pho tượng “ông tà”. Ở Mốp Giăng, dân chúng ưa thờ những viên đá rơi rớt, tìm được khi cày ruộng. Anh tôi tự xưng là Chúa Ngung, Ma Nương... tức là vị thần đã bắt cô thiếu nữ nọ cho chết để đem về âm phủ làm vợ. Rồi Chúa Ngung, Ma Nương nói huyên thuyên, xưng rằng Chúa Ngung là người khai khẩn đầu tiên từ ngàn năm xưa tại đất Mốp Giăng... Chủ Nhan phải làm tờ mướn đất của Chúa Ngung, mỗi năm ký giao kèo trở lại một lần... Nói dứt lời, Chúa Ngung chạy khắp tứ phía để cắm ranh đất cho ông chủ Nhan mướn. Dân chúng hoảng sợ, phục Chúa Ngung, Ma Nương sát đất vì xác cắm trúng ngay ranh trong... địa bộ, xê xích chừng vài tấc.
Tôi lắc đầu:
- Mưu kế của chủ Nhan cao cường thiệt, chắc hẳn ông anh nọ đã xem kỹ trên bản đồ, trước khi lên xác.
Lạo Tư Hiếm thở dài:
- Nhưng ông chủ Nhan còn nhiều ẩn ý khác. Ổng muốn nhờ oai quyền của thần thánh để chứng minh cái quyền làm đại điền chủ của mình, để đám tá điền hiểu rằng họ chỉ là người giựt đất của thánh thần. Đã đành rằng họ ra công phá đất trước ông chủ Nhan nhưng Chúa Ngung, Ma Nương đã khai phá trước họ hàng ngàn năm... Nếu họ bất tuân ông chủ Nhan, tức nhiên là họ bất tuân luôn cả thánh thần, mỗi năm họ phải chịu chết oan ức, phát điên phát khùng như cô con gái nọ. Tôi nhớ rõ. Cô ta tên Thừa... Bây giờ theo ý thầy, người lên xác nọ đáng trách không?
- Đáng lắm chớ, mặc dầu chủ chốt là người khác.
- Nhưng anh xác thua cờ bạc, túng tiền. Lãnh của chủ Nhan năm mươi đồng tiền thưởng, để rồi ngày hôm sau thua lại ráo trọi... Của hoạnh tài bất phú.
Tôi cúi mặt nghĩ tới cảnh ngộ không khác, của mình.
- Thưa bác, mình nên thương hại anh xác nọ.
- Nếu gặp mặt anh xác nọ, thầy xử trí ra sao?
- Dạ, làm sao gặp được! Với lại tôi đâu phải là người tá điền bị chủ Nhan giựt đất.
- Xin lỗi thầy, tôi thí dụ như vậy kìa.
Trước câu hỏi đầy ác ý đó, tôi bị va chạm tự ái nên nói gắt:
- Ờ, nếu gặp mặt người xác ấy, nếu tôi là tá điền của chủ Nhan... thì tôi đãi anh ta một tiệc, đại khái như tiệc cá lóc hôm nay.
Lão Tư Hiếm bèn hươi bàn tay, chụp lấy cái ống điếu dài bằng cây ớt hiểm. Lần này tôi thấy rõ: đầu cái ống điếu nọ bịt khoen sắt, thứ khoen khá dày, tuy đã sét nhưng còn cứng.
Tôi biết lão đang bối rối, sự bối rối của kẻ yếu thế. Chắc rằng lão chưa dám và không nỡ hăm dọa tôi!
Tôi dịu giọng:
- Cái người xác bày chuyện đồng bóng đó, coi vậy mà hữu ích. Nhờ vậy hằng năm chắc ở điền ông chủ Nhan cúng miễu lớn lắm. Cờ bạc, ăn nhậu “trong thì trống đánh rập rình, ngoài thì trai gái tự tình cùng nhau” như lễ kỳ yên ở đình.
Lão cười sặc sụa:
- Đúng vậy, làng Mỹ Lâm từ khi ông thầu khoán bị giết, chẳng còn ai muốn cất đình, sợ oan hồn ông thầu khoán cũ vặn họng. Cái miễu của Chúa Ngung, Ma Nương thay thế cho cái đình; dân ở vùng lân cận tuy không phải là tá điền của chủ Nhan cũng rủ nhau nườm nượp tới chung vui. Phen đó, hồi trào thống chế Bê Te, quan Chánh tham biện chủ tỉnh “Gia La” tới dự lễ, dẫn theo bà vợ còn trẻ măng. Ông Tây bà đầm bắt tay “bủa xua” với Chúa Ngung, Ma Nương... Chúa Ngung, Ma Nương trả lời bằng tiếng Tây “com-xi com-xa” khiến ai nấy nín cười không nổi. Rồi ông Tham biện “Gia La” chụp hình buổi lễ, bà đầm vỗ vai xác, cúng cho xác năm đồng... Bả hứa khi về Tây sẽ thuật lại cho bà con cô bác bên đó nghe chơi. Bà đầm đó vui lắm, cười tủm tỉm hoài.
Tôi muốn thêm vào câu nói của lão: “Cười tủm tỉm hoài với hai lúm đồng tiền”. Nhưng tôi nghĩ: “Mình với lão Tư Hiếm hành hạ nhau bằng lời nói làm gì? Như hai kẻ khốn cùng đang đói bụng, chạy bươi đống rác cấu xé nhau để giành một cây tăm xỉa răng”. Sực nhớ tới thời giờ quá ngắn, tôi muốn ra về:
- Thì ông bà Chánh tham biện cũng thị oai với dân bổn xứ, tỏ rằng ta đây là “anh hai” của Chúa Ngung, Ma Nương. Và Chúa Ngung, Ma Nương có tiền của Tây thì mới vui vẻ được. Phen này, Tây biểu ông chủ Nhan viết lại tích xưa, chắc cũng vì mục đích muốn làm “anh hai” đó.
Bộ mặt lão trông khác hẳn! Dè đâu tôi nói êm thắm nhỏ nhẹ mà lão lại giựt mình:
- Mục đích gì? Tây muốn đi Mốp Giăng à?
Tôi nói khẽ:
- Ông quan tư muốn coi tận mặt pho tượng đá trong miễu Chúa Ngung, Ma Nương, luôn dịp sưu tầm tại chỗ những pho tượng khác, hỏi thêm tục lệ cúng kiến, hoặc tìm người “xác” cũ để hỏi lại.
- Tại sao Tây không mướn ai đi ăn cắp pho tượng hoặc mời người tại Mốp Giăng ra chợ cho gọn? - Lão hỏi.
- Vì... ông chủ Nhan nằng nặc mời Tây vô Mốp Giăng rồi đóng đồn luôn. Vả lại ai dám đi Mốp Giăng một mình để ăn cắp tượng thờ trong miễu? Người ở Mốp Giăng đâu dám ra chợ, liên lạc với Tây để lãnh tiền rồi về nhà. - Tôi đáp.
- Thời buổi giặc giã, khó quá. Nghĩ mà tủi thân cho vong hồn con nhỏ chết hồi đó. Chết rồi mà thiên hạ nói vầy, nói khác, bán đứng nó. Thầy biết chừng nào Tây vô trỏng không?
- Trời ơi! Bí mật quân sự. Nhưng tôi đoán: ông quan tư đi liền để kiếm pho tượng đem về tặng bà bá tước bên Tây. Ông quan tư chờ câu chuyện Chúa Ngung, Ma Nương của tôi viết. Chiều nay, tôi nạp chuyện đó cho chủ Nhan dịch ra chữ Tây. Thôi kiếu ông, tôi về giây lát để viết gấp cho đúng hạn.
Lão chép miệng, nhìn lên trời:
- Thầy làm công chuyện của thầy, mai mốt thầy còn đường tiến thân nơi chợ búa. Phần tôi, trước sau gì cũng về quê xưa. Thầy năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
- Dạ, hai mươi bốn. Khi nãy, tôi lỡ thốt nhiều lời vô lễ. Bác tha thứ giùm em cháu.
- Người gần chết như tôi còn dám bắt bẻ lời nói của ai. Nếu tôi giận thầy một, thì phải giận tôi tới mười mới công bình. Thôi, thầy đi đi.
Tôi khép cửa, chán nản hơn bao giờ hết. Mưa lất phất. Tôi viết đại khái về trường hợp ông Henri Nhan phát giác pho tượng Chúa Ngung, Ma Nương, đúng theo lời lẽ ông ta thuật lại. Viết xong, đã hơn hai giờ hai mươi phút. Tôi lướt dưới cơn mưa, liếc nhìn thấy cánh cửa nhà lão Tư Hiếm đã khép kín.
Dường như ông chủ Nhan đã thức suốt buổi trưa để chờ đợi mớ giấy nháp của tôi. Ông ta gật đầu từng chập, sau cùng đưa ra ý kiến:
- Thế là xong, nhưng phần nhập đề còn yếu. Ông thi sĩ quên chuyện Lộc Giác Chân Nhân rồi à? Từ Lộc Giác Chân Nhân mình bắc cầu qua Chúa Ngung, Ma Nương nghe mới xuôi tai.
Tôi viết nhanh:
- “Trên đường lập quốc, dân tộc Việt Nam lập nhiều kỳ công rạng rỡ, chém tre đẵn gỗ để cày cấy giữa rừng ma. Giai thoại Lộc Giác Chân Nhân tiêu biểu cho miền cực Bắc: Tục truyền rằng ở vùng sơn cước tỉnh Cao Bằng, xưa kia có người tiều phu sống dai hơn trăm tuổi. Một hôm, ông ta gọi đứa con trai đến mà bảo: ‘Lát nữa đây cha chết, hóa thành con nai. Kiếp trước của cha là con nai, nhờ tu luyện nhiều kiếp nên mang xác người. Con hãy gỡ cái gạc trên đầu cha, dùng dây mà kéo như kéo cày. Khi nào cái gạc vướng vào cây cỏ, còn dừng lại, cày cuốc tại đó ắt sẽ phát đạt’.
Nơi miền Tây Nam Việt Nam, có chuyện Chúa Ngung, Ma Nương nhắc nhở cho người đi khai hoang về đức tính khiêm tốn, sùng bái tiền nhân. Khắp vùng Rạch Giá, Cà Mau, tục lệ ‘tá thổ’ mướn đất của ma, của Chúa Ngung, Ma Nương chẳng nơi nào rõ rệt bằng ở xóm Mốp Giăng, gần Óc Eo, núi Ba Thê - vị trí quan trọng đánh dấu sự ‘dung hòa’ giữa văn hóa các nước Đông Nam Á, đặt nền móng cho ‘dân tộc tính’ Việt Nam. Ông Nguyễn văn Nhan với tấm lòng nồng nhiệt yêu mến quê hương đất nước đã khôi phục và bảo tồn tục lệ cổ truyền giàu ý nghĩa ấy...”.
Xem xong, ông Henri Nhan đứng dậy, đem tất cả xấp giấy qua đồn Lê dương.
- Tôi sẽ trình bày tỉ mỉ. Nhứt định ông quan tư Ca Rê hài lòng. À, ông thi sĩ ở nán chờ tôi. Biết đâu vào giờ phút chót mình cần thêm bớt vài chi tiết cho câu chuyện suôn sẻ hơn. Nó thuộc vào hàng chuyện cổ tích “có thể diện” trên quốc tế đó.
Tôi ngồi chờ. Bà chủ thức giấc, mắng khéo chị ở:
- Nãy giờ sao chị chưa pha cà phê cho ông thi sĩ?
- Thưa, pha luôn...
- Ờ, tôi một ly, nhà tôi một ly.
Dường như bà chủ chẳng chú ý nhiều đến công việc “chạy chọt” của chồng. Rửa mặt chải tóc xong, bà đến hành lang nói khẽ:
- Ở xứ người, cái gì cũng ngộ. Từ việc quảng cáo kiểu áo kiểu quần, quảng cáo dầu thơm đến mục chiêm tinh học! Tôi cắt một cái “bông” trong báo gởi qua giáo sư F.N. nhờ đoán vận mạng giùm, cả tuần rày sao chưa thấy trả lời. Bên mình... mấy ông thầy Tàu mù đôi khi đoán khá quá. Như hồi năm kia, hai ba ông mù đều đoán tôi gặp người chồng giàu có, nhưng chồng tôi sẽ suy sụp vì thời cuộc. Trong khi đó, ngôi sao của tôi sáng lên!
Cánh cửa sắt ngoài cổng từ từ mở. Ông Henri Nhan chạy nhanh vào, gương mặt tươi rói:
- Ông quan tư chịu quá. Ngày mai hoặc đêm nay, ổng đi Mốp Giăng, mình à.
Bà Henri hơi giựt mình:
- Chuyện gì? Tối nay ông ăn tiệc trước với ổng?
- Mình hãy chuẩn bị đi theo ổng để chỉ rõ thêm đường đất. Rồi về mặc sức mà ăn tiệc.
- Tại sao ông không đi? Nhà binh thiếu gì bản đồ. Đàn bà như tôi đi theo làm gì thêm nguy hiểm... cho tôi.
Ông Henri gãi đầu lia lịa:
- Khổ quá! Tôi nói mà mình chậm hiểu. Mình chỉ cần mặc áo bà ba, quần lãnh đen được rồi. Đầu đuôi cuộc hành quân diễn ra chớp nhoáng trong vòng bốn tiếng đồng hồ. Xa hai mươi cây số chớ mấy? Gặp mặt tôi, dân tá điền họ thắc mắc. Chẳng lẽ tôi đem cái tượng đá trong miễu mà nạp cho Tây, còn gì thể diện tôi? Thế nào ông quan tư cũng nhơn dịp đó đóng bót rải rác dọc đường... Mai chiều yên tĩnh, tôi vô sau.
Bà Henri cau mày:
- Ừ! Tôi đi cho, đi vài tiếng đồng hồ chớ gì! Mà phải có ông quan tư, tôi mới đi. Tụi lính Lê dương ăn nói xô bồ xô bộn lắm. Tối nay đi hả?
- Bí mật quân sự, chừng đi thì họ kêu mình!
Linh tính như báo trước một sự trục trặc sắp xảy ra trong đời tôi. Đành rằng nếu không có tôi tiếp tay vào việc viết chuyện Chúa Ngung, Ma Nương, trước sau gì ông Henri Nhan cũng tìm cách đạt mục đích riêng. Nhưng lương tâm của tôi bứt rứt lạ thường: Tiếng súng sẽ nổ hai bên đường, tiếng máy tàu ầm ầm, chuột phải chạy toán loạn, bưng sen dồi dập, những nông dân ngơ ngác sẽ cúi mình núp sau bờ cỏ hoặc lặn trầm xuống nước, miệng ngậm cọng bông súng để thở... Mệt quá, tôi đứng dậy nói khẽ:
- Thưa ông, chuyện tạm xong. Xin ông cho tôi về nhà, sáng mai tôi trở lại.
Ông Henri trợn mắt:
- Bộ ông... giỡn sao chớ? Tối nay, ông phải ở đây luôn. Chẳng đặng đi đâu cả! Lịnh của ông quan tư Ca Rê đó! Ổng muốn giữ bí mật quân sự, dầu đối với lính của ổng. Cả nhà tôi, từ giờ phút này đến khi có lịnh mới của ổng, chẳng ai được đi chợ. Rủi cuộc hành quân tiết lộ bị đánh úp dọc đường ai chịu trách nhiệm đây?
Rồi ông trỏ vào ngực mình:
- Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn trước quân đội Pháp. Tôi cúi đầu thở dài, trở lại ghế ngồi day vào trong nhà, đưa lưng ra phía hai cái họng súng ô buýt đen ngòm.
Ông Henri lên nhà trên, nói vọng xuống:
- Chiều nay tôi uống rượu trừ cơm. Bà nhớ: khi nào nghe ngoài cửa nhận ba hồi chuông tức là năm phút sau bà đi với ông quan tư. Đêm nay, dặn chị ở nhớ ngủ sẽ thức, đừng để họ kêu réo nhiều lần.
Chiều hôm ấy, tôi ăn lua láo một chén cơm, ăn chung mâm với chị ở... Tôi tủi thân trong cảnh giam lỏng bất thình lình này... Trong phút giây, tôi thử tưởng tượng đến kế hoạch tẩu thoát. Hàng rào ngôi biệt thự quá thấp, trèo ra dễ dàng, Nhưng trèo để làm gì? Về Xóm Biển gặp lão Tư Hiếm, tôi sẽ ăn nói ra sao? Nói thật về cuộc hành quân của Pháp chăng? Rủi bề gì, tai vách mạch rừng. Nhưng quân đội Pháp sẽ lên đường vào giờ nào? Đêm nay hay là sáng mai? Vắng mặt tôi, ông Henri sẽ báo động... Còn về nhà để nằm yên một chỗ, tự giam hãm giữa khói thuốc và tiếng sóng biển, thức đêm với nỗi tâm tư đen tối thì về làm gì? Tôi tự an ủi:
- Mình nên ở đây để bảo vệ sanh mạng cho mình và cho lão Tư Hiếm.
Trên nhà, vợ chồng ông Henri nói chuyện thì thào, cãi to tiếng vài câu. Máy thâu thanh bỗng vang lên vài điệu nhạc. Lính Lê dương bên đồn tập họp điểm số. Trời lại mưa.
Tiếng động cơ xe hơi, tiếng giày đinh, tiếng kêu réo của bọn lính Lê dương đã đánh thức tôi, đâu hồi bốn giờ khuya.
Xe chạy ầm ầm ngang qua cổng biệt thự. Bà Henri đã ra khỏi nhà hồi nào... Ngọn đèn ở hành lang vẫn để sáng, suốt đêm. Một đóm lửa từ từ rề lại trên chiếc ghế bố, nơi tôi đang nằm. Tôi giả bộ nhắm mắt. Đóm lửa nọ đáp xuống sát mí mùng rồi từ từ rời ra: ông Henri Nhan dò chừng xem tôi còn nằm tại đây hay đã lẻn trốn!
Sau buổi lót lòng, ông Henri bảo tôi đem giấy mực tiếp tục viết nốt phần tiểu sử cận đại nhứt của đời ông, giai đoạn từ 1944 đến nay. Ông dẫn giải sơ sài vài nét chánh rồi ngồi trầm ngâm, lẩm bẩm từng chập:
- Chừng này, đoàn xe tới cầu số Một, lính sắp hàng xuống tàu... Con kinh cạn lắm, “tụi nó” chẳng có cắm chướng ngại vật, tàu của Tây hay lắm, chạy nơi nước cạn dễ dàng. Tàu tiến về Mốp Giăng theo lòng con kinh do tôi đào hồi năm 1936. Nếu chú ý, ông quan tư sẽ thấy rõ núi Ba Thê, núi Tượng, cái Sân Tiên trên núi... Chẳng hiểu nhà tôi biết cách giải thích không nữa? Đàn bà hời hợt lắm. Chắc thế nào đoàn tàu cũng ghé ngay bến, lên sân nhà tôi. Nhà bị phá hết rồi nhưng còn nền sân lót gạch phía trước...
Những điều ấy, ông chủ Nhan nói cho riêng ông ta nghe... Tôi giữ thái độ im lặng, cắm đầu viết. Ngòi viết chạy nhanh trên giấy nhưng tâm trí của tôi vẩn vơ tận đâu đâu. Rủi ông quan tư bị phục kích dọc đường, tình thế sẽ ra sao? Tánh mạng của tôi thật mỏng manh như... lông hồng, chỉ cần một ngọn gió nhẹ cũng đủ bay mất đất.
- “Năm 1945, vào tháng Ba, quân đội Nhựt đảo chánh Pháp. Bấy giờ ông Henri Nhan giữ thái độ bàng quan. Sở tình báo Đông Nam Á của Nhựt hoàng phái người đến dụ dỗ, mua chuộc, dọa nạt nhưng ông chẳng sờn lòng. Ông tin tưởng nơi sự biến chuyển của tình hình quốc tế: kháng chiến quân Pháp, dưới sự lãnh đạo của tướng De Gaulle nhứt định thành công, người Việt Nam nhờ đó sẽ được hưởng qui chế tự trị để tiến lần lần tới nền độc lập thật sự. Thống chế Bê Te là nhân vật lỗi thời.
Năm ấy, vào tháng Tám, ông lãnh chức cố vấn Thanh niên Tiền phong tỉnh Rạch Giá. Sau ngày Việt Minh cướp chánh quyền, ông bị chúng cưỡng bách, lạc quyên tất cả bốn kí lô vàng y. Đầu năm 1946, trung thành với tôn chỉ ‘minh triết bảo thân’ ông tản cư về vùng ‘giải phóng’ Minh Lương, chẳng thèm trở về đồn điền Mỹ Lâm. Ông dư hiểu rằng các tá điền thừa cơ hội ấy đập phá nhà cửa, bắt giết trâu bò của ông nhưng ông mỉm cười: Tình thế loạn lạc, ‘khôn cũng chết, dại cũng chết, biết là sống’, ‘mình đừng khiêu khích ai nhưng cũng đừng để ai khiêu khích mình’. Lúc tản cư, ông thấy bọn Việt Minh đã chủ trương nhiều điều sái quấy khiến ông không phục. Nghe tin ở Sài Gòn nhóm ‘Nam Kỳ tự trị’ phát triển ồ ạt, ông vui mừng, vượt vòng vây trở về chợ Rạch Giá, quy thuận với nhà binh Pháp và ông gặp những người bạn Pháp cũ... Ông mạnh dạn đánh điện về Sài Gòn, hưởng ứng thuyết phân ly, triệt để ủng hộ Thủ tướng Nguyễn văn Thinh nhưng đồng thời chỉ trích vài điểm quá nhu nhược của chính phủ Nam Kỳ tự trị.
Tôn chỉ của ông Nguyễn văn Nhan, tóm lại trước sau vẫn là: ‘Tranh đấu cho xứ sở. Nước Nam Kỳ của người Nam Kỳ. Tự do, Hạnh phúc, Sung túc’. Nhiều người vì chưa am hiểu bầu nhiệt huyết của ông, vội trách ông là phần tử cách mạng quá khích”.
Từ trong phòng, ông Henri Nhan lại trở ra, một tay cầm tấm bản đồ, một tay cầm ly rượu... Vừa ngồi xuống ghế, ông nhăn nhó:
- Chị ở đâu? Đem thêm một đôi vớ nữa cho tôi. Bữa nay sao tôi nhức bắp chân hơn mọi khi?
Trải tấm bản đồ lên bàn, ông gọi:
- Ông thơ ký... Ủa ông thi sĩ.
Nghe gọi đích danh, tôi ngẩng đầu lên:
- Thưa ông?
- Ông xem bản đồ... Điền đất của tôi, rõ ràng bao la bát ngát nào kém Domaine Agricole của Tây. Thật hãnh diện cho người Việt Nam. Mặc dầu cái “ê xen” rút lại, nó vẫn to hơn lòng bàn tay, trong khi đồn điền Tây Bẹt Te cũng chẳng lớn hơn bao nhiêu... Lẫm lúa tôi ở ngay “bon” này... Chuyến về, chắc chắn ông quan tư Ca Rê và nhà tôi đi con đường này, quẹo ra kinh này...
Tiếng phi cơ rền vang, càng rõ rệt. Hai chiếc săn giặc sơn đen ngòm tiến về phía đồn, ngay biệt thự, hạ xuống thấp để lộ màu cờ tam sắc dưới cánh rồi trở về hướng Đông bắc.
Ông Henri Nhan reo to:
- Đó, ổng đang trên đường về. Tụi máy bay đánh điện cho đồn hay. Hành quân quan trọng, đích thân quan tư Ca Rê chỉ huy, hèn gì! Dè đâu ổng lo châu đáo đến chừng đó. Chắc chắn ổng bình yên, thắng trận. Bằng không, quân tiếp viện kéo vô Mốp Giăng ầm ầm rồi. Nãy giờ, tôi mới hiểu thấu đáo câu nói của ông quan tư hồi trưa hôm qua. Khi tôi dịch câu chuyện Chúa Ngung, Ma Nương cho ổng nghe, ổng nói: “Năm 1914 - 1918 và 1940 - 1945 người Việt Nam giúp nước Pháp chống Đức. Đã đến lúc người Pháp hy sinh đổ máu giúp trở lại người Việt Nam”. Ổng còn hứa đem quyển tiểu sử của tôi về Pháp để xuất bản làm tài liệu lịch sử Đông Nam Á. Tiền bản quyền khá to. Tôi sẽ tặng ông thi sĩ sáu mươi phần trăm. Nhiều điều may mắn đang đến cho tôi và cho ông thi sĩ.
Đoàn “công voa” lính Lê dương đã tới. Trên chiếc xe đi giữa, bà Henri và ông quan tư Ca Rê ngồi bên nhau, họ đưa tay ngoắt trong khi ông Henri chạy ùa đến cổng, quên xỏ chân vào dép. Hai tay ông ta dang ra như hai cánh cửa sổ mở tung đón tất cả ánh mặt trời và không khí.
Bọn Lê dương hát inh ỏi, quơ tay làm dấu hiệu với bọn trong đồn.
Ông Henri Nhan đích thân mở cổng.
Bà đi nhanh vào nhà, dáng điệu nhảy nhót, miệng nói huyên thiên:
- Bình yên, vạn sự may mắn! Ông Ca Rê giữ bo bo cái tượng đá nữ thần Ba Tư, khen ngợi rằng cái ngôi sao của tôi quá tốt. Cuộc hành quân sở dĩ được toàn thắng... nhờ nụ cười hộ trợ của nữ thần... Ba Tư tái sanh là tôi đây! Tụi Tây nịnh đầm giỏi quá.
Ông Henri cau có:
- Mình cứ nói bá láp. Tới Mốp Giăng hả?
- Ông này hỏi lạ! Phải tới đó mới về đây chớ. Nhà cửa lưa thưa như... chòm mả. Dân tá điền chạy trốn ráo trọi. Cảnh cũ mà mình nhìn không ra. Phải có mình đi theo, chắc mình khóc quá. Ông Ca Rê lại miễu để “cuổm” cái pho tượng đá, bắt một người tá điền của mình, cái ông già lên xác mọi lần đó. Ông già đó cũng bướng quá! Ông Ca Rê muốn hỏi han sự tích, ông già nhè lên xác, múa tay múa chân, đòi vặn họng Tây, vặn họng luôn cả vợ chồng nhà mình! Ông già lên xác nói rằng Chúa Ngung, Ma Nương đã tặng tất cả đất đai cho cô gái năm xưa bị chủ... Nhan ám sát... Chúa Ngung, Ma Nương nói từ bốn năm nay vợ chồng mình không cúng miễu nên bị mất quyền hạn.
Gương mặt ông Henri biến sắc, môi tái lợt:
- Cái gì? Thằng xác đó nói xấu tôi à? Nó lên xác giả, để vu cáo tôi! Nó đâu rồi! Tôi phải giết nó. Tôi phải thanh minh với ông Ca Rê. Tại sao ông Ca Rê không đóng đồn luôn để gìn giữ cái miễu như ổng đã hứa với tôi?
- Thì mình cứ qua bên đồn mà hỏi. Ông Ca Rê bắt sống lão xác đó, còng tay còng chân đem luôn về đây. Ông Ca Rê nói đất của mình vô dụng chỉ để dành trồng cỏ, nuôi rắn... chẳng nhằm địa thế quan trọng, đóng bót uổng lính.
Ông Henri Nhan chạy tất tả ra cổng:
- Điệu này chắc tôi chết mà không nhắm mắt. Để tôi qua bên đồn mắng ông Ca Rê một trận!
Nhưng “người chết không nhắm mắt” giờ phút này chính là tôi.
Chờ ông Henri khuất dạng, bà nói khẽ:
- Ông thi sĩ về đi, hết công chuyện rồi! Vọc nước giỡn trăng, tôi biết trước mà. Ông cứ lãnh thêm trăm đồng. Đừng ở đây, đừng lẩn quẩn ở Xóm Biển lâu ngày không nên. Ông già bị bắt dường như mang giấy “lách xê” địa chỉ cư trú Xóm Biển như ông.
Tôi thừ người, như đứng giữa tư bề lửa đỏ. Bà vịn vào vai tôi, nói nhanh:
- Tôi mến ông lắm, rất tiếc chưa giúp ông được gì. Bấy lâu, tôi xem ông như người em đáng thương. Ông về đi, nhớ coi chừng coi đỗi. Đừng buồn. Sự việc trước sau gì cũng chỉ xảy ra như vậy thôi!
Nhà lão Tư Hiếm đóng cửa chặt, đóng từ trưa hôm qua. Người lân cận nói thêm:
- Sau khi thầy ra khỏi nhà, chập sau ổng cũng đi, mang theo cái ống điếu cây ớt hiểm. Chắc là đi chơi xa.
Tôi nằm im trên giường, chẳng màng việc ăn uống. Tôi đóng chặt cửa, chẳng cần hé ra xem thử. Tôi biết rằng nhà lão Tư Hiếm chẳng bao giờ mở cửa để đón tôi nữa. Ngay chiều hôm đó, dường như có hai người lạ mặt đi ngang qua nhà lão, nhìn số nhà rồi nhìn qua nhà tôi đang ở trọ. Tôi hút thuốc, tay chân mãi lạnh ngắt. Tôi không sợ những người còn sống, tôi chỉ sợ người khuất mặt... Họ có thể gặp tôi bất cứ giờ phút nào, bất chấp cả những bức tường ngăn cách. “Đừng buồn... Trước sau gì cũng chỉ xảy ra như vậy thôi!”. Câu nói chân thành ấy có lẽ chỉ an ủi đắc lực kiểu người ưa đùa giỡn như bà chủ Nhan. Đối với tôi, nói vẫn là ngụy biện. Ngoài biển đen ngòm, vài đốm sáng leo lét của loại đèn bão treo tòn ten tận chót cột buồm ghe lưới. Ghe neo lại nhưng ánh đèn rung rinh, trở thành những vì sao trong đêm tối om. Lâu lâu, vượn hú, khỉ kêu nghe thảm thiết bên rặng cây bần. Mưa lạnh lâu ngày, vin mãi trên cành, khỉ vượn vừa sợ đói vừa sợ té, rốt cuộc vẫn té vì đói vì lạnh để rơi vào miệng cọp. Đó là chuyện rừng núi. Ở Xóm Biển này, khỉ vượn chỉ bị trầy trụa, lem lấm chút ít để rồi từ bãi bùn chúng trèo trở lên cành mà vin mãi.
Sáng hôm sau, người lối xóm tri hô: Một cái xác vừa trôi vào bãi bùn, xác của lão Tư Hiếm! Cá tôm rỉa xác lão gần hết nên - ngoại trừ tôi ra - người trong xóm chẳng ai rõ lão từ đâu trôi đến và chết... vì chứng gì. Vài giờ sau, nước ròng, cái xác đó trôi ra Hòn Tre mất dạng.
Tôi chẳng dám chạy ra biển để xem. Mênh mông quá! Từ trong lỗ tai tôi, vọng ra lùng bùng nhiều câu nói khàn khàn mơ hồ. Trước mắt tôi, chập chờn vài mảnh chiêm bao. Hôm sau, tôi lìa bỏ Xóm Biển - cái quê hương tạm bợ - để đi tìm sanh kế ở thành phố khác.
Bây giờ đây, chế độ điền địa đã thay đổi hẳn, những đồn điền “cò bay thẳng kiếng” đều bị truất hữu, nông dân lần lần trở thành tiểu điền chủ. Qua bao năm chiến tranh Việt - Pháp, hàng vạn người chịu hy sinh, nào phải riêng ai. Bóng của lão Tư Hiếm phai dần trong tâm tư của tôi. Từ buổi lên Sài Gòn, tôi tập nghề viết báo, thỉnh thoảng viết bài nhận định về kịch trường; sinh kế đã tạm ổn định. Chuyện viết tiểu sử cho ông Henri ngày xưa không còn đáng nói nữa. Nhưng quả đất vốn tròn! - Xin phiền các bạn hãy ráng đọc thêm vài trương nữa, tuy nó hơi nhàm, kém hấp dẫn. Truyện Hậu Vân Tiên làm sao lý thú bằng truyện Vân Tiên hồi đầu.
Số là buổi ấy, tôi về gác trọ chợt thấy ai để sẵn trên bàn một bó hoa huệ! Từ thuở bé đến từng tuổi này, tôi chưa được người nào tặng hoa tươi cả. Hay là thiên hạ lầm địa chỉ? Dáng điệu ngạc nhiên của tôi càng khiến bà chủ nhà thắc mắc:
- Ủa! Thầy không quen với bà đó sao? Bả hỏi trúng tên thầy, dường như gởi lại phong thơ đâu đó. Bả đi xe Huê Kỳ mới tinh. Chào hỏi tử tế lắm.
Phong thơ nằm khép nép sát mặt bàn, che lấp dưới bó hoa. Bên trong, một tấm danh thiếp: Đoàn Thi Ca Vũ Nhạc Kịch “Hương Sắc 65” Giám đốc: bà Nguyễn thị Quỳnh Hương, biệt xá 3000/1 đường Trương Minh Ký Sài Gòn.
Gánh Hương Sắc thuộc vào hạng nhỏ lưu diễn miền lục tỉnh, năm ngoái về Sài Gòn hát ba đêm nhưng chẳng gặt hái kết quả tài chánh khả quan nào. Nghe đâu sau chuyến Trung du, đoàn lên Kontum, rã tại đấy từ hồi tháng sáu. Bà Nguyễn thị Quỳnh Hương là ai? Gánh hát nào mới lập đây? Bức thơ kèm theo tấm danh thiếp giúp tôi hiểu rõ.
Thân gởi ông Hoài Hương
Ký giả Kịch Trường,
Nhận được thơ này chắc ông hơi ngạc nhiên nhưng xin phép ông cho tôi tự giới thiệu; tôi là bà Henri Nguyễn văn Nhan ngày xưa ở Rạch Giá. Trong thời gian gần đây, tôi hân hạnh thấy ông tiến nhanh với những bài phê bình sắc bén. Đoàn “Hương Sắc 65” đang trên đà thành hình và hy vọng rất nhiều nơi thiện chí của ông để góp phần xây dựng sân khấu nước nhà. Nhà tôi vẫn thường nhắc nhở, gặp ông nhà tôi mừng lắm. Trưa mai, xin ông vui lòng đến nhà tôi dùng buổi cơm thân mặt để ôn lại những thời gian qua...
Giai thoại Chúa Ngung, Ma Nương, cái chết của Tư Hiếm, chuyện chuột, bưng sen bỗng nhiên bừng sống dậy. Tôi hút thuốc liền miệng, nhớ tới những trang giấy nháp do tôi viết hồi xưa. Bữa cơm trưa mai nhứt định gây chút ít hiểu lầm. Vài bạn ký giả sẽ hồ nghi rằng tôi sắp bẻ cong ngòi bút, chuẩn bị nâng đỡ đoàn hát của bà Quỳnh Hương một cách thiếu vô tư. Nhưng tôi bất chấp dư luận ấy. Tôi muốn gặp ông Henri Nhan để hiểu rõ về cái chết của lão Tư Hiếm, về cái miễu ở Mốp Giăng. Bao nhiêu nước chảy qua cầu... chắc ông ta sẵn sàng nói riêng với tôi tất cả sự thật.
Ngôi biệt của vợ chồng ông Henri Nhan chiếm khu đất hơi rộng - tuy bé hơn cái bất động sản ngày xưa ở Rạch Giá. Mười giờ sáng, tôi đã rón rén tới cổng, đứng ép mình, thử quan sát bên trong. Vóc dáng của ông Henri làm sao tôi quên hoặc lầm lẫn với kẻ khác! Dưới dàn hoa thiên lý mát rượi, ông ngồi hút thuốc, chân mang vớ tận gối, đội chiếc bê rê đen (chắc là để che cái đỉnh đầu sói sọi). Giữa sân, hai hòn non bộ đối diện, “hai hải đảo thần tiên” thì đúng hơn vì có nước bao xung quanh. Dưới đáy hải đảo, ông đã xây một chốn thủy cung dành riêng cho loại cá vàng, cá sọc... Bỗng dưng, ông búng hai ngón tay nghe “tróc, tróc”. Từ bên kia nhà, một con chó caniche chạy tung tăng ra sân. Nó kéo khệnh khạng một kiểu xe mà các tướng La Mã thời xưa thường dùng khi ra chiến trận. Trên chiếc xe hai bánh ấy, một con búp bê tí hon nằm ngửa, kê trên gối gòn. Ông Henri nói lẩm bẩm vài câu tiếng Pháp. Con chó dừng bước, quay bên phải, bên trái... Tôi thương xót cho tuổi già của ông: trò chơi ấy ngụ nhiều ý nghĩa! Ông ao ước sẽ có một đứa con trai để nối dõi - nỗi ao ước gần như tuyệt vọng. Lúc điều khiển con chó, hàm râu ông nhếch lên, khoái trá như người hát xiếc đang chế ngự một con sư tử hung hăng nhứt thế giới!
- Chào ông chủ! - Tôi mạnh dạn lên tiếng, chẳng bợn chút tự ti mặc cảm. Thời nay khác thời xưa. Nếu ông chủ Nhan “đã” là một nhân vật thì tôi đây “đang”... là một nhân vật đến viếng theo lời yêu cầu của chủ gia chớ nào phải vì muốn xin công việc làm.
Qua vài câu hỏi thăm, ông nói:
- Nhà tôi đi kêu đào kép, mướn họa sĩ, giao thiệp với ký giả. Tôi đau yếu hoài, ngồi nhà đóng vai tuồng của... một cây nêu!
Ông nói tiếp:
- Thời buổi tân tiến này không cần dựng cây nêu trước sân, thiên hạ vẫn cứ ăn tết vui vẻ rộn rịp như thường. Ở thành thị, thôn quê gì cũng vậy, phải không ông thi sĩ. Tôi là cây nêu trong nhà!
Tôi đỡ lời ông, liếc mắt qua bàn giấy:
- Ông vẫn là người hữu dụng cho xã hội, nếu ông muốn. Dường như ông đang viết...
Ông thở dài:
- Tôi dự định viết hồi ký, theo kiểu Thủ tướng Churchill nhưng còn trong vòng chuẩn bị, nghiên cứu thêm về triết học Đông Tây, rút vài kinh nghiệm lưu cho hậu thế. Đâu như cái “tiểu sử” hồi xưa, ông quên giùm tôi, đừng nhắc lại.
Tôi chụp lấy cơ hội tốt ấy:
- Trong thiên hồi ký bây giờ, tôi tin rằng ông còn dành ra mươi hàng để nói về chuyện Chúa Ngung, Ma Nương, quan tư Ca Rê và... tôi.
- Từ sáu bảy năm nay, tôi ao ước gặp ông để thanh minh, kẻo ông hiểu lầm. Người trẻ tuổi như ông đôi khi hẹp lượng! Thật ra, giới đại điền chủ ở Hậu Giang rất hiền hậu, so với các “anh hùng hảo hán” đi chinh phục... đất hoang ở Mỹ hoặc Nam Mỹ Châu hồi thế kỷ thứ mười tám.
- Tôi hiểu rồi, nhưng còn cái tích Chúa Ngung, Ma Nương đầu đuôi ra sao? Trong miễu thờ pho tượng gì?
- Chuyện dài lắm, ông hãy nằm trên chiếc ghế “phô tơi” nghỉ lưng. À, vài tháng sau cuộc hành quân Mốp Giăng hồi xưa, ông Ca Rê đổi ra Trung Kỳ, tử trận ngoài ấy. Pho tượng đã được gởi về Pháp trước đó một tháng. Ông Ca Rê bảo là tượng người nữ tỳ cầm thếp đèn nhưng đã gãy tay, thuộc mỹ nghệ Ba Tư, sản xuất tại Óc Eo, chân núi Ba Thê từ thế kỷ thứ ba, thứ tư sau Tây lịch...
Bấy giờ, tôi mới hiểu tục lệ cúng Chúa Ngung, Ma Nương gọi một cách văn chương là lễ “tá thổ”. Theo lời ông Henri Nhan kể thì bốn chữ ấy chỉ tạm ghi lại bốn âm thanh khó đọc: “Chu Ngun, Me Nang”, tên đôi vợ chồng ma quái. Chẳng ai rõ tục lệ đó đã có từ thuở nào. Họ là hai vợ chồng nên phải chọn hai người lên xác. Xác “lên” nói thứ tiếng khó hiểu, đòi ăn mắm sống và rau răm. Chủ điền phải xin phép mướn đất với hai vợ chồng Chúa Ngung, Ma Nương vì mảnh đất hiện tại, mặc dầu còn bỏ hoang ít nhiều, vẫn thuộc quyền sở hữu của vợ chồng họ từ ngàn năm trước. Năm đó, sau khi khẩn đất, ông chủ Nhan đến Mốp Giăng công bố cho ai nấy biết quyền hạn của ông. Nông dân nhôn nháo lên phảm đối. Để hợp thức hóa về mặt địa bộ đối với nhà cầm quyền Pháp, ông chủ Nhan mướn lập tức một viên kinh lý để ông này đến tận Mốp Giăng thi hành việc đạc điền, với sự yểm trợ của bốn người lính mã tà. Cuộc tranh chấp diễn ra nhưng ông chủ Nhan viện cớ, đi vắng mặt. Trong khi ấy, viên kinh lý cứ ung dung bố trí “bông tiêu” đặt ống kính để nhắm, đo đất.
Số nông dân bèn giết heo ăn thề, uống rượu giữa trời. Bỗng nhiên một cô gái tên là Thừa chạy tới đứng sát vào ống kính để che lại. Viên kinh lý nói khẽ:
- Con nhà ai kỳ quá vậy. Đi dang ra xa để người ta làm việc... Mấy chú lính mã tà đâu rồi? Chúng ta cứ thừa hành phận sự do ông Henri Nhan giao phó, được quan Thống đốc Nam Kỳ chuẩn y.
Một chú lính mã tà nói giọng khiêu khích:
- Cô này mần cái gì ngộ quá ta... Để quan kinh lý nhắm máy. Đi dang ra. Muốn chồng hả? Chịu làm bé tôi không?
Cô gái quát to:
- Tôi đứng đây hoài, tôi không chịu thua mấy người đâu!
- Cô ăn thua với Tây hả? Thử ăn thua coi?
Anh lính mã tà nói chưa dứt lời, cô gái đột nhiên cởi toạt tất cả mớ y phục lem lấm của mình.
Đôi mắt quan kinh lý rời khỏi ống nhắm trắc địa, ông giận run lên:
- Làm cái gì kỳ vậy? Trần truồng như nhộng, giữa đám đông cô chẳng biết mắc cỡ à?
Cô gái đáp:
- Mắc cỡ cái gì? Hễ cái miệng đói thì cái “mông” cũng chết! Xưa nay, chưa có người nào chết đói mà cái “mông” còn sống được. Tôi làm vậy đó. Không mắc cỡ gì hết.
Tuy nhiên, hai hôm sau, việc đạc điền vẫn hoàn tất. Tên mã tà bèn giết lén cô gái vô lễ nọ rồi hắn đến gặp ông Henri để xin chút ít tiền thưởng.
... Nghe câu chuyện thương tâm ấy, tôi thầm phục tinh thần của phái yếu. Lắm khi, họ gan dạ hơn phái mạnh, bất chấp gươm súng của thực dân Pháp - như cô gái nọ là một thí dụ.
Tôi hỏi nhanh:
- Mồ mả cô gái còn không? Tên sát nhơn ấy bây giờ ở đâu?
Ông Henri Nhan mỉm cười:
- Xin lỗi, hay là... ông thi sĩ nghi ngờ chánh phạm là tôi?
Tôi cau mày:
- Ông hơi nóng. Tôi xin lỗi ông đó. Hồi xưa, ông đâu cần đích thân xách dao, đâm lén một thiếu nữ tay không... Tôi nghi ông để làm gì?
Ông Henri Nhan gật đầu:
- Ông thi sĩ tin tôi, lẽ đâu tôi chẳng nói tiếp. À, sau khi lãnh tiền thưởng, tên mã tà sát nhân đó về chợ Rạch Giá. Hai ngày sau, cái thây cô gái nổi sình trôi tấp trước nhà tôi. Bấy giờ lão Tư Hiếm mới xuất hiện. Hồi ở Xóm Biển chợ Rạch Giá, Tư Hiếm là người tri kỷ của ông! Điều ấy rất tiếc... tôi và ông quan tư Ca Rê biết hơi muộn!
- Nhờ mấy ông xem lại địa chỉ cư trú ghi trong giấy “lách xê” của lão ta chớ gì?
- Lão Tư Hiếm thua cờ bạc, tới gặp tôi để bày kế lên xác Chúa Ngung, Ma Nương, “dựng đứng” cái pho tượng đá trong miễu. Nhờ vậy đân tá điền lần hồi sống an cư lạc nghiệp... Liên tiếp mấy năm liền, lão ta trở thành nhân vật chuyên nghề lên xác Chúa Ngung, Ma Nương, coi quẻ tử vi cho dân trong điền. Năm 1946, lão ta tản cư ra chợ Rạch Giá, chẳng hề gặp mặt tôi. Lão còn sống dai hơn, nếu lão không gặp mặt ông.
Tôi giựt mình:
- Ông nói gì?
- Tôi nói: Chính ông thi sĩ đã giết lão ta mà không cần gươm súng!
Cố nén cơn tức giận, tôi suy nghĩ hồi lâu rồi nói to:
- Tôi nhớ rõ lắm. Khi đoàn “công voa” từ Mỹ Lâm rút về đem sự thất vọng cho ông, ông chạy lập tức qua đồn Lê dương, vừa chạy vừa tuyên án xử tử lão ta. Bà ở nhà có thể làm chứng điều ấy... nếu bà còn nhớ. Đành rằng tôi vô tình tiết lộ cuộc hành quân cho lão biết trước. Nhưng giữa tôi và lão, nào ai thù oán ai mà ông lý luận như vậy?
- Xin lỗi ông thi sĩ, chuyện xưa rồi. Nói lại mà nghe vậy thôi. Trong thực tế, nếu ông không đến bàn luận với lão thì chắc chắn lão vẫn sống ở Xóm Biển chợ Rạch Giá hoài hoài. Ông nên nhớ rằng trước khi đem bắn, tụi Tây tra tấn lão, lão có nhắc tới tên ông! Bằng không, ông đã bị bắt ngay rồi bị bắn thả trôi sông một lượt với lão... Kể từ đó, ông Ca Rê sanh nghi, luôn luôn theo dõi mọi hành động của tôi. Một phần vì ông ta đã “giữ” pho tượng trong tay rồi. Phần khác, vì tôi đã “ngụy biện” để cứu sinh mạng cho một thi sĩ...
Tôi đứng dậy, đi tới đi lui:
- Thà tôi chết hồi đó một lượt với lão Tư Hiếm còn sướng hơn... sống mà nghe ông kể ơn. Té ra bấy lâu nay tôi vô ơn bạc nghĩa quá. Nếu... trúng số độc đắc, tôi đúc ngay một pho tượng kỷ niệm để chưng trong phòng... Tượng một người bé nhỏ - là tôi - đang đứng khom lưng cõng đội ơn một người to lớn - là ông.
Ông Henri Nhan cười giòn:
- Ông thi sĩ nói vậy quá đáng, tội nghiệp tôi quá. Tôi nào xứng đáng.
Tôi gắt gọng:
- Vậy thì tôi đúc ngược lại một người lớn tuổi - là ông - khòm lưng nâng đỡ trên vai một người bé nhỏ - là tôi - Chúng ta đạp trên cái xác bằng đồng của lão Tư Hiếm đang nằm úp mặt xuống đáy biển. Lão mới là chánh phạm của cuộc cãi vã hôm nay!
Ông Henri Nhan nổi giận lên, từ từ rút khăn chậm mấy giọt mồ hôi trên trán và chùi mớ nước miếng sùi hai bên mép. Tôi ngỡ rằng ông định mở loạt đả kích khác, nhưng tôi lầm to. Nụ cười bỗng dưng nở trên môi ông ta, hiền hòa hơn bao giờ hết.
Có tiếng dép lẹp xẹp. Mặt tôi chưa kịp quay lại, hai bàn tay mềm mại nào đã nhanh nhẹn bịt mắt tôi, tuy thân ái nhưng bịt quá chặt.
Tôi nói nhanh:
- Trời! Bà chủ chớ ai. Buông hai bàn tay ra.
Bà cười với hai núm đồng tiền thuở nào:
- Tôi biết ông chờ tôi! Giận tôi không? Giận lắm chớ gì? Tôi mời cô đào Thiên Thai để chuộc cổ về làm đào chánh. Tôi về nãy giờ nghe hai người... đàn ông “đấu lý” chuyện đời xưa... Ông đừng phiền nhà tôi. Tánh ổng lẩm cẩm lắm. Hồi sáng, tôi nhắc chừng ổng nên đón rước... nhà cố vấn tương lai để bàn bạc về cốt tuồng chủ lực của đoàn “Hương Sắc 65”. Dè đâu, ổng gợi chuyện đâu đâu, lạc đề ráo trọi.
- Thưa bà, cũng chẳng lạc đề cho lắm, ổng với tôi...
- Tôi hiểu, thôi mời ông thi sĩ đến phòng ăn, cô Thiên Thai chờ nãy giờ.
Thiên Thai thuộc vào hạng đào cải lương trẻ tuổi, tuy mới vào làng độ ba năm nay nhưng - theo nguồn tin của các thông tín viên kịch trường - cô được tổ đãi, “sáng sân khấu”. Cô cúi đầu chào... Trông gương mặt trái xoan ấy, tôi nhớ mang máng đã có lần mình viết tiểu sử cho cô, kèm theo những câu phỏng vấn và trả lời theo tưởng tượng... Hồi đó lúc đoàn “Phim Nhạc” lưu diễn tại Bà Rịa, cô gởi thơ về tòa soạn, than phiền sự “nâng đỡ” của “quý báo”, kèm theo bức ảnh ngây thơ chụp nghiêng với mái tóc thề trôi chảy trên vai. Giờ đây trông cô hơi khác, áo dài nylon cổ đứng, mí mắt tô đậm gần giáp chân mày, tóc cắt đều phủ ngang trán theo kiểu Ai Cập.
Bà Henri nói luôn mồm:
- Công chúa Ba Tư đó! Đẹp hơn pho tượng đá... Thôi, hai ông uống rượu, thông cảm, xây dựng phải không cô Thiên Thai? Hồi ở nhà quê, mỗi năm mình chỉ uống một lần rượu vào hồi đầu xuân để quên hờn giận quá khứ, bắt tay nhau làm ăn bước qua năm mới. Bây giờ, suốt ngày hiểu lầm lu bù, thông cảm lu bù. Bà bầu đoàn “Phim Nhạc” thắc mắc tôi về chuyện “bắt đào bắt kép”. Tôi phải rủ bà đi ăn Chợ Lớn chiều mai. Rồi mấy anh ký giả phiền tôi về việc vận động lập gánh mà không kèn không trống... Tôi phải giải thích hồi lâu, muốn về nhà hồi 11 giờ mà lóng nhóng tới bây giờ...
Uống xong ly nước ngọt, cô Thiên Thai kiếu từ; bà Henri đưa cô ta ra sân, nói nhỏ to. Tôi thấy họ cúi đầu chào nhau đến bốn chập rồi bổ túc lai rai câu chuyện để từ giã lần chót tại cổng.
Bà Henri trở vào, nhìn chồng:
- Sao? Ông xúc tiến kẻo trễ. Tôi đã nhờ báo chí loan tin thành phần đào kép, chuyên viên ánh sáng, soạn giả... rồi đó.
Ông Henri thở dài:
- Tôi muốn ra mắt tuồng “Sự tích lầu ông Hoàng ở Phan Thiết”.
Bà Henri nguýt dài, nói với tôi:
- Ông ký giả thử nghĩ. Nội cái tựa của ổng nghe đủ lỗ vốn rồi. Phải sửa cái tựa lại. Còn về hình thức thì... khó thực hiện. Toàn là nhân vật Tây với đầm thuộc địa thời gian gần đây. Phải Tây với đầm hồi thế kỷ 17, 18 họa chăng! Nhà tôi ưa... thực dân “một cây” nhưng cũng khoái kể công đánh thực dân của mình!
Vẻ mặt ông Henri vẫn lạnh lùng:
- Cần cái nội dung hơn, vả lại chuyện lầu ông Hoàng ở Phan Thiết gây cho tôi nguồn cảm hứng... mặc dầu tôi bất tài. Mời bà con cầm đũa, tôi uống rượu kể chuyện cũng no.
Trước khi vào chuyện, ông Henri trình bày sơ qua phần triết lý của vở tuồng, thứ triết lý mà ông đã phát minh sau khi lê gót phiêu lưu khắp các thắng cảnh miền Nam. Dưới mắt ông, vùng Cao Nguyên tuy hùng vĩ nhưng gió núi mưa ngàn đem sự lạnh lẽo cho tâm hồn. Bãi biển Vũng Tàu quá sang trọng, ngoài khơi thiếu vài hòn đảo nên du khách ngỡ mình rơi vào cái hố dục vọng mênh mang đại hải! Nhưng bãi Phan Thiết với lầu ông Hoàng hoang phế đã đem lại cho ông Henri một giấc mơ hoa, vì vậy vở tuồng cải lương của ông đang dự trù soạn thảo sẽ lấy tựa “Một giấc mơ hoa” hay là “Lầu ông Hoàng ở Phan Thiết”. Ông Hoàng tức là Công tước De Montpensier, thuộc dòng hoàng tộc bên Pháp. Ông ta đi ngao du khắp thế giới, trên chiếc du thuyền đặc biệt; đến mỗi nơi, ông mướn vài người dân bổn xứ: da đen, da vàng, da đỏ... Những công dân này đi theo du thuyền, ăn lương tháng. Nhiệm vụ của họ rất đơn giản: mỗi buổi sáng, khi ông Hoàng thức dậy, ban nhạc hoàng gia thổi kèn... Họ đến chào mừng cung kính, chúc ông vui vẻ... vậy thôi! Cứ đến một thắng cảnh, ông Hoàng cất một nhà nghỉ mát cực kỳ sang trọng; cất sẵn để đó chờ đôi ba năm sau viếng trở lại một lần. Năm nọ, ông Hoàng viếng bãi biển Phan Thiết. Quan Công sứ Phan Thiết lúc bấy giờ là người thuộc phái Bảo Hoàng đã tổ chức đón rước trọng thể rồi quỳ xuống hôn tay ông Hoàng, gọi ông là Hoàng thượng... Vì mến cảnh mến người, ông Hoàng thích ý xuất tiền xây cất một biệt thự trên đồi để sống với người tình nhân từ Paris sang. Ngày ăn lễ lạc thành, ông Hoàng bày cuộc đốt pháo bông, đâu từ chín giờ đến hai giờ đêm. Dân chúng đứng xem mỏi mắt rồi nằm ngửa, nhìn mãi đêm thiên đường bất tận... Thế rồi người tình nhân ở lại biệt thự, ông Hoàng tiếp tục cuộc viễn du, cất thêm biệt thự mới, tìm thêm tình nhân mới. Lúc ông vắng mặt, hàng ngày bồi bếp vẫn tiếp tục trải nệm, rót nước, dọn thức ăn rồi giũ nệm, rửa chén bát như khi ông vẫn còn sống ăn uống tại đấy!
Nhưng cô tình nhân nọ lén tư thông với một người Pháp. Ông Hoàng hay tin ấy bèn phái một thủ hạ từ Paris qua Phan Thiết. Tên thủ hạ rình giết tại trận cả đôi gian phu lẫn dâm phụ rồi lên máy bay về Pháp. Báo hại ông Công sứ Phan Thiết phải lo việc tống táng...
Bà Henri Nhan lắc đầu:
- Chuyện nực mùi thực dân, khó ăn khách... Tôi nói nhiều lần rồi.
Ông cãi lại:
- Bà không chịu thời thôi. Tôi có quyền thích chuyện đó!
- Bởi vì ổng tưởng mình là ông Hoàng! Phải không ông thi sĩ. Ông tính sao mà nãy giờ cứ ngồi êm ru cười mím chi hoài vậy?
Tôi trả lời, tránh mọi hiểu lầm:
- Bà làm bầu gánh, quyền ấy của bà. Tuy nhiên, ý kiến của ông cũng đúng. Muốn viết, cần phải cảm hứng, dùng nhân vật để giải tỏa nỗi thắc mắc thầm kín của mình.
Bà nói:
- Vậy thì dễ quá. Ổng thắc mắc về cái vụ bị nghi oan giết người, ngày xưa. Tại sao chẳng đem sự tích đó soạn thành tuồng cải lương, xóa bỏ thù oán! Đôi trai tài gái sắc ở hai nước Ba Tư, Hy Lạp gì đó hiểu lầm nhau, họ xua quân ra trận, rốt cuộc chàng và nàng bị thương tích nhưng đôi trai gái gặp nhau, ăn năn hối hận. Rồi cả hai từ bỏ ngai vàng điện ngọc, ra đi với mối tình cao thượng. Sẵn đây, tôi dám nhờ ông thi sĩ soạn tuồng đó cho đoàn “Hương Sắc 65” của tôi... Nội dung như vậy, vừa hư vừa thực, vừa vô lý nhưng vừa hữu lý, khán giả chịu lắm. Chớ tuồng “Lầu ông Hoàng” của nhà tôi thật khó diễn quá. Chẳng lẽ ông Công sứ thực dân với ông Hoàng đều là người thiện? Khán giả bực mình.
Tôi lưỡng lự, hẹn về suy nghĩ rồi trả lời sau.
Bà Henri đưa tôi ra sân:
- Gấp lắm! Ông cứ hứa cho tôi mừng. Đừng nghe lời ổng. Gánh hát này quyền hạn hoàn toàn do tay tôi nắm. Tôi định nhờ ông, từ cả tháng nay.
- Bà nên tìm soạn giả khác, chắc ăn hơn.
- Nói gì chuyện đó. Vài soạn giả đã tới thương lượng rồi. Nhưng ông à, ông tin tôi không? Bao giờ tôi cũng muốn giúp ông, xem ông như em ruột trong nhà, cùng một quê quán.
Sực nhớ chuyện xưa, tôi bồi hồi cảm động:
- Tôi tin bà lắm chớ. Nếu hồi đó bà quên chú ý mở cổng thúc giục tôi về gấp thì...
Bà cười giòn:
- Ông gợi lại chuyện “quốc sự”. Thôi đi. Tôi chẳng hân hạnh gì khi nhớ tới quan tư Ca Rê. Phải nhà tôi đừng ghen bóng ghen gió, có lẽ tôi giàu hơn bây giờ nhiều. Tôi đâu dám thi ơn với ông, buổi xưa đó.
- Đành vậy, nhưng nếu bà vô ý thì ngày nay...
- Ngày nay, thiên hạ cũng như vậy, ông à!
- Nhưng tôi đã chết lãng nhách. Tôi mang ơn bà nhiều hơn là... mang ơn ông. Thú thật với bà, hồi nãy giận quá chẳng lẽ...
- Hơi đâu chấp nhứt ổng. Ổng dồn ép trái “bôm” từ chục năm nay để “nổ” ra “lấy le” với ông. Ngôi sao của ổng lu rồi. May là ổng nghe lời tôi, bán đất cho tá điền trước khi bị truất hữu. Ông nghĩ coi, thường bữa ổng ra sân bới từng cọng rác... để làm vệ sinh, giành công việc với người ở. Đi ngoài đường phố, gặp miểng ve chai, ổng cúi xuống lượm lên, giành sở làm của phu lục lộ. Lẩm cẩm quá. Một cái tai nạn cho tôi. Ổng lại giỡn, nuôi chó kéo xe... La Mã.
Tôi cúi đầu chào bà Henri. Bà giả bộ trợn tròn đôi mắt rồi cười:
- Nhớ viết sơ cái cốt chuyện nghe. Trùm chăn tối ngày như ông, làm ăn khó tấn lắm. Tung chăn, tìm không khí mới một lần xem sao. Đời mà, mình cần tìm sự hồi hộp để sống. Ông ráng viết sao cho ổng vui.
Tôi đáp:
- Dạ, viết chớ. Về nhà viết liền rồi đem lại cho bà.
- Chiều mốt tôi tới nhà ông, dễ hơn. Đúng hẹn nghe!
“Hồi thế kỷ thứ mười sáu, Ba Tư là một cường quốc thâu gồm cả địa phận Trung Đông. Nhơn buổi lễ Du Xuân, nam thanh nữ tú rủ nhau múa hát, mừng tiết hoa hồng nở và tế thần Mặt Trời. Chàng Mai Kha tình cờ gặp nàng Y Liên. Quá cảm mến cô bạn gái, chàng trao tặng cho nàng một sợi dây chuyền có nửa mảnh tim vàng. Nàng Y Liên thẹn thùng, mắng chàng. Nhưng người quản gia hối thúc, Mai Kha lên ngựa về để nàng Y Liên ở lại với sợi dây chuyền kỷ niệm.
Thời gian trôi qua. Đế quốc Ba Tư tan rã. Cha của Mai Kha thừa cơ loạn lạc, soán ngôi, xưng hoàng đế. Cha của Y Liên đến vùng sơn cước xưng vương, chống lại chánh quyền trung ương. Mai Kha trở thành hoàng tử, thống lãnh hai vạn tinh binh đến bình định miền sơn cước.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Hoàng tử Mai Kha chiếm căn cứ địch quân, thắng trận nhưng bị gãy cánh tay. Chàng hạ lệnh bắt tất cả gia quyến của đối phương, đem về kinh đô làm nô lệ. Trong lúc kiểm điểm hàng ngũ quân thù, đột nhiên Mai Kha nhận ra Y Liên nhờ sợi dây chuyền nửa mảnh tim vàng thuở nọ. Nàng ném sợi dây chuyền trả lại. Nhưng quá đau xót, hoàng từ Mai Kha giao quyền cho viên phó tướng, bảo ông ta cứ đem binh về. Chàng nguyện ở lại miền sơn cước này, chắp nối cuộc yêu đương dang dở với Y Liên. Lúc vua cha dự lễ khải hoàn, khao quân tại kinh đô thì ở miền xa xuôi Mai Kha và Y Liên âu yếm trong tuần trăng mật. Tuy chàng bị gãy tay, nàng bị tan nát gia đình nhưng đôi lứa tha thứ cho nhau, thề sống cuộc đời thường dân. Năm sau, mùa tế thần mặt Trời vua cha băng hà. Thần Mặt Trời bỗng nổi giận, khiến núi lửa dậy lên! Trào thần hoảng sợ đến tận miền biên cương nài nỉ rước đôi uyên ương về. Mai Kha lên ngai vàng. Y Liên nghiễm nhiên làm hoàng hậu. Từ đấy, xứ Ba Tư chẳng còn cuộc loạn lạc nào cả. Vì dân chúng ở kinh đô và ở miền sơn cước đều toại nguyện với đức vua và hoàng hậu”.
Thảo xong hai trang giấy, tôi đặt lưng xuống ghế bố, vừa mới lim dim đôi mắt chợt nghe tiếng chân bà chủ nhà đi lên gác.
- Thầy ơi! Bà tặng hoa hôm nọ muốn gặp mặt thầy.
Tôi dụi mắt:
- À, mời bà ấy ngồi tạm ở dưới. Tôi xuống bây giờ.
Nhưng bà chủ nhà vội trở lên:
- Bà ấy đòi lên gác... Ủa! Bả tới kìa!
Bà Henri cười nói huyên thuyên:
- Tôi muốn viếng cái gác trọ này lần thứ hai. Hôm trước, tôi đường đột tới tặng hoa. Hôm nay chắc hết đường đột rồi, phải không ông soạn giả? Tôi không tặng hoa nhưng tặng món khác thiết thực gấp trăm lần bó hoa. Viết xong chưa ông?
Tôi đáp:
- Mời bà ngồi. Bà xem thử, trên bàn... Nét mực vừa mới khô.
Bà liếc xem nhanh. Tôi hỏi dồn tới:
- Được không bà? Đại khái như vậy. Nhờ bà giúp ý kiến. Chắc ổng chịu lắm.
- Quá xá hay rồi. Bây giờ ông cho tôi mượn đem về cho nhà tôi coi chơi. Rồi ông cầm giùm cái bao thơ này.
Tôi nói nhanh:
- Bà đưa chi gấp quá vậy? Đoàn hát mới trong vòng vận động thành lập... Hay là để tôi viết biên nhận.
Mở bao thơ ra, tôi đếm những mười tấm giấy năm trăm. Bà Henri cười giòn:
- Biên nhận làm gì? Chỗ bà con.
Suy nghĩ một giây, tôi nói:
- Bà lấy lại bớt hai ngàn. Tôi mượn tạm ba ngàn đủ rồi.
Bà tiến tới vỗ vai tôi:
- Trời! Ông này thiệt lạ đời... Xưa nay người ta cứ muốn mượn thêm, còn ông thì đòi trả bớt! Tôi không chịu đâu. Nếu vui vẻ, ông cho tôi mượn lại tất cả, rồi ông móc tiền túi cho tôi mượn thêm năm ngàn nữa... Nói cho vui, ông đừng giận nhé! Lát nữa tôi dùng cái bản thảo này để ăn nói với người bỏ vốn hùn lập gánh hát. Tôi mua xác gánh hát cũ và lo ngoại giao. Phần của họ, chuẩn bị tiền bạc ăn tập để khai trương... Ông có thể đi với tôi lại... nhà bà chủ nợ đó cho vui. Cô Thiên Thai chiều nay ở đó. Cổ nhắc tên ông hoài.
- Dạ để dịp khác, chiều nay tôi bận việc.
- Việc gì quan trọng dữ vậy? Ông nằm trùm chăn ở đây để tìm cảm hứng à? Tôi biểu ông ra đi... cho sát thực tế!
- Thôi, cám ơn bà.
- Hay là ông ngại nói chuyện khào với “bầu bì”, chủ nợ và nghệ sĩ cải lương đợt sống mới... Tâm lý chung, người cày ruộng ở nhà quê ghét Huê kiều mua bán lúa! Hồi đó, nhà tôi cũng như ông! Nhà tôi bây giờ cũng ngồi chơi hòn non để mà ghét cay ghét đắng những người bạn đang làm xuất nhập cảng...
Ngoài đường hai tiếng “tin, tin” vọng tới, thúc hối. Bà Henri vội chào:
- Để tôi đi rồi mai chiều tôi tới đây. Ông ở nhà vào khoảng nào? Tôi đi xe của người bạn, họ chờ đó.
Gác trọ thay đổi không khí. Tôi vừa mừng vừa ngại. Dường như tâm trí hơi bứt rứt. Lúc tôi túng thiếu, số tiền năm ngàn đồng hơi bất ngờ này chưa hẳn... quá to tát. Tôi bỏ nó vào bốp, nhứt định chiều nay đem xài cho sạch túi vì nó giống như của hoạnh tài! Bỗng nhiên tôi vặn ngược câu hỏi: “Biết đâu mình đã bán cái cốt truyện và nhứt là cái sĩ diện của mình với một giá quá rẻ mạt”. Tôi hơi chủ quan chăng? Sĩ diện của tôi bán với giá đó là được rồi đấy, ai dại khờ gì mua nó với giá cao hơn! Nhưng câu trả lời vẫn chưa ổn. Có lẽ tôi hối tiếc bao nhiêu kỷ niệm, những kỷ niệm vô giá. Xóm Biển chợ Rạch Giá, thời chiến tranh Việt - Pháp. Những người đàn ông đánh đáo lạc, ăn thua bằng cách cõng nhau. Những chiếc ghe biển nằm nghiêng trên bãi bùn, giương đôi mắt bịnh hoạn. Hòn Tre ngoài xa xa, cái lon sữa bò đầy gạo để cắm nhang trong nhà lão Tư Hiếm. Xác lão Tư Hiếm bập bềnh trôi... Ban nãy, bà Henri vui vẻ, chiều chuộng tôi với thái độ “đàn chị”, rồi “cả gan” nhưng thành thật liệt tôi vào hạng “trùm chăn”, giống như người cày ruộng ở nhà quê và ác hại hơn giống như ông Henri, con người lạc hậu về mọi mặt...
Tôi vỗ trán rồi gọi xe, đến tiệm kem. Ngồi đó, đầu óc tôi vẫn mơ màng. Mọi khi, tôi ưa sống kiểu “quê mùa, trùm chăn”, như bà Henri nói. Bà Henri vốn có nhiều kinh nghiệm trường đời, hơi lớn tuổi hơn tôi, chẳng lẽ bà nói bậy hoặc dùng sai danh từ? Bây giờ tôi thử tung chăn ra, thử bỏ thái độ quê mùa (mặc dầu tôi chưa bao giờ cày ruộng), bỏ thói suy nghĩ vẩn vơ - nghĩa là mình chỉ nên chú ý tới đời sống của mình và những vui sướng mà mình có thể vói tới, ngay trong buổi trưa nay. À! Cô ngồi giữ tủ tiền trông đáng yêu với mái tóc xõa, rối rắm một cách công phu. Bức tranh vẽ cây dừa và mấy chòm sao trên vách tường đưa tôi tới đảo Hạ Uy Di, đêm trăng. Người qua lại dập dìu trên hè phố, tôi chỉ nên ngắm họ như ngắm một bức tranh lọng kiếng, đừng đặt những giả thuyết quá phức tạp về đời tư của họ! Cô bạn học năm xưa giờ đây ở tận Biên Hòa, chưa chồng; tôi viết thơ mời cô ta về Sài Gòn gấp chúa nhựt này để cùng nhau tìm hiểu tâm sự. Mượn thêm tiền của bà Henri kẻo bỏ lỡ cơ hội! Mua một căn nhà đủ tiện nghi hơn. Thỉnh thoảng lật báo xem tử vi, mua đủ thứ sách thuộc loại bách khoa xem chơi, để hiểu sơ qua mọi vấn đề. Mua một bức tranh in lại của Van Gogh, bức tranh vẽ hoa quỳ vàng rực ánh mặt trời, treo trong phòng để tâm hồn mình luôn luôn được sưởi nóng trong... cô độc.
Tôi mỉm cười, bẽn lẽn, tự nhận rằng mình còn gượng gạo! Bỗng nhiên, kèn trống nổi lên, đờn cò trổi điệu Xuân Nữ. Bên kia đường, chiếc xe tang đi chầm chậm, tấm triệu cao nghệu dẫn đầu. Mọi hôm hễ gặp bất cứ đám ma nào, tôi đi nhanh tới, bùi ngùi xem tên tuổi người chết, suy nghĩ vấn đề sanh lão bịnh tử. Trưa nay, tôi cố gắng ngồi im từ bên này đường mà ngó qua, đại khái.
Tôi gọi một ly cà phê đen... rồi nhìn mấy giọt nước đen nhểu xuống... Hơi nước sôi đọng vào thành ly. giống như giọt nước mưa trên cửa kiếng (chớ không giống như giọt nước mắt ngoài kia). Gợi được sự so sánh ấy, tôi thấy mình đã tiến bộ khá khá. Một em bé đánh giày lết tới gầm bàn. Nó nài nỉ khẩn khoản, gõ bàn chải cộp cộp lên hộp để gây áp lực với tôi. Tôi cau mày:
- Thôi đi mày!
Nó đi. Em bé bán báo dừng lại ngoài cửa, xớ rớ:
- Báo thầy! Báo thầy!
Tôi lắc đầu:
- Đọc rồi. Mời hoài vậy?
Nó nói tiếp:
- Báo mới ra. Bữa nay báo Tương Lai có “Kịch trường đặc biệt”.
Tôi giựt mình bừng tỉnh giấc mộng giữa ban ngày, mua ngay một số, lật ra trang hai, liếc qua các “tít” lớn. Các bạn ở báo Tương Lai cứ viết dông dài về cái tuồng “Gió chiều Thu”. Chán quá. Nơi mục Loa hậu trường, vài hàng chữ tóe lên:
“A lô! A lô! ‘Đoàn Hương Sắc sáu mươi lăm’ đương thành hình, do bà Quỳnh Hương làm giám đốc sẽ ra mắt vào đầu tháng Tư. Danh sách đào kép chưa chánh thức công bố, nghe đồn nữ nghệ sĩ Thiên Thai đã xé giao kèo bên đoàn Nhạn Bạch để về đoàn này.
A lô! A lô! Bà Quỳnh Hương cho biết thêm: Ký giả kiêm thi sĩ Hoài Hương đã nhận lời đưa vở tuồng đắc ý nhứt của mình cho ‘đoàn Hương Sắc sáu mươi lăm’. Khán giả đang nóng lòng chờ đợi để thưởng thức tài nghệ của nhà thi sĩ khả ái ấy. Bước đầu tiên của thi sĩ trong nghề soạn tuồng biết đâu chẳng đánh dấu ngay một sự thành công? Nhan đề vở tuồng còn trong vòng bí mật, nhưng thi sĩ đã bảo đảm với bà bầu Quỳnh Hương: ‘Tuồng này đầy đủ dân tộc tính’.”
Tôi nhẩy nhổm, đứng phắt dậy. Máu nóng “nhà quê” của tôi bỗng bừng sôi. Té ra bà Henri đã loan tin ẩu về sự hợp tác của tôi, từ hai ngày rày, liền từ sau khi tặng bó hoa hồng trên gác trọ! Chẳng vậy thì sao các thông tín viên kịch trường lượm lặt được tin sốt dẻo này, cho in lên báo kịp trưa nay? Buổi sáng ấy, mặc dầu chưa gặp mặt tôi sau năm sáu năm xa cách nhưng bà dám đề cao tuồng của tôi sẽ đủ “dân tộc tính”! Cùng với những hàng chữ in ấy, bà Henri sẽ kèm một bằng chứng khác - mấy trang giấy nháp sơ lược cốt tuồng Ba Tư - để yêu cầu người hùn vốn cứ bỏ thêm tiền ra cho bà xài! Trong khi khuyên nhủ tôi nên từ bỏ cái thói “trùm chăn quê mùa”, bà lại lợi dụng cái tật xấu của tôi. Giải quyết cách nào bây giờ? Tìm bà Henri, đòi lãnh thêm vài ngàn đồng cho hả giận, cho đáng với sự thiệt thòi của tôi? Yêu cầu bà ta đính chánh trên báo? Không được. Bà ta sẽ ngơ ngác, cho rằng tôi hiểu lầm thiện chí của bà ta đối với người em đáng thương hại. Đi tìm các ký giả quen biết, nhờ họ cho tôi thanh minh vài hàng chăng? Anh em trong làng sẽ khó xử vì chuyện ấy có gì đâu mà thanh minh cho mệt độc giả! Và thanh minh trong trường hợp này chẳng khác nào tôi trù rủa đoàn hát “Hương Sắc sáu mươi lăm” ngay từ khi còn nằm trong bào thai, gián tiếp làm cản trở sự phát triển của làng ca kịch, đập bể chén cơm “hụt” của khá nhiều công nhân sân khấu? Hơn nữa bà Henri vẫn được quyền thanh minh trở lại rằng: Nhà thi sĩ kiêm soạn giả ấy đã nhận được bó hoa hồng, đã lãnh số “tiền nước” đáng kể, đã dự bữa cơm thân mật, đã trao bản thảo vở tuồng. Đứng về phương diện độc giả, họ nghĩ thế nào trước những bằng cớ hiển nhiên ấy.
Rầu rĩ quá! Tôi gọi chiếc xích lô máy, bảo anh tài xế cứ chạy thẳng tới. Ác hại làm sao, mấy chữ hàm hồ trên mặt báo: “dân tộc tính”! Phải chăng bà Henri muốn ám chỉ câu chuyện của Chúa Ngung, Ma Nương mà bà yêu cầu tôi soạn lại? Nghi ngờ gì nữa! Bà đã bắn tin ấy ra từ bữa trước rồi mới bàn bạc với tôi về sau này, lúc ăn cơm. Theo ý của bà, hoàng tử Mai Kha ở Ba Tư là thối thân của lão Tư Hiếm, của ông Henri hay của chính tôi? Cô gái bị giết ngày xưa là thối thân của pho tượng đá? Hay kẻ thối thân là bà Henri hoặc cô đào trẻ đợt sóng mới Thiên Thai? Đâu là sự thật về Chúa Ngung, Ma Nương ở Mốp Giăng? Tôi liên tưởng đến mấy tiếng “sứ mạng của người cầm bút” mà các bực đàn anh thường nhắc nhở. Người như tôi có xứng đáng lãnh cái sứ mạng đó không? Tôi trả lời một mình: “Xứng đáng chớ”. Mãi tới ngày nay, câu chuyện ở Mốp Giăng chỉ được truyền khẩu, người ở địa phương đã già nua, hoặc bận rộn sanh kế, hoặc ít muốn nói. Hoặc họ đã chết. Đã hai lần, tôi đã “ghi chép” nó lên giấy, qua tiểu sử của ông Henri Nhan và qua... cốt tuồng cải lương Ba Tư. Còn chờ ai nữa bây giờ, nếu tôi không chịu viết ngay tất cả những điều tôi được biết - trong muôn một - dầu rằng lối viết vụng kém của tôi chỉ được có một vài người đọc thưởng thức.
Chiếc xích lô nổ máy tiến tới, đi ngang qua rạp hát cải lương. Những biểu ngữ, tranh quảng cáo lòe loẹt nào hình công chúa Nhựt xách đèn lồng, hiệp sĩ La Mã đấu gươm... Hoàng tử Mai Kha, nàng Y Liên, chuyện ở Mốp Giăng rồi cũng được vẽ đại khái như thế. Cái bốp chứa đựng nhiều tiền nhảy cồm cộm trong túi sau, giữa cái nệm xe và da thịt tôi. Số tiền năm ngàn còn quá đầy đủ nhưng tâm tư của tôi trống rỗng hơn bao giờ hết - trống rỗng như một chai nước múc đầy treo lơ lửng trên mặt đại dương bao la. Việc đầu tiên mà tôi cần giải quyết: Nhờ các bạn đính chánh: soạn giả Hoài Hương đang soạn cho đoàn “Hương Sắc” một vở tuồng đầy đủ... “Đông Phương tính” thay vì “dân tộc tính”. Liệu các bạn ký giả và bà Henri sẽ phiền tôi không? Thật là... sinh kế mới! Khó khăn mới! Tâm trí của tôi bừng sáng lên, bất chợt một ý kiến quan trọng: “ Sanh kế mới, khó khăn mới cho người sống và cho oan hồn kẻ chết nữa”. Lão Tư Hiếm đã chết thật rồi! Lần trước, qua tay ông Henri và quan tư Ca Rê lão còn thoi thóp; lần này với sự kinh doanh của bà Henri và sự yếu đuối của tôi, lão tắt thở luôn. Nay mai có thể người chết uất ức hiện hồn về, đòi xem hát.
Tôi đưa tay ra dấu hiệu để xe ngừng tại cửa. Vừa lên gác trọ, tôi vừa nói với bà chủ nhà:
- Mệt quá. Ai kiếm tôi bà cứ bảo rằng tôi ngủ, đừng đánh thức.
Rồi nằm lên ghế bố nhìn bó hoa héo, tôi thử hình dung khung cảnh người chết đi xem hát. Đêm ấy, lão Tư Hiếm và cô gái nọ cỡi mây cỡi gió đến rạp khi hay tin trên trần gian có người muốn nhắc nhở tới sự tích của họ. Sân khấu quá sáng. Hai bóng ma của họ sợ hãi, nép mình vào mái ngói như hai kẻ trộm. Cô gái lẩm bẩm: “Ta nên về. Đêm nay họ diễn tuồng Ba Tư chớ nào phải chuyện ở Mốp Giăng”. Lão Tư Hiếm đáp: “Tôi không lầm đâu. Chính đêm nay, tại rạp này mà. Nhưng cớ sao tôi chưa hiểu mấy về cốt chuyện. Dường như thần Mặt Trời Ba Tư là Chúa Ngung, Ma Nương ở Mốp Giăng!”. Cô gái cười: “Ở cõi dương, tiếng nói và màu sắc đều khác hẳn với cõi âm”. Lão Tư Hiếm lắc đầu: “Số đào kép cải lương này ngủ ban ngày rồi thức suốt đêm như chúng ta. Có gì khác biệt đâu”... “Có chớ, họ uống nước lạnh mà bảo rằng dự yến ẩm, dùng gươm bằng cây mà bảo rằng thanh kiếm thép. Hái hoa bằng giấy mà bảo rằng... hoa hồng thiên nhiên. Thôi ta đi về”. Lão Tư Hiếm nói: “Cứ ở lại, chờ xem khi vãn hát. Nghe đâu sau khi rửa lớp phấn son, cởi áo mão ra cất, các đào kép tiếp tục diễn... trò đời hay lắm”. Bức màn nhung hạ xuống, bài tạm biệt trổi lên rồi tắt hẳn. Bấy giờ, cô gái bảo: “Tôi theo chân cô đào Thiên Thai, dường như ban nãy cô ta đóng vai tôi; còn bác cứ theo bà Henri...”
Lão cãi lại: “Tôi đi theo soạn giả Hoài Hương, bạn của tôi ngày xưa, ổng đang đóng vai tôi đó”. Thế rồi họ đi, người một ngả. Lão Tư Hiếm ghé quán nước kế bên rạp, chứng kiến cảnh bà Henri và tôi đang tranh đấu thân mật. Bà ta than phiền: “Tuồng này thâu khá tiền nhưng bà chủ nợ bỏ túi hơn phân nửa rồi. Tiền bản quyền soạn giả, xin dành lại vài đêm”. Trong khi đó, cô con gái phi thân lẻn trốn vào phòng the, tại tư thất của cô đào Thiên Thai. Cô đào khép cửa, soi gương uốn éo cười với bóng dáng mình, lật tờ tuần báo xem ngay số tử vi rồi mơ màng hôn nhẹ vào cái hình màu của chàng minh tinh màn ảnh bên trời Âu nào đó, in ngoài bìa. Cô đào liền thay quần áo mát, ngồi ăn một cái đùi gà luộc với vẻ mặt không mấy đói! Bấy giờ cô gái ma mới hiểu cái tội lỗi tày trời của mình: Nhu cầu về ăn uống, nhu cầu về xác thịt vốn là hai điều cấm kỵ. Tại sao xưa kia mình lại dại dột xúc phạm sự cấm kỵ ấy trước mặt quan kinh lý và lính mã tà để mang lụy vào thân? Phô trương cụ thể những nhu cầu ấy để làm gì, trong khi thế nhân đã nâng nó lên hàng ngôn ngữ ác hại, dùng để nguyền rủa “Đồ chết đói!” “Đồ đĩ thõa” cũng như “Đồ mắc dịch!”. Cô gái ma thở dài, buồn bã trở thành kẻ mất hồn, bay về, khuất bóng lần lần trong lớp sương giá lạnh - hơi thở của hàng trăm pho tượng đá khác còn bị chôn lấp dưới lớp đất bùn của xứ Mốp Giăng vừa cổ kính, vừa đìu hiu! Trong khi ấy, lão Tư Hiếm đi vẩn vơ theo lề phố vắng, với cái túi rỗng và cái ống điếu bằng cây ớt hiểm, dáng điệu trông như vị tù trưởng bại trận hồi thời Thái Cổ. Tiếng gà gáy chợt vẳng lên, từ chuyến xe nào chở hàng tới chợ Cầu Ông Lãnh. Lão giựt mình, chạy trở về cho kịp lúc hoàng hôn nơi địa phủ, để trầm mình nhanh xuống đáy biển - như một hạt bụi bé bỏng nối tiếp bãi bùn ra Hòn Tre xa khơi.
Ngoài cửa, tiếng bà Henri nói nhanh, giọng lảnh lót hỏi thăm tôi. Bà chủ nhà ngập ngừng:
- Ông Hoài Hương ngủ, ổng dặn đừng cho ai kêu ổng. Nếu bà có điều gì quan trọng thì...
Nhưng bà Henri nói chận trước:
- Thôi, tôi hiểu quá nhiều từ hồi ổng còn làm mấy bài thơ đồng quê lận! Ổng giận tôi rồi trùm chăn trở lại. Chắc chắn bà Henri đang nở một nụ cười hồn nhiên đầy vẻ yêu đời với đôi má lúm đồng tiền. Bây giờ tôi chợt nhận ra một điều: Giữa ông và bà Henri tánh tình tuy hơi xung khắc, nhưng bao nhiêu thói xấu, nết tốt của họ đã bồi bổ qua lại từ lâu, tạo thành một kiểu hạnh phúc lứa đôi khá bền vững, “nồi nào úp vung nấy!”.
Họ đã có thiện chí giúp tôi về sinh kế, tại sao tôi chưa chịu cảm thông?
8/1963
Sơn Nam
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Uống trà

Uống trà Một số người tìm sự bình an, sự tịnh tâm trong việc uống trà. Có thể vì vậy mà họ thường thuộc lứa tuổi đã cao, xế chiều. Thanh niê...