I. Mở đầu
Phong trào Thơ mới
(1932-1945) ra đời đã có ảnh hưởng rất lớn, rất quan trọng đến Văn học Việt
Nam, nó đã mở ra một cuộc cách tân sâu sắc và toàn diện cho thi ca Việt Nam đầu
thế kỷ XX. Chính vì vậy mà Thơ mới nổi bật với những đặc trưng không giống với
thi ca của bất kì giai đoạn nào.
Thư nhất là các nhà thơ mới
đã chối từ thực tại xã hội tầm thường để quay về với quá khứ tươi đẹp điều này
có thể thấy trong sáng tác của Thế Lữ, Chế Lan Viên, Vũ Đình Liên, …
Thứ hai là đề cao cái tôi cá
nhân như trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận…
Thứ ba là các nhà thơ mới vẫn
luôn mang trong mình một tâm sự yêu nước thầm kín thiết tha, sự trân trọng,
nâng niu cái đẹp như trong sáng tác của Bàng Bà Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, …
Trong phong trào Thơ mới, những
cây bút nữ chiếm vị trí không nhỏ đã có những đóng góp quan trọng vào sự hình
thành và phát triển của nền thơ ca dân tộc. Nhà thơ Nguyễn Thị Manh Manh là một
trong số những người đi tiên phong cho sự lên ngôi và thắng thế của Thơ mới.
Các tên tuổi khác như Mộng Tuyết, Ngân Giang, Vân Đài, Hằng Phương, Anh Thơ đã
bước vào làng Thơ mới và để lại những dấu ấn riêng.
Sự xuất hiện tiếp nối nhau của
các cây bút nữ tuy không gây bất ngờ trên thi đàn những năm ba mươi, bốn mươi,
tuy không khiến độc giả sửng sốt nhưng đã trở thành hiện tượng khiến làng thơ rộn
ràng. Bởi lẽ, tất cả họ đều đã hội nhập với phong trào bằng tâm hồn, cảm xúc và
giọng thơ mang hương sắc riêng, ăm ắp thiên tính nữ. Mỗi nữ sĩ mang một hơi thở
khác nhau, riêng biệt và trong những nữ sĩ ấy nhóm chúng tôi xin được
giởi thiệu đến cô và các bạn một nhà thơ nữ vừa chân tình lại vừa mộc mạc “Nữ
thi sĩ Anh Thơ”.
II. Nội dung
1. Giới
thiệu về Nữ thi sĩ Anh Thơ
1.1. Cuộc
đời
Tên thật là Vương Kiều Ân,
còn có các bút danh khác là Kiều Việt Thị, Kiều Việt Hương. Sinh ngày 25/1/1921
tại Thị xã Ninh Giang (thuộc tỉnh Hải Dương cũ). Cha là Vương Đan Lộc, đỗ tú
tài khoa Thi Hương cuối cùng của chế độ nhà Nguyễn. Mẹ là Kiều Thị Thư, con gái
cụ phó bảng Kiều Oánh Mậu.
Từ bé Anh Thơ chịu nhiều ảnh
hưởng thơ văn yêu nước của ông ngoại, thấm được chất thơ dân gian
trong các chuyện kể của bà nội. Bảy tuổi bà đã mê thơ và dấu cha mẹ làm thơ.
14 tuổi có thơ đăng các báo
Đông Phương, tiểu thuyết thứ Năm, báo Đàn Bà,…
Năm 1939 được giải thưởng
thơ của Tự Lực Văn Đoàn với tập “Bức Tranh Quê”. Năm 1941 cộng tác với Báng Bá
Lân ra tập thơ “Xưa”. Năm 1942 cộng tác với Quỳnh Dao ra báo Đông Tây. Năm 1943
xuất bản tiểu thuyết “Răng Đen” (Nhà xuất bản Nguyễn Du).
Anh Thơ đã tập hợp với các
chị Vân Đài, Hằng Phương, Mộng Tuyết lần đầu tiên ra tập thơ chung của nữ lấy
tên là “Hương Xuân”, do nhà xuất bản Nguyễn Du xuất bản.
Cuối năm 1944, đầu năm 1945
Anh Thơ viết tập thơ “Đói” miêu tả thảm cảnh của nhân dân lao động nhất là nhân
dân ta trong nạn đói. Tập này bị kiểm duyệt, nay chỉ còn hai bài.
Tháng 4/1945 bà thoát ly gia
đình theo Cách mạng. Trong thời gian này bà viết nhiều thi ca, hò, vè để cổ động
phong trào phụ nữ.Cách mạng Tháng 8 thành công bà được bầu vào Ban thường vụ phụ
nữ tỉnh Bắc Giang.
Năm 1947 bà lên Bắc Sơn công
tác. “Kể chuyện Vũ Lăng”, ra đời trong thời kỳ này đánh dấu sự mở đầu cho giai
đoạn thơ ca Cách Mạng. Năm 1948 về làm báo Phụ nữ, năm 1949 kết nạp vào Đảng. Từ
năm 1950 đến 1955, bà thành lập “Chi hội Văn nghệ” đầu tiên của tỉnh Bắc Giang
và viết truyện ngắn. Năm 1956, Anh Thơ là một thành viên trong đoàn Nhà văn Việt
Nam sang thăm Liên Xô. Từ năm 1960 đến 1965 bà về công tác tại Nhà Xuất Bản Văn
Học. Từ 1965 đến 1969 bà vào tuyến lửa Quảng Bình-Vĩnh Linh. Từ 1970 đến 1975
công tác tại Tạp chí “Báo mới”, làm biên ủy phụ trách thường trực. Từ năm 1975
bà đi thực tế miền Nam tập “Quê Chồng” ra đời. Từ 1980 đến 1982 tập Hồi ký “Từ
Bến Sông Thương” được hoàn thành và đầu năm 1986 ra mắt bạn đọc.
Ngày 14 tháng 3 năm 2005 bà
mất tại Hà Nội do bệnh ung thư phổi.
Anh Thơ được Nhà Nước tặng
Huân chương kháng chiến Hạng nhì, Huân chương chống Mỹ hạng nhất, Huy Chương về
thế hệ trẻ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Huy hiệu cộng tác Phụ nữ
10 năm của Hội liên hiệp phụ nữ Trung ương và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học và Nghệ thuật năm 2007.
1.2. Các
tác phẩm chính của Anh Thơ
Các tác phẩm đã xuất bản:
Về thơ có: Bức Tranh Quê, tập
thơ Xưa, Hương Xuân, Kể chuyện Vũ Lăng, Theo cánh chim câu, Đảo ngọc, Hoa dứa
trắng, Mùa xuân màu xanh, Quê chồng.
Về tiểu thuyết thì có tiểu
thuyết “Răng đen”.
Về Hồi ký có “Từ bến sông
thương”.
1.3. Quan
niệm của Anh Thơ về cuộc đời và nghệ thuật
Trong suốt quá trình sáng tác, Anh Thơ luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi để tạo
cho mình có một phong cách sáng tạo riêng, độc đáo. Bà quan niệm: “Thơ phải ngắn
gọn, không nên rườm rà, phải nói ít viết ít mà người đọc lại hiểu nhiều. Thơ
hay phải là những gì tinh túy, vĩnh cửu nhất từ tâm hồn con người. Người làm
thơ cũng đừng cầu kì câu chữ quá mà khiến cho người đọc khi đọc rồi cứ phải suy
luận”. Quan điểm này được thể hiện rõ nét trong các sáng tác của bà. Từ tập Bức
tranh quê, với lối viết giản dị, chân chất mà mộc mạc, dễ đi vào lòng người cho
đến sau Cách mạng, những con người kháng chiến cũng hiền lành, giản
dị mà dũng cảm. Bên cạnh quan niệm thơ ca phải ngắn gọn, nói ít, viết ít mà người
đọc dễ hiểu Anh Thơ còn có cách nhìn mới về cuộc đời, về nghệ thuật. Đó là để
sáng tác được những tác phẩm hay, có giá trị người nghệ sĩ cần phải đi thâm nhập
cuộc sống, phải lăn lộn với cuộc sống để hiểu đời, hiểu người. Quan điểm này
cũng đã được Anh Thơ đúc kết và trải nghiệm. Sau cách mạng và kháng chiến, Anh
Thơ đã trải qua rất nhiều công việc khác nhau như làm báo, công tác
phụ nữ, cứu thương… và bà cũng đã đi rất nhiều nơi từ Bắc vô Nam, từ miền xuôi
đến miền ngược.
2. Cảm
hứng sáng tác chủ đạo trong thơ Anh Thơ với Phong trào “Thơ mới”.
2.1. Tình
yêu thiên nhiên
Xưa nay thiên nhiên là một đề
tài vĩnh cửu trong thơ ca. Khác hẳn là vượt lên lối “thác ngụ cổ điển”, Thơ mới
với sự bùng phát của ý thức cá nhân đã như phát hiện lại thiên nhiên. Và Anh
Thơ đã không thoát khỏi điều ấy. Nhắc đến thơ Anh Thơ, người ta nghĩ nhiều đến
tập “Bức tranh quê”, đó là tập thơ đầu tay góp phần đưa nữ sĩ vào làng văn. Đã
từng có nhận xét cho rằng: “Ưu điểm nổi bật của Anh Thơ ở tập thơ đầu tay này
là bút pháp tả cảnh: chỉ vài chi tiết, chị đã gợi tả được thần thái cảnh vật.
Có lẽ đây là sự kết hợp của một tâm hồn nhạy cảm còn nhiều xao xuyến
của tuổi mới lớn, với một sự hiểu biết đời sống chốn thôn quê. Những hình ảnh
thân quen của thiên nhiên, của quê hương đã đi vào thơ chị một cách nhẹ nhàng
mà đằm thắm. Mỗi bài thơ mang một dáng vẻ riêng, một màu sắc riêng đó là nhờ
ngòi bút chấm phá, khắc họa mà Anh Thơ sử dụng, và diều đặc biệt
hơn đó là do tâm hồn tuổi trẻ của tác giả, một tâm hồn tràn ngập sự yêu đời,
lãng mạn, ẩn trong đó là cả một tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương dạt dào, da
diết. Qua cảm xúc ,ánh mắt của nhà thơ nữ Anh Thơ thì những cảnh vật
cũng trở nên mềm mại, dịu dàng, nữ tính như một cô gái mới lớn vậy .
“Và nhè nhẹ trong tơ trăng
phơ phất
Khóm tre xanh lướt gió uốn
cung đàn
Làng xóm lặng đi say trong
giấc ngát
Những hương đào hương lý dậy
miên man.”
(Đêm trăng xuân)
Tuổi thơ êm đềm gắn bó với
cánh đồng bát ngát, còn cò, bên sông, quê hương sớm chiều mưa nắng. Chính điều
này là nền tảng khơi nguồn cho dòng suối cảm xúc trong thơ bà với
phong cách thơ bình dị mà sâu sắc qua từng câu chữ, qua bao cảnh sắc vùng thôn
quê mộc mạc giản dị mà rất đỗi thân quen. Dù ở chốn thị thành, dù quen với nếp
sống đô hội, vẫn có trong máu thịt mình cái hồn quê. Đó là tiếng ru
con của người mẹ, là những câu ca dao, là lũy tre làng, là chiếc cổng đình, là
con đường vàng rơm mùa gặt… Nhưng một hồn quê thấm đẫm trong thi ca như Nguyễn
Bính thì thật hiếm. Về nặt này, với bức tranh quê, Anh Thơ đứng kề bên Nguyễn
Bính, Anh Thơ khiến cho người đọc phải sửng sốt trước nhưng câu thơ tả cảnh quê
vừa chân thực vừa đẹp lạ lùng của bà, mới có cảnh xuân thôi mà đã hiện
lên với bao dáng vẻ, khi là một hiều xuân với:
“Mấy cánh bướm rập rờn trôi
trước gió
Nhưng trâu bò thong thả cúi
ăn mưa”.
Khi là một đêm xuân:
“Tàu chuối láng tre mặt
trăng xấu hổ
Khóm tre già đội gió đứng
bên ao”.
Khi là một cành trăng xuân:
“Đồng trăng lặng lẽ sương mù
buông bát ngát
Ao âm thầm mây tối ngập miên
man”
Suốt
dọc những trang thơ của bà khung cảnh thiên nhiên hiện lên với những bức tranh
quê là những con đường ven đê, đó là đàn cò trắng… Ngòi bút của nhà thơ đã tạo
nên nững bước chấm phá màu sắc khá đẹp. Nếu như cảnh thoáng buồn ở khổ thơ đầu
thì giờ đây đã được dung hòa lại, bằng cái màu sắc của sự sống dù đó chỉ là ngọn
cỏ.
“Ngoài đường đê cỏ non tràn
biếc cỏ
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu
vơ”.
Thiên
nhiên trong thơ Anh Thơ hiện lên thơ mộng hiền hòa. Bên cạnh những đồng
lúa xanh rờn, những đàn cò tung cánh bay thì dòng sông, bến đò trở
thành một hình ảnh cũng rất quen thuộc trong những vần thơ của bà: bến đò đêm
trăng, bến đò ngày mưa, bến đò ngày phiên chợ, …Bên đò lúc vắng lặng không bóng
người bởi những ngày mưa, cũng có lúc ồn ào nhôn nhịp vào những ngày chợ phiên. Cảnh
vật được chấm phá, phối sắc hài hòa, ý vị. Có màu tím của hoa xoan, màu biếc của
cỏ non, sắc đen của bầy sáo, màu xanh rờn của đồng lúa. Và nổi bật nhất, xinh
tươi nhất là chiếc yếm thắm của cô thôn nữ, cô đang cần mẫn cào cỏ trên ruộng
lúa.
Anh
Thơ sử dụng từ láy tượng hình một cách đắc địa, làm nổi bật cái êm đềm, vắng lặng,
xôn xao của cảnh vật trong một chiều xuân mưa bụi: êm êm, im lìm, vắng lặng,
tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.
“Chiều xuân” là một bức
cổ hoạ xinh xắn.Không phải cảnh lầu son gác tía, mà là cảnh bình dị, thân thuộc
nơi đồng quê, làng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ ngày xưa, là hồn xuân xứ sở. “Chiều
xuân” là một bài thơ hay và đậm đà.
“Mưa đổ bụi êm đềm trên bến
vắng
Đò biếng lười nằng nặc nước
sông trôi…
Quán tranh đứng im lìm trong
vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng
tơi bời .”
Mở
đầu bài “chiều xuân” tác giả miêu tả khung cảnh chiều xuân trên một bến đò
vắng ở vùng thôn quê Đồng bằng Sông Hồng. Thiên nhiên hiện lên hiền hòa, êm đềm
những cơn mưa bụi li ti rơi nhẹ tắm mát cho những chồi non, cơn mưa xuất hiện
trên trang thơ bà rất nhẹ nhàng, lặng lẽ trên bến đò vắng khách, cảnh
vật thoáng chút buồn tĩnh lặng, se thêm cái lạnh của tâm hồn bằng sự
trống trải.
“Mưa bụi êm đềm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc dưới
sông trôi”
Nhịp mưa rơi, nhịp con song
vỗ nhẹ, nhịp con dò đong đưa trên mặt nước hòa vào nhau, tạo nên bức tranh sâu
lắng bao cảm xúc. Ánh mắt nhà thơ lại chuyển hướng tới một điểm nhìn mới và ở đó
nhà thơ cũng bắt gặp được sự tĩnh lặng đang bao trùm.
“Quán tranh đứng im lìm
trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng
tơi bời”
Cảnh
chiều xuân có gì đó như vắng lặng, đượm buồn thì trái ngược lại với “Cảnh trưa
hè” với những gam màu nổi bật, tươi vui, trẻ trung. Đó là màu trắng tinh khôi của
của mây, sắc đỏ của lựu, hay màu vàng rực rỡ của những chú bướm hòa quyện lại tạo
nên một bức tranh vô cùng bắt mắt.
“Trời trong biết không qua
mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh
diều xa
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng bước
bay qua”.
Xuân,
hạ, thu, đông là quy luật vận động của vũ trụ, của thiên nhiên thì trong thơ
Anh Thơ cũng không thể thiếu.
“Hoa mướp rụng từng đóa
vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn
ngơ bay”
(Sang thu)
Đặc
biệt nhất là viết về mùa hè, Anh Thơ như không ăn không ngủ chỉ đứng yên lặng
quan sát sự chuyển tiếp của thời gian,không gian đến từng giây phút , được tác
giả viết ra các bài thơ: “Vào hè” “Sáng hè”, “Trưa hè”, “Chiều hè”, “Đêm hè”…Những
hình ảnh cánh đồng lúa, cánh diều, tiếng ve, ánh sáng đom đóm, bờ tre làng, hay
làn khói lan tỏa từ những mái tranh…trở nên thật sống động và đáng yêu.
Không chỉ có những hình ảnh
của thiên nhiên, làng quê đi vào thơ Anh Thơ; mà còn có cả những tâm tình, tình
yêu con người cũng trở nên đằm thắm, sâu sắc trong thơ Anh Thơ.
“Ngoài cổng chợ từng dẫy
người bán lá
Các ông già chống gậy đến
tranh mua
Cùng trong lúc dắt nhau cười
hỉ hả
Đĩ con mừng được
mẹ sắm bùa tua”
( Tết mồng năm)
Hay trong cảnh “Chợ chiều”
“Bên ao vắng nước bèo dềnh
ngập tối
Chòm tre xanh im lặng đứng
ôm bờ
Một ông lão ăn mày dò dẫm lối
Bước gậy lần thăm quán ngủ
bơ vơ”
Tình
yêu thiên nhiên được thể hiện rõ nét ,sâu sắc trong tập thơ “Bức tranh quê”.
Bên cạnh đó tâm tình đó lại được thể hiện trong đa số những sáng tác của bà.
Trong tập “Quê chồng” (1979) những hình ảnh đặc trưng của miền quê sông nước
Nam bộ: chiếc xuồng máy, nhà sàn, cây mắm, cây đước ...hiện lên một cách rất
thực, rất sinh động:
“Xuồng chạy về đâu, máy nổ
nhanh
Nhà sàn vùn vụt, mái lênh
đênh
Mắm chen chân đước, rừng
trên nước
Cả lặng im trùm giữa lặng
tênh”
Cảm
hứng sáng tác về quê hương, về thiên nhiên xuyên suốt trong quá trình sáng tác
của Anh Thơ thể hiện được phần nào con người bà, một tình yêu gắn bó, sâu đậm
giữa con người nhà thơ và thiên nhiên.
2.2. Tình
yêu con người
Con người và
thiên nhiên là hai hình ảnh xuyên suốt trong sáng tác của nữ thi sĩ Anh Thơ,
bên cạnh tình yêu quê hương được thể hiện qua những vần thơ mộc mạc, gần gủi,
thì hình ảnh con người cũng được thể hiện một cách rõ nét, chân thực. Hình ảnh
con người Việt Nam đã đi vào trong văn, thơ một cách tự nhiên với những hình ảnh
bình dị, chất phác. Những vẻ đẹp đó chính là thước đo, là chuẩn mực của cái đẹp.
Trong thơ của Anh Thơ, con người xuất hiện một cách tự nhiên, chân thực. Họ sống,
tồn tại trong một không gian thôn quê nên dường như họ mang trong mình những
nét đẹp rất mộc mạc, trong sáng, đậm đà chân quê.
Vẻ đẹp của những
con người Việt Nam, trước hết là những cô gái quê, mỗi người con gái đều mang
trong mình vẻ duyên dáng, chân thật, dù cho họ là những cô gái đang làm cỏ như
trong bài thơ chiều xuân, hình ảnh cô gái thật giản dị, gần gủi:
Trong đồng hoa lúa xanh dờn
và ướt lặn
Lũ cò con chốc chốc vụt bay
ra
Làm giật mình một cô nàng yếm
thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
(Chiều xuân)
Trong thơ của Anh Thơ dừờng
như con người và thiên nhiên hòa quyện vào nhau, con người là chủ thể của thiên
nhiên, tác giả lấy những hình ảnh thôn quê để làm nổi bật lên cô nàng yếm thắm..
Không chỉ là những cô gái
duyên dáng nhà nhơ của chúng ta còn mang hình ảnh của những ông cụ, bà cụ mạng
những suy tư trong cuộc sống:
Ngoài ngõ lội, ông già lần
buớc gậy
Thăm đồng về lo lắng cứ
không vơi.
Trong bếp uớc mẹ cu ngồi
sàng sẩy
Mắt băn khoăn thỉnh thoảng
ngước trông trời.
(Chiều
thu)
Vẻ đẹp con
người còn được thể hiện qua những cảnh sinh hoat đời thường, khi viết về những
người dân quê nghèo khó, một nắng hai sương, chân lấm tay bùn Anh Thơ không
dùng những hình ảnh quê mùa để miêu tả họ mà thay vào đó là những con người chất
phác, hiền lành, thật thà. Qua đó thể hiện được tình yêu quê hương, yêu con người
của tác giả như trong bài thơ chợ ngày đông:
Mụ hàng cá luôn mồm xoa
xuýt rét,
Chị gánh rau lập cập đỗ quang mây.
Chị gánh rau lập cập đỗ quang mây.
(Chợ ngày đông)
Hay là ông thầy
bói, bà bán bún:
Những
thầy bói ôm tráp ngồi sốt ruột,
Các bà già bán bún lặng nhìn nhau.
(Chợ ngày thu)
Các bà già bán bún lặng nhìn nhau.
(Chợ ngày thu)
Tình yêu con người còn được
thể hiện qua tình yêu nam nữ:
Giờ một mình em ngắm liễu
đây!
Thu chưa se sắt đã thân gầy.
Anh đi buổi mới mù mây nước
Chớp mắt hai mùa sương trắng bay!
(Chớp mắt)
Thu chưa se sắt đã thân gầy.
Anh đi buổi mới mù mây nước
Chớp mắt hai mùa sương trắng bay!
(Chớp mắt)
Đó là tình yêu nam nữ bình dị
chân thành và đầy những mong nhớ, đợi chờ…
Và cuối cùng điều mong đợi
nhất trong tình yêu cũng đuợc nhà thơ mang vào trong những vần thơ du
duơng ngọt ngào thắm tình nhưng mộc mạc:
Chú rể thẹn, ngập ngừng
đưa bước chậm
Quần chúc bâu sột soạt chưa phai hồ.
Áo nâu thắm cô dâu nghiêng nón thấm
Đôi má đào trào lệ nhớ nhà cô.
(Đám cưới)
Quần chúc bâu sột soạt chưa phai hồ.
Áo nâu thắm cô dâu nghiêng nón thấm
Đôi má đào trào lệ nhớ nhà cô.
(Đám cưới)
Bên cạnh đó còn rất nhiều
hình ảnh đó là những mụ già bán cá những chị hành rau, chị hàng quạt, bà bán
bùn hay những cụ già những bô lão..từ đây có thể thấy nhà thơ như yêu thuơng hết
thẩy những con người bình dị nhấy lắng nghe những cái thở dài hay những khó
khăn của họ.
Nếu như hình ảnh của những
con người ở vùng thôn quê được Anh Thơ thể hiện một cách chân thực, giản dị, đậm
đà chân quê thì hình ảnh những con người kháng chiến cũng được thể hiện một
cách chân thật, là hình ảnh của con người yêu nước và căm thù giặc. Họ những
người con của tổ quốc, là những người mẹ, người chị, người chiến sĩ..., họ vừa
tham gia sản xuất, xây dựng đất nước, vừa mang trong mình ngọn lửa chống giặc
ngoại xâm, họ sẵn sàng chiến đấu khi có giặc. Đó là hình ảnh của những cô gái hậu
phương vừa tăng gia sản xuất, vừa chuyên chở lương thực ra chiến tuyến; là
hình ảnh của người dân công trong Gánh thóc khao quân đầy tinh thần trách nhiệm;
hay là hình ảnh của người chiến sĩ Bình ca ngày cũng như đêm, không quản gian
khổ, đói rét vẫn truy kích giặc đến cùng… Tất cả những con người đó, họ không
những chiến đấu để làm chủ cuộc đời mình mà hơn thế nữa họ là con người đảm nhận
sứ mệnh vĩ đại của lịch sử, đó là chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê
hương đất nước.
Trong thơ Anh Thơ,
hình ảnh bao trùm, xuyên suốt và có sức lay động lòng người nhất là hình ảnh người
phụ nữ yêu nước thương dân, một lòng với cách mạng. Họ là những con người luôn
sẵn sàng hi sinh vì đất nước, lặng lẽ góp sức mình vào cuộc kháng chiến. Đó là
hình ảnh của người phụ nữ trong Kể chuyện Vũ Lăng, mặc dù khốn khổ, nghèo khó,
vất vả, nhưng chị đã đặt tình yêu quê hương, tổ quốc lên trên, chị đã vượt qua
những đau khổ của cá nhân để ca ngợi, để vui cùng niềm vui của nhân dân, để
cùng chia sẻ những khó khăn, nỗi buồn với họ; hay là hình ảnh của cô giáo nơi hậu
phương không quản đêm đông giá lạnh, quan tâm dìu dắt học sinh; là hình ảnh của
cô kĩ sư chăn cừu, cô coi những chú cừu như con nhỏ, chăm lo cho chúng từng bữa
ăn, giấc ngủ trong đêm đông hay ngày nắng gắt; là hình ảnh của những người phụ
nữ dân quân vừa bám làng sản xuất, vừa chiến đấu; là những người con gái trẻ đã
không tiếc cả tuổi thanh xuân của mình quên đi hạnh phúc riêng tư để hi sinh
thân mình cho Tổ quốc...Qua những hình ảnh đó, có thể thấy rằng hình ảnh người
phụ nữ trong thơ Anh Thơ là những người anh hùng nhưng cũng lại hết sức khiêm tốn, dịu
dàng, nhân hậu, lặng lẽ tỏa sáng,họ lặng lẽ hi sinh hạnh phúc của bản thân để đấu
tranh bảo vệ đất nước, vì nước quên thân, vì tổ quốc quên mình.
Anh Thơ đã thể hiện tình yêu
của mình dành cho con người với những hình ảnh chân thực, đẹp nhất. Dù cho họ
là những con người thôn quê chân lấm tay bùn; hay là những cô gái hậu phương
tham gia chiến đấu, thì những con người đó đều mang trong mình vẻ đẹp riêng,
nhưng điểm chung là họ luôn mang trong mình dòng máu yêu quê hương, đất nước.
2.3. Cái
tôi trữ tình
Nói như Hoài
Thanh “Trong xã hội Việt Nam xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể… Cũng có những
bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn
thơ,…Mỗi khi nhìn vào tâm hồn hay đứng trước loài người mênh mông, hoặc họ
không tự xưng hoặc họ ẩn mình sau chữ “ta”, một chữ có thể chỉ chung nhiều người…” [1]. Có thể nói việc
xưng “tôi” chính là bước đầu tiên của việc thể hiện “cái tôi” trong tác phẩm,
là nền tảng để hình thành nên tính “tự họa” trong văn chương. Và trên thi đàn
Việt Nam những cách xưng hô mang tính tự ý thức về bản thể cá nhân, trước khi
được định hình thành cái tôi cũng phác họa được phần nào. Đó là lời trăn trở của
Nguyễn Du:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khắp Tố
Như” [2]
Nhưng có lẽ việc thể hiện đó
chưa phải là sự tự ý thức một cách vẹn toàn. Nên chăng, cái tôi phải được điểm
màu thêm hương, nổi bật trong miếng trầu têm cánh phượng của hồ xuân hương:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu
hôi
Này của Xuân Hương đã quyện
rồi” [3]
Thời
đại của những bức tranh thủy mặc dần xa, nơi mà con người hiện lên qua một nét
mực, như một chấm đen nhỏ nhoi trước thiên nhiên kì vĩ. “Cái tôi” dường như được
“vẽ” rõ ràng hơn, dẫu màu còn nhạt sắc còn phai, nhưng diện mạo con người thì
đã dần lộ diện. Để đến một ngày, khi biến động của thời đại xô vào những luồng
tư tưởng của giải phóng và cách tân ùa qua, nâng cánh cho những bức chân dung
tiên phong đầu tiên của người Việt Nam hiện hữu. Trong những bức chân dung tự họa
đó, ta dường như nhận ra ngay Anh Thơ với những tông màu mới mẻ còn chưa kịp
khô và thoảng những hương nồng.
Trong
sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái Tôi của mình trên trang
viết. Cái Tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi
hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mỹ cao, có khả năng
đóng góp tích cực cho nền văn học chung.
Cái
Tôi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thi ca, có vai trò quan trọng
trong thơ với tư cách là trung tâm để bộc lộ lại tất cả suy nghĩ, tình cảm,
thái độ được thể hiện bằng một giọng điệu riêng. Một cái tôi trữ tình phong phú
tựa như viên nam châm luôn luôn có sức hút về phía mình sự giàu có của cuộc đời. Đặc
điểm của cái tôi trữ tình phụ thuộc vào phong cách của mỗi nhà thơ, của các
trào lưu, khuynh hướng. Chính vì vậy, mỗi thời đại có một kiểu cái tôi trữ
tình đóng vai trò chủ đạo. Đi vào tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ của nữ
thi sĩ Anh Thơ, chúng ta nhận thấy ở thơ bà chủ yếu ở các dạng thái: Cái
tôi trữ tình ngợi ca tự hào, Cái tôi trữ tình đời tư thế sự, cái tôi trữ tình
chiêm nghiệm triết lí.
Có lẽ cuộc sống
đã ngấm sâu vào máu thịt nên nữ sĩ Anh Thơ đã tự nhận xét về mình: "Nhờ đã
thuộc cảnh hiểu người" nên bà không cảm thấy khó khăn gì khi trải lòng lên
trang giấy. Đọc tác phẩm của Anh Thơ, người đọc cảm thấy khoan khoái, mới lạ
nhưng hết sức tự nhiên:
“Ta nhớ nàng Thơ xưa mến
yêu,
Chiều xuân đủng đỉnh cáng yêu kiều.
Trao hồn man mác tình non nước,
Những vận thơ vàng phơi phới gieo”.
Chiều xuân đủng đỉnh cáng yêu kiều.
Trao hồn man mác tình non nước,
Những vận thơ vàng phơi phới gieo”.
(Chiếc cáng thơ)
Dù
không được đào tạo qua một trường lớp văn chương nào trên ghế nhà trường, nhưng
thơ của Anh Thơ vẫn nặng ở chiều sâu ý nghĩa. Cái tôi trữ tình nhà thơ luôn hòa
nhập cùng cuộc sống, cái tôi ấy không bao giờ là một cá nhân cách biệt mà nằm
trong cấu trúc cuộc sống, để tìm sự đồng cảm, san sẻ những nghĩ suy, chiêm nghiệm.Vì
thế, ta bắt gặp trang thơ của Anh Thơ bàng bạc chất triết lí - chiêm nghiệm.
Thơ bà không dừng lại ở cảm quan bề ngoài mà luôn đi sâu vào bên trong đối tượng
để khám phá, phát hiện bản chất của vấn đề, biểu lộ một hồn thơ giàu suy tưởng
và đa cảm:
“Tôi đến Clouj
Những ngọn đồi bao quanh thành phố
Những ngọn đồi bao quanh thành phố
Những nhà thờ cò
Tháp chuông nhọn hoắt trời xanh.
Từng từng cửa nắng long lanh...
Tháp chuông nhọn hoắt trời xanh.
Từng từng cửa nắng long lanh...
Những mắt người xinh gặp gỡ.
Tất cả... và tất cả...:
Đều làm tôi yêu mến thân tình.
Tất cả... và tất cả...:
Đều làm tôi yêu mến thân tình.
Nhưng làm cho lòng tôi xao
xuyến.
bâng khuâng...
bâng khuâng...
Trong nhà kính, rèm xanh mát
rượi”.
Cái tôi cá nhân cả thể với
nhiệt tình cống hiến cho lý tưởng.Vậy nên chúng ta hiểu cái tôi trữ tình trong
thơ là sự bày tỏ cảm xúc riêng của nhà thơ trước cái vấn đề của xã hội, trước sự
phát triển của lịch sử dân tộc. Sẽ không có được thơ trữ tình chính trị Anh Thơ
nếu thiếu đi cái tôi cá nhân, nếu không có con người nhiệt huyết trong thơ ca
cách mạng cận hiện đại.
“Tôi muốn nói cùng các bạn
bè xa
Từ người con gái anh hùng Xô-viết.
Trên giường bệnh ôm trái tim da diết
Bút giấy bên mình, lo viết cho Việt-nam
Đến người con trắng giải băng tang.
Thương nhớ Bác từ phương trời Thụy điền
Hắn hôm nay các chị càng xao xuyến.
Với những lời vẫn trang sách sáng ngời.
Đã góp phần chiến thắng cho quê tôi”.
Từ người con gái anh hùng Xô-viết.
Trên giường bệnh ôm trái tim da diết
Bút giấy bên mình, lo viết cho Việt-nam
Đến người con trắng giải băng tang.
Thương nhớ Bác từ phương trời Thụy điền
Hắn hôm nay các chị càng xao xuyến.
Với những lời vẫn trang sách sáng ngời.
Đã góp phần chiến thắng cho quê tôi”.
(Hai nhăm năm)
Và
cái Tôi trữ tình còn được thể hiện qua những vần thơ mang âm điệu của tình yêu
đôi lứa, của tình cảm gia đình, với những hình ảnh thiên nhiên rất đỗi bình dị,
hòa lẫn với nỗi nhớ nhung da diết:
“Em về anh lại bay đi
Nhớ nhau cả một mùa hè, nắng khơi
Sáng nay, gió gọi cửa ngoài
Se se lá mướp hoa cài ánh sương
Chân trời mây trắng ngổn ngang
Mắt ai, mây có ngợp đường chia xa?
Đường anh, em đã từng qua
Bên dòng Đa-nuýp. nhìn hoa nhớ người
Mùa thu bên ấy, tuyết rơi
Mùa thu Hà Nội liễu phơi tơ vàng…”
Nhớ nhau cả một mùa hè, nắng khơi
Sáng nay, gió gọi cửa ngoài
Se se lá mướp hoa cài ánh sương
Chân trời mây trắng ngổn ngang
Mắt ai, mây có ngợp đường chia xa?
Đường anh, em đã từng qua
Bên dòng Đa-nuýp. nhìn hoa nhớ người
Mùa thu bên ấy, tuyết rơi
Mùa thu Hà Nội liễu phơi tơ vàng…”
(Sao thu về quá vội vàng)
Cái
Tôi trữ tình ca ngợi tự hào, vui mừng trước cảnh thắng lợi của cách mạng, sự đổi
mới của quê hương, đất nước:
“Tôi đón tin vui Hà Bắc
Giữa trời Hà Nội trăng tròn.
Con số trăm linh hai biết mấy yêu thương.
Tôi thầm để lòng tôi lắng đượm.
Quê hương! Những đồng bằng sông Đuống
Giữa trời Hà Nội trăng tròn.
Con số trăm linh hai biết mấy yêu thương.
Tôi thầm để lòng tôi lắng đượm.
Quê hương! Những đồng bằng sông Đuống
Mùa về năm tấn cầm tay
Nhữmg đồi sỏi Hiệp Hòa đã khoác xanh cây!
Những mương máng Bạch Đằng hắn dang dậy song
Nhữmg đồi sỏi Hiệp Hòa đã khoác xanh cây!
Những mương máng Bạch Đằng hắn dang dậy song
Khoai Trung Hòa đã đi từng
luống rộng.
Ruộng chia bờ thửa, bờ vùng…”
Ruộng chia bờ thửa, bờ vùng…”
(Đón
tin vui Hà Bắc)
Thơ trữ tình thực chất là “Sự
chiếm lĩnh bằng nghệ thuật các loại kinh nghiệm đời sống qua cái Tôi cỏ nhõn”. Vậy
nên, chúng ta hiểu cái Tôi trữ tình trong thơ là sự bày tỏ cảm xúc riêng của
nhà thơ trước các vấn đề của xã hội, trước sự phát triển của lịch sử dân tộc.
3. Nghệ
thuật trong thơ Anh Thơ
3.1. Đối
tượng thẩm mỹ
3.1.1. Cảnh
quê tình quê trong thơ Anh Thơ
Cảnh
sắc thiên nhiên mang đậm hương vị làng quê
Trong tập Bức tranh quê, ta
bắt gặp những cảnh sắc thiên nhiên rất giản dị, mộc mạc, gần gũi với cuộc sống
thường ngày của người dân Việt Nam.
Thứ nhất là hình ảnh đồng ruộng
- một không gian rộng lớn - với gốc rơm, gốc rạ với hình ảnh những cánh đồng trải
dài vô tận, những bông lúa vàng tươi chín nặng trĩu bông qua những tác phẩm như
Đêm hè, Đại hạn…
Thứ hai là hình ảnh đê làng
được tác giả miêu tả qua những tác phẩm như Trở rét, Lụt. Con đê làng đã gắn bó
biết bao kỉ niệm với tuổi thơ - cái tuổi thả diều, đá bóng, chăn trâu đã được
Anh Thơ miêu tả và cảm nhận bằng những nét rất cụ thể, rất chi tiết nhưng cũng
rất đặc trưng của cảnh thiên nhiên Bắc Bộ Việt Nam.
Thứ ba là hình ảnh con đò,
dòng sông. Dòng sông là nơi phù sa ngưng đọng, bồi đắp, là nơi neo đậu của con
đò, còn con đò từ lâu đã là phương tiện đi lại quen thuộc của người dân quê. Do
đó, trở về với làng quê, hình ảnh con đò, dòng sông như là một ám ảnh trong thơ
Anh Thơ. Ta bắt gặp rất nhiều bài thơ viết về bến đò - dòng sông ở mọi thời điểm,
mọi không gian khác nhau như Bến đò trưa hè với không gian rộng lớn; Bến đò đêm
trăng lại là khung cảnh rất nên thơ, đầy sức sống với con thuyền, dòng sông, với
cô gái nhỏ và ánh trăng vàng…
Thứ tư là cảnh bốn mùa:
Xuân, hạ, thu, đông của quê hương đất nước đã đi vào trong thơ Anh Thơ. Dưới
con mắt quan sát và sự cảm nhận tinh tế của tác giả thì bốn mùa đã hiện lên thật
sinh động - thật phong phú với những chi tiết, hình ảnh, màu sắc mang những đặc
trưng rõ rệt của từng mùa. Mùa xuân với những màn mưa bụi, mưa xuân mang lại một
sức sống mới cho cây cối đâm chồi nảy lộc mang lại sự trẻ trung ấm áp cho lòng
người, điều này được Anh Thơ thể hiện qua những tác phẩm như Chiều xuân, Ngày
xuân, Đêm xuân…Với mùa hè, Anh Thơ lại rất có cảm hứng, chính vì vậy Anh Thơ có
cả Vào hè, Sáng hè, Trưa hè, Chiều hè… Mùa hè trong thơ Anh Thơ với cái nắng hạ
chói chang, gay gắt như muốn thiêu đốt cảnh vật nhưng có lúc lại rất thoáng đạt
với đám mây trắng bồng bềnh, với cánh diều dang cánh bay, với màu đỏ tươi của
hoa lựu và lũ bướm vàng rập rờn bay:
“Trời trong biếc không qua
mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh
diều xa.
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt
bay qua”.
(Trưa hè)
Mùa thu trong thơ Anh Thơ
không phải là mùa thu đìu hiu của thơ cổ mà là một mùa thu sinh động đầy âm
thanh, sắc màu, sức sống của một làng quê, điều này được Anh Thơ thể hiện qua
những tác phẩm như Sang thu, Chiều thu, Đêm thu. Còn mùa đông thì lại ấm áp hơn
khi con người tìm đến với nhau bên bếp lửa và quanh cối gạo với những câu chuyện
phiếm:
“Trong bếp, lửa chập chờn
bên cối gạo,
Mặc tiếng chày thình thịch
xuống thời gian.
Bạn hàng xóm họp nhau và
chuyện hảo
Khói thuốc lào mờ mịt tỏa
bay lan”.
(Đêm trăng đông)
Cảnh
sinh hoạt lao động nơi làng quê
Cuộc sống của người dân quê
sau lũy tre làng tưởng chừng như một ốc đảo khép kín, nhưng trong cuộc sống êm ả,
bằng phẳng đó vẫn diễn ra những hoạt động sôi nổi, những cảnh lao động nhộn nhịp
đông vui của người dân quê và Anh Thơ đã phản ảnh rất rõ nét điều đó. Thứ nhất
là cảnh chợ quê với nhiều bài thơ viết về chợ như Chợ ngày xuân, Chợ mùa hè, Chợ
chiều… Anh Thơ đã tả một cách tỉ mỉ nhưng bao quát toàn cảnh của những phiên chợ
quê từ lúc chợ vẫn còn thưa thớt người cho đến khi chợ thực sự đông đúc tấp nập
và không khí ồn ào, sôi nổi của người mua, kẻ bán, tất cả đã tạo nên những âm
thanh sinh động, nhộn nhịp. Thứ hai là cảnh ngày mùa với những cánh đồng lúa
vàng trĩu bông, với cánh cò trao liệng và đặc biệt là tiếng nói, tiếng cười, niềm
vui sướng, niềm hạnh phúc đang tràn ngập trên gương mặt của những cụ gà, những
chàng trai, cô gái khi có một vụ mùa bội thu.
Những
lễ hội phong tục mang đậm bản sắc dân tộc
Anh Thơ đã tái hiện lại nhiều
lễ hội dân gian truyền thống. Đó là: Hội rằm tháng giêng với hơi xuân tươi trẻ
của lòng người, của cảnh vật, hay ngày Tết Đoan ngọ của người Việt Nam với tục
ăn Tết giết sâu bọ và chỉ bằng một vài nét phác thảo, Anh Thơ đã làm sống dậy cả
một tín ngưỡng văn hóa của những cư dân nông nghiệp. Trong tâm thức của người
dân Việt Nam, họ luôn tin rằng buổi sớm ăn rượu nếp sẽ trừ được sâu bọ; nhuộm
móng tay sẽ phòng được bệnh tật; tắm nước giếng thì rôm sẽ lặn hết và đeo bùa
tua thì bình an vô sự. Ngày rằm tháng bảy là Tết Trung Nguyên, còn gọi là ngày
xá tội vong nhân hay ngày cúng cô hồn, cũng được Anh Thơ miêu tả qua bài Rằm
tháng bảy; đặc biệt là Tết Nguyên Đán với những biểu tượng văn hóa đặc sắc rất
dân tộc đó là hình ảnh cây nêu, là trang phục của ngày Tết, là nồi bánh chưng
vào đêm ba mươi và tục thờ cúng tổ tiên… tất cả đã được tái hiện khá đậm nét
trong thơ Anh Thơ:
Những hình ảnh về thiên
nhiên, con người, những lễ hội:
Trời hơi lạnh và nắng
vàng hơi hửng
Lúa xanh đồng rợn sóng
tận chân mây
Vài con én liệng ngang
trời lơ lửng,
Từng lũ cò phấp phới
đậu rồi bay.
Dọc đường cỏ ven sông
cùng trẩy hội,
Những bà già lần hạt
nhẩm cầu kinh,
Lũ con gái rộn ràng
cười nói, nói
Khoe hàm răng đen nhánh,
mắt đa tình.
Cùng mấy cậu áo là,
quần lụa mới
Tập lê giầy như tập nhấc
chân đi.
Trong khi gió ngang đường
tung phấp phới
Giải yếm đào cùng với
giải khăn thi.
(Ngày xuân)
3.1.2. Đối
tượng là con người
Như đã nói ở trên, con người
luôn là một đối tượng không thể thiếu trong các sáng tác của nhà thơ, nhà văn.
Và Anh Thơ cũng vậy.
Trong thơ Anh Thơ, tất cả những
người đã sống, đã tồn tại trong không gian làng quê đều được thể hiện rất rõ
nét, rất chân thực song cũng rất sinh động.Đó trước hết là những cô gái quê như
cô thôn nữ, cô gái tát nước, cô gái làng… mỗi người làm những công việc khác
nhau song họ đều mang đậm vẻ duyên dáng, hồn hậu, chân thật. Bên cạnh hình ảnh
những cô gái quê là những chàng trai mộc mạc, bình dị, mang đậm chất quê qua
Ngày xuân, Chiều hè. Ngoài ra hình ảnh con người hiện lên trong không gian làng
quê còn rất nhiều, đó là những mụ bán cá, những chị hàng rau, chị hàng quạt, bà
già bán bún hay những cụ già, những bô lão, những ông thầy bói… họ hiện lên gắn
liền với những cảnh sinh hoạt đời thường chất phác, giản dị, chân quê:
Mặc bô lão rượu say cười
chuếnh choáng
Ô móc vai thất thểu cố
theo sau.
ở lại chợ nhìn người
mua dần lảng
Bọn ế hàng ngán ngẩm
với ruồi bâu.
(Tàn chợ)
Khi viết về người dân quê
chân lấm tay bùn Anh Thơ không hề miêu tả họ với những nét thô thiển, quê mùa
mà ngược lại rất chân chất, đáng yêu, đáng nhớ qua đó thể hiện tấm lòng yêu
thương con người, yêu quê hương của tác giả.
3.2. Thể
thơ
3.2.1. Thể
thơ tự do
Đây là thể thơ mà Anh Thơ sử
dụng nhiều nhất trong các sáng tác của mình. Bà đến với thể thơ tự do
không đơn thuần chỉ là sự thay đổi hình thức thể loại mà là do độ chín của tâm
hồn, sự phù hợp để diễn tả những trạng thái tình cảm. Anh Thơ sử dụng thể thơ
này thường là lời kể, lời trần thuật nên câu thơ thường phóng khoáng, có sự mở
rộng dung lượng phản ánh, điều này được Anh Thơ thể hiện qua những tác phẩm
như: Nam Bắc một nhà, Thế giới cùng chung vui; Gió phương Bắc, Nắng phương Nam;
Mái trăng non; Lá phiếu hôm nay…
3.2.2. Thể
thơ tám chữ
Đây là thể thơ được Anh Thơ
sử dụng tương đối nhiều. Qua thể thơ này, Anh Thơ đã giúp cho chúng ta có thêm
những hiểu biết, những cảm nhận về bức tranh phong cảnh, bức tranh cuộc sống của
con người; giúp người đọc như đang được đắm mình vào cảnh quê, được sống lại
không khí của thôn quê hay cuộc sống lao động, chiến đấu của con người mới:
Tre lả lướt nghiêng đầu
cho nước gội
Cau thẳng mình dang lá
đón mưa rơi,
Đồng chìm xuống bông lúa
vàng rũ rợi,
Ao rềnh lên bè rau muống
xanh tươi.
Trên nhà vắng gió lùa
hơi ướt át,
Cu bé ngồi nhào đất nặn
tò te.
Dưới bếp lạnh, lũ gà
vào bới rác
Mặc đàn ruồi, đàn nhặng
lượn vo ve.
Ngoài đường lội một vài
người về chợ
Trĩu gánh hàng như trĩu
quang mưa.
Yên ổn nhất trong gian
chuồng êm cỏ
Lũ lợn nằm mát mẻ ngủ
quên trưa.
( Mưa)
Ngoài ra còn có các
bài: Qua đỉnh đèo Ngang, Mùa chiêm mới, Theo cánh chim câu…
3.2.3. Thể
thơ lục bát
Ở thể thơ này, Anh Thơ
đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo của mình. Bà không mô phỏng hoàn toàn ca dao
và lục bát dân tộc mà lựa chọn những đặc điểm, yếu tố thích hợp của lục bát, ca
dao để sáng tác cho phù hợp với tâm hồn của con người thời đại. Có nghĩa là Anh
Thơ đã biết phát huy giá trị tích cực của thơ ca dân tộc để đem đến cho thơ ca
những giá trị phù hợp với thực tế đời sống và thế giới nội tâm của nhà thơ.
Tiêu biểu là các bài Ru con, Hoa dứa trên mộ chị Sáu, Ngõ chợ Khâm Thiên….
Hàng hoa ngồi sát hàng rau
Chợ vào vôi vữa quét sâu lối
ngoài.
Óng đen lại guốc sơn mài
Ni-lông vàng tím treo dài cửa
nghiêng
Biển căm thù, cắm bốn bên.
Những vành khăn trắng thoáng
lên bóng mành
Tay người xếp gạch chia
ngăn.
Cửa không lại ghép, bếp làn
lại khơi.
Vài con lợn đất, bom vùi.
Lại nắm trên mẹt hồng phơi cửa
ngoài.
Xe vào ai đứng bên ai
Gạo thơm từ đất, ruộng ngoài
thành, thơm
Tay ai muối cải dưa giòn.
Thúng cam bán tết đỏ son mặt
hàng.
Chật đường xẻ ủi hố bom
Chợ ta hợp với yêu thương
ngõ dài.
(Ngõ chợ Khâm Thiên)
3.2.4. Thể
thơ bảy chữ
Cũng là một thể thơ được nữ
sĩ sử dụng khá nhiều.Với thể thơ này, Anh Thơ đã có sự cách tân qua kết cấu,
qua ngắt nhịp, hiệp vần linh hoạt, để từ đó không chỉ diễn tả cảnh vật phong
phú, đa dạng mà còn thể hiện tình cảm, tâm trạng của tác giả. Có thể kể ra các
bài như Xuân quê, Nắng, Ta đi vá núi…
3.2.5. Thể
thơ năm chữ
Ngoài những thể thơ trên thì
đến với sáng tác của Anh Thơ cũng không thể thiếu đi thể thơ năm chữ này.Đây là
thể thơ cũng được Anh Thơ sử dụng nhiều như các bài: Tiếng chim tu hú, Cầu ma
Thiên Lãnh, Vá áo, Tết về…
Nắng hè đỏ hoa gạo
Nước sông Thương trôi nhanh
Trên đường quê rảo bước
Gió nam giỡn lá cành.
Bỗng tiếng chim tu hú
Đưa từ vườn vải xa
Quả bắt đầu chín lự
Ngọt như nỗi nhớ nhà.
(Tiếng chim tu hú)
Với thể thơ này, Anh Thơ thường
chia làm nhiều khổ và nối liền mạch thơ để diễn tả cảm xúc. Nhà thơ thường
thiên về lối kể, tả, để diễn tả tình cảm yêu thương, trìu mến của mình. Tham
gia kháng chiến, bảo vệ và xây dựng đất nước.
3.3. Ngôn
ngữ trong thơ Anh Thơ
Một phần không nhỏ tạo nên
thành công trong thơ của nữ sĩ này là về phương diện ngôn ngữ.Mặc dù không cầu
kì nhưng lại mang một giá trị nghệ thuật cao đối với bạn đoc - những người yêu
thích thơ của bà.Và tất nhiên ngôn ngữ phải thật đi sát với hiện thực, với cuộc
sống hằng ngày của con người, đơn giản nhưng sâu sắc, bình dị nhưng lại có hồn.
Đó chính là ngôn ngữ của nữ sĩ Anh Thơ - một nhà thơ có nét riêng và độc đáo
trong làng văn thơ Việt Nam trong phong trào thơ mới.
3.3.1. Ngôn
ngữ bình dị gần gũi với đời thường
Ngôn ngữ thơ Anh Thơ không
nghiêng về ước lệ, tượng trưng cũng không uyên bác hoa mĩ mà ta tìm thấy được ở
đó như một góc trời quê lặng lẽ, khiêm nhường, chuyên chở những vấn đề bình dị
trong cuộc sống đời thường. Tác giả sử dụng rất nhiều lời ăn tiếng nói hằng
ngày, những từ ngữ địa phương, khẩu ngữ, thành ngữ dân gian. Ta bắt gặp những từ
ngữ rất bình dị, rất đời thường như “chửi đổng”, “lon ton”, “cái đĩ”, “nhớn
nhác”, “bới rác”… nhưng cũng rất mộc mạc, chân chất như chính con người quê:
“Mụ bán cá đặt thúng ngồi chửi
đổng
Chị hàng rau mất chỗ chạy
lon ton”
(Họp chợ)
3.3.2. Ngôn
ngữ giàu hình ảnh, có tính biểu tượng
Xuất hiện trong những dòng
thơ của tác giả, ta thấy được những nét phong phú trong thơ của bà.Những hình ảnh
xuất hiện khác nhau, lần lượt trôi chảy trong những vần thơ ấy. Ta có thể bắt gặp
tất cả mọi hình ảnh vốn có ở một làng quê Việt Nam trong mọi thời điểm: từ cây
đa, bến nước, ruộng đồng:
“Mưa vừa tạnh, nắng bừng
trên quán mới,
Trên cây đa lấp loáng gió
lao xao.
Trên những giải lưng diều
bay phấp phới,
Các cô nàng lẳng lơ nón quai
thao”.
(Chợ ngày xuân)
Cho đến những con đường đưa
ta đến với mọi miền đất nước, tất cả đều rất giản dị, gần gũi song cũng đậm đà
bản sắc Việt Nam, điều này được Anh Thơ thể hiện qua những tác phẩm như: Tàn
chợ, Ôi con tàu biết mấy yêu thương.
3.4. Giọng
điệu
3.4.1. Giọng
điệu nhẹ nhàng, mềm mại giàu nữ tính
Anh Thơ đã góp vào thơ Việt
một giọng thơ độc đáo, một hồn thơ chân thực - một giọng điệu buồn, nhẹ nhàng
nhưng đôi lúc cũng nhanh và gấp gáp, vui tươi.
Giữa một làng Thơ mới nhiều
phong cách, đa giọng điệu, Anh Thơ vẫn nhẹ nhàng trở về với phong cách làng quê
và đã khẳng định được phong cách, giọng điệu riêng biệt của mình, giọng điệu mềm
mại, hiền hòa. Có lúc là cái nhìn rất giàu nữ tính của tác giả khi bắt gặp nét
duyên dáng, yểu điệu của các cô thôn nữ với giải lưng điều, nón quai thao… qua
bài Chợ ngày xuân; còn trong bài Quê chồng lại là giọng điệu thân
thương, trìu mến của Anh Thơ đối với những bà con, cô bác ở quê chồng, với những
mất mát, khổ đau mà họ đã phải trải qua. Chất giọng mềm mại, nhẹ nhàng của Anh
Thơ đã chứng tỏ được chiều sâu tâm hồn tác giả - một hồn thơ nhạy cảm với thiên
nhiên, với vạn vật.
3.4.2. Giọng
điệu trữ tình tha thiết, giàu cảm xúc
Cuộc sống với tình người tha
thiết là nơi hồn thơ Anh Thơ tìm đến với những cảm xúc ngọt ngào sâu lắng, thơ
Anh Thơ ở đâu cũng phảng phất chất giọng ấm áp. Có thể thấy chất giọng ấm áp,
thiết tha, giàu cảm xúc là âm hưởng xuyên suốt trong sáng tác của Anh Thơ. Với
giọng điệu này, Anh Thơ không chỉ tái hiện lại cuộc sống bình dị, đơn sơ, thân
quen của nông thôn xưa mà còn bày tỏ tình cảm yêu thương đằm thắm, trân trọng đối
với gia đình, đồng nghiệp và đất nước những năm trước và sau cách mạng. Tiêu biểu
là các bài: Chúng ta không mất, Sau thu về quá vội vàng, Lòng mẹ, Bé yêu
ơi hãy đợi…
3.4.3. Giọng
điệu rắn rỏi, tự tin khúc chiết
Bên cạnh những giọng điệu đã
trình bày ở trên, thì trong thơ Anh Thơ cũng không thiếu một giọng rắn rỏi,
khúc chiết này, tuy là một nhà thơ nữ nhưng với Cách mạng bà luôn mang lại một
sự mãnh mẽ trong những vần thơ làm cho người đọc tưởng tưởng như chính con người
bà.
Trong bài Tiếng súng đầu
tiên, với giọng điệu dõng dạc, mạnh mẽ, Anh Thơ đã làm sống dậy tinh thần quyết
tâm đánh giặc của nhân dân:
“Cô nghĩ gì? Khi tiếng súng
vang ngân
Trời Thanh Hóa rụng hàng đàn
qua Mỹ?
Phát súng mở đầu cho em, cho
chị
Cho chúng ta xông thẳng diệt
thù”.
Bên cạnh đó, ta còn bắt gặp
trong thơ Anh Thơ giọng thơ đầy niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai tươi sáng
của cả dân tộc, qua các bài thơ như: Em tiễn đưa anh; Nam Bắc một nhà, thế
giới cùng vui chung; Ôi con tàu biết mấy yêu thương…
Tấm lòng yêu thơ ca và yêu
những gì thân thuộc giản dị của quê hương cùng tài năng là yếu tố quan trọng
góp phần tạo nên thành công của Anh Thơ, người mang đến cho chúng ta hình ảnh
làng quê trong trẻo và thiết tha của thiên nhiên, một tâm hồn trong sáng và đầy
nghĩa tình, như nhà phê bình văn học Hà Minh Đức đã ví thơ Anh Thơ như một “mùa
hoa đồng nội”- một sự so sánh ấm áp và khách quan.
Giọng điệu của bà luôn man
mác cái gì đó buồn nhưng không kém phần sôi nổi, lạc quan trước cuộc sống còn
nhiều gian khổ của con người. Điều đó đã làm nên một nữ sĩ Anh Thơ cho chúng ta
tự hào.
III. Tổng
kết
Những đóng góp của Anh Thơ đối
với nền thi ca dân tộc là không nhỏ. Nữ sĩ đã tạo cho mình có một chỗ đứng vẻ
vang trong phong trào Thơ mới cũng như một vị trí quan trọng trong làng thơ Việt
Nam hiện đại. Có thể nói, cùng với các nhà thơ tiền chiến, chúng ta ghi nhận một
cách trân trọng các gia tài quý giá của Anh Thơ đóng góp cho phong trào văn học
và lịch sử với một bộ sưu tập bằng thơ về sinh hoạt và phong tục nông thôn Bắc
Bộ một thời và nhiều sưu tập tiếp theo trong suốt nửa thế kỉ chiến tranh và hòa
bình. Đặc biệt là sự khai phá của Anh Thơ qua tập Bức tranh quê, đó
là một sự bùng nổ về nghệ thuật tả chân, mà không những các nhà thơ, ngay cả
Anh Thơ sau đó cũng kế thừa. Đã có nhiều huân chương tặng thưởng cho Anh Thơ
nhưng dẫu có thêm vẫn rất xứng đáng với công đầu của bà.
Tài liệu tham khảo:
1. Anh
Thơ (1941), Bức tranh quê (thơ), NXB Hội nhà văn
2. Tuyển
tập Anh Thơ (Thơ-Văn xuôi) NXB Văn học Hà Nội-1987
3.http://vi.wikipedia.org/wiki/Anh_Th%C6%A1_(nh%C3%A0_th%C6%A1)
4. http://dl.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/11126/1548/1/02050000219.pdf
5. http://poem.tkaraoke.com/10086/Anh_Tho/
6. http://newvietart.com/index273.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét