Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2025

Bên kia bờ ảo vọng 2

Bên kia bờ ảo vọng 2

Phần VIII
Cuộc liên hoan kéo dài tới sáu giờ bốn mươi nhăm phút.
- Áo khoác của cậu đâu?
Nguyên nhắc.
- Á á…
Trọng há miệng kêu, quay lại lấy áo vét rồi khoác lên đôi vai lực lưỡng. Nguyên hỏi:
- Có cần tôi đưa về không?
- Không, đừng có coi thường tôi thế.
Trọng kêu lên, xiết chặt cánh tay Nguyên. Họ vừa định ra cửa, một tốp người kéo đến:
- Ngồi lại đã, làm gì mà vội vã thế Nguyên?
Anh chàng Tú, bạn cùng lớp với anh, giờ công tác ở Hội nhà báo túm vạt áo Nguyên, giằng lại. Nguyên vốn nể bạn, nhất là bạn thân thiết với anh thời sinh viên như Tú.
- Thôi, cho tớ về. Mai có việc cần từ sớm.
Tú trợn mắt:
- Tao mời mà mày từ chối hả?
Nguyên cười:
- Không, không phải… nhưng…
Anh không thể giải thích với Tú rằng anh hoàn toàn không muốn ngồi với cô Ngọc minh, người đàn bà mặc áo giả da viền lông thỏ đang khoác tay Tú kia. Nói công bằng, cô ta cũng là một trong số những phóng viên sắc sảo và những bài báo của cô ta, không nhiều thì ít cũng khiến dư luận quan tam. Tuy nhiên, người đàn bà hiện diện ở cô không làm cho anh thích thú. Chừng đoán được những ý nghĩ của Nguyên, Ngọc Minh há miệng cười sằng sặc, bảo Tú:
- Thôi để cho anh ấy về. Giờ này, anh ấy còn phải tượng niệm tới hình bóng giai nhân.
Cái cười ngạo mạn đầy giễu cợt và báng bổ của Ngọc Minh khiến Nguyên nóng bừng mặt. Vừa hổ thẹn, vừa căm ghét, anh nhìn chằm chặp vào cặp môi son bóng nhẫy của cô mà nói:
- Thưa cô, tôi chưa hân hạnh quen biết cô. Xin cô giữ đúng phép giao tế.
Vẻ mặt lạnh lùng, khắc khổ của Nguyên lúc ấy tái xám. Trọng đừng đờ ra, còn Tú vội dàn hoà:
- Thôi, thôi… mày đừng bực… Cô Minh này buồn cười thật, ai cũng đùa. Phải tuỳ người thôi chứ?... Nguyên này, cũng ở Hà Nội mà gần năm nay chúng mình mới gặp nhau. Giá không có cuộc liên hoan này chắc ông cũng chẳng thèm đoái hoài tới tôi đâu?... Ngồi xuống đây. Dù mày có lên cấp đại tướng mày cũng chỉ là thằng bạn nối khố ngày xưa…
Trong mọi lời lẽ cũng như dáng vẻ của Tú, có cái gì đó đằm thắm, mặn nồng như tình phụ tử hay huynh đệ. Chắc Tú đã biết mọi chuyện không hay của Nguyên và cố gắng tìm cách sẻ chia với bạn. Một tay anh vẫn nắm chặt vạt áo Nguyên, tay kia anh vẫy một cô phục vụ để gọi một chai rượu Lúa mới, một đĩa mực nướng và một đĩa bánh batêsô nóng.
Tú ấn Nguyên ngồi xuống ghế bên anh, rồi bảo Trọng: - Ông thích làm chầu nữa thì ngồi với chúng tôi. Nếu sức chiến đấu đã hết, cứ việc khăn gói quả mướp về với vợ.
Trọng đã tỉnh táo hoàn toàn, cười hiền:
- Thôi chào các ông, tôi tút về với vợ.
Và anh ra cửa. Nguyên ngồi đờ đẫn. Cảm giác uất ức còn ám ảnh. Ngọc Minh ngồi sát vào Tú, mặt nhơn nhơn không mảy may xúc động. Tú dọn dẹp đám cốc chén bẩn lại một góc bàn chờ người phục vụ đem đi.
Anh hỏi bạn:
- Mày bị cảm tuần trước nữa phải không?
Nguyên sửng sốt đáp:
- Phải, nhưng sao cậu biết?
Tú rút bao thuốc, chìa cho Nguyên:
- Mày là thằng tồi, chỉ biết chúi mũi vào công việc thôi. Tao không giống mày, đời tao lúc nào cũng còn một góc dành cho bè bạn.
Nguyên im lặng.
Tú tiếp:
- Mày biết công việc của tao chưa?
- Biết.
- Tháng sau, tao đi đấy.
- Ừ.
Nguyên gật đầu. Thực ra, anh chính là người đề nghị và bảo vệ hăng hái nhất cho Tú được đi bổ túc nghiệp vụ phóng viên ở Tiệp trong cuộc họp ban chấp hành Hội nhà báo gần đây. Nhưng anh không muốn Tú biết điều đó.
Tú bảo:
- Tôi chỉ nhờ anh một việc thôi: Khi tôi rời chân khỏi đất này, cứ hai tuần một lần, anh tới thăm thằng cu và bà xã hộ tôi.
- Anh ấy rút kinh nghiệm – cô Ngọc Minh xen vào – Cần phải giữ các bà vợ trước khi mất.
Nói xong, cô lại cất tiếng cười sảng khoái như vừa nghe xong một câu chuyện tiếu lâm vô hại. Nguyên định đứng lên, nhưng anh nghĩ đấy là cách tháo lui của một kẻ bại trận nên anh lại ngồi im, điềm tĩnh rít thuốc đáp:
- Hạnh phúc lớn nhất của người đàn ông là có được một người vợ mà họ muốn giữ gìn.
Anh tưởng những lời lẽ ấy sẽ làm người đàn bà được mệnh danh là Tác ta này hổ thẹn. Nhưng cô ta lại giơ tay chỉ vào mặt anh mà nói:
- Ôi thôi thôi, bỏ mẹ tôi rồi… Sao mà cổ lỗ thế?... Cổ lỗ thế thì không thể chịu được. Đến tận hôm nay mà anh còn quan niệm như một lão già răng đen, búi tó.
Mắt cô ta sáng rực lên trong quầng màu xanh, vẻ hồn nhiên không chút mặc cảm:
- Anh phải giết cết thằng đàn ông phong kiến trong anh đi. Châu Âu đã trải qua cuộc các mạng giải phóng tình dục gần thế kỉ rồi mà anh còn đắm chìm trong đạo Khổng… Làm sao anh hiểu nổi thế hệ trẻ? Anh thích ngâm thơ Đoàn Thị Điểm trong khi người ta nhảy theo nhạc Discô… Nguy, nguy thật…
Nguyên im lặng nhìn Ngọc Minh. Tú luôn tay dưới bàn bấm Nguyên ra hiệu cho anh đừng đối thoại nữa. Rồi anh hỏi:
- Minh nhảy giỏi chứ?
- Giỏi.
Người đàn bà gật đầu. Rồi cô liến thoắng nói tiếp:
- Kia kìa, anh Tú nhìn xem, con bé kia mặc áo in băng ABBA giá năm trăm rưởi đấy. Chỉ tội bộ mặt xấu điên.
Lại lần nữa, giọng nói tự tin của người đàn bà khiến Nguyên sửng sốt. Chắc chắn cô ta phải tin rằng cô có một nhan sắc vô cùng lộng lẫy khi cô hạ lời phê phán thiên hạ. Thực ra, cô bé mặc áo pun in hình băng ABBA kia còn xinh đẹp hơn Ngọc Minh rất nhiều: Một gương mặt vuông vuông, trệt đầy phấn, cái mũi ngắn và hếch, hai đường chì kẻ dài quá khổ, và hàm răng ngắn như bị cà đá phô ra mỗi lúc cô cười… Lúc này, Nguyên không còn khinh ghét người đàn bà ngồi đối diện với mình. Anh chỉ còn tò mò và mong muốn quan sát kĩ nhân vật đã nghe đồn thổi rất nhiều giai thoại. "Âu cũng là một dịp tốt để hiểu thêm đời sống".
Cô phục vụ đã trở lại với chiếc khay lớn đặt chai rượu Lúa mới, đĩa mực xé sẵn với đĩa bánh batêsô nóng ngùn ngụt bốc hơi. Tú bảo:
- Cho tôi ba bánh kem nữa nhé.
Nguyên kêu:
- Dạ dày nào mà chứa được ngần ấy thứ hả Tú?
Tú gạt đi:
- Kệ, vừa ăn vừa nói chuyện sẽ tiêu ngay thôi. Mấy khi tụi mình được ngồi với nhau?...
Anh tiếp bánh cho cô nữ phóg viên và Nguyên:
- Bánh phải ăn thật nóng mới ngon.
Dù không đói, Nguyễn cũng thấy bánh ngon. Ngọc Minh ăn còn ngon lành hơn anh. Người đàn bà ăn mê mải, son môi dính hết vào lớp bột vỏ bánh. Nguyên chưa từng tiếp xúc với kiểu đàn bà như cô ta bao giờ, kiểu người luôn sống trọn vẹn với phút giây hiện tại. Họ chỉ nghĩ tới mùi vị thức ăn trong lúc ăn, nghĩ tới tình yêu khi đang yêu, không cần đắn đo vì bất luận điều gì ở phía sau hoặc liên quan tới tới những hành động ấy.
"Đó là mẫu đàn bà sống hết mình, đúng mốt thời đại".
Anh đã nghe bạn bè nói về cô ta như thế. Nguyên biết Ngọc Minh có một đứa con trai lên năm. Chồng cô là một giáo viên mảnh khảnh dạy trong thành phố. Họ đã ly hôn từ khi đứa bé lên hai. "Anh là đàn ông, phải lãnh việc nuôi con. Nó mang họ Nguyễn của anh chứ có mang họ Đào nhà tôi đâu?"
Con cô sống với bố từ dạo đó. Thỉnh thoảng, cô tuyên bố với bạn là:
- Hôm nay ngừng nhảy nhót, tôi nổi cơn nhớ thằng cu, phải về thăm nó đã.
Cô bỏ nửa ngày mua sắm áo quần, giầy dép, bánh kẹo cho con, rồi buổi chiều cô phóng xe tới nhà chồng cũ:
- Con trai của mẹ đâu? Cục vàng của mẹ đâu, ra với mẹ nào...
Thằng bé gần như ngạt thở trong cơn mưa hôn hít. Vết son in đầy mặt nó. Nhiều bận, son dính lên tóc và ông bố lại phải khổ công lau tóc, gội đầu cho con. Thằng bé sướng mê vì những áo quần, giày dép sang trọng. Mặc dù, nhiều thứ nó không sử dụng được bởi mẹ nó đã nhớ nhầm kích thước. Sau đấy, ông bố trẻ lại mang gửi hàng cho bà chị dâu bán lại. Những bánh dẻo, bánh nướng, bánh gatô ngày thường nó thèm rỏ rãi bây giờ được chén thoả thê hàng tuần chưa hết. Sự chu cấp của mẹ nó không theo quy tắc nào. Khi rủng rỉnh tiền và bị kích thích bởi một hình ảnh cảm thương nào đó của tình mẫu tử, người đàn bà phóng xe về thăm con ngày ngày. Nhưng lúc hết xu trong túi, hoặc nhiều hơn là sa vào những mối tình nồng nhiệt, vài ba tháng cô mới nhớ ra mình đã có một đứa con trai. Bố đứa bé nuôi con rất vất vả vì anh kiếm đồng tiên khó khăn eo hẹp hơn cô. Bởi thế mỗi lần cô về, cả hai bố con đều hốt hoảng xen lẫn mừng vui. Tiếng honda của cô ào ào phóng tới, rồi ào ào phóng đi như cơn mưa dông, không thể chờ đợi, không thể đoán định trước và càng không thể hy vọng...
- Khá thật, bánh khá thật… Ngọc Minh khen sau khi ăn hết bốn chiếc bánh – Tôi ăn bốn, các ông ăn ba, thế là công bằng, vì tôi uống ít rượu hơn.
Cô liếm mép như đứa bé rồi mở ví lấy thỏi son tô lại môi. Những cử chỉ của cô mỗi lúc mỗi kích thích trí tưởng tượng của Nguyên. Anh khôi phục trong trí nhớ những lời đàm tiếu và những giai thoại, đem chúng ra đối chứng với người đàn bà bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt mình.
- Thôi ăn đi, đừng có nhìn em như nhìn con vượn trong vườn bách thú thế.
Không thèm ngẩng lên, Ngọc Minh bảo Nguyên bằng một giọng rành rẽ. Người đàn ông giật mình, nghĩ: “Con mẹ này là phù thuỷ chăng? Cô ả thọc tay vào trong óc mình”…
Ngọc Minh cất thỏi son vào ví nheo mắt nhìn Nguyên:
- Ăn hết bánh Batêsô đi rồi em rót rượu cho.
“Cứ tự nhiên như vợ nói với chồng”. Nguyên nghĩ thầm. Anh im lặng không đáp. Tú rót thêm rượu vào từng chén:
- Tao rót cho mày... Nguyên ơi, mày còn nhớ buổi liên hoan cuối cùng không?
- Nhớ.
- Hôm ấy thằng Hưng say khướt. Nó khóc như đàn bà. Tụi mình chẳng hiểu vì sao. Mãi sau này tao mới biết rằng nó yêu Thu Thuỷ, nhưng Thu Thuỷ lại yêu thầy Kha. Khi ông Kha đá đít Thuỷ để lấy một bà răng vổ con ông đại sứ ở Inđônêxia, thằng Hưng lại tới. Chúng nó tổ chức đám cưới ngay sau đám cưới của ông Kha hai tuần. Tụi nó có gửi thiếp mời cưới cho mày không?
- Có, nhưng đúng hôm ấy tao phải lên đường đi Nghệ Tĩnh.
- Thôi, thôi… xin các ông…
Ngọc Minh bỗng nhiên xua tay, nói xen vào:
- Các ông lại sắp rỏ nước mắt, nước mũi thương cảm cho quá khứ phải không? Chỉ những lão già thở hắt ra mới nói chuyện ngày xửa, ngày xưa. Trí thức như các ông mà cũng thế thì chán quá…
Cô ta can thiệp vào câu chuyện của họ thật thô lỗ. Nhưng Nguyên ngạc nhiên vì thấy anh không bực mình. Cả Tú cũng vậy, anh nhăn ra cười, lại còn giơ tay véo tai Ngọc Minh, Nguyên biết Tú cũng yêu vợ với một tình yêu say mê và ngưỡng vọng như anh yêu Linh. Chắc chắn Tú không chia sẻ tình yêu đó cho người đàn bà lạ lùng này. Tuy nhiên, Nguyên cũng thừa nhận rằng giá những hành vi và lời lẽ của Ngọc Minh đặt ở một người đàn bà khác, ắt họ sẽ tẩy chay kịch liệt. Khiêm nhường nhất anh cũng sẽ đứng dậy và bỏ đi. Nói cho công băng, Ngọc Minh thông minh và thêm vào đó, cô ta bộc lộ vẻ chân thành hồn nhiên của một đứa bé. Nó có thể chặt đuôi con mèo, bóp chết con chim sẻ, ăn cắp quả ổi chín trong vườn hàng xóm với niềm tin chắc chắn rằng cần phải hành động như thế, rằng hành động như thế cũng đương nhiên như con bò gặm cỏ, như con vịt bơi lội trên ao hồ…
- Nào, nào… Nói chuyện gì khác đi.
Người đàn bà giục. Nguyên nhìn cô, bất giác mỉm cười. Phải chăng vì mấy chén rượu mà anh hoá dễ tính?... Gương mặt người đàn bà lúc này đã quen quen. Cặp lông mày đen dài lê thê và đôi môi tô son bóng nhẫy màu gạch non không còn làm anh gớm ghiếc.
“Có lẽ xưa nay mình quá khắc khổ và nghiệt ngã”.
Anh tự nhủ. Có lẽ, đời sống bây giờ giản đơn và bụi bặm như người đàn bà này. Một con thuyền không cần chèo lái, trôi nổi theo dòng nước. Một cánh buồm nhởn nhơ hết quãng thừi gian tạo hoá cho phép nó tồn tại trên cõi thế gian. Một người đàn bà hoặc một người đàn ông không bị chi phối bởi một quyền năng nào và ràng buộc bởi một mối liên hệ nào… Hãy sống hết mình cái khoảnh khắc anh đang sống. Câu nói đó ở cuốn nào nhỉ?... Một đoạn văn hiện sinh trong vô số những đoạn văn mình đã đọc qua…
- Kìa, anh Nguyên, cạn chén đi chứ? - Ngọc Minh kêu to.
- Cạn chén đi rồi chia tay. Anh Tú hết bốn chén, em ba chén mà anh mới được hai, kém quá.
Cô rót rượu tràn cốc cho Nguyên. Anh lắc đầu. Người đàn bà đưa lưỡi liếm môi nhanh như mèo rồi nói:
- Uống đi. Uống cho say đi… Anh lại suy nghĩ gì thế hả? Lúc nào cũng đóng vai, chán chết.
- Vai nào?
Nguyên hỏi. Anh không hiểu người đàn bà có đôi mắt bôi xanh kia định nói gì, Ngọc Minh cười phá lên:
- Đừng vờ, vai đạo đức giả chứ còn vai gì? Lúc nào anh cũng như quan chánh án ấy. Chán lắm.
Nguyên vỡ lẽ, anh nổi cáu thực sự:
- Co hàm hồ, tôi chưa bao giờ đóng vai cả.
Ngọc Minh bĩu môi:
- Nguỵ biện. Trừ em, toàn bộ người đời đều đóng vai cả. Họ đóng vai cao sang, đứng đắn, nghiêm chỉnh, thành thật. Toàn đồ rởm.
Nguyên đáp:
- Cô chủ quan quá. Cô nghĩ rằng cô tốt lành lắm sao?
Người đàn bà cười hơ hớ chẳng tức giận cũng không chạnh lòng:
- Chẳng tốt với lành gì hết nhưng em dám sống với cách sống của em. Em không cần đóng vai người mẹ tốt, không cần đóng vai người vợ thuỷ chung đứng đắn. Thích ai, em đi với người đó.
Vẻ trâng tráo hồn nhiên của cô ta khiến Nguyên bất lực. Cơn cáu giận của anh xẹp xuống như trái bóng bị xì hơi. Anh chăm chú nhìn cô, đúng như người ta nhìn con chuột túi hoặc con lạc đà Châu Phi trong sở thú, Ngọc Minh nghẹo cổ cười ngặt nghẽo:
- Lạ lắm hay sao?
Nguyên lắc đầu:
- Thật không tưởng tượng được rằng cái nước Việt Nam này mà có một người đàn bà như cô.
Ngọc Minh gật đầu:
- Chính thế, cái hội đàn bà Việt Nam đã khai trừ em lâu rồi. Mà em cũng chẳng thiết ở với họ. Giá có hiệp hội phụ nữ sao Hoả hay sao Kim thì em sẽ xin vào.
Cô cười giòn tan, xé miếng mực nhai. Lần nữa, Nguyên chú ý tới hàm răng đều và ngắn của cô. Tú im lặng uống, anh đã quen tính nết Ngọc Minh. Óc não anh lúc này tràn ngập những lo toan sắp xếp việc gia đình trước khi lên đường đi công tác. Nguyên vẫn ngồi lặng thinh trước chén rượu đầy tràn. Ngọc Minh bảo:
- Đừng sầu muộn quá, anh Nguyên. Đời được mấy tí mà sầu muộn mãi?... Bà Linh nhà anh cướp mất ông bồ cưng của em rồi. Giờ, anh có dám đến với em không?...
Có lẽ, trên gương mặt bất động của Nguyên chợt hiện lên vẻ sợ hãi, kinh hoàng thái quá nên Tú giật mình. Anh bứt khỏi những lo lắng cá nhân và chợt hiểu lời nói của Ngọc Minh:
- Cái cô này – Anh giận dữ quát – Đùa gì cũng phải có giới hạn thôi chứ?
Người đàn bà nhìn gương mặt cứng như đá của Nguyên, cười:
- Ồ, anh yếu thần kinh quá… Em xin lỗi nhé…
Nguyên không đáp. Anh đứng lên, bảo Tú rằng sớm mai anh phải làm việc với đoàn nhà báo của Đảng cộng sản Nhật và bởi thế, phải về nhà bây giờ để xem lại chương trình.
- Chết thật, không ngờ anh lại giận dữ thế. Em đã xin lỗi rồi cơ mà…
Ngọc Minh đứng lên, chìa tay. Nguyên lạnh lùng bắt tay cô ta rồi quay lưng đi. Tú bảo:
- Chờ tao, tao cũng phải về kẻo Loan mong.
Anh chạy vào quầy hàng, ba chân bốn cẳng để thanh toán thật mau rồi quay ra. Ngọc Minh đeo xắc lên vai:
- Nào thì về… Mấy ông này bất lịch sự quá…
Họ là ba người cuối cùng ra khỏi căn phòng. Tú nhìn đồng hồ lẩm bẩm:
- Bỏ xừ, chín giờ mười lăm rồi, có chết tôi không?...
Ở cửa khách sạn, bà già coi xe đạp làu bàu: “Thuê trông xe tới chín giờ mà chín giờ hai mươi phút mới ra”.
Ngọc Minh vội rút trong túi quần tờ giấy bạc năm đồng:
- Đây, đây, biếu bà… đừng kêu ca nữa…
Ba người cùng đạp xe một lối. Nguyên khó chịu nhưng anh không nói gì thêm. Anh thấy lạnh và nhức hai thái dương. Đạp xe chừng vài chục thước nữa, hai ống chân anh bắt đầu run và đầu choáng váng:
“Chết thật, mình cảm rồi. Nguy hiểm quá, phải cố bò về nhà rồi nhờ giáo sư Lê gọi điện thoại tới tổng biên tập báo”
Anh cắn răng, dồn hết nghị lực để chống đỡ cơn choáng váng. Nhưng mỗi lúc, đầu óc anh mỗi quay cuồng. Đèn phố xá bay như bầy đom đóm trên mặt ao mùa xuân. Vài chiếc ô tô nhẵn bóng lướt qua mặt anh, như những con vật kỳ dị thời tiền sử.
- Nguyên.
Tú hét lên khi thấy Nguyên lao thẳng vào mũi chiếc xe Bắc kinh cũ kỹ chạy ngược chiều. Anh kịp thời đẩy mạnh Nguyên vào bờ hè. Nguyên ngã vật xuống:
- Chết thôi.
Tú nhẩy xuống xe, rên rỉ đỡ bạn dậy. Nguyên đã mê man không còn hay biết gì. Ngọc Minh vội gọi xích lô:
- Đưa anh ấy vào nhà em, mau lên…
Nhà cô cách đó vài trăm thước. Tú thoáng lưỡng lự, nhưng anh đành đồng ý vì không còn phương sách nào hơn. Nhà Nguyên còn cách đây ba bốn cây số. Và nhà anh, gấp rưỡi lần quãng đường đó. Ông già đạp xích lô lực lưỡng như võ sĩ. Nhảy xuống xe, ông bế xốc Nguyên lên.
- Bác làm ơn đạp nhanh cho chúng cháu… Khổ quá…
Ngọc Minh nài nỉ, dúi vào tay ông một món tiền công lớn gấp năm món tiền bình thường phải trả. Lúc này, cô chỉ là một người đàn bà tốt bụng, đầy lo âu:
- Anh về đi, mọi việc để em lo cho.
Cô bảo Tú khi Tú vừa dắt chiếc xe của Nguyên vừa đạp tới tận cửa nhà Ngọc Minh. Anh bế bạn vào giường, giao cho người đàn bà chiếc xe đạp và cùng cô xoa dầu, đánh gió cho tới lúc Nguyên nóng người lên, thở đều đặn anh mới quay ra. Ngọc Minh đứng ở ngưỡng cửa bảo anh:
- Cứ yên tâm về. Cái khoản chữa say rượu trúng gió thì em là chúa. Bồ em toàn các cây rượu cả, anh lạ gì?...
Tú lắc đầu, không biết nên cười hay nên khóc. Anh đạp xe đi.
Một sáng, Kim Anh đang ngồi trong văn phòng làm việc thì ông già thường trực báo với chị rằng có người muốn gặp. Kim Anh bảo ông đưa khách vào. Lát sau, một người đàn bà trạc ngoại tứ tuần xuất hiện. Bà ta béo núng nính, mạc áo mỏng để khoe tấm áo ren bên trong. Một gương mặt viên mãn của lớp dân đô thị giàu có.
- Báo cáo cô hiệu trưởng, tôi là mẹ cháu Vân Anh, học sinh lớp cô Linh.
Bà tự giới thiệu trước khi ngồi xuống ghế. Trong khi Kim Anh pha nước, bà khe khẽ gõ tay lên bàn, những ngón tay múp míp do đeo nhẫn. Ba chiếc nhẫn mặt đá đồ sộ như những chiến hạm phô trương sự giàu sang:
- Tôi là cửa hàng trưởng cửa hàng rau quả X. Cửa hàng mẫu mực được nhận cờ luân lưu của thành phố đấy. Cô giáo có biết cửa hàng của chúng tôi không ạ?...
Bà tự giới thiệu lần thứ hai. Kim Anh rót nước, đáp ngập ngừng:
- Dạ, dạ…
Chị không muốn làm phật lòng bà khách. Xem chừng bà ta kiêu hãnh về chỗ đứng của mình lắm. Kim Anh mời bà cửa hàng trưởng rau quả uống nước và hỏi:
- Chị có việc gì cần gặp chúng tôi?
- Ấy, có việc khá quan trọng cô hiệu trưởng ạ…
Bà dài giọng nói, và sau khi cạn chén trà, chê khéo rằng thứ trà này kém quá, rằng lúc nào đó rỗi rãi bà sẽ gửi biếu cô hiệu trưởng thứ trà ướp sen hảo hạng nhà bà vẫn dùng… bà kể với Kim Anh ngọn ngành chuyện bà phải tới đây: Bà có đứa em họ ở cùng khu nhà với cô giáo Linh. Cô em này vừa thông báo với bà toàn bộ những chuyện không hay ho xảy ra trong nhà cô chủ nhiệm. Từ chuyện bà Tòng tới nhà Nguyên góp ý và bị Nguyên cự tuyệt. Sau đó, bà Tòng đến các hộ trò chuyện về tấm gương xấu để yêu cầu họ tránh, chuyện buổi tối nào đó bà dẫn tổ hoà giải của khu phố tới nhà Nguyên và đám người ấy chưng hửng vì Linh đã bỏ đi. Nguyên đang lên cơn sốt và anh đã nặng lời rằng anh không cần tới những lời giải thích ngớ ngẩn của họ, rằng anh cũng đang cần yên tĩnh và họ không có chút xíu quyền năng nào với tự do của anh…
- Tình hình gia đình cô giáo Linh phức tạp quá.
Bà trưởng cửa hàng rau tuyên bố:
- Một cô giáo như thế không nên để dạy dỗ trẻ em. Tôi cho rằng các cháu sẽ hư hỏng khi chịu sự giáo dục của một phụ nữ thiếu đứng đắn… Tôi là cán bộ lãnh đạo một cơ sở kinh doanh của Nhà nước. Nhà tôi cũng là một cán bộ cao cấp trong quân đội. Chúng tôi không thể giao phó con cái mình cho những giáo viên tư cách như thế…
Bà ngừng lời, sau khi buông một tiếng thở dài. Những mặt đá tím, đá đỏ trên bàn tay mập ú phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh. Kim Anh nhìn người đàn bà nặng trên sáu mươi kilô ngồi trước mặt mình, cả bộ điệu quan trọng của bà ta, cả những thớ thịt nổi u dưới lần áo mút sơlin mỏng như cánh chuồn, bỗng dưng chị mệt mỏi muốn bỏ tất cả mọi công việc để vùi đầu vào góc buồng tối tăm nào đó mà ngủ. Sau cùng, chị cố gắng đáp:
- Chị yên tâm. Chúng tôi sẽ nghiên cứu tình hình thực tiễn và biện pháp giải quyết.
Bà trưởng cửa hàng lắc đầu:
- Nhất thiết phải giải quyết cô hiệu trưởng ạ. Một nhà trường xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận những giáo viên yếu kém. Bên ngành chúng tôi cũng vậy…
Và bà nói them một tràng nữa về cửa hàng điển hình gương mẫu của bà, về cách đạo tạo những mậu dịch viên trong sạch và cải tạo những người không đủ tư cách… Kim Anh muốn ù tai. Chị nhẫn nại chịu đựng, mắt lơ đãng nhìn đôi tay béo múp đeo đầy nhẫn khoa lên với vẻ điệu đàng của một nụ nạ dòng. Khoảng mười lăm phút sau, bà trưởng cửa hàng rau quả mới chịu rút lui. Kim Anh vào buồng chứa giáo cụ trực quan nằm nghỉ. Ở đó, chị đặt một chiếc giường gấp khung nhôm để nghỉ trưa. Chừng non một giờ sau chị trở dậy, mời Dụng, hiệu phó kiêm bí thư đảng uỷ trường tới. Anh là người hiền lành, khêm nhường, bằng tuổi Kim Anh nhưng trông anh già và tiều tuỵ. Vợ Dụng mắc chứng xơ gan đã chết bốn năm nay. Anh chịu cảnh gà trống nuôi con cho tới bây giờ. Bà mẹ già làm vườn và thổi nấu cho mấy bố con anh, nhưng thu nhập trong nhà vẫn eo hẹp và đám nữ giáo viên trường luôn luôn phải vá hộ Dụng quần áo hoặc đơm lại cho anh những chiếc khuy đứt. Chưa có một người đàn bà nào sẵn lòng gánh vác cảnh sống neo đơn, túng bấn của anh. Và anh, anh chấp nhận cảnh sống ấy với vẻ chịu đựng nhẫn nại.
Kim Anh thuật lại toàn bộ câu chuyện bà trưởng cửa hàng rau vừa nói và yêu cầu của bà ta. Dụng chống tay lên cằm, mặt buồn rượi. Sau hồi lâu im lặng, Kim Anh hỏi:
- Thế nào?...
Dụng thở dài, không đáp.
- Sớm hay muộn rồi cũng có những phụ huynh học sinh phản ứng. Tôi đã đoán trước điều ấy…
Kim Anh ngừng vài giây rồi tiếp:
- Tôi muốn lẩn tránh việc này mà không được. Nhưng giờ đây, chúng ta tính toán ra sao? Nếu không chuyển Linh sang một công việc khác, tiếng tăm sẽ lan ra ầm ĩ. Loại người như bà cửa hàng trưởng này nhan nhản trong xã hội, họ không chịu thua ai. Nếu buộc phải để Linh thôi làm chủ nhiệm và dạy văn, trường sẽ thiệt thòi lớn. Tới ba phần tư những giải văn chúng ta có được là ở đám học sinh của Linh… Phía nào cũng khó khăn cả.
Dụng ngước nhìn Kim Anh:
- Lâu nay tôi băn khoăn chưa tiện hỏi. Chị có hiểu nguyên nhân tan vỡ trong gia đình cô Linh không?
- Tôi có biết qua loa, nhưng không thể hiểu cặn kẽ những gì dẫn tới sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân của ai đó ngoài mình. Anh có tin điều ấy không?
- Có thể là…
Dụng đáp với vẻ đắn đo, nghi ngại. Kim Anh nói tiếp:
- Chúng ta không thể đem kinh nghiệm sống của bản thân mình để áp đặt cho người khác, dù đó là con cái hoặc anh em ruột thịt của mình. Xã hội càng văn minh bao nhiêu, nhân cách con người càng được phát triển hoàn thiện bao nhiêu thì sự khác biệt trong đời sống tâm sinh lý con người càng lớn bấy nhiêu. Bây giờ, không thể dùng quyền lực tổ chức để giải quyết những vấn đề mang tính chất cá nhân. Nếu có, các biện pháp hành chính chỉ giúp cho mầm thù hận đòi phản kháng… Anh cứ tin rằng chúng ta nâng đỡ con người khó khăn hơn đẩy họ xuống hố ngàn lần…
Dụng thở dài:
- Rắc rối quá, nhất định phòng giáo dục sẽ hỏi tới chuyện này, các trường xung quanh họ cũng không để chúng ta yên thân. Cái ông nhạc sĩ Trần Phương ấy nổi tiếng quá, và càng như thế, cô Linh càng bất lợi…
Kim Anh nói:
- Nhưng anh em trong trường không hề đả động tới việc này.
Dụng gật đầu:
- Không ai nỡ ghét bỏ Linh. Trong hoàn cảnh của cô ấy, người khác ắt hẳn đã bị bêu riếu, rỉa móc tới nhức xương lên. Nhưng, Kim Anh ạ, đây không phải chuyện đối nội mà là chuyện đối ngoại. Anh sống cũng có người yêu và kẻ ghét. Một tập thể cũng tựa như một cá nhân thôi. Chúng ta phải che chắn dư luận, vì dẫu sao tôi và chị phải chịu trách nhiệm toàn bộ về tập thể này...
Họ bàn định mãi tới chiều. Hai người quyết định tạm thời giao lớp của Linh chủ nhiệm cho một giáo viên mới và điều Linh xuống làm công tác thủ thư. Kim Anh định tới phiên họp hội đồng giáo viên tuần sau sẽ công bố quyết định đó, nhưng lúc hai người trao đổi với nhau, một cô giáo cùng tổ văn với Linh đã nghe được câu chuyện. Sáng hôm sau, ba bốn giáo viên trẻ tới gặp Dụng và Kim Anh:
- Chúng tôi không muốn thi hành kỷ luật Linh. Từ xưa tới nay chưa ai yêu cầu cô ấy rời bỏ vị trí công tác, điều ấy chứng tỏ không một ai trong chúng ta đánh giá tồi tệ về đồng nghiệp của mình. Tại sao anh chị lại quyết định đột ngột như thế?
- Nhưng đây là yêu cầu của phụ huynh học sinh. Nhà trường cần giữ uy tín chứ?
Dụng và Kim Anh đã trả lời họ như vậy, mặc dù cả hai người cùng thấy trong câu trả lời ấy có cái gì đó không ổn. Nhưng đám giáo viên trẻ càng bất bình hơn. Lý lẽ của họ tuôn ra khiến hai người đâm bối rối:
- Một, hai, ba, bốn thậm chí mười bốn phụ huynh học sinh cũng chưa phải là nguyện vọng của toàn thể. Mà ngay toàn thể phụ huynh học sinh cũng chưa chắc đã là chân lý. Tới ngày nay con người đã quá hiểu rằng chân lý không phải là đám đông... Chúng tôi biết rằng nếu nhìn theo con mắt thông thường, Linh đáng lên án. Nhưng chúng ta không phải là thiên hạ nói chung, chúng ta là những đồng nghiệp gần gũi Linh. Tính cách người phụ nữ ấy đã được xác nhận trong nhiều năm sống và lao động. Nếu chúng ta đã bỏ cho cô ấy một phiếu thuận thì giờ đây, chúng ta hãy cất nhắc trước khi ném xuống một phiếu nghịch. Đám đông có một sức mạnh khủng khiếp. Nhưng ngay trong nó cũng bao hàm cả sự sáng suốt lẫn những thành kiến u tối, cả khả năng biến đổi một cách nhạy bén lẫn những thói quen thủ cựu, những tập tục phản văn minh và nếp tư duy khô cứng, ù lỳ. Tại sao chúng ta không xác quyết được các ý tưởng của chính mình và bảo về nó trước sự xô đẩy của xung quanh?...
Kim Anh và Dụng thở dài, thay vì cho một câu trả lời dứt khoát. Họ thấy đàm người đã lên lớp hết, chỉ còn hai người ngồi lại trong căn phòng rộng rênh của văn phòng. Trạng thái hăng hái tan dần, cả hai người là bắt đầu lo lắng bởi những dị nghị, bởi sự đàm tiếu của các trờng bạn và trong toàn khu nếu như có vài lá thư phản đối hoặc vài lá đơn kiện... Việc thuyên chuyển công tác của Linh vẫn được công bố trong kỳ họp hội đồng nhà trường sau đó. Linh xuống phòng thủ thư của thư viện trường ngay hôm ấy. Cô cố giữ vẻ mặt bình tĩnh để che đậy nỗi tủi nhục. "Người ta có thể hy sinh cả đến tính mạng cho một tình yêu“. Linh tự trấn an. Những đứa trò ngoan của cô xúm tới trước cửa phòng thư viện:
- Cô trở lại lớp, cô ơi... Chúng em lên đề nghị thầy Dụng cô nhé?
- Cô dạy quen rồi, thầy mới cứ lạ lạ là... Thiếu gì người coi thư viện được?... Tại sao cô lại bỏ lớp mà đi?...
Trước mọi câu hỏi, Linh lặng lẽ cười. Những đứa trẻ chỉ nghe phong thanh một chuyện buồn về cô giáo chúng. Đám nam sinh không mấy để ý tới việc đó. Nhóm nữ sinh tinh khôn và sớm từng trải hơn về đời sống tình cảm thì thào với nhau trong các góc vắng vẻ. Niềm cảm mến sâu đậm của chúng với cô chủ nhiệm khiến chúng trở nên kín mồm, kín miệng, thận trọng dự kiến đến cả trường hợp có cơ bị thẩm vấn... Tuy nhiên, ngay cả mối tình cảm của học sinh cũng khiến lòng tự ái của Linh bị tổn thương. Những buổi sáng tiếng cười đùa của chúng vẳng tới kho sách, và tiếng cười ấy làm người đàn bà thấm thía xót xa. Trước đây, cô đắm mình trong lớp sóng âm thanh vui vẻ quen thuộc. Giờ đây, cô chìm trong một không gian vắng lặng và bụi bặm với tiếng mọt nghiến gỗ, tiếng chuột sục sạo xó tối, tiếng gió sột soạt lùa qua tấm vải che mưa treo sát tường và đôi khi, tiếng vỗ cánh bay xè xè của một con gián táo tợn. Rồi đây đó, khi cô đi qua một khoảng sân nào đó lũ trẻ đang nô đùa. Khi tiếng chào thân thiết của một đứa trò cũ cất lên. Khi ánh mắt của chúng vút qua gương mặt cô để che giấu một xót thương già cỗi... Không, cô không muốn tìm sự thương hại ở mọi người. Cảm giác đớn đau như thứ nhưa dính trên má, không sao rửa sạch. Với một người tự trọng, không nỗi dày vò nào lớn hơn là phải nhận món cháo bố thí của lòng thương hại. Thứ tình cảm ấy đẩy ta vào một địa ngục ngột ngạt và tăm tối, nơi ấy vết thương mở hoác miệng ra chảy máu không ngừng, không thể phản kháng vì đó là một con vật lặng câm, không thể tiêu diệt vì nó như đứa bé hiền lanh, không thể chối bỏ vì đó là lòng tốt của nhân loại...
Trong vài lần, Kim Anh xuống thư viện và nhìn thấy trong mắt Linh nỗi đớn đau uất hận không thể bày tỏ. Chị hiểu rằng người bạn nhỏ tuổi của mình đang bị giằng xé dữ dội về mọi phía. Chị muốn khuyên Linh từ bỏ mối tình oan nghiệt kia đi nhưng chị im lặng vì biết điều đó vô ích. Hai người nói với nhau những chuyện vu vơ, gượng gạo. Kết thúc, bao giờ Kim Anh cũng hạ giọng thì thầm:
- Hiểu cho mình, đừng giận mình Linh nhé.
Linh đáp, giọng cao vói lên:
- Không, không... em có nghĩ gì đâu?
Nhưng cả hai người đều biết đó là một lời nói khó khăn, sượng sùng. Kim Anh trở về tổ ấm của chị, bất chợt khoảnh khắc nào đó chị hình dung ra gian buồng xép Linh đang sống, mùi sách và tiếng mọt nghiến gỗ trong đêm.
"Mình là một kẻ hèn nhát chăng? Mình đã không bảo vệ được một con người mà cả tập thể đều tin cậy. Giữa sự sợ hãi những áp lực xung quanh và lòng tin ở chính mình là cả một thử thách về lòng dũng cảm“. Mùa đông đã tới mau lẹ quá. Trên các thân cây, lớp vở khô mốc dần. Gió thổi qua phố phường mang âm điệu vắng xa. Ở các tủ kính của cửa hàng giải khát, không còn những trái xoài miền Nam, những trái chanh tươi ngâm muối, các bình chứa xirô mơ vàng sậm, những trái dứa vàng và những trái dưa hấu xanh đen. Lúc này, mùa cam chưa đến, khách chỉ còn uống cà phê, bột đậu, bột sắn. Bà Phượng thích lui tới những quán cà phê trong thành phố. Đã gần hai chục năm nay người dàn bà có vẻ đẹp nửa hàng xén, nửa kiều kì ấy đã trở thành khách quen của các quán cà phê nổi tiếng. Họ đoán chắc bà sống độc thân vì bà có thể ngồi một mình. Không hút thuốc, nhưng bà có thể ngồi trầm ngâm hàng giờ, hai tay ủ bát nước nóng, mắt lơ đãng lướt trên gượng mặt khách bộ hành. Với dáng vẻ ấy, người ta có thể ngờ rằng bà là một triết gia, một thi sĩ hay một kịch sĩ chìm đắm trong suy tư.
Bà vốn là con gái hàng Đào, khả dĩ xinh đẹp và giàu có, học hành vượt quá bằng tiểu học vài tháng nên yên phận ngồi sau chiếc tủ bán len hoặc hàng mỹ phẩm, ngày ngày chăm sóc cơm canh cho anh chồng công chức và lũ con ngoan. Nhưng vì rỗi rãi, bà ngốn tiểu thuyết lãng mạn quá mức cần thiết cho một cô chưa chồng, bởi vậy và đinh ninh rằng đời bà phải có một tiếng vang nào đó khiến tên tuổi của bà trở thành bất tử như những quận chúa hoặc những tôn nương ghi trong sử sách. Chồng bà vốn là con nhà gia giáo. Ông học nghề công cánh tại Paris từ nhỏ. Yêu nước ông xin về Việt nam sau ngày giải phóng thủ đô, mặc dù ở Pháp ông có một biệt thự sang trọng với món lợi tức năm mươi vạn quan mỗi năm của ông chồng Pháp bà cô ruột tặng. Ông đã mau chóng hoà nhập vào cuộc sống gian nan từ quê nhà. Trung thành với cái mẫu lý tưởng đã hình dung về người bạn đời tương lai, ông tìm kiếm mãi một gương mặt xinh đẹp và hiền thục, đặc biệt Việt Nam, giống như gương mặt cô gái đội khăn mỏ quạ, thắt lưng xanh và mặc váy chùng thâm trong các bản minh hoạ văn xuôi và ca khúc Cô gái Việt. Sau bốn năm tìm kiếm, ông đã gặp bà. Lúc đó, bà là một thiếu nữ mười tám, da trắng như trứng gà bóc, mắt hạt huyền. Sống mũi bà không cao, không thấp nhưng xinh xắn, gương mặt tròn với lúm đồng tiền bên má... Quả là một vẻ đẹp ông ao ước, và chính cái khoảnh khắc sợi dây kiên nhâẫntrong ông đã sờn mòn, nhu cầu yêu đương thúc hối... Ông si mê ngay tức khắc và xin làm đám cưới ngay tức khắc. Cố nhiên, gia đình bà đã ưng thuận với niềm vui sướng và vinh hạnh. Đám cưới cô Phượng hàng Đào lộng lẫy nhất, cao sang nhất Hà Nội trong năm ấy và nó đã trở thành niềm ước ao cho những đêm xuân trằn trọc của các cô gái trẻ... Những ngày qua tháng lại, mọi háo hức đã được thoả mãn nguội dần đi. Những đam mê mới dấy lên. Giấc mơ mệnh phụ phu nhân thúc đẩy trong lòng bà. Chồng bà không dắt bà leo lên nổi những bậc thềm danh vọng. Ông chỉ là một kỹ sư công chánh giỏi nghề và giàu có, nhưng không có một địa vị cao sang. Ông chỉ thoả mãn giấc mơ phù hoa trong bà chứ không bù đắp được lòng khát khao danh tiếng. Ông chỉ đem tới cho bà mọi tiện nghi vật chất với một tấm lòng dịu dàng trìu mến, nhưng không đem tới cho bà những phương tiện thoả mãn cao vọng tinh thần. Bà muốn rằng khi bà bước chân vào nhà hát lớn hoặc các phòng trà, các rạp xinê, mọi người phải ngước nhìn bà tò mò và kính phục, phải thì thào tên tuổi của bà, phải dán ánh mắt khát thèm lên những niềm vinh quang hiển hiện trên gương mặt vương giả của bà và mọi chi tiết trên tấm thân ngọc ngà của bà phải được chiếu rọi trong luồng mắt của công chúng... Đã có bao người đàn bà xấu xí, ngu muội nhưng may mắn vớ được người chồng có chức tước. Họ được theo chồng tới dự các buổi lễ tân tại các sứ quán, các buổi khai mạc triển lãm hoặc hội nghị lớn long trọng, các tối chiêu đãi phim hoặc liên hoan... Bà, xinh đẹp thế, lịch lãm thế, cũng chỉ là một thường dân ngồi sau quầy bán len hoặc giữ chân kế toán, thủ quỹ... Giấc mơ mệnh phụ phu nhân trong bà cựa quậy rồi lớn dần lên, quẫy đạp ầm ầm như cái thai tám tháng đòi sinh nở. Vào khoảnh khắc chín muồi của dục vọng, bà đã gặp Trần Phương...
Trời đất, mùa đông này sao đến mau lẹ thế? Bà Phượng đứng trước gương sớm hôm đó, giật mình vì những nếp nhăn in sâu dưới đuôi mắt. Các nốt in sậm trên màu da cũng rõ nét quá rồi. Chưa bao giờ bà ngắm bộ mặt không son phấn của mỉnh trước gương lâu thế. Một bức tường đổ sập trong bà. Đã lâu nay, bà không chịu nhìn mình khi chưa tô điểm. Sáng sớm, sau khi rửa mặt xong, bà đã vớ hộp son phấn. Tối trời, trước khi đi ngủ bà mới rửa sạch lớp màu hoá trang và thay vào dó lượt kem nuôi da. Luôn luôn, hình ảnh bà trong gương phải xinh đẹp, lộng lẫy. Bà quyết giữ vẻ đẹp cảu mình trước mắt mọi người như kẻ hám danh quyết giữ ghế của y. Bà cũng muốn dùng vẻ đẹp ấy như một thứ vũ khí để chinh phục và trả thù chồng vì mười bảy năm nay ông đã không một lần ngoái lại, không một lần tha thứ cho bà...
Sớm nay, bà chợt thấy cái ảo vọng đó đã tới giờ sụp đổ... Con mụ xa lạ nào đang nhìn bà với đôi mắt lờ đờ, mất hết vẻ tinh anh kia? Hai đường nhăn dài bên khoé mép, ngay cả làn môi cũng chi chít những nếp nhăn mờ. Chẳng bao lâu nữa chúng sẽ nhăn nhúm lại như miệng những mụ phù thuỷ trong tranh vẽ.
"Kinh khủng thật“
Bà thầm nghĩ. Có thể nửa giờ nữa, sau khi dùng nghệ thuật hoá trang cực kỳ tinh xảo, bà sẽ đánh lừa được những người đàn ông đi cách bà hai mươi mét. Nhưng bà sẽ không đánh lừa được chính mình và đấy mới là điều đáng ghê sợ. Bà không còn giữ được lòng tự tin ở nhan sắc của mình, bà đã bị tước metmxao dungechomomất vũ khí tuỳ thân cuối cùng trong đời sống.
- Chào mợ, con đi đây.
Tiếng đứa con út vọng dưới cửa sổ lên. Nó đã ăn sáng xong và tới giờ vào xưởng hoạ. Đứa con trai thứ hai học nội trú trong trường bách khoa, còn cô gái cả làm ở viện khoa học xã hội đã có chồng, nửa tháng mới về thăm bố mẹ một lần. Chồng bà cũng đã ăn sáng trước. Ông tới nhà ai đó để đánh một ván cờ, tìm một cuộc chuyện trò vui thú hoặc gặp người đàn bà nào đó làm ông ấm áp cõi lòng.... Tất cả đều có thể và bà không có quyền trách móc...
Những ngón tay bà đặt hờ hững trên bàn trang điểm cổ bằng gỗ gụ. Học có những thứ đồ gỗ tuỵet hảo từ thời xưa, một loại châu báu đối vứoi những chuyên gia đồ cổ. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa chi đối với đời sống thật sự của bà.
Những làn gió tung bụi trên đường phố. Vòm tigôn đã rụng gần hết lá, chỉ còn vài đám hoa phơn phớt hồng đọng giữa mớ dây leo khô xác, khẳng khiu. Xe hơi thỉnh thoảng vụt qua phố nhỏ. Một cặp vợ chồng già thủng thẳng bước bên kia hè. Bà Phượng nhỏm lên nhìn. Họ trạc trên sáu mươi tuổi. Cả hai đều đẹp lão, tóc muối tiêu. Ông già mặc bộ complê màu tro nhạt, bà vợ bận quần sa tanh, áo bông Tàu bọc nhưng the. Họ đi bộ chậm rãi, thong dong. Chốc lát, bà vợ lại ghé tai ông chồng nói đôi điều. Và ông già mỉm cười dưới hàng ria bạc. Lần đầu tiên, bà Phượng chợt thấy rằng hạnh phúc có thể có được ở những cặp vợ chồng già, những con người đã trải qua quãng thời gian dài với nhiều thăng trầm của đời sống, với sự ấm lạnh của trái tim, với gió bão của thời cuộc...
"Quả thật, mình có thể sống tới chín mươi, chí mươi lăm tuổi... Bà nội mình chín mươi tám tuổi mới về chín suối, còn ông cụ thân sinh mình dã gần tám mươi mà còn ăn mỗi bữa bốn bát cơm“...
Bà Phượng lẩm nhẩm, rùng mình. Cái quãng thời gian cuối cùng của người đời thật đáng kinh sợ, bởi lẽ, lúc ấy người ta không còn sức lực cũng như lòng can đảm để chống chọi với những gian nan vật chất cũng như những tủi nhục trong tinh thần. Và lúc đó, mùa đông sẽ dài hơn mùa hè, ngày mưa gió nhiều hơn lúc trời nắng nôi, tạnh ráo.
"Giá mà, giá mà...“
Rất có thể bà sẽ có những tháng năm êm ấm vứoi chồng, nếu không rơi vào cạm bẫy đó...
Cặp vợ chồng già đi mỗi lúc một xa. Bà nhìn hút theo bóng họ. Mười mấy năm sau, tóc bà cũng sẽ bạc trắng phơ như bà lão đó, nhưng bên cạnh bà sẽ không có người đàn ông nào mặc complê màu tro nhạt và thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười để chịu chuyện với bà. Không có một hình hài nào tựa đỡ cho bà trong cuộc đời cằn cỗi giá lạnh suôi đông... Hi vọng gì ở ba đứa con?... Có, chúng đã từng là niềm hy vọng của bà nhiều năm nay. Trong tương lai, chúng cũng sẽ thương yêu cả bố lẫn mẹ như mọi đứa con hiếu thảo. Nhưng chúng sẽ có cuộc đời riêng, với yêu đương và thù ghét, với tất cả những lo toan cần vật lộn và những quan hệ cần lưu tâm. Bà sẽ nằm ở kẽ hở nào của cuộc đời chúng?...
Đĩa hát nhà ai đó vọng lên tiếng hát sầu muộn, thâm trầm:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi
Để một mai, tôi về làm cát bụi...
Những ngón tay thon thả của bà máy động giữa các thứ đồ nữ trang, các thỏi son, các loại chì tô vẽ và cá núm bông thoa phấn… Bà chợt dấy lên nỗi hối tiếc. Phía sau nỗi hối tiếc mù mờ như sương sa kia là một vực sâu vọng lên tiếng kêu nghẹn ngào thù hận. Mỗi gương mặt đối lừa trồi lên ngọn triều ảo vọng. Đôi mắt đen dưới cặp mi dày, nụ cười và vẻ chán chường kiêu bạc…
Lần đầu tiên, bà Phượng không còn hào hứng khi nghĩ tới cái tiệm cà phê quen thuộc của bà, ở đó, khách bọ hành trộm chiêm ngưỡng dung nhan lộng lẫy của bà trong khoảng không gian mờ tối của gian phòng và khách uống trà ngước nhìn bà như ngước nhìn một con người lỗi lạc của thời đại… Bà Phượng tì sát mặt vào gương, nhìn lại khuôn mặt mình lần nữa, những lỗ chân lông doãng ra lấm tám như những hạt kê tí xíu vì luôn luôn bị trệt lớp phấn dầy. Bà buống tiếng thở dài, thoa kem lên khắp mặt, sau đó tiếp tục các trình tự của việc hóa trang.
Hai mươi phút sau, bà bước khỏi căn phòng trong bộ xống áo đẹp nhất, sang trọng nhất. Bà quyết định tới nhà nhạc sĩ Trần Phương, không phải để lật bới đống tro tàn, tìm lại một đốm lửa của mối tình đã chết, mà để khơi dậy một hoả diệm sơn ghen tuông và thù hận trong lòng bà vợ ông ta.
Phần IX
Cái đêm Nguyên bị cảm lạnh đã in vào đời anh một dấu ấn lạ. Đấy là khoảnh khắc bất chợt, gió đẩy con thuyền tới bến bờ hoang dã. Sau nhiều năm tháng trôi qua, mỗi lần nhớ lại, Nguyên vẫn còn ngẩn ngơ...
Đêm ấy, anh tỉnh dậy vào lúc bốn giờ sáng. Toàn thân đau như bị đòn, nhất là hai bả vai và dọc sống lưng. Đầu óc anh trống rỗng, lạnh buốt. Trước hết, vật gì đen đen treo trên đầu giường đập vào mắt Nguyên. Anh nhớ rằng anh không có thói quen vắt bất cứ thứ gì lên đình màn và dây màn, dù là chiếc áo lót hoặc chiếc khăn tay... Quái lạ. Nguyên cố gắng giương mắt lên, nhưng thị lực chưa trở lại bình thường khiến anh đau tức trong mắt. Nguyên nhắm mắt lại vài giây rồi mới mở ra lần thứ hai. Lần này, anh thấy cây đền ngủ có hình xoắn, kì lạ, hoàn toàn khác cây đèn ngủ trong buồng mình:
"Mình ở đâu đây?...“
Anh tự hỏi, vừa chống khuỷu tay nhỏm lên. Kề sát anh bên trái, một vầng trán nhô lên với những món tóc quăn: Một người đàn bà... Trong tích tắc, Nguyên có ảo tưởng đấy là Linh và tim anh đập lồng lên. Nhưng rồi, đường sống mũi gẫy lõm khiến anh thất vọng:
"Ai?"
Nguyên nhỏm dậy, nhìn trân trân vào nửa gương mặt đàn bà nhô lên trên mép chăn. Nhờ cái mũi hếch và gẫy, anh nhớ ra cô Ngọc Minh và tất thảy mọi chuyện. Anh đã rơi vào tình cảnh trớ trêu. Có lẽ ngay cả lúc óc tưởng tượng bay lượn trên trời cao hay giữa khoảng không tối om của địa ngục, anh cũng không thể hình dung ra tình cảnh này: Anh đang ngủ trên chiếc giường của một người đàn bà xa lạ, hơn thế nữa, xưa nay anh vẫn thầm khinh và ghét. Cô ta đang ngủ ngon lành, hơi thở mạnh và đều, phảng phất mùi nước hoa lẫn mùi rượu. Những sợi tóc xoăn xoăn chạm vào da thịt anh gợi lên một cảm giác lạ lùng. Họ đắp chung tấm chăn, chân phải cô gác lên anh nặng trĩu. Nguyên vừa muốn đẩy Ngọc Minh ra vừa ngại đụng chạm vào da thịt một người đàn bà mà anh biết rõ mình không ham muốn. Nguyên định vùng dậy, đi về nhà. Nhưng đầu anh nặng trĩu, những khớp xương như chực rời nhau ra. Mệt quá. Bên ngoài, tiếng gió bấc lùa hun hút qua các hàng cây vọng vào căn phòng. Trời rét lắm. Còn ở đây, một bầu không khí ấm nóng vây bọc anh, che chở cho anh. Nguyên nhắm mắt ngả đầu xuống gối. Anh ngửi thấy mùi phấn rôm từ trong tấm chăn xộc lên mũi. Mùi phấn thơm dịu cùng hơi ấm níu kéo anh. Vả chăng, một ý tưởng vừa ập tới:
"Có gì xấu xa khi một người đàn ông chung giường chiếu với một người đàn bà tự nguyện? Huống hồ, đây lại là một trường hợp rất ngẫu nhiên. Xưa nay, ta đã quá câu nệ bởi những lề thói và ước lệ xã hội. Mọi quy ước đều vô nghĩa".
Một nỗi xốn xang lan truyền qua thân xác anh như dòng điện. Nguyên hiểu rằng anh thiếu vắng đàn bà đã lâu và giờ đây hơi ấm ấy đang khiến anh bồn chồn.
"Tại sao đây không phải là Linh?"
Tim anh nhói lên như bị kim xuyên. Bất giác, toàn thân anh run rẩy.
"Linh, em ở đâu?”
Nguyên hình dung tới căn phòng nhỏ ở thư viện trường. Người đàn bà anh yêu dấu đang ngủ trên chiếc giường cá nhân xoàng xĩnh, tồi tàn. Cô ăn uống kham khổ và chịu đựng mọi đày ải của thế gian tới ngày chủ nhật, thầm lén ái ân cùng gã Trần Phương, ở cái xó xỉnh hẻo lánh nào đó vùng ngoại ô. Đứa con nhỏ của họ, Kim Anh đã đưa về cho ông nội từ ngày mẹ nó ốm. Chiếc giường hạnh phúc xưa kia của họ giờ hoang vắng. Còn anh, anh nằm đây, bên một người đàn bà xa lạ mà anh biết chắc chắn rằng không chóng thì chầy đối cánh tay cuồng nhiệt của cô ta sẽ vòng xiết lấy cổ anh... Người đàn ông bỗng bật lên một tiếng rên đau đớn.
- Ô ô ô...
Ngọc Minh vươn vai ngáp, tỉnh dậy. Mắt chưa kịp mỏ, cô đã đưa tay sờ lên trán Nguyên:
- A, khá rồi đây. Tay này cũng mạnh trai thật.
Ngọc Minh lẩm bẩm, hoàn toàn không biết Nguyên đã thức giấc đang nhắm mắt nằm im. Cô nắm cổ tay Nguyên:
- Mạch đạp gần như đã bình thường.
Nguyên nằm cứng đơ, tim đập thon thót trong lồng ngực. Minh xoay người lại, quay về phía anh. Hơi thở cô phả vào tai anh nóng hổi. Nguyên nhột nhạt, anh không thể tiếp tục giả vờ ngủ, bèn mở mắt:
- Cô Ngọc Minh.
Minh nhỏm dậy, ngạc nhiên:
- Ô, đã tỉnh rồi cơ à?... Anh khá đấy. Tối qua em đồ chừng phải trưa nay anh mới tỉnh được... Khiếp, người lạnh ngắt như thây ma. Anh có biết anh đã keu lên thế nào trước khi ngã vật xuống giường không? May là em chứ người khác họ sợ chết vía...
Cô nói một tràng dài với nỗi vui sướng chân thành. Mùi nước hoa với hơi rượu phảng phất lần nữa khiến người đàn ông bứt rứt. Những sợi tóc cô vương vào má anh. Cô vẫn tiếp tục nói:
- Khiếp, lúc anh nôn vọt ra mới ghê chứ! Bắn hết vào quần áo em. May mà đã cởi áo khoác ngoài, không thì toi. Nhưng hễ say rượu cảm lạnh, nôn xong coi như đã khỏi quá nửa.
Rôi cô cười, hồn nhiên đắc thắng:
- Chữa say rượu cảm chỉ Ngọc Minh là Thánh thiên tử, không ai sánh được.
Nguyên tự hình dung ra cảnh mình nôn mửa ở nhà một người đàn bà lạ, ngượng ngùng:
- Tôi xin lỗi cô Minh, đây là lần đầu tiên tôi say rượu như thế này...
Ngọc Minh lắc đầu:
- Không sao, không sao... em đã lau dọn nhà cửa sạch sẽ rồi. Làm người phải có lúc say mới thú chứ? Lúc nào cũng tỉnh như sáo thì buồn hơn trấu cắn. Sống như thế thà chết quách đi còn hơn. Này anh Nguyên, em biết anh thông minh, bây giờ anh nói thật ra, tụi dân Châu Âu có lý hơn mình không?
Nguyên mỉm cười, anh bắt đầu thích vẻ hồn nhiên sôi nổi của người đàn bà. Cô ta nói tới mọi chuyện với vẻ giản dị khó ai mà bắt chước. Anh đáp:
- Mỗi dân tộc có một hệ thống giá trị riêng. Điều hợp lý ở nơi này rất có thể sẽ trở thành phi lý ở nơi kia.
- Bảo thủ, bảo thủ...
Minh cướp lời. Và Nguyên càng ngạc nhiên hơn vì ngay giữa đêm khuya khoắt, vừa tỉnh ngủ cô ta đã có thể nhảy vào cuộc tranh cãi ngay tức khắc với vẻ hưng phấn mãnh liệt đến như vậy...

- Anh lại giáo điều rồi – Minh nói tiếp – Những lý lẽ chung chung ấy chỉ nên rao giảng cho đám đông thôi chứ? Còn khi anh đang nằm bên một người đàn bà dưới cùng một tấm chăn hãy nói những ý nghĩ thực của anh.
Nguyên cười, anh không đối thoại nữa mà ngắm nghía gương mặt người đàn bà kề bên. Ngọc Minh lay vai anh giục giã:
- Nói đi chứ? Anh nói đi chứ?
Anh nắm tay cô:
- Lúc này im lặng là hơn cả.
Ngọc Minh lắc đầu, bộ hờn dỗi:
- Không.
Cái mũi hếch và gương mặt vuông vuông của cô trở nên dễ nhìn trong làn ánh sáng mờ ảo. Khi không phấn son thái quá cô gợi nên cái duyên mọc mạc rất đàn bà. Nguyên hạ giọng:
- Lúc này chi có hôn cô là hợp lý hơn cả.
- Em biết mà... Ngọc Minh vừa nói vừa cười - Thế nào rồi anh cũng phải sống cuộc sống thật sự. Thế nào rồi anh cũng phải từ bỏ cái sân khấu đáng nguyền rủa kia đi.
Nguyên không nghe người đàn bà nói gì hết. Vì từ khi cô choàng đôi tay ghì xiết lấy anh, anh đã bị cuốn vào cơn lốc dữ tợn của những khát thèm bị dồn nén. Cũng giống như ngàn ngàn tiếng trống từ những góc sâu tăm tối và hoang vắng nhất trong thân xác anh cùng vang lên. Ngàn ngàn âm vang bị lôi cuốn bởi một nhịp điệu điên cuồng, không thể ngăn cản, không thể kiểm soát, từ khoảng im lặng sâu thẳm của đớn đau và mất mát, từ khoảng mù sương mênh mông của các hy vọng và ảo vọng, dồn dập gieo âm thành cuồng nộ vào máu huyết của anh, thịt da anh, óc não anh... Một buổi sáng, Nguyên cùng tổng biên tập tới dự một cuộc hội nghị về chính sách nông nghiệp mới. Giờ giải lao, họ ngồi trong căng tin uống bia với lạc:
- Họp với hành mãi, mê mụ cả đầu óc. Không hiểu trên thế giới này có nước nào thích họp như nước mình không?...
Tổng biên tập làu bàu. Ông chọn một góc vắng vẻ:
- Vào đây cậu, phải tự làm thư giãn đầu óc không thì mệt mỏi quá. Có ra ngoài nhiều mới thấy, ở tất cả các nước tiến bộ, người ta quý thời gian lắm, chẳng ai đầy đoạ con người vào những cuộc họp hành liên miên vô hiệu quả như ở xứ sở chúng ta. Nguyên rút trong cặp một mảnh giấy lau mặt bàn lênh láng nước ngọt:
- Có họp mỗi ngày ba lần và phát động thi đua mỗi tuần ba lần thì những chiếc bàn này vẫn bẩn thỉu nhớp nháp, các nhân viên phục vụ vẫn ném hàng vào mặt khách với thái độ của kẻ vô giáo dục và rình mò ăn cắp của công... Tất cả những gì là hình thức, không có nội dung hoặc nội dung đã lạc hậu với thời điểm lịch sử đều trượt bên ngoài cuộc sống. Cái quan trọng hơn cả là làm cho các cỗ máy vận hành chứ không phải treo đèn kết hoa và phủ nhung lụa lên vỏ máy. Hồi nhỏ tôi thường lui tới một gia đình làm nghề cho thuê xe đám ma. Tôi đứng ngoài cửa, nhìn những cỗ xe đứng im lìm, được sơn phết đủ các thứ màu rực rỡ và cờ phướn rủ xung quanh. Chúng gợi cho tôi một cảm giác kinh sợ. Giờ đây, tất cả những gì mà hình thức đối nghịch hoặc nguỵ trá nội dung đều gợi cho tôi một cảm giác kinh sợ gần như thế.
Họ cùng ngồi xuống. Trời lạnh, nhưng đối với những người thích uống bia, đó vẫn là thời tiết đáng thú vị. Tổng biên tập gọi một đứa bé bán lạp xường và mực nướng rong ngoài phố vào mua. Cô nhân viên phục vụ bưng tới trước mặt họ bốn vại bia, đặt xuống bàn như người đổ cảm vào máng lợn khiến bia sánh ra ngoài. Hai người đàn ông đưa mắt nhìn nhau, khẽ lắc đầu. Rồi họ im lặng uống, không nói thêm lời nào nữa. Ngoài sân, lác đác những khách dự hội nghị đang tới, kẻ lúi húi khoá xe, người thủng thẳng dạo quanh khuôn viên trước phòng họp. Tổng biên tập nhìn Nguyên:
- Dạo này cậu uống khá hơn trước. Không thấy mặt đỏ lên chút nào.
- Vâng.
Nguyên gật đầu xác nhận.
- Trời lạnh thật.
Tổng biên tập chuyển đề tài đột ngột. Trong lúc Nguyên đang thầm nghĩ về điều đó, chợt ông gọi tên anh:
- Nguyên này.
- Anh bảo gì ạ?
Sau cặp kính cận bốn điốp, mắt người đàn ông đã lớn tuổi chợt hiện lên vẻ bối rối:
- Cậu... cậu biết chứ?
Nguyên không trả lời, im lặng chờ đợi. Và ông nói tiếp:
- Lâu nay, người ta xì xào về quan hệ của cậu với cô Ngọc Minh. Thậm chí, có người còn tới chất vấn tôi. Những người ấy, tôi biết họ kèn cựa với cậu. Tôi đã trả lời họ với thái độ cứng rắn rằng giờ đây các đoàn thể và các tổ chức chính quyền không còn được phép can thiệp thô bạo vào đời sống riêng của mỗi cá nhân. Tôi đã yêu cầu họ dẹp đi thói tò mò và thói quen tự cho mình có quyền thọc múi vào mọi chuyện... Nhưng chỗ thân tình...
Ông ngừng lại, hẳn là để chọn ngôn từ và tính toán lần cuối những điều định nói. Nguyên tiếp tục rít thuốc, lặng lẽ chờ.
- Tại sao cậu lại chọn... một người... mà...
Ông ngừng lời, lúng túng. Mắt ông đuổi theo đám lá khô bị gió lù trên con đường rải sỏi chạy giữa khuôn viên. Con đường ấy dẫn tới một ngôi nhà hai tầng cổ kính, có những bồn hoa đỗ quyên đỏ rực. Hàng cột trơn phía trước tương xứng với mái đỡ và các đường gờ trang trí. Một rèm hoa tigôn rủ phía trên. Các cánh cửa kính ánh lên mờ mờ dưới tia sáng trắng của ngày đông. Toàn bộ ngôi nhà toát lên vẻ đẹp u hoài. Nó khiến ta nhớ tới tất cả những gì tươi đẹp trong quá vãng đồng thời lại khiến ta thấy vẻ đẹp ấy đã xa xôi và quá mong manh. Tựa hồ chiếc màng nhện óng ánh sương buổi sớm. Tựa hồ ráng mây rực rỡ lúc hoàng hôn... Có lẽ, ý tưởng ấy khiến tổng biên tập trầm ngâm. Sau rốt, ông nhìn thẳng vào mắt Nguyên và hỏi:
- Tại sao nhỉ, tôi nghĩ rằng người như cậu sẽ cần thiết một mẫu người đàn bà khác. Bỏ qua chuyện cậu và cô Linh vẫn còn ràng buộc về pháp lý. Điều đó, với những đầu óc thực tiễn, nó không ăn nhằm gì... Nhưng cậu không thể kiên nhẫn thêm chút nữa hay sao? Tôi vẫn nhớ câu châm ngôn của Pháp: "Ai uống nhanh sẽ trả chậm"... Cậu hiểu điều ấy không?...
Nguyên ném mẩu thuốc vào sọt đựng rác vụn trong góc nhà. Anh lại rút điếu thuốc khác, tiếp tục đốt. Bây giờ tới lượt tổng biên tập đợi chờ. Ông không hút thuốc mà uống bia, hết ngụm này đến ngụm khác, đĩa đồ nhắm vơi dần. Sau hồi lâu, Nguyên ngẩng lên. Và anh trả lời ông:
- Tôi cảm ơn sự quan tâm của anh. Nhưng chính tôi, tôi cũng chẳng hiểu vì sao cơ sự lại như thế. Có lẽ, bởi cơn say tai hại hôm ở khách sạn về. Và có lẽ, bởi... bởi...
Tổng biên tập ngắt lời:
- Thôi được, tôi hỏi cậu điều này: Liệu rồi mọi sự có ổn hay không?
Nguyên nhếch môi cười:
- Tôi làm sao mà biết được?
Tiếng chuông điện vang lên trong loa phóng thanh gọi họ vào phòng họp. Lúc ngồi xuống ghế, Nguyên bất giác thở dài và nói thêm:
- Nhưng anh có hiểu được không?... Tôi, tôi cũng chẳng sung sướng gì...
Nguyên trả lời trung thực. Anh đã đánh mất những phút giây vui thú trong cuộc sống chung với cô Ngọc Minh quá mau. Sáng hôm đầu tiên thức dậy, Nguyên định gọi dây nói cho báo nhưng anh chóng mặt ngã gục xuống giường. Lúc ấy Ngọc Minh hét lên:
- Chết thật làm sao thế này?...
Trong cơn choáng váng nhưng Nguyên vẫn nhận ra trong tiếng kêu kinh hoàng ấy có nỗi lo âu ngàn đời của kẻ làm vợ dành cho kẻ làm chồng. Anh cảm động. Ngọc Minh ghé sát lại nghe tim Nguyên. Bộ ngực ấm nồng nàn của cô tì sát lên anh và Nguyên lại thấy sự gần gũi ấy tự nhiên, dường như đã diễn ra cả đời người. Anh thư thái dù còn rất mệt. Cô đã gọi điện thoại cho tổng biên tập báo rồi xăng xái cho anh uống thuốc, chườm nước nóng. Không kịp phấn son, cô chải sơ dăm nhát lược cho tóc đỡ rối để đi mua cháo tim gan tía tô hành cho anh ăn giải cảm. Cô đỡ lưng cho anh ân cần như người mẹ chăm sóc con. Cô buộc anh phải uống đủ các loại thuốc bổ cần thiết. Cô gọi y tá tới tiêm trợ sức cho anh... Anh trở nên yếu mềm, nhỏ bé trong cơn đau ốm. Và lúc ấy, anh nhận ra vẻ đẹp trong con người cô, sự bao dung, rộng rãi, tính khoáng hoạt trong các mối giao tiếp cùng sự chân thành... Xét cho cùng, cô tốt bụng, tận tâm với bè bạn và có những nét hồn nhiên tươi mát mà những người đàn bà khác thiếu kém. Khi Nguyên bình phục, Ngọc Minh không tiếc tiền chợ. Cô mua đủ thứ bổ béo với cái dạ dày của người đàn ông đang ở tuổi ba mươi:
- Em xào thịt bò với hành tây cho anh ăn nhé. Còn canh, anh có thích canh sườn nấu dấm không. Canh cua cũng ngon nhưng em ngại lắm. Nếu anh thích canh cua ta rủ nhau ra hàng bún riêu là thượng sách...
- Anh ăn thịt quay chán rồi hả? Em mua thịt chó nhé. Rượu, thịt chó là món em khoái nấht. Đứa nào không biết ăn thịt chó thật là ngu. Ngay bọn sư sãi trọc đầu trong chùa mà cũng còn kêu riềng mẻ vụng nữa là...
Anh đã cố quen với một nếp sống hoàn toàn khác biệt với anh. Vốn là người mực thước, anh chưa bao giờ chịu đựng cảnh chè chén say sưa từ chập tối tới thâu đêm, cảnh những người đàn ông say rượu nôn thốc nôn tháo lên sàn, những câu chuyện bốc trời, những trận cười lở đất của họ, cái cách thức họ mạt sát nhau rồi lại hỉ hạ bắt tay trước một ly rượu... Anh đã cố quen với cả cách ăn uống của cô. Bữa cô ép anh ăn toàn thịt chó với rượu. Bữa cô rủ anh ăn bánh rán trừ cơm vì ngại nấu. Bữa hết tiền chợ, cô rủ ảnh tới quán phở quen ăn chịu... Tất cả những điều đó chỉ có thể thú vị khi nó diễn ra lần thứ nhất, nó còn khả dĩ chịu được trong lần thứ hai, thứ ba, thứ tư... Nhưng đã tới lần thứ chín, thứ mười nó sẽ biến đời sống gia đình thành địa ngục. Cô Ngọc Minh cũng lờ mờ cảm thấy cách sống của cô trái ngược với anh nê kìm bớt các sở thích riêng. Nhưng ngày một, ngày hai, các sở thích đó lại trồi lên như cây kim nhọn giấu dưới lần vải mỏng. Những sở thích xưa nay hoàn toàn ngự trị đời sống của cô. Chúng đòi cô trả lại quyền hành: Tại sao phải hy sinh rất nhiều thú vui quen thuộc để gìn giữ một người đàn ông trong khi cô có thể có nhièu người đàn ông khác?... Những buổi tiệc tùng xưa kia mới thật sự đem lại nguồn sinh lực và khả năng hoạt động cho cô. Hàng chục người đàn ông thuộc các nghề nghiệp khác nhau cùng xúm xít quanh mâm rượu. Ở đó, cô là bà chúa duy nhất của họ. Cô rót rượu, thứ lửa nóng khiên cho bất kf anh đàn ông nào cũng đinh ninh tin rằng mình là bậc quân tử hoặc đấng hào kiệt trong cõi đời. Họ ca ngợi trí óc sắc sảo của cô, họ tán tụng những ý tưởng tân kỳ của cô, so sánh chúng với những ý tưởng cao siêu nhất của thời đại. Những câu chuyện của họ khiến cô thu nhận được nhiều nguồn thông tin mà chẳng cần mất thời gian đọc sách hoặc tìm tư liệu. Sống cuộc sống ấy, cô đâu cần dằn mình xuống, khép bớt các thú vui để lao vào công việc cần mẫn như Nguyên? Không lẽ, khi anh ngồi đọc trước bàn, cô lại rủ bạn tới uống rượu hoặc tới quán cà phê nghe nhạc?... Không không... có không có cái thú nghe nhạc trong phòng riêng. Cô muốn nghe nhạc ở các công viên hoặc các tiệm quán đông người. Ngay cả những phút cần yên tĩnh nhất cô cũng thích ném nó vào những khu vực náo động nhất của đời sống. Trong huyết mạch của cô, có một dòng máu cuồng nhiệt chảy, đòi hỏi sự náo loạn căng thẳng của âm thanh, màu sắc với ánh sáng... Nhưng trong tim anh, lại là dòng máu khác...
Một chiều thứ bảy, Nguyên trở lại căn phòng của anh. Lúc leo lên cầu thang, anh gặp giáo sư Lê đi xuống:
- Anh bạn, lâu quá không gặp anh.
Ông nói, tay đung đưa chiếc xô.
- Vâng
Nguyên đáp, tay cầm chiếc xô cho ông già và hỏi:
- Nước không lên được tầng trên hay sao?
- Từ chiều hôm kia tới giờ, không có mọt giọt nước nào – Giáo sư Lê đáp. Hai người cùng xuống sân để lấy nước. Nguyên bảo:
- Giáo sư để tôi xách cho.
- Hôm nay tôi rảnh, cậu ở chơi nhé?
Ông già hỏi, vẻ như nài nỉ. Nguyên gật đầu đáp lại. Anh xách xô nước đem thẳng vào phòng tắm cho ông già rồi mới bước vào gian phòng chính. Tuy cùng ở một ngôi nhà, nhưng đây là lần thứ ba Nguyên tới thăm ông. Không có gì thay đổi so với hai lần anh tới trước. Những dây vạn niên thanh già cỗi leo quanh khuôn cửa sổ và áp vào tầng mái. Một chiếc giường khung đồng cổ lỗ có giá treo màn tròn. Chiếc bàn làm việc đồ sộ, bóng và đen như sừng trâu mài nhẵn. Trên bàn, hai bình mực thuỷ tinh: một bình mực đen, một bình mực đỏ. Bảng thời niên biểu treo phía trước. Một cành hoa tuylíp bằng thuỷ tinh hồng đặt bên những cục đá chặn giấy hình thù kì dị.
- Anh uống chút cà phê nhé?
Giáo sư hỏi và không chờ anh trả lời, đặt chiếc phin cà phê bạc lên miệng cốc. Có lẽ chiếc phin cà phê này là thứ đồ quý và tinh xảo nhất trong nhà ông. Giáo sư đổ càphê, chặn nắp với một động tác thành thục rồi chế nước. Sau khi đã đậy nắp trên, ông dội nước vào một chiếc thau sứ lớn rồi đặt cốc vào đó. Nguyên ngắm ông, thầm nghĩ:
"Ông già đã sống như thế này từ tuổi hai mươi. Ngày nọ tiếp ngày kia, tháng này qua tháng khác. Hàng vạn vạn khoảnh khắc trôi qua, ông ngắm bảng thời niên biểu này, những dây vạn niên thanh già cỗi kia, cái giường cổ lỗ, bàn làm việc với bông hoa thuỷ tinh giá lạnh và những cục đá chặn giấy. Đúng là đời sống của một bậc tu hành".
- Anh uống đi cho nóng. Thứ cà phê này người ta gửi từ Buôn Ma Thuật ra cho tôi.
Ông đặt cốc cà phê ngâm trong thấu nước nóng với bình đựng đường trước mặt Nguyên, rồi ông ngồi xuống ghế đối diện châm một điếu thuốc.
- Sáng tôi đã uống một tách đặc rồi, xin kiếu anh.
Ông nói tiếp sau khi nhả một hơi khói. Mùi cà phê thơm ngát lẫn khói thuốc khiến Nguyên dễ chịu. Anh nói:
- Tôi thèm khát cuộc sống của giáo sư. Nhưng có lẽ, chúng tôi không đủ can đảm để sống cuộc sống ấy. Chúng tôi chỉ là những kẻ tầm thường.
- Ấy chớ…
Ông già giơ tay ngăn, không cho Nguyên nói tiếp.
- Đừng nói những lời lẽ ấy, anh bạn.
- Tôi là người thành thực, theo đúng nghĩa của chúng ta thường hiểu. Xin giáo sư tin rằng tôi không có ý định tâng bốc hay phỉnh nịnh giáo sư.
Nguyên đáp.
- Không – Giáo sư Lê lắc đầu: - Tôi không có ý nghĩ rằng anh ve vuốt tôi, những người tự chọn cho mình một cuộc đời khác biệt với đám đông chính vì chúng rôi bị ràng buộc bởi những niềm say mê khác biệt với đám đông. Đừng thần thánh hoá điều đó. Vả chăng, con người có những nhu cầu rất khác nhau trong cuộc tồn sinh. Trước mắt mọi người, chắc chắn tôi là một kẻ quái dị. Một gã phù thuỷ suốt ngày chúi mũi vào những con số, quanh năm hít bụi sách và lẩm nhẩm những điều không ai thèm quan tâm. Người ta, những người sống một đời sống dung dị thường ao ước một mái nhà, một người vợ đẹp, những đứa con ngoan và những tiện nghi vật chất. Đừng coi thường sở thích của họ. Ngoài phần đóng góp cho xã hội, con người có quyền tìm cho mình một đời sống tốt đẹp hơn.
- Vâng, tôi có phủ nhận điều ấy đâu?... Nhưng tôi muốn nói rằng chính nhờ những người như giáo sư mà nền văn minh nhân loại hay của một quốc gia được thúc đẩy.
- Đấy là nhiệm vụ của chúng ta, anh bạn ạ. Bất cứ kẻ sĩ nào cũng chỉ tồn tại trên cõi đời bằng niềm vui thú cỏn con ấy thôi. Khi không còn nó nữa, cuộc đời chúng ta nghèo nàn hơn cuộc đời một anh chủ tiệm tạp hoá mười lần.
- Thưa giáo sư, chẳng có một ông chủ tiệm tạp hoá hàng Đào nào bằng lòng đánh đổi cuộc sống của ông ta và những vinh quang của giáo sư đâu?
- A, tất nhiên, tất nhiên…
Ông già đáp, thoạt tiên với chút ngỡ ngàng, và sau đó với nụ cười ẩn dưới hàng ria mép:
- Tôi hiểu điều trớ trêu đó. Nhưng phàm đã là kẻ trưởng thành, không được phàn nàn sự lựa chọn của chính mình. Chỉ có những đứa bé mới phàn nàn rằng nó trót cầm nhầm phần bánh nhỏ.
Hàm răng ám khói thuốc của giáo sư trông thật dễ thương. Khi ông cười, chất hóm hỉnh trong con người ông hoàn toàn bộc lộ. Ông hài lòng cuộc sống của chính ông. Còn anh, chênh vênh trên một cây cầu tre không tay vịn. Bất giác, Nguyên buông tiếng thở dài:
- Sao vậy?
Giáo sư Lê đưa mắt nhìn anh, hỏi:
- Lâu nay anh vắng nhà, có điều gì bất an chăng?
Nguyên đắn đo vài giây, rồi không nhìn ông, anh nói:
- Tôi muốn hỏi giáo sư… đây chỉ là một chuyện riêng tư…
Ông già gạt tàn thuốc vào bình, gật đầu:
- Tôi rất sẵn lòng, nếu được anh tin cậy.
Nguyên nói:
- Người ta có thể hoàn toàn phá bỏ những nguyên tắc đời sống của chính mình để gia nhập vào một cuộc đời trái ngược với họ không?
Giáo sư Lê không trả lời ngay. Ông rút từng hơi thuốc dài, thong thả nhả khói. Rồi khi đã hút hết điếu thuốc, ông ném mẩu đót lọc vào bình và đáp:
- Tôi không thể trả lời anh cụ thể điều nào đó trong cuộc sống gia đình. Nhưng tôi có thể nói với anh những nguyên lý chung: con người vĩ đại khi họ đặt ra những nguyên tắc, nhưng họ còn vĩ đại hơn khi phá bỏ chính những nguyên tắc đó. Cũng giống như những kẻ đi đường, trong hành trình tư duy. Cột mốc số chín mươi chín là lý tưởng khi họ đang ở cây số chín mươi tám, nhưng nó cũng chính là điều cần phế bỏ khi muốn đi đến cây số thứ một trăm. Nhân loại được đẩy lên phía trước chính nhờ những khát vọng không ngừng dập xoá hiện tại và xây cất lâu đài tương lai. Ở đây, tôi không nhắc tới chủ nghĩa phủ định sạch trơn mà chúng ta đã biết từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Ấy là một lỗi lầm của thời thơ dại.
Ông ngừng lại, ho khan vài tiếng rồi nói tiếp:
- Bởi thế, việc từ bỏ quan niệm này, hình thành quan niệm kia trong đời sống là chuyện bình thường. Nhưng tôi chỉ lưu ý anh rằng mọi sự đổi thay ấy phải dựa trên những nguyên tắc an toàn xã hội. Con người là sinh vật xã hội và nó không thể tồn tại với tư cách con thú ăn lẻ trên sa mạc. Những đổi thay ý tưởng của con người chỉ được chấp nhận khi nó tạo cho họ nhiều điều kiện thuận lợi hơn để sống cho chính họ và cho cả cộng đồng. Tất cả những phá vỡ không dựa trên nguyên tắc đó là sự thoả mãn các dục vọng cá nhân riêng biệt và thấp kém. Anh có quyền hút thuốc, nhưng chớ ném cháy kho xang nhà người khác, anh có quyền ăn cam nhưng chớ hái cam ở vườn hàng xóm đem về...
Ông châm điếu thuốc nữa, nghiêng đầu nhìn Nguyên:
- Tôi chẳng có điều gì hay ho hơn để nói với anh đâu. Tôi là kẻ độc thân. Trong con người tôi, mất hẳn cái phần sống bình thường của nhân loại. Về phương diện ấy, tôi hoàn toàn không kinh nghiệm, nói cho đúng hơn – hoàn toàn là một gã mù loà...
Họ chuyển sang nói chuyện về tình hình trong nước và ngọn lửa sôi sục ở Trung Cận Đông.
Nửa giờ sau, Nguyên về phòng mở cửa, làn gió nhẹ lùa hơi lạnh vào mặt anh. Một lớp bụi mỏng phủ lên mọi đồ vật và làn hơi băng giá của những kỉ niệm cũ khiến người đàn ông nhức nhối. Anh đi đi lại lại trong phòng. Trên những viên gạch lát, hiện lên bàn chân thon nhỏ dưới ống quần màu hoàng yến. Đầu cô nghiêng nghiêng khi cô kéo tấm rèm che cửa sổ. Những bông cẩm chướng tươi rói trong bình, rồi chúng úa tàn và rụng từng cánh… Tình yêu ấy đuổi theo mãi, chẳng buông tha anh. Lâu nay, Nguyên tưởng rằng đã quên được nó. Anh giao du với nhiều người đàn ông. Học có thể yêu người này trong vài tuần rồi lại yêu người khác trong vài tuần sau với cùng một niềm say mê như thế. Rồi vài tháng sau đó nữa, trí nhớ họ đã rũ sạch hình ảnh của các mối tình ấy như người ta rũ tấm áo mưa hay tàu lá chuối. Những người đàn ông ấy sung sướng làm sao?... Còn anh, anh đã bị trói chặt vào một say mê duy nhất. Anh hiểu rằng anh sẽ còn phải khổ đau.
Giáo sư Lê nói gì?... Anh có quyền hút thuốc nhưng chớ ném cháy kho xăng người khác. Anh có quyền ăn cam nhưng chớ sang vườn hàng xóm hái cam… Ông cụ sống đời sống độc thân, ông cũng ngớ ngẩn trong quan hệ gia đình. Bi kịch của mình không rơi vào điều giáo sư đã nói. Hoàn toàn không có vấn đề an toàn xã hội và đạo đức ở đây, cô Ngọc Minh không phải là trái cam trong vườn ai cả…
Nguyên suy nghĩ, và anh thấy bất lực vì anh thiếu khả năng biến đổi. Sau quãng thời gian cô đơn, trong những ngày đầu sống với Ngọc Minh, anh đã tưởng mình hạnh phúc. Anh đã luôn luôn có ý thức gạt bỏ những thói quen, những cảm xúc thẩm mỹ cũ để tìm cảm giác thoải mái trong cuộc sống chung. Nguyên hoà nhập vào những buổi chè chén, những buổi rong chơi, những tối lang thang dọc phố xá… Anh đã quen nghe tiếng cười ồn ã của cô, quen nhìn cô thay áo giữa căn phòng mở cửa toang hoang, trần như nhộng và hồn nhiên như đứa bé. Anh cũng đã quen với cách huýt sao ngay giữa trưa hoặc đêm hôm khuya khuắt khi cô nổi hứng. Anh cũng đã tìm được vẻ đẹp mát mẻ lúc cô cười nhận lỗi trước bất kì người hàng xóm nào tới gõ cửa phản đối cô gây ồn ào. Anh biết cô tốt bụng, hào phóng với tất cả mọi người. Giá cô là triệu phú, hẳn cô sẽ ban phát nửa gia tài cho những kẻ khốn khó. Gặp người hoạn nạn, cô có thể cho họ đồng bạc cuối cùng để buổi trưa vác bát sang nhà hàng xóm xin ít dưa về ăn cơm. Ngoại trừ những điều ấy, cô là một phóng viên khá sắc sảo tuy khiến thức không toàn diện và sâu sắc, cảm hứng đồng điệu trong công việc cũng là một mối dây khá chặt chẽ thắt buộc họ…
Tuy nhiên, vào một buổi sáng, Nguyên đang ngồi sửa bài, Minh đang đi chợ, chợt một cái đầu hói với mớ tóc giả chấm vai ló vào:
- Cưng ơi i i…
Nguyên ngẩng lên, và bắt gặp một người đàn ông trạc ngoại ngũ tuần. Ông ta cũng vừa thấy Nguyên, cười ngượng nghịu:
- Xin lỗi anh, cô Minh có nhà không ạ?
Nguyên đứng dậy:
- Mời anh ngồi chơi. Minh đi chợ. Cô ấy sẽ về ngay bây giờ.
Ông khách ngồi xuống ghế. Nguyên rót nước mời. Người đàn ông vừa ống trà vừa liếc nhìn Nguyên:
- Chè của anh ngon quá... Hôm nay trời lạnh ghê...
Đôi mắt nhỏ tinh ranh của ông ta lục lọi khắp căn phòng. Đây là cái nhìn của một chủ nhân cũ. Mọi đồ vật đã phơi bày trước mắt người đàn ông xa lạ ấy với cái diện mạo mà nó phải có. Bức tranh ấn tượng, ngọn đèn mờ, cái giá áo có những móc gỗ xiên lệch đang treo đầy áo rét của Ngọc Minh và chiếc bludông của Nguyên. Cái nhìn của vị khách bao hàm ý nghĩ:
“Tất cả đã từng là vật quen thuộc của tớ. Nơi đằng ấy móc chiếc bludông kia trước tớ treo cái áo lông”.
Ngăn tủ kính của cô phóng viên lộn xộn những hộp đựng trà, hộp đựng phấn rôm, vỏ hộp bánh qui và kẹo ngoại quốc... Người khách cũng để mắt tới cả những vật đó nữa, với vẻ tọc mạch kín đáo. Rồi ông ta rút thuốc lá ra:
- Xin anh chút lửa, anh có hút thứ này không?
- Cảm ơn.
Nguyên đáp tự nhiên:
- Dạo này tôi bị ho nên phải ngừng hút.
Lúc đó, Ngọc Minh về. Tiếng cười lanh lản của cô vang từ ngoài sân:
- A, chiếc Honđa ghẻ của anh Đức đây rồi. Tưởng đi Tây về phải thay nó đi chứ?
Cô bước vào, chào vồn vã. Người đàn ông chìa tay, mắt sáng lên:
- Chào Ngọc Minh.
Ông ta ghìm giữ một cử chỉ nào đó. Nguyên không xác định nhưng anh đoán biết được. Anh đi tới mắc áo, lấy chiếc bludông:
- Minh ở nhà một lát tiếp khách, anh sang cửa hàng.
- Ờ, ờ, anh đi đi. – Cô gái gật đầu tán đồng rất nhanh với niềm vui không che đậy. – Nhưng chỉ một giờ là cùng đấy nhé.
Khi Nguyên chưa bước ra khuôn cửa, cô đã bảo người đàn ông:
- Ngồi xuống đây với em, kể chuyện chuyến đi xem nào...
- Khe khẽ cưng...
Anh nghe người đàn ông thì thào: “Khe khẽ chứ, rồi anh sẽ kể mọi chuyện cho cưng nghe..”
Hôm ấy, Nguyên đi thẳng tới toà báo. Anh làm việc cho tới chiều mới về. Minh trách:
- Anh phải ăn cơm nguội đi, còn quá nửa nồi đây này.
Nguyên lẳng lặng thay quần áo rồi ngồi vào ăn cơm. Trong con người anh, vốn dư thừa tính nhẫn nại. Vào buổi tối, họ uống chè đường thả lát chanh tươi theo kiểu Nga. Từ ngày được đi Nga tham quan, Ngọc Minh rất chuộng kiểu uống chè ấy. Thấy anh ngồi im, cô láu táu kể chuyện:
- Sớm nay tay Đức kể toàn chuyện thú vị. Kể ra thỉnh thoảng cũng phải ra ngoài một chuyến mới biết trên địa cầu người ta sống ra sao. Nước mình là cái xó kín bưng, bất cứ nguồn tin nào tới được cũng đã thành lạc hậu. Anh có biết rằng...
Cô lần lượt nhắc lại những chuyện vặt thu lượm dọc chuếyn đi của người đàn ông kia. Biết mình im lặng quá lâu sẽ khiến Minh chạnh lòng nên anh hỏi:
- Ông ta làm gì vậy?
- Tay Đức ấy à?... Chuyên viên sinh học loại sừng sỏ nhất ở nước mình. Một trong những người cự phách nhất về lý thuyết Sinh – Hoá.
Cô ta tặc lưỡi, gật gù:
- Thông minh thật, lão ấy cực thông minh.
Sau đó, cô cất tiếng cười: - ôi trời, tay bồ là sếp viện khoa học của em lạ thật. Anh có biết hôm nay lão tới đây có việc gì không? Lão tới xin lại cái máy xay sinh tố đã tặng em từ năm kia, năm kìa: "Bây giờ con gái anh sắp sinh cháu nhỏ, anh cần xin lại máy để xay bột và trái cây cho nó…" Nghe có thủm không cơ chứ?... Em bảo lão rằng có tìm cả đời cũng không thấy được. Hai ba năm trời, một chứ một trăm chiếc máy tôi cũng đã bán ăn hết. Tôi còn đủ hai hàm răng, giữ thứ đó làm quỷ gì cho chật nhà.. Em nói xong, lão không còn hào hứng trò chuyện gì hết, tiu nghỉu ra về…
Cô ngừng lời, cúi xuống rót trà. Anh nhìn thấy những nếp nhăn nhỏ trên trán cô và anh buồn rũ rượi. Buồn cho cô, hay cho anh?... Nguyên không phân biệt được rạch ròi, nhưng anh biết rằng cảm giác buồn tủi và trớ trêu khiến anh thấy đất dưới chân mình đang sụt lở. Đêm ấy, Nguyên trằn trọc. Dưới ánh đèn xanh mờ, anh ngắm nhìn cái khung cảnh mà anh đã sống nửa mùa đông qua. Bức tranh ấn tượng treo xiên lệch câu thả ngay dưới chân giường. Những đống sách vở và những tấm áo, manh quần treo khắp nơi. Tất cả gợi ta nhớ đến một quán trọ tồi. Mọi thứ đều tạm bợ, thiếu ngăn nắp và bụi bặm, khiến người ta không thể yên tâm. Một khách sạn tốt là một khách sạn gợi cho lữ khách cảm giác thân thuộc ngay từ phút đầu. Nhưng ở gian phòng của Ngọc Minh, người ta luôn nghĩ rằng sớm mai sẽ phải xách valy ra đi. Nơi đây là tạm trú chân giữa hai cuộc hành trình. Nơi đây, người ta chỉ có thể ngủ giấc ngủ chập chơn, vội vã và mệt mỏi như giấc ngủ bụi bặm trên các tuyến tàu chợ… Kia, hai chiếc sơ mi trắng vắt trên thành ghế. Hệt như đêm đầu tiên anh sa vào chiếc giường của cô vì cơn say không lường trước… Không, không… người đàn bà như cô sinh ra không để gắn bó với riêng ai. Nếu cô tái giá tới lần thứ mười, sau đó cô sẽ sống một thân trong cái lữ quán này. Đời sống gia đình bao giờ cũng dựa trên một mối liên kết. Mối liên kết ấy tuỳ thuộc vào hai cá nhân. Nhưng đối với Ngọc Minh, sẽ không tồn tại bất cứ mối liên kết nào, cho dù đấy là mối liên kết lỏng lẻo nhất, tháo gỡ dễ dàng và tự do nhất… Phải chăng, cô là đứa con của một kiếp sống hoang dã. Chính vào giây phút ấy, Nguyên biết anh sẽ phải ra đi. Anh bỗng thương người đàn bà đã từng chung chăn chung gối. Anh chống cùi tay, nhỏm lên nhìn Minh. Cô ngủ say, gương mặt đắm trong làn ánh sáng nhờ nhợt. Không xinh đẹp nhưng cũng tạm ưa nhìn. Anh nhớ tới nụ cười hồn nhiên của cô, những cử chỉ ta chỉ có thể tìm ở những đứa bé lên mười. Anh kiểm lại tất cả các tính tốt cô đã có… Nhưng sau mọi đắn đo, suy tính ấy, anh vẫn thấy gương mặt cô xa lạ như hình ảnh nào đó đang trôi dạt tít tắp bờ nước bên kia. Dường như chuỗi ngày họ vừa chung sống đã tan thành bọt sóng.
Sáng hôm sau, khi Minh thức dậy, anh đã đi làm. Cô làu bàu:
- Tay này “lên” thật.
Trưa, Minh nấu cơm đoàng hoàng. Nguyên định gọi điện thoại báo cho Minh biết anh không về nữa nhưng lòng trắc ẩn khiến cho anh lại phải buông máy xuống. Anh còn nghe tiếng cô càu nhàu ở đầu dây đằng kia, rồi cô liến láu đôi co với anh chàng nào đó tới kiện tụng bài viết. Vào giờ tan tầm, đôi chân đưa anh về nhà cô theo thói quen:
- Hôm nay anh chập mạch hay sao mà gọi điện thoại ỡm ờ hàng tiếng đồng hồ thế hả?
Cô trách cứ khi vừa thấy mặt Nguyên rồi giục anh rửa mặt ăn cơm. Cơm xong, Nguyên thu dọn mâm bát, Ngọc Minh đã tót lên giường nghỉ trưa.
- Uống nước rồi đi nghỉ, mau lên anh.
Cô gọi, giọng ân cần bình thản như mọi người vợ trẻ gọi chồng. Nguyên nhìn cô, chợt thấy mình ngần ngại.
“Tại sao, tại sao?”
Anh đi loanh quanh trong phòng, không thể lý giải được trạng thái hoang mang đang xâm chiếm toàn thân mình.
Chiều, Nguyên bảo Minh rằng anh phải ngủ lại toàn báo để lo bài đặc biệt cho tập san. Kỳ thực, anh rủ ông già thường trực đi uống bia tới gần mười giờ đêm, rồi ghé vào căn phòng nhỏ của ông, chiu vào tấm chăn nồng nặc mùi dầu xoa và mồ hôi lưu cữu của người già. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà mình, với tam trạng của người dân miền đồng bằng sau một chuyến đi biển, sau những trận nôn mửa kinh hoàng, lại được đặt chân lên mặt đất liền. Nguyên đã bỏ ra cả một buổi chiều để lau rửa nhà cửa, cốc chén, giũ đạp chăn màn, giường chiếu, quét mạng nhện trong các góc nhà, giặt các tấm khăn trải giường và rèm che. Khi tất cả đã sạch sẽ, anh tắm gội rồi tự nấu cho mình một bữa cơm sang trọng để thết mình: Giò chả, nộm, nem chua mua ở cửa hàng quen phố Hàng Bông. Dưa chua, Nguyên vác bát sang phố bên cạnh, Tối hôm đó, Nguyên lặng lẽ ngồi ăn cơm. Cái bóng đơn lẻ của anh in xuống nền đá hoa. Anh nhìn nó và tự bảo mình: “Dẫu sao, đây mới chính là mái nhà mình. Con chim có tổ, con chồn có hang, con người phải có mái nhà của chính họ. Loài chim không ở được hang chồn cáo, và mình cũng không thể sống dưới mái nhà cô Ngọc Minh”.
Phần X
Trong vòng năm năm nay, chưa bao giờ Trần Phương có một buổi sáng vui vẻ như hôm nay. Ông vừa được gặp vị cán bộ lãnh đạo cao cấp – Chú của bà vợ. Bà đã tô vẽ cho ông khá đủ để vị lãnh đạo có sẵn lượng cảm tình cần thiết trước khi gặp ông. Và ông với sự nhạy cảm đặc biệt đã đánh giá được đối tượng tiếp xúc với mình ngay tức khắc:
“Một ông già thừa đôn hậu nhưng kém sắc sảo. Chinh phục ông cụ không khó khăn gì. Cái hàng rào vây quanh ông ta mới là thứ gai góc đáng sợ. Nhưng nhờ trời, với sự tận tuỵ của Hoa, hàng rào đó đã bị xé rách...”
Lúc ấy, ông thương vợ.
Vị lãnh đạo tiếp ông thân tình. Cũng như nhiều ông già thời thơ bé đã ngâm thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, ông trọng kẻ sĩ và đối với Trần Phương ông muốn thổ lộ những tâm tình sâu kín thường ngày bị dồn nén bởi công việc chính trị nặng nề. Dăm ba bài ngẫu hứng những mẩu chuyện hài hước bên lề cuộc sống, mấy nhận xét hóm hỉnh về một nhân vật trung gian... Tất cả vừa đủ cho ông già vui thú. Trần Phương hiểu rằng bất kì ai, dù giữ cương vị cao đến đâu cũng có nhu cầu thổ lộ tâm tình. Và nhu cầu đó, một khi bị kìm giữ càng lâu, lúc bột phát càng mạnh mẽ... “Hãy gãi cho đúng chỗ ngứa của ông già. Điều quan trọng là phải giữ sự chừng mực: cởi mở nhưng khuôn phép, vui vẻ nhưng thận trọng. Anh hãy nói những gì người ta muốn nghe, anh hãy im lặng vào khoảnh khắc người ta cần sự im lặng. Đó là nghệ thuật đối thoại, những lý thuyết cũ rích nhưng luôn luôn chính xác của con người”.
Trần Phương tự bảo mình. Vị lãnh đạo rót nước mời nhạc sĩ, cười sảng khoái vì nghĩ rằng cuộc chuyện trò này giống những phút giải toả quý báu giữa khoảng thời gian triền miên căng thẳng của ông:
- Cháu thấy cậu Hoan ra sao?
- Dạ, anh ấy có lòng hăng hái lẫn trí khôn của Đôngkisốt.
Trần Phương đáp, đầu cúi thấp xuống. Mái tóc đen như lông quạ che giấu những tia lửa trong đáy mắt ông: Hoan là một thằng ngu dốt, điên khùng, kẻ đã phá hỏng không biết bao nhiêu công trình xây dựng của thành phố. Những gì đã bị huỷ hoại bởi óc độc đoán cộng với sự ngu đốt của y phải rất nhiều năm nữa mới có thể phục hồi lại được. Nhưng Hoan là người trước đây đã có công cõng vị lãnh đạo qua suối, trong một trận càn quy mô của địch. Trần Phương hiểu rằng ông có thể ghi cho mình một bàn thắng nếu giải toả được những khúc mắc sâu kín trong lòng ông già hiền lành và duy cảm. Quả nhiên, vị cán bộ cao cấp thốt lên tiếng nói vui mừng, gần như reo:
- Ồ, đúng rồi, cái anh chàng Tây ban nha đánh nhau với cối xay gió. Cháu nhìn người tinh thật. Chú mất ăn mất ngủ vì cái cậu Hoan này. Bao nhiêu là đơn kiện...
- Vâng, thường thường người ta đánh giá nhau phiến diện nông nổi. Có mấy ai biết nhìn tận gốc rễ của sự việc đâu?
- Quả thật là như thế...
Vị cán bộ lãnh đạo thở dài: - Cần phải nhìn cho được gốc rễ của mọi sự. Trước kia, hồi còn ở chiến khu chú đã biết cậu Hoan này…
Trong đôi mắt già lão của ông hiện lên một nỗi cảm thương thấm thía. Hẳn rằng ông đang nhớ lại cái ngày cậu bộ đội Hoan kia cõng ông qua suối, hoặc nướng sắn cho ông ăn dưới mái nhà sàn… Hẳn rằng hình ảnh cậu lính trẻ ngờ nghệch, bẽn lẽn và trung thành với thủ trưởng còn lại mãi trong tim ông. Trong khi trên cõi đời cậu ta đã trở thành một gã đàn ông xấp xỉ tứ tuần, có ria mép và nắm nhiều quyền binh, khét tiếng vì sự tàn bạo với cấp dưới và vì ngu dốt trong công việc. Trần Phương hiểu điều đó, nhưng ông không dại gì để không đặt thêm cho mình một quả cầu.
- Thôi chú đừng nghĩ ngợi nhiều mà ảnh hưởng tới sức khoẻ. Sự ngu dốt của công chúng không bao giờ có đáy. Nếu số đông luôn luôn sáng suốt thì đã chẳng có tích cả làng kéo ra đình xem nàng Thị Kính chịu roi. Chú còn nhớ chèo Quan âm không ạ?
- Nhớ, nhớ… Kể ra các cụ cũng thông minh thật. Chứng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết. Lâu nay chú băn khoăn mãi. Hôm nay mới nhẹ cả lòng.
Trần Phương cười, hàm răng trắng ánh lên trẻ trung. Thằng khốn nạn kia nhờ mình mà thoát chết. Nhưng thôi, chẳng nên tính đến sự được mất chung làm gì. Cuộc đời của từng cá nhân là có thật còn sự sinh tồn của đám đông kia chỉ là những con số…
Người nhà đem ra một món chè ướp lạnh. Vị lãnh đạo mời khách cùng ăn. Vừa ăn, ông vừa đọc thơ của Đỗ Phủ mà ông chợt nhớ. Trần Phương đọc tiếp vài bài thơ Đường. Rồi họ cùng bình phẩm bài thơ Hoàng Hạc lâu nổi tiếng. Thỉnh thoảng, bà thím ngồi ở trong phòng ghé mắt nhìn ra vì chưa bao giờ bà thấy chồng cười to và sảng khoái đến như thế… Cuộc trò chuyện kéo dài qúa giờ cơm trưa năm phút. Trần Phương ra về. Thành phố nhìn ông với gương mặt dễ chịu, tươi cười. Dù là những ngõ hẻm chật chội đầy gánh hàng rong, dù là những vỉa hè bị lật xới để sửa lại đưòng cống cũng trở nên đẹp đẽ đối với ông:
"Sự chiến thắng và chiến bại của con người nhiều khi mang yếu tố ngẫu nhiên. Thần may rủi có quyền năng ghê gớm. Người xưa có câu: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, cổ nhân thâm thuý thật"

Ông ghé qua chợ Hàng Da mua mấy bông hoa cho vợ: xét ra, đó chính là người đàn bà yêu thương và tận tuỵ với ta hơn cả… Nhạc sĩ mường tượng tới khuôn mặt bè bè của vợ nhưng không còn khó chịu như ngày thường.
"Một người đàn bà tội nghiệp"
Ông bước lên cầu thang với dự tính tốt đẹp rằng ông sẽ yêu chiều vợ gấp ba lần mọi ngày để bù lại lòng tận tuỵ của bà. Nhưng vừa mở cửa, ông đã thấy bà ngồi ở salông, tóc tai rũ rượi, mũi đỏ tía và hai mắt sưng mọng những nước:
- Anh là đồ dối trá.
Bà hét lên khi ông chưa kịp cất tiếng chào. Từ trước tới nay những cơn ghen tuông cửa bà bao giờ cũng bắt đầu bằng điệp khúc ấy nên ông bình tĩnh đặt bó hoa lên bàn:
- Có chuyện gì vậy?... Đừng có hét to lên như thế xung quanh họ cười cho.
Những chuyện trăng hoa của ông trước đây khi đến tai bà đều đã thành dĩ vãng. Thủ phạm cao chạy xa bay và chính ông, đôi khi cũng đã quên biến họ. Bởi thế, Trần Phương nghĩ rằng vợ vừa biết tới một người đàn bà nào đó trong số những vệ tinh đã rớt khỏi quỹ đạo của mình. Ông cười, đặt tay lên vai vợ:
- Lại nghe chuyện vớ vẩn nào thế hả em?
Bà Hoa ngước đôi mắt sưng húp nhìn chồng, miệng méo xệch:
- Bà Phượng vừa đến đây.
Trần Phương đứng sững, một nét hốt hoảng lướt qua gương mặt:
"Mình lâm trận rồi đây" – Ông nghĩ. Bà Hoa nhìn chằm chằm vào mặt chồng và đoán được sự sợ hãi của ông. Bà kêu lên:
- Anh không cãi nữa chứ?
Trần Phương không nhìn vợ, đáp như cái máy:
- Có gì mà chối cãi?
- Thế nghĩa là anh vô tội phải không?
Bà vặn lại ông, cố ghìm cơn nức nở chỉ chực trào khỏi họng. Từ sáng tới giờ, bà đã khóc thoả thuê. Khóc trước mặt bà Phượng, người một thời đẹp nghiêng nước nghiêng thành, từng là thù địch trong quá vãng. Khóc khi chỉ còn một mình giữa gian phòng mênh mông, với lũ búp bê bày trong tủ kính, những chai thuốc, lọ thuốc lớn nhỏ, với những túi chườm tối tân và máy xoa bóp điện… tất cả những tiện nghi không thể bù đắp nổi khoảng thiếu vắng của một người đàn bà cô đơn.
Trần Phương nhìn vợ, và lập tức ông nghĩ rằng trong lúc này cần phải cứng rắn với bà: mềm nắn, rắng buông, loại đàn bà nào cũng thế. Ông bước vài bước lại phía bà, nét mặt trở nêm nghiêm khắc và cao ngạo:
- Tôi cấm cô được nói với tôi bằng cái giọng quan toà như thế. Cô đã giở trò ghen tuông bao nhiêu lần rồi, và những lần ấy cô đã thu được gì ngoài sự chê cười của đám đông?...
Bà biết ông nhắc lại những lần dại dột của bà trong quá khứ. Đúng như vậy, lần nào ông cũng đã rũ sạch quá khứ, chùi nhẵn những dấu vết, lần nào ông cũng là kẻ vô can và bà biến thành trò cười trước sự giễu cợt của ông… Nhưng đã từng sống với ông, bà hiểu ông là một con mãnh hổ. Bà biết rằng ông đã đẩy bà ra khỏi cuộc sống tình ái củ ông vì ông có rất nhiều cuộc đời tình ái khác, vì trong con người ông không còn một góc cỏn con yêu thương dành cho bà, dù chỉ là những nhắc nhở của thời ân ái cũ… Nhưng bà yêu ông, thèm muốn ông, cuồng si vì ông. Và những ý nghĩ tỉnh táo chỉ tới với bà trong những cơn sốc tinh thần.
- Em biết anh là người vô tội.
Sau một lát im lặng, bà nói với giọng trở lại ôn hoà. Lúc này, nỗi đau đớn khiến bà tỉnh táo và khôn ngoan. Bà vừa nhìn thấy một lối đi mới, có khả năng dẫn bà tới đích.
- Xưa nay, đã nhiều lần em nhầm lẫn...
Bà nói thêm.
- Ờ... – ông đáp – Em biết được như thế là tốt. Sang hôm nay tốt trời, anh đã mua hoa cho em và dự định chúng ta cùng ra phố.
Ông mở sợi lạt buộc, chìa cho vợ những bông hoa còn long lanh nước. Bà Hoa đưa tay chấm nước mắt, nói:
- Em cắm hoa đây. Nhưng anh hãy nói cho em biết cô Phương Linh là ai?
Trần Phương thấy hai thái dương nóng lên. Tên người đàn bà ấy gợi cho ông tình yêu và sự hiểm nguy trong cùng một giây phút. Ông hỏi:
- Ai nói với em điều đó?
- Bà Phượng.
- Bà Phượng là ai, chắc em biết rõ?
- Bà ấy là chuyện quá khứ rồi, nhưng em muốn hỏi anh người đàn bà hôm nay cơ.
- Bà Phượng ghét anh vì anh từ chối tình yêu cảu bà ấy. Đó là một kẻ hám danh. Anh không thể quý trọng những người không tự mình làm nên vinh quang nhưng muốn bám vào lưng một người khác để đạt tới danh vọng.
Sau câu nói ấy, ông muốn nhắc tới chức vụ của bà, chỗ đứng khó kiếm của bà trong xã hội... Giá như mọi lần khác, vợ ông sẽ thoả mãn lòng tự ái và nguôi cơn ghen giận ngay. Nhưng hôm nay, bà tỉnh táo hơn. Bộ mặt to bè của bà không xao xuyến, nó cứng như sành với cái chóp mũi đỏ tía nom thật khó coi. Bà cất tiếng hỏi ông, bình tĩnh và cương quyết:
- Anh đừng nói tới bà Phượng nữa, cô Phương Linh là ai?
Trần Phương nhún vai quay đi:
- Một người đàn bà tầm thường như mọi người đàn bà em đã biết.
- Nghĩa là anh không có tình ý gì với cô ta?
Bà gặng.
- Tất nhiên... như mọi lần em đã thấy.
Ông đáp.
- Nghĩa là anh hoàn toàn không đếm xỉa tới cô Linh, và cô ấy si mê anh một cách đơn phương?
Nhạc sĩ thấy hai tai nóng ran. Nhưng ông lập tức trấn áp cảm giác bằng ánh mắt dữ tợn chiếu thẳng vào mắt vợ:
- Nếu em lấy một người chồng tầm thường khác, em sẽ không có những thắc mắc ngớ ngẩn như vậy. Nhưng đã là vợ anh, em phải coi trọng sự say mê ngưỡng vọng của những người đàn bà khác với chồng mình là một vinh quang.
-Vâng.
Vợ ông gật đầu, mềm dẻo:
- Nhưng em chỉ muốn biết anh có yêu cô Linh không?
Trần Phương quay mặt về phía cửa sổ. Ở đó, một đôi chim sẻ vừa tha rác bay qua. Ông đáp:
- Không bao giờ.
- Nhưng lấy gì chứng tỏ điều ấy?
- Em nên hiểu rằng nếu muốn, anh có thể tìm những người đàn bà đẹp hơn, sang trọng hơn... Cô ta... cô ta chỉ là một nữ giáo viên bình thường.
Cặp chim sẻ bay qua cửa sổ lần nữa. Đôi mắt chúng như những hạt cườm, nhìn ông giễu cợt và khinh thị. Gương mặt xinh đẹp của Linh hiện lên ngoài khung trời với đôi mắt nâu lộng lẫy. Nhưng... “Xin em tha lỗi, đây là chuyện vặt cuộc đời”. Ông thì thầm với cô trong óc não.
Bà Hoa tiếp tục hỏi:
- Cô ta không biết rằng anh coi thường cô ta như thế nào?
Trần Phương đáp:
- Đàn bà không mấy người thông minh như thế.
Ông nhếch môi nở nụ cười khinh mạn, cùng lúc có một tiếng thét vụt lên trong óc não: “Con mụ phù thuỷ kia, cớ sao mi dày vò ta đến thế! Lẽ ra, ta phải ném mi xuống vực sâu từ ngày trên Việt Bắc...” Nhưng ngay lúc ấy, chính ông cũng hiểu rằng ông không đủ tàn ác để giết vợ, cũng không đủ lòng can đảm để từ bỏ bà, cũng không đủ tình yêu và lòng nhân ái để sống với bà cho thành thực...
Bà Hoa nói tiếp:
- Anh hãy đưa em tới gặp cô Phương Linh, để khuyên cô ấy đừng đuổi theo tình yêu đơn phương như thế, để bảo cô ấy đừng thọc tay vào nồi người khác mà xúc cơm.
Vừa nói vừa nhìn chồng, bà thấy mặt ông tái đi:
- Em điên à? Sao lại hành động kỳ quái thế?
- Chẳng có gì kì quái cả - Bà nói với vẻ mềm mỏng hiếm có, trong lòng run lên vì thù hận – Anh đã chẳng nói rằng anh không có lỗi đấy sao?
Trần Phương lắp bắp:
- Nhưng em đừng hành động điên rồ như thế - Ông chưa bao giờ ăn nói lúng túng. Bởi thế, những câu nói lắp bắp của ông lúc đó tố cáo tội lỗi và sự sợ hãi của ông. Bà hiểu rằng chồng mình đang run rẩy vì sợ thanh danh của người đàn bà yêu ông bị xúc phạm. Một khát khao dấy lên trong bà: “Đã thế, ta nhất quyết phải làm cho ra mọi lẽ...”. Bà nói với ông, giọng lạnh tanh:
- Anh phải đưa em tới gặp cô ta.
Trần Phương đưa mắt nhìn chóp mũi đỏ tía của vợ, cố nói cho ôn hoà:
- Em sẽ rất ân hận nếu bắt anh làm điều đó. Cô ta là một trong hàng ngàn cô giáo vô danh ở thành phố này. Em là một người phụ nữ có vị trí cao trong xã hội, dù không là vợ anh, cũng đã rất nhiều người biết tới tên em…
- Không, những thứ ấy không quan trọng. Anh hãy đưa em tới gặp cô ta.
- Đừng làm thế, anh cam đoan với em rằng đó chỉ là một người đàn bà tầm thường. Chúng ta không nên tự bôi nhọ thanh danh mình.
- Không.
Bà đáp với vẻ cứng rắn không ngờ. Xưa nay, bà vốn là người đồng bóng, cạn cợt. Lúc này, bà có vẻ ương ngạnh thấm sâu của một gã đàn ông. Trần Phương bắt đầu run. Ông biết mình sắp rơi vào cơn tuyệt vọng. Cặp mắt không lông mày của bà vợ hiển hiện trước mắt ông như hiển hiện của cái phần đắng cay nhất trong cõi đời. Phía bên kia hình ảnh đó là vườn hoa táo của tỉnh lỵ thời thơ ấu. Có một chàng trai hai mươi tuổi đa tình và khát sống, chàng trai đó chưa uống thoả giấc mơ yêu đương, chàng trai đó gọi tên Phương Linh, say đắm gương mặt thánh thiện và tâm hồn nồng nhiệt của cô, ngưỡng vọng từng ánh mắt nụ cười, từng lời nói bay qua làn môi xinh tươi ấy... Nhạc sĩ nuốt nước bọt khan, đắng ngắt. Vợ ông nói tiếp:
- Anh biết rồi đấy, em xây được, em phá cũng được. Em đã làm tất cả vì anh nhưng em cũng có thẻ tiêu diệt mọi kết quả ấy.
Tủi nhục và uất giận dâng lên, người đàn ông cất tiếng gầm:
- Cô im đi, cô đe dọa ai thế?... Cô cần hiểu rằng tôi tồn tại bởi những giá trị mà loại người như cô không bao giờ có được. Ném tước vị của cô đi, cô chỉ còn là mụ đàn bà đầu óc lộn xộn, tính tình đồng bóng, không kiếm nổi đồng xu mua gạo. Nhưng tôi không còn chức tước, tôi vẫn là nhạc sĩ và hoạ sĩ, người ta phải in tranh của tôi bán, và sử dụng những bản nhạc tôi viết ra...
Ngọn roi của ông mãnh liệt và chính xác. Bà Hoa biết ông đã vượt qua mảnh đất mình cai quản. Sự cứng rắn cùng những toan tính khôn ngoan rơi mất. Bà oà lên khóc, nức nở, tức tưởi như một người đàn bà thôn quê Việt Nam trước cách mạng bị ông chồng vũ phu phang cho một bắp cầy:
- Hu hu hu... Anh tàn nhẫn với em. Cả đời em chỉ biết có mình anh, anh chưa bao giờ thành thực với em cả...
Lúc bà khóc lóc, kể lể, Trần Phương nguôi cơn tức giận, ông đắn đo suy tính lại. Chiếc Moscovic trắng lại lướt qua mảnh sân bát giác, dưới những khóm trúc vàng óng. Đã bao lần, gá lái xe mở rộng cánh cửa cho ông. Thật kinh hoàng khi người ta phải rời bỏ một chiếc ôtô có người mở cửa chờ sẵn để ngồi lên một chiếc xe đạp hay xe máy bình thường. Tiếng ai đó thì thào bên tai: Leo cây đã tới ngày hái quả rồi, sao dại dột thế?... Tim ông nhói lên tựa hồ có cây kim nhọn đâm vào. Ông bước tới bên vợ, vỗ vào lưng bà:
- Thôi... đừng khóc nữa.
- Hu hu hu, em khổ lắm.
- Nín đi, nào ai làm gì mà khổ?
- Không...
- Anh đảm bảo với em là không có chuyện gì đâu.
- Nếu vậy, sao anh không đưa em tới gặp cô ta.
- Người ta cười cho... đừng rồ dại như thế.
- Không, anh phải đưa em tới gặp cô ta.
Bà Hoa liền nói thêm câu nữa, vừa nói vừa phấp phỏng sợ chồng nổi đoá. Nhưng quân xe thí vu vơ lại thắng, Trần Phương thở dài, đôi vai xuôi xuống trong một cử chỉ chán chường. Rồi quay mặt đi, ông đáp:
- Được rồi, nếu em muốn...
Nguyên trở lại nhà mình được hai hôm, cô Ngọc Minh tới. Lúc đó đang giờ cơm chiều, Nguyên vừa ăn bánh mì vừa cắm cúi đọc các bản tin tồn ứ từ ba tuần trước. Cô phóng viên gõ cửa ầm ĩ theo thói quen:
- Làm gì thế nhà đạo đức?
Chưa bước vào, cô đã cất tiếng hỏi giễu cợt. Nguyên lẳng lặng bỏ chiếc bánh mì ăn dở xuống bàn:
- Em ngồi xuống đi, anh pha nước trà nhé?
Minh cầm nửa chiếc bánh lên:
- Á à, cũng chơi trò bánh mì thay cơm chăng? Hoá ra anh cũng không chăm chỉ như em tưởng. Ngại nấu cơm một mình rồi à?
- Ừ, cũng ngại...
Ngọc Minh liếc nhìn người đàn ông rất nhanh, che đậy những thăm dò. Nguyên đã súc sạch ấm trà mang ra. Anh đổ chè, chế nước cẩn thận rồi ngồi xuống trước mặt cô:
- Em vừa từ toà soạn về à?
Cô cười cười:
- Chơi thôi, ba phần tư đời em dùng để rong chơi. Ba phần tư cái phần còn lại ấy để ngủ. Còn chút xíu kia để viết mấy bài báo ngớ ngẩn cho các anh.
Nguyên nhìn những vết nhăn nhỏ hằn trên trán cô, dù cô đã đánh phấn khá dày. Lâu nay, không hiểu sao, mỗi lần nhớ tới cô, anh lại hình dung ra ngay những vết nhăn đó.
- Nhìn gì em thế? Tìm các dấu vết để làm bài toán quy phạm đạo đức phải không?
Cô lại cười, ngạo mạn và khiêu khích. Bờ môi tô son đậm cong lên dưới chiếc mũi hếch. Nguyên cười hiền rót nước chè nóng ra hai chiếc cốc thuỷ tinh, bỏ đường và thêm vào lát chanh mỏng.
- Đã giống em pha chè chưa?
- Giống. Điều đó chứng tỏ phong cách sống của em mãnh liệt hơn anh và chế ngự anh.
- Ừ, cứ cho là như thế.
Ngọc Minh cầm khúc bánh mì Nguyên đang ăn dở, cắn ngon lành:
- Em đang đói ghê. Hôm nay có tiền, mình đến Tạ Hiển đi anh.
Nguyên lắc đầu:
- Anh còn một đống tài liệu phải đọc.
Minh cười xì qua kẽ răng:
- Đi với em sợ mang tiếng chứ gì? Này, dẫu sao anh cũng đã mang tiếng rồi, dù có vớt lại cũng chẳng được. Và cô vợ anh cũng chẳng vì thế mà từ bỏ ông nhạc sĩ danh tiếng kia để quay lại với anh đau.
Nguyên cộm lòng, khó chịu nhưng anh lặng lẽ uống nước chè, không đáp. Minh nói tiếp:
- Hay lúc này là thời điểm anh phải ngồi đọc kinh? Tưởng niệm tới một lý tưởng cao siêu nào đó? Loại người như anh cũng giống lũ con chiên sùng đạo, ngày nào không đọc kinh là sợ bị rút phép thông công ngày ấy.
Nguyên vẫn im lặng uống trà. Cô phóng viên bực tức ngoạm từng miếng bánh lớn, với vẻ dằn dỗi. Khi đã ăn hết, cô kêu:
- Thà không ăn còn hơn, chẳng bõ bèn mà còn thêm đói… Vươn tấm thân nảy nở qua mặt bàn, cô nắm tay anh:
- Thôi, không chọc ghẹo anh nữa. Thay quần áo rồi đi với em. Nghe em nào, mau lên...
Nguyên từ tốn rút tay ra. Anh đáp:
- Minh thông cảm, anh không thể đi được.
Trong giọng nói buồn của anh, ản giấu vẻ nghiêm trang thâm trầm và sâu xa đến nỗi cô không thể đùa cợt được. Cô rụt tay về, ngồi xuống ghế:
- Sao anh khắt khe như vậy?
Anh nhìn vào mắt cô, trả lời:
- Mỗi người sống theo cách thức của mình đã chọn. Sự tiêu diệt hoặc thay đổi nếp sống cũng khó kăhn như người ta phải tự huỷ hoại thân xác để thay thế vào đó một hình hài khác. Anh đã cố gắng nhiều... Nhưng em thấy đấy, khả năng tự đổi thay của anh quá ít.
Cô kêu lên:
- Anh là kẻ nô lệ trung thành của những lề thói cũ. Tại sao anh không thể bỏ cái đống giấy lộn kia vài giờ để rong chơi với em? Cứ cắm cúi ngày nọ qua ngày kia làm gì? Đời ngắn ngủi lắm, khi anh kịp nhận ra thì nó đã hết rồi. Anh không biết điều đó hay sao?
Anh đặt bàn tay trùm lên bàn tay cô:
- Lý thuyết hiện sinh anh đọc nhiều hơn em. Em cảm nhận những điều đó bằng đời sống của em hơn là bằng suy tư, triết lý.
Minh kêu to:
- Em cần quái gì suy tư với triết lý?.. Loại trò ảo thuật đó chẳng nghĩa lý gì với đời sống con người. Con người phải được sống cuộc sống của mình, ấy mới là điều đáng nói.
Nguyên gật đầu:
- Thế cũng tốt, tuỳ em.
Ngọc Minh đứng lên, giơ cánh tay mời gọi:
- Vậy thì anh hãy đứng lên, đi đi nào.
Nguyên vẫn ngồi im, và cười:
- Anh không đi được.
Gương mặt anh dưới ánh đèn, giống như gương mặt của một chàng sinh viên trong học đường buổi tối. Vầng trán cao và sống mũi thanh tú khiến Nguyên có một vẻ đẹp trầm tĩnh, hơi mong manh. Lúc ấy, cô sững sờ nhìn anh, và cô biết khó có thể đùa cợt hoặc bước chân khỏi căn phòng của anh mà ra đi. Cô thả tấm thân phì nhiêu xuống ghế, hỏi anh bằng một giọng yếu ớt:
- Sao lại thế, anh Nguyên?
Nguyên lắc đầu:
- Người đàn bà chỉ có quyền năng với người đàn ông nào yêu họ. Nhưng… xin em thứ lỗi, anh không yêu em - Ngừng một lát, anh nói tiếp:
- Rất có thể em sẽ nói: Lại tình yêu, câu chuyện cổ tích ngu muội của loài người. Làm gì có tình yêu và lòng thuỷ chung, và sự tương hợp giữa hai tâm hồn?... Tất cả chỉ là những ngôn từ giả trá, lừa phỉnh nhân loại… Anh đã thuộc những lời lẽ của em.
- Đúng như vậy.
Cô gật đầu làm bộ ngang tàng, nhưng ánh mắt nhìn lại yếu ớt. Nguyên nhìn phấn son trên mạt cô phơi dưới ánh đèn, xa lạ và buồn thảm. Anh nói tiếp:
- Em vẫn cho rằng cuộc sống chung là bản giao kèo giữa hai người khác giống, sao cho cả hai bên đều toại nguyện. Khi các điều kiện thoả mãn họ không còn tồn tại, bản giao kèo kia sẽ được huỷ bỏ ngay. Nếu theo đúng luật tắc ấy, em có biết rằng anh chung sống được với em bao lâu không?
Cô nhìn anh ngay thật:
- Không, anh nói bao nhiêu lâu?
- Bốn ngày, đúng bốn ngày. Em có nhớ buổi sáng ngày thứ năm, một anh chàng vận động viên bóng rổ đã tới ôm lưng em trước mặt anh không?
Cô phóng viên nhíu mày lại, rồi bật lên tiếng:
- À à… Rồi, nhớ ra rồi. Cậu Quỳnh tồ.
Nguyên tiếp:
- Không người đàn ông nào có lòng tự trọng lại coi chuyện đó là bình thường cả.
Ngọc Minh bĩu môi:
- Lại sở hữu, lại những thứ trò phong kiến sặc sụa mùi…
Nguyên cắt lời cô, nói tiếp. Dường như anh không để ý tới các phản ứng và lời lẽ của Minh:
- Nhưng anh đã tiếp tục chung sống với em vì anh nghĩ rằng chúng ta có thể mài bớt cá nhân mình để hoà nhập vào nhau. Vì anh cảm ơn lòng tận tuỵ của em lúc anh đau ốm. Vì anh biết chắc rằng em là người đàn bà tốt bụng, em không lợi dụng bất kỳ ai trong các mối quan hệ hoặc gần hoặc xa, em không tị hiềm, ganh ghét kẻ này, người khác. Nói cho dễ hiểu, em sống hồn nhiên với bản năng không kiểm soát. Em tự giải phóng cá nhân tới mức gây hiểm nguy cho chính bản thân mình.
Ngọc Minh lắc đầu:
- Chẳng có hiểm nguy nào hết, em bất chấp.
Nguyên từ tốn nói tiếp:
- Sẽ tới lúc em phải lãnh chịu hiểm nguy vì người đàn bà nào cũng muốn bảo toàn hạnh phúc của họ. Giống như những con chim mái che chở cho những quả trứng đang ấp dưới bụng nó. Mà em thì bay lượn hết tổ này tới tổ khác, chơi cái trò đánh cắp những quả trứng mình không tự đẻ ra.
- Thế anh cũng muốn em đắm đuối như những con chim mái kia à? Suốt đời xù lông ra bảo vệ tổ, xơ xác như nắm giẻ rách, chẳng biết khoảng trời tự do dài rộng bao nhiêu. Em không muốn em trở thành tù binh của một con chim trống nào hết, cho dù đó là vua của loài chim.
Cô gần như hét vào mặt anh những lời nói chuối cùng, nước bọt cô bắn vào má Nguyên, anh lặng lẽ chùi và nói tiếp:
- Anh không cản trở em sống theo cách sống của em. Nhưng anh không thể tiếp tục gắn bó với em nữa. Chúng ta là hai kẻ đứng hai bên bờ vực, và không có cây cầu nào nối hai bờ vực đó lại được.
Cô ngồi im, trân trân nhìn anh. Anh cũng im lặng. Thời gian trôi qua khoảng không gian nặng nề ấy. Rồi anh ngẩng đầu lên:
- Em có uống nước chè nữa để anh pha?
Cô không đáp mà lầm bầm:
- Anh đã ra đi không một lời từ giã. Chơi cái trò ấy xấu thật. Chẳng quân tử chút nào.
- Cũng có thể như vậy là xấu – Nguyên đáp – Nhưng anh đã cảm thấy mình bị sỉ nhục.
- Tại sạo lại là sỉ nhục?
- Một khi anh chung sống với em mà em lại có... Và các mối quan hệ buông tuồng cũ không chấm dứt... Và...
- Anh cổ lỗ quá – cô cướp lời anh với vẻ hùng hồn - Cả một đống xích xiềng phong kiến quấn chặt lấy đầu anh. Thằng lỏi dó dễ thương lắm mà.
Nguyên ngạc nhiên, anh lắp bắp hỏi:
- Thế, cả ông chuyên viên sinh học kia nữa?
Minh gật đầu:
- Ờ, tay ấy thông minh tuyệt diệu. Một khối óc điện tử không sánh kịp, em đã nói với anh rồi mà.
Anh loé lên một ý nghĩ, và không kịp đắn đo, anh vụt nói ra:
- Có nghĩa rằng cùng một lúc?...
- Thì đã sao, nếu không ảnh hưởng gì tới anh?... Tại sao anh cứ bị đóng đinh vào một ý nghĩ xuẩn ngốc như vậy? Trước kia em tưởng anh đóng vai đạo đức giả, nhưng giờ em hiểu rằng anh ngốc thật. Ta có thể yêu nhiều người khác nhau được chứ, bởi lẽ mỗi con người có một vẻ đẹp riêng.
Nguyên ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Tới giờ anh mới thực hiểu em. Giá trước đây vài năm, có ai nói những lời lẽ như em, anh đã bỏ đi chỗ khác. Giờ, anh nghe được, và anh thấy em cũng có lý. Đã tới lúc, chúng ta phải hiểu rằng chân lý được nhìn từ nhiều phía khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Nhưng chắc chắn rằng anh không chung một ý tưởng với em, anh không có nhu cầu cùng một lúc yêu thương vài ba người đàn bà và cùng sống hết mình vì họ.
- Kì quái thật...
Ngọc Minh lẩm bẩm.
- Tại sao lại kì quái?
Anh hỏi.
- Những ý tưởng của anh – Cô đáp lại - Trước đây em ngỡ rằng mọi người đều sắm vai đạo đức giả. Thật sự họ cũng muốn giải phóng khỏi mọi trói buộc và các ước lệ xã hội. Thật sự họ cũng muốn thoả mãn những thèm khát giấu kién sau tấm bình phong mô phạm. Từ giờ trở đi, có lẽ em trừ anh khỏi số người ấy
Nguyên lắc đầu:
- Em nhầm, chẳng có ai sống chon von như cái tổ chim trên mỏm đá hết. Nếu con người không là thành viên của một đám đông, môt lớp thì cũng thuộc một nhóm nào đó có những quan niệm sống và sở thích giống như họ.
Anh ngừng lại, nhìn cô chăm chú mà nói tiếp:
- Trong nghề nghiệp em thông minh, nhưng trong đời sống lại đơn giản. Em cứ nghĩ rằng toàn thế giới này đều suy nghĩ như em, có sở thích như em nhưng không dám sống như em vì hèn nhát và sắm vai đạo đức giả. Đó mới chính là điều kì quái.
Ngọc Minh ngẫm nghĩ và nói:
- Kể ra, em cũng còn ngờ vực những đièu anh nói.
Nguyên đáp:
- Cái đó là quyền của em. Nhưng giá như anh giống em, có sợi dây nào níu kéo anh ở lại căn phòng lạnh lẽo này?... Lý do gì kìm giữ một người đàn ông khoẻ mạnh và tự do...
Anh ngừng lại vì sực nhớ tới cảm giác ghê tởm trong lần cuối cùng gần gũi cố. Cô lúc đó hệt như đứa bé háu đói, mải mê ăn và cõi đời chỉ tồn tại trong miếng bánh đó thôi, ngoài ra thảy đều là sa mạc hoang vu, trơ trọi. Cảm giác ấy không thể nói được, nhưng nó lặn sâu trong ấm ức của con người và quyết định hết thảy. Anh vẫn chăm chú nhìn cô. Hai quầng mắt xanh lơ bôi không đều, bên to bên nhỏ khiến cô na ná một cậu hề. Nguyên bỗng bùi ngùi, anh nói:
- Trong tình yêu, người ta cần sự say mê, nhưng cũng cần cả lòng kính trọng. Trước đây, ai đó bảo anh rằng chỉ cần người đàn bà khâm phục, trọng nể người đàn ông thôi, hạnh phúc sẽ bền vững. Nhưng bây giờ, anh biết rằng điều ấy không chính xác. Hạnh phúc khó hơn. Nó bước trên cây cầu mong manh, cheo leo không tay vịn. Nó phải tự giữ thăng bằng trên cây cầu hiểm nguy đó. Và muốn thế, phải tựa trên những trọng lực cân bằng của cả hai bên...
Ngọc Minh đỏ mặt lên, hẳn cô tức tối và hổ thẹn. Nhưng chỉ một giây sau, cô xì qua kẽ răng:
- Lý luận suông. Loại người như anh không làm được việc gì hơn là nhai đi nhai lại những đống giẻ rách từ hàng chục thế kỷ trước. Đời sống ngoài kia kìa...
Cô giơ tay chỉ về phía cửa sổ trông xuống phố:
- Đời sống là vàng ròng, còn thứ lý luận nào cũng như bắp cải thối.
Sau khi đã ném một lời thô tục, cô khoác chiếc sắc giả da vào vai, đứng lên:
- Thôi nhé, xin chào. Dẫu sao, anh cũng là người tử tế nhất trong đám bồ của em. Tưởng tối nay vào đặc sản hoá ra lại phải ngồi lảm nhảm những điều vô bổ... Rõ thật buồn...
Không chờ anh đáp lời, cô quay đi. Nguyên nghe tiếng bước chân của cô nện xuống các bậc thang ầm ầm. Lòng chợt cuộn lên niềm ân hận, anh bật đứng lên chạy theo cô. Hành lang tối om, hơi gió lùa vào mặt anh lạnh lẽo. Nguyên quay vào, tới ô cửa sổ để nhìn xuống phố, Nguyên đã đạp xe được một đoạn. Chiếc Mifa láng cháng ven bờ hè. Mọi ngày, cô đạp xe ngổ ngáo như đứa bé mười sáu tuổi, tay khuỳnh khuỳnh, đầu hất cao, thỉnh thoảng lại cất tiếng huýt sáo. Lúc này, trên đường phố lạnh và vắng trông cô lẻ lôi. Nguyên đóng cửa. Anh vội vã thay quần áo, đạp xe theo cô.
Khi tới nhà Ngọc Minh, anh thấy cô đã nằm xoài trên giường, mặt úp xuống gối. Quần áo còn nguyên chưa thay, hai tay dang như tay ếch, và cô khóc hu hu như đứa bé bị đòn oan. Nguyên biết Minh có thói quen đi làm về không thèm đóng của đã tuột quần áo ra thay. Lúc này, chưa kịp đóng cửa cô cũng đã oà lên khóc. Thật khó tìm được một người đàn bà tính nết như vậy. Nhưng anh thương cô, cái tính đểnh đoảng vụng dại ấy chẳng có gì đáng trách. Điều quan trọng với anh không phải những khuyết tật được đánh giá bởi con mắt người đời. Anh sẵn lòng tha thứ cho cô hết thảy... Nhưng anh không thể tha thứ được chnhs con người cô. Bên dưới những ý tưởng về tự do, về quyền sống mà cô lặp lại sách vở một cách vô cùng tinh nhạy và thông minh, cô chính thức là một người đàn bà hoang dã. Con người trong trắng và tốt đẹp của thời mông muội xa xưa. Người đàn bà trung thực tới tận cùng, sự trung thực trong vương quốc của bản năng được tháo cởi không điều kiện. Có lẽ, trong quãng thời gian sống với cô, một hình ảnh đã dần dần hình thành và lặn sâu trong những lớp sóng lạnh lẽo của ý thức: hình ảnh người đàn bà trần trụi đứng bên bờ iển, vừa đơn côi vừa mạnh mẽ, vừa nhỏ bé vừa ù lì giữa thiên nhiên hùng vĩ man sơ, nơi muông ngàn lớp ống cô liêu dào dạt xô tới, nơi bà cát chưa in dấu chân của con người...
Cánh cửa bị gió giật đập vào tường ầm ầm. Ngọc Minh vẫn khóc nức nở. Toàn thân cô rung chuyển trong những con nấc dài. Dưới chân giường, trên lớp chiếu cói trải sàn lăn lóc vài chiếc vỏ chai. Một đĩa sứ còn sót vài mụn lạc lép cháy đen. Khắp nơi, những mảy vỏ lạc bay tơi tả... Hồi Nguyên còn sống với Minh,d dã bao lần anh thu dọn những bữa tiệc rượu lớn nhỏ như thế này. Chắc hẳn, khi cuộc vui đã tàn, đám đàn ông tụ họp quanh mâm rượu đã trở về mái nhà của họ, cô mới chợt thấy buồn và nhớ tới anh. Và cô thấy sự mất mát lớn hơn cô đã tưởng. Và bản tính dịu dàng, khoan dung, nhân nại... anh đã khơi mở trong cô niềm khát khao về một cuộc đời êm ấm và chừng mực, cuộc đời cô chưa kịp nhận ra. Trong con người lang bạt của cô vẫn còn chỗ trú ẩn cho một người đàn bà bình thường của đời sóng. Và trái tim đã bị ném vào quên lãng để nhường lại quyền năng cho đời sống nhục thể mộet ngày lạnh giá lại thoi thóp đạp, đòi tra rlại cho nó quyền sở hữu. Không, Nguyên đâu còn thơ dại nữa, anh đã tìm thấy dưới lớp vỏ trơ tráo kiêu căng, ngổ ngáo kia tình yêu của một người đàn bà... Anh thương cô. Nhưng không thể yêu cô. Tình yêu, không thể cố gắng mà có được. Hẳn rằng thời thanh xuân, cô cũng đã trong trắng như mọi người con gái khác, và cái bản năng hoang dại trong máu huyết của cô đã ngủ ngoan như bầy gia súc về chuồng. Nhưng cô đã gặp quá nhiều người đàn ông tinh ranh và ích kỷ. Họ đã khai thác cái cơ thể tràn trề sinh lực của cô và dạy cô rằng đó chính là thiên đường chân thực, rằng tình yêu chỉ là những giả thuyết lừa mị con người, rằng đời sống ngắn ngủi như một xấp giấy bạc, nếu ta không tiêu đi sẽ có ngày nó trở thành giấy lộn, rằng cô là nữ hoàng của tình ái và tự do... Những lời lẽ đó phỉnh nịnh lòng kiêu ngạo của cô và biến đời cô trở thành một quán trọ thú vui đầy tự nguyện... Nhưng giờ đây, đám người ấy đã tan biến như bọt xà phòng. Và cô còn lại một mình, trong căn phòng này, với những cơn nức nở, với những mảnh vỏ lạc bay tơi tả khắp nơi. Cô, người đàn bà tự tin rằng mình đã hoàn toàn được giải phóng, giờ đang mặc kẹt giữa các cạm bẫy của dục vọng, làm gì có thứ tự do ảo vọng ấy? Nó giống như lớp phấn phủ lên những nếp nhăn ở trán và mép cô. Chỉ cần gạt nhẹ, sẽ rơi hết...
Nguyên định vào nhà, an ủi Minh. Nhưng anh biết rằng điều đó chẳng ích gì. Người đàn ông đứng thêm mười lăm phút nữa rồi lên xe về.
Sau đấy vài ngày, Ngọc Minh lại tới tìm anh. Lần này, cô không còn giả bộ kiêu căng, hợm hĩnh. Cô nói thẳng:
- Em yêu anh, em cần phải có con với anh. Một đứa con trai có gương mặt nghiêm nghị và tâm hồn dịu dàng như anh. Chúng ta không cần đăng kí, sẽ tới lúc nhà nước coi mọi đứa trẻ đã sinh hongieacnh vahaang nhora trên đời này có quyền lợi ngang nhau.
Nguyên từ chối. Cô khóc oà lên và trút xuống đầu anh những lời lẽ thô lỗ, gay gắt. Ngày ngày, cô chờ trước cửa toà báo để về cùng đường với anh. Cô may cho anh một lúc năm bộ quần áo hợp mốt, chỉn chu hơn bất cứ người vợ chỉ chu nào. Nguyên vẫn từ chối. Anh là người nguyên tắc. Sự lạnh nhạt của anh giống như bức tường dựng lên trước mặt cô. Đầu tiên, cô hung hăng xông tới, thu hết sức lực đạp cho kì được. Nhưng xi măng quá rắn. Lúc ấy, có một bức tường khác hiện ra ngay trên đường. Với lòng hiếu thắng của một chú ngựa non, cô chuyển mục tiêu sang bức tường cao hơn, đồ sộ hơn để chứng tỏ uy lực của mình...
Hai tháng sau, Nguyên gặp cô đi với một chàng trai cao thước tám, có bộ râu đen nhánh, và đẹp như tài tử điện ảnh. Họ tới Nhà hát Lớn xem trình diễn vở kịch mới. Cô giơ tay chào anh từ xa và hét toáng lên:
- Chào nhà đạo đức. Thế nào, anh vẫn cầu kinh chăm chỉ đấy chứ?
Nguyên mỉm cười, gật đầu chào. Rồi anh tìm ghế của mình.
Phần XI
Nguyên ừa đến cơ quan, ông trưởng phòng quản trị hành chính đã chạy tới bảo anh:
- Báo cáo, anh có việc gấp đấy.
Ông đưa một tờ giấy gấp làm tư và nói thêm: "Sáng nay, trước khi lên máy bay, thủ trưởng còn dặn tôi nhắc anh cố gắng giải quyết việc này cho sớm sủa".
Nguyên gật đầu.
- Cảm ơn.
Rồi cầm mảnh giấy, anh vào phòng làm việc. Hai cô phóng viên mới về đã đun nước pha chè tươm tất. Nguyên tự rót cho mình một chén nước nóng, vừa uống vừa mở mảnh giấy ra xem. Tổng biên tập viết cho anh những dòng chữ ngoằn nghèo, vội vã, nhưng lại gạch nhiều nét đậm dưới những dòng chữ đó.
"Nguyên thân.
Mình không thể nói với cậu tường tận việc của Hoà. Sáng nay, cậu hãy tới nhà Trọng. Hoà là thủ trưởng của Lâm, anh ruột vợ Trọng, Lâm và Trọng sẽ thay mình kể mọi chuyện một cách chi tiết. Hoà là bạn mình từ ngày trên chiến khu. Cậu cố gắng giúp cậu ta, như thế cũng coi như cậu đã giúp chính mình. Hy vọng nhiều ở cậu đấy. Bài vở đã duyệt giao cho thư kí, cậu tới đó mà lấy. Hai tuần nữa chúng ta sẽ lại hàn huyên,
Thân mến ký tên..."
Nguyên gập thư lại, bỏ vào túi áo. Anh kiểm tra bài vở lần nữa, trước khi đem xuống nhà in. Sau đó, anh đạp xe tới nhà Trọng. Đồng hồ chỉ chín giờ mười lăm phút. Trời nắng nhưng se lạnh, từng đám lá vàng xô dạt theo gợn gió. Những vẩy mây tê tê bạc trắng trên trời khiến người ta dễ nhớ tới mùa thu. Ngày thường, Nguyên là người chăm chỉ và cần mẫn với mọi công việc. Theo lẽ đó, với sự giao phó chí tình như lá thư tổng biên tập đã gửi, hẳn anh phải thực hiện nhanh chóng. Nhưng hôm ấy, Nguyên bỗng thấy dửng dưng; anhd dạp xe chậm rãi dọc theo phố, ngắm những gương mặt ơ hờ và quen thuộc của đô thị mùa đông. Những cơn giá lạnh bạo liệt đã qua, đã huy động toàn bộ sức chống đỡ của con người, và giờ đây, trong một buổi sớm êm ả thế này, người ta chợt cảm thấy trống vắng, mệt mỏi. Có lẽ, tiếng lá xào xạc kia và những con chim đơn lẻ bay qua khung trời thành phố làm ta nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới hơi thở ấm nồng của những khát vọng, nhớ gương mặt nào đó khơi gợi những niềm vui sướng ban đầu... Có ai vừa cất tiếng hớt hải gọi anh:
- Nguyên, Nguyên ơi i.i...
Nguyên quay lại, Trọng vòng xa máy, mặt đỏ gay, áo khoác mở phanh hai vạt để chiếc áo len thùng lỗ chỗ bên trong:
- Tìm cậu đứt cả hơi.
Anh vừa thở hổn hển vừa cất tiếng kêu. Nguyên bảo:
- Tôi đang đạp xe xuống nhà cậu đây. Vội vã gì mà ăn mặc luộm thuộm thế?
Trọng cúi xuống cài áo:
- Thủ trưởng đã viết thư cho anh, tôi biết điều đó nhưng vợ tôi và ông anh cô ấy sốt ruột cứ giục cho được. Tôi đã phóng xe tới cơ quan rồi mới quanh flại đây... Nhanh lên cậu. Mọi người đang chờ sẵn ở nhà...
- Cậu cứ về trước đi rồi tôi sẽ tới.
Nguyên đáp, anh vẫn thong thả đạp xe. Trọng đứng tần ngần vài giây rồi phóng xe lên, cố nói thêm một lời:
- Tất cả đã sẵn sàng, chỉ còn đợi cậu thôi đấy...
Nguyên không buồn đáp. Chính anh cũng không hiểu vì sao sáng nay anh trở nên khó tính và dửng dưng với mọi chuyện. Gần nửa giờ sau anh mới tới nhà Trọng. Nói đúng hơn, đây là nhà cua rbố mẹ vợ để lại. Ở Hà Nội, có một nơi cư trú như vậy là lý tưởng. Hai gian phòng lớn với một hành lang khá rộng, một mảnh sân chừng mười tám thước vuông đủ kê bộ bàn ghế tre ngồi dưới vòm dưa leo. Khu nhà bếp lẫn nhà vệ sinh rộng và thoáng. Cầm - vợ Trọng đã xây ngăn đôi bếp để nuôi lợn và gà công nghiệp. Lúc nào, trong chuồng cũng có dăm con lợn xấp xỉ một tạ và vài chục gà mái. Ở toà báo, Trọng là người an nhàn nhất, hạnh phúc nhất, hiểu theo một khía cạnh nào đó. Không bao giờ anh biết rõ giá sinh hoạt và không bao giờ anh biết tới sự thiếu thốn vật chất - mối lo ngại thường trực của đám bạn bè xung quanh. Tiền lương Trọng chỉ để hút thuốc lá, và chi tiêu vào những chuyến đi, và thêm nữa, mua vé xem kịch mời vợ. Thỉnh htoảng Cầm lại kiểm soát những giấy tờ, tiền nong trong túi áo, trong cặp hoặc sổ làm việc của Trọng. Nếu chồng đã hết tiền, chị bỏ vào đấy một món vừa đủ cho anh tiêu. Nhà Trọng lúc nào cũng đầy đủ rượu ngâm rắn, ngâm thục, chè Thái nguyên mộc, chè ướp hoa nhài, cà phê và các loại thuốc lá. Cầm không tiếc tiền chi cho mọi nhu cầu sinh hoạt của chồng, kể cả tiền sách báo hay từ điển là những thứ chị không đụng tới, chị cũng chịu mua sắm. Chỉ riêng quần áo Trọng là không tươm tất như anh mong muốn. Cầm thường công khai tuyên bố trước mọi người:
- Ăn bao nhiêu tôi cũng không tiếc, uống bao nhiêu tôi cũng chiều, nhưng diện thì tuyệt đối không. Nay mốt này, mai mốt nọ để đi đánh đú với mấy đứa con gái rửng mỡ à?...
Trọng được mệnh danh là ông thích ăn không thích mặc trong các vị La Hán chùa Tây Phương. Đôi làn, Nguyên phải cảnh cáo anh ta vì tiếp khách nước ngoài, Trọng ăn bận như một công nhân khuân vác. Sau này, Nguyên đích thân tới bảo Cầm. Chị may cho chồng một bộ complê mới nhưng chỉ cho anh sử dụng cào những dịp biết chắc chắn là có công có việc.
Khi Nguyên vừa dắt xe vào hành lang, cả hai vợ chồng Trọng cùng đon đả chạy ra:
- Gớm, mong anh mãi... Anh Trọng dắt xe cho anh Nguyên vào sân đi.
Cầm lại bảo chồng. Rồi chị tong tả bưng lại một thau nước nóng:
- Anh rửa mặt rửa tay rồi vào uống rượu. Hai vợ chồng em cứ hâm đi hâm lại thức ăn chờ anh.
- Thôi, thôi...
Nguyên gạt đi, anh nhìn thấy một bàn tiệc bày đầy thức ăn, ba bốn chai rượu, lọ hoa thược dược, những chiếc cốc pha lê cao chân... Tất cả toát lên một vẻ trịnh trọng bất thường. Phía sau bàn, một người đàn ông mặc sơ mi trắng đang ngòi. Vừa thấy Nguyên, anh ta vội đứng lên:
- Đây là anh Nguyên, anh ruột em. Đây là anh Nguyên, thủ trưởng trực tiếp của anh Trọng đấy ạ.
Cầm lên tiếng giới thiệu, với vẻ hoạt bát và khôn khéo. Người đàn ông kia tiến ra cửa, cúi đầu rất thấp chào anh. Nguyên bắt tay anh ta, bàn tay nhỏ nhưng rắn chắc và hơi lạnh. Anh thấy Trọng đứng phía vợ như chờ được sai một việc mới liền bảo:
- Thôi, vào cả trong nhà. Cậu không cần phải làm thêm việc gì nữa đâu.
- Anh vào được chưa Cầm?
Trọng hỏi vợ. Cầm đang vắt chiếc khăn mặt lên dây phơi. Chị đưa mắt lườm chồng:
- Vào rót rượu mời anh Nguyên đi. Có thế mà cũng phải hỏi.
Nguyên mỉm cười, bảo người đàn bà:
- Bắt nạt cậu ấy vừa thôi.
Rồi anh bước vào phòng, ngồi xuống ghế. Trước mặt anh hoa còn long lanh nước, từng chùm lá mọng như chạm bằng cẩm thạch. Sau lọ hoa ấy, hai người đàn ông: Lâm và Trọng lúi húi rót rượu, xé mực, cắt chả ra đĩa:
- Tại sao lại có đại tiệc bất ngờ thế này nhỉ?
Nguyên hỏi, anh bắt đầu phỏng đoán nhưng chưa rõ được nguyên cớ hợp lý. Anh bảo Trọng: - Mà tại sao hai đứa bé lại biến khỏi đây?
Trọng cười cười, không đáp. Cầm mau mắn nói thay chồng:
- Lâu ngày anh không tới, tiện thể ăn cơm cho vui với gia đình em. Các cháu ăn trước, lên bà nội cả rồi.
Nguyên im lặng, anh ngờ rằng bữa tiệc bất thường này có liên quan gì tới công việc mà tổng biên tập báo đã nhờ cậy mình, nhưng không tiện hỏi. Anh ruột Cầm, lúc ấy ngẩng lên, xoa hai tay vào nhau và nói:
- Xin mời anh cầm đũa... Chẳng mấy khi tôi đựoc hân hành gặp một người... quan trọng như anh...
Nguyên không đáp, nhưng anh nhìn bàn tay Lâm thấy nó run nhè nhẹ. Lâm cố trấn tĩnh cơn run rẩy ấy, đành uống một ngụm rượu lớn, cúi xuống:
- Nào, in mời cô chú...
Họ bắt đầu uống. Uống dè dặt rồi ăn cũng dè dặt, Nguyên hiểu rằng bữa cơm thịnh soạn này là thứ thuốc trợ sức giúp mọi người có thể nói một điều gì đó nghiêm trọng với anh. Người đàn bà hết đứng lên lại ngồi xuống, thay bát canh này lấy bát canh kia cho sang, cho ớt hoặc hạt tiêu vào thức nhắm, tìm hộp thuốc hoặc bao diêm.. Hai người đàn ông gứp lên lại để xuống, đặc biệt là trọng, xưa nay anh ta vốn háu ăn và sà vào bàn tiệc nào cũng ăn uống hồn nhiên nhất đám, cười cợt to nhất đám...
- Kìa, anh Nguyên ăn tự nhiên đi chứ, các anh...
Cần mời mọc. Chị tiếp cho từng người thúc giục nhấp nhổm. Mắt chị lia trên những đĩa đồ nguội, những bát hầm, bát măng vẫn còn gần như nguyên vẹn. Vẻ âu lo, xáo trộn trên gương mặt người đàn bà làm Nguyên áy náy. Anh bảo:
- Cô cứ để chúng tôi tự nhiên.
Anh gắp một miếng măng, và nói:
- Nào cậu Trọng, anh Lâm... Chúng ta là nững người đàn ông, nam thực như hổ, nữ thực như miu, ăn đi để cô Cầm được vui lòng…
Vẻ khoáng đạt của Nguyên làm cho bữa cơm bớt căng thẳng. Hai người đàn ông kia cạn chén rượu tiếp tục rót chén thứ hai. Nguyên nhìn thứ nước màu hồng đựng trong cốc, nghĩ: “Lần thứ nhất ta đã say tại câu lạc bộ nhà báo. Lần thứ hai chính tại đây chăng?... Lần thứ nhất ngã vào giường cô Ngọc Minh, còn lần này sẽ ngã vào cạm bẫy nào?...” Nguyên tự mỉm cười với những ý tưởng chua chát về giễu cợt đó. Hai má anh chàng Trọng béo đã đỏ ửng lên, cùng với chóp mũi bóng nhẫy. Nguyên nhìn đồng hồ: Mười giờ bốn mươi lăm phút. Chắc chắn phải mười một giờ rưỡi câu chuyện mới bắt đầu…

Đầu óc anh lạnh buốt, tỉnh táo đến mức chính anh cũng kinh sợ vì trạng thái tinh thần của mình: Những kẻ quá tỉnh táo là những kẻ bất hạnh. Có lần mình đã đọc được ý tưởng đó. “Tônxtôi, tôi hiểu rằng ông không bao giờ sung sướng. Bởi vì ông luôn luôn tỉnh táo, dù trên lưng ngựa hay trên nực một người đàn bà…”… Ấy là lời Gorki nói về nhà văn vĩ đại, trong cuốn Chân dung văn học… Mình, đâu có phải Tônxtôi, mình đã hoàn toàn sung sướng với Linh, nếu trong óc sống mình được liệt vào loại tinh khong thì trong tình ái, mình là kẻ mù loà. Chỉ có kẻ mù loà mới còn si mê đến thế một người đàn bà đã bỏ mình ra đi… Nguyên nghĩ như vậy nhưng trong khi nhìn đôi cườm tay béo núc của Cầm đang dọn bàn ăn, anh vẫn nhớ tôi tay rắn chắc và làn da mịn màng của vợ. Cầm thuộc loại đàn bà bếp núc, vô cùng tinh không trong những quyền lợi thiết thực nhưng lại trì độn trong các hoạt động tinh thần. Cô ta đã béo phì ra quá sớm, mắt sưng mí lên quá sớm và cặp má chảy nhão ra quá sớm. Cầm vô cùng hài lòng vì cuộc sống của mình: Một ông chồng vạm vỡ, trung thành, hai đứa con ngoan, một chuồng gà đầy ắp trứng và một chuồng lợn thường xuyên có dăm bảy tạ thịt. Thức ăn cho gia súc đã có Lâm cung cấp, thuốc tiêm chủng dịch có một trong ba người yêu cũ hiện làm ở Bộ Nông nghiệp gửi tặng, Cầm lại mát tay chăn nuôi… Túi tiền của cô cứ mỗi năm mỗi căng phồng lên một cách đều đặn và bình ổn… Không, mình chẳng có thể còn yêu ai được nữa một khi đã yêu Linh… Thế gian đầy rẫy những loại đàn bà như thế này. Thật khủng khiếp khi ngày nọ qua ngày kia phải nhìn thấy họ…
- Mời anh ạ…
Cầm đã bổ xong cam, chị đẩy đĩa đồ tráng miệng lại mời Nguyên rồi đưa mắt nhìn chồng, ra hiệu cho anh bắt đầu câu chuyện. Trọng rót nước:
- Cậu uống nước chè hay uống cà phê để tôi pha?
- Cảm ơn, tôi uống cà phê sáng nay rồi.
Nguyên đáp, Anh châm một điếu thuốc, rít từng hơi nhỏ, chờ đợi. Chắc chắn bây giờ là lúc ngwif ta nói với anh câu chuyện chính. Kim đồng hồ báo thức trên mặt tủ chỉ mười hai giờ kém hai mươi lăm. Trọng bắt đầu:
- Nguyên ạ, thủ trưởng đã nói với cậu rồi. Tôi và anh Lâm được giao nhiệm vụ tường thuật lại sự việc.
Nguyên cắt ngang.
- Nguyễn Thanh Hoà.
Nguyên im lặng và Trọng nói tiếp:
- Theo thủ trưởng và anh Lâm thì anh Hoà là một cán bộ có khả năng, tính tình cởi mở, rộng rãi, được cấp trên tin cậy và cấp dưới kính nể. Tuy nhiên, anh ấy cũng có những nhược điểm trong sinh hoạt... Nói cụ thể là quan hệ nam nữ quá mức cho phép. Nghĩa là...
Trọng ấp úng tìm lời. Nguyên ít thấy anh lúng túng như thế xưa nay. Sau đôi tròng kính, đôi mắt nhỏ sập xuống, như bị vít chặt vào cái miệng con cá bằng sứ trắng đựng tăm trên bàn. Những ngón tay hộ pháp đỏ hồng của Trọng máy liên hồi, nhưng không thành một cử chỉ nào rõ rệt. Lâm cũng nhìn vào mặt kính chiếc đồng hồ Orien trên cổ tay. Những thớ thịt nhỏ trên gò má anh ta khẽ giật. Nguyên lặng lẽ rít thuốc. Cầm đã từ sân trở lại với đĩa bánh đậu Hải Dương. Chị đặt xuống, đưa mắt nhìn ba người đàn ông, rồi lặng lẽ rút lui. Sau một hồi lúng túng, Trọng kể tiếp:
- Hiện nay, anh Hoà đang bị kiện. Có mấy lá đơn...
- Của chồng những người đàn bà đó?
Nguyên hỏi đột ngột.
- Không, của anh trai cô gái ấy... Và sau đó, của cha mấy cô khác.
- A...
- Sự thực là anh Hoà đang rất khó khăn. Bên viện kiểm sát và toà án nhìn nhận sự việc này rất nghiêm khắc. Nhưng, cơ quan của anh Hoà đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong các chiến dịch vận tải từ thời chiến tới thời bình... Thủ trưởng muốn cậu viết giúp một bài báo cho cơ quan bên ấy và đăng kịp thời. Điều đó sẽ có lợi cho ngành vận tải nói chung, nhưng quan trọng hơn cả là nó sẽ giúp anh Hoà thêm một điểm trong trận đấu.
- Với những ai cơ?
Nguyên hỏi, không giấu được chút giễu cợt ẩn giấu phía sau. Nhưng Trọng và Lâm không hiểu nổi điều đó. Lâm lên tiếng ngay:
- Rất nhiều đối thủ, anh Nguyên ạ. Thủ trưởng tôi đến nguy mất... Những gia đình ấy, và bên viện kiểm sát với toà án nữa... Họ có liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Thành một mặt trận...
Trọng im lặng. Lâm, không cười, anh nói tiếp bằng một giọng đục và khẩn thiết:
- Xin anh giúp cho, Thủ trưởng tôi là người trọng tình trọng nghĩa. Chẳng thế mà anh ấy luôn luôn được quý nhân phù trợ lúc khó khăn. Ai đã giúp anh Hoà một việc, dù chỉ nhỏ bằng móng tay, bảy năm sau tới chơi anh ấy còn trải chiếu điều ra tận cửa đón.
Nguyên cười, anh làm bộ ngạc nhiên:
- Thời buổi này mà còn trải chiếu điều cơ à?
Lâm chớp mắt, anh ta hắng giọng và cười theo:
- Nói thế nghĩa là thủ trưởng tôi không quên ơn nghĩa một ai. Anh gặp anh Hoà sẽ thấy mến anh ấy ngay tức khắc.
Nguyên nhìn gương mặt đen đúa, sắt lại vì lo âu của Lâm, và anh không thể dừng trò đùa cợt, anh vỗ vai người đàn ông, hỏi tiếp:
- Thế thủ trưởng anh chỉ nhớ ân nghĩa trong vòng bảy năm thôi à? Nếu sang năm thứ tám mà còn tới chơi thì ông ấy sai thư ký đuổi ra khỏi cửa phải không?
- A a...
Lâm buột tiếng kêu, anh không trả lời mà cố nở một nụ cười gượng gạo. Những thớ thịt gò má Lâm lại giật giật. Anh ta không nổi giận mà chỉ thêm lo âu. Trọng nhấc bình chè lên, cẩn thận gạt xuống khay ròi rót vào từng chén. Tiếng nước chảy vang lên trong căn phòng tĩnh lặng. Rồi Nguyên nói, giọng nhẹ nhàng:
- Anh Lâm ạ, tôi sẽ trả lời anh việc này vào tuần sau. Tuần này đã kín hết rồi.
Lâm thốt kêu lên:
- Thế thì chậm mất.
Những nếp nhăn trên trán anh ta hằn lại: - Xin anh thông cảm cho. Tình hình đang căng thẳng. Lúc nước sôi lửa bỏng này chỉ chậm một ngày cũng hỏng việc.
Nguyên đáp:
- Tôi đã từng viết bài ngay sau lúc trận oanh tạc B52 của Mỹ chấm dứt. Bài viết xong, đưa thẳng xuống nhà in cho kịp ra báo sáng mai. Nhưng ca tụng thành tích của một cơ quan vận tải không phải là loại việc cần làm như thế.
- Nhưng thưa anh – Lâm nói - Thủ trưởng tôi đang hy vọng ở anh từng giờ. Anh Hoà đang gặp nguy hiểm. Nếu có bài báo của anh trong tay, với những tác động ở các phía khác nữa, anh ấy sẽ vững tâm hơn…
Nguyên vẫn mềm mỏng nói:
- Nhưng dù sao, muốn có một bài báo cũng phải bỏ thời gian lấy tài tiệu, rồi quan sát thực tiễn, rồi suy nghĩ tới nững mục tiêu cần thiết…
- Vâng, vâng…
Lâm đáp hối hả: - Thủ trưởng tôi cũng biết được những điều đó nên đã lo chuẩn bị trước rồi.
Anh ta lật đật đứng dậy, đi tới đầu giường ngủ của hai đứa bé, mở chiếc cặp da đen và lấy ra một tập giấy:
- Đây là bản báo cáo tổng kết năm kia. Đây là bằng khen và giấy khen của Bộ. Đây là hồ sơ lưu bản báo cáo điển hình đọc trước toàn ngành bốn năm trước. Đây là…
- Được rồi, tôi xin…
Nguyên cắt lời người đàn ông, gật gù: - Thủ trưởng của anh quả là không ngoan và chu đáo. Đống tai fliệu sẵn có tới tận bàn viết của phóng viên, chúng tôi không cần nhích nửa bước chân khỏi cửa nữa… Lẽ ra phải cảm ơn anh ấy rất nhiều. Nhưng thôi, xin anh cho phép trả lời anh sau.
Nguyên quay sang Trọng:
- Trọng sẽ thông báo kết quả cho anh.
Đoạn, Nguyên khoác áo bludông, kéo khoá tới cằm, Cầm từ ngoài sân chạy vào:
- Anh ngồi chơi thêm ít phút nữa anh Nguyên. Mấy khi anh đã hạ cố tới nhà em mà vội vã.
Vừa nói, người đàn bà vừa đưa mắt nhìn bộ mặt lì xì của chồng và vẻ nhớn nhác của ông anh. Đôi tây mập mạp túm chặt cánh tay nguyên:
- Sao anh vội vã thế?... Anh làm thế này thì thật bẽ mặt chúng em.
Nguyên lắc đầu:
- Tôi có việc phải đi bây giờ và cậu Trọng cũng sẽ đi theo.
Người đàn bà nhăn trán lại một giây nghĩ ngợi… rồi quay vè phía chồng:
- Kìa, đi với anh Nguyên đi. Mặc thêm cái áo lên dài tay vào đấy nhé…
Trọng không đáp, anh chàng lầm lũi mặc áo, lầm lũi bước theo Nguyên ra hành lang. Hai người dắt xe đạp từ sân ra, chào Lâm lần nữa. Người đàn ông mặc áo trắng vẫn ngồi trên mép giường nhìn theo họ. Gương mặt anh ta xỉn như hòn than trên nền sơmi trắng. Cầm đứng bên cạnh Lâm. Khi họ ra tới cửa, chị ta cúi xuống thì thầm gì dó với người anh trai, bộ như an ủi. Không một chi tiết nào lọt qua mắt Nguyên, nhưng anh không bực, cũng không tò mò. Hai người lặng lẽ đạp xe qua các phố, tiện phố nào rẽ sang phố ấy, không cần biết tới đâu. Chừng non một giờ sau, Nguyên bảo:
- Lên nhà tôi, rẽ sang bên phải, chỉ năm phút nữa là tới.
- Được thôi.
Trọng gật đầu. Năm phút sau, họ tới chân cây cầu thang nhà Nguyên. Hai người cất xe vào nhà chứa, rồi thong thả đếm từng bậc thang một. Khi Nguyên mở cửa, Trọng đột nhiên cất tiếng:
- Đã lâu lắm rồi tôi không tới đây. Từ hồi…
- Từ hồi tôi sống kiếp mồ côi vợ.
Nguyên nói tiếp câu nói lửng lơ của bạn. Giọng anh lạnh tanh, nghe như giọng nói của một người nào đó từ bên kia bức tường vang tới. Trọng không dám nhìn Nguyên, toàn thân khẽ rùng lên trong cơn dao động. Còn Nguyên đã mở cửa sổ, đứng ở đó quay về phía bạn, đôi mắt trở nên sắc sảo và hung dữ với cái nhìn như muốn khoan thủng cả vỏ địa cầu:
- Nào, bây giờ thì cậu nói đi…
Những ngón tay đỏ hồng của Trọng bỗng quờ quạng trên mặt bàn. Đôi mắt anh ta tìm kiếm gì đó:
- Cậu tìm gì? Thuốc lá phải không?
Anh móc túi, quẳng bao thuốc xuống bàn: - Xưa nay có mấy khi cậu cần thuốc lá đâu?... Mặc dù tôi biết ở nhà cậu lúc nào cũng có vài ba thứ… Tìm gì nữa? Diêm à?... Nhà tôi hết diêm rồi, nhưng có bật lửa đây.
Anh chàng hộ pháp châm thuốc, rít từng hơi dài với vẻ nghiến ngấu của một kẻ đói ăn hơn là thói quen thưởng thức vài hơi khói sau bữa cơm của một người sành thuốc. Nguyên vẫn đứng khoanh tay nhìn Trọng, chờ đợi. Hồi lâu, anh ta ngẩng lên:
- Cô Cầm đã bày đặt ra cái trò này. Tôi vô cùng ngượng với cậu. Nhưng tôi cũng không thể khuyên can…
- Tôi biết – Nguyên cắt ngang – Nhưng Nguyễn Thanh Hoà là ai?
- Tôi chưa hề biết mặt anh ta. Nhưng qua những điều anh em cô Cầm trao đổi, đó là một con người ghê gớm. Trước đây, anh ta là kĩ sư nông nghiệp. Ta trường, Hoà được phân công về một viện canh nông trực thuộc Bộ nông nghiệp. Là một trong số những cán bộ kháng chiến đầu tiên có bằng đại học, anh ta được đề bạt tới tấp, hết cấp nọ lên cấp kia. Như người ta vẫn nói, Hoà có số làm quan và luôn luôn được quý nhân phù trợ. Anh ta có ít nhiều khả năng nhưng độc đoán và tàn nhẫn. Ngày chiến tran leo thang của Giônxon, cơ quan Hoà sơ tán về một vùng quê cách Hà nội hai mươi tám cây số, thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Ở đấy, Hoà đã hiếp một cô gái vị thành niên. Việc bị phát giác. Bố mẹ đứa bé làm đơn kiện. Hoà buộc bà vợ già của ông ta kháng án, và vu cho chính bố đứa trẻ đã gây ra tội ác kia. Sự kiện này là một trong những vụ tai tiếng nhất thành phố hồi ấy. Nhưng anh biết rằng Hoà quen thuộc nhiều. Nào là bạn cũ, nào là anh đỡ đầu, nào là thủ trưởng cũ từ ngày còn ở trên chiến khu Việt Bắc. Tất cả những ngời này có trách cứ đôi chút, mắng mỏ đôi chút nhưng cuối cùng đều vì tình nghĩa cũ mà can thiệp với toà án giúp anh ta. Hoà bị xử án treo sáu tháng. Nhưng ngay đến cả cái án đó nữa, rồi cũng được ngơ đi… Hoà không muốn ở lại cơ quan cũ vì ở đấy, lòng căm ghét của quần chúng sẵn có từ xưa, nay cộng thêm sự khinh bỉ. Cho dù nhờ các thế lực mà thoát khỏi nhà tù nhưng Hoà không thể gột rửa được tội lỗi nhơ nhuốc của chính mình.
Anh ta chạy chọt, cậy cục khắp nơi. Nửa năm sau, Hoà được chuyển sang làm giám đốc một cơ quan vận tải. Từ ngày đó tới nay đã gần chín năm rồi.
- Và trong thời gian chín năm đó anh ta đã kịp gây ra thêm bao nhiêu tội ác nữa?
- Tôi không rõ… nhưng sự việc mới bị phát giác gần đây. Có một cô kế toán trẻ mới được phân công về cơ quan Hoà sáu tháng. Cô ta mười chín tuổi, mồ côi bố mẹ từ hồi lên năm và chỉ có độc nhất một người anh trai đang ở trong quân đội. Cách đây chừng dăm tuần lễ, anh sĩ quan này về phép thăm em, băt gặp đúng lúc cô gái khoá chặt cửa buồng khóc như mưa. Người anh trai đập ổ khoá vào buồng vì cô gái nhất quyết không mở cửa. Anh phải dỗ dành từ chiều tới gần sáng hôm sau cô mới kể rằng bị cưỡng dâm một cách tàn nhẫn, và vì sự nhục nhã ấy cô muốn tự sát. Anh sĩ quan đã chạy ngay tới phòng làm việc của Hoà. Và tại đó, nếu không có cả một đội cờ đỏ làm áp lực bảo vệ Hoà thì anh ta đã bị bắn chết. Anh sĩ quan phát đơn kiện. Sự việc lan ra, và từ đấy, người ta mới phát hiện ra rằng lần lượt các cô gái trong cơ quan đã chịu chung một số phận như cô kế toán trẻ tuổi kia, nhưng họ đã âm thầm nén chịu vì họ sợ, hoặc xấu hổ, hoặc là họ không có được một người anh trai chí tình và can đảm đứng lên đương đầu với kẻ gây tội ác. Hiện nay, số đơn kiện đã tăng lên con số mười lăm… Tôi chưa rõ nó sẽ là bao nhiêu vào hồi kết thúc?...
Trọng ngừng lời. Một khoảng thời gian tĩnh lặng chầm chậm trôi giữa hai người. Rồi anh chàng hộ pháp châm lại điếu thuốc đã bị tắt. Nguyên chăm chú nhìn vào một điểm nào đó trong không gian, và cất tiếng hỏi:
- Còn ông anh vợ cậu, anh ta có liên đới gì trong tội ác này mà run rẩy đến thế?... Ông thủ trưởng quý báu kia cho anh ta được hút lại sái thuốc hay sao?
- Không, không… Trọng lắc đầu: - Lâm không có tính ấy. Nhưng anh ta mắc phải sai lầm khác… Cậu biết rồi đấy. Những người làm nghề lái xe như Lâm khó mà kìm giữ được lòng tham… Hoà đã nắm điểm yếu của Lâm, anh ta gọi Lâm lên, chìa cho xem các tang chứng rồi lại cất vào cặp da, đem về nhà. Đó là bản án chưa tuyên bố, và Lâm trở thành tù binh của Hoà một cách tự nguyện, trung thành… Quả tình, Hoà là một kẻ cơ mưu và quỷ quyệt. Bây giờ, có khi Lâm còn lo sợ cho Hoà hơn chính bản thân anh ta. Hoà còn mạnh, tội của Lâm được để yên trong bóng tối và anh ta còn kiếm chác được nhiều, Hoà lo những đối thủ trong cơ quan sẽ lôi sự việc cũ ra. Và chưa rõ Lâm sẽ gánh chịu những hậu quả gì… Anh ta vốn nhát nhúa, tham những lại sợ chết, thích ăn cắp nhưng không dạn đòn…
- Thế còn vợ chồng cậu?... Nguyên cất tiếng hỏi rồi anh lại tự trả lời với một giọng nhẹ nhàng, đùa cợt và nụ cười kín đáo trên môi: - Cậu thì là nô lệ của vợ ậu. Còn vợ cậu lại là kẻ hàm ơn ông anh. Cái nhà ấy, lẽ ra vợ chồng cậu chỉ được chia một nửa, nhưng Lâm đã cho cả cô em gái mà không đòi bồi thường gì. Kể ra, đó cung xlà một người anh tốt bụng. Thêm nữa, đàn lợn, đàn gà của cô Cầm, mỗi năm sinh lời dăm bảy chục ngàn lại nhờ vào những bao cám, bao ngô của ông anh. Nếu ông ấy lâm nạn, khoản cứu trợ sx mất, chưa kể đến trường hợp xấu nhất xảy ra, vợ chồng cậu sẽ phải san sẻ cửa nhà, gia cơ cho vợ con anh ấy… Tôi nói có đúng không?...
Trọng không trả lời, tiếp tục rít thuốc. Và Nguyên nhíu đôi mày lại, vừa nói vừa cười cười:
- Thế là tôi được phânc ông phải viết báo ca ngợi thành tích của một tên tội phạm, với mục tiêu giảm nhẹ tội phạm của y và nếu có thể biến y thành một anh hùng? Hay ho thật… Cậu có biết vì sao thủ trưởng lại mê cái tay Hoà tới mức phải viết thư khẩn thiết cho tôi không?
- Với tổng biên tập - Trọng đáp chậm rãi – Tôi không nghĩ anh ấy là kẻ tầm thường và trục lợi. Bởi vì trong rất nhiều mối quan hệ khác, Hoà thường sử dụng ngón đòn này. Những xe quà cáp vào lễ Tết, những hỗ trợ vật chất đáng kể vào các dịp ma chay, cưới xin, xây nhà, mua đất… Với danh nghĩa quan hệ ngoại giao, Hoà vung tay không thương tiếc để mua cho mìn các cổ phần trong đám người quen biết có thế lực… Nhưng với tổng biên tập của chúng ta, tôi nghĩ rằng Hoà đã sử dụng lại mối thâm tình từ thời họ còn trai trẻ. Theo danh từ của cậu, đó là căn bệnh thường có của chủ nghĩa duy cảm…
- Căn bệnh của chủ nghĩa duy cảm… Nguyên lặp lại, mỉm cười: - thế vợ chồng cậu bỗng dưng bày ra tiệc tùn mời tôi đến vì duy cảm hay duy lý?
Trọng ngẩng lên, mặt anh ta vốn đỏ lại đỏ thêm. Đôi mắt nhỏ bỗng dưng long lanh giận dữ:
- Tôi đã nói ngay từ đầu rồi. Tôi rất ngượng nhưng không sao ngăn cản được Cầm. Trong gia đình tôi, cô ta là bà tướng… Tôi vốn lười suy nghĩ nhưng không phải là tôi không biết rằng với tư cách đàn ông, tôi là kẻ bất lực… Nhưng chính cậu, tại sao cậu không tự hỏi rằng vì lý do gì mà tổng biên tập giao việc viết bài cứu tay Hoà này cho cậu? Một việc xấu xa thầm kín mà mọi người đều cố dùng những danh từ đẹp để nguỵ tran glên. Tại sao anh ấy không giao cho tôi, hay giao cho cô Tâm, cậu Nạm, cậu Phúc? Phải chăng vì từ xưa đến nay, cậu vốn là người ngoan ngoãn thực hiện mọi ý đồ của anh ấy, và anh ấy tin rằng cậu sẽ mãi mãi là một công bộc trung thành, bất luận trường hợp nào?...
Nguyên đứng lặng, không đáp. Và Trọng, sau cơn hăng hái đã gỡ cặp kính xuống loay hoay lau. Anh chàng hộ pháp nguội cơn bất bình, bắt đầu ân hận vì từ xưa tới nay, vốn lười nhác và đuểnh đoảng, anh luôn luôn vấp phải những lỗi lầm trong công việc, và lần nào cũng vậy, Nguyên đã đỡ cho anh… Lau kính xong, Trọng đeo lên, ấp úng tìm lời để xoa xuốt bạn. Nhưng anh chưa kịp nói, Nguyên đã cất lời, vơi smột giọng khẽ khàng, nhưng lạnh lẽo:
- Cậu nói đúng đấy… Tại sao?
Ngay buổi chiều bà Hoa tới đánh ghen với Phương Linh, Kim Anh tới nhà Dụng. Anh đang ngồi ăn cơm với bà mẹ già và hai đứa con gái. Vừa thấy chị dựa xe đạp vào tường, Dụng đã buông bát cơm, chạy ra:
- Vào ăn cơm với chúng tôi một thể, Kim Anh.
Kim Anh ngẩng lên, cất tiếng chào bà già, đáp lại tiếng chào gần như đồng thanh của hai đứa trẻ. Rồi chị nói:
- Anh cứ ăn cơm cho xong bữa, tôi nghĩ tường chúng ta có chuyện cần bàn đấy.
Chị tự rót cho mình chén nước,lấy mấy tờ báo trên giá sách treo tường xuống xem. Cử chỉ tự nhiên, giản dị của Kim Anh khiến mọi người yên tâm. Họ ăn tiếp bữa ăn xoành xĩnh ngày thường: một đĩa lau luộc với ít tép khô kho khế.
Chừng mười phút sau, Dụng ăn xong. Anh ra cửa mua vài chiếc kẹo lạc mời bạn. Kim Anh bảo:
- Sao anh khách khí thế, tôi có phải trẻ con đâu?
Chị chia quà cho hai đứa bé. Và hai đứa trẻ, sau khi lễ phép cảm ơn khách đã vào phòng trong cho bố nói chuyện. Dụng hỏi:
- Có chuyện gì mới thế Kim Anh?
- Một việc không hay ho gì với cô Linh.
Kim Anh đáp. Chị chờ Dụng hỏi tiếp câu hỏi nữa nhưng anh chỉ im lặng, cặm cụi súc ấm trà, pha nước mới. Sau một lát chờ đợi, Kim Anh nói tiếp:
- Chúng ta đã sai lầm, khi quyết định buộc Phương Linh nghỉ dạy và chuyển sang làm thủ thư.
Dụng vẫn im lặng.
- Nói cho đúng, hôm ấy người quyết định là tôi. Bởi tôi sợ áp lực bên ngoài, sợ ảnh hưởng của phòng giáo dục quận, sợ ảnh hưởng tới thành tích của trường... tôi là người phải gánh lỗi nặng hơn. Chúng ta đã bỏ qua những lời trách móc và các ý kiến phản đối của giáo viên trong trường... Giờ đây, tôi thấy mình kém cỏi. Tôi sợ ai cơ chứ? Người đàn bà cao lớn, tướng mạo đàn ông ở khu nhà cô Linh, rồi cái bà phụ huynh béo tròn trưởng cửa hàng rau quả... Tôi không muốn chúng ta phải đương đầu với dư luận và không muốn mất lá cờ luân lưu của phòng...
Dụng cúi đầu trước chén nước chè, anh không nói. Kim Anh nhìn bàn và tiếp tục, giọng trở nên gay gắt hơn:
- Tại sao chúng ta lại phải sợ hãi những con người đó? Tôi đã nói với anh chưa?... Cái bà phụ huynh béo trương béo nứt luôn luôn giở giọng mô phạm đòi con mình phải được học một giáo viên đức hạnh ấy đã bị bắt tuần trước. Bà ta a tòng với người chị dâu giữ chức vụ quan trọng trong ngành ngoại thương tuồn hàng ra thị trường. Chỉ vụ ấy, họ đã nhét túi nửa triệu bạc, một món tiền ngay lúc ngủ mơ, chúng ta cũng không thấy... Những loại người ấy, khi tội lỗ của họ cò khuất lấp trong bóng tôi, họ hù doạ chúng ta. Còn chúng ta, giống như những kẻ ngu ngốc, chúng ta phạt rất nghiêm khắc những đứa trò nhỏ trót bôi bẩn một tấm bản đồ, hay khắc tên mình lên bàn học nhưng chúng ta lại chiều luỵ những kẻ đã qua tuổi thiếu niên và những lỗi lầm dơ dáy, gây những tội ác tày trời... Phải thay đổi, anh Dụng ạ.
- Chuyện bà phụ huynh to béo kia - Dụng nói nhẹ nhàng – Kim Anh đã kể cho tôi nghe rồi, nhưg còn chuyên Phương Linh, bàn thêm đã. Dẫu sao, theo cách đánh giá hiện nay, Linh vẫn là người phạm lỗi. Mà tại sao, Kim Anh không kể cho tôi nghe sự việc xảy ra chiều nay? Có gì nghiêm trọng lắm phải không?
- Không, không có gì nghiêm trọng cả...
Kim Anh đáp với giọng cứng cỏi: - Đấy chỉ là một dịp, để hiểu biết thêm người đàn ông.
Dụng ngước đôi mắt hiền lành nhìn Kim Anh, mỉm cười:
- Bạn muốn chọc tức tôi đấy à?... Nhưng xưa nay tôi có biết tức giận đâu?
- Phải - Chị bỗng dưng gắt lên một cách thạt vô lý – Chính đó là điều đáng ghét nhất ở con người anh. Người ta không biết căm ghét thực sự thì không thể yêu thương thực sự. Không biết nổi giận thì cũng không thể biết ôn hoà...
Dụng vẫn giữ nguyên nụ cười trên môi:
- Lý thuyết ấy đúng đấy... Nhưng bây giờ không phải lúc chúng ta bàn về điều đó. Kim Anh hãy nói tiếp chuyện cô Linh đi.
Kim Anh buông tiếng thở dài. Vẻ kiên nhẫn của anh khiến cơn bực bõ của chị xẹp xuống như trái bóng xì hơi:
- Lỗi lầm của con người - Chị nói tiếp – Theo cách đánh giá bên ngoài nhiều khi khác lỗi thật của họ tới một trời một vực. Chuyện riêng của Linh không đơn giản như người ta nghĩ. Chúng ta hãy xét cô ấy theo trái tim.
- Tôi và Kim Anh đều yêu mến Linh. Đám giáo viên trẻ trong trường càng tin cậy cô ấy hơn. Nhưng ngoài tình, còn có lý. Chúng ta phải thận trọng. Nếu như trước đây, Kim Anh không đề xuất việc đưa Linh xuống thư viện trường, một vài tuần sau chính tôi sẽ nói với Kim Anh việc dó. Chúng ta không sống trong một thế giới riêng...
- Tôi hiẻu... Nhưng nếu xét về lý, chúng ta là những người làm thầy. Nhiệm vụ tối cao của những người làm thầy là phải dạy giỏi cho học sinh. Linh là gió viên dạy văn số một của trường ta. Từ ngày cô ấy thôi dạy và kèm cặp lớp chuyên văn, hai cuộc thi vừa qua trong thành phố, chúng ta đã thua hụt nhiều giải thưởng... Nhưng ngay cả việc ấy nữa, cũng không quan trọng bằng chính cách cư xử của chúng ta. Một khi, đã nhận thấy hành động của mình là phi lý, liệu ta có dám thay đổi không?
Dụng lặng lẽ nhìn Kim Anh, lát sau anh hỏi lại:
- Kim Anh có đủ can đảm không?
Chị đáp:
- Trước kia thì không. Bây giờ có.
- Như vậy có nghĩa ta công nhận quyết định của ta là lầm lẫn. Dù bây giờ có viện lý do rằng tình thế dẫn tới quyết định lúc ấy hợp lý, và hoàn cảnh hiện nay cho phép có các cải thiện. Mọi người cũng sẽ nhìn rõ sự việc thôi.
Kim Anh nghĩ ngợi vài giây, rồi quả quyết gật đầu:
- Cũng được.
Dụng nói chậm rãi:
- Tôi chấp thuận ý muốn của Kim Anh. Nhưng tại sao đến hôm nay Kim Anh mới quyết định điều đó?
- Tôi... tôi...
Chị hiệu trưởng lắp bắp, và sau cùng bỏ dở câu trả lời, chị đứng lên cao từ anh:
- Tôi phải về ăn cơm kẻo nhà đợi... Sớm mai ta gặp nhau nhé...
Dụng tiễn chị ra đường. Anh nghĩ rằng Kim Anh có điều gì muốn giấu anh nên không tiện hỏi nữa. Nhưng thực sự, Kim Anh cũng không hiểu vì sao tới buổi chiều hôm ấy, sau khi chứng kiến nỗi đau củ Linh, chị mới nảy sinh ra những ý nghĩ quyết liệt vừa nói với anh.
Phần XII
Một chú bé mười lăm tuổi, khá kẻng trai, tay đút túi quần đi trên hè phố, vừa đi vừa hát mải mê. Đôi mắt cậu bé mơ màng làm sao… Nguyên nghĩ, anh nhớ lại hồi anh mười lăm tuổi, ngờ nghệch hơn và còn trẻ hơn chú bé ấy nhiều. Mười lăm tuổi bây giờ, đã biết hát bài hát về tình yeu. Mười lăm tuổi ngày xưa, anh đứng dưới gốc ổi, nước mắt chảy ròng ròng vì bị tước đi một miếng bánh ngọt…
Cô chủ quán cà phê đi tới bàn:
- Anh gọi cà phê đen?
- Vâng.
Nguyên gật đầu, đón tách cà phê từ tay cô gái xinh đẹp, mặc quần Jin trắng và áo pun đỏ, giống nữ diễn viên hơn là giống cô bán giải khát. Anh gọi:
- Cho tôi xin một bánh ngọt nữa.
- Vâng, có ngay.
Cô gái trả lời và gần như tức khắc, đem ra chiếc bánh gatô nữa. Nguyên gạt chiếc đĩa trống sang một bên, anh đã ăn hai chiếc bánh ngọt mà vẫn đói cồn cào. Buổi sáng uống nhiều càphê quá mà không kịp ăn lót dạ. Bây giờ, sau khi đã xong việc, lẽ ra có thể kiếm một miếng bánh mì hoặc một bát phở nhưng anh lại mắc hẹn với Nguyễn Trung, một cán bộ trẻ của toà án. Đồng hồ đeo tay của Nguyên chỉ mười giờ kém mươi lăm. Chàng trai này đã trễ hẹn năm phút. Nguyên đoán chắc có một sự cố nào đó bởi lẽ trong những lần hẹn trước, không bao giờ Trung đến trễ một giây. "Trước ba phút, đó là nguyên tắc bất di bất dịch của tôi từ khi vào trường đại học, dù là lên lớp, hay đi gặp người yêu"
Trung đã nói với anh như vậy ngay từ khi hai người hẹn gặp nhau buổi đầu tiên, với vẻ cứng rắn và tự tin hiếm có ở những chàng trai hai mươi bảy tuổi. Đó là một thanh niên mảnh khảnh, dáng đi vội vã, cặp mắt sáng và chiếc cằm vuông lúc nào cũng xanh rì những râu. Trong cách nhìn ngắm xung quanh, Trung bộc lộ sự từng trải và bình tĩnh mà nhiều người ở lứa tuổi sáu mươi cũng còn phải tìm kiếm. Khoé miệng cười, cái nheo mắt tinh quái giễu cợt, lối rọi thẳng vào mặt người đối diện từng chùm tia nhỡn quang bỏng rát khi cần thiết… Tất thảy đều chinh phục Nguyên. Anh cảm nhận được ở chàng trai đó hình anh của chính mình mười năm trước, nhưng cứng cáp hơn, dạn dày hơn và thấm sâu hơn. Các đặc tính ấy vô cùng cần thiết cho sự phát triển của xã hội, bởi lẽ nó là một trong những cây cầu thang để cho thế hệ sau leo cao hơn thế hệ trước…
Mười giờ kém mười một phút. Trung vẫn chưa tới. Cậu bé lúc nãy đã quay lại, đi ngang qua tiệm càphê Nguyên ngồi, hát say mê như chỉ có một mình giữa thế gian:
Rồi trời mịt mùng
Làn mưa rơi xoá nhoà
Hình bóng em tôi
Lời bài hát buồn quá, và khiến người đàn ông chạnh lòng
Hình bóng em tôi
Chìm dần trong gió mưa…
Cậu bé vẫn gào lên, không biết người đàn ông rầu rĩ ngồi trong quán giải khát kia đang muốn nức nở theo… hai tay đút túi, nó đi xa dần, tiếng hát nhỏ dần theo. Nguyên ngồi lặng, đuổi theo những lời hát, trí nhớ xót xa của anh trôi như con thuyền xuôi dòng nước. Đám khói thuốc lá mỗi lúc một toả mờ bầu không gian trong quán trà chật hẹp. Nguyên không nhớ rằng mình còn đang hút thuốc, đốm lửa liếm dần tới tận ngón tay anh. Lúc đầu ngón tay bỏng rát khiến người đàn ông thức tỉnh, ném mẩu thuốc vào bình gạt tàn cũng là lúc Nguyễn Trung bước vào:
- Xin lỗi, xin lỗi anh… Chàng trai nói:
- Tôi không thể thoát khỏi một tai nạn bất ngờ, vừa cách đây hai mươi phút.
Trung ngồi xuống ghế, giơ tay xua làn khói ngột ngạt trong phòng. Nguyên bảo:
- Tôi chắc có sự cố bất ngờ nào đấy, vì anh luôn luôn là người đúng hẹn… Anh dùng gì?
- Cho tôi một càphê đen như anh thôi…
Trung đáp và móc túi ra một gói nhỏ:
- Đây này, sự cố đây này… Anh hãy xem đi…
Nguyên cầm lấy cái gói xinh xẻo ấy, đoán chắc là một vật có giá trị. Anh mở hai lớp giấy gói, thấy một chiếc hộp nhung đỏ thắm, có hình những bông hồng mạ vàng trên nắp và đường hoa văn cực kì tinh xảo chạy quanh. Giữa nắp và đáy hộp còn nguyên tem dán.
- Anh chưa mở ra xem hay sao?
Nguyên hỏi.
- Chưa.
Trung lắc đầu, uống một ngụm càphê nóng cô chủ quán vừa đem ra và nói thêm:
- Anh mở ra đi, đó là một điều thú vị. Càng giống như sự thú vị của người được mời cắt băng khánh thành một công trình xây dựng hoặc một cuộc triển lãm..
Chàng trai nheo mắt lại, và những tia sáng đầy vẻ bỡn cợt hiện lên trong mắt anh. Nguyên mỉm cười bóc tem bảo hiểm, lật nắp hộp: Trong lớp nhung lót đen óng ánh, nổi bật lên chiếc đồng hồ phụ nữ vỏ và dây đeo bằng vàng tây: A… Cả hai người cùng thốt ra tiếng kêu một lúc:
- Rađô mười bốn hạt xoàn, thứ đồng hồ của loại dân giàu có nhất thời nay đấy… Anh xem, ông Nguyễn Thanh Hoà chịu chơi không?
Trung nói, uống một ngụm càphê cuối cùng. Nguyên chìa bao thuốc ra:
- Anh hút cho vui.
- Không, anh đãng trí thật. Tôi có hút thuốc đâu?... Chúng ta gặp nhau lần này là lần thứ bao nhiêu rồi mà anh vẫn cứ chìa bao thuốc ra như lần đầu.
- A… xin lỗi. Có lẽ tôi lẫn rồi.
- Chưa, chưa lẫn đâu… Nhưng chắc chắn anh bị phân tâm bởi một điều gì đó…
Nguyên im lặng không trả lời, trong thâm tâm, anh thốt lên tiếng kêu: “Thằng bé này thông minh thật”. Trọng không chờ Nguyên, nói tiếp:
- Bây giờ chúng ta vào chuyện chính: Trước khi tôi tới đây hai mươi phút, có một người đàn ông tầm thước, da đen, trông ủ rũ đứng chờ trước cửa. Khi tôi vừa mở cửa định dắt xe ra, anh ta liền hối hả bước vào và đóng ngay hai cánh cửa lại. Sau đó, không chờ tôi hỏi, anh ta tự xưng là đại diện cho một số đông anh em nhân viên văn phòng và lái xe thuộc cơ quan Nguyễn Thanh Hoà. Theo anh ta, đa số anh em rất thương thủ trưởng và rất tiếc cho lỗi lầm của thủ trưởng, rằng đó là một người tài ba và có rất nhiều thành tích cách mạng, rằng so với các khuyết điểm hoặc các nhầm nhặt, cống hiến của thủ trưởng Hoà vẫn nhiều hơn gấp bội, rằng quần chúng mong chờ ngày thủ trược được về để điều hành cơ quan… Sau rốt, anh ta tặng tôi… à không, tặng cho người yêu của tôi một kỉ niệm… Tôi buộc anh ta mang về, nhưng anh ta lủi nhanh như một con chuột ngày. Tôi không muốn chạy ra phố kêu gọi ầm ĩ, vả lại… tôi muốn mang tới đây để anh có thêm một bằng cớ nữa. Bây giờ, anh hãy giữ lấy nó. Anh giữ có lợi hơn tôi khi chúng ta công bố sự thật này… Nhưng còn người đàn ông kia, anh có biết anh ta là ai không, và vì lý do nào anh ta làm việc ấy?
- Đó là một tù binh của Hoà, sự sống còn của ông ta phụ thuộc vào sự sống còn của y… Nhưng đó là nhân vật thứ yếu. Việc tôi nhờ anh đã tới đâu rồi? Sở dĩ tôi hối thúc anh vì tổng biên tập báo đã về nước sáng hôm qua. Sáng nay ông ta còn nghỉ nhưng chiều nay, chắc chắn ông ta sẽ tới cơ quan và tôi muốn có niềm tin chắc chắn vào điều tôi định nói.
- Tôi đã thu thập toàn bộ những tài liệu liên quan và hồ sơ pháp lý vụ án cho anh. Tất cả đã nằm gọn trong tủ riêng tại nhà tôi. Nhưng bây giờ, tôi sẽ mời anh làm một trắc nghiệm…
Trung xem giờ và nói thêm: - Ta đi cho sớm. Khoảng hai mươi phút nữa mới tới giờ điểm. Anh hãy gói lại nguyên xi chiếc đồng hồ và bỏ nó vào túi cho tôi… Được rồi, túi áo anh có thủng không đấy? Nếu mất, cả hai chúng ta sẽ lâm nạn, và không ai bào chữa nổi cho mình.
Nguyên thanh toán tiền cho chủ quán và họ cùng đi ra. Hai người đạp xe song song, nhưng không ai nói với ai điều gì. Tới cột đồng hồ trước cửa rạp hát Hồng hà, Trung bảo Nguyên:
- Chúng ta đứng ở đây. Lát nữa, vợ của tay Hoà sẽ từ chợ ra, cô em gái tôi đã đoán chắc như vậy, mình sẽ mời bà ta vào nhà hỏi chuyện. Anh im lặng nhé, mọi việc để mặc tôi.
Nguyên gật đầu, anh hồi hộp đôi chút. Trung dường như không để ý tới anh nữa, đôi mắt sáng chói của chàng trai nhìn thẳng về phía trước, nới đám người nội trợ đang đi đi lại lại, nhộn nhạo và rối rắm với đủ màu sắc áo, đủ kiểu tóc, kiểu khăn, đủ các gương mặt…
- Con em tôi kia kìa…
Chàng trai nói, Nguyên nhìn theo anh mắt Trung, thấy một thiếu phụ trẻ, rất trẻ, nét giống Trung nhưng ôn hoà hơn, mập mạp hơn. Nước da anh trai xanh xao, còn gương mặt cô em lại đỏ hồng như đánh phấn:
- Nó mới ở cữ được tám tháng.
Trung nói thêm, dường như để giải thích cho ánh mắt băn khoăn của Nguyên. Một lần nữa, Nguyên phải thầm thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên thán phục trong lòng. Chàng trai vẫn nhìn về phía cô em gái, dường như nhỡn lực của anh có sức hút mạnh và chính xác siêu nhiên nên cô gái đang lúi húi chọn rau bỗng ngẩng đầu lên và ngay tức khắc giơ tay ra hiệu cho Trung. Rồi cô đi về phía dãy người đang nối đuôi nhau trước quầy bán thịt, nói gì đó với một người đàn bà mặc áo xanh. Khoảng vài giây sau, cô đưa bà ta ra khỏi đám đông đi về phía hai người chờ. Khoảng cách mỗi lúc một ngắn dần và Nguyên nhận ra người đàn bà mặc áo xanh kia đã già, khoảng gần sáu mươi hoặc kém chút ít. Một khuôn mặt dài, ảo não với hai nếp nhăn dài vòng quanh mép. Bà ta có cái dáng đi khá đặc biệt, người lúc lắc chao đảo sang hai bên và đầu luôn luôn chúi về phía trước.
- Chào bà.
Khi Trung cất tiếng chào, bà ta giật phắt người, ngẩng mặt lên:
- Ôi, không dám, chào anh… chào hai anh…
Nguyên nhìn rõ đôi mắt nhỏ, đục, hốt hoảng như mắt con chim sa lưới. Trên gò má, sau đuôi mắt chi chít những nếp nhăn dài và sâu. Anh chợt se lòng, Trung nói:
- Chúng tôi có vài điều muốn hỏi bà. Xin bà vào nhà cô Trinh chơi.
- Tôi… tôi có biết gì đâu? - Người đàn bà lắp bắp – Tôi không biết gì cả…
- Chúng tôi chỉ hỏi những đièu bà biết.
Chàng trai đáp với giọng nhẹ nhàng. Cô em gái nói thêm:
- Bà đừng lo, mọi chuyện đơn giản thôi… Bà có lỗi gì đâu mà ngại…
Cô mở cửa, bước vào nhà, mọi người vào theo. Nhà Trinh tuy gần chợ, nhưng khi khép hai cánh cửa gỗ dày lại trở nên yên tĩnh. Cô pha nước, sắp chén đầy đủ cho anh rồi vào buồng trong, sau khi nói thêm một câu khích lệ với người đàn bà. Bà ta thu hai tay vào lòng, mắt chăm chăm nhìn xuống chén nước. Một khoảnh khắc yên tĩnh trôi qua. Nguyên chờ đợi, và Trung cất tiếng:
- Nhà bà nhiều khách lắm phải không?
- Không.
Người đàn bà đáp tức thì, đôi mắt chớp chớp như để giữ gìn những ý định thầm kín bên trong. Đó chắc chắn là một lời nói dối, nhưng nét mặt Trung không xao động. Hình như anh đã quá quen với những câu trả lời đại loại như thế. Chàng trai tiếp tục hỏi bằng một giọng bình thản:
- Nhà bà ít khách lắm à?
- Không… à… vâng. Nhà tôi ít khách.
- Giám đốc một đơn vị vận tải lớn như vậy mà không có khách tới giao dịch hay sao?
- Không, tôi không biết.
- Còn bạn? Ông Hoà khong có bạn à?
- Không, không… Mà nếu có, chắc ông ấy tiếp ở cơ quan.
- Từ ngày ông Hoà bị giam giữ, không có ai đến nhà bà à?
- Không có ai.
- Ai đi tiếp tế cho ông Hoà, bà hay các con bà?
- Các con tôi.
- Ai thường xuyên làm việc ấy? Anh Huy, Anh Hoàng hay chị Xoan?
- Tôi không biết. Chúng nó tự cắt lượt nhau.
- Mọi việc xảy ra trong gia đình bà, không ai bàn bạc với bà hay sao?
- Không ai cả.
- Bao giờ con trai thứ hai của bà được gọi đi làm Luận án phó tiến sĩ ở Hung?
- Tôi không biết. Mọi sự ở bố con nó với nhau.
- Chị Hoan vừa xây xong một căn nhà hai tầng đẹp lắm, bà tới thăm chưa?
- Không, không... Người đàn bà lắc đầu:
- Con gái đã lấy chồng, tôi không để mắt tới nữa...
Bà ta trả lời vẫn một giọng đều đặn như những giọt mưa nhỏ từ mái tranh xuống, không chút lay động, không chút do dự băn khoăn. Nguyên bắt đầu sốt ruột, anh thấy Trung ngồi im phăng phắc hai tay đặt trên bàn, nét mặt thản nhiên tới mức độ đáng ngờ vực.
- Anh Hoàng con bà vừa được đề bạt lên trường phòng điều phối, bà đã tổ chức ăn mừng chưa?
Chàng trai tiếp tục hỏi, giọng nhẫn nại.
- Tôi không biết chuyện đó.
Người đàn bà đáp với vẻ gan góc lì lợm hơn. Mặt bà ta tựa như một hang sâu đã được bít bằng các viên đá tảng, tăm tối và bền vững.
- Anh Hoàng đã tập kết đầy đủ nguyên vật liệu để xây nhà mới. Bà xem kiểu vẽ biệt thự tương lai chưa? Của một kiến trúc sư trẻ tuổi có tài vừa tốt nghiệp đại học kiến trúc ở Xôphia về.
- Không, tôi không biết gì cả.
Tới đó, Trung đột nhiên dằn giọng xuống. Và sự biến đổi âm thanh khiến bà ta giật thót người lên:
- Điều này, bà phải biết…
Những tia sáng nhọn như kim từ đôi mắt chàng trai phóng thẳng về phía trước. Luồng nhỡn quang bỏng rát ấy khiến gương mặt người đàn bà đờ dại.
- Bà có một ngôi nhà rất đẹp ở quê bà - Hải Hưng. Năm gian trên làm nhà thờ họ. Ba gian dưới là nơi bà cụ sinh ra bà và người em trai tàn tật của bà sống với nhau.
Người đàn bà vẫn ngồi như phỗng. Đôi mắt bà ta giống như đá đeo, không nhìn vào điểm nào đó giữa không gian. Chúng trơ trơ, tựa hồ mắt những pho tượng trong bóng tối hậu cung của đền chùa. Chúng mù loà, hoặc chúng nhìn vào đáy nước hư vô…
- Bà là người con hiếu thảo, cho tới hiện nay, mẹ bà và em bà vẫn dựa vào bà mới có được một đời sống sung túc. Có phải vì ngôi nhà tám gian ấy mà bà viết đơn kháng án cho ông Hoà chín năm trước, và bà đã vu cho anh Tiến, bố cháu Vũ Thúy Hồng tội hiếp dâm con gái không?
Không có tiếng trả lời. Cả khuôn mặt lẫn đôi mắt mờ đục của người đàn bà biến thành vực thẳm.
- Cách đây năm hôm, ông Hoà đã cho người cháu ruột gọi ông ấy về Hải Hưng, bán năm gian nhà trên để lấy tiền chạy chọt.
Từ cái khuôn mặt bất động như tảng đá vụt lên cơn dao động, các nếp nhăn có rúm lại quanh hố mắt và hai bên mép. Và từ đôi mắt đờ dại tối tăm kia bỗng toé lên tia lửa điên cuồng, hoảng loạn.
- Điêu… không phải. Đấy là chuyện điêu toa..
Trung rút trong túi áo ngực một chiếc phong bì bằng giấy viết học trò kẻ ô, dán lem nhem. Những dòng chữ xiên xẹo đề trên mặt trước, to như chữ học sinh vỡ lòng:
Em Trương Văn Từu
Thôn... xã... huyện.... tỉnh Hải Hưng
Gửi chị Trương Thị Tựu
số nhà... Phố... Hà Nội
Dưới chữ Hà Nội viết hoa là một nét gạch run rẩy. Mặt người đàn bà trắng bợt như ngâm nước, những ngón tay quờ quạng mãi không mở được phong bì. Gian phòng im lặng tới mức những tiếng động của phố xá dù rất nhỏ cũng vang lên rõ mồn một. Trung nói tiếp:
- Có phải đấy là cái giá mà ông Hoà đã mặc cả với bà chín năm trước không?
Người đàn bà không trả lời, gương mặt vừa nhợt nhạt đã xám lại như tro. Đôi mắt hoang vắng tựa một ngôi nhà sụt mái. Trung tiếp:
- Vì cái giá ấy bà đã vu khống cho một con người cái tội ác đê hèn nhất.
Anh ngừng lại giây lát, hạ giọng, khẽ khàng:
- Có bao giờ bà nghĩ lại việc làm đó hay không?...
- Có...
Người đàn bà chợt cất tiếng trả lời, giọng khàn khàng như mèo đực gào đêm:
- Tôi có nghĩ, có nghĩ... Nhưng tôi làm sao được. Đã mười mấy năm nay, lão ấy có nhòm ngó gì tới tôi đâu? Tôi là mụ đầy tớ cho bố con lão ấy ở trong nhà: Nào cơm canh, chợ búa, giặt giũ, giỗ tết... Cái lũ bạc như vôi ấy chỉ quý bố chúng nó thôi. Lão ấy quyền thế cao, tiền bạc nhiều, lão lo từ công việc, tới nhà cửa, chồng vợ, con cái cho chúng. Còn tôi, tôi biết cho chúng nó cái gì?... Thế mà tôi lại đẻ ra cái lũ ấy, nên tôi vẫn phải thương, phải yêu chúng. Chiều ý lão Hoà, tôi vẫn còn nhà cửa, con cháu, cơm ăn áo mặc. Trái ý lão, tôi ra đứng đường... tôi biết làm sao?... Trên đời, chỉ có hai người đoái hoài tới than tôi, bà cụ dưới quê với cái thằng Què...
Tới đó, từ đôi mắt đục mờ những tia máu rỏ rai hai giọt lệ lớn. Chúng lăn qua gò má và rớt xuống tận cằm. Người đàn bà ngồi yên, không cất lên một tiếng nấc nhỏ, nhưng những giọt nước mắt cứ nối nhau troà qua mi, theo đúng lối của giọt lệ đầu tiên mà chảy xuống. Giờ lâu, bà ta đưa tay chùi nước mắt, gương mặt héo úa ngước lên:
- Tôi có phải ngồi tù không?... tù cũng được.

Trung không đáp, anh bảo người đàn bà với giọng nhẹ nhàng, nhưng lạnh lẽo:
- Bà có thể về được rồi.
Quay vào trong, anh gọi:
- Cô Trinh đâu?
Trinh từ trong buồng, vén tấm màn che gió đi ra. Cô mở cửa đưa người đàn bà đi một đoạn mới trở lại. Nguyên châm thuốc, bắt đầu nhả khói:
- Tôi có làm anh khó chịu không?
- Không sao, tôi không hút nhưng chịu được khói thuốc, thích nữa là khác.
Trung ngó vào buồng trong, bảo:
- Có gì cho chúng tôi ăn không, cô Trinh?
- Có chứ… - Cô em ngoan ngoãn đáp – Em xuống làm thức ăn đây. Cơm cạn rồi…
Trung trở lại bàn, rót nước uống và hỏi Nguyên:
- Anh thấy thế nào?
- Thật ghê tởm. – Nguyên đáp - Tại sao lúc đó người ta không tìm ra căn nguyên nhỉ.
- Nói cho đúng ra là người ta không muốn tìm. Trong mọi trường hợp, chín mươi phần trăm ý chí của con người quyết định thành hay bại. Tất cả các biện pháp hiệu lực nhất, các phương tiện khoa học tối tân nhất cũng trở thành vô nghĩa một khi con người không muốn nhìn nhận và bảo vệ công lý.
Chàng trai trả lời bình thản, giọng điệu đều đặn, hơi buồn. Đôi mắt sáng của anh như phủ lớp khói mỏng, trong một tích tắc rồi sau đó lại rực lên. Nguyên chưa gặp người nào có cặp mắt quyền uy và mạnh mẽ như vậy. Anh im lặng rít thuốc, ngắm Trung với vẻ trìu mến và cảm phục thầm kín. Rồi sau khi ném mẩu thuốc cuối cùng đi, anh hỏi:
- Đã bao giờ anh tự nghĩ rằng mình phải đầu hàng chưa?
- Cũng có lúc, nhưng chỉ trong phút chốc thôi. Tựu trung, cho tới giờ tôi vẫn chưa đầu hàng!
- Nhưng ngày mai, ngày kia, hoặc một ngày xa hơn nữa…
- Rất có thể… Con người là sinh vật nhạy cảm và mau thay đổi nhất trong mọi loài… Vì thế, xã hội muốn tồn tại phải có những nguyên tắc để đo đếm và kiểm tra con người. Phải có những nguyên tắc để gìn giữ các mối tương quan. Cái chính là nguyên tắc, chứ không phải lòng tốt của cá nhân. Hôm nay tôi trung thực, nhưng ngày mai rất có thể tôi gian trá. Hôm nay tôi yêu thương anh, nhưng ngày mai có thể vì quyền lợi cá nhân tôi sẽ tiêu diệt anh… Một xã hội tốt đẹp là xã hội tồn tại trên những nguyên tắc của công lý chứ không trông cậy vào lòng tốt của bất kỳ cá nhân nào…
Cô Trinh bưng lên một mâm cơm khá thịnh soạn, đặt lên bàn. Trung đưa mắt nhìn qua, khen:
- Dạo này cô đã biết đường nấu nướng rồi đấy.
Thiếu phụ trẻ bẽn lẽn cười:
- Nhà em dạy đấy. Hồi trước ở nhà, anh Trung vẫn mắng em là đồ con gái đoảng, không ai thèm lấy.
Nguyên nhìn Trung:
- Hình như anh có chút máu gia trưởng trong người, đúng không?
Chàng trai cười, không đáp. Anh so đũa cho Nguyên và bảo:
- Cơm sang đấy chứ: Giò lụa này, giá xào thịt bò này, dưa kiệu này… Cậu em rể tôi đi nước ngoài luôn luôn, lại có thêm nghề phụ. Còn chúng ta, chắc chắc không mơ tưởng thường xuyên tới một bữa cơm như hôm nay… Trinh, cô xới cơm cho anh Nguyên trước đi.
Cô em đặt từng bát cơm nghi ngút khói trướ mặt mọi người càu nhàu:
- Mãi chẳng chịu lấy vợ đi. Mẹ kêu ca nhiều lắm đấy.
- À, cái khoản ấy thì chưa được.
Trung đáp, nửa như trả lời em, nửa như nói với Nguyên:
- Tôi rất sợ khi chìm tàu, người ta nói thế này: Tôi không muốn lam cái điều tồi tệ ấy, nhưng vì vợ con tôi… Tốt nhất là đừng móc thêm toa khi đầu máy chưa đủ sức gồng…
“Cậu có lý thật – Nguyên nghĩ – Có lẽ chính vì Linh va bé Hương Ly mà anh đã thoả hiệp nhanh chóng như thế… Một thân một mình với suất cơm tập thể và tích nước không bỏ chè đặt ở đầu giường, người ta dễ dàng bảo vệ ý tưởng của mình hơn…” Anh bỗng giận Linh và thương thân.
- Ăn đi, anh nghĩ ngợi gì thế?...
Trung hỏi, Nguyên lắc đầu. Ăn xong cơm, họ vội vã chia tay ngay. Trung trở lại toà án có việc hẹn đồng nghiệp. Còn Nguyên đến toà báo gặp tổng biên tập như anh đã tính:
- Cảm ơn Trung nhé, nhờ anh tôi đã tìm được niềm tin ở chính mình
Dọc đường, một người đàn bà phấn son lộng lẫy gọi Nguyên. Anh dừng lại, định thần một lúc mới nhận ra bà Phương: Bà mặc đồ ký giả, uốn tóc cao sát gáy trông như một nhà báo ngoại quốc vừa đáp xuống sân bay Nội bài chiều qua. Anh nói:
- Cháu chào cô. Cô đi chơi phố ạ?
Bà giáo đáp:
- Không hẳn là dạo phố mà là đi chợ. Tôi vừa rẽ xuống thăm hai mẹ con cái Linh. Hương Ly đang ốm. Nó bảo tôi gọi anh xuống trường: Bà bảo bố cháu chơi một lúc thôi rồi về cũng được. Con bé khôn ghê khôn gớm. “Đúng là giọng nói của con gái mình…” Nguyên nghĩ. Anh chào bà cô rồi rẽ vào mộtc ơ quan gần đấy gọi điện thoại cho Tổng biên tập báo rằng anh có việc đột xuất chiều nay. Xong, Nguyên ghé qua tiệm bánh ngọt và hàng hoa quả mua những thứ quà Hương Ly vẫn thích. Những gói quà bao bởi nhiều loại giấy khác nhau chất đầy ngăn cặp lớn. Người đàn ông gắng gượng xếp lại cho chúng khỏi hư nát, những trái cây dễ làm bẹp gói bánh ga tô, những túi kẹo dễ làm tróc lớp kem phết trên mặt bánh trứng… Sống cũng khó khăn như xếp những thứ hàng quá khác biệt nhau trong một ngăn cặp chật hẹp như thế này. Làm sao bảo toàn được những ý tưởng cao thượng lẫn cuộc mưu sinh, làm sao gìn giữ được niềm tin thanh xuân giữa những chao đảo và trầm luân của đời thường. Làn khói mờ bốc lên từ khe sâu buổi sớm và ánh hoàng hôn trên các chóp nhà thành phố, tiếng chim rúi ran trong vòm lá và giọng điệu khả ố ta phải chấp nhận ngày ngày…
Nguyên xuống tới trường vào lúc một giờ trưa. Linh đã xuống văn phòng. Bé Hương Ly thiêm thiếp ngủ. Nhưng khi anh vừa ngồi xuống mép giường nó mở mắt, hoàn toàn tỉnh táo như cái đêm Linh trở về căn phòng của họ:
- Bố Nguyên.
Nguyên cúi xuống, áp má lên vầng trán hâm hấp nóng của đứa con:
- Mẹ co con uống thuốc gì?
- Mẹ cho con uống lá nhọ nồi, thuốc ngọt lắm nhưng làm đen bẩn hết cả khăn mặt lẫn khăn tay.
- Bố mua bánh cho con, cả kẹo nữa, con ăn gì?
- Không, con ăn cháo rồi, con cũng uống sữa rồi. Con chỉ muốn bố ngồi đây thôi.
Người đàn ông nuốt giọt nước mắt vào trong tim, ngắm nhìn gương mặt đứa con. Con bé cũng đăm đăm nhìn anh, vừa khôn ngoan vừa như dò xét:
- Bố Nguyên?
- Gì thế con?
- Sao mẹ không muốn ở nhà mình?
- Lớn lên con sẽ hiểu.
- Con thấy bố không làm mẹ đau, cũng không mắng mẹ.
- Người lớn không chỉ tức giận vì bị đánh hay bị mắng. Bao giờ con lớn, con sẽ biết.
Hương Ly ngừng lại, nhíu đôi mày tí xíu lại. Vầng trán đều đặn phơn phớt lông tơ của nó như ánh lên một thứ ánh sáng của rạng đông. Người đàn ông thấy tim nhói đau vì cái cử chỉ ấy, đứa con gái giống mẹ nó một cách đáng sợ. Anh quay mặt đi. Con bé bất giác thở dài, nó cựa mình rồi đặt bàn tay nóng bỏng lên tay bố:
- Bố Nguyên?
- Gì thế con?
- Bố yêu mẹ nhiều không?
- Nhiều.
- Con biết, bố yêu mẹ gần bằng con.
Nó đáp lại trịnh trọng và tiếp:
- Tại sao hàng xóm nhà mình hay nói xấu mẹ?
- Vì họ không hiểu gì về mẹ cả.
- Họ không tốt... Nhưng con không tin những điều họ nói đâu. Hàng xóm nhà mình giống như bạn Lan ở lớp mẫu giáo của con. Bạn ấy ăn trộm bánh của bạn Hùng nhưng lại nói với cô giáo là đã ném cho chim bồ câu ăn hết.
Nguyên phì cười:
- Sao con biết?
- Con nhìn thấy bạn ấy đem bánh ra sau tủ, đứng ăn.
- Con có nói cho cô biết không?
- Không.
- Tại sao?
- Vì bạn ấy sẽ thù và sẽ cấu con. Con chỉ nói riêng cho bố biết thôi.
Người đàn ông nhìn cặp môi đỏ như tô son của đứa con gái. Cả cặp môi tròn đầy nó cũng giống mẹ. Nhưng con bé đã khôn ngoan hơn mẹ nhiều lần. Nó đã biết thích ứng với đời sống ngay từ thuở thơ ấu. Nguyên không còn biết anh nên vui hay nên buồn vì điều ấy. Anh nhìn con và thấy sau gương mặt nó là gương mặt của Linh, thơ ngây hơn và khờ dại hơn. Một tín đồ cuồng nhiệt. Con người chỉ có thể trưởng thành khi xoá bỏ đi bản chất tín đồ ở trong lòng mình. Căn phòng thảm hại này, đứa con trên chiếc giường cá nhân ọp ẹp, cái xoong nhỏ xíu đặt trên chiếc bếp dầu rẻ tiền kia, cảnh chia lìa của gia đình họ... Anh không còn giận mà bỗng thương Linh như thương một đứa con gái nhỏ khác của mình, một phần hoá thân của chính anh trong những ngày trai trẻ, ngọn lửa nguyên thuỷ của niềm tin xưa cũ, ngọn gió phiêu diêu thổi qua vòm trời của các giảng đường... Phòng làm việc của tổng biên tập không rộng lắm nhưng cô thư kí khéo trang trí nên thoáng và tao nhã. Một bàn lớn, bóng lộn với chiếc ghế cao chân bọc da êm ái. Hai chiếc ghế mây kê đối diện dành cho khách trắng tinh. Một tủ nhỏ đựng tài liệu trên đặt bình hoa bằng thuỷ tinh mờ. Một hàn thử biểu có quả táo mạ vàng gắn bên trên treo vào cánh tủ. Và, duy nhất, một bức tranh thuỷ mạc trên tường.
Trước đây, Nguyên thích căn phòng này. Mỗi lần làm việc với tổng biên tập, anh đắm mình vào bầu không gian nhẹ nhàng yên tĩnh. Nhưng hôm nay, cảm giác quen thuộc ấy bỗng mất đi. Người đàn ông tựa lưng vào ghế, đưa mắt nhìn mọi vật, từ bức tranh thủy mạc tới chiếc hàn thử biểu, thấy chúng xa lạ như từ một thế giới nào đó du nhập về. Tổng biên tập không nhìn Nguyên, ông đang loay hoay lục tìm gì đó trong chiếc cặp da đen. Lát sau, ông rút ra bao thuốc 555 và gọi nho khô bọc giấy thiếc:
- Đây là quả của cậu.
Ông nói với vẻ xuê xoa: - Mình không còn chút thời gian trống nào, không thể tìm được thứ gì khá hơn.
Nguyên đáp:
- Anh bận tâm làm gì? Xưa nay tôi vẫn quen hút thuốc rẻ tiền.
Tổng biên tập im lặng. Ông bóc gói nho khô, đổ ra đĩa:
- Mời cậu.
- Cám ơn anh.
- Mọi chuyện ở nhà suôn xẻ chứ?
- Vâng, không có gì đáng phàn nàn…
Nguyên đáp, với cảm giác hơi khó chịu. Ông ta vờ vĩnh, mọi chuyện thư kí toà sạn đã báo cáo đầy đủ rồi. Tại sao cứ phải loanh quanh?...
Tổng biên tập nói:
- Ở các nước tư bản – Ông châm thuốc cho Nguyên- Ở các nước ấy, hệ thống tư tưởng và các quan điểm xã hội của họ hoàn toàn khác biệt chúng ta, nhưng phải thừa nhận rằng riêng về làm nghề báo, họ thật thông minh và tinh nhạy.
- Vâng.
- Cũng không phải chỉ riêng nghề làm báo, tất cả các nghề nghiệp khác cũng dựa trên nguyên tắc tối cao là sự hữu hiệu của các cá nhân trong hệ thống công việc. Người ta không công nhận con người bằng các mối quan hệ, các điều kiện ưu tiện sẵn có mà chỉ dựa trên chân tài của họ. Con trai của một tổng giám đốc ngân hàng Nhật trước khi làm trợ lý cho cha, phải đoạt được hai bằng tiến sĩ kinh tế học và luật học, sau đó còn phải qua bảy năm thực tập tại các loại ngân hàng cơ sở để nắm vững thực tiễn và kiểm nghiệm lại toàn bộ kiến thức.
- Vâng.
- Cậu thấy không, mỗi cá nhân được lựa chọn như vậy sẽ tồn tại độc lập với chính khả năng thực có của anh ta. Và kếu cấu của xã hội thờ thế sẽ lành mạnh. Hình như đã có lần tôi nói với cậu về vấn đề này?
- Vâng, tôi nhớ, tôi có nhớ…
Nguyên gật đầu. Lòng anh tràn ngập nỗi buồn: Ông ta cứ vòng vo mãi. Bao giờ thì câu chuyện chính bắt đầu đây?... Anh nhìn đôi tay mở màng của tổng biên tập, những nếp nhăn rung rung trên đôi mí mắt đã bắt đầu sệ mỡ. Dung nhan của sự viên mãn và tuổi già, cái lãnh địa mà lòng quả cảm và ý chí tồn tại độc lập của từng cá nhân bị vùi lấp dưới tầng dày của tháng năm mệt mỏi. Bóng chiều âm hiểm lướt qua vườn cây thời gian…
- A.. A… a… a
Tổng biên tập bỗng buông tiếng thở dài, lắc lắc mái tóc:
- Thế đấy, thế đấy… ở nước ta mọi sự khó khăn thật…
Nguyên chợt thấy tức thở, anh không thể chịu đựng thêm cái không khí giả tạo mà thường ngày anh ta đã coi như thói đời và đặt ra ngoài sự quan tâm của mình. Không mào đầu, anh nói:
- Ngày lên đường, anh đã nhờ thường trực chuyển cho tôi lá thư.
- Phải, phải… à có…
Tổng biên tập đáp, hơi bối rối vì thái độ đường đột của Nguyên. Ông ta vội rít một hơi htuốc dài rồi ngửa mặt lên nhả khói. Nguyên nói:
- Tôi biết rằng đám người chạy chọt cho tên Hoà đã chờ anh ngay tại chân cầu thang nhà riêng, khi anh vừa từ sân bay trở về. Và tôi cũng biết rằng họ còn chạy chọt, săn tìm cứu cánh ở nhiều nơi khác.
- Ư hừ…
Tổng biên tập phát ra một tiếng hừm hừm khẽ trong họng, chẳng ra thú nhận cũng chẳng ra đồng tình. Nguyên nhìn gương mặt có vẻ như thờ ơ nhưng lại bối rối của vị cán bộ lãnh đạo mình. Chợt, anh hỏi:
- Tại sao anh lại giao phó việc ấy cho tôi?
- Hả?
Tổng biên tập phác một cử chỉ tỏ ý ngạc nhiên.
- Tại sao không phải Tâm hoặc Phúc hoặc Trọng mà lại là tôi?
- Chính tớ mới cần hỏi vì sao cậu hỏi điều đó?... Thật quá bạc bẽo với quan hệ của chúng ta.
- Anh tin cậy ở tôi?
- Điều đó có lâu rồi.
- Xưa nay, tôi chưa làm việc gì ngoài ý muốn của anh và khiến anh phải phiền lòng. Xưa nay tôi vẫn là cánh tay phải, là kẻ tâm phúc của anh như người ta thường bàn tán… Bởi thế, lần nay anh mới giao cho tôi một công việc trọng đại và liên quan mật thiết tới bản thân.
- Không, không phải với bản thân tôi mà với một người bạn mà tôi coi như chính bản thân tôi… Thôi thì, nói đằng nào cũng được… Nhưng chính thực là…
Tổng biên tập đáp, nhìn Nguyên e dè. Thái đọ của anh hôm nay có cái gì đó khác biệt khiến ông khó đoán biết. Nguyên ngừng rít thuốc, anh giơ mẩu thuốc đang cháy, đăm đăm nhìn vào đốm lửa phủ tàn tro đang ngún dần điếu thuốc, dường như muốn tìm trong đó một ý tưởng chưa hình thành. Hồi lâu, anh ngẩng lên, cất tiếng chậm rãi:
- Cảm ơn lòng tin cậy của anh. Nhưng tôi muốn hỏi anh một điều: Có bao giờ anh nghĩ rằng lòng tin cậy của cá nhân này đem lại cho ta những giá trị và lòng tin cậy của cá nhân khác thiêu đốt danh dự đẩy ta xuống tình thế của kẻ nô bộc hay không?
Tổng biên tập cớp mắt, rõ ràng ông bối rối. Nhưng tuổi tác và sự từng trải giúp ông tinh không. Ông lắc đầu, mỉm cười vui vẻ:
- Này, cậu bắt đầu rắc rối rồi đấy nhé. Khi tinh thần không minh mẫn người ta thường đẻ ra những ý nghĩ bất thường. Phải chăng vì cậu sống một mình lâu quá?
Nguyên không cười, anh nói:
- Không có nguyên nhân tâm sinh lý ở đây. Và cũng không phải là một câu chuyện bông phèng.
Tổng biên tập không cười nữa. Mặt nóng lên, ông khó chịu rút khăn tay lau trán dù chưa có giọt mồ hôi nào. Rồi, ông im lặng chờ đợi. Nguyên tiếp:
- Anh có biết gì về tay Hoà ấy, người bạn cũ của anh?
- Bạn mình - Tổng biên tập đáp - Hồi chúng tớ còn trai trẻ, ở trên Sơn La ấy…
- Tôi xin phép được ngắt lời anh. Tôi muốn hỏi những sự kiện quan trọng về nhân vật ấy?
Tổng biên tập chớp mắt, làn da mỡ màng trên mi lại khẽ rung rung. Cố trấn áp nỗi ngượng ngùng, ông cúi xuống gạt tàn thuốc. Nguyên không nhìn ông, anh nói giọng đều đều:
- Tôi chắc rằng anh không thể không biết cái tội ác ghê tởm ấy. Nếu như nó xảy ra ở một kẻ xa lạ: gã X hoặc tên Y chẳng hạn, anh thấy thế nào?...
Tổng biên tập nhăn mặt đáp:
- Tất nhiên, đó là một lỗi lầm ghê gớm, khủng khiếp.
- Nhưng vì nó đã xảy ra với người bạn của anh, nên anh không thấy ghê tởm và khủng khiếp nữa. Vì lẽ đó, tới bây giờ anh mới yêu cầu tôi phải bênh vực hắn ta?
Tổng biên tập thở dài hạ giọng:
- Cậu tính tôi có thể làm gì khác được lúc này?... Sống ở đời, không ai có thể cạn tình cạn nghĩa, nhất là với những người thân từ thuở hàn vi. Tình nghĩa nhiều khi cũng trói buộc và làm khó dễ cho con người. Nhưng nếu hoàn toàn xoá bỏ, nó sẽ gây cho ta một nỗi day dứt, băn khoăn không sao giải thích được. Vả chăng, có những nguyên lý tình cảm cũ kĩ nhưng luôn luôn chính xác. Các cụ đã nói rồi: yêu nhau …. Cũng tròn, ghét nhau đến quả bồ hòn cũng vuông…
Nguyên cười:
- Ngày xưa, tôi nghe bố tôi kể chuyện làng cụ khá nhiều: Nào họ hàng nội ngoại, nào chuyện cưới xin, tăng gia, chống cướp, mưu sinh, chống thuế… Cụ kể rằng: Trong cả tổng, người làng tôi nổi tiếng về tinh thần hiệp hội: Hễ có một người trong làng bị kẻ khác xử đánh, bất kể phải trái, cả làng xông vào bênh. Có lần, một tên lưu manh ở làng tôi sang thôn bên cạnh cướp trâu của một ông già mới lập trại. Ông lão biết, cầm đòn gánh rượt đuổi theo. Tên ăn cướp kêu la cầu cứu, người làng tôi đi chợ phiên và cấy lúa thuê quanh đấy nghe được. Họ ập tới, cứ đòn càn và gộc tre đánh ông lão gẫy xương lưng, lòi một bên mắt ra… Hồi ấy, trí não non nớt của tôi đã ghi nhận câu chuyện như một giấc mơ khủng khiếp và quái đản. Tôi hồ nghi. Nhưng đến hôm nay, tôi hoàn toàn tin đó là sự thật.
Nguyên dừng lời. Điếu thuốc đã cháy hết. Anh ném mẩu đót lọc vào chiếc bình gạt tàn, nói tiếp:
- Ở một nước có nền kinh tế thấp kém, óc bè phái địa phương là sản phẩm tất nhiên. Nhưng với anh, tôi hơi lạ. Ít nhiều, chúng ta cũng là trí thức. Và với công tác này…
Tổng biên tập thở dài luồn những ngón tay vào tóc:
- Cậu hãy đặt tình cảnh của cậu vào mình: Một người bạn đã chia sẽ những ngày gian nan nhất. Viên thuốc lào cũng chia và củ sắn nướng cũng chia. Tố Hữu có câu thơ hay lắm về cảnh ấy… Tớ nhớ ra rồi:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng…
Cái nghĩa lớn của bậc quân tử là không được quên thuở hàn vi. Năm bốn chín, mùa đông cắt ruột. Hồi ấy, tớ sốt rét trọc cả đầu, nhìn thấy cơm thèm rỏ dãi mà suốt tháng chỉ có cháo ngô với sắn luộc. Tay Hoà đã chim được một cô hàng xén chuyên ra vào vùng địch hậu. Cô nàng đã đem lên hàng tay nải thuốc tây, rồi bánh quy hảo hạng, rồi sữa con chim… Không có cô ta cung phụng, chắc mình xanh cỏ lâu rồi… Chúng tớ đã sống như hai ông hoàng giữa rừng núi, chao ơi i i…
Ông lại buông thêm một tiếng thở dài:
- Khốn khổ thật… Chẳng hiểu vì sao cậu ấy lại giở chứng ra như thế?... Đã một lần trước rồi…
Nguyên mỉm cười:
- Lần trước, chắc hẳn anh đã góp một tay trong đám người cứu gỡ án tù cho hắn. Và lần này, chắc anh sẽ đưa hắn từ một xí nghiệp vận tải sang làm giám đốc nông trường quốc doanh. Và sau đó, nếu hắn mắc sai lầm lần thứ ba, hắn sẽ được chuyển sang làm chủ nhiệm một công ty chăn nuôi gia súc?...
Tổng biên tập quay đi, lảng tránh cái nhìn giễu cợt của Nguyên. Nguyên thoáng thương hại ông, nhưng anh tiếp tục nói:
- Tôi cũng hiểu rằng con người cần phải có tình cảm. Việc anh thương nhớ quá khứ của anh và hắn là chuyện bình thường, nhưng việc anh gỡ án tù cho hắn vì tình thương ấy là chuyện bất thường nếu không muốn nói rằng phản cách mạng. Chính nhờ lòng thương của các anh mà hắn tiếp tục gây tội ác với mười bảy người con gái nữa tiếp theo đứa bé chín tuổi kia. Nếu lập đẳng thức, người ta có thể đặt dấu bằng giữa tình thương của các anh với hắn và tội ác của các anh với mười tám nhân mạng kia… Không, đó không phải là tình thương thực sự. Đó chính thực là biểu hiện của lòng vị kỉ, lối ve vuốt lòng tự ái của bản thân một cách màu mè, một cách tự tán tụng quyền uy cá nhân dưới chiêu thức lòng nhân nghĩa, thói tàn bạo và coi khinh quần chúng được bọc nhung lụa, được trát phấn tô son…
Nguyên định ngừng lời, theo thói quen tự kìm chế của anh. Nhưng những ý tưởng sục sôi trong óc não đã tuôn ra ngoài như thác lũ:
- Ngạn ngữ xưa nói: Nhân đạo với chó sói là tàn ác với bầy cừu… Có phải một phát hiện mới mẻ đâu? Nhưng điều đáng kinh sợ nhất là người ta hiểu biết một đắng mà làm một nẻo. Người ta nhìn nhận được chân lý nhưng lại hành động theo những thúc hối riêng tư. Phải chăng các anh cố gắng o bế, cứu gỡ cho tay Hoà chỉ vì mối thâm tình và các lưu niệm trong quá khứ?... Không, tôi không tin rằng, kẻ đã dám xây gần như trong cùng một lúc năm toàn nhà đồ sộ không phải kẻ ngây dại trả những món nợ ân nghĩa bằng nước bọt suông.
Tổng biên tập nhìn Nguyên, đáp gần như thầm thì:
- Với những người khác, điều đó có. Nhưng với mình thì không… Nếu có, cũng chỉ là tượng trưng, hoàn toàn không đáng kể… xin cậu tin mình…
Và Nguyên trong cơn bột phát những dồn nén, không nhìn người đối diện, tiếp tục nói như đối thoại với bản thân:
- Con người có thể quen với sự nhẫn nhịn, nhưng con người cũng có khả năng xoá bỏ sự nhẫn nhịn ấy để đấu tranh. Xưa nay, tôi được anh tin cậy vì tôi hoàn toàn làm những điều anh muốn. Nhưng điều ấy, tôi đã đặt ngòai sự quan tâm thầm kín của tôi vì coi chúng như những phương tiện sống mà ta bắt buộc phải chấp thuận. Giống như người ta cần chiếc xe để vượt qua một quãng đường, cần tới chiếc gầu để múc nước dưới giếng sâu… Bây giờ, tôi biết sự chấp thuận ấy đẩy tôi vào tình thế kẻ nô bộc. Lòng tin cậy của anh tước bỏ danh dự cá nhân tôi. Lần này, tôi từ chối. Hơn sự từ chối đó, tôi và một cán bộ pháp lý trẻ bên toà án đã tập hợp tư liệu về hai vụ án cách nhau chín năm của tên Hoà. Chúng tôi cần phải công bố ý kiến của chúng tôi…
Nguyên đứng lên, không bắt tay tổng biên tập, bỏ ra ngoài. Anh không nhìn gương mặt sửng sốt của người lãnh đạo mình, nhưng anh biết rằng ông ta đang hoang mang và ngờ vực. Còn anh, run lên vì mặc cảm buồn bã, anh bước qua khuon viên trước cửa toà báo, rẽ ra phố và đi như kẻ mộng du… Anh vừa thoát xác, anh vừa trồi lên ngọn triều của sự thoả hiệp hèn mọn, ngọn triều hung bạo đã nhấn chìm biết bao con người trong cuộc tồn sinh. Lẽ ra, anh có thể nói những lời này từ năm, mười năm trước?... Lẽ ra, đó chỉ là một trạng thái ứng xử tất nhiên của người có ý thức đầy đủ về nhân cách của mình?... Vậy mà đã phải có một khoảng thời gian dài chờ đợi cho hoa nở, cho trái chín, cho cái cần có của con người đủ cứng cáp trên đôi vai họ… Trời ơi, để tìm được chính con người mình, đau đớn làm sao?...
Đêm yên tĩnh. Ánh đèn mờ nhạt rọi lên những dây vạn niên thanh khiến chúng trở nên sóng động và bí ẩn. Trần Phương đăm đăm nhìn đám dây leo, cố lúc tìm một hình ảnh mà chính ông cũng hình dung được những đường nét cong queo, mờ ảo kia sao giống lối đi của đời người? Chúng cũng đường đột, mù mờ không dò tìm được trước… Đã tròn tháng nay ông không gặp Linh.
Một vườn hoa táo trắng. Tràn trề hoa trắng… Phía sau đó là Linh. Người đàn bà ấy đã thức tỉnh trong ông tình yêu đã thui chột từ cuộc hôn nhân vội vã hơn hai mươi năm trước và đã xoá bỏ thói quen giả dối chế ngự ông rất lâu trong các cuộc phiêu lưu tình ái với đám đàn bà háo danh – cái thói quen của người làm tình trước khi yêu và thích nói những lời đường mật không thẹn thùng. Cái chất học đường ở trong Linh khiến ông si mê và trọng nể cô thật sự. Tính khiêm nhường và trung thực của cô buộc ông hoà nhập vào nó… Phải, ông đã từng muốn quỳ dưới chân cô để dâng tặng tuổi trẻ cùng những vườn táo trắng. Ông đã từng cuồng dại vì một cuộc hò hẹn, vì một khoảnh khắc đợi chờ, hệt như chàng trai mười tám tuổi.
Trần Phương xoay người, ông thấy mình quá trống trải. Cái trí nhớ tinh xảo và cực kì chính xác giờ đây đương nồng thắm với Linh, tấm thân tươi trẻ và quyến rũ, mái tóc mềm óng ả và ánh sáng êm dịu diữa hai làn mi tựa ánh nắng lọc qua vòm cây xanh ngắt. Ông thấy vết chàm bằng hạt ngô phía sau bả vai trái và mụn ruồi nhỏ nơi cườm tay thon thả của cô. Ông ngửi thấy mùi xà phòng Hoa Táo trong tóc cô và tưởng như nhìn được những giọt mồ hôi li ti đọng trên cánh mũi cô những ngày oi nóng… Tất thảy dày vò ông điên dại. Trần Phương tự giật chòm tóc hai bên thái dương cho thần kinh đỡ căng thẳng. Ông tự nhủ:
- Thôi đi, quên đi những chuyện vặt của đời người. Tình yêu, đó chỉ là bữa ăn thêm đối với người đàn ông.
Đó là tiếng nói của trí khôn, nhưng trái tim ông vẫn không ngừng gào thét. Tiếng gào của nó lấn át tiếng nói tỉnh táo kia. Máu huyết ông đập bừng bừng trong mỗi thớ thịt, trong từng tế bào óc não. Cơn cào cấu dấy lên những hồi ức yêu đương mỗi giờ khắc mỗi tăng trưởng và khiến ông quằn quại như cây lau trong bão. Và không kìm mình được, ông đến trường tìm Linh.
Ông nói với ông già gác trường.
- Bác làm ơn cho tôi gặp cô giáo Linh.
Ông thường trực nhìn nhạc sĩ, ngờ ngợ như a đó đã từng quen. Ông cố lục tìm trong trí nhớ hình ảnh người đàn ông cao lớn có bộ râu quai nón tuyệt đẹp. Nhưng ông đành thất vọng vì bữa nay Trần Phương không mặc sơmi carô nâu mà bận chiếc áo da ngoại đắt tiền, kiểu áo trẻ trung của các chàng trai đang thời săn đuổi tình ái. Ông già đáp:
- Xin mời bác vào.
Nhạc sĩ đáp:
- Bác giúp cho, tôi có việc phải đi ngay. Chỉ cần nhắn cô Linh tin tức gia đình.
- Vâng.
Ông già gật đầu, vừa đưa mắt sục tìm đám học trò nối đuôi nhau qua cửa như những hành khách hàng không nối đuôi nhau qua trạm kiểm soát của hải quan.
- Này, này… Vân Thanh lại bác nhờ tí việc.
Ông gọi giật giọng. Một cô bé mặc măngtô đỏ, khuy đen quay lại.
- Bác bảo gì cháu ạ?
- Gọi cô giáo Linh ra cổng có người nhắn tin nhà.
Con bé đưa cặp mắt đen hạt nhãn liếc qua Trần Phương, nhoẻn cười rồi quay lưng chạy vào sân. Ông già thường trực nói với theo:
- Nhanh lên nhé…
Giọng ông thật oai vệ, rõ ràng tụi học trò kính nể và sợ hãi ông. Cô bé bận măng tô đỏ đã vượt qua sân, đi về phía khu nhà hai tầng có kẻ chữ: Khu C, rồi khuất lấp sau một cánh cửa.
Chừng năm phút sau, Linh đi ra. Trần Phương bất giác run rẩy:
- Bác ơi, bác làm ơn nói giùm cô Linh sang bên kia – Ông giơ tay chỉ - Tôi gửi xe bên đó.
Nói đoạn, không chờ ông già đáp lời, nhạc sĩ hối hả băng qua đường, ông dựng lại chiếc xe, nhìn cô chờ đợi. Cô đã tới phòng thường trực nghe ông già gác cổng nói gì đó rồi ngoài nhìn ra ngoài đường. Cô sững lại giây lát, rồi thong thả bước sang. Tim Trần Phương đập lồng lên trong ngực. Nó đập dồn mãi cho tới lúc cô đứng trước mặt ông, gương mặt cô chỉ còn cách mặt ông vài gang tay và những món tóc nhỏ bên vai cô, gió đánh vương sang tay áo rét của ông:
- Em…
Ông cất tiếng kêu nghẹn ngào. Một cơn rung động lan truyền khắp thân thể người đàn bà. Mặt cô lạnh lẽo, nhưng ánh sáng trong đôi mắt tối sầm đi. Lúc ấy, tình yêu thiêu đốt Trần Phương khiến ông gần như không còn làm chủ được mình. Ông giơ tay định ôm choàng lấy cô nhưng sực nhớ tình cảnh hiện tại, ông lại rụt tay về, buông thõng xuống đu đưa như khúc gỗ:
- Linh…
Cô ngước nhìn ông, đáp với giọng khàn khàn xa lạ:
- Đi đi thôi, đựng đây chẳng tiện chút nào…
Cô quay lưng, đi dọc hè phố, và ông dắt xe lẽo đẽo theo sau. Họ im lặng, và cứ im lặng như thế đi tới cuối con đường. Nơi đây là ngoại ô phía đông của thành phố. Các dãy nhà trở nên lộn xộn, đỏm dáng. Các quán ăn dựng san sát bên nhau để phục vụ các đoàn xe vận tải, quán nào quán ấy tuềnh toàng bụi bám như mọi quán ăn thường gặp ở tỉnh lỵ. Ở ngã ba, từng đoàn xe chở cát, chở vôi đang đỗ và cánh lái xe ăn nhậu ầm ĩ trong các quán gần kề.
- Em cho anh nói một lời.
Sau rốt, Trần Phương cất tiếng nài nỉ Linh, khi họ dừng lại trước tấm biển: Chú ý tốc độ. Người đàn bà không quay lại, đáp:
- Không có gì để nói nữa.
Nhưng cô vẫn đứng yên, nhìn cánh đồng ngoại ô trải màu xanh yếu mềm của lúa non tới tận chân trời. Gió thổi căn cắt. Mọi vật như bé nhỏ và côi cút trong cơn băng giá: vài quán cắt tóc treo biển gỗ, dăm ba hàng bán nước chè, mấy ngôi nhà cũ, ngói xạm đen và những dây bìm bìm nặng trĩu bụi bám… Xa hơn nữa, một hàng cây cong cong nghiêng xuống trên đường… Người đàn bà bỗng thấy hết nỗi cô đơn của mình trong khung cảnh ấy. Cô đã lìa khỏi sợi dây an toàn của đời sống, giờ đây đứng chơ vơ trên mặt đất, và con đường dẫn tới hạnh phúc đã chìm trong vực thẳm mù sương.
- Anh biết anh đã cư xử như một tên đê mạt, anh không còn xứng đáng nhìn em, nhưng anh xin em cho anh nói một lời…
Ông ta nói những gì thế nhỉ?... Những sợi dây an toàn đã bị cắt lìa. Giờ đây, chỉ có ông ta còn đứng bên cạnh cô trên bờ vực…
- Anh biết anh không đủ tư cách để nhìn vào mặt em, nhưng dù sao, em cũng cho anh được nói một lời…
Ông ta vẫn nói, vẫn van nài khổ sở. Kẻ nào biết được tội lỗi của y, y đã xoá hết nửa phần tội lỗi, có phải câu này trong tử điển châm ngôn không?... Ánh mắt ông ta rối loạn và đau đớn quá. Xét cho cùng, ông ta cũng chẳng sung sướng gì…
Linh không trả lời, tiếp tục bước. Trần Phương lẽo đẽo dắt xe theo. Chiếc xe quá nặng so với quãng đường vừa đi, người đàn ông thở hào hển. Tự dưng, Linh mủi lòng, cô rẽ vào quán nước cuối phố. Từ đây không còn nhà nữa, chỉ còn đường trơ trụi với cánh đồng hai bên. Nhạc sĩ dừng xe trước quán, e dè bước theo Linh. Mọi cử chỉ của ông đều chứa đựng nỗi tủi hổ của một kẻ hối lỗi.
Bà lão chủ quán rót nước vào hai chiếc chén cáu những cặn chè đặt trước mặt họ rồi co chân lên xuýt xoa thọc hai tay vào nách, gà gật, nhắm mắt lại. Trần Phương chống khuỷu tay lên mặt bàn nhớp nháp ngước mắt nhìn Linh:
- Em có thể sỉ nhục anh, chửi rủa anh, căm thù anh… Em có thể nhổ vào mặt anh vì khinh bỉ… Em có quyền hành đồng như thế.
Linh im lặng.
Ông hạ giọng gần như thì thầm:
- Nhưng anh biết em sẽ không bao giờ làm thế, và vì vậy anh càng bị dày vò ghê gớm hơn…
Mái tóc rũ xuống trán, nhạc sĩ lùa những ngón tay chải ngược lên. Mắt ông u ám và những thớ thịt trên gò má ông khẽ giật như người mắc chứng kinh phong. Một nỗi tuyệt vọng nặng nề, chìm đắm khiến gương mặt ông trở nên yếu mềm và bí ẩn như gương mặt một tu sĩ.
- Em đã cho anh được nói… Giờ xin em kết tội anh…
Trần Phương cúi đầu, mái tóc xoã xuống. Gương mặt ông khuất lấp sau mái tóc đen nhánh, tuyệt vọng. Những ngón tay mềm mại của ông khiến Linh hồi tưởng những ve vuốt êm ái trong kí ức cô: - Giữa kẻ phản bội lý tưởng chung và kẻ phản bội cá nhân mình, mình sẽ tha thứ cho ai?.. Giữa một kẻ phạm tội có ý thức và một người phạm tội vì hoàn cảnh trói buộc, ai đáng thương và ai đáng kết tội… Dẫu sao, Trần Phương cũng là thần tượng của đám thanh niên đương đại. Vĩ nhân nào cũng có khuyết tật và người ta phải tha thứ cho các khuyết tật ấy bởi những phẩm chất lớn lao hơn…
Trời rét. Cánh đồng trải nỗi hiu quạnh tới chân trời. Hàng cây cong cong nghiêng xuống trên con đường côi cút. Thi thoảng, một đoàn xe tải nhoáng qua.
Linh hiểu rằng, ngoại trừ những lý lẽ rạch ròi của lý trí, tiếng kêu mù loà của trái tim cũng sẽ buộc cô tha thứ cho Trần Phưong và trở lại với ông. Cô rơi vào vực thẳm mù sương chỉ duy nhất sợi dây leo mỏng manh là tình yêu của ông. Người đàn bà lại trào nước mắt. Cô lặng lẽ lau những giọt lệ nóng bỏng trước khi chúng rơi xuống.
Chủ nhật, Trần Phương lại chờ cô ở ngã ba đường vứi tất cả nỗi bồn chồn sôi sục của một người đàn ông đang ở tuổi hồi xuân.
Nguyên đã đứng gần một giờ đồng hồ. Trời mưa phùn, những đám lá trúc dính bết xuống sân. Gió thổi mãi, không ngừng. Anh đốt hết điếu thuốc này tới điếu thuốc kia. Những giọt mưa từ vòm lá trúc nhỏ tí tách. Thi thoảng, một đợt gió lùa vào phòng buốt như kim châm. Ông già thường trực ngồi thu lu trên ghế, hai tay ủ trong vạt áo bông:
- Trời đất này chỉ trẻ con là sướng. Chui vào chăn bông ngủ suốt ngày cũng chẳng ai kêu ca.
- Vâng – Nguyên cười – Nhưng những đứa trẻ thường lại ao ước được trở thành người có chủ quyền. Hồi bé cháu vãn nghĩ: Người lớn sướng ghế, muốn gì được nấy…
- Hà hà… Chuyện đời cũng vòng vo thật.
Ông lão xuýt xoa rồi bảo Nguyên:
- Sao không về nhà mà ngồi? Trời đất này tội gì anh đứng đây cho khổ?...
- Cháu có việc cần bác ạ.
Nguyên đáp. Anh liếc đồng hồ và hỏi:
- Bác có chắc rằng cuộc họp sẽ kết thúc vào sáng nay không?
Ông lão gật đầu:
- Chắc. Mới có mười giờ hai mươi. Họp kiểu này ít nhất cũng mười một rưỡi mới kết thúc. Tôi đã bảo rồi, anh đến sớm làm gì?
- Cháu chờ cũng được.
Nguyên trả lời. Sáng nay, anh đã dỗ dành bé Hương Ly cho nó chịu ở nhà với ông bà nội. Xa bố lâu ngày, con bé cứ quấn chặt lấy anh. Suốt đêm, nó ôm ghì lấy cô Nguyên mà ngủ. Đôi lúc, nó lùa tay vào ngực anh quờ quạng:
- Mẹ Linh ơi, cho Hương Ly sờ ti một tí nào.
Nguyên gỡ tay con, những mũi gai vô hình cào xé tìm gan. Trước đây, cũng trên chiếc giường này, đứa con nằm giữa cặp vợ chồng trẻ. Nó vừa tận hưởng trọn vẹn sự chiều chuộng của hai người, vừa ban phát niềm vui cho họ. Khi tiếng cười của nó cất lên có hai giọng cười khác hoà điệu. Mỗi cử chỉ ngộ nghĩnh của nó, có hai cặp mắt rõi nhìn. Giờ đây, nó luôn luôn chịu đựng cảnh sống thiếu hụt, què quặt trong tình cảm. Giờ đây… giờ đây…Nguyên không ngủ được, anh bật đèn ngồi vào bàn đọc sách. Nhưng cách con chữ vô hồn giống nư những dấu hiệu tối tăm, không ánh sáng, nhảy nhót trước mắt anh. Khi Nguyên gấp sách, anhlại thấy Linh đi lại trong phòng. Cốc chén kêu lanh canh dưới tay cô, những viên đá hoa bóng lộn in dáng hình cô, các tấm cửa kính và không gian rung lên trong những chuỗi cười lanh lảnh vô tư lự... Và cô quay lại nhìn anh, đôi mắt nâu lộng lẫy đọng đầy ánh sáng của bầu trời… Linh có đẹp đến thế hay không. Nhiều lần Nguyên tự hỏi. Anh đã gặp ngàn vạn người con gái và trong số đó đâu có ít người xinh đẹp. Những diễn viên lộng lẫy diêm dúa, những phụ nữ làm công tác nghiên cứu khoa học nhạy cảm và thông minh tới mức ngạc nhiên, những thiếu nữ lao động mạnh khoẻ hồn nhiên như trái chín… Những vẻ đẹp khác biệt nhau, anh đã từng nhận biết. Nhưng anh vẫn chỉ yêu cô. Phải chăng dòng máu chảy trong anh là dòng máu của một tín đồ trung thành với tôn giáo? Phải chăng, trong đáy sâu tâm hồn anh có một tên nô lệ bị trói chặt vào cây cột đá vĩnh cửu của nếp cảm xúc và niềm ngưỡng vọng hình thành từ buổi ban đầu?... Ngần ấy sự dò tìm không đủ cho anh quên được Linh và gia nhập vào một tình yêu khác? Từ ngày rời bỏ căn phòng của cô Ngọc Minh trở về, tình yêu cũ sống dậy với sức mạnh gấp trăm lần. Cuộc chung đụng ngắn ngủi kia giống như một lầ mạo hiểm trên mặt biển làm cho đứa con vùng đồng bằng bám chặt hơn vào mảnh đất liền. Anh đã không nguôi nhớ Linh, mong mỏi ngày cô trở lại với mình… Cho tới buổi chiều Kim Anh đưa bé Hương Ly về và kể cho anh nghe mọi chuyện…
Ông già thường trực thấy Nguyên đi lại mãi liền bảo;
- Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi.
Nguyên lắc đầu:
- Cảm ơn bác, cháu đứng cho đỡ rét.
Anh rút điếu thuốc khác, châm lửa. Mấy đầu ngón tay tê cứng lại. Từ lúc đưa con gái về gửi ông bà nội tới giờ, Nguyên đã hút gần hết một bao thuốc. Miệng đắng, anh không còn thấy cảm giác nào khác hơn cảm giác tê dại đang làm đầu lưỡi anh cứng ngắc. Tuy nhiên óc não anh lại tỉnh. Thậm chí nó lạnh lẽo, bình thản hơn mức độ anh mong. Nguyên rít được nửa điếu thuốc, có tiếng xe máy vọng tới. Rồi Trọng xuất hiện trên chiếc xe máy quen thuộc với tấm nilông choàng qua hai vai. Nước mưa chảy thành dòng từ tóc anh nhỏ xuống:
- Thế nào, sao lâu vậy?
Trọng cất tiếng hỏi.
- Chưa tan họp.
Nguyên trả lời.
- Có rét lắm không? Hay ta vào quán kiếm chén càphê nóng đã?
Trọng nói.
- Thôi – Nguên xua tay chối từ - Anh đi đi, mọi chuyện để mặc tôi. Chìa khoá đâu?
- Khoá đây.
Trọng móc túi áo ngực lấy chùm chìa khoá buộc cẩn thận vào chiếc mỏ neo nhựa đưa cho Nguyên: Các cháu đi hết rồi, còn cô Cầm hết chiều mới về. Giờ tôi đến toà báo.
- Như vậy là ổn – Nguyên đáp - Cảm ơn cậu, cứ đi đi và đừng lo ngại gì cho tôi.
Anh chàng hộ pháp ngước đôi mắt cận nhìn bạn với nỗi ái ngại rồi phóng xe máy đi. Nguyên ngồi xuống ghế. Tiếp tục chờ đợi. Ba mươi lăm phút sau, cuộc họp kết thúc. Trần Phương cùng một nhóm người từ Hội nhạc sĩ bước ra. Họ vội vã vượt qua mảnh sân ướt lép nhép tới nhà để xe. Nguyên đi khỏi phòng thường trực. Anh đi rất nhanh nên đã bước vào nhà để xe trước Trần Phương:
- Chào anh.
Nguyên cất tiếng:
- Chắc hẳn anh biết tôi?
Trần Phương ngẩng lên, một thoáng run rẩy chạy qua đôi mắt đen.
- A, a… - Ông thốt tiếng kêu bối rối – A, vâng, chào anh.
Nguyên nói:
- Chúng ta có chuyện cần trao đổi.
Nhạc sĩ cúi xuống mở khoá xe:
- Vâng, vâng… nhưng rất tiếc hôm nay tôi bận. Anh để khi khác nhé.
- Không, anh đủ thời gian để nói chuyện ngày hôm nay. Và tôi yêu cầu anh ngay bây giờ.
Ánh mắt, vẻ mặt Nguyên đủ cho Trần Phương hiểu rằng ông không thể chối từ. Nhạc sĩ đứng ngẩn ra, chùm khoá xe còn cầm trong tay. Nguyên nói tiếp, giọng bình thản nhưng hàm chứa sức mạnh:
- Tốt nhất, anh hãy cư xử sao cho tôi có thể nói với anh những lời êm thấm.
Trần Phương đưa mắt nhìn quanh. Các nhạc sĩ khác đã dắt xe khỏi nhà chứa, hối hả đạp ra đường. Chiếc Moscovic trắng lướt qua sân. Không có ai chứng kiến cuộc gặp gỡ không mấy vui vẻ của ông. Chồng Phương Linh đang nhìn ông chờ đợi. Với gương mặt lạnh lùng và điếu thuốc kẹp giữa hai ngón tay, người đàn ông đó chứng tỏ rằng anh có thể đợi ông cả một thế kỷ ngay trong gian nhà xhứa xe này và sẽ buộc ông phải đối thoại. Trong thâm tâm, Trần Phương buông tiếng tặc lưỡi: “Thôi được, dù sao cũng chẳng ai biết đến chuyện này… May mắn là cuộc họp quá dài và thời tiết tồi tệ đến mức không ai còn muốn nhìn ngó đi đâu ngoài mong muốn về nhà thật nhanh…”
Ông bảo Nguyên:
- Được. Ta nói chuyện ở đâu bây giờ?... Tôi có một quán cà phê quen ở gần đây.
- Không cần – Nguyên đáp – Cách đây vài trăm mét sẽ có một căn phòng vắng vẻ thuận tiện cho cả anh lẫn tôi.
Nỗi sợ hãi vụt lướt qua mắt Trần Phương.
Nguyên mỉm cười:
- Không có gì nguy hiểm đâu, tôi không phải là thám tử.
Giọng nói anh giễu cợt pha lẫn niềm khinh thị, Nguyên đã biết nhiều người đàn ông ngoại tình, nhưng chưa ai nhát nhúa như ông nhạc sĩ danh tiếng này. Có lẽ, nếu không vì sự trói buộc của số phận, sẽ chẳng bao giờ anh tiếp xúc với Trần Phương và biết rõ những tì vết của ông ta.
- Xin mời anh đi theo tôi.
Nguyên đạp xe trước, Trần Phương cho xe máy nổ chầm chậm đi theo. Nhà trọng chỉ cách đó chừng sáu trăm mét. Chỉ vài phút sau, họ đã lên hè. Nguyên rút khóa, mở ổ khóa đồng trước cửa và bảo Trần Phương.
- Anh có thể dựng xe tới sát khuôn cửa, gat chân chống. Rồi ông xoa hai bàn tay vì lạnh. Nguyên nói:
- Mời anh vào.
Nói xong, anh vào trước kéo ghế mời khách. Trần Phương đưa mắt liếc qua gian nhà. Ông thấy một khung cảnh bình thường, yên ả như nhiều khung cảnh của đời sống dư dật. Buồng thoáng và sạch, đồ đạc được lau chùi không vương hạt bụi, giường kiểu mới, tủ đứng, tủ bò, các loại tách chén óng ánh và một lũ búp bê ngồi trước gương. Trọng đã đặt sẵn phin pha cà phê, bình đường và phích nước sôi lên bàn. Nguyên pha càphê, khuấy đường thong thả và thận trọng. Trong khoảng thời gian đó anh thấy Trần Phương dao động, giữa nỗi sợ hãi và sự sĩ diện, giữa những phỏng đoán mù mờ và các ý nghĩ buông thả… dường như có một làn sóng u ám lợn gợn trên gương mặt tài tử của ông ta. Ông ta cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng vô cùng lo âu, nhớn nhác.
“Ra con người lẫy lừng này cũng chỉ đến thế thôi – Anh nghĩ – Xưa nay, Trần Phương vẫn là thần tượng của đám thanh niên yêu nghệ thuật. Quanh ông ta, bao giờ cũng có những vệ tinh bay lượn. Đám người ấy đồn thổi tài ngăng của Trần Phương, về âm nhạc và hội hoạ… Không ai có thể chinh phục công chúng trẻ tuổi giỏi hơn ông, nếu ông xuất hiện trước họ. Khi ông ngồi hàng ghế danh dự đầu tiên, nét mặt ông lộ rõ vẻ chán chường, mệt mỏi và những nếp nhăn cao quý hằn trên vầng trán rộng. Lúc ông ngồi ở hàng ghế dưới hoặc trong góc tối nào đó, đôi mắt sáng ẩm ướt như hai vì sao sẽ khuất lấp dưới mái tóc đen, và gương mặt ông toát lên sắc thái ưu tư kiên nghị của bậc sĩ nhân suốt đời quên mình vì mối lo thiên hạ. Thành ra, lúc ông đắc thời, người ta nghĩ rằng ông là kẻ sĩ ngán ngẩm công danh nhưng vì nghĩa cả phải ghé vai gánh vác việc nước. Lúc ông thất thế, người ta lại thường tiếc bùi ngùi, và ngờ rằng ông là vị Thánh tử vì nạn.
“Bây giờ, vĩ nhân bằng xương bằng thịt đó ngồi đây”…
Nguyên nghĩ, anh đặt tách càphê trước mặt nhạc sĩ:
- Xin mời anh uống cho nóng.
Nguyên uống cạn tách càphê nhanh chóng, rồi ủ chiếc chén còn nóg giữa hai bàn tay, anh chờ đợi Trần Phương. Khi ông ta đặt chiếc tách không xuống bàn, anh bắt đầu nói:
- Tôi không mong muốn có cuộc trò chuyện này, chắc anh cũng thế. Vì chúng ta không thuộc loại người sẵn sàng giơ mặt ra để thiên hạ ngó nhìn và đàm tiếu.
- Vâng, vâng, tôi cũng nghĩ thế… Trần Phương hấp tấp đáp: - xưa nay, tôi chỉ nghe tên mà chưa biết mặt anh. Có lẽ lỗi lầm chính là ở đây…
“Ông ta quá vội vã, và chưa chi đã muốn thanh minh. Thật kỳ lạ”. Nguyên nghĩ, nhưng anh im lặng nhìn Trần Phương và lắng nghe ông ta nói tiếp:
- Tôi đã nghe Linh mô tả đời sống chung của anh với cô ấy. Quả thực là với những lời lẽ của Linh, tôi đã hiểu rằng Linh cũng bất hạnh như tôi. – Ông dừng lại, nhăn mặt - Thế đây, hai chúng tôi đã tìm thấy sự đồng điệu của những kẻ mất mát, thua thiệt, và chúng tôi không thể nào… Anh là trí thức, anh hiểu rằng con người luôn luôn có khát vọng sẻ chia những tâm tình sâu kín. Bởi vì, nếu không có ai gửi gắm, nỗi đau khổ sẽ trở thành một gánh nặng khó chịu đựng nổi trong cuộc đời.
Những tiếng nói của Trần Phương gõ nhịp vào tai Nguyên. Anh vẫn nghe nhưng mắt lo đãng nhìn những ngón tay của Trần Phương đang máy động trên bàn. Những ngón tay thuôn dài, không ám khói thuốc, không có chai và các vết xước vì lao động nặng, với làn da nâu nâu xam xám và lớp lông đen dài… Nguyên vụt nghĩ: Những ngón tay kia đã thoả thuê ve vuốt Linh… Ngay tức khắc, anh hình dung làn da mịn màng của vợ, khuôn ngực rắn chắc và vòng cổ tròn đầy sức sống. Một lưỡi gơm dài xuyên qua anh, chọc thủng các thớ thit khiến máu anh nhỏ ròng ròng cuống ngang hông…
Trong lúc ấy, Trần Phương quan sát gương mặt Nguyên. Không thấy một phản ứng nào trên đó, ngoài sự nhẫn nhịn đã hằn thành nếp:
“Anh ta là loại người có thể chịu nỗi đau đớn và cảnh đơn chiếc năm năm, mười năm, mười lăm năm hoặc tới chót cuộc đời…”
Ông thấy thương hại Nguyên, sau giây lát ngập ngừng ông nói tiếp:
- Tôi biết lòng hờn oán thường khiến con người kém minh mẫn. Có lẽ anh không phải là một kẽ phũ phàng, đê tiện như Linh tưởng. Có lẽ có sự ngộ nhận nào đó ở đây… Tôi hứa với anh rằng tôi sẽ làm cho Linh hiểu ra sự thực…
Nguyên nhìn Trần Phương, nhếch mép cười.
“Anh ta cười gì nhỉ?...” – Ông nghĩ. “chắc anh ta nghi ngờ…”. Và ông vội vã nhắc lại, với một vẻ quả quyết vô cùng cao thượng:
- Tôi hứa chắc chắn với anh, tôi sẽ làm điều đó. Đây là lời hứa giữa hai người đàn ông…
Nụ cười khó hiểu vẫn ngưng đọng trên khoé môi Nguyên. Anh đang chăm chú nhìn Trần Phương và tự hỏi:
“Không biết ông ta thuộc loại người nào? Chắc chắn Linh không có một lời bình phẩm về mình, từ thời con gái Linh đã có đặc tính không bao giờ nói sau lưng người khác, nhất là những lời thoá mạ, và cho dù đối phương là kẻ thù đê tiện và bỉ ổi mà mọi người đều chứng nghiệm… Tại sao ông ta lại dựng lên chuyện đó? Để lấy lòng mình hay bôi nhọ Linh? Cả hai mục tiêu đều hèn hạ…”
Nguyên nhăn trán lại – đó là một thói quen – và anh cắn chặt hàm răng: “Linh, em đã bỏ anh để đi tìm một thần tượng như thế phải không?”
Trần Phương thấy gương mặt Nguyên xám lại, chìm hẳn vào nỗi tuyệt vọng liên hồi, không lối thoát. Ông hiểu rằng đối với anh ta, Linh là toàn vẹn cuộc đời với quá khứ mộng mơ êm ấm, với thực tại cay đắng, với tương lai phập phồng hy vọng và đau khổ… Ông biết mình tàn ác, vừa sợ hãi vừa ân hận, ông muốn bày tỏ cho người chồng bât hành kia hiểu rằng ông không hề có ý thức cướp đoạt hạnh phúc của anh ta:
- Anh Nguyên, với con mắt thông thường của người đời, tôi phải gánh chịu phần nào trách nhiệm về sự đổ nát của anh… Nhưng, tôi muốn nói với anh rằng cội nguồn của mọi chuyện là từ những ngộ nhận. Tôi tưởng rằng Linh bất hạnh, và chúng tôi tìm thấy sự đồng điệu trong cuộc sống. Nhưng nói cho đúng, tôi đã đến với Linh bởi lòng nhân ái nhiều hơn là bởi tình yêu. Một thiếu phụ có nhan sắc, có trí thức bị rơi vào cảnh sống đoạ đầy. Sự khắc khoải trong đời sống tinh thần dẫn đến những suy sụp về thể chất. Đã từng có biết bao người đàn bà nhan sắc bị huỷ hoại trong cảnh bất hạnh và họ đã đau khổ vì đánh mất oan uổng tuổi thanh xuân?
Trần Phương ngừng lại. Những lời lẽ say sưa ấy, ông thấy đó là sự thực. Phải, chính lòng nhân từ đã dẫn ông đến với Linh, dưới vầng hào quang của vị Cứu thế. Ông nói tiếp:
- Con người, khi ta đạp xuống, nó sẽ trở nên độc ác và tồi tệ hơn chính bản thân nó. Nhưng khi ta nâng lên, nó sẽ tốt đẹp hơn bởi phần thiện được nảy sinh. Tôi muốn dìu Linh lên miệng hố của thất vọng. Tôi muốn tình yêu của tôi sẽ nâng đỡ…
Đôi mắt Trần Phương long lanh với các ý tưởng nồng nhiệt mà ông đang say sưa bày tỏ. Bàn tay ông miếtl ên bàn, với dáng vẻ kiêu sa hờ hững của những người quen hiện diện và phô bày vẻ đẹp cảu bản thân trước đám đông. Nguyên nhìn bàn tay ấy, nớh tới mỗi cuộc triển lãm hội họa, Trần Phương được mời tới cắt băng khai mạc. Khi cắt băng xong, ông ta đã ngồi xuống hàng ghế đầu, vắt bàn tay hờ hững dịu dàng như thế trước cặp mắt của hàng trăm công chúng say mê nghệ thuật. Con người ấy, thần tượng của biết bao thanh niên, vị á thành tình yêu của biết bao thiếu phụ và thiếu nữ, kẻ đã đày đoạ anh và con gái anh vào cảnh đời lạnh lẽo như thế đó sao?... Giá ông ta cứ mỉm cười tàn nhẫn và đểu cáng bảo anh:
“Mày là thằng ngu, đàn ông không giữ được vợ thằng khác sẽ chiếm mất. Vợ mày ngon lành hấp dẫn thế làm sao tao trả cho mày được?...”
Đúng thế, giá ông ta cứ quăng vào mặt anh những lời lẽ thô bỉ nhưng chân xác thế anh còn dễ chịu hơn. Đằng này, ông ta lại thuyết giáo về lòng nhân đạo, về sự nâng đỡ phẩm giá và tinh thần con người, về sứ mệnh cao cả của các bậc Thánh… Với lời lẽ ấy, ông ta hiện ra dưới vầng hào quang của Chúa Cứu thế, còn Linh là con chiên được vớt khỏi hố sâu tuyệt vọng cùng những sa ngã tối tăm. Chắc chắn giờ đây, ông ta hoàn toàn tin rằng ông ta là một người đàn ông cao quý, còn cái thằng đã dan díu với Linh và đã phản bội cô nhơ bẩn lại là một hình bóng ở bên ngoài thế giới này…
- Trời ơi i i…
Một lần nữa, tim anh gào thét: “Em đã đày đoạ anh, đày đoạ con và đày đoạ chính thân em vì một con người như thế, phải không Linh?...”
Lưỡi gươm tàn bạo lại xuyên qua sườn người đàn ông, giữa hai lá phổi tới hông bên trái. Nguyên ngước lên nhìn Trần Phương:
- Thế còn việc anh đưa vợ tới đánh ghen với cô Linh, chắc cũng để nâng đỡ cô ấy khỏi cơn tuyệt vọng và để cho cô ấy được thăng hoa?...
Trần Phương ngớ người ra trong khoảnh khắc. Ông đang bị huyễn hoặc bởi chính diễn thuyết của mình. Lưỡi ông như bị dính chặt vào hàm. Lát sau, ông lắp bắp:
- Đó... đó lại là chuyện khác... một vấn đề hoàn toàn khác...
Lưỡi gươm nhọn vẫn xuyên qua Nguyên khiến anh phải còng lưng xuống. Rồi từ cái cử chỉ giống như sự nén chịu ấy vụt loé lên một tiếng thét. Nguyên không nhớ anh đã gầm lên ra sao, nhưng ngay từ lúc tiếng kêu đường đột và man dại ấy cất lên, anh đã rùng đứng lên theo. Người đàn ông loạng choạng suýt ngã. Ông ta vội níu lấy mép bàn. Hình như ông ta đã ngước nhìn anh với đôi mắt rối loạn, sợ hãi. Và hình như ông ta có lẩm bẩm nói điều gì đó mà anh không nhớ nổi... Nguyên đứng lom khom. Cảm giác đớn đau nhục thể không hề thuyên giảm. Anh quát vào mặt Trần Phương với một giọng khàn đục, xa lạ như giọng một người nào khác biệt:
- Cút đi.
8
Ngay hôm Linh trở lại bục giảng, lũ học trò đã tự động làm một buổi liên hoan mừng cô. Chúng cắm hoa đầy gian phòng nhỏ của cô và lớp học. Đám con gái xăng xái đi lại, bày biện. Lũ con trai túm tụm lại từng đám chuyện trò vui vẻ, vài đứa so dây đàn, chuẩn bị lại những bài hát sắp biểu diễn:
- Cô sẽ được nghe một chương trình ca nhạc mới tinh. Suốt thời gian cô vắng, chúng em chưa có buổi biểu diễn nào.
- Cô ơi, bánh dẻo có ngon không? Chúng em mua ở tận Hàng Đường cơ đấy.
- Cô ngồi giữa em và bạn Mai cơ...
Mắt lũ trẻ long lanh và gương mặt chúng toả ra thứ ánh sáng dịu êm của mối thâm tình. Linh nghẹn ngào. Lớp học, tấm bảng đen quen thuộc, sự quyến luyến của đám học sinh trả lại cho cô giá trị thật của đời sống...
Buổi liên hoan kéo dài tới chiều. Linh trở về nhà, lần đầu tiên sau những tuần lễ trằn trọc được ngủ một giấc sảng khoái. Lúc sắp tỉnh dậy, cô chợt nghe tiếng con:
- Mẹ ơi i i...
Linh tưởng mình ngủ mê, quay mặt vào tường. Nhưng tiếng gọi của đứa con vẫn vọng vào, ám ảnh:
- Mẹ ơi i i... Mẹ Linh oi i... i... Mẹ ngồi dậy đi...
Linh mở choàng mắt. Bé Hương Ly đứng ở đầu giường đang cố sức quay đầu mẹ ra:
- Hương Ly, con gái của mẹ, con của mẹ...
Người đàn bà bật kêu, ôm chầm lấy con và bế bổng nó lên giường.
Rồi hai mẹ con hôn nhau chi chít.
- Con nhớ mẹ không?
- Nhớ mẹ nhiều lắm.
- Nhiều bằng cái gì cơ?
- Bằng cả ông trời.
- Mẹ cũng nhớ con, bằng mười ông trời cộng lại. Ông bà nội có khoẻ không?
- Khoẻ lắm ạ. Ngày nào bà cũng cho con ăn hồng xiêm đấy.
- Bố đón con về hôm nào?
- Hôm thứ hai ạ.
- Thế bố đèo con tới đây rồi bố đi đâu?
- Không, bố ngồi ở ngoài bàn...
Con bé giơ tay chỉ sang phòng thủ thư. Linh ngồi nhỏm dậy, thấy Nguyên bên ngoài tấm ri đô ngăn cách. Thoạt tiên, cô giật thót mình. Rồi sau đó, cô chợt nhớ tới nỗi nhục nhã vừa nếm trả và hai má bắt đầu nóng rực lên:
“Chắc anh ấy biết sự việc và tới đây để nhiếc móc mình”.
Nghĩ như thế, cô khoác áo, bước ra, buông một câu nói lạnh lẽo thách thức:
- Anh cần gặp em có chuyện gì?
Nguyên ngước mắt lên. Một dòng điện lan truyền khiến người đàn bà bất giác run rẩy. Ánh mắt của anh là ánh mắt của một người yêu mỏi mòn vì chờ đợi và hy vọng. Gương mặt anh là gương mặt của một người triền miên sống trong suy tư, khắc khoải xót xa... Không, trong ánh mắt ấy không có lòng thù hận, không có sự chế giễu cay đọc, không có những hiềm khích nhỏ nhen...
Nguyên không trả lời vội. Anh móc bao thuốc. Những ngón tay gầy của anh run run. Người đàn bà quơ tay bám lấy mép bàn. Cô đã nhìn thấy những món tóc bạc ở hai bên thái dương của anh. Cô đã nhìn thấy những nếp nhăn mới hiện trên vầng trán và hai gò má… Có tiếng kêu nào đó trong quá vãng vừa bật lên, lay động từng ngõ ngáhc thầm kín nhất tỏng tâm hồn cô, rung chuyển từng giọt máu trong huyết mạch của cô:… “Đưa tay đây anh băng cho nào. Tại sao em cứ luôn luôn vội vã thế?... Đừng có đọc những quyển sách nhảm nhí ấy, cô bé ơi, nó sẽ tiêu phí của em khá nhiều thời gian và làm cho đầu óc em bốc lửa”… Một bàn tay dịu dàng ấm nóng đặt trên lưng. Bóng mát của giảng đường, những lối mòn dãi đầy ánh trăng quanh khu học xá… Tình yêu cảu cô, niềm say mê tuổi xuân cộng với một chút tình mẫu tử và huynh đệ. Cánh đồng thu bình yên vàng óng và những nếp núi màu lam phơi dưới ánh trời… Bóng dáng hạnh phúc đã phai tàn hiện ra phía sau những ngón tay thân thuộc… Linh bỗng mờ mắt đi vì những ảnh hình cũ chao đảo trong cô, pha trộn vào nhau, chồng chéo lên nhau với tốc độ chóng mặt của lực ly tâm. Chúng như một cơn dông gào rú lên trong cơn hoang mang, thảng thốt, giữa những ngờ vực và sự đổ vỡ, những hối tiếc và âu lo… Tại sao? Tại sao?... Giữa muôn ngàn mảnh vụn của tan nát, chợt hiện lên bầu trời thu xanh thẳm, một làn mây nhẹ và xốp như khói giăng qua bầu trời, hàng xây xao xuyến ven đường, nơi họ dừng lại, nhìn vào mắt nhau say sưa tới vô cùng vô tạn, thu gọn cả thế gian vào trong giây phút thần thánh ấy...
“Đúng hay là sai, thật hay là ảo?”…
Người đàn bà đột nhiên thốt lên tiếng kêu trong tâm khảm vì hình ảnh trọn vẹn của hạnh phúc đã qua và cảnh sống chênh vênh tàn nhẫn của hiện tại như hai gương mặt cùng lúc hiện ra, soi nhìn nhau qua đáy vực. Linh lờ mờ cảm thấy trong thần tượng nhạc sĩ Trần Phương một gợn sóng của phù du, một âm thanh câm nín của đổ vỡ. Và cô cũng thấy trong cuộc chung sống với Nguyên một cứu cánh nào đó mà cô đã vội vàng vùi xuống cát bụi…

Nguyên châm thuốc. Các đầu ngón tay anh vàng khè, Linh nhìn những ngón tay chồng lần nữa và cô bỗng đọc được những đêm dài vò võ, những buổi chiều hiu quạnh của anh, nỗi đớn đau của hy vọng không nguội tắt và những dằn vặt của trí nhớ… Mà trong lúc đó, cô ngắm những cánh buồm của sông Hồng, những cành táo bên ngoài khuôn cửa ngôi nhà ngoại ô và lắng nghe những câu nói ngọt ngào, những bài hát quyến rũ của Trần Phương… Chỉ trong giây lát, sự so sánh ấy vụt dựng trong lòng cô hình ảnh của tội lỗi và niềm tủi hổ. Người đàn bà ngoảnh mặt đi, cố gắng giữ những giọt nước mắt khỏi trào lên mi.
Lúc ấy, Nguyên vẫn chậm rãi hút thuốc: Một, hai ba hơi liền. Đoạn, anh thong thả nói:
- Nếu em không bằng lòng, anh sẽ rời khỏi nơi đây.
Linh im lặng.
Bé Hương Ly từ sau tấm ri đô chạy ra:
- Ứ cho bố Nguyên đi, ở đây với con cơ.
Nó ôm chặt cổ Nguyên. Anh vuốt ve làn tóc tơ của con, nói:
- Nếu mẹ đồng ý, bố sẽ ở lại.
Hương Ly quay sang mẹ:
- Mẹ đồng ý chứ mẹ?
Người đàn bà lặng lẽ nhìn con, không trả lời được vì phải cố gắng kìm giữ nước mắt. Đứa bé khôn ngoan không đợi câu trả lời quay sang bảo bố:
- Mẹ gật đầu rồi đấy. Con đi ngủ. Lúc nào con dậy bố đèo con đi mua bánh ngọt ở Tràng Tiền.
Nói rồi, nó chạy vào buồng ngủ, không quên liếc mắt thăm dò bố mẹ lần cuối. Nguyên và Linh cùng im lặng hồi lâu. Đoạn, anh nói:
- Lẽ ra, anh không nên tới đây. Nhưng anh sợ rằng em còn ốm.
- Cảm ơn, em không ốm, em không bao giờ ốm cả...
Linh bật trả lời ngay tức khắc, giọng nóng nảy cục cằn. Cô không nhìn vào mặt anh vì hiểu rằng anh đã thông tỏ mọi chuyện và thương xót cô. Rằng dưới ánh mắt anh, cô là một người đàn bà nhẹ dạ, khờ khạo và tăm tối. Rằng tình cảnh nhục nhã ấy dày vò cô như những cực hình... Nguyên biết rằng anh đã chạm vào nỗi đau của vợ. Nỗi đau ấy như vết thương chưa kịp kín miệng, như con chó dữ nằm phục trong bóng tối, chỉ cần một tiếng động mơ hồ cũng khiến nó chồm lên: mình luôn luôn đi sai nước cờ vì cái tính thật thà đoảng... Anh nghĩ và âm thầm rít thuốc cho tới khi hết. Rồi anh nói:
- Nếu không còn là vợ anh, em cũng còn là mẹ bé Hương Ly. Anh có nhiệm vụ...
- Anh không có nhiệm vụ nào hết, không ai cần phải nghĩ tới tôi.
Linh cắt lời anh lần thứ hai, cũng gay gắt thế. Nguyên thấy khoé môi cô run run. Anh nghĩ rằng Linh còn nổi khùng vì mặc cảm và tính ương gàn của cô thật đáng quở trách. Nhưng anh vẫn mềm mỏng nói tiếp:
- Từ ngày em xuống đây, đã có nhiều lần anh tìm gặp em. Đúng là như vậy. Tất nhiên anh vẫn yêu em. Nhưng con người cần phải thích nghi với đời sống Linh ạ. Nếu anh không tập làm quen, và buộc phải dần dần quen thực với nỗi đau mất em, làm sao anh tồn tại?... Em coi anh như một pho tượng, khi pho tượng ấy còn được trí tưởng tượng của em vây bọc, em thờ phụng. Lúc nó phơi dưới ánh nắng trần trụi và bỏng rãy của mặt trời, em chợt thấy nó chỉ là một cục đất sét khô, phơi quét lem nhem, và em ném thẳng nó ra đường không nhìn ngó lại… Nhưng anh không phải pho tượng, anh là con người, và anh phải sống cuộc sống con người. Em cũng là tín ngưỡng của anh, nhưng anh chấp nhận với tất cả những khiếm khuyết, những dại khờ và nhầm nhỡ… Còn em, chắc chắn là không…
Linh không đáp, môi cô mím chặt lại ương bướng. Nhưng trái tim cô vỡ oà trong tiếng kêu ca đau đớn: Nguyên đã nói đúng. Cô vừa kịp nhận ra mình, tựa hồ tựa tia sét chói loà vụt loé lên mà ta nhìn rõ cảnh vật trong một đêm bão tố: những đồng ruộng, núi non, khe suối và vực sâu… Trong nháy mắt thần diệu ấy, người đàn bà run lên khi ngoái lại quãng đời đã qua và đoạn đường chênh vênh sắp tới. Trong nháy mắt, niềm hối tiếc gào thét, nỗi lo âu cuộn xoáy như dòng lũ nơi khúc ngoặt con sông… Giá như Nguyên đọc được những ý tưởng của cô lúc đó. Giá như anh hiểu rằng chính khoảnh khắc đầy hy vọng vãn hồi hạnh phúc mà bấy lâu nay anh mong đợi đã đậu xuống lòng bàn tay anh như con chim sơn ca trong một rạng đông trong lành… Nhưng anh không đọc được ý tưởng ấy. Anh nhìn gương mặt ương bướng nom trẻ như một thiếu niên mười sáu tuổi của vợ, và nghĩ rằng cái gương mặt ấy hấp dẫn con người chính ở vẻ tự tin bạo liệt và ngây dại không biến đổi, rằng dầu có yêu thương tới đâu người ta cũng phải rời xa nó bởi tính bất biến của lòng hiếu thắng. Anh châm một điếu thuốc khác và nói:
- Hôm nay, anh tới gặp em vì anh vừa đối mặt với con người ấy…
Linh khẽ à lên một tiếng nhỏ rồi mím môi lại. Cô vừa bối rối vừa thảng thốt. Nguyên hiểu rằng Linh còn yêu Trần Phương mê đắm, dù thù hận ông ta. Anh muốn nhếch môi cười mình. Có một người đàn ông khác đứng bên ngoài, bình tĩnh nhả khói thuốc và nhìn sâu vào nỗi đau hèn mọn của anh:
- Anh không muốn nói lại những điều ông ta đã nói với anh. Nhưng anh muốn em bình tĩnh nhìn lại cuộc đời. Em hãy định giá lại mọi sự cho công bằng, khách quan...
Anh ngừng lại rồi hạ giọng:
- Người ta, ai cũng có những phút yếu lòng, những khoảnh khắc hèn mọn, những hành động lầm lỡ… Có điều, phải nhìn sâu vào cội nguồn của các khuyết tật ấy, và hãy xét xem có thể tha thứ được không?...
Linh nhìn Nguyên. Thói quen quy kết của cô lại nổi lên, xoá mờ những xao động trong tâm hồn. Cô lại trở nên khắc nghiệt với anh, cô nói:
- Anh đừng nói như vậy. Đừng dùng lỗi lầm của một kẻ khác để bào chữa cho lỗi lầm của mình. Trần Phương tồi tệ với cá nhân em, nhưng ông ấy trung thành với lý tưởng. Còn anh, anh đã quay lưng lại với những gì chúng ta tôn trọng, những nguyên tắc chung cho lẽ sống của mọi người.
- Anh chỉ là một thành viên nhỏ bé của đời sống. Anh không thể hành động ngược lại xu thế chung vì có như vậy cũng chẳng đem lại lợi ích gì.
- Hoặc là vì thế. Nhưng đúng hơn là vì lợi ích của cá nhân anh.
- Nếu ở địa vị anh, em sẽ làm gì?
- Làm đúng những điều em nghĩ.
- Chúng ta chỉ là những thợ phụ, những chú bé chạy vặt bên lề, Linh ạ.
- Nhưng ít nhất người ta cũng phải ghi nhận tiếng kêu báo động của anh như một tín hiệu cần phải có.
- Những tiếng kêu lẻ loi chỉ chìm trong yên lặng như những hạt cát chìm dưới đáy hồ. Phải chờ đợi, Linh ạ.
- Chờ đợi cái gì?
- Sẽ tới lúc những chân lý khách quan được tôn trọng hơn.
- Nhưng bao giờ tới lúc ấy, khi ngay cả lớp người hiểu biết như anh cũng ứng xử như những kẻ làm thuê?
Nguyên im lặng nhìn Linh, mỉm cười buồn: “Về mặt nguyên lý bao giờ em cũng đúng, em bé ạ”… Và trái tim anh chìm vào một cảm giác chán nản, mệt mỏi chưa có bao giờ… Những dòng nước mắt vô hình chảy trong tim, tụ góp nỗi buồn ký ức, những buổi chiều mệt mỏi từ toà soạn trở về, khuôn viên ấm nóng ánh trời – nơi anh ngồi nghiền ngãm, những bông hoa đỏ thắm nở dưới ánh tà dương gợi một nỗi buồn cô liêu không sao cắt nghĩa được… Tại sao cô không hiểu cho những uẩn khúc đó, tại sao cô không thể chấp nhận sự bất lực của con người trước sức mạnh khách quan? Tại sao trái tim cô lại sắt đá và cố chấp tới mức như vậy?... Có lẽ bởi niềm si mê Trần Phương đã dập xoá những hồi âm của hạnh phúc và làm thui chột sự cảm thông còn có thể được đối với anh?... Người đàn ông cắn răng lại. Anh rít nốt những hơi thuốc cuối cùng và ngẩng lên:
- Có lẽ, em cần ở anh một chữ ký?
Linh chưa kịp hiểu anh đã nói tiếp:
- Trước đây, anh đã nói với em rằng anh sẵn lòng chờ đợi: Một năm, hai năm, bă năm hoặc lâu hơn nữa. Anh yêu em hơn tất cả những gì người đàn ông ham muốn nhất trên đời: Danh vọng, tiền tài, thế lực… Anh đã quen với hình ảnh của em đến nỗi nó chi phối anh ngay cả trong giấc mơ. Anh tưởng rằng anh có thể chờ đợi em quay về… Nhưng bây giờ, điều đó không cần nữa… Em cho anh xin tờ giấy trắng…
Linh đờ người. Trước đây, nhiều lần cô giục anh ký vào tờ đơn ly hôn. Nhưng lúc này, ý muốn cũ lạnh giá đi như món ăn mùa đông không được hâm nấu lại. Giá như cô có thể nói được: “Hãy bình tĩnh đi anh, em đã nhận ra sự bất công của em rồi… Hãy cho em suy nghĩ”… Ồ, giá như cô có thể nói lên những ý nghĩ của mình… Nhưng lòng tự ái không cho phép cô cất lên lời thú nhận ấy. Cô lục lọi đống giấy trắng, tìm một tờ vuông vắn đưa cho anh:
- Tờ này đủ rồi.
Nguyên nói, tự tay anh đặt tờ giấy ngay ngắn trước mặt mình:
- Em là bên nguyên em kí ở góc này. Anh là bên bị, anh ký góc đối diện.
Một nét bút kéo roạt trên mặt giấy. Xong, anh ghi tên rành mạch, rõ ràng phía dưới. Đoạn, anh đứng lên:
- Thời gian tới, con sẽ ở với anh... Em bận, vả lại anh cần nó hơn em.
Anh nói bình tĩnh nhưng rạch ròi. Và không đợi câu trả lời, anh vào buồng đánh thức bé Hương Ly. Linh sững sờ nhìn chồng: Thế là hết, không còn hy vọng vãn hồi. Nguyên biết Linh yêu con, nếu còn thương yêu và nhẫn nhịn cô, anh sẽ để nó ở lại. Lâu nay, cô đã quen với sự chiều chuộng và vị tha ấy. Giờ đây, cô hiểu rằng anh cũng có khả năng dứt bỏ cô như bất cứ người đàn ông nào khác trên đời có thể dứt bỏ nhanh chóng người đàn bà đã từng chung sống. Sợ hãi nuối tiếc, âu lo, khắc khoải… ngần ấy thứ cảm giác xáo trộn tâm lý người đàn bà. Trái tim cô như con tàu sắp dấn vào cuộc hành trình trên biển thẳm mù sương…
- Bố ơi, đi Tràng Tiền hả bố?
Hương Ly tỉnh ngủ, vừa xỏ tay vào áo vừa cất tiếng hỏi.
- Ừ, đi mua bánh cho con.
Nguyên đáp.
- Rồi lại về với mẹ phải không?
- Không, về nhà mình.
- Ứ ừ, con không về đâu, con ở đây với mẹ cơ...
Con bé lắc đầu quầy quậy. Nguyên nhìn con, anh nói với giọng nhẹ nhàng và thấm thía:
- Con làm sao ở đây được? Mai kia, các anh chị học sinh của mẹ sẽ tới chật cả phòng. Về nhà mình, rồi mẹ sẽ về theo.
Hương Ly tin tưởng, chạy tới ôm mẹ hôn chi chít lên hai má.
- Con đi phố Tràng Tiền nhé. Bao giờ mẹ về nhà mình?
Họng Linh tắc lại, cố bật lên một tiếng:
- Mai.
Con bé láu táu chạy ra cửa. Nguyên đứng lại, nhìn Linh, và mỉm cười buồn bã:
- Buồn quá phải không Linh. Chúng ta đều đã biến thành những kẻ dối trá.
Cô không đáp. Anh nhìn sâu vào mắt cô, cố thu lại lần cuối ngọn lửa rực rỡ trong đó. Và anh hạ giọng, nói:
- Chúc em mọi sự tốt lành. Nhớ giữ gìn sức khoẻ... Dạo này, anh thấy em...
Người đàn ông ngừng lại vì anh nhìn thấy sợi gân xanh xanh nổi lên trên cần cổ đã hao gầy của vợ phập phồng. Buống lửng câu nói, anh ra đi. Bé Hương Ly ngồi lên xe, còn giơ tay vẫy mẹ. Khi hai bố con đã hoàn toàn đi khuất, Linh đã bật khóc oà lên:
“Trời ơi, lẽ ra mình có thể hoà hoãn với Nguyên, lẽ ra mình có thể tìm lại cuộc sống bình yên cũ... Tại sao mình lại không thể tha thứ được cho anh?...”
Thành phố đã lên đèn. Nguyên đạp xe thờ thẫn giữa dòng người nhộn nhạo của phố xá.
“Tại sao, tại sao như thế?”... Mình tới đây với ý định thuyết phục Linh trở lại. Nhưng kết cục mình đã giục Linh tìm một tờ giấy đẻ làm thủ tục cho cuộc chia xa vĩnh viễn... Tại sao?
Giáp Tết Nguyên Đán năm ấy, vào ngày hội hoa ở chợ Hàng Lược, Trần Phương cùng vợ đi mua hoa đào. Nhưng tới nơi, ông bảo bà vào chợ còn mình đứng chờ ở góc phố. Chiếc Lađa xanh đậu cách chợ một dãy phố vì đường bị cấm, cậu lái xe ghếch chân lên cửa đọc Tây du kí. Bà Hoa hẹn bốn mươi phút sẽ quay lại nhưng đã hơn một tiếng vẫn chưa thấy bà đâu. Nhạc sĩ chồn chân, đi vòng vo tìm quán nước ngồi. Nhưng những quán trà nhỏ quanh đấy đã dẹp hết. Sau rốt, ông quay lại chỗ cũ, đứng chờ. Chợt, một người đàn bà nhăm nhăm tiến đến. Trần Phương ngơ ngác nhìn. Người đàn bà trạc bốn mươi hoặc hơn nữa nhưng còn thanh mảnh. Dáng đi quen quen, gương mắt trắng hồng với cắp kính lớn màu tím:
- Ai nhỉ?
Bà ta cứ nhằm thẳng ông mà bưới tới. Rõ ràng, bà tìm ông. Trần Phương vừa phỏng đoán vừa nơm nớp lo vợ bất chợt quay về, với bản tính ghen tuông đồng bóng, không hiểu bà ta sẽ giở trò gì ra giữa phố đông?... Người đàn bà lạ lùng đã đi tới mép đường, dừng lại chờ xe. Khi bà ta quay nghiêng, Trần Phương chợt nhận ra đó là bà Phượng. Bà vẫn đẹp và còn sang trọng hơn xưa. Trong bộ complê tím nhạt, đôi giày bọc nhung sẫm và chiếc khăn quàng rực rỡ, bà còn khiến cho nhiều người đàn ông phải ngoái cổ nhìn theo. Bà sắp tới trước mặt ông;
- Phượng... Phượng! Chào Phượng.
Nhạc sĩ lắp bắp, chân ông lùi về phía sau.
- Chào anh, sao anh hoảng hốt thế?
Bà khẽ nhếch môi cười, và nhấc cặp kính ra:
- Phải bình tĩnh chứ?...
Trần Phương lúng túng vài giây rồi nhún vai:
- Tôi... tôi bình thường.
Ông nhìn đôi môi tô son đậm và khéo đang nở nụ cười đỏ chót, cố lục tìm hình ảnh cặp môi đó gần hai mươi năm trước. Bà là cuộc phiêu lưu tình ái đầu tiên của ông, hồi ông còn ngờ nghệch nhưng đã có những may mắn không mấy ai có được. Bà đã từng làm ông mê đắm, điên dại nhưng giờ đây trong lòng ông, bà chỉ còn là một tử thi được trang hoàng bởi nhung lụa phấn son. Dưới lớp vỏ kiêu sa ấy, bà đơn thuần là một cô hàng xén, dù là thứ hàng xén ở Hà nội chứ không phải ở cửa rừng. Sau này ông chinh phục được nhiều người đàn bà thông minh, mặn mà hơn nên ông đã ngoái nhìn thứ nhan sắc nhạt nhẽo vô tri thức như người no đủ nhìn đĩa cơm nếp nát. Lúc Trần Phương nghĩ về những điều đó, bà Phượng lia cặp mắt sắc như dao nhìn ông:
- Tôi thua anh.
Bà mở đầu câu chuyện.
- Tôi muốn trả thù, nhưng ngọn roi lại quất xuống lưng con bé cháu khốn khổ của tôi. Còn anh, anh đã thoát khỏi mọi rủi ro như con trạch lẩn trong bùn. Trời giúp anh.
Trần Phương im lặng:
“Con mụ này định nói gì thế nhỉ? Tốt hơn cả là ta cứ nhịn nhục cho xong. Chẳng ai chứng kiến chuyện này. Những vặt vãnh của đời thường, không thể chấp”.
Nhưng ánh mắt toé lửa của bà vẫn cứ chiếu thẳng vào mắt ông:
- Trời cũng có lúc lẫn. Nhưng non cao, đất dày sẽ có mắt có tai. Kẻ độc như anh không có con đâu. Anh là đồ tuyệt tự...
Bà nói gióng giả từng tiếng với nỗi hả hê:
- Anh là đồ tuyệt tự, bởi vì nếu có con, anh cũng chỉ để loại toàn rắn rết trong cõi đời...
Bà ngừng lại, nhìn ông với anh mắt cay độc rất đàn bà. Rồi bà kẹp chiếc ví vào nách và nói tiếp:
- Tôi thua anh. Nhưng đời còn dài lắm. Bảy mươi chưa đui chưa què, chưa khoe làm tốt. Tôi nguyện rằng một ngày nào đấy, anh sẽ nhằn cái quả đắng mà anh gieo hạt hôm nay...
Nói xong, bà quay lưng thong thả bước đi. Trần Phương đứng ngây độn nhìn theo. Bất giác niềm kinh sợ lùa vào tâm hồn ông như cơn gió lạnh:
“Con mụ quái gở”...
Ông rủa. Nhưng nỗi lo sợ mơ hồ và xa xôi cứ lảng vảng trong óc não ông, tựa như một thoáng mây giăng nơi chân trời hè tạnh ráo. Những lời lẽ của bà Phượng gợi cho ông cái gì đó cũ kĩ nhưng lại tiềm ẩn sức gieo trì và gặt hái, sức sống trường tồn của cây cỏ, đất đá, mặt trời và các bóng râm. Nhưng dường như bà nội ông ngày xưa đã từng nói thế, vào những buổi tối tái tê nơi tỉnh lỵ, dưới ánh đèn dầu. Và dường như lâu hơn nữa, một bà cụ tổ mặt váy đen, yếm thắm cũng đã từng nói thế vào những buổi trưa kẽo kẹt tiếng võng đưa... Trần Phương sực nhớ hình tượng Phật và những mặt quỷ trong ngôi chùa thời thơ ấu. Giữa làn khói mờ ảo và hương thơm ngào ngạt của than trầm, chúng khiến chú bé Phương thắt tim lại vì sợ hãi. Khi lớn lên, dần dà những hình ảnh đó bị vùi lấp dưới tầng dầy của tháng năm. Giờ đây, chúng lại trồi lên mặt đất... “Nhảm nhí... lẩn thẩn, mình già hẳn rồi hay sao? Hãy quên những trò nhảm nhí ấy đi”...
Ông thầm nhủ. Nhưng nỗi run rẩy từ ký ức vừa thức tỉnh mỗi lúc rõ rệt hơn. Gợn mây nơi chân trời mỏng manh dần dần dồn tụ lại và biến thành đám mây dông. Trong nó, chập chờn, chồng chất không biết bao nhiêu hình ảnh, các gương mặt, các sự kiện, các thăng trầm của cuộc đời vụt dựng lên, soi vào nhau, tựa trò chơi của quỷ thần. Giữa đám ảnh tưởng dày đặc ấy, hiện lên một khuôn mặt thiểu não, hai má chảy xệ vì bệnh tật và mái tóc bạc như tàn tro. Cái đầu ấy nhìn ông với đôi mắt buồn thảm, mờ đục. Bên dưới nó là mặt biển tím lênh láng ánh tà dương.
“Quái quỷ”…
Trần Phương lắc đầu, nhắm mắt lại. Khi mở mắt, ông thấy mình đứng ở góc phố cũ. Trước mắt ông, dòng người từ chợ Hàng Lược vẫn toả ra, xôn xao, hối hả, người đèo chậu quất, người giơ cành đào…
“Lạ thật… vẫn chưa ra?”
Lần đầu tiên trong đời ông mong chờ vợ. Ông cần sự hiện diện của bà để lảng tránh giấc mơ ngay giữa ngọ. Nhưng bà vẫn chưa ra. Và cái đầu lâu kia lại trôi hiện lên mặt biển nhìn ông. Lần này đôi mắt lờ đờ chớp nhẹ:
“Cậu nhận ra tớ không, Trần Phương?”
Cái đầu trồi khỏi mặt nước sóng sánh, đến đôi vai nhọn, một cái lưng dài cong cong với cặp đùi gầy gò ép sát vào khuôn ngực. Mặt nước đại dương biến mất, giờ chỉ là tấm chiếu hoa cũ và người đàn ông có gương mặt buồn thảm ngồi bó gối trước chai rượu trơ đáy với vài củ lạc rang;
“Nhận ra tới không, người anh em?”
Y gật gù. Trần Phương quay đi vì chưng ông đã nhận ra y. Y già quá, và gương mặt y biến dạng đi ghê gớm quá. Họ đã từng là bạn chí cốt của nhau thời lửa khói. Y gốc người Bắc Ninh nhưng ở Hà nội đã lâu, khi ông từ Hải Dương lên, y vồ vập đưa ông về nhà y trọ học. Kháng chiến bùng nổ, họ cùng nhau viết những bản ca khúc vụng về nhưng tràn đầy tâm huyết. Ôi, cái thời đẹp đẽ nhất, hùng tráng nhất của dân tộc Việt. Cái thời người ta ném lửa vào mái nhà mình, thiêu huỷ đi cả gia sản cơ nghiệp của cha ông trong phút chốc với nụ cười bình thản trên môi. Cái thời người ta quăng tủ chè khảm trai và sập gụ ra lòng đường cản xe địch. Cái thời những chàng trai dứt áo ra đi, mắt ròng ròng lệ hận thù cứu nước, để lại sau lưng đô thành cháy đỏ… Ngày đó, y đã cùng chung với ông một bọc áo quần. Ngày đó, luôn miệng y ngâm nga mấy câu thơ của Quang Dũng:
Quân xanh màu áo dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…
Y tốt bụng nhưng yếu đuối và nông nổi. Đàn bà yêu thương y và sẵn lòng bỏ qua cho y những lỗi lầm tầm thường trong sinh hoạt. Trần Phương nhớ có hồi trên Việt Bắc, y bị ghẻ nặng. Thiếu nước tắm và không có thuốc bôi, y ngồi gãi rách hết da thịt, vừa gãi vừa khóc: Tiên sư thực dân Pháp, nó làm ông khổ thế này…
Anh em trong cơ quan phải xúm lại xát các thứ lá có nhựa chát lên người y và thay nhau ngồi lấy cái ghẻ cho y. Y thích uống rượu và vì thế ở các bản xung quanh người ta thường mời y tới gảy đàn, uống rượu hát thâu đêm. Giọng y ấm và y hát ngọt ngào quyến rũ. Những tháng ngày kháng chiến trôi qua. Lúc tin thắng trận dồn dập và tin hội nghị Giơnevơ truyền về cũng là lúc họ nhận lệnh chuẩn bị tiến về đồng bằng giải phóng thủ đô. Cả cơ quan ôm nhau quay cuồng, la hét. Không thấy y đâu cả, nhưng ba giờ sáng y từ bìa rừng mò về, nước mắt đầm đìa, y gảy đàn và hát ca khúc vừa sáng tác. Mọi người xúm lại hôn y. Hồi đó bất cứ thắng của ai cũng được coi như cống hiến chung của lực lượng văn nghệ đối với cách mạng. Bài hát của y hay nhất trong tất cả các ca khúc được viết ngày ấy. Khi họ tiến về thủ đô, những đoàn quân trùng điệp khắp các cửa ô đã cất cao lời ca anh hùng, người hát rưng rưng và người nghe nhoà lệ. Một gợn đen tị hiếm hoi trong tim Trần Phương. Hai năm rưỡi sau, gợn đen đó biến thành đám cỏ um tùm. Hồi ấy, ông giữ một cương vị quan trọng trong cơ quan. Cấp trên giao cho ông thi hành biện pháp cứng rắn với nhóm chống phá cách mạng Nhân văn giai phẩm. Khi đã hoàn tất công viẹc, ông đề ra chương trình cảnh tỉnh những kẻ a dua, những người bấp bênh có cơ bị lôi cuốn bởi những phần tử xấu. Và chính ông đã xếp y vào nhóm người lãnh chịu kỉ luật. Y, cái thằng nhút nhát, và nát rượu, chỉ nửa chén cũng đủ say, rồi khóc rồi cười, rồi lảm nhảm những câu nói không chằng không rễ. Xưa nay, ai chẳng biết y như thế? Xưa nay, ai chẳng tha thứ cho y? Ông thấu hiểu ruột gan y nhưng ông không bỏ qua cơ hội đó, cái mầm cỏ tị hiềm u ám đã đâm rễ đâm nhánh chằng chịt trong tim ông… Dòng nhựa của đố kị trút vào máu ông chất độc dược mà những kỉ niệm tươi đẹp của thời áo nâu mũ lá trên rừng không làm tan nổi. Giấc mộng của những ngày lùi sắn bếp nhà sàn đã bị khuất lấp bởi mù sương. Sau cú đó… ông đã dần dần bước cao lên, và y, y dần dần trôi tuột xuống con dốc tuyệt vọng. Với bản chất hồn nhiên non trẻ, y không đủ can trường để chịu đựng oan trái và đắng cay. Y đã vùi tài năng của y vào các cốc rượu. Và giờ đây, y nhìn ông với đôi mắt lờ đờ, hai gò má chảy nhão trên gương mặt mà ông biết rất rõ rằng - thời trai trẻ xinh đẹp và tươi vui…
“Cậu không nhận được tớ hay sao, Phương râu?”
Y chớp mắt ngạc nhiên, nhắc lại câu hỏi lần thứ ba. Phương râu, đó là cái tên thân quen của tuổi thanh xuân đầy ước mộng.
Trần Phương bất giác rùng mình. Ông không thể nhắm mắt, cũng không thể quay đi mãi. Có một con đường xa tít tắp. Đầu đường, y đứng bên ông, với đám trai ba lô đèo lưng, súng khoác vai đi cứu nước. Cuối đường, họ đã trượt đi mỗi người một ngả…
“Cảm thương vớ vẩn, mình già rồi chăng?...”
Ông tự trách mình dữ dội.
“Đúng là những thứ tầm phào…”
Ông cố xua đi cảm giác âu lo đang dần dà đè nặng vai ông, tựa như bầu không khí của một ngày dông bão… Đại hội kết thúc. Công chúng xôn xao mừng rỡ vì có nhiều gương mặt mới xuất hiện. Đặc biệt, người ta bàn luận việc Trần Phương trở lại cương vị cũ. Những ai ngưỡng mộ ông vỗ tay hoan hỉ. Những người chối bỏ ông nhún vai, lắc đầu:
- Cha này có quý nhân phù trợ. Số ông ta thế mà sướng…
Linh lắng nghe dư luận, thầm kiêu hãnh. Dẫu sao, cuộc đời cô đã bị cột chặt vào ông. Một tuần sau, tại trường âm nhạc có tổ chức một buổi mít tinh chào mừng thắng lợi của đại hội. Ở đó, Trần Phương sẽ tới nói chuyện với các giảng viên và sinh viên. Linh có một cô em họ đang theo học bộ môm lý luận trong trường, một trong những kẻ ngưỡng mộ nhạc sĩ Trần Phương. Cô bé hăm hở rủ Linh tới dự buổi mít tinh. Hai chị em ngồi trong giảng đường. Ở đấy, qua khuôn cửa sổ, họ nhìn rõ những cờ đuôi nheo ngũ sắc bay phấp phới trên cổng trường. Các tấm panô lớn đặt đối xứng hai bên. Ngọn đèn lòng lụa đỏ với tua dài rung rinh trong gió, vài chùm bóng bơm khí nhẹ, cùng với màu áo rực rỡ của các nữ sinh khiến không khí nhuốm vẻ hội hè.
Người tổ chức chính của buổi mít tinh chạy lên chạy xuống thử máy phóng âm và các ngọn đèn trên tiền đài. Anh ta mặc áo lông Đức, chiếc cổ áo lật sau mái tóc quăn bù rối.
- Xin các đồng chí ổn định trật tự. Năm phút nữa buổi mít tinh bắt đầu.
Vài giây sau lời tuyên bố ấy, chiếc Moscovic trắng từ cổng tiến thẳng vào sân trường, cua nhẹ nhàng rồi đỗ trước bậc tam cấp. Linh nhìn rõ Trần Phương. Ông ngồi phía sau, dáng cô đơn sầu muộn. Các giảng viên từ giảng đường hối hả đi ra hiên, đón nhạc sĩ lớn. Trần Phương tự mở cửa xe, bước xuống. Trông ông đường bệ quá. Danh vọng quả là thứ vũ khí lợi hại, nó đem lại cho người đàn ông quyền năng, lòng kiêu hãnh và sự chế ngự phi thường, nó tạo cho họ một gương mặt khác.
Linh không nhìn thấy ông nữa, có lẽ ông đã ngồi xuống hàng ghế đầu tiên. Bản nhạc tắt nửa chừng trong máy phóng âm, người giới thiệu lên nói vài lời phi lộ, rồi hiệu trưởng trường âm nhạc lên đọc diễn văn… Sau cùng ông bước lên bục:
- Hoan hô…
Tiếng ai đó hét lên sau lưng cô cùng tiếng vỗ tay ào ào như sấm dậy. Trần Phương quay gương mặt đẹp về phía công chúng, cười mệt mỏi dịu dàng và giơ một cánh tay lên vừa như để cảm tạ vừa như để xua đuổi những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Cử chỉ đó kích thích lòng ngưỡng mộ của đám đông:
- Hoan hô, hoan hô…
Vài thanh niên cuồng nhiệt hét lên và tiếng vỗ tay ran khắp bốn phía. Trần Phương nghiêng đầu, khẽ nhún vai. Ông mỉm cười chờ đợi. Phải mười lăm giây sau, tiếng vỗ tay mới tắt hẳn. Ông bắt đầu:
- Thưa các bạn…
Linh ngước mắt lên. Thế giới chỉ tồn tại với cô trong gương mặt của người đàn ông ấy. Đôi mắt đen mênh mông dưới cặp mày đen như hai nét mực tàu. Một đôi mắt đầy ma lực. Khi cô gần gũi ông, ánh mắt ông êm dịu tựa như chúng ban phát những lời thầm thì và những vuốt ve. Giờ đây, nó bộc lộ mãnh lực chinh phục và khao khát. Điều đó khiến người đàn bà dường như ngây ngất, dường như bị phân tâm. Nhưng lát sau, cô trấn tĩnh lắng nghe và mỗi lúc mỗi kinh ngạc vì những lời Trần Phương vừa nói.
“Không, không lẽ lại như vậy, phải chăng đó là thủ pháp trong cách diễn đạt của Trần Phương?...”
Linh thầm nghĩ, cố gắng tập trung vào từng câu từng ý. Lần này, cô không còn hồ nghi nữa. Tất cả những lời nói với cô. Những từ ngữ kêu choang choang như chiếc kèn đồng, bóng lộn như mũi giày đánh xi, óng anh như mảnh thuỷ tinh dưới năng, chúng bao hàm một vẻ thành kính thái quá tới trào lộng, một niềm lạc quan giả dối tới mức người ta có thể ngờ vực đó là một trò đùa.
“Trời đất, có thật là ông ta đấy không?”
Dù đã rõ ràng, người đàn bà vẫn không thể chấp nhận được đấy là sự thực.. Mắt mở trừng trừng, cô nhìn lên diễn đàn. Nhưng không có trò ảo thuật ở đây. Vẫn chỉ là Trần Phương đấy thôi, ông vừa hất mái tóc lên, giơ tay chém vào không khí để phác một cử chỉ hào hùng. Vẫn giọng nói của ông thôi, nhưng khác biệt quá, tựa như các âm thanh vừa được đánh bóng lên như người ta lấy tro đánh bóng một chiếc thau đồng rỉ rét lâu ngày.
“Không, không thể nào”…
Cô buông lời kháng cự. Nhưng vô ích, Trần Phương còn đang nói trên kia, trước hàng ngàn cặp mắt ngưỡng mộ của đám sinh viên yêu âm nhạc, và loa phóng thanh truyền rõ từng hơi thở hào hển của ông, những chỗ nhấn giọng và những lúc với cao lên, lời răn dạy tuổi trẻ và tiếng thủ thỉ khuyên bảo của người đi trước…
“Kìa, ông ta vừa nhắc đến tên ai nhỉ?”…
Người đàn bà giật mình, cô níu lấy thành ghế nghe lại lần thứ hai. Trần Phương vừa nhắc đến tên người đã từng đẩy mình ra khỏi cương vị lãnh đạo năm năm trước. Ông ca ngợi ông ta ngọt ngào xuôn xẻ làm sao. Tên tuổi con người quyền thế này Linh đã nghe biết bao lần trong những lúc chuyện trò gần gũi. Trần Phương, với giọng điệu oán hờn, căm tức. Chính cô, vì tình yêu, cũng đã từng nguyền rủa ông ta, cũng đã có những giấc mơ rồ dại để thoả mãn lòng căm ghét. Giờ đay… Người đàn bà cúi xuống vì mặt cô bỗng nóng bừng như lửa đốt. Toàn thân cô đờ dại vì hổ thẹn tái tê. Một cái gì đó vừa đổ sụp trong cô như tiếng sét vừa bổ toác gốc cây trường thụ, như cơn sóng thần giật đổ bức thành đá cheo leo bên bờ biển ném xuống lòng đại dương cả khối đau buồn nặng trĩu đã tích tụ qua dằng dặc tháng năm. Thần tượng của cô đã đổ xuống rồi. Cái tích tắc ấy, Linh nhận được tất cả những cảm thức mơ hồ đã loé lên như đốm lửa rồi lại bị xoá đi bởi sự si mê cuồng dại. Kể từ buổi tối Trần Phương đưa cô tới phòng biểu diễn của Hội nhạc sĩ, mặt ông đã hiện lên vẻ lạnh lùng, tàn nhẫn của chiếc mặt nạ phơi dưới ánh đèn…
“Tiếng vỗ tay rào rào như đá lở vang lên bên tai Linh: Không hiểu ông ta vừa nói những gì nữa với đám thanh niên? Những lời lừa mị bao giờ cũng êm dịu”…
Trần Phương cười, nghiêng đầu trước sự cổ vũ nồng nhiệt của đám đông. Gương mặt ông tươi tắn hồn nhiên như trẻ nhỏ. Ông phác một cử chỉ từ chối người phục vụ bưng lên cốc nước giải khát, rồi bước xuống bục.
“Ông ta nhởn nhơ thật, con người này đến ma quỷ cũng không hiểu được tâm can”…
Người đàn bà nhói lên cơn đau rồ dại: Bao nhiêu đêm ngày cô đã tơ tưởng ông với trái tim đam mê và ngưỡng vọng. Bao nhiêu đêm ngày cô đã chịu đựng tủi nhục, cay đắng, thua thiệt vì ông?... Những âu lo, khắc khoải tàn phá tâm hồn và thể xác?... Tất cả hiện lên với bộ mặt trơ trẽn và buồn thảm. Cô đã ôm ấp đã thờ phụng một gã tiến sỹ giấy trong tủ kính phố Hàng Mã. Giờ đây, những lượt áo choàng giấy trang kim đã bị bóc ra tả tơi, rách nát, chỉ còn trơ lại chiếc rọ tre làm cốt bên trong.
- Tại sao mình lại gàn dở thế, lúc này là lúc mình được hưởng hạnh phúc vinh quang…
Linh tự nhủ. Nhưng ngay tức khắc, cô biết điều đó không thể có được. Cô không thể yêu Trần Phương được nữa khi ông ta vừa đứng trên bục cao, cũng là lúc cô nhìn rõ giá trị thật của ông. Còn ông, ông sẽ tìm ngay được một người đàn bà khác thế chỗ cô, và cô sẽ chỉ còn là bóng ma vật vờ trong ký ức của ông. Một ký ức ông sẽ thả mù sương để không còn phải nhìn rõ một ảnh hình nào…
Người đàn bà run lên. Cô không làm chủ được mình. Ý muốn trả thủ vụt dậy, và mỗi lúc một bùng lên như đám cháy rừng gặp gió.
“Lão ấy phải chết. Mình sẽ tiêu diệt lão”…
Đứa em gái quay sang:
- Chị Linh, làm sao thế, chị trúng gió rồi?...
Cô bé đỡ lưng chị, vừa lúc lời tuyên bố bế mạc vang lên trong loa. Sinh viên khắp giảng đường ồn ào xô ra cửa:
- Chị có đi được không? Em nhờ người gọi y tá đến nhé?
- Không.
Linh lắc đầu. Cô đã trở về, lăn ra giường tức khắc và cứ nằm như thế tới mười giờ sáng hôm sau. Trong khoảng thời gian chập chờn giữa những giấc ngủ ngắn và những cơn suy nghĩ lao lung, cô đã tiêu diệt Trần Phương một ngàn lần, đã nhục mạ ông một trăm lần, nhưng khi thức giấc, cô chỉ thấy mấy con muỗi vo ve bay quanh đầu và một vệt nắng trắng như bạc bò qua sàn nhà. Đầu nặng, chân tay rã rời:
“Chưa trả thù được lão ta, mình không có quyền ốm”.
Cô tự xoa bóp dầu, đi ăn sáng và uống thuốc. Mười một giờ, Linh lên lớp tiết cuối cùng. Sáng hôm sau, cô đến Hội nhạc sĩ, đứng chờ trước cổng. Trần Phương nhìn thấy cô ngay. Ông bảo cậu lái xe đưa xe vào trong sân còn mình đi tới người yêu:
- Mấy hôm nay anh bận quá…
Ông nhìn đôi mắt nảy lửa của cô, nói nhẹ nhàng: “Em tha thứ cho anh nhé, chưa có mọt phút rảnh nào để mang quà tới cho em”. Linh không đáp, cô vẫn nhìn ông trừng trừng như để đo đếm thêm một lần con người cô đã từng coi là mặt trời của cả thế gian. Trần Phương từng trải, ông hiểu rằng hiểm nguy đang chập chờn đâu đó quanh mình. Hạ thấp đôi mi dày xuống. Ông nói như nài nỉ:
- Tha thứ cho anh… Chủ nhật này mình sẽ lại có nhau…
Cô dường như không nghe ông nói, cô lẩm bẩm:
- Ông là kẻ dối trá hèn hạ. Ông là kẻ lường gạt…
Trần Phương nhìn quanh, đáp khẽ khàng:
- Đừng nói như thế, hãy bình tĩnh đi em.
Lúc ấy, Linh quắc mắt lên nhìn Trần Phương, khẽ gầm lên trong họng:
- Kẻ lừa đảo ti tiện, ông không giống con người tôi đã tưởng tượng chút nào..aotng honguanh d
Nhạc sĩ ngước mắt lên, đôi mắt đen ướt đầy vẻ giễu cợt. Ông cười:
- Em rồ dại quá, làm gì có con người trong tưởng tượng? Chỉ có con người giữa cuộc đời.
Tích tắc ấy, Linh thấy vẻ thương hại trong anh mắt Phương. Đấy là vẻ thương hại trong mắt tên đại bợm nhìn kẻ khờ khạo vừa bị gã nẫng sạch túi tiền:
- Đồ khốn nạn.
Người đàn bà bật lên tiếng kêu uất ức. Tiếng kêu nghẹn ngào không thoát khỏi họng. Trần Phương nhìn Linh với ánh mắt lạnh lùng và nói:
- Co dừng lại ngay. Thêm một cử chỉ nữa, tôi sẽ tống cô vào nhà thương điên.
Đôi mắt ông biến màu, xám như chì, độc ác và tàn nhẫn. Nói xong, ông quay lưng bước vào sân ngay. Cô thư ký từ trên gác chạy xuống:
- Báo cáo anh, hội nghị đang chờ anh.
- Tôi lên đây.
Nhạc sĩ đáp và sải chân bước. Không ai thấy cảnh tượng vừa xảy ra trừ vài người khách đi đường. Họ ngạc nhiên tò mò nhìn theo Trần Phương. Nhưng chỉ hai giây sau ông đã mất hút trong hành lang của tầng gác.
Mùa xuân trôi êm lắng như dòng nước ấm dưới đôi bờ cỏ. Thế rồi, chẳng mấy chốc mà đến tháng ba. Lúc mơn mởn ngoài cánh đồng, để những ai từ thành phố bước ra sẽ ngây ngất trước vẻ quyến rũ của cỏ cây và mùi thơm đằm thắm nơi đồng nội. Những con mưa phùn đã cuốn về non cao. bầu trời xanh màu xanh bí ẩn của buổi xuân tàn hạ tới. Khắp phố phường xao xác lá sấu lửa dịu dàng chen sắc lá non và cuốn vào chân du khách. Công nhân đô thị lùa chổi quét không ngơi tay nhưng thác lá vàng lộng lẫy kia không ngừng trút xuống phố phường niềm xốn xang êm ả. Mùa hè đã đứng ngoài ngưỡng cửa, rồi nó sẽ đem tới tưng bừng hoa phượng đỏ và ánh chói chang của bầu trời, nó sẽ đem tới tiếng chim rộn rã và tiếng ve ánh ỏi ban mai, nó sẽ đem tới nưhngx sung sướng oi nồng lẫn những ngột ngạt của giông gió… Đó sẽ là thời khắc trái cây chín nẫu và con người mỉm miệng cười sau khi đã lau dòng nước mắt trầm luân… Nhưng lúc này còn là thời khắc cuối cùng để ta ghi nhận một mùa xuân khắc nghiệt. Giữa tháng ba âm lịch năm ấy, trước Nhà hát lớn thành phố treo tấm biển quảng cáo cuộc thi các tác phảm nhạc không lời do Hội nhạc sĩ tổ chức.
Linh quanh quẩn mãi trước tấm biển đó, bị giằng xé giữa ý muốn có một tấm vé và trở về nhà. Người đàn bà không hiểu vì sao, sau bao nhiêu ngày đêm căm hận và đau đớn, giờ đây lại dậy lên niềm khao khát được nhìn thấy mặt Trần Phương:
“Tại sao, vì tò mò hay vì quá khứ?”…
Cô tự hỏi mình, rồi im lặng không dám đáp lời. Tình yêu và thù hận có thể ví như non cao và vực thẳm nhưng chúng không tương phản một cách đơn giản như thế. Trong đấy cùng sự thù hận vẫn có những hạt mầm đã ung thối của những đắm say. Vả chăng, khi đặt quá nhiều kỳ vọng vào một thần tượng nào đó, lúc sụp đổ rồi nó vẫn còn làm xáo động trái tim ta trong những cơn hốt hoảng.
“Tại sao?”…
Có thể đấy là nỗi tò mò, nhưng có thể đấy là cơn sốt của nỗi luyến tiếc vô hình tiềm ẩn trong tâm trí. Linh hình dung đôi mắt đen ảm đảm của ông với ngọn triều đen thẫm dâng lên trong những phút bất thần. Giọng điệu ngọt ngào và gian dối. Mái tóc chưa hề có sợi bạc, và hàm răng trắng ánh trẻ trung… Tình yêu của cô với con người đó nặng nền quá vì nó đã dồn tụ lại biết bao nhiêu đối cực tình cảm của đời người. Cô cần phải nhìn thấy ông ta, phải nhìn kỹ thêm lần nữa dù đó chỉ là những mảnh vỡ tượng thần.
Người đàn bà quyết định mua một tấm vé. Cô muốn mình cô tới Nhà hát hôm đó.
Ba hôm sau, tới đêm công diễn chương trình chung kết. Linh đến sớm nửa giờ. Đứng trên thềm nhà hát, cô nhìn những nhạc công từ ôtô buýt đi xuống, tay xách nhạc cụ, chân bước vội vã. Họ có vẻ như ăn cơm muộn hoặc vừa từ nơi hò hẹn tới đay. Gương mặt họ bình thản, người này cười, người kia nhăn nhó nói gì đấy với đồng nghiệp. Linh vào nhà hát, tìm đúng số ghế của mình. Cô vừa yên vị, chuông réo báo hiệu mười lăm phút nữa sẽ tới giờ mở màn. Vẫn chưa thấy Trần Phương đâu. Mười hai phút nữa, đúng lúc cô quay lại phía cửa, một nhóm người tiến vào. Trần Phương đi giữa bọn họ. Ông ta bận chiếc áo da sang trọng, cô đã quen nhìn, dù trời không còn rét lắm. Mái tóc cắt cao hơn khiến gương mặt ông có phần khô khan, khổ hạnh. Bộ râu quai nón được cạo nhẵn. Một phong thái nghiêm trang xa lạ vây bọc con người cô đã thuộc từng mụn ruồi nhỏ trên tay tựa hồ ông ta vừa được nhúng tgrong một dung dịch nào đó vớt lên. Bên cạnh Trần Phương, bà Hoa ngật ngưỡng bước, tay khoác tay chồng. Công chúng xì xào nhắc tên họ. Hai người dường như nở nang ra vì sung sướng, ông chồng hờ hững kiêu sa, còn bà vợ vênh váo như con gà mái. Họ đã tới cách Linh hai hàng ghế. Đột nhiên, Trần Phương cúi đầu xuống. Có lẽ vì đôi mắt sáng chói của cô thiêu đốt. Ông nhận ra Linh. Người đàn ông giật thót người, mặt tái đi. Mắt ông hiện lên nỗi thảng thốt. Môi ông run run, lắp bắp điều gì đó rồi ngay tức khắc, ông quay mặt, rảo bước vượt qua hàng ghế của Linh:
“Lão ấy run sợ”…
Linh nghĩ, nỗi háo hức phập phồng của cô tan biến: Một thằng hèn, chỉ có thế thôi… Không còn mảy may xao động, người đàn bà đưa mắt nhìn theo nhạc sĩ. Ông ta ngồi hàng ghế đầu têin, mái tóc bắt ánh đèn, sáng lên một mảng. Người giới thiệu trịnh trọng đọc chương trình rồi giới thiệu thành phần ban giám khảo. Trần Phương đứng lên đầu tiên. Tiếng vỗ tay rào rào. Linh không nghe thất gì ngoài lớp sóng âm kia. Chúng làm rung động những mảnh tan tác còn lại trong tâm hồn cô, giống như một cơn xoáy lốc cuốn bụi mù lên giữa một thành trì đổ nát. Cô là người đàn bà không tên tuổi. Một con số khiêm nhường giữa đám đống, lúc ấy, cô chợt hiểu được quyền lực của vinh quang và danh vọng. Sức mạnh thần bí đẩy con người lên đỉnh non thăng hoa hay hố thẳm của tội ác với cùng một gương mặt tươi cười. Trần Phương vẫn ngồi đó, dưới ánh đèn sáng rực. Hẳn ông ta biết điều cô nghĩ với ý thức của kẻ phục tòng. Con người hiểu hiểu tất cả những gì là cao cả, là tốt đẹp, là nhân ái nhưng lại sẵn lòng quên đi tức khắc. Loài chim đã hót lên khúc nhạc thanh khết của đời sống rồi lại thả tiếng hót ấy vào hang đá tối tăm…
Tiếng vĩ cầm bỗng réo rắt vang lên. Không, cả một dàn nhạc dây đã mở đầu bản giao hưởng thứ nhất trong đêm diễn. Linh không nhìn lên sân khấu, nơi người nhạc trưởng giơ chiếc gậy chỉ huy len múa với vẻ nồng nhiệt của kẻ cuồng si, nơi ánh đèn nhay trên những bộ phận mạ kền hoặc bằng đồng của nhạc cụ, lấp loá như chớp lửa. Cô cúi đầu vì lần hơi ấm áp đang trùm lên tất cả, dười như mẹ nghiêng xuống bên vai nựng nịu cô, dường như làn ánh sáng mờ nhạt của tà dương vừa chiếu rọi trong mắt cô ánh hồi quang của những chiều sung sướng, dường như dưới sương mù quên lãng, tiếng lao xao của sóng nước, tiếng rỉ ran cảu dế kêu, tiếng lảnh lót của chim hót, tiếng xạc xào của cây vườn vừa thức dậy cùng hoà tấu chào đón ban mai. Và bố cô, hiền từ trầm lặng dắt cô tới vườn hoa ngoại ô của thành phố. Ở đó, giữa những đoá xu xi vàng óng, giữa những bông cẩm chướng cánh mịn như nhung, giữa những bông mõm sói trắng tinh và những đoá thược dược đỏ gay gắt, cô bé Linh mải mê kiếm tìm những bí ẩn: nào là con ong mật rúc trong đài hoa loa kèn, nào là chú bò rùa lưng đỏ, cánh đen núp dưới tảng lá… Phải, đời sống sẽ mãi là những cuộc tìm kiếm mải mê như thế. Có chi đáng kể cho ta phải thất vọng sau mỗi lần vấp ngã đâu?... mỗi lần một ảo vọng tan vỡ là một lần con người lớn khôn lên. Mỗi lần ta xô đổ một tượng thần đất sét là một lần ta bước lên bậc thềm minh triết. Con người cần nếm trải đắng cay của thất vọng để tìm lại những hy vọng tốt lành…
“Không, không, con người ấy không đáng để ta phải huỷ hoại đời mình, không đáng để ta hằn thù và đau đớn”…
Người đàn bà nghĩ, bình thản nhìn nỗi đau của chính mình. Vì ông ta, cô đã phải hứng chịu biết bao nhiêu tan nát. Nhưng từ đó, cô đã thức tỉnh và lớn mạnh hơn. Con người sẽ mãi mãi không trưởng thành khi còn trao gửi niềm tin vào kẻ khác, cho dẫu đó là một thần tượng được vây bọc bởi hào quang chói lọi của trăm ngàn tinh tú cùng hội chiếu một lần. Con người cần phải đặt niềm tin và trao gởi hy vọng vào chính bản thân mình, bởi lẽ bằng chính đôi tay đôi chân của mình, họ sẽ đi tới cái đích tận cùng của đời sống…
Tiếng dàn nhạc dây vừa chìm xuống, âm giai thánh thót của cây dương cầm dội lên. Nó gieo vào trái tim người đàn bà niềm trìu mến vô tận của cuộc đời, tựa như tiếng mưa gõ trên mái nhà cô đơn một chiều xuân ngập nắng, vào thời khắc những con thú ra khỏi hàng ổ và những kẻ chán chường rũ lớp bụi mốc meo tù đọng trong tâm trí để hoà nhập vào dòng đời cuồn cuộn sinh sôi. Sau một tích tắc đột ngột im lặng, tất cả các nhạc cụ đều tấu lên khúc ca dạt dào của ngọn triều. Đại dương hiện lên với dài bờ đẫm sóng, làn nướ xanh bèo bọt, tàu bè và chim chóc, các cơn dông tố và những rạng đông…
Linh chợt nhớ hình ảnh thành phố biển mà cô đã cảm nhận vào cái đêm chối bỏ tình yêu với Nguyên. Mùi cá tanh lợm với lớp váng dầu trong bến cảng, những rêu rong lẫn xác cá trôi dạt vào bờ bãi… Giờ đây, cô sẽ nhìn chúng bằng con mắt dạn dày của kẻ đã nghiệm sinh. Không còn gì khiến cô phải thảng thốt đớn đau hoặc si mê cuồng vọng. Nỗi bất bình sẽ được đo đếm và niềm tin cũng chỉ gởi trao khi đã trải qua những nắng mưa… Cô không bao giờ tha thứ cho Nguyên, nhưng cô đã nhìn lại ở anh những cánh đồng vàng óng ngày mùa vườn quả chín và bóng cây trên hồ nước. Cô sẽ công bằng với anh hơn để mãi mãi chia ly cô chỉ có thể đi trên con đường của chính cô…
Tiếng vỗ tay ran lên trong Nhà hát. Người đàn bà thấy cần phải rời bỏ ngay tức khắc nơi đây để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc trong trái tim mình. Người chỉ huy cúi chào công chúng lần nữa, mặt ông ta đẫm mồ hôi. Linh chờ ông ta khuất sau cánh gà sân khấu, để đứng lên, rời khỏi ghế. Trần Phương quay đầu trò chuyện với một người trong ban giám khảo ngồi ghế sau. Thấy cô, ông cụp mắt xuống, ngoảnh sang nơi khác.
“Hèn mọn và thảm hại”…
Linh thầm nói. Rồi cô bước giữa hai hàng ghế, ra cửa. Cậu bé soát vé cửa hỏi:
- Chán hay sao mà về bà chị?
- Không, hay lắm. Nhưng tôi có việc phải về.
Linh gật đầu chào cậu ta, bước ra. Hết bậc tam cấp cô xuống lòng đường, thả bộ lững thững. Chợt ai đó cất tiếng sau lưng cô:
- Chào cô giáo Linh.
Người đàn bà quay lại và nhận ra gã hoạ sĩ ăn bận lôi thôi theo chiếc túi thổ cẩm đã gặp. Cô đáp:
- Chào anh.
Y rảo bước.
- Chị cho phép tôi đi cùng chứ.
- Vâng, tuỳ anh.
Y im lặng. Họ qua một quãng phố, tới ngã ba đường. Gã đàn ông băn khoăn định hỏi điều gi đó nhưng chưa biết cách mở đầu. Y nói:
- Chị... chị khoẻ chứ?
Linh nhìn y, bật cười:
- Cảm ơn, tôi cũng bình thường.
Gã dừng lại, chợt níu tay áo Linh nài nỉ khẩn thiết:
- Tôi xin chị một vài ngày… Tôi định vẽ chân dung thiếu nữ. Muốn phiền chị từ lâu nhưng không dám.
Ánh mắt say đắm của y nhìn cô chân thành. Linh bỗng tin cậy người đàn ông lập dị mà xưa kia cô thường xa lánh và ngờ vực. Cô hiểu rằng, với y, cô chỉ là một ráng mây trên ặmt biển, một sắc hoa giữa núi non, một dải nắng chiều trên cánh đồng xanh thắm… cô là một bộ phận của toàn thể cuộc sống trần thế mà y khát khao và thờ phụng, cuộc sống mà y yêu mê không tính toán mưu cầu:
- Vâng, ngày chủ nhật mời anh tới trường – Cô trả lời y - Giờ, tôi xin lỗi anh vì có việc bận.
Linh chào y, đi tới nhà quen cô gửi xe ở gần đó. Cô muốn trở về căn phòng nhỏ của mình ở thư viện, không bị thúc hối, không bận bịu nhưng cần yên tĩnh Người đàn bà bước đi trong thành phố. Lần đầu tiên cô không dựa đỡ vào một cứu cánh nào khác mà thấy mặt đất vững chãi dưới chân mình. Đêm dịu êm. Có thể nghe rõ tiếng lá xào xạc rụng lẫn tiếng nứt khẽ khàng của chồi non bung khỏi búp, của cánh hoa bật khỏi đài hoa, và phía sau những âm thanh ấy, còn những âm thanh câm nín khác, những âm thanh dội lên từ những dông bão thầm kín trong trái tim người, nơi mỗi sự thức tỉnh phải đổi bằng những đớn đau thua thiệt, nơi niềm hy vọng mới được xây cất trên thành trì đổ vỡ của những ảo vọng cũ, và đời sống như dây trường xuân sẽ trùm phủ lên những vồng hoa tươi thắm, bất chấp mọi tan nát, bất chấp mọi dối lừa…

Hà Nội, 27/5/1986
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đỉnh cao chói lọi 5XXXX

Đỉnh cao chói lọi 5 NGƯỜI ANH EM (4) Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nôn...