Hai câu
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Chuyển từ nền của chân tính con người tại thế đến thực tại của
nó.
Câu đầu nêu lên chân tính phổ quát của thân phận con người tại thế.
Câu truyện tượng trưng của Kiều, cũng như câu truyện
của Job trong Cựu ước là những hình ảnh nổi bật, đã gợi lên cho ta
thấy có một thảm kịch. Nhưng đi vào ý nghĩa của chính thân phận con người tại
thế, thì mỗi giây phút, mỗi hoàn cảnh của bất cứ ai, vào bất cứ thời đại nào,
của "cõi người ta" đều là một cuộc tương tranh Tài Mệnh. Thân
phận đó đầy nguy cơ lầm lạc, nhưng chất chứa bên trong là cuộc chiến để tìm
về hay hoàn thành, với niềm tin tưởng và hy vọng cứu độ. Ở đây không có
vấn đề bi quan hay lạc quan, chủ quan hay khách quan, tiền kiến có chữ
"quan" là việc đánh giá do tự tài năng con người. Đây là sự chân nhận
chân tính của thân phận con người nơi kẻ phản tỉnh hay ngộ. Chính sự xuất lộ
của chân tính nầy soi dọi cho ta thấy bi quan hay lạc quan là một phán đoán
thiên lệch do "Tài", dựa trên một tiêu chuẩn tự con người thiết định
lấy. Chúng ta đọc được sự biến thiên vô hình vạn trạng của các tiêu chuẩn nầy
trong lối nói nghịch thường của Đạo Đức Kinh, hay sự đổi thay bất chừng của các
giá trị diễn tiến qua từng thời đại, hay tâm thức của mỗi người.
Câu tiếp: "Chữ tài, chữ mệnh dồi dào cả
hai" rõ rệt nói lên một mặt là yêu sách của tương quan chỉ được khai mở
trong cuộc chiến, mặt khác là hữu hạn tính của con người tại thế.
Nội dung nầy cho thấy sự khác biệt rõ nét nhất về cách đặt vấn
đề tư tưởng giữa Nguyễn Du và truyền thống triết học Hy lạp - Tây phương.
Tiền kiến về nguyên tắc đồng nhất lấy hữu thể cô độc tự tại, tự
đủ cho mình làm nền tảng: chân lý được hiểu tôi là tôi, anh là anh, cục đá là
cục đá như những cái gì không cần mở ra với ai khác và khi mở ra thì mặc nhiên
cho rằng có một sự tha hóa hay mất đi sự bền vững về bản ngã của mình...Tiền
kiến đó buộc tư tưởng phải được hiểu là nỗ lực tự hoàn thành trong thời gian
(thời gian cũng được xem là khả năng tiên thiên có sẵn trong mình, xem Kant) để
thu tóm tất cả vào ngã của mình, nói cách khác tư tưởng là tiến trình tổng hợp
tiên thiên để ta làm nên ta. Càng có nhiều, càng biết nhiều thì hoàn thành được
bản ngã mình nhiều hơn.
Nhưng nơi Nguyễn Du, tư tưởng được hiểu là cuộc chiến để khai mở
ra với ai khác, vượt thắng ngã đồng nhất nầy để thể hiện chân tính
trong tương quan.
Tương quan không có nghĩa là sự đổi thay hay tiếp cận trong
khung thời gian - không gian để có những biến hóa thuộc lãnh vực của vật thể
bên ngoài, bị chi phối bởi nguyên tắc nhân quả.
Tương quan của chân tính con người tại thế ở trong thời gian
nhưng không thuộc về sự chi phối bởi định luật đổi thay của thời gian. Cái nhìn
của tôi lên khuôn mặt của người đối diện có thể mở ra một tương quan gần gũi
hay xa cách, mà thế giới bên ngoài không hề có một thay đổi gì khác. Và cảnh
giới khác lạ với cảnh giới bên ngoài ấy đó mới thực là nét siêu việt của
"cõi người ta", làm đối tượng cho tư tưởng.
Vì tiền kiến về tư tưởng nằm trong khung của nguyên tắc đồng
nhất, nên được gọi là chân lý khi có những tương hợp giữa nhận thức và phán
đoán của trí năng và sự vật bên ngoài. Câu nói đơn sơ đó hàm ngụ rằng trí năng
đã là toàn năng để tự mình quán xuyến hết tất cả tương quan giữa hai phía; mặt
khác trí năng đó cũng đã tiên liệu đối vật sẽ hoàn toàn mở ra toàn bộ chân tính
của nó cho mình. Nơi đây hẳn không có Mệnh để gợi lên lời phản kháng.
Lấy lại lời Nguyễn Du, thì đúng là Tài đã dồi dào trong lối tư
tưởng nầy.
Nhưng, kiến thức khoa học và kỹ thuật đã đạt được những thành
quả hữu hiệu, xác minh cho giá trị của lối tư duy nầy để áp dụng cho việc hiểu
biết và biến cải vật chất! Vấn đề đặt ra nơi đây là sự hữu hiệu của kiến
thức sự vật có phải là tư tưởng không? Nói cách khác nếu thấu suốt tất
cả thế giới những cái gì, như là tài của trí năng, thì có tiếp
cận được "cõi người ta" theo lối đặt vấn đề tư tưởng của Nguyễn Du
không?
Theo diễn tiến câu truyện của Kiều, tất cả không trừ một
cái gì trong nỗ lực của Tài, đều bị khước từ bởi Mệnh, trên bình diện
của câu tra vấn về chân tính như một tương quan.
Tài chỉ đi vào khung tư tưởng khi được lôi kéo vào tương
quan của chân tính; và trong thân phận con người tại thế tương quan đó được
xuất lộ trong cuộc chiến với Mệnh.
Nhưng Mệnh cũng chỉ có nghĩa khi gắn với Tài.
Mệnh như lời phủ định từ phía bên kia, xuất lộ ra trong thân phận con
người tại thế như ấn tích của một sự vắng mặt của chân tính
nơi Tài.
Vì thế Mệnh thường được nói cách khác như thiếu vắng
tự căn (khổ) mà không ai, không một cái gì trong tầm tay với của con người tại
thế có thể lấp đầy được. Khổ nầy của nhà Phật, nỗi khắc khoải của tâm
con người nơi Augustinô không có một vướng mắc nào với chủ trương bi quan về
cuộc sống theo lời phê phán có-không, lạc quan hay bi quan của nếp tư tưởng truyền
thống triết học. Khổ là sinh lực nền tảng của chân tính con người đưa con người
vượt thắng "ngã chấp" của Tài để mở ra các mối tương
quan. Mệnh không dồi dào vì trong thân phận tại thế, không
ai thấy được Trời kia, nên cũng không ai tự mình thay Trời làm chủ chân
lý.
Kỳ cùng cuộc chiến tài-mệnh không phải một câu chuyện cá biệt,
nhất thời của riêng ai, nhưng gắn chặt với "con người có thân", là
cuộc chiến giữa tự mãn và tin tưởng hy vọng. Tư tưởng, văn hóa bấy giờ là lời
cảnh tỉnh để nhắc con người và xã hội bất cứ lúc nào, trong hoàn cảnh nào về sự
hiện hữu của cuộc chiến nầy trong những bước đường lưu lạc của lịch sử.
Chú thích:
[1] Xem
phần phụ đính về chữ Trời ở cuối sách
[2] Xem Xuất
hành 32, 1-6.
Có Tài, mà cậy chi tài!
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Chữ mà ở giữa câu "có tài mà cậy chi tài!"
dấy lên hai nhận xét khác nhau:
"Có tài" hai chữ nầy xác định một hiện trạng.
Chữ có hàm ngụ một vật mình đang là sở hữu chủ và thuộc quyền sử dụng
của mình. Nguyễn Du xác nhận "tài" nầy như một yếu tố cấu tạo nên bản
tính con người có thân.
Yếu tố đó sách Trung Dung gọi là: Mừng, giận, thương, vui
chưa phát ra, ấy là Trung [1]. Tác
giả không truy cứu những khả năng đặc loại của chữ Tài nầy như khả
năng tình cảm, ý chí, hay trí năng...để đưa ra những học thuyết duy lý, duy
chí, duy cảm,... như truyền thống triết học khai thác. Chữ Tài được
nêu lên hàm ngụ toàn bộ khả năng con người có thể có trong tay; và điều đáng
suy nghĩ và đưa vào lãnh vực của tư tưởng lại ở phần sau chữ mà: cậy
chi tài!
Tài tự nó không tư tưởng gì cả, như câu nói của Heidegger,
"Khoa học không tư tưởng gì ráo", vì tư tưởng không phải xác định hay
triển khai "tài" của mình có, nhưng là tra vấn về tương quan làm nên
chân tính. Khi "cậy tài", nghĩa là chỉ biết đến cái tài của mình đang
có, để tự sản xuất ra kẻ khác theo ý mình và tự thiết định các
mối tương quan giả tạo, bấy giờ đúng là tai họa. Chữ tài trong câu
"chữ tài liền với chữ tai một vần" không những là "cậy
tài", mà còn hàm ngụ "Khả tính con người cậy tài".
Chính khả tính có thể sai lầm nầy là câu chất vấn thống thiết
nhất của con người kêu lên Trời xanh về gánh nặng tự do bám lấy thân phận con
người [2],
đồng thời cũng là thách đố buộc con người phải uy dũng hoàn thành thân phận
mình trong chân tính.
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn Trời gần trời xa.
Chữ "Thân" nhắc lại nội dung "người có thân"
ở câu thứ 2 (tức câu 3242) trong phần tổng luận. Ở đây nó cũng có nghĩa là chữ
"mình". Nhưng ngoài chủ đích dùng chữ "thân" cho liên vận
trong câu thơ lục bát, chữ "thân" còn nói đến hình hài con người, có
sinh có tử trong thời gian - không gian hữu hạn. "Thân" là thân phận
tại thế của con người. Và vì thế chữ nghiệp ở đây gắn liền với các câu thơ
đi trước: Nghiệp phải thực hành chân tính của mình trong cuộc chiến
tài-mệnh, nghiệp có thể lầm lạc.
Câu "Cũng đừng trách lẫn Trời gần trời xa" không phải
là lối an ủi hay khuyên nhẫn nhục rán chịu đựng hết kiếp con người cho xong
chuyện. Tâm tình đó trái ngược lại với cuộc đời lưu lạc đến cùng và duyên gặp
gỡ trên sông Tiền Đường trong truyện Kiều.
Nội dung thực của nó là sự chối từ khung trời phán đoán của Tài
về "Trời gần Trời xa" theo dự kiến riêng của mình. Trời chân thực mà
con người cần thiết lập mối tương quan để thể hiện chân tính của mình không
phải bất cứ một loại Trời nào do Tài sản xuất ra, nên việc trách cứ Trời gần
Trời xa như thế không có căn cứ ở đâu cả.
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài
Chúng ta có thể lấy toàn bộ phần tổng luận nơi các câu thơ đi
trước hai câu thơ nầy để đối chiếu với một câu duy nhất mà Đạo cô Tam Hợp đã trả
lời cho Giác Duyên:
Sư rằng: "Phúc
họa đạo trời" (câu 2655)
Và câu chúng ta đang nêu lên đây: "Thiện căn ở tại lòng
ta" tương ứng với câu "Cỗi nguồn cũng bởi lòng người mà ra" (câu
2656).
Nhưng câu kế tiếp "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài"
không nằm trong khuôn khổ tranh chấp giữa Tâm và Tài như đã
trình bày về cuộc chiến Tài và Mệnh. Đây là sự so sánh giữa
hai cảnh vực hoàn toàn cách biệt.
Vì có sự đứt đoạn trong lối hành văn ở câu thứ hai nầy đối chiếu
với các câu thơ đi trước, có tác giả giải thích rằng chữ Tài ở đây
cũng mang một ý nghĩa hoàn toàn khác với chữ Tài được sử dụng trong
toàn bộ Truyện Kiều. Chữ Tài được hiểu như là một yếu tố kết dệt nên
nhân tính trong tam tài Thiên-Địa-Nhân. Và chữ "mới bằng" trong câu
thơ lại được hiểu là tương hợp hay tương đương.
Theo thiển ý chúng tôi, một mặt Nguyễn Du không hề nêu lên một
chữ tài nào như một yếu tố trong tam tài Trời-Đất-Ngườicả.
Chữ có tài trong câu thơ "có tài, mà cậy chi tài!" là
nói đến toàn bộ tài năng con người, mà con người có sẵn. Chữ tài ấy cũng không
thể xếp vào nội dung Tam tài như những chiều kích mở ra làm nên nhân
tính. Mặt khác lối nói "mới bằng ba" hay bằng mười lần, trăm ngàn
lần, đều có nghĩa như nhau; như thế chữ ba vô định nầy khó lòng ghép vào
chữ Tam trong Tam Tài. Và rốt ráo hơn cả là sự nhất quán tư
tưởng của toàn tác phẩm Đoạn-Trường Tân Thanh: Tài luôn là mối
nguy cơ, mà Nguyễn Du muốn cảnh tỉnh con người và xã hội... Câu thơ nầy có thể
nói cách khác: Cảnh vực giác ngộ Chân tính của Tâm thì khác xa và đáng giá muôn
muôn lần so với cảnh vực giả tạo của Tài.
Thiện và Tâm
Hai chữ nầy dùng lại hoàn toàn tiếng Trung hoa. Tuy chữ Thiện có
thể dịch là tốt lành, nhưng trong phần chú thích của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim,
hai vị nầy chỉ giải thích "Thiện căn là cái gốc Thiện" [3]. Qua
lối giải thích đó, ta thấy chữ Thiện như đã quen thuộc không những với các bậc
Nho gia, mà ngay cả trong ngôn ngữ dân gian
Tâm thức chung để đánh giá con người ưu tiên dựa vào tiêu chuẩn
"Thiện".
Nếu ba giá trị tối thượng thường được nhắc đến trong các nền văn
hoá nói chung là Chân, Thiện, Mỹ, thì chúng ta cũng ngạc nhiên là Mỹ và Chân
thường ít được lưu ý trong mối bận tâm của văn hoá Việt Nam chúng ta. Trong
ngôn ngữ Việt Nam thường dùng, ta thấy khó lòng áp dụng chữ Thiện cho một vật
nào ngoài con người và thần thánh. Người ta có thể nói gỗ nầy là gỗ thật, cái
bàn nầy đẹp, nhưng khó lòng nói rằng con gà nầy tốt lành. Nếu có dùng chữ nầy
thì ít nhất nó hàm ngụ việc nhân cách hoá hay chỉ một tương quan nào đó với con
người. Hơn thế nữa khi dùng chữ Thiện đượcViệt Nam hoá thì chữ "tốt từ chữ
Thiện" chỉ nhằm nói đến cảnh vực riêng của con người mà thôi.
Bấy giờ ta có thể đối chiếu hai câu:
Thiện căn ở tại lòng
ta
(câu 3251)
Và Cội nguồn, cũng bởi lòng người mà ra
(câu
2656).
Thiện căn và Cội nguồn được dùng trong hai nơi,
trước hết không phải là nền tảng để từ đó có nhận thức hay đánh giá một cái gì
bất kỳ, nhưng nằm trong khuôn khổ chân tính của "Cõi người ta".
Thứ đến theo nội dung nhất quán của bản văn, cõi người ta được
nêu lên để tra vấn về chân tính của nó, không đặt nền trên câu hỏi cái gì,
thuộc phạm trù bản chất, nhưng kết dệt bằng những mối tương quan, đặc biệt là
tương quan Trời và Người.
Đây là điểm quan trọng để thấy sự khác biệt về lối đặt vấn đề tư
tưởng của Nguyễn Du và triết học Tây phương dựa trên nền tảng hữu thể học
truyền thống.
"Thiện", "Tốt lành" trong truyền thống triết
học là một thuộc tính của Hữu thể. Hữu thể tối thượng cũng có tính Thiện tối
thượng được hiểu là một cái gì hiện hữu tự tại, bền vững, không nương tựa vào
bất kỳ cái gì khác, hay tương quan với cái gì bất kỳ. Nói cách khác tự thân,
hữu thể tối thượng hoàn hảo. Con người dựa trên hữu thể tự tại đó để định nghĩa
hữu thể của mình; và hữu thể còn được hiểu là có lý tính, nên trong khuôn khổ
triết học truyền thống Tây phương thuộc tính Thiện phải đáp ứng những
đòi hỏi thiết yếu sau đây:
Thiện phải qui chiếu vào chân lý thuộc hữu thể lý tính.
Thiện là tự hoàn thành bản tính thường trụ của mình nơi mình và
cho mình.
Như thế, ta thấy cái biết đi trước và đặt nền hay
hướng dẫn hành động để có thể đánh giá rằng hành động có ăn khớp với hiểu biết
hay không; khi có sự trùng hợp giữa tri và hành thì đó là thiện. Từ đó sẽ triển
khai có được một bộ môn học truy cứu về thuộc tính Thiện nầy gọi là đạo đức
học, đi sau hữu thể học và luận lý - tri thức học.
Và khi quay trở lại với chữ "Thiện", hay Đạo-Đức (Lão
Tử) trong truyền thống suy tư khác với truyền thống triết học dựa trên hữu thể
học nầy, thì người ta đánh giá rằng đây chỉ là một loại suy tư thực tiễn, chưa
phải là triết học đúng nghĩa. Nhận xét của Dương Quảng Hàm về sự thiếu vắng một
nền "quốc học" trong truyền thống văn hoá Việt Nam có lẽ cũng nằm
trong lối đánh giá đó.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, ưu tư nền tảng của tư tưởng
không phải câu hỏi về bản chất sự vật nhưng là nỗi khắc khoải về tâm trạng bất
cập của mình trước yêu sách về mối tương quan mà tự mình không thiết định được.
Nên Thiện đây không phải là một thuộc tính bởi bản chất của cái gì,
dù là trời được hiểu như một vật bất động, cộng thêm trăm nghìn thiện tính khác
mà con người có thể nghĩ ra để gán cho Bản tính tự tại nầy; cũng không phải là
đặc tính của một hành vi ăn khớp với lý tính làm nên bản tính con người (như
Kant chủ trương).Nhưng Thiện là Chân tính con người tại thế được hoàn
thành trong mối tương quan Trời-Người. Từ Thiện căn nầy mọi cái
tốt mới múc lấy sinh lực của nó. Cũng trong dòng tư tưởng nầy thánh Augustinô
nói rằng:
Hãy yêu, rồi làm gì thì làm
"Yêu" ở đây là tương quan được thiết lâp, từ đó mọi sinh
hoạt con người sẽ mặc lấy sinh lực của "yêu". Như thế
"Thiện" là sự sống, là động từ chứ không phải một vật bất động làm
đối tượng cho nhận thức.
Ở đây không còn nói đến Mệnh để đối nghịch với "Tài",
vì hai câu ta đang phân tích (câu 3251-3251) diễn tả một phán quyết chung mãn.
"Tài" là con người tự mình mở ra một tương quan giả tạo, tiếng vọng
của Chân tính trong Mệnh là phủ định, một mặt khước từ toàn
bộ con người cô độc và tự mãn đó (con người lầm lạc hay thế giới giả tạo), mặt
khác cảnh giác con người về sự có mặt nhưng ẩn kín của chân tính là tương quan.
Ở đây "Tài" đã đến thời chấm dứt, như con người đã chết con người lưu
lạc của mình trên sông Tiền Đường, và một cuộc sống mới, khác, mở ra và bấy giờ
Đạo cô Tam hợp lên tiếng về cội nguồn là chân tính.
Chân tính, Thiện căn hay tương quan nền tảng đó không phải
người gần Trời hay người xa Trời, khi trời cũng như người được hiểu trong thế
giới của "Tài". Nhưng Trời - Người gặp gỡ tại lòng ta, hoặc
nói cách khác Tâm, lòng ta là nơi Trời - Người gặp gỡ.
Ở đây tác giả Nguyễn Du (trong câu tiếp) dùng chữ Tâm để lặp lại
nội dung chữ "tại lòng ta". Tác giả như nêu lên câu nói bất hủ của
kinh Thượng Thư:
"Tâm con người dễ sai trái, Tâm của Đạo lại tinh tế. Đạt
được điều thiết yếu và nguyên sơ cần giữ lấy gốc bên trong" [4].
Thực vậy, câu "Thiện căn ở tại lòng ta" dễ đưa đến ngộ
nhận, khi hiểu "lòng ta" đây là ý muốn riêng tư của mỗi người, hoặc
tâm thức đổi thay tùy hoàn cảnh. Nói cách khác cái gì ta thích thì ta làm, đó
là điều tốt nhất! Nhưng một mặt toàn bộ tác phẩm, tác giả đã gián tiếp trình
bày sự khác biệt của "nhân tâm" và "đạo tâm" đúng như trong
Kinh Thư: "Tài" đúng là "nhân tâm" theo nghĩa tiêu cực mà
Kinh Thư nêu lên. Mặt khác vì trong câu "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ
Tài" đã hàm ngụ sự khác biệt đó.
Tuy ta có thể hiểu được Tâm ở đây là "Tâm
đạo", Đạo tinh tế vượt lên trăm ngàn lần con đường đi của "Tài"
hay nói theo Đạo Đức Kinh là "nhân vi", nhưng điều ta vẫn thắc mắc là
hầu như vào câu kết tác giả mới vụt nói đến chữ Tâm, và để lửng [5].
Vũ Quỳnh trong truyện Họ Hồng Bàng đã nói đến Đạo Tâm và giải
thích chu đáo hơn, qua chữ Tương Dạ [6],
đồng thời nêu rõ đấy là nơi hẹn hò của Long Quân với Âu Cơ và các con nàng.
Trong Đoạn Trường Tân-thanh, chỉ có một dấu vết nhỏ
khác trong câu nói của Đạo cô Tam hợp (câu 2656): "Cỗi nguồn, cũng ở lòng
người mà ra" tương quan với câu tiếp: "Có trời mà cũng tại ta"
(câu 2657).
Như thế qua chữ Tâm trong tác phẩm nầy ta chỉ có thể thấy nội dung
cô đọng được khai lộ:
Trước hết là chính ý nghĩa tượng trưng của chữ Tâm: Tâm là
điểm chuẩn mà mọi yếu tố hay sinh hoạt phải quy về. Nhưng Tâm còn gợi lên rằng
định chuẩn đó ẩn dấu và luôn ẩn dấu.
Nếu đối chiếu hai câu của Đạo cô Tam Hợp và hai câu đặc biệt nầy
trong phần tổng kết, ta có thể hiểu Tâm qua câu "Có trời mà cũng tại
ta".Tâm được hiểu là tương quan Trời-Người mà trách nhiệm tu
dưỡng nó là phần vụ đặc biệt của con người.
Đạo Tâm không nhân bản hay thần bản, nhưng là sự cảnh giác để
Nhân-Thần gặp gỡ trong "cõi người ta".
Và cuối cùng nếu đối chiếu với câu truyện Kiều, thì Tâm
là Giác duyên, ơn cứu độ của Trời đến với con người để chấm dứt con đường
của "Tài" và mở ra Trời mới-Đất mới của Thiện Căn; chốn cư ngụ của
Thần Thánh. Tâm theo nghĩa nầy đúng là trăm ngàn lần hơn (= bằng
ba) những gì tài trí con người có thể tạo ra.
Câu kết nghịch thường
Lời quê, chắp nhặt, dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh (câu 3253-3254).
Đây là hai câu ngắn gọn Nguyễn Du sử dụng để kết luận toàn bộ
tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh; kết luận đó cũng là lời tự đánh giá về tài
năng văn chương cũng như nỗ lực xây dựng tư tưởng của mình.
Hai câu thơ phản ảnh những gì tiêu cực, tệ hại nhất mà bất cứ
nhà phê bình nào cũng có thể dùng một trong các cụm chữ đó để loại bỏ giá trị
của một bản văn:
Lời quê: hình thức văn chương cục mịch, thô thiển.
Chắp nhặt: ý tưởng rời rạc, thiếu mạch lạc.
Dông dài: lối diễn tả vụng về, nhàm chán.
Mua vui: sử dụng để làm trò hề cho thiên hạ.
Cũng được một vài trống canh : chữ cũng được nói
lên giá trị không cần thiết, ngay cả trong việc mua vui. Trống canh vừa có
nghĩa là khoảnh khắc ngắn, trong đêm hàm ngụ rằng không có giá trị sinh hoạt
cho cuộc sống (= ban ngày), vừa gợi lên những trò giải trí phù du của lớp người
được đánh giá là xướng ca vô loại.
Nói tóm lại, Đoạn Trường Tân Thanh được tác giả tự
đánh giá là không có giá trị gì tích cực cả!
Phải chăng lối tự phủ nhận nầy là một lớp bùn giả tạo tác giả tự
trét vào mặt mình để đánh lạc hướng con mắt xoi mói của vua quan nhà Nguyễn,
hầu tránh tai họa cho sinh mạng và sự nghiệp của tác giả?
Từ chính những gì đã viết ra trong bản văn nầy, chúng ta có một
số yếu tố để thấy thắc mắc trên có thể được nêu lên.
Trước hết, nhìn dưới khía cạnh xã hội, chính trị thì vai trò Từ
Hải, một nhân vật tự xưng hùng, xưng bá nghịch lại với triều đình, đã được mô
tả một cách tích cực như một nhân vật hào hiệp, mà Kiều thuận tình yêu thương
và cảm mến. Bên cạnh đó là những người đại diện cho quyền lực chính thức đương
thời là Hồ Tôn Hiến, Thổ quan, những nhân vật trí trá, vô tâm hèn nhát và ngu
si.
Nhưng các yếu tố nầy đã có trong bản gốc từ tiếng Trung
Hoa, hơn thế nữa việc thẩm định thái độ khe khắt của vua quan Nhà Nguyễn đến
mức nào từ phía tác giả cũng như về phía các nhà sử học còn là những xác xuất.
Nên nếu đó là một lý do buộc Nguyễn Du phải gượng gạo thêm hai câu cuối nầy vào
tác phẩm của mình, thì không phải là không có căn cứ nhưng chúng ta sẽ thấy còn
nhiều yếu tố khác nữa.
Nhìn từ những câu thơ viết ra trong tác phẩm nầy liên quan đến
hai câu thơ cuối, ta lại có một chứng lý khác. Trong cuộc gặp gỡ trong đêm với
Kim Trọng, sau khi được Kim Trọng ca tụng về bốn câu thơ Kiều phẩm đề
trên bức họa treo ở nhà chàng, Kiềutâm sự:
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
Nhớ từ năm hãy thơ ngây.
Có người tưởng sẽ đoán ngay một lời.
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh, một đời tài hoa
Nếu mượn lấy nhân vật Kiều trong hoàn cảnh nầy để diễn
tả tâm sự của mình, thì Nguyễn Du chắc hẳn cho rằng Đoạn Trường Tân
Thanh đúng là nét tinh hoa do tài năng xuất chúng của ông đã được ông thực
hiện. Nhưng trong tương quan nhân quả má đào - mệnh bạc, "anh hoa" đã
phát tiết ra ngoài thì hẳn phải gặp nghiệp chướng hoặc cho sinh mệnh ông, hoặc
cho số phận bèo bọt của tác phẩm, ông mạnh dạn đi bước trước tự hủy công trình
của mình, hoặc giả phá được nghiệp chướng chăng? Nhưng bên ngoài những viện dẫn
lý do có tính cách tâm lý và xã hội, chúng ta thử đi vào chính sự nhất quán tư
tưởng của toàn tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh mà chúng ta đã phân
tích, để mở ra những lời giải thích khác.
Trước hết là khung cảnh của nền văn hoá Á Đông mà Nguyễn Du chịu
ảnh hưởng và phản ảnh ra trong hai câu thơ nầy.
Khung cảnh văn hoá đó yêu sách một thái độ khiêm nhu nơi kẻ sĩ,
cũng như đánh giá như lời văn, chữ viết chỉ là một phương tiện bất đắc dĩ so
với sự sinh hoạt phong phú của Đạo trong cuộc sống con người.
Thái độ khiêm nhu có khi trở thành một quy ước xã hội, và được
sử dụng như một lối đề cao mình một cách giả tạo. Nhưng dù nó có bị méo mó đến
đâu, thì cá nhân liên hệ hay xã hội cũng đã cảm nhận thái độ đó như một yêu
sách. Khiêm nhu được xem là một thái độ đạo đức của kẻ sĩ, vì đằng sau thái độ
nầy là sự chân nhận thân phận hữu hạn của con người trước chân lý mà không ai
là sở hữu. Con người có thể tìm hay gặp Chân lý, chứ chưa ai là Chân lý
hay tạo ra Chân lý cả. Khổng Tử đã truyền đạt lại Chân lý vốn từ Đại ký ức,
Phật đã gặp Chân lý mà không gọi tên được; Lão dứt khoát phân biệt Đạo do bất
cứ ai bày ra như con đường nhân vi giả ảo và Đạo thường vốn vi diệu, nên đã
từng nói:
Nên, thánh nhân làm
Mà không ỷ vào mình,
Xong việc thì không ở lại,
Không muốn ai thấy hiền đức của mình [7].
Trong trường hợp nầy của Nguyễn Du, sau phần Tổng luận nghiêm túc,
trang trọng tưởng chừng như khuôn vàng thước ngọc mà tài năng ông có thể tạo
nên được, thì tác giả cảnh tỉnh người đọc và cho chính cả tác giả.
Đây là Con Đường mà tác giả đã gặp; nhưng lối diễn tả do tài của
tác giả về Con Đường nầy, đúng như thằng hề nhảy múa trước ngai vua, có một sự
cách xa diệu vợi giữa Tâm và Tài, giữa sự linh hoạt cao cả của
Thiện căn và toàn bộ nổ lực văn chương mà tác giả dày công sáng tác. Hơn thế
nữa, duyên của tác giả ngộ được Thiện Căn đến mức đó, nhưng so với chân tính của
Đạo thì Con Đường còn tinh tế hơn trăm ngàn lần; và ngoài ra còn phải chân nhận
những duyên khác đến với vô số con người trong cõi người ta.
Nên nếu đối chiếu với câu "Có tài mà cậy chi tài!"
trong phần đi trước, cũng như toàn câu truyện của Kiều phải chết cả
thế giới tài của mình để đến bên lề đạo Tâm, thì ta thấy lời tự phê của Nguyễn
Du đối với tác phẩm của mình, không phải phần thêm vào một cách gượng gạo,
nhưng đúng là lối dẫn nhập cho người đọc trước khi đi vào chủ tâm chính của tác
giả: là tra vấn về chân tính con người tại thế, luôn vi diệu và luôn mãi làm
mọi người thắc mắc.
Và điểm đặc biệt hơn cả, hai câu nầy giúp chúng ta thấy được cái
khác biệt sâu xa nhất giữa giấc mơ đồng nhất hoá con người với Chân tính của
Parménide đã khai mở nền hữu thể học của Truyền thống Triết học, và cảm thức
chân thành về hữu hạn tính của con người tại thế thuộc cõi người ta.
[1] Trung
Dung, chương I: Hỷ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi Trung.
[2] Xem
quan điểm tự do của Dostoievski trong Nicolas BERDIAEFF, l’esprit de
Dostoievski, ed. Stock, 1974.
[3] Xem
Nguyễn Du, Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính và chú
giải, bản in lần thứ tám, Tân Việt, Sàigòn x.b tr. 206, chú thích 7.
[4] I, Ngu
Thư III, Đại Vũ Mô, 15 [Nhân tâm duy nguy; Đạo Tâm duy vi. Duy tinh duy
nhất, doãn chấp quyết trung].
[5] Chữ Tâm theo
nghĩa được dùng trong phần Tổng luận nầy chỉ được sử dụng một lần duy nhất ở
đây. Trong toàn tác phẩm chữ Tâm được dùng đôi lần nhưng với những ý nghĩa
khác:
Đã nguyền hai chữ đồng Tâm (câu 555)
Từ rằng: "Tâm phúc trương cờ (câu 2179)
Hai bên ý hợp Tâm đầu (câu 2205)
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri (câu 2219)
Tâm thành đã thấu đến Trời (câu 2717)
Mấy lời Tâm phúc ruột rà (câu 3183)
[6] Xem
Nguyễn Đăng Trúc, Văn Hiến, Nền tảng của Minh triết, Định hướng x.b,
1996 [Tương Dạ = Đêm hay Lòng gặp gỡ])
[7] Đạo
Đức Kinh, Thị dĩ thánh nhân; vi nhi bất thị, công thành nhi bất xử, kỳ bất
dục kiến hiền, chương 77.
Chương IV
Yếu tính của tư tưởng qua tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh
Hình thức diễn tả của tác phẩm Đoạn Trường Tân
Thanh vay mượn lối văn chương tiểu thuyết. Phương thức dùng một câu truyện
có tính cách tượng trưng xuyên qua các hình ảnh cụ thể trong cuộc sống của một
cá nhân nhằm gợi lên những nội dung tư tưởng về thân phận con người nói chung,
không phải là một sáng kiến độc đáo của Nguyễn Du; trong kho tàng văn hoá nhân
loại, nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng hướng dẫn nếp sống con người cũng sử
dụng hình thức diễn đạt nầy: Chẳng hạn các bản kịch của Sophocle, Eschyle; các
bản văn Cựu ước như sách Sáng thế, sách Job; kịch bản Faust của Goethe; Tây Du
ký của văn chương Trung Hoa; các tác phẩm tiểu thuyết cũa Dostoievski; quyển I
của Lĩnh Nam Chích Quái...Nhưng trong hình thức diễn tả nầy, Nguyễn Du có được
đặc sắc riêng là dùng phần dẫn nhập của Đoạn-Trường Tân-Thanh để minh
nhiên nêu lên rõ chủ đề suy tư, và sắp đặt lại thành một hệ thống, dù rất cô
động, trong phần tổng luận. Điểm đặc sắc nầy xích gần tác phẩm Đoạn Trường
Tân Thanh với lối trình bày tư tưởng của các tác phẩm văn hoá ứng dụng lối
văn chương hệ thống hoá có tính cách trừu tượng hơn, như Trung Dung, Đạo Đức
kinh hoặc các luận văn triết học Tây phương.
Nhưng điểm quan trọng không phải ở trong lối hình thức văn
chương, dù rằng nỗ lực nầy của Nguyễn Du là một công trình xuất sắc trong tiến
trình văn học Việt Nam.
Điểm quan trọng mà chúng ta đã phân tích rõ trong phần dẫn nhập,
là điểm khởi phát thiết định đâu là khung trời của tư tưởng. Nói cách khác điều
gì đáng gọi là tư tưởng hay yếu tính của tư tưởng là gì?
Tư tưởng bao giờ cũng là câu tra vấn cho đến cùng để có được câu
trả lời về nền tảng tối hậu. Nhưng tra vấn về việc gì? Nếu lấy hình ảnh của một
vụ án, chúng ta có thể đặt câu hỏi: có gì oan ức cần phải xử cho ra lẽ, nội
dung nào cần được nêu lên để tra vấn?
Truyền thống triết học cho rằng nội dung thiết yếu của vụ án là
thắc mắc về nền tảng thiết định bản chất của mọi sự hiện hữu. Mệnh đề nầy thoạt
tiên xem ra như đã đạt được đến mức rốt ráo. Kỳ thực, đằng sau khởi điểm
"thắc mắc" nầy còn có những vấn nạn nguyên sơ hơn nữa chưa từng được
xác minh, mà truyền thống triết học nầy xem như đương nhiên, thường được gọi
theo ngôn ngữ chuyên môn là tiên thiên (a priori), nghĩa là vốn đã
như thế. Trong những vấn nạn đó, theo sách Job phải lưu ý đến lời chất vấn nầy
của công lý, đó là vấn đề thân trạng của chủ thể đặt câu hỏi.
Sách Job viết:
Ta sẽ chất vấn ngươi và ngươi cho ta hay.
Ngươi đã ở đâu khi ta đã dựng nên trái đất?
Hãy nói đi, nếu sự hiểu biết của ngươi minh bạch" [1].
Nỗi khắc khoải về thân trạng nầy là thắc mắc nguyên sơ của bi
kịch Hy lạp, đặc biệt trong các kịch bản của Sopocle (xem Oedipe vua), cũng như
các tác giả truyện Bánh dày, Bánh chưng trong Lĩnh Nam Chích Quái. Lang Liệu
hoang mang về thân trạng của mình trước ý định của cha. Lang Liệu đã nghe nhưng
không hiểu. Trong sách Sáng Thế ký của Cựu ước, Adam và Evà đã hái trái hiểu
biết để phân định tốt xấu, tráo đổi thân trạng của mình làm thân trạng của
Giavê Thiên Chúa, nên đã sai lạc.
Ta sẽ thấy Triết học Tây phương khi nêu lên thắc mắc về nền tảng
đã tiền kiến rằng câu hỏi nầy phát xuất do tự khả năng mình, theo ý mình. Trên
bình diện hữu thể học, mọi sự như đã ở trong quyền lực của con người, từ nguồn
gốc câu hỏi, sự kiện nêu lên câu hỏi (mọi sự hữu) và nền tảng của nó, đều đã
được thiết định. Bước nhảy vọt ra khỏi thân trạng của mình như thế cũng là bước
khởi đầu hay bình minh của tư tưởng triết học truyền thống.
Thực vậy, trước khi xác định nền tảng cho lối suy tư triết học
nầy, trong Bài Ca Hữu Thể Parménide đã diễn tả bước nhảy vọt kỳ lạ
trên đây một cách khá chi tiết. Trong giấc mơ, Thần thánh đã đưa con người lên
trời xanh vượt qua ngưỡng cửa phân chia Đêm-Ngày để sống trong cõi hiểu
biết đầy ánh sáng của Hữu thể. Trong cõi đó mọi sự đều ở trong chân lý, vì
"Bất luận ta bắt đầu từ đâu, vì ta sẽ trở lại nơi đây" [2]. Từ
nay tư tưởng sẽ dựa trên nền tảng duy nhất có tính cách căn cơ về thân trạng
nầy: "Hữu thể không phân chia, vì toàn thể hữu thể đồng nhất với chính
mình" [3]. Do
đó có thể nói Hữu thể là Hữu thể, và Vô thể là Vô thể; và tư tưởng thuộc về hữu
thể nầy nên "tư tưởng và đối vật của tư tưởng trùng hợp nhau" [4].
Rồi tác giả còn nói thêm, đó là Định mệnh đã trói buộc
như thế.
Có gì khác giữa bài ca hữu thể nầy và bi kịch Hy lạp đặc biệt
trong bản kịch "Oedipe vua" của Sophocle? Sophocle gợi
ý rằng sự hiểu biết ngày là ngày, đêm là đêm của Oedipe hàm ngụ sự quên lãng
một tương quan thiết yếu, nên đã tạo ra tình trạng cô độc của Oedipe. Oedipe đã
giết cha mình là Laios, dành thân trạng của cha để ăn nằm với chính mẹ mình mà
không hay. Bi kịch chính là nỗi oan của lạc lầm gắn với kiếp con người tại thế.
Nên tư tưởng gắn liền với thảm kịch không khởi đầu từ sự hiểu biết ngày là ngày
đêm là đêm; nhưng là nỗi khắc khoải khi nghe được tiếng gọi từ Đại-ký-ức thức
tỉnh con người về thân phận lầm lạc mình đang sống, đồng thời cảm nhận tình
trạng bất cập về mối tương giao với người cha Laios, mà mình đã giết mất rồi.
Ngược lại, điểm khởi phát của Triết học Truyền thống đã tiên
liệu sự đồng nhất tính giữa Laios và Oedipe. Đây là hình ảnh để nói lên nguyên
tắc đồng nhất hay tác động đồng nhất hoá. Nguyên tắc đồng nhất ấy hàm ngụ một
sự vững chắc cô đơn của Hữu thể bất động tự đủ cho mình, đồng thời cũng hàm ngụ
sự đồng nhất giữa tư tưởng và vật thể mình muốn biết. Ứng dụng nguyên tắc nầy
vào sự trôi chảy của thời gian, người ta sẽ có tính hữu lý hay tất định của
nguyên tắc nhân quả. Như thế Nguyên tắc đồng nhất được xem là nền tảng bất khả
kháng và hiển nhiên đi trước cả câu hỏi về nền tảng của mọi sự hữu. Thắc
mắc về nền tảng ở đây xuất lộ như là một thắc mắc giả tạo, qua lối đặt câu
hỏi: Cái gì? Tuy đấy là một câu hỏi, nhưng đã hàm ngụ một câu trả lời, hay
nói cách khác buộc câu trả lời phải nằm trong chính cái nền mình đã có sẵn
trước trong tay. Tại sao như thế? Vì cái gì trong câu hỏi nầy phải
được hiểu vừa là cái nền chung, lại vừa đồng hoá với khả năng con người nêu câu
hỏi.
Nói cách khác "Cái gì" xuất lộ ra trong sinh hoạt con
người vừa như một câu hỏi và đồng thời cũng tiên liệu được câu trả lời. Nói theo
Parménide, tự nó, hữu thể dù ở đâu đâu đi nữa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào,
cũng không thể phân chia, nhưng đồng nhất với mình, tự đủ cho mình. Nên từ nền
tảng nầy mọi câu hỏi có thể đều được phát biểu như nhau: Thiên Chúa là gì?
Con người là gì? Cha tôi là gì? Củ khoai là gì? Kỳ cùng
tôi là gì?
Hữu thể học nầy chi phối vận mệnh của lối đặt vấn đề tư tưởng
của truyền thống triết học Tây phương, từ Aristote cho đến nay.
Người ta thường nhắc đến Nietzsche như kẻ thù của tư tưởng
truyền thống triết học, vì đặt ngược lại vấn đề, không phải Hữumà
là Vô là nền tảng của Thiên nhiên và cuộc sống con người. Nhưng
Vô của Nietzsche trong hư vô chủ nghĩa của ông lại đã nằm trong
khung Hữu Vô nầy.
Ông đã táo bạo nêu lên khả năng nói ngược lại: Hữu là
Vô là Vô là Hữu, nhưng Vô hay Hữu của Nietzsche
cũng tiền kiến tiêu chuẩn đặt vấn đề của Parménide. Nietzsche mặc dù đã quay
lại truy cứu thời bi kịch Hy lạp, nhưng không vượt qua được tiền kiến hữu thể
học của triết học truyền thống. Ông đã tìm ra nơi bi kịch, căn cơ Vô làm nền
cho tư tưởng. Nhưng "Vô" của Nietzsche, cũng như Hữu của
Parménide đều là tính đồng nhất giữa khả năng con người và chân tính hay vô
chân tính. Nietzsche chưa nhận ra cái khác về cách đặt vấn đề tư
tưởng nơi bi kịch, ông chỉ nêu lên cái ngược lại trong khung trời
Đêm Ngày, Hữu Vô của Oedipe lúc chưa tỉnh ngộ hoặc trong sự đối
nghịch Hữu Vô của Parménide. Heidegger nhấn mạnh rằng hư vô chủ nghĩa
tự căn không phải nằm trong lối nói ngược lại với Hữu của hữu thể học
truyền thống, nhưng hư vô chủ nghĩa là vận mệnh chung của toàn bộ hữu thể học,
bao gồm việc nhấn mạnh Hữu hoặc Vô của nó:
Hư vô chủ nghĩa đúng hơn, nếu được suy nghĩ trong yếu tính của
nó, là vận hành nền tảng của Lịch sử Tây phương" [5].
Nói cách khác chữ "ai" gắn liền với cõi người ta chưa
hề bao giờ được nêu lên thành câu hỏi.
Hư vô phát xuất từ bước trật chân căn bản về thân trạng của
câu thắc mắc về tư tưởng, do hành vi đồng nhất hóa đi trước nó như nghiệp
chướng của thân phận con người tại thế. Đồng nhất hóa là một lối nói của nhà
Phật về chữ Karma tạo ngã-chấp. Sách Sáng thế dùng hiện tượng bàn
tay hái trái cây hiểu biết để đồng nhất hóa mình với Thiên Chúa. Từ lúc ấy
mọi sự hiện hữu đều là cái gì, kể cả con người và Thượng đế.
Hư vô không phải là không thực hiện được cái
gì trong viễn tượng của hữu thể học truyền thống. Lịch sử chứng minh con
người đã dùng kiến thức của mình để hiểu biết nhiều chuyện, làm được những điều
mình ước muốn một cách hữu hiệu. Con người đã từng nối dài cuộc sống, rút ngắn
lại thời gian xa cách bằng các phát minh kỹ thuật giao thông, xóa bỏ ngăn cách
không gian bằng kỷ thuật truyền thông điện tử... nhưng tất cả không giải thích
được tại sao giữa ngày hội Đạp Thanh, muôn người chen chúc, Kiều lại
không thấy bóng dáng một ai để tương giao; và tại sao gần đến như vợ chồng,
cùng giường mà xa cách vì khác mộng!
"Họ đã ra đi, lên thuyền; đêm đó, họ đã không bắt được
gì" [6].
Họ không bắt được gì, vì toàn bộ nỗ lực của họ nằm ở trong khung
của đêm đó. Toàn bộ có-không được Parménide cho là đã sáng tỏ trong
cảnh ngày hoàn toàn khai mở: Người-Trời- Đất đã được đồng nhất hoá. Nhưng ngày
đó là đêm cho chân tính, vì chân tính không là cái gì tự đứng một
mình, dù là Trời, người hay Đất - Mà chân tính là tương quan, là sự sống
đặc loại của con người.
Trở lại với lối đặt vấn đề tư tưởng của Đoạn Trường Tân
Thanh.
Thắc mắc nguyên ủy nêu lên trong phần dẫn nhập phát xuất không
phải là ưu tư về sự hiểu biết bản chất của một cái gì; nhưng từ đầu, khung
của tư tưởng là "cõi người ta" của ai và những ai.
Chữ ai gói gọn chân tính con người tại thế ngỡ ngàng về thân
trạng mình, được đặt thành vấn nạn trong mối xung khắc tài-mệnh dấy
lên trong mình, làm con người đau khổ, nhưng không biết do từ đâu đến. Con
người đã nghe lời chất vấn gián tiếp qua Mệnh để thấy được rằng quê
thật hay chân tính của mình là một tương quan; nhưng thực trạng của thân phận
tại thế của mình lại chìm vào "ngày của Tài", mà toàn bộ không
có đường mở ra. Con đường duy nhất mở ra không phải do tự nơi Tài, vốn
là ngã chấp luôn cố thủ đóng kín mình lại trong giấc mơ đầy an bình
của riêng mình. Nhưng Mệnh là lời quấy rầy đến từ Chân tính, phủ định
toàn bộ hư vô nơi Tài. Sự xung khắc khởi đầu cho thắc mắc về
Chân tính, hay còn gọi là khởi đầu của tư tưởng, không liên quan gì đến xung
khắc có không, tinh thần vật chất theo biện chứng pháp của Hegel - là xung khắc
giữa hai đối cực trong khuôn khổ của Tài. Xung khắc Tài-Mệnh là
cuộc vật lộn giữa nghiệp chướng đồng-nhất-hóa do ý chí quyền lực của ngã cô
đơn, và chân tính thúc bách một sự mở ra để có tương quan; giữa trật tự
của các cái gì và cõi người ta.
Nếu nền móng cho tư tưởng triết học truyền thống là nguyên tắc
đồng nhất, hay đúng hơn là hành vi đồng nhất hóa (indentification), thì trong thân phận con người tại thế tư tưởng
chỉ xuất hiện khi có lời chất vấn của chân tính, ta có thể nói là âm vọng của
Đại ký ức, đến với con người, làm con người thấy hụt chân, hay thiếu vắng tương
quan làm nền cho thân trạng của mình. Cảm thức thiếu vắng nầy, về phía con
người, là điều kiện tiên quyết của tư tưởng. Cảm thức thiếu nền lại là nền
cho tư tưởng. Ngôn ngữ tôn giáo gọi là lòng khiêm hạ, hay tinh thần nghèo
(tâm hư = lòng trống rỗng).
"Phúc cho những kẻ nghèo trong thần trí" [7].Tư
tưởng phát xuất từ cảm thức thiếu vắng, hàm ngụ niềm tin hay hy vọng Thời Chung
Mãn trong đó Trời Người sẽ nối kết. Bao lâu thân phận con người còn tại thế,
chân tính của nó gắn liền với hữu hạn tính của "Thời tại thế nầy",
được cảm nhận như cơn khát hay khổ căn nguyên làm sức mạnh đẩy con người vươn
tới Thời Chung Mãn, vươn mãi lên đến tương giao Thái Hòa. Tương quan Trời Người
trong chánh nghiệp của con người có thân là khổ cứu độ, vọng lên từ "lòng
ta", lòng của bất cứ ai là người.
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Thiện căn là Chân tính, và nay là Phúc
thật cho những ai lìa quê an bình giả tạo của Tài, để làm người lữ hành
trên bước đường đầy thách đố của Đạo Tâm.
Nhưng, Duyên nào đây sẽ đưa người lữ hành trên bước đường lưu
lạc, xa quê đến bến bờ thời chung mãn?.
[1] Jb
38, 3-4.
[2] PARMÉNIDE,
Fgt. 3.
[3] sđd
, Fgt. 8.
[4] sđd,
Fgt. 8.
[5] Xem
M. Heidegger, Chemins qui ne mènent nulle part-Gallimard, Paris, 1980, tr.
263.
[6] Ga 21,
3).
[7] Mt.
5,3.
Phụ chú
Kiều của NGUYỄN DU (1766-1820), một gia sản văn hóa nhân loại
Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của
mình, mà còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận.
Vì thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và nơi cuộc
sống người ấy cống hiến một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong
toàn thể nhân loại. [1]
** * Tóm lược bài chia sẻ về Văn hóa Truyện Kiều của
Nguyễn Du trong buổi trình diễn Nhạc của nhạc sĩ Quách VĩnhThiện tại
Conservatoire de Musique J.S. Bach, Bussy Saint-Georges ngày 12/4/2009
Thi phẩm Kiều của Nguyễn Du là một lời được cảm hứng [2], một tư
tưởng.
Vì là lời được cảm hứng, thi phẩm đó ở bên kia
bờ của việc mô tả hay biện minh cho một thời đại hay một xã hội nào bất
kỳ. Lời ấy không bị ràng buộc bởi những định chế và các giá trị đang chi phối
nếp suy tư của xã hội, nhưng đặt vấn đề về ngay chính nền tảng của chúng nhân
danh một quyền uy khác hơn quyền uy đương đại, đó là quyền uy của sự thật,
của ý nghĩa về nhân tính con người. Vì vậy lời được cảm
hứng không quan tâm đến việc mô tả những thực tại xã hội, những tập tục
của một cộng đoàn, những sáng kiến, giấc mơ hay tình cảm của một nhân vật.
Nhưng đưa toàn bộ thực tại con người, kể cả những nền tảng và định chế xã hội,
trực diện với một câu chất vấn duy nhất và căn đế: chất vấn về ý nghĩa
của nhân tính.
Con người là vấn nạn cho chính mình, đó là một câu chất vấn duy
nhất gợi hứng cho đạo lý các thánh hiền, cho minh triết của những nhà tư
tưởng đi tiên phong trong các nền văn hoá khác nhau của nhân lọai
Khi tiếp cận được lời thi ca, cảm hứng được câu
chất vấn đến từ bờ bên kia, - lời vượt lên trên những kiến thức giới
hạn của con người-, các thánh hiền và các nhà tư tưởng chạm đến con tim con
người bất cứ nơi đâu và bất cứ thời đại nào. Sứ điệp của họ được tiếp nhận như
là gia sản văn hóa đối với toàn thể nhân loại và đi vào Đại Ký Ức của
các dân tộc.
Nếu gia sản văn hoá của nhân loại không chuyển đạt điều gì khác
hơn là ý nghĩa về nhân tính, thì sứ điệp văn hóa ấy cũng hé lộ cho thấy thân
phận con người tự căn vốn kỳ lạ và mâu thuẫn. Nét kỳ lạ ấy là dấu chỉ linh
ư vạn vật của nhân tính buộc con người phải dấn thân vào Cuộc Chiến
bi thảm, nhưng hào hùng để có thể chu tòan Mệnh làm người của
mình.
Dưới ánh sáng của lời được cảm hứng từ bên kia bờ, Cuộc
Chiến ngoại thường nầy [thánh hiền trong văn hóa Hy Lạp gọi là Khôn
Ngoan về nhân tính (άνθρωπίνη σοφία) [3] hay Đức
Lý (Ήθος)] vượt lên trên các hình thái đối nghịch của vũ trụ, trên các
biện chứng tư duy và tranh chấp xã hội, trên mọi hình thức tự phủ định ý chí
muốn sống hay con đường khổ hạnh để tu thân… Cuộc Chiến ngoại
thường nầy là:
Cuộc Chiến giữa Đạo sâu kín, chân thực, đối nghịch với
những đạo giả tạo do trí năng vạch ra (xem Đạo Đức Kinh của
Lão Tử, quyển 1, chương 1).
Cuộc Chiến giữa một nhân tính đặt nền tảng
trên Ngã đơn độc, tự mãn bên nầy bờ của bến mê và một nhân
tính đích thực (Phi Ngã) bên kia bờ của Ngã mê lầm đó,
trong đạo lý Phật giáo.
Cuộc Chiến giữa Vương Đạo của chính nhân quân tử và Bá Đạo của
tiểu nhân, theo Khổng giáo.
Cuộc Chiến giữa Tài (Τέχνη)
và Mệnh (Μοίρα) trong Bi Triết của Hy Lạp (đặc biệt
trong Prométhée bị trói của Eschyle và trong Œdipe-Vua của
Sophocle:
“Tài (Τέχνη) quá yếu so với uy quyền của Mệnh” [4].
“Cuộc chiến vinh quang mang nguồn sinh lưc cho quê hương, xin
Trời đừng dẹp tắt.” [5]
Cuộc Chiến (Πόλεμος) giữa Lời siêu việt (Λόγος )
và lý lẽ con người trong tư tưởng của Héraclite.
Cuộc Chiến giữa một bên là Đạo Công Chính và Chân Lý [6], –
Đạo được linh hứng bởi Thần Khí và được hướng dẫn bởi những ái nữ của Thần
Mặt Trời –, và bên kia là con đường bế tắc của mê lầm mà mọi người
đang đi, không trừ một ai [7] trong
Thi Ca của Parménide.
Cuộc Chiến mà Socrate là một chứng tá sống động trong cuộc sống,
trong cái chết bi thương nhưng vinh quang, trong lời giáo huấn ngược
đời của ông.
Cuộc Chiến giữa nhân tính đặt nền tảng trên (Tài), trí
năng đo lường các sự vật trong vũ trụ, và một nhân
tính khác được cảm hứng bởi «Lý của Con Tim» (Đạo Tâm)
trong tư tưởng Pascal...
Chính cuộc chiến đấu bi hùng đó đã khơi nguồn cảm hứng cho tư
tưởng gia-thi sĩ Nguyễn Du và được diễn đạt qua hai câu thơ đầu tiên của truyện
Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau (Kiều, c. 1-2)
Toàn bộ thi phẩm Kiều là một sự triển khai trực giác độc đáo
nầy.
Nhân vật Kiều thể hiện cuộc chiến giữa hai căn tính con người,
một căn tính đặt nền tảng trên chữ Tài và căn tính kia trên
chữ Mệnh, ở ngay giữa cuộc sống.
Lời thi ca nơi Âm vọng Khổ Đau từ bờ bên kia (qua
bóng dáng Đạm Tiên) thức tỉnh Kiều nhận ra một Kiều hồng nhan gắn
liền với Nghiệp (Tài), và một Kiều chân thực bên trong (thanh cao)
của Mệnh mà Giác Duyên sẽ cống hiến, sau cái chết rốt ráo của
Nghiệp nơi sông Tiền Đường, giao thoa giữa Tài và Mệnh.
Con đường của Tài xuyên qua những hình ảnh tượng
trưng như:
Sự tự vẫn: con đường vô sinh, vô cảm.
Thúc Sinh - biểu tượng cho khóai lạc cá nhân và lòng
trắc ẩn thường tình.
Con đường khắc kỷ ở trong một am thất,
Từ Hải – biểu tượng sự giải phóng xã hội...
Nhưng những con đường giải thoát của Tài đều bế tắc.
Tuy nhiên Lời từ bên kia bờ không ngừng âm
thầm nhắc rằng thế giới Ảo tưởng của Tài sẽ tàn, và Con Đường
khác của Mệnh sẽ hé lộ nhờ Giác Duyên:
Đạo của Mệnh, Đạo Tâm tuyệt đối ở bên kia bờ
của Tài và đòi hỏi cái chết tận căn của Tài (Kiều hồng nhan
phải chết trên sông Tiền Đường để sống lại Kiều Giác Duyên).
Đạo của Chữ Tâm là Đạo duy nhất của sự cứu rỗi, Đạo tuyệt hảo
(Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài). (Kiềuc.3252).
Từ hai thế kỷ nay, thi phẩm Kiều của Nguyễn Du đã cảm hứng tâm
hồn và quy hợp con dân Việt-nam. Trong tương lai, hội ngộ nguồn cảm hứng tư
tưởng thi ca của nhân lọai, thi phẩm Kiều hẳn sẽ cống hiến cho mọi dân tộc trên
thế giới một lời mời gọi cấp bách để có thể nhận ra bí nhiệm vô tận, đó chính
là CON NGƯỜI.
Trong gần hai thế kỷ, Truyện Kiều của Nguyễn Du đi vào Đại Ký Ức
của người Việt. Mỗi người, mỗi sinh hoạt tiếp nhận những lời thơ Kiều như
một nguồn cảm hứng, một kho tàng tài liệu hay một lời biện minh.
Nguồn sinh lực của Truyện Kiều khó mà cạn, vì đây là một lời
thơ, một lời cảm hứng đến từ ‘Vô Phương’ bên kia bờ của không gian và lịch sử.
Tuy nhiên điều đáng làm cho chúng ta hôm nay ngạc nhiên, đó là qua gần hai trăm
năm, nguồn cảm hứng đến với Truyện Kiều của Nguyễn Du, nguồn cảm hứng còn được
gọi là Lời Mới Làm Đứt Ruột - Đoạn Trường Tân Thanh - mà Đạm Tiên là hiện thân
làm sứ giả truyền đạt cho Kiều, nguồn cảm hứng kỳ lạ ấy dường như không một bậc
thức giả nào lưu ý. Mà nếu có nhắc đến, thì người ta cũng chỉ biết lặp lại lời
của Vương Quan [8], một con người ở bên ngoài cảm thức của
nỗi đau làm người mà Nguyễn Du muốn truyền đạt qua nhân vật Kiều.
Trong Truyện Kiều, người nghe được từ miệng Đạm Tiên lời làm đứt
ruột nhắc nhở ý nghĩa làm người, người hoàn thành cái chết của thế giới mê lầm
do Tài đã được Đạm Tiên loan báo, người nhận ra Đạm Tiên là lời cứu độ khi gián
tiếp cho hay Đạm Tiên cũng là Giác Duyên, người duy nhất ấy trong truyện Kiều
không ai khác hơn là Kiều, kẻ hữu tình ta lại gặp ta [9] với
Đạm Tiên.
Thế nhưng, Đạm Tiên, lời làm cho cổ nhân bên kia bờ miệt mài say
đắm [10],
nay con người bên nầy bờ đã đẩy lui vào dĩ vãng xa xăm, nếu không nói
là đã biến lời âm thầm làm đứt ruột nầy - lời của lương tri, lời đạo
nghĩa - thành một con điếm, một nấm mộ bị lãng quên bên lề đường.
Hai trăm năm ca tụng mối tình Kim Trọng Thúy Kiều đến độ quên
tương giao hữu tình bên trong giữa Đạm Tiên và Kiều; hai trăm năm tôn
vinh Từ Hải hiệp nghĩa giang hồ khí phách đến độ quên đi cuộc-vượt-qua uy dũng
từ cõi chết của Tài đến ơn cứu độ của Mệnh! Phải chăng hai trăm năm đó
cũng là nghiệp quên lãng của phận làm người ‘đã mang lấy nghiệp vào thân’ (Kiều, c.
3249) !
Trước bỉ ẩn lịch sử nầy, thử hỏi có lời nào của Đạm Tiên giúp ta
nêu lên hai vấn nạn nầy:
Kiều là gia sản văn hóa của dân Việt Nam và của nhân loại, phải
chăng chỉ vì Nguyễn Du có công chọn được một truyện tình cảm xã hội của một tác
giả người Tàu và đã chuyển được qua tiếng Việt một cách hết sức văn chương?
Hay đã đến lúc chúng ta lại cần một «lời mới làm đứt
ruột để đọc lại Truyện Kiều và tiếp nhận được sứ điệp tư tưởng của
nhà văn hóa Nguyễn Du?.
Chữ Trời trong Đoạn Trường Tân Thanh
Dựa vào chính từ ngữ chính xác được dùng: Trời hay chữ
hán-việt Thiên, cũng như dựa vào một trong hai thành tố tương quan làm nền
tảng cho yếu tính của con người tại thế, một bên là người và bên kia
là trời (hoặc một thuộc tính của trời nầy mà cách gọi tên đổi thay
tùy mức cảm nhận về mối tương giao đó, hoặc tùy hoàn cảnh làm xuất lộ một mối
tương quan cá biệt), chúng tôi sắp xếp bản liệt kê sau đây:
A- Trời được nêu lên như một vật gì bao la làm khung cho vũ
trụ, hoặc một hiện tượng thời tiết của vũ trụ thiên nhiên. Trờiđây là đối
tượng của nhận thức thường nghiệm
Cỏ non xanh tận chân trời (câu 41)
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (câu 484)
Chữ Trời nầy được dùng trong các câu: 140, 449,
546,899,910, 914, 1041, 1603,1637, 1639, 1876, 2062, 2248, 2251, 2441, 2550,
2628, 2924, 2943, 3049.
B- Trời được dùng như tĩnh từ, một đặc tính tự nhiên di
nhiên, bẩm sinh (inné), hoặc vốn đã là như thế. Từ ngữ chuyên môn của
triết học truyền thống gọi là tiên thiên hay tiên nghiệm (a priori).
Thông minh vốn sẵn tính trời (câu 29).
Xem các câu: 150, 494, 1065, 2239, 2922.
Năm mây, bỗng thấy chiếu trời (câu 2947).
D- Và Trời trong tương quan với con người để kết
dệt nên cõi người ta. Có lúc trời xuất hiện như một tài năng theo dự
phóng của Tài dựa trên nguyên tắc nhân quả; có
lúc Trời là trời kia vượt trên khả năng vươn tới của con
người, nhưng con người thấy cần để đặt nền cho tương quan chân thật của nhân tính.
"Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen (câu 6).
Phủ phàng chi mấy Hóa công (câu 85)
Khuôn xanh biết có vông tròn mà hay (câu 412)
Xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều (câu 420)
Ông Tơ gàn quản chi nhau (câu 449)
Oan nầy còn một kêu trời, nhưng xa (câu 596)
Trời làm chi cực bấy Trời! (câu 659)
Trăng già độc địa làm sao! (câu 688)
Rủi may âu cũng sự Trời (câu 817)
Tiếng oan đã muốn vạch Trời kêu lên (câu 892)
Nàng rằng; "Trời thẳm đất dày!" (câu 979)
Người dù muốn quyết, Trời nào đã cho! (câu 998)
Túc nhân âu cũng có Trời ở trong (câu 1018)
Trên đầu có bóng Mặt trời rạng soi (câu 1030)
Mà xem Con Tạo xoay vần đến đâu (câu 1116)
Hoá nhi thật có nở lòng (câu 1129)
Nàng rằng: "Trời nhé có hay" (1179)
Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong (câu 1340)
Bây giờ đất thấp, Trời cao (câu1817)
Chúa Xuân để tội cho mình cho hoa! (câu 1946)
Không dưng chưa dễ mà bay đường Trời (câu 2100)
Chứng minh có đất, có Trời (câu 2125)
Tài tình chi lắm, cho Trời đánh ghen (câu 2154)
Biết thần chạy chẳng khỏi Trời (câu 2163)
Đội Trời, đạp đất, ở đời (câu 2171)
Đạo Trời báo phục chỉn ghê (câu 2309).
Nàng rằng: "Lồng lộng Trời cao! (câu 2381)
Dễ đem gan óc, đền ghì Trời mây (câu 2416)
Chọc Trời, quấy nước, mặc dù (câu 2472).
Tấm lòng phó mặc trên Trời, dưới sông (câu 2634)
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương (câu 2649)
Sư rằng: "Phúc họa đạo Trời (câu 2655)
Có Trời mà cũng có ta (câu 2657)
Bán mình đã động hiếu tâm đến Trời (câu 2684)
Khi nên, Trời cũng chiều người (câu 2689)
Duyên ta mà cũng phúc Trời chi không! (câu 2694)
Tâm thành đã thấu đến Trời (câu 2717).
Hơn người trí dũng, nghiêng Trời uy linh (câu 2904)
Cõi trần mà lại thấy người Cửu nguyên (câu 3000)
Rằng: trong tác hợp Cơ Trời (câu 3063)
Dưới dày có đất, trên cao có Trời (câu 33086)
Trời còn để có hôm nay (câu 3121)
Ngẫm hay muôn sự tại Trời (câu 3241)
Trời kia đã bắt làm người có thân (câu 3242)
Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa (câu 3250)
E- Và âm hưởng của Lời từ Trời trong Mệnh như Lời
phủ nhận thế giới của Tài, cũng như tác động của Trời là Duyên bất
ngờ đến cứu độ để mở ra tương quan Trời Người là Thiện căn,
mà nhà của nó là Tâm.
Chú thích:
[1] Karl
JASPERS, Les grands philosophes, tome 1, trad. C. Floquet et
autres, Plon, Paris, 1989, tr.36.
[2] Socrate
đã mô tả thi ca (lời được cảm hứng) như sau: «Không phải do
tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do cảm hứng từ một quyền
năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người ta
thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ là một
bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý trí con người
để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những tiên tri của Trời. Nhờ
thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không phải do
chính tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị
tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần chuyển lời của Thần
đến với chúng ta qua trung gian các thi
sĩ!» (PLATON, Ion. 534 c-d;
534 e..).
[3] cf.
PLATON, Biện hộ Socrate 20 d-e.
[4] ESCHYLE, Prométhée bị trói c..514.
[5] SOPHOCLE, Œdipe-Vua,
c. 879-880.
[6] Sđd. II 4.
[7] Sđd. V
9.
[8] Kiều, c.62:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi!
Tài liệu tham khảo
Tài liệu Việt ngữ
Bùi Kỷ
Trần Trọng Kim - Hiệu chính và chú giải Truyện Thúy Kiều,
bản in thứ tám, Tân Việt, Sàigòn.
Dương Quảng Hàm - Việt
Nam Văn Học Sử Yếu, Bộ Giáo dục, in lần thứ 10, Sàigòn 1968.
Đào Duy Anh - Việt Nam Văn Hóa Sử Cương,
Quan Hải Tùng thư, Huế 1938.
Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan Hải Tùng thư, Huế 1943
Hiệu khảo, chú giải, xb. Văn Học, Hà Nội 1984
Đặng Trần Côn - Chinh Phụ Ngâm Khúc, Đoàn Thị Điểm
diễn nôm, Văn Bình Tôn Thất Lương diễn giải, xb. Tân Việt, Huế 1950
Khuyết Danh - Đại Việt Sử lược, Nguyễn Gia
Tường dịch, xb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993
Lê Quý Đôn Toàn Tập - Khoa học Xã hội, Hà
Nội xb, 1978.
Lê Ngọc Trụ, Bửu Cầm - Thư mục về Nguyễn Du, Sàigòn,
Bộ Giáo dục, xb. 1965.
Lê Văn Hòe - Nho giáo và
Truyện Kiều, Đời Mới số 39, 1953.
Lê Văn Siêu - Việt Nam Văn Minh Sử
Cương, tái bản, Khởi Hành, Đức quốc 1990.
Lý Tế Xuyên - Việt Điện U Linh Tập,
bản dịch Lê Hữu Mục, Sàigòn 1962.
Một nhóm Giáo sư -
Kỷ niệm đệ II bách chu niên thi hào Nguyễn Du, trong Văn Hoá Nguyệt San, số đặc
biệt, Sàigòn 1965.
Một số tác giả - Lịch sử Văn học Việt Nam, Khoa học Xã
hội xb,Hà Nội, 1980.
Nguyễn Đăng Trúc - Văn Hiến, Nền Tảng của Minh Triết, Định Hướng xb, Reichstett, Pháp, 1996.
Nguyễn Khoa - Khảo luận Đoạn Trường Tân
Thanh, Khai Trí, Sàigòn 1960.
Nguyễn Thạch Giang - Truyện Kiều, Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1973
Nguyễn Trãi Toàn Tập - xb. Khoa học, Hà
Nội 1976
Phạm Quỳnh - Truyện Kiều, trong Nam Phong, số 30, 1919
Phan Huy Chú - Lịch triều Hiến chương loại chí, 1821 tái bản.
Phan Bội Châu - Khổng Học Đăng, xb. Khai Trí 1973 Sàigòn.
Trần Thế Pháp - Lĩnh Nam Chích Quái, Vũ Quỳnh hiệu chính,
Lê Hữu Mục dịch, xb. Khai Trí, Sàigòn 1960.
Trần Trọng Kim - Việt Nam Sử lược, tái bản, Institut de l’Asie
du Sud-Est, Paris.
Nho giáo 2 quyển, xb. Bô Giáo dục, Sàigòn 1971.
Trần Văn Đoàn - Bản thể và Bản chất của Việt triết, trong
Vietnamologia, số 2, Montréal 1996.
Viện Văn học - Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, xb. Khoa
học Xã hội,Hà Nội 1971.
Vũ Đình Trác - Triết học Nhân bản Nguyễn Du, xb. Hội Hữu,
California 1993.
Lão Tử Đạo Đức Kinh - Quốc văn chú giải, bản dịch của Hạo
Nhiên Nghiêm Toàn, xb. Khai trí, Sàigòn 1970
Kinh Thư - Bộ Văn hóa Giáo dục Sàigòn 1965.
Khổng cấp Trung Dung - Bộ Giáo dục, Sàigòn 1972.
Đại học - Bộ Giáo dục, Sàigòn 1972.
Tài liệu ngoại ngữ
Alquié,
Ferdinand
La nostalgie de l'être, Paris 1950
Aristote La Métaphysique, (commentaire de J. Tricot), Nouvelle
Ed. J. Vrin, 2 vol., Paris 1986.
Saint Augustin - Confessions, trad. A. Mandouze, Ed
Seuil, Paris 1982.
Bachelard,
Gaston - La dialectique de la
durée, Paris 1936.
La terre et les rêveries du repos, Paris, 1948.
Bréhier, Emile - Histoire de la Philosophie,
PUF, Paris, Nlle éd, 1981.
Brun, Jean - Les
conquêtes de l’homme et la séparation ontologique, PUF, Paris, 1961.
Les Stoiciens, PUF, Paris, 1957.
L 'Europe Philosophe, 25 siècles de pensée occidentale, Ed.
Stock. 1988.
Brunschvicg,
Léon- Le progrès de la
Conscience dans la Philosophie occidentale, 2 vol., Paris,1927.
Burnet, John - L’Aurore de la
philosophie grecque, trad. Reymond, Paris, 1919.
Canguilheim, Georges - La connaissance de la
vie, Paris 1952.
Chestov, Léon - Le pouvoir des clefs, trad. B.
de Schloezer, Paris 1928 Childe Gordon
Crayssac, Réné What happened in history, Ed. Harmondsworth, 8e
Ed 1960.
Kim Van Kieu, le célèbre poème annamite de Nguyen Du, Ed. Lê Van
Tan, Ha Noi, 1926.
Delacroix, Henri Le Langage et la pensée, Paris 1924.
Descartes, René -
Oeuvres, Ed. Adam, Tannery.
Diès, Auguste - La définition de l’être et la
nature des idées dans le "Sophiste" de Platon, 2e éd, Paris 1932.
Dufrenne, Mike et Ricoeur Paul Karl Jaspers et la
Philosophie de l' existence, Paris, 1947.
Eliade, Mircea - Traité d’histoire des religions,
Payot, Paris 1949.
Le mythe de l’éternel retour, Gallimard, Paris 1969.
Eschyle -
Oeuvres, trad. Paul Mazon, Ed. les Belles lettres.
Gilson, Etienne L’être et l’essence, J. Vrin, 2e éd, Paris
1987.
Gusdorf,Georges -
Mythe et Métaphysique, Paris, 1956.
Hegel, G.W - La phénoménologie
de l' esprit, trad. J. Hyppolite, 2vol. Paris 1939-1941.
Leçons sur l’histoire de la philosophie, trad. J. Gibelin, Paris
1954.
Heidegger,
Martin - Être et
Temps, trad. F. Vezin, Ed. Gallimard, Paris.
Kant et le problème de la métaphysique, trad. A. de Waelhens et
W. Biemel, Ed Gallimard, Paris 1953.
Qu’appelle-t-on penser? trad. A. Becker et G. Granel, PUF, Paris
1959.
Qu’appelle-t-on penser? trad. A. Becker et G. Granel, PUF, Paris
1959.
Introduction à la métaphysique, trad. G. Kahn, Et. Gallimard,
Paris 1967.
Chemins qui ne mènent nulle part, trad W. Brokmeier, Gallimard,
Paris 1962.
Hölderlin,
Friedrich - Hymnes, Elégies et
autres, trad Guerne, Flammarion, Paris 1983.
Hyppolite, Jean Etudes sur Marx et Hegel, Paris 1955.
Jaspers, Karl - La situation spirituelle
de notre époque, trad; Paris, Louvain 1952.
Nietzsche et le Christianisme, trad. Jean Hersch, Paris 1494
Kant,
Emmanuel - Critique de la raison pure, trad. Barni et Archambault. 2 vol. Paris 1934.
La philosophie de l' histoire, trad. Stéphanne Piobetta, Paris
1947.
Kierkegaard, Soren - Le
concept d' angoisse, trad. P.H Tisseau, Paris 1935.
Riens philosophiques, trad. K. Ferlov et J. T. Gateau, Paris
1937.
Lévinas, Emmanuel -
Difficile Liberté, Ed. A. Michel, Paris 1963.
Le temps et l' autre, PUF, Paris 1983.
Mallarmé, Stéphane - Divagations,
Paris; s. d.
Marx Karl,
Engels. Friedrich
Nietzsche
S. Friedrich - L' Idéologie
allemande, trad. H. Auger et autres, Ed. sociales, Paris 1976
La naissance de la tragédie, trad. Geneviève Bianquis, Paris
1938.
Ainsi parlait Zarathoustra, trad. M. Betz, Paris 1936.
Le Gai Savoir, trad. A. Vialatte, Paris 1950.
La volonté de puissance, trad. G Bianquis, 2 vol. Paris 1942.
Parménide - Le
Poème, présenté par Jean Beaufret, PUF, Paris 1955.
Pascal, Blaise
Les penseurs grecs avant Socrate,
de Thalès de Milet à Prodicos - Pensées et
opuscules, petite édition de L. Brunschvicg, lib. Hachette, Paris 1946.
trad. Jean Voilquin Flammarion, Paris 1964.
Philosophes taoistes - Lao-Tseu,
Tchouang-Tseu, Lie-Tseu, trad. Liou Kia-Hway, ed. Gallimard, Paris 1980.
Platon Oeuvres, trad. E. Chambry, Les Belles
lettres.
Scheler, Max - Nature et formes de la
sympathie, trad. M. Lefèbvre, Payot, Paris.
Le formalisme en éthique et l’éthique matériale des valeurs,
trad. M. de Gandillac, Ed Gallimard, Paris 1955.
Schuhl, P.M - Essai sur la formation
de la pensée grecque, Paris 1934.
Sophocle - Oeuvres, trad. A. Dain et P. Mazon, 3 vol, coll. Belles Oeuvres.
Spenlé,
Edouard - Novalis. Essai sur l’idéalisme romantique en Allemagne, Paris 1903.
Spengler,
Oswald - Le déclin de
L’occident, trad. M. Tazerout, 2 vol, Paris 1948.
Schopenhauer, Arthur - Du monde comme
volonté et comme représentation, trad. A. Burdeau, PUF, Paris 1966.
Teilhard de Chardin,
Pierre - Le phénomène humain,
Ed, Seuil, Paris 1955.
Toynbee, Arnold A Study of History, Ed. Oxfod University Press
and, Thames and Hudson Ltd, London 1972.
Trần Đức Thảo - Phénoménologie et Matérialisme
Dialectique, Ed. Gordon Breach Paris 1971.
Waelhens, A.
de Phénoménologie
et Vérité, Paris 1953.
Wahl, Jean - Etudes
Kierkégaardiennes, Paris 1938.
Walpola,
Ruhaha -L’enseignement du Bouddha, du seuil, Paris 1961.
Whitehead, Alfred North Symbolism, its Meaning and Effect, Cambridge 1929.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét