Ván Cờ Sinh Tử
Lời vào truyện.
Có bao giờ chúng ta nghe từ miệng một vị thiền sư dạy Đạo cho
môn sinh như thế này chưa:
“- Này chư tử! Thuở còn trai trẻ, làm kiếm khách áo trắng, ta
ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém. Hàng tục sĩ gọi ta là Kiếm
vương.
Này chư tử! Thuở còn trai trẻ, làm giang hồ kỳ thủ, ta ít khi
chơi cờ. Khi đã chơi, một quân cờ đặt xuống - trọng lượng một quả núi - sẽ kết
thành định mệnh. Định mệnh không lập lại hai lần. Dòng sông đã chảy, vậy thì những
quân cờ kế tục đi đến chung quyết. Không do dự. Không ngập ngừng. Người đời gọi
ta là Kỳ vương.
Này chư tử! Kiếm vương ta cũng bỏ. Kỳ thủ ta cũng lìa, khoác
tay nải, dép cỏ, nón mê lang thang học Đạo. Ba mươi năm chí thú tinh cần mới thấy
được cửa vào. Mười năm lên núi sâu thiền tu, tịch mặc. Sở chướng đã trừ. Mê lầm
đã tuyệt. Núi cũng là núi. Sông cũng là sông thôi. Kiếm vương kia thành Kiếm đạo.
Kỳ vương kia thành Kỳ đạo. Tại sao như thế?
Này chư tử! Nay ta có mấy lời tâm huyết, như dao chém đá, như
kiếm xuyên mây. Hãy nghe mà lập tâm lập hạnh. Đốt cháy kiến hoặc, dội tắt nghi
tình, vào chốn ngũ trần mà thong dong tự tại.
Hãy nghe đây! Phàm người tu Phật, một niệm phóng đi, tác
thành nghiệp báo. Vậy hãy như tay Kiếm vương kia, chớ có khinh suất mà ra
chiêu, đừng cho ý tưởng tự do khởi động. Khi ngưng tụ sinh lực. Lúc buông xả
nghỉ ngơi. Hãy xuất niệm như xuất kiếm. Đã xuất là phải đạt.
Này chư tử! Phàm người tu Phật, phải tinh luyện tư duy, khổ hạnh
tư duy. Một tư duy đặt trên đối tượng. Một tư duy dẫn dắt hành động. Phải như
tên Kỳ thủ kia, một quân cờ đặt xuống, trọng lượng một quả núi. Dòng sông không
chảy hai lần. Đừng do dự. Đừng ngập ngừng. Quân cờ đặt xuống là tác thành định
mệnh, tác thành nhân quả, nghiệp báo.
Này chư tử! Hãy xuất cờ! Hãy xuất niệm! Hãy xuất kiếm! Bước tới!
Không ngoảnh đầu! Không có sinh tử giữa dòng chảy trôi liên lỉ! Không có sau
trước giữa vòng tròn vô thỉ, vô chung!”
Bài giảng kia đã từ một tu viện thâm u trên núi cao, đâm
xuyên qua mấy đỉnh mây mù, băng tuyết, rơi xuống, cắm vào giữa lòng các đô thị.
Người ta tỉnh giấc, bàng hoàng. Ngàn năm Phật giáo kinh điển, từ chương, thụ động,
tiêu cực, đắm say bùa chú, hương khói vật vờ; chơt đứng dậy, vươn cao, nắm định
mệnh mình bước đi như thớt voi lâm trận, hùng dũng ho to, cánh sát cánh, vai
sát vai...; ánh lửa trí tuệ bùng lên, thổi sinh khí, đem cái đẹp, sức mạnh và tự
do tối thượng cho con người.
Phật giáo từ thời Khâm Minh Thiên Hoàng, đến đây, hậu bán thế
kỷ XV, sống lại, mang cơ thể mới, tinh thần mới, dẫn Nhật Bản đi vào thời đại
phú cường. Công lao ấy có ai ngờ rằng, có sự đóng góp từ trí tuệ của một người:
thiền sư Dai-so-kim! Ngài tịch năm 1491, nơi một am thất nhỏ ở Keti phía nam
Tây hải đạo.
Truyện ngắn sau đây thuật lại một trường hợp dạy Đạo của người.
Thanh niên Ka-jo-ju sau khi thất vọng về đường công danh, tình yêu, sự nghiệp
bèn tìm đến một tu viện trên non cao và thưa với Tu viện trưởng:
- Thưa ngài! Con đã thấy rõ bộ mặt thật của cuộc đời nên mong
muốn giải thoát khỏi những đau khổ. Thế nhưng, con không có khả năng hành trì một
thứ gì lâu dài. Không bao giờ con có thể sống nhiều năm trong thiền định, học tập,
giới luật hay cái gì nghiêm túc tương tự như vậy. Con sẽ thối chí và rơi trở
vào cuộc đời, dẫu biết rằng mình không còn chịu đựng được. Quyên sinh là biện
pháp hay nhất, có lẽ... Thưa ngài! Vậy thì còn có con đường nào ngắn nhất, dễ
dàng nhất dành cho những kẻ như con hay không?
- Có chứ! Tu viện trưởng một thoáng lạ lùng nhìn người thanh
niên rồi trả lời - nếu con trung thực! Nhưng hãy cho ta biết là con đã học những
thứ gì? Sở tri ra sao? Có thể có những khả năng như thế nào? Thảng hoặc, con
thường hay tập trung tâm ý nhiều nhất vào chuyện gì?
Ka-jo-ju có vẻ nghĩ ngợi, sau đó, y thở dài thườn thượt:
- Ôi! Thực sự thì không có thứ gì! Con chưa nghĩ là mình phải
nên như thế này hoặc nên như thế nọ! Vả chăng, mục đích của sự học cũng chỉ đưa
đến hư vô và phù phiếm! Công danh, sự nghiệp giữa cuộc đời này cũng chỉ là giấc
mộng đầu hôm. Hiện giờ gia đình con lại khá giả nên con không cần phải làm việc.
Riêng về sở thích thì... tuyệt, con thích đánh cờ nhất! Cả đời dường như tâm
trí con chỉ tập trung vào đó thôi. Trong vài cuộc tranh giải gồm những kỳ thủ
già dặn bốn phương, thỉnh thoảng con cũng giật được phần thưởng ưu hạng.
- Rất tốt! Tu viện trưởng gật đầu - chưa đến nỗi phải bỏ đi.
Nhưng mà điều này mới thật là quan trọng, con có niềm tin nào nơi ta không chứ?
- Con đã chọn lựa.
- Thế nào?
- Ngài là Kiếm vương - Thanh niên Ka-jo-ju chợt nói lớn - lại
là Kỳ vương nữa. Ngài đã dùng sức mạnh của đạo đức và trí tuệ để thu phục nơi
tu viện này những con ngựa hung hăng nhất, những tay giang hồ kiêu ngạo và bạc
hãnh nhất... Không cần phải nói rằng người ta tín phục ngài như thế nào, ngài
Tu viện trưởng ạ!
Nghe gọi đúng tên mình, Ka-jo-ju rúng động cả châu thân. Bất
giác, thanh niên đưa mắt nhìn Tu viện trưởng, và y cảm thấy một sức thu hút kỳ
lạ không cưỡng được.
Ka-jo-ju gật:
- Tín phục. Con hoàn toàn tín phục.
Tu viện trưởng chậm rãi quay qua bảo thị giả:
- Vậy hãy cho gọi tu sĩ Mu-ju đến đây cùng với bàn cờ của y.
Người được gọi là một tu sĩ trẻ, rất trẻ, vóc người tầm thước,
dáng dấp nho nhã, khuôn mặt sáng rỡ, tròn trặn đầy phúc hậu.
- Mu-ju con!
- Bạch thầy, con nghe.
- Bao nhiêu năm con theo ta để học Đạo. Con mời cơm, ta ăn.
Ta gọi, con dạ. Ta giẫy cỏ, con cuốc đất... Tình thầy trò giữa chúng ta thật
không có gì đáng phải phàn nàn cả chứ?
- Dạ, quả thế thật.
- Ta còn muốn hỏi rõ hơn nữa. Từ trước đến nay, con không hề
mảy may nghi ngờ gì nơi ta đấy chứ?
- Phải nói ngược lại, bạch Thầy - giọng tu sĩ trẻ chợt như
viên đá nặng ngàn cân - phải nói là con tín phục Thầy một cách tuyệt đối.
- Rất tốt! Vậy này Mu-ju! Ngay bây giờ ta yêu cầu ở nơi con sự
tín phục “kim cương bất hoại” đó.
- Xin vâng.
Tu viện trưởng - chính là vị thiền sư Dai-so-kim - chợt đứng
dậy, bước tới bức tường phía đông. Ở đó có treo một thanh kiếm cổ, vỏ nạm bạc
khảm xà cừ, nhưng tuế nguyệt đã phủ lên đấy một lớp bụi đục. Gần nửa thế kỷ
nay, ngài không đụng đến thanh kiếm ấy. Cái thời Kiếm vương trai tráng oanh liệt
dường như mới hôm qua đây thôi. Ngài thò tay. Một tiếng động khẽ vang lên. Kiếm
đã ra khỏi vỏ. Mũi kiếm sắc lạnh ngời ánh thép xanh biếc.
Thiền sư Dai-so-kim quay lại, đứng thẳng như một cỗi tùng gân
guốc.
- Này Mu-ju! Ngài nói chậm rãi - con hãy chơi cờ với chàng
thanh niên này. Và nghe đây! Nếu con thua, ta sẽ chém đầu con, nhưng ta hứa là
con sẽ được tái sanh vào cõi phúc lạc. Nếu con thắng, ta sẽ chém đầu chàng
thanh niên. Suốt đời anh ta mê mải ham thích trò chơi đó, nếu để thua thì chém
đầu y chẳng oan tí nào.
Hai người lạnh toát sống lưng nhìn Tu viện trưởng; và trong
thoáng giây đó, họ đều hiểu rằng ngài nói thật.
Thanh niên Ka-jo-ju đứng trân, bất động, loáng thoáng theo
hơi gió buốt lạnh câu nói xa xưa của Kiếm Vương: “Ta ít khi rút kiếm ra khỏi
bao, rút ra là phải chém!” Bất giác, thanh niên đưa tay sờ lên cổ mình, mồ hôi
lấm tấm, gai lạnh. Tu sĩ Mu-ju chỉ thoáng một giây sợ hãi như tí gợn trên mặt hồ
rồi mất. Trọn đời bằng vào đức tin tuyệt đối nơi đức thầy, nên việc giao phó định
mệnh không phải là điều đáng suy nghĩ lâu.
Giữa thiền đường, lư trầm nghi ngút. Cơn gió lạnh lẽo lùa qua
liếp cửa. Thiền sư Dai-so-kim ngồi xuống sau làn khói lung linh mờ ảo, tay nắm
chặt đốc kiếm trịnh trọng với phong độ của một bậc tôn sư. Không khí đọng lại,
trang nghiêm và tĩnh mịch đến ghê người.
Cả hai người hoàn toàn bị khiếp phục. Họ bắt đầu bước vào ván
cờ sinh tử.
Ván cờ không còn là trò chơi nữa. Là cái gì nghiêm trọng nhất
trên đời này. Ván cờ chính là cuộc đời. Ván cờ chính là sinh tử. Và cả hai hoàn
toàn tập trung tâm ý vào đó không một mảy may dám xao lãng.
Chỉ vài nước khởi đầu, thanh niên đã sớm hiểu là mình đang đối
đương với một địch thủ kỳ tài và già dặn. Tu sĩ trẻ lại un đúc được đức trầm
tĩnh của thiền môn. Đó là những yếu tố đáng ngại. Mồ hôi từ tráng chàng thanh
niên chảy dài xuống ngực. Tu sĩ Mu-ju đã chiếm ưu thế mất rồi. Và như một lão
ngựa tự tin, sung sức - chỉ cần sải từng bước đều đặn giữ khoảng cách đầu ngựa.
Chiến thắng chỉ còn là thời gian.
Ka-jo-ju quên ngoại cảnh, quên bản thân, quên cả việc sống chết.
Ngay giây phút này - tình yêu, công danh, sự nghiệp, ưu hận - là những đám mây
đen bị xua tan một cách nhanh chóng. Tâm trí Ka-jo-ju hoàn toàn chú mục vào cái
đam mê duy nhất của đời mình. Phong độ, sinh lực, thiện xảo, sự thông minh dễ
dàng trở lại với chàng. Thế là Ka-jo-ju khôn khéo gỡ từng thế một. Tuy nhiên,
tu sĩ Mu-ju vẫn tranh tiên. Rất chậm, vững chãi, từng bước vây hãm thành trì,
không một sơ hở tối thiểu để cho chàng thanh niên lập lại thế quân bình.
Đột nhiên, thanh niên Ka-jo-ju bỏ thủ, bỏ thành trì, hy sinh
quân mã, tung những đòn chớp giật. Lớp chết, lớp khác xông lên với khí thế quyết
tử. Lấy công làm thủ là chiến thuật bình thường, nhưng tự hy sinh quá đột ngột,
liều lĩnh và táo bạo như vậy thì quả là Mu-ju mới thấy lần đầu. Đến lượt tu sĩ
trẻ toát mồ hôi, từng giọt, từng giọt rỏ xuống bàn cờ. Ka-jo-ju chỉ chờ có thế.
Chỉ cần một thoáng bối rối, lưỡng lự của đối thủ là y chém đông, chém tây những
thế táo bạo - nhưng chỉ là hư chiêu - rồi rút về an toàn, bình chân như vại.
- Đệ tử vây Ngụy, cứu Triệu, hao tổn tâm cơ là chỉ mong cái
thế bảo toàn - Ka-jo-ju thở phào nói - Thật ra, nếu đệ tử không thất vọng tình
đời thì không đi những thế tuyệt mạng như vậy. Vì từ bi, vì trung hậu và chơn
chất mà tiểu sư phụ mất thế thượng phong. Hiện giờ tiểu sư phụ dẫu hơn quân
nhưng chuyện thắng bại khó biết phần ai.
Lợi dụng khi quân mã của tu sĩ đang tản mác đó đây, thanh
niên kéo đôi pháo giăng về giữ trung quân. Binh lính và ngựa chặn ở ven sông. Một
xa chợt đông, chợt tây, chợt tấn, chợt thoái xông xáo giữa chốn thiên binh vạn
mã. Tu sĩ trẻ bắt đầu thấy mình yếu thế. Tự tin một thoáng lay động là phía tả
tiền đã bị viên hổ tướng của địch phá vỡ. Lão ngựa già của đối phương được hai
chốt hộ vệ chặt chẽ, hờm sẵn đã lâu, bây giờ hung hăng nhảy đến thí mạng. Thế
là đôi pháo bất khuất kiên cường của tu sĩ bị loại khỏi vòng chiến.
Mu-ju đã rơi vào thế thủ. Thỉnh thoảng vẫn đánh trả những đòn
đầy trầm tĩnh và nội lực nhưng thanh niên vẫn đón đỡ dễ dàng. Vào phút bất ngờ
nhất, thanh niên Ka-jo-ju tung quân dự bị. Hai pháo giữ nhà đồng loạt vọt qua
sông, tung đòn tối hậu.
Tu sĩ đã nguy cơ thập tử nhất sinh.
Thanh niên len lén đưa mắt nhìn vị sư. Đấy là một khuôn mặt
trong sáng đầy trí tuệ do bao năm tinh cần giới luật. Ôi! Một chân dung thật đẹp
ở trong một tinh thần cao khiết. Thanh niên nghĩ. Vị tu sĩ này từ hòa và đôn hậu
hết mực, mang linh hồn trong sáng như viên bạch ngọc không tỳ vết nhiễm ô; đâu
có hắc ám, bụi bặm, hiếu chiến, táo tợn và đa sát như ta? Ôi! Một nhân cách như
vậy mà bị kết liễu cuộc đời thật uổng lắm thay! Ta là gì? Một kẻ du thủ du thực,
vô tích sự, ăn bám mẹ cha và xã hội; nếp sống dơ dáy, hư hỏng, nội tâm đầy dẫy
những ham muốn bất chánh và hèn hạ. Giá trị đời ta chỉ có thế thôi. Rơm rác còn
có ích hơn ta.
Thanh niên nhè nhẹ thở dài. Và lòng từ bi khởi lên dịu dàng
xâm chiếm lòng chàng. Ôi! Cuộc đời vô giá trị của ta nên hy sinh cho cuộc đời
có giá trị.
Nghĩ thế xong, thanh niên khôn khéo tạo những sơ hở, chỉ những
kỳ thủ trứ danh mới biết được. Một thế, hai thế. Vậy là quá đủ cho tu sĩ lấy lại
quân bình rồi chiếm luôn ưu thế tấn công.
Thanh niên Ka-jo-ju biết mình sẽ thua, lát nữa thôi, nhưng
chàng không đổ mồ hôi, không lạnh lưng, không lạnh gáy. Một an tĩnh mênh mông,
thân thiết vây phủ tâm hồn chàng. Chưa bao giờ mà chàng chờ đợi cái thua -
nghĩa là chờ đợi cái chết - một cách dịu dàng, trong sáng, bình lặng và thanh
khiết như vậy.
Tu sĩ trẻ ngần ngại. Ngón tay vừa thò xuống quân cờ định mệnh,
vội rút lui... Cũng vì lòng từ bi mà tu sĩ không nỡ hạ thủ.
Bàn cờ bất động giữa hai người.
Đối với những tay cờ ưu hạng, không có thế cuối cùng,
Ka-jo-ju hiểu vậy, và vì đã nguyện hy sinh nên bỏ tay xuống...
Bỗng một làn khí lạnh lướt qua. Tu sĩ Mu-ju thoáng thấy thiền
sư Dai-so-kim đứng dậy chập chờn sau làn khói hương. Và một tia chớp phủ chụp
xuống đầu chàng thanh niên. Tu sĩ nhắm mắt lại, khẽ tuyên Phật hiệu...
Thiền đường lặng ngắt như tờ. Tu sĩ trẻ định thần mở mắt ra.
Mắt y chợt tròn vo, kinh ngạc. Cái đầu với tóc tai rối bù của chàng thanh niên đã
bị cạo nhẵn thín. Và giọng thiền sư Dai-so-kim trầm ấm, mồn một bên tai:
- Chỉ cần có hai điều, Ka-jo-ju con hỡi! Ây là sự hoàn toàn tập
trung tâm ý và lòng từ bi. Hai yếu tố quan trọng của Đạo Giác Ngộ. Thế mà hôm
nay con đã học được cả hai. Con đã tập trung tâm ý có hiệu quả vào ván cờ. Sau
đó vì lòng từ bi mà con nguyện hy sinh mạng sống mình. Thôi, hãy ở lại đây, áp
dụng kỷ luật của chúng ta trong tinh thần đó. Giải thoát sẽ là kết quả đương
nhiên như mũi tên đến tiêu điểm theo đường nhắm đúng.
Thanh niên Ka-jo-ju đưa tay lên sờ đầu mình, chàng mỉm cười.
Người trồng hoa và chàng tu sĩ
Người trồng hoa và chàng tu sĩ
Ngoại ô thị trấn Osaka có một lâu đài cổ, nằm trong khu vườn
mênh mông, yên tĩnh. Lâu đài chỉ còn là những bức tường đổ, lang lổ và rêu mục.
Là nơi trú ẩn của chim chuột, của những đàn dơi tung cánh phần phật. Sâu trong
vườn là chiếc lều tranh rách nát: nơi nương náu của cụ già mù lòa Mê-đa-su,
cùng với Tô-ki - con chó mực cũng già nua như chủ. Cả hai đều sống dai dẳng từ
cái thời vàng son phú quý của lâu đài.
Cả thị trấn Osaka này không ai là không biết cái vườn hoa nổi
tiếng ấy. Khách đến lâu đài thường trầm trồ thán phục những chậu hoa, những luống
hoa tươi nõn, đẹp mắt. Còn hơn thế nữa, khi họ bất chợt thấy từ trong bậu cửa,
một cành hoa thò ra. Cành hoa không còn là cái gì đơn điệu - tuy vẫn là đơn điệu
ấy - mà là đại biểu cho cả mùa xuân tươi thắm của đất trời. Nó ngưng tụ. Lại
đón mời. Dẫu bình hoa chỉ đơn sơ ít nụ hoặc chỉ vài loại hoa cỏ tầm thường
trong cái đĩa, cái bình sứt mẻ, chúng vẫn tỏa ra cái vẻ toàn hảo và thanh khiết
nhất. Một bình hoa như vậy, chắc hẳn là không phải do ai cắm vào! Mà nó phải được
“mọc” ra từ một tâm hồn nắm vững bí quyết của nghệ thuật: cái đẹp, cái nâng bổng,
cái làm cho phong phú, tươi thắm thêm cuộc sống và tình người.
Bốn mùa tám tiết, không lúc nào khu vườn ấy thiếu hoa. Đông
xuống, tuyết rơi, hoa vẫn nở được trong nhà kiếng, ở đó có sương mù, ánh sáng lẫn
khí ấm của mùa xuân. Những bó hoa, những cành hoa, những nụ hoa từ đây được rải
ra các phòng khách sang trọng nhất của thị trấn, các ngôi chùa lớn, một vài tư
gia bạn thiết của lâu đài. Tuy thế, ít ai để ý đến tâm hồn nhiệm mầu nào đã tạo
ra chúng. Lão làm vườn Mê-đa-su cùng với con chó Tô-ki vẫn sống âm thầm bên
nhau, vô danh như chưa hề có mặt.
Khi chủ nhân lâu đài qua đời vài năm, cụ già Mê-đa-su bị hỏng
mắt, lý do thật ít ai ngờ đến: lão té trong một bụi tử vi. Và kỳ lạ chưa, hai mắt
lão bị tối tăm vĩnh viễn! Từ đấy, thị trấn Osaka không có hoa nữa. Hoa cũng có
đấy nhưng nghèo nàn và cằn cỗi thế nào. Nó là sứ giả của tàn úa và tử vong. Hoa
của Mê-đa-su không có vậy, nhất là những bình hoa: nó có sự sống và linh hồn.
Bây giờ, khu vườn ấy là nơi mà thiên nhiên đã chiếm ngự trọn
vẹn. Những bụi thục quỳ, sơn trà, tuyết mai, mẫu đơn... đã già cỗi, sống chen
chúc với rác rưởi và cỏ gai đủ loại. Ai nhìn khu vườn điêu tàn và lão làm vườn
già nua mù lòa ấy mà không khởi lên một mối u hoài sâu lắng? Cái vô thường của
cuộc đời cũng thật khó cho người ta cảm thông vậy thay!
Mùa đông năm ấy, Mê-đa-su hấp hối. Con Tô-ki cất giọng thê thảm
tru từng hồi.
Tô-ni-ka, tên chú bé hàng xóm tốt bụng - là người bạn thân
thiết sau này của cả hai - chạy qua với vẻ hớt hải:
- Có phải cha già sắp chết không, Tô-ki? Tô-ni-ka cất tiếng hỏi.
Con chó nước mắt tươm ra. Tô-ni-ka hiểu. Nó thắp lên một ngọn đèn. Gió lùa từ
liếp cửa trống hoác, lạnh cắt da. Ánh sáng lung linh, chập chờn.
- Tô-ni-ka đấy à? Cụ già phều phào hỏi.
- Cha già ơi! Có cháu đây! Chú bé chạy lại nắm tay cụ già lắc
lắc - Nằm yên tĩnh đi nào!
- Lão sắp chết. Ông tử thần đã đến với lưỡi hái. Y đang đứng ở
đầu giường. Cháu có thấy không, Tô-ni-ka?
Chú bé rùng mình, nhìn quanh quất.
- Bậy nào! Này cha già, đừng nói thế nữa. Cha già có thể sống
khỏe. Coi cơn đau như giấc mộng thôi!
- Giấc mộng thôi - Cụ già lắp bắp - Hay lắm, như là giấc mộng
thôi! Cụ lại rướn người - Tô-ni-ka! Chú bé tốt bụng! Vậy là lão đã có đủ mọi
người thân thiết. Cho lão nắm tay một tí nào! Cả con Tô-ki nữa.
Cả ba yên lặng hồi lâu. Mưa lập đập ở bên ngoài. Gió rú từng
cơn. Cụ già giọng như đã lạc hẳn đi:
- Suốt đời lão làm việc. Hai bàn tay lão đã làm cho thành phố
nở hoa. Ôi! Hạnh phúc thay là được làm việc và được sống một đời lương thiện.
Lão không bất mãn gì về cuộc đời. Lão thân yêu với nó. Dĩ nhiên là thân yêu vừa
phải thôi. Lão thân yêu cái vườn hoa của lão hơn. Tô-ni-ka, chú bé tốt bụng!
Cháu đã thấy vườn hoa mùa xuân của lão chưa?
- Hoa nở từng chòm, từng khóm, chỗ này, chỗ kia, đẹp lắm!
- Không. Không phải. Nó là những cái luống thẳng tắp. Chỗ thì
như ngày hội của bướm. Chỗ thì như đám lửa phun. Chỗ thì như dòng suối tuyết...
Đẹp, đẹp lắm kìa! Cụ già lại thở ra - nhưng đấy là ngôi vườn xưa. Tô-ni-ka còn
bé lắm. Con Tô-ki nó biết kìa! Tô-ki!
Chó nghe gọi, ve vẩy đuôi, rên ư ử.
- Con Tô-ki nó biết đấy - cụ già ngừng hơi một lát rồi thở
dài - bây giờ thì đã hơn mười năm lão không thấy nữa - giọng cụ già lớn hơn một
tí - Tô-ni-ka! Từ khi lão bị mù, thành phố không có hoa nữa phải không?
- Vẫn bán đầy ở chợ ấy chứ! Hoa mõm chó, hoa móng lợn, hoa mồng
gà, hoa mâm xôi, hoa cứt chuột, hoa vạn thọ, hoa cúc dại...
- Đúng. Đúng. Đúng. Cụ già gật liên hồi - Chỉ có thế thôi.
Đúng là không có lão, thành phố không nở hoa! Còn cái chuyện cắm hoa nữa - giọng
cụ già như sôi nổi hẳn lên - cái đó mới kỳ diệu! Người đời phức tạp, rối ren,
nhiều tham muốn quá. Chỉ nhìn bình hoa của họ là lão thấy ngay. Lão giản lược một
tí. Lão cắt một tí, xén một tí nữa.
Đột ngột, cụ già im lặng. Một màn đen như phủ trong mắt.
Tô-ni-ka cho cụ già uống một hớp nước. Con Tô-ki vẫn ư ử ở bên chân.
- Tô-ni-ka! Chú bé tốt bụng! Hiện giờ đây lương tâm lão không
có yên ổn. Dẫu là một hạt bụi nhỏ, lão cũng không làm ác, tuy thế, lão không
thanh thản để nhắm mắt ra đi.
- Cha già ơi! Cha già cứ nói. Biết đâu cháu có thể giúp đỡ
cha già được cái gì đó.
- Chú bé tốt bụng! Lão nói với cháu điều này. Lão có một ông
Phật...
- Cái đó thì cháu biết đấy.
- Ồ, thế thì rất tốt. Vậy cháu hãy kiếm cho lão một tượng Phật,
treo lên đầu giường, đốt một lư trầm, rồi đọc cho lão nghe một bài kinh sám hối.
- Khó đấy! Cả vùng này có ai yêu Phật đâu, ngoài cha già và
Tô-ni-ka? Nhưng lò trầm và kinh sám hối thì có ngay.
Chú bé vù ra cửa. Lát sau, lư trầm được đốt lên, ấm cúng,
thơm thoang thoảng, nó xua tan ngay âm khí và sự cô liêu. Lời kinh từ miệng đứa
bé vang vang trong lều. Đại ý là: tội lỗi con đã nhiều, từ vô thỉ đến nay. Vậy
con xin sám hối với ba đời chư Phật...
- Thôi! Thôi! Cụ già nói - Có lẽ không phải là cái ấy. Cái ấy
không làm cho lão yên tâm.
Im lặng một lát.
- Này Tô-ni-ka! Lão muốn sám hối với một người. Cháu có thể
giúp lão điều đó không?
- Có thể được! Đứa bé gật - Bên kia thung lũng có một tu viện.
Cháu sẽ đến đó tức khắc và thỉnh một ông thầy tu.
- Không! Không! Lão không thích thầy tu.
Chú bé ngơ ngác. Cụ già Mê-đa-su tiếp:
- Như thế này, Tô-ni-ka! Cháu hãy đi ra đường và mời người đầu
tiên mà cháu gặp. Lão sẽ sám hối với người ấy. Không ai nỡ từ chối lời thỉnh cầu
của người sắp chết đâu, Tô-ni-ka.
- Có ngay!
Chú bé vụt chạy đi. Chú nổi da gà khi băng qua khu vườn tối
đen, lạnh lẽo. Mưa lay lắt và gió buốt xương. Đám mây đen đục từ trời cao như
sa xuống thấp. Một ánh đèn le lói phía cuối đường. Đêm đông, dường như mọi sự sống
đều cuộn mình trong lớp kén dày. Đường sá vắng ngắt. Một bóng đen đang chậm rãi
bước ven lộ, gục gặc đầu. “À, y đang ngâm thơ!”
- Hãy đứng lại! Chú bé hét to.
Bóng đen giật mình thối lui, nom cho rõ.
- A, chú bé con! Ghê gớm thế! Chú bé thân mến, có chuyện gì
nào?
“Thì ra là người đàn ông, tốt!” Chú bé lầm thầm rồi vội vã đến
cầm tay bóng đen, cố gắng diễn tả tóm tắt lời thỉnh nguyện của lão làm vườn.
- Được! Được! Người đàn ông gật đầu - Sám hối, ấy là cái sự vụ
rất đàng hoàng, rất nghiêm chỉnh. Ta đi nào.
Họ dắt tay nhau lầm lũi đi vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn
đèn yếu ớt, Tô-ni-ka cũng nom rõ người đàn ông gầy gò bé nhỏ. Y cởi khăn quàng
để lộ cái đầu trọc. Y cởi luôn chiếc áo choàng ngăn mưa, bên trong là chiếc áo
nâu rêu giản dị, sạch sẽ. Đôi giày đi mưa đã cũ nhưng lành lặn. Tóc muối tiêu
lún phún. Sau vai vác một cái đãy to, thò ra cây đàn Kôtô đã ngả màu đen lóng
lánh. Tất cả nom có vẻ tươm tất pha chút tuế sương bãng lãng.
Người đàn ông nửa trẻ, nửa già, nửa thầy tu, nửa thế tục, đưa
hai bàn tay đẹp thon thả vuốt đầu, rồi nhanh nhẹn lấy chiếc ghế đẩu ngồi xuống
bên cạnh giường. Dáng y hơi cúi, hai tay chấp lại, chăm chú và vui vẻ nhìn người
hấp hối.
- Nói đi nào, cụ già - Người đàn ông nói - Tôi là một tu sĩ.
Một tu sĩ đam mê nghệ thuật. Đam mê tất cả những cái gì thuộc về nghệ thuật. Ồ!
Ham mê, nói ham mê mới đúng. Cái đó bậy. Nhưng biết làm thế nào! Cái nghiệp chướng
nó vậy. Tôi chọn con đường lẫn lộn với quỷ ma và làm cho nở hoa mọi sự. Tôi nói
điều đó cụ già có hiểu không?
- Nở hoa mọi sự, hay lắm! Cụ già thều thào - Ít khi mà lão
nghe được lời nói hay như vậy.
- Mô Phật! Còn có cái hay nữa - người đàn ông mỉm cười - cái
mà tôi phụng sự, yêu thích, nó “nâng bổng” cuộc đời, nó đẩy tinh thần con người
lên cao. Bởi vậy, xin cụ cứ an tâm mà nói đi. Tôi hy vọng vào phút cuối cùng
này, bên tôi, tâm hồn cụ sẽ nở hoa và bay vút thênh thang lên trời cao như một
cánh chim trắng.
- Bay vút thênh thang... Cụ già lập bập - trong ánh mắt mờ đục
dường như loáng lên một ánh sao - Nhưng tu sĩ ạ! Cụ già tiếp - Lão có một sự bất
an, một chút thôi, mà tâm hồn cũng trở nên nặng nề quá lắm. Lão muốn sám hối!
- Mô Phật! Tu sĩ nói - Cụ hãy sám hối nếu đấy là từ mà cụ
thích. Hãy sám hối đi nào. Tôi sẽ nâng cụ lên, chắc chắn là như vậy. Tôi có nghệ
thuật. Tôi nắm vững, nắm chắc bí quyết nghệ thuật ấy. Tôi sẽ nâng cụ lên, không
cần phải cố gắng lắm đâu.
- Nó như thế này, tu sĩ ạ! Biết tu sĩ có phiền lòng không?
Lão không thích thầy tu. Lão tin Phật mà lão không tin thầy tu - khó khăn lắm
ông lão mới nói được - điều đó có trở ngại cho sự sám hối không?
- Mô Phật! Tu sĩ giơ tay cười vui vẻ - Không có gì trở ngại cả.
Chính tôi, tôi cũng không tin ông thầy tu ở nơi tôi, tôi chỉ tin ông Phật ở nơi
tôi thôi.
- Mô Phật! Ngài tu sĩ nói thiệt hay.
Cụ già dường như cố gắng nở nụ cười. Tu sĩ mỉm cười. Đứa bé
Tô-ni-ka cũng mỉm cười. Con chó ư ử và ve vẩy đuôi.
Bất chợt cụ già Mê-đa-su rướn dậy nắm tay người đàn ông kéo về
phía mình.
- Suốt đời lão làm việc - cụ già nói - chỉ lo làm việc thôi
cũng đã khá lương thiện rồi. Huống nữa, lão trồng hoa. Lão phụng sự cái đẹp.
Lão làm cho thị trấn nở hoa, đem mùa xuân cho lòng người. Điều đó hẳn là tốt
thôi, phải không tu sĩ?
- Tuyệt!
- Thế nhưng - cụ già giọng như yếu đi - cũng chính do nơi phụng
sự cái đẹp ấy mà lão phạm tội. Cũng không biết có phải là tội không, nhưng nó
làm cho lão bất an.
- Hãy nói nữa đi cụ. Sám hối tức là nói ra những gì làm cho
mình bất an. Sau khi nói ra rồi, tôi sẽ làm cho tâm hồn cụ nhẹ thênh thênh ngay
lập tức. Chắc chắn như vậy.
- Mô Phật! Này tu sĩ - cụ già có vẻ suy nghĩ giây lát - có
bao giờ tu sĩ thấy một thanh bảo đao chém ngọt một thân chuối tơ nõn chưa?
- Có thể tưởng tượng được cụ ạ! Tu sĩ ngạc nhiên.
- Chuyện nó như thế này. Buổi sáng kia, mùa xuân về, sự sống
rạt rào trong cây cỏ. Những nụ hoa thấy nắng ấm, gió thanh lương bèn tỉnh giấc
ngủ dài, mở mắt ra chào đón cuộc đời. Những nụ hoa tươi nõn, mơn mởn, hứa hẹn
những bình hoa thắm sắc để chưng trang trọng tại các phòng khách. Thế là với
cái kéo trong tay, lão ra vườn...
Cụ già Mê-đa-su đột ngột im lặng, đôi mắt lão như đứng tròng
vào một cõi xa xăm nào.
- Hãy nói nữa đi cụ! Với cái kéo trong tay, thế là... thế
là... Tu sĩ nói lầm thầm - thế là...
- Như vậy đấy, ngài tu sĩ ạ! Với cái kéo trong tay, lão cắt
ngọt xớt, lão đoạn tuyệt những sự sống ấy, giống như đoạn tuyệt những hài nhi mới
sinh, chẳng khác gì thanh bảo đao chém vào thân chuối tơ nõn. Ôi! Nó mở mắt
tháo láo, rỉ máu, ngạc nhiên, chắc hẳn vậy. Lần đầu tiên, lão run rẩy, tim ngừng
đập. Đêm về, lão nằm mơ. Mơ thấy những chiếc cổ trắng nõn, nổi gân hồng đến đòi
nợ...
Tiếng nói của cụ già mỗi lúc mỗi nhỏ dần đi. Cậu bé
Tô-ni-ka thoáng rùng mình, nổi gai ốc.
Tu sĩ trấn tĩnh.
- Chẳng có gì quan hệ đâu, cụ già ạ! Chỉ là tâm và tưởng nó
huyễn hoặc bùa chú vậy thôi. Cái tay thợ vẽ tài hoa ấy nó vẽ gì mà chẳng được!
Tu sĩ cất tiếng cười giòn tan - rồi sau đó thế nào, chẳng có chuyện gì cả chứ?
- Không có chi - cụ già thở ra như trút bớt gánh nặng - một lần
đó rồi thôi. Sau này nó quen đi. Nhưng một lần mà vĩnh viễn không quên mới là
điều đáng nói. Khi nào vừa chớm tưởng đến, lão lại rùng mình. Cụ già nghỉ một
lát - Này tu sĩ ơi! Cái đó là tội hay không phải tội?
- Vậy khi đó, khi cắt những cánh hoa, cụ có khởi lên ác niệm
như khi giết một sanh mạng? Tu sĩ chăm chú hỏi.
- Không. Không có điều đó. Cắt xong lão mới tưởng tượng.
- Ồ! Nó chỉ là tưởng tượng thôi thì hơi đâu mà chấp vào những
cái tưởng tượng. Tu sĩ tủm tỉm cười - Này, nhà trồng hoa, chắc cụ đã cắm những
bình hoa đẹp lắm nhỉ?
- Không! Lão không cắm. Lão làm cho nó “mọc” ra từ một góc
tâm hồn thanh khiết nhất của lão.
- Thật là tuyệt! Tu sĩ nói rồi đặt hai bàn tay thon thả ấm áp
của mình lên đôi má hóp của cụ già - Nếu cụ là kẻ có tội thì ngàn năm trước,
ngàn năm sau không có ai lên Thiên đường. Trước mọi người, trước lương tâm, cụ
là người hiền thiện. Sao lại có tội được khi cụ đem mùa xuân cho cuộc đời, an ủi
và xoa dịu lòng người? Này nhà nghệ sĩ! Hãy mỉm cười đi nào!
- Phải! Phải! Lão cũng biết thế - cụ già nở nụ cười hóm hém rồi
thở phào - Này tu sĩ! Sao kỳ lạ quá? Tu sĩ nói những điều như từ trong bụng của
lão vậy!
- Mô Phật! Vậy thì cụ hãy an tâm - Tu sĩ nghĩ một lát - Bây
giờ cụ còn ước nguyện gì nữa không?
- Có chứ - Cụ già Mê-đa-su bỗng nói lớn - Lão muốn nhìn thấy
mặt trời và khu vườn cũ này về mùa xuân. Đã hơn mười năm rồi, lão không còn tưởng
tượng ra được cái gì nữa cả. Chú bé Tô-ni-ka tốt bụng đây, bảo là hoa nở chỗ
này, chỗ kia, từng chòm, từng khóm. Lý nào vậy được? Nó phải thành vùng, thành
rừng. Mấy luống tuyết mai, nhị độ mai đã quá lâu không ai cắt tỉa, chắc chúng
phải lan ra các ra lối đi! Mấy bụi bạch mẫu đơn, sơn trà, tử vi chắc quá sâm si
rậm rịt. Này tu sĩ! Tuy thế, ước nguyện ấy thật ngu xuẩn. Hãy quên nó đi. Thật
là càng già, càng trẻ con, càng lẩm cẩm.
- Ước nguyện đó được, chắc hẳn là được. Tu sĩ nói lớn và đột
ngột, một âm thanh vang dội khắp lều như hàng ngàn viên pha lê chạm vào nhau. Cụ
hãy nghe đây - tu sĩ nói - cụ hãy nghe và hãy nhìn đi!
Tu sĩ đã ngồi trên chiếc ghế, cây đàn Kôtô trong tay và y bắt
đầu chơi.
Chú bé Tô-ni-ka chăm chăm nhìn người tu sĩ lạ mặt. Khi sợi
dây đàn đầu tiên vừa rung lên, một thiên thần từ cõi trời hiển hiện. Trong đôi
mắt tối của y lung linh hai ngọn lửa. Căn lều như tỏa một lớp ánh sáng, và tất
cả người vật như chìm đi, như ngất đi trong biển âm thanh kỳ lạ. Con chó Tô-ki
sau một hồi ngạc nhiên, chợt rên ư ử rồi bò đến bên chân tu sĩ, vẫy đuôi khe khẽ.
Thỉnh thoảng nó nghiêng tai, vểnh tai, trong mắt nó tỏa ra niềm bình an, hoan hỷ.
- Lão thấy rồi - Cụ già Mê-đa-su nói như hét - đầu tiên là
khung cửa sổ mờ nhạt, sau chuyển ra màu trắng lam. Bình hoa mùa xuân bên cửa chỉ
vỏn vẹn hai đóa hồng bạch mà nó mang cái vẻ hoàn toàn xiết bao! Ô kìa! Có nắng ấm.
Tuyết tan đi. Từng làn gió mát mẻ thổi qua làm rung rinh cành lệ liễu...
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ
diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi
ngưng lắng một lúc - Còn bây giờ - tu sĩ nói, hãy ngưng lắng tâm thần để nhìn ra
bên ngoài.
Âm thanh như bắt đầu từ bỏ căn phòng. Cụ già lắng tai nghe
ngóng. Tô-ni-ka và con chó Tô-ki như đồng một lúc nhìn ra bầu trời tối đen
Âm thanh bây giờ như từng chùm ánh sáng từ trời cao đổ xuống.
Từng sợi nắng ấm áp tủa xiên khoai. Tuyết tan từng nụ nhỏ. Cây cối trong vườn bắt
đầu chao động và những chồi li ti trên cành khô, hoa trắng nở bung ra, chảy
tràn ra. Hơi nước bốc lên. Và trời trở nên trong xanh, cao lên, cao lên mãi...
- Lão thấy rồi! Cụ già Mê-đa-su hét lên vì sung sướng - Lão
thấy tất cả những cái đó rồi. Tô-ni-ka! Thế mà cháu bảo là từng chòm, từng
khóm! Nó chảy lan ra thành dòng chứ lại!
- Phải rồi, Tô-ni-ka nói. Nhưng những chùm màu trắng kia
không biết có phải là tuyết mai hay không, vì dường như nó ưng ửng hồng...
- Ửng hồng thì đó là nhị độ mai! Cụ già cãi rồi hét lên - Mở
cửa sổ ra! Cụ hở hổn hển, cố rướn người dậy. Mở cửa sổ ra cho lão xem với nào!
Tô-ni-ka mở bung cửa sổ, một luồng khí lạnh lùa vào phòng. Dường
như có tuyết rơi nhẹ hạt ở bên ngoài. Đêm đang tối đen như tối đen thêm.
Cụ già ngả xuống gối, thở dốc.
- Thật tuyệt vời! Cụ thều thào - Cả rừng hoa mà nó dám bảo từng
chòm, từng khóm! Ít ra là như vậy, thấy được một lần cuối cùng ở trong đời cái
rừng hoa trắng tinh khiết. Mãn nguyện. Mãn nguyện lắm rồi...
Tô-ni-ka kêu lên. Con chó Tô-ki chồm dậy sủa inh ỏi rồi rống
lên từng tràng não nuột, nước mắt trào ra.
Tu sĩ buông đàn, bước nhanh lại giường bệnh. Tu sĩ khẽ nâng cụ
lên, sửa lại dáng nằm cho thoải mái. Cụ già Mê-đa-su đôi mắt nhắm bình thản. Và
trên môi cụ, dường như còn phảng phất nụ cười...
Sâm Thương Thảo
Sâm Thương Thảo
Cuối tháng giêng, trời lạnh sắt se.
Nước rỉ ra từ những lùm cây rậm, khe đá hở rồi theo những đường
rãnh, róc rách đổ xuống suối. Sườn núi, triền non, mù sương bãng lãng; chỗ đậm
như khói, chỗ nhạt như lụa; vật vờ, chao động, nhẹ thênh thênh, huyền ảo như cổ
tích, chập chờn như mộng mị. Khi cơn gió thoảng, sương mù lại ùn ùn tỏa ra, phất
phơ, lượn vành rồi nằm vắt ngang trên đầu cây trông bình thản, trầm mặc như một
hiền triết ở non cao.
Hơi nước, khí đá, mù sương như đồng lõa với nhau để xóa nhòa
biên giới giữa đất và trời...Một người cao lênh khênh nhô đầu lên đỉnh núi,
bóng cắt một khoảng trời xanh lơ. Y đứng bất động nhìn đăm đăm về hướng Tây bắc.
Dưới chân, núi tiếp núi, sông tiếp sông; làng mạc, ruộng đồng được thu nhỏ lại
như nằm trong lòng bàn tay con trẻ. Thoáng mắt là vạn khoảnh lướt qua.
“- Đất trời cao thấp hề! Bao trượng?
Sông núi ngắn dài hề! Mấy gang?”
Khí thiếu dương về đã lâu nên những nụ, những mầm của lá và
hoa bắt đầu cựa mình sau mấy tháng đông lạnh ngủ vùi. Khi sương mù tan, nắng ấm
lên, người ta sẽ ngạc nhiên thấy từ những cành khô bám hờ trên thông, trám hoặc
bất kỳ một nơi nào thích hợp, bắn ra những chùm hoa kỳ diệu. Có những chuỗi thả
dài như đàn bướm vàng. Có những cánh trắng tinh và mỏng như làn trăng. Lại có
thứ đột ngột vươn ra từ hốc đá, phún hương thơm thoang thoảng, thanh dịu. Rồi
chỉ ít hôm sau là khắp triền núi, thung lũng, bờ khe đủ loài hoa, đủ mọi sắc
màu phô thắm để đón chào nắng mới lẫn gió ngàn thanh lương...
“- Mùa xuân yên lặng và vĩnh cửu này há trần gian không có
người biết thưởng ngoạn ư?”
Người cao lênh khênh bước xuống cạnh một tảng đá, tháo khăn,
tháo gùi rồi dựng gậy bên chân ngồi nghỉ. Bây giờ thì ta đã nom rõ đấy là một
nhà sư còn trẻ, vận tấm áo nâu mỏng đã bạc màu, chân đi đôi hài cỏ đã rách
bươm. Khuôn mặt nhà sư gầy ốm nhưng thanh tú, cặp chân mày hiền lành nhưng rậm
xanh làm cho đôi mắt đen như sâu thêm, loang loáng nhãn quan sáng ngời trong
đôi giếng ngọc. Nhà sư ngồi buông thả, nhàn tịnh nhưng trọn cả thân tâm dường
như ngưng lắng lại. Chợt, vừng trán y gợn lên mấy nếp nhăn rất mảnh.
“- Chà thơm lắm!”
Một mùi hương ở đâu đó thoảng đến rồi mất. Hai cánh mũi của
nhà sư dường như khẽ động. Hương lại đến, lại mất.
Nhà sư nói một mình:
“- Không biết có phải là trong “bản thảo cương mục” của họ
Trương đời Hán hay ở đâu có nhắc đến một loại cỏ có tên là “huyền hương thảo”.
Mùi của nó mỏng, nhẹ, tế vi, sâu kín. Hương thoảng đến rồi mất. Dầu chỉ là thoảng
hiện nhưng nó sẽ len thấm, xuyên sâu, tác động ngay tức khắc vào các đường kinh
mạch, chẳng khác gì hàng chục mũi kim châm đúng huyệt đạo. Nó không tạo cảm
giác tê rần mà là váng say, ngây ngất. Khi gặp huyền hương thảo rồi thì không
còn rời chân đi đâu được nữa!”
Nhà sư tủm tỉm cười:
“- Mấy anh “Tàu cổ nhân” này thật là lắm chuyện! Vẽ vời hư ảo
cho lắm để rồi mấy trăm năm sau, hẳn sẽ xuất hiện một nhà chú giải thông kim
bác cổ: “Có lẽ đây là những loại thuốc có mặt từ thời Phục Hy, Thần Nông. Ôi!
Thương hải tang điền! Âm dương tương hoán! Thiên địa nghịch xung! Bây giờ dẫu
có ngậm ngải tìm trầm, lên tận các vùng hoang mạc Côn Luân, Thiên Lãnh... há thấy
được những kỳ hoa, dị thảo này ư?” Chậc, chậc! Nhà sư khẽ vươn vai - cho dẫu
cái đỉnh Côn Sơn này mà có huyền hương thảo, thì ta có ngây ngất váng say không
đó? Cái mơ hồ sắc sắc không không của huyền hương thảo có bắt ta nằm dài mà
ngơi nghỉ cho quên đi cái kiếp phù sanh?”
Nhà sư rũ áo đứng dậy rồi cất tiếng cười ha hả! Tiếng cười
hào sảng như xoáy động cả triền non cô tịch. Cười xong, y khoác gùi lên vai,
trượng cầm tay rồi nhàn hạ bước dài theo hàng hoa nở. Đến một vũng nước trên
đá, trong như mắt mèo, đẹp quá, y dừng lại. Một đám mù bay qua, ngấy lạnh. Y
rùng mình, ngắm nhìn dưới đáy nước; màu da trời ẩn hiện, loáng thoáng từng khoảng
trắng đục, xanh lam...
Nhà sư gật gù:
“- Thượng hoàng Thánh tôn hôm vừa dẹp Chiêm Thành trở về, ghé
cung Thiên Trường đã làm một bài thơ, có mấy câu khá hay:
“... Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
Kim niên du thắng, tích niên du...”
(Trăng vô sự soi người vô sự
Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu
Bốn biển đã quang, trần đã lặng
Chuyến đi này hơn chuyến đi xưa.)
Đấy là khẩu khí của một bậc Minh quân, còn cái ”trị”, cái
“an” cho trăm họ, còn hơn và còn thua - thì cũng là lẽ thường. Nhưng với ta thì
hai câu sau hẳn phải như thế này:
“Tam giới dĩ an, tâm dĩ tĩnh
Nội trần khinh khoát, ngoại trần du”.
(Ba cõi đã an, lòng đã lặng
Giữa trần nhẹ hẫng, ngoại trần chơi.)
Nhà sư lại cười cười: “Dĩ nhiên, mấy câu “nối điêu” của kẻ
hèn này thoát hơn, phải không bệ hạ?”
Nắng hửng lên, hắt sáng lên những chồi lá biếc, hoa vàng lung
linh. Đâu đó ríu rít tiếng chim ca, loáng thoáng bướm lượn vành qua suối. Những
cội tùng già xanh um tàn lá. Trời dường như cao hơn, xanh hơn. Nhà sư ngước
lên, lắng nghe, ngó loanh quanh, rồi vừa đi vừa gõ gậy mà ca:
“Ngày thì quạ vàng dọi
Đêm thì thỏ bạc soi
Tùng cao xanh ngất lá
Đâu ngại tuyết hàn rơi
Cây khô xuân hoa nở
Tịch mịch tiếng chim trời
Hoa vàng là bát nhã
Trúc biếc pháp thân thôi!”
Tiếng ca nhỏ dần rồi tan loãng trong bóng khói đầu non.
Khi nhà sư từ bên kia suối trở lại, sau lưng đã đầy một gùi rễ
và củ. Mặt trời vừa hừng lên lại chìm mất trong đám mây đùng đục màu sữa. Khí
núi vẫn lạnh tái tê. Dáng lênh khênh của nhà sư mang đường nét cô liêu không thể
tả.
Đến tấm thạch bàn to rộng, nhà sư ngồi nghỉ, lấy lương khô ra
ăn. Ây là những chiếc bánh hấp chấm với muối vừng. Y ăn rất nhanh, uống rất
nhanh. Lát sau, đôi mắt y nhìn bất động vào một điểm nào đó. Lâu lắm, nhà sư lắc
đầu, nói vừa đủ nghe:
“- Phàm nghề thầy thuốc trị bệnh cho người, dẫu có tài giỏi,
có đem hết sức mình, cũng chỉ là việc làm ngoài da! Người đời hỷ nộ ái ố quá
nhiều. Cái gốc của âm dương thủy hỏa kia mà chưa ổn định thì linh đơn, diệu dược
cũng vô ích mà thôi. Biết là lấy “bóng trúc mà quét bụi”, sao ta vẫn làm là thế
nào? Tâm địa của bậc đại sĩ rộng lớn như hư không thì không nói làm gì, nhưng
còn ta thì có lúc không kham nổi cũng dễ sinh phiền não đó mà! Hạng lang vườn bốc
thuốc chữa bệnh nuôi thân thì âu là nghiệp dĩ phải chịu, còn ta đâu đến nỗi vì
nuôi mạng mà nhúng tay vào dòng nước đục?”
Nhà sư “chậc, chậc” rồi khẽ thở dài. Tiếng thở dài lướt theo
chiều gió, lan đi rất xa.
Bất chơt từ phía tây bắc, một chiếc đầu ló ra giữa hai rãnh
đá. Dường như ấy là một gã thư sinh vận áo xanh. Gã leo lên tảng đá, đứng nhìn
quanh một hồi rồi búng người về phía sau. Nhà sư ngạc nhiên suýt buột miệng la
lên. Thư sinh áo xanh chỉ hờ hững thụt lùi mà người y đã bắn ra sau gần trượng,
rơi đúng trên tấm đá nhô ra cạnh bờ vực.
Nhà sư nhăn mày nghĩ:
“- Y nom vẻ thư sinh mà sao bản lãnh võ học kinh người đến thế?
Y đến đây làm gì? Nơi cái đỉnh Côn sơn đèo heo hút gió này có chi là hứng thú?
Bây giờ là tiết xuân lạnh, khắp nơi phố hội kinh kỳ, dư hưởng ngày xuân còn biết
bao thú vui dật lạc? Chẳng lẽ y đến đây để tri âm cùng cây cỏ?” Lại nghĩ tiếp:
“Đã hai ngày hai đêm ta ở bên này núi, cũng đã hai ngày hai đêm y ở bên kia
núi. Ta thì có lý do của mình, còn lý do của y là gì?”
“- Hôm nọ, nhà Nguyên sai Sài Thung sang sứ nước ta. Y ngạo mạn,
vô lễ cỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân Thiên Trường chặn lại. Y lấy
roi quất họ chảy máu ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng y mới
chịu xuống ngựa. Vua Nhân Tôn sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, y nằm khểnh
không ra. Khải vào hẳn trong phòng, y cũng chẳng thèm ngồi dậy. Hưng Đạo Vương
Quốc Tuấn hiểu rõ lòng mộ đạo của người phương Bắc nên cắt tóc, mặc áo vải làm
sư rồi đi đến sứ quán. Thung thấy, tỏ rõ sự kính trọng, đứng dậy vái chào rồi mời
ngồi. Quốc Tuấn ung dung pha trà cùng uống với Thung. Người hầu của Thung muốn
thử định lực của nhà sư phương Nam nên cầm cái tên chọc vào đầu Quốc Tuấn đến
chảy máu. Sắc mặt Quốc Tuấn vẫn an nhiên tự tại. Thung sợ, khi khách ra về,
đích thân hắn ra tận cửa vái tiễn.”
Quốc Tuấn về nhà, nằm vắt tay lên trán:
“- Cái ngũ ấm vốn không thì thân này nào có nghĩa gì? Nhưng vệt
máu sỉ nhục kia rồi sẽ nằm ở trên đầu trăm họ. Ta dẫu ẩn nhẫn được tạm thời cái
khí nộ của kẻ thất phu, nhưng kế dài lâu là phải an dân giữ nước. Bọn Nguyên
Mông với cái dã tâm và tham vọng xâm lược ngông cuồng sẽ còn đổ biết bao tang
thương lên linh hồn Đại Việt? Và vệt máu sỉ nhục trên đầu ta sẽ trở thành vệt
máu sỉ nhục ngàn năm trong lịch sử.”
Từ hôm đó, Quốc Tuấn tung ra khắp nước hàng chục kẻ hiền tài
để đi cầu kẻ hiền tài. Ý đồ của Vương lại còn vi tế hơn: tìm những ẩn sĩ tài đức
trong hàng Tăng lữ để làm cố vấn trong trướng, hoặc đi lên phương Bắc trong những
sứ mạng bí mật quốc phòng!
Ồ! Đầu óc của Vương thật là ghê gớm! Và gã thư sinh này là
người của Vương? Theo dõi ta hai đêm hai ngày là bởi mục đích kia chăng? Để
xem!
Hốt nhiên, một khúc tiêu trỗi lên. Tiếng tiêu tan loãng trong
gió. Lát sau, âm điệu réo rắt cực kỳ thê lương làm xao xuyến và não lòng người.
Nhà sư cũng chợt thấy mình bâng khuâng kỳ lạ. Lát sau, tiết tấu lại thay đổi:
như loan gọi phụng, như sắt gọi cầm; cung bậc hoặc bỏ lửng hoặc nhẹ sâu như tiếng
thở dài xào xạc...
Nhà sư chặc lưỡi than:
“- Ôi! Tâm sự người thanh niên sao u sầu đến thế? Khúc tiêu
này mà thổi ở đây, há không sợ núi non cười cho thúi ruột ấy ư? Chí nam nhi đại
trượng phu há dễ chôn vùi thân danh trong âm khúc bi quan yếm thế? Hoặc nỗi khắc
khoải thường tình nhi nữ?”
Tiếng than vừa dứt thì khúc tiêu khác trỗi lên. Âm này tỏa
lên cao, nâng bổng tâm hồn người nghe lên mây xanh. Bây giờ, tiếng tiêu như bắt
đầu thoát xác những nỗi niềm trần tục để bay lượn phiêu bồng vào cõi tinh thần
sáng láng, cao đại và hoằng viễn. Rõ ràng là nó đã dứt khoát vĩnh biệt mặt đất
trần gian với những rối ren, bẩn chật, buồn phiền. Không còn một tiếng nỉ non,
một lời ai oán. Nó đã tuyệt dứt nỗi u hoài và trầm thống. Thỉnh thoảng, nó có
chìm lắng trong cung sâu, nhưng là sự lắng chìm cao cả, ngưng đọng một suy tư
tót vời về sự hợp tan của vũ trụ, sự mong manh của vạn kiếp đời, sự rạn vỡ của
ngàn sao. Rõ ràng, bây giờ, tiếng tiêu đã thênh thang bay vào mười phương trời
không gian vô tận...
Lắng nghe tiếng tiêu thanh cao, thoát tục, tâm hồn nhà sư nhẹ
như hơi nước, phiếu diễu không điểm tựa giữa ngàn sương ngàn khói!
Chợt một tiếng cười sang sảng vọng lại.
Thanh niên đã khinh thân đứng chênh vênh trên tảng đá cách
nhà sư non mười trượng, mảnh trường bào phất phới bay, đậm nét giữa màu nắng
loãng.
- Tại hạ đến chốn non linh khí thiêng, thổi một khúc tiêu, dẫu
tục dẫu thanh, hẳn cũng làm nhơ tai bậc tu hành ẩn sĩ! Dám mong Cao Lãnh Huyền
Nguyên đại sư bỏ lỗi cho!
Nhà sư nghe gọi đúng pháp hiệu của mình, ngạc nhiên, nhưng trầm
ngâm không đáp vội, chăm chú nhìn người lạ mặt. Thư sinh quá trẻ, ước chừng
chưa đến tuổi “nhi lập”, dáng dấp nho nhã, dung nghi tiêu sái, siêu phàm. Hàng
chân mày cong đều đặn, đen huyền. Đầu quấn chiếc khăn lụa thiên thanh. Cây
thanh tiêu cầm tay, cây trúc kiếm thò sau vai, một gùi thuốc, một đãy sách, một
bầu nậm. Cây kiếm nằm trong vỏ thanh trúc đẹp kỳ lạ. Chiếc gùi nhỏ, đẹp kia
đúng là sản phẩm đặc chế kỹ xão thiên tài của người Thái trắng. Y là ai? Là một
nho sinh? Một lương y? Một tráng sĩ? Một gã giang hồ lang thang phiêu bạt? Lạ!
Không hiểu! Cái con người này là ai mà khúc tiêu có thể là tục, có thể là thanh
như trò ảo thuật? Phải có một tâm hồn đến cỡ nào mới có thể dung chứa hai trạng
thái nghịch xung rồi sử dụng nhuần nhuyễn chúng như hai con người cách biệt?
Cái con người này, nếu là nho sinh thì kiến thức phải siêu quần bạt tụy. Là kiếm
sĩ thì phải là tay kiếm trác việt thông thần... Là gã giang hồ thì đúng là biên
phương mù mịt! Còn nếu là tướng quân? Ồ! Hưng Đạo Vương mà có người này thì thật
là may cho vận nước!
Nhà sư suy nghĩ cực nhanh rồi trang nghiêm trầm giọng:
- Kẻ tu hành này ở chốn quê mùa dân dã, quanh năm áo vải chân
đen, quan trường vô duyên, kinh kỳ ngại chốn. Chẳng hay túc hạ là ai mà biết được
pháp hiệu khó nghe của bần đạo?
Thanh niên áo xanh cười tủm tỉm, cung tay chào, phong thái vừa
khoan thai, vừa chừng mực:
- Dưới chân núi Côn Sơn, Phượng Hoàng - kéo dài suốt cả vùng
Hải Dương, Kiếp Bạc, cho chí những thôn làng xa xôi tụ tập quanh Lục Đầu giang
chung dòng về Đông Hải - Có ai có tài dám sánh với Hoa Đà, Biển Thước? Thanh
niên cười cười rồi cao giọng - Huyền Nguyên đại sư! Đại sư về nơi góc Côn Sơn
này quy ẩn đã lâu, tại hạ thật không dám đụng đến cái chí của người cao sĩ. Gia
dĩ tại hạ mà có tìm đến cũng chỉ mong thỏa một chút cái gọi là “đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu”, vậy thôi!
Nhà sư vẫn trầm mặc, nghiêm lạnh:
- Túc hạ với bần đạo vốn không quen biết. Đã không quen biết
thị lọ phải cất công tìm đến thăm nhau. Còn cái gọi là “đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu” kia do đâu mà có? Bần đạo kiến thức hủ lậu quê mùa, có nhiều điều
chưa hiểu tới, mong túc hạ chỉ giáo cho.
Thư sinh áo xanh cười ha hả:
- Khách khí lắm! Khách khí lắm! Rồi tiếp - Cao Lãnh Huyền
Nguyên đại sư! Tại hạ đi tìm thuốc. Đại sư cũng đi tìm thuốc. Đại sư đã hai
ngày hai đêm bên này đỉnh Côn Sơn, chờ đến giờ Dần, giờ Dậu để tìm một loại cỏ
vưu vật cổ kim hy hữu tên là Sâm Thương thảo. Tại hạ cũng hai ngày hai đêm nằm
bên kia đỉnh núi, mục đích cũng không khác chi! Chỉ riêng cái công phu này
thôi. Đại Việt ta há dễ có được ba người? Cái “thanh” cũng bởi đó, cái “khí”
cũng bởi đó, vậy không thể gọi là tương ứng, tương cầu được ư?
Nói xong, thư sinh áo xanh lại cười cười khó hiểu. Nhà sư bắt
gặp cái cười ấy, rất thú vị mà đồng thời cũng rất cảnh giác. Y là người của Sài
Thung hay của Quốc Tuấn? Y dò xét gì nơi ta mà giăng một cái bẫy ỡm ờ về y học,
dịch học, đạo học nơi cái chữ Sâm Thương thảo kia? Không thể bảo là tình cờ hoặc
vô tâm, vô ý được. Cái bẫy tư tưởng kia đã giăng mắc như thiên la địa võng. Ghê
thật. Nhưng y cũng biết rõ về ta chứ?, có lẽ vậy. Ồ! Cuộc thư hùng này thú vị
đây!
- Sâm Thương là sao Hôm và sao Mai, ngày đêm cách biệt. Giờ Dậu
là sao Hôm hiện, giờ Dần là sao Mai mọc. Túc hạ bảo là có một loại cỏ gọi là
Sâm Thương thảo, ấy là lời nói thật? Bần đạo đọc sách thuốc cũng khá nhiều; kim
văn, cổ thư đều có ghé mắt xem qua, nhưng sao chẳng thấy đâu nói tới? Chẳng hay
hình dáng, thân, lá nó thế nào, dược tính ra sao, túc hạ có thể chỉ giáo bần đạo
với không?
Thư sinh áo xanh thong thả tháo gùi và đãy sách để bên chân,
cất sáo trúc rồi nhiên nhiên ngồi xuống. Y ngồi kiết già, lưng dựng thẳng như
vách đá. Lát sau, khí an tĩnh tỏa ra tràn đầy phong phú; đúng là uy nghi, cốt
cách và phong thái của một thiền gia! Nó tỏa ra một năng lực tự chủ và kiên định
đáng sợ.
Nhà sư nghĩ nhanh: Y sẽ đánh một đòn vào chính tủy xương của
Thiền học rồi đây!
- Cao Lãnh Huyền Nguyên đại sư! Y nói - Tại hạ mong được nhà
sư chỉ giáo cho!
- Không dám.
- Cái lý rốt cùng của Thiền học là gì?
- Kiến tánh thành Phật
- Kinh văn thế nào?
- Giả lập.
- Phi nhị nguyên chăng?
- Tùy bệnh cho thuốc.
- Nội và ngoại?
- Giả lập.
- Sắc và không?
- Giả lập?
- Phật và Tổ xuống tục đế thì thế nào?
- “Ngày thì ác dọi vàng, đêm đến thỏ bạc soi!”
- Làm gì với cái vọng tâm, vọng thức?
- “Tùng cao xanh ngất lá, đâu ngại tuyết hàn rơi!”
- Thấy tánh thì nghĩa thế nào?
-“ Cây khô xuân hoa nở, tịch mịch tiếng chim trời!”
- Chưa đủ duyên thì lập tâm lập hạnh thế nào?
- “Hoa vàng là Bát-nhã, trúc biết Pháp thân thôi!”
Yên lặng một lát, thư sinh áo xanh hỏi lớn:
- Có gươm để chém không?
- ...!
- Cho xin một tiếng chân đế?
- ...!
- Ai ngồi trước mặt tại hạ đây?
- ...!
Thư sinh áo xanh hỏi liên tiếp mười mấy câu nữa nhưng nhà sư
cứ một mực im lặng. Đợi thư sinh ngưng nói, nhà sư cất cao giọng:
- Trò hề của thiền ngữ kia, túc hạ muốn mang ra mà nhát bần đạo
chăng?
Thư sinh áo xanh chợt cung tay xá thật sâu rồi cười ha hả mà
rằng:
- Té ra đại sư đã tìm ra được Sâm Thương thảo rồi! Cung hỷ!
Cung hỷ!
Nhà sư đáp:
- Lời và ý của túc hạ khó lường. Xin cho hiểu một ý thôi. Bần
đạo tình thức hoang mang vọng khởi, sợ không lãnh hội được thiền ý của người
cao sĩ chăng?
- Không dám! Vả, đại sư khiêm tốn mà làm gì? Rốt lại, Thích
Ca là Thích Ca, Văn Thù là Văn Thù thôi, nhân nào hoa nấy, cây nào quả nấy.
Nhưng tất cả đều phải được kết tinh nơi mặt đất trần gian, nơi “như thật tâm địa”
- ở đây và bây giờ - không có một nơi nào khác, thì lời và ý của tại hạ có gì
đâu mà khó hiểu! Chỉ có Sâm Thương thảo mới hội tụ được đêm ngày, dung hòa được
mối xung đột lưỡng nguyên của trời đất. Chỉ có Sâm Thương thảo ở nơi cái “như
thật tâm địa” kia, để khi cần dương thì dương chẳng bất túc, lúc cần âm thì âm
chẳng hữu dư. Suy ra, những cái gọi là thiện ác, thủ xả, xuống lên, được mất,
tham sân... đều là thế cả! Cho nên, khi hành xử: co ruỗi thảy đều tự nhiên, lai
khứ đều thong dong, khổ vui đều an tại! Huyền Nguyên đại sư! Dược tính của Sâm
Thương thảo như vậy hẳn còn nhiều điểm thiếu sót chăng? Tại hạ quả thật không
dám nhiều lời trước bậc đại danh y đời nay!
Nhà sư suy nghĩ:
- Thư sinh áo xanh nói huyên thuyên, như hành vân, như lưu thủy.
Mỗi lời là tinh hoa, là cốt tủy cô đọng từ chư kinh, trí khôn của cổ nhân, cổ đức.
Trên tất cả, bằng chính sự thể nghiệm và thân chứng của y. Với sự hiển lộ từ
khúc tiêu, thì nét đạo (thanh), nét đời (tục), dẫu phân rời mà không cách biệt.
Thiền lý của y nhằm hé mở cánh cửa ấy nhưng là với dụng tâm nào? Rõ ràng không
phải y trình thiền chứng! Dường như mang tính thuyết phục. Thuyết phục để làm
gì? Nhà sư quá hiểu. Với thiền phong ấy, cốt cách ấy, kiến thức ấy, thiền ngữ ấy,
khẩu khí ấy... thì người này, chính là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. (Dựa
theo thuyết Đại Việt Sử Ký.
Ngoài ra, trúc tiêu, trúc kiếm, đãy sách, nậm rượu, gùi
thuốc... lại càng đúng với lời đồn đãi!
Cũng kỳ: cái con người này vừa là tướng quân tài ba, vừa là một
thiền gia nức tiếng cửa không - mà tài văn chương lại không thua gì Văn Túc
Vương Đạo Tái! Nhưng tâm sự và ý đồ của y tưởng là không ai biết cả sao? Ta đâu
có quên câu chuyện bí mật quốc gia đại sự xảy ra trong nhà y. Tảng là con thứ của
Quốc Tuấn, Tuấn là con của Yên Sinh Vương. Yên Sinh Vương có một mối bất hòa với
Thái Tôn. Khi sắp mất, Yên Sinh Vương cầm tay Tuấn mà rằng: “Con không vì cha
mà lấy lại thiên hạ thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.” Tuấn
ghi điều đó ở trong lòng. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân, quyền nước đều
ở tay mình, ông đem lời cha dặn nói với gia nô tín cẩn là Dã Tượng và Yết Kiêu.
Cả hai người này không cho là phải. Tuấn hỏi các con. Hưng Vũ Vương cũng không
cho là phải. Riêng Hưng Nhượng Vương lại nói rằng: “Tống Thái Tổ vốn là một ông
lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.”
Vậy thiền lý mà Tảng đưa ra mang tính thuyết phục này? Y muốn
nói đến cái dung hợp tự tại giữa xuất và xử, đến và đi, co và duỗi là kéo ta xuống
núi theo con đường nhập thế để cùng mưu đồ đại sự với y? Ồ! Kín đáo, thậm thâm
như thế là cùng!
Bèn nói:
- Túc hạ lý luận quá cao siêu, bần đạo không hiểu nổi đâu.
Sâm Thương thảo của túc hạ mang nhiều ẩn nghĩa. Túc hạ là kẻ phi thường, lên tận
non cao lạnh giá để tìm một thứ cỏ trong huyền lý, còn bần đạo chỉ là kẻ tầm
thường, đi tìm Tuyết Mai sâm chữa bệnh thôi.
Thư sinh áo xanh lắc đầu cười rộ:
- Đại sư nói giỡn với tại hạ rồi. Tuyết Mai sâm không phải là
thứ quá khổ công tìm kiếm. Sau tiết đông chí, thiếu dương sanh, có nắng ấm, những
củ Tuyết Mai nằm trong lòng đất lạnh đã lâu, sẽ bung ra những cành hoa với những
nụ hoa trắng tinh, trắng như tuyết, không thể lầm lẫn với bất cứ màu trắng nào.
Nhưng hoa nở rồi tàn ngay. Giây khắc đó đào lấy củ sẽ có dược tính cao nhất.
Tuy nhiên, tiết dương nguyên còn kéo dài, mùa hoa của nó còn tiếp tục lâu. Cao
Lãnh Huyền Nguyên đại sư! Kiến thức của tại hạ về thảo mộc không được bao
nhiêu, xin đại sư chớ cười chê.
Nhà sư tủm tỉm:
- Hay lắm! Kiến thức như thế quả không tệ đâu. Nhưng biết nói
như thế nào cho túc hạ hiểu rõ đây, cái tùy thích, tùy nhiệm của mỗi người?
Đúng là bần đạo đi tìm Tuyết Mai sâm, nhưng đồng thời cũng muốn xem Tuyết Mai
hoa nữa. Như túc hạ biết, Tuyết Mai hoa nở rồi tàn ngay. Đời người bận rộn trăm
chuyện, mải mưu toan, lo âu về “thiên hạ đại sự”, há dễ có thì giờ mà chiêm ngưỡng
cái đẹp phù du - cái khoảnh khắc phù du sinh diệt - mà một lần, không bao giờ
trở lại?
“Ôi! Nước chảy đêm ngày không ngưng nghỉ vậy ư? Ôi! Việc đời
qua trước mắt, trên đầu già đến rồi! Ôi! Trăm tính ngàn toan thì rồi cái thân
này cũng như ảnh, như điện, là bọt nước phù kiều vậy thôi!”
Thư sinh áo xanh thoáng đổi sắc mặt nhưng điềm tĩnh lại rất
nhanh, cười nhẹ rằng:
- Phải! Bởi vậy cho nên mới có kẻ lên chót đỉnh Côn Sơn, thu
giang sơn dưới tầm mắt rồi vỗ núi mà ca:
“- Đất trời cao thấp hề! Bao trượng?
Sông núi ngắn dài hề! Mấy gang?”
Còn cái việc lên non cao lạnh giá mà xem hoa nở, mà chờ trăng
lên, chiêm ngưỡng cái khoảnh khắc sinh diệt của cái đẹp phù du - thì cái bản
lãnh ấy xứng danh là thiên hạ đệ nhất nhân đấy!
Nhà sư thoáng rùng mình nhưng im lặng.
Thư sinh áo xanh tiếp:
- Tại hạ có đọc được câu thơ của một vị thiền sư:
- Chống gậy lên non khi thích chí
Mệt buông rèm trúc ngủ giường tre.
Hoặc là:
- Cỏ bồng, én đậu thấp
Biển rộng, ẩn cá to!
Xét ra, tư tưởng lớn trong trời đất đều gặp gỡ nhau cả, nhưng
ở nơi đại sư thì còn hàm tàng biết bao nhiêu là ẩn nghĩa. Cái bài thơ mà đại sư
đắc chí vừa đi vừa gõ gậy mà ca, phiếu diễu và đạt đạo làm sao! Nhưng hai câu
cuối, phải rồi, hai câu cuối còn ẩn một múi kiếm chưa tung ra khỏi vỏ:
Hoa vàng là Bát-nhã
Trúc biếc Pháp thân thôi!
Chữ “thôi” chính là mũi kiếm ấy! Đây có thể là thái độ khôn
ngoan, già giặn của xử sĩ. Cũng có thể là cái “lạc đạo” tạm thời, bất đắc dĩ của
thiền gia! Ôi! Tại hạ đã làm bàn vu khoát, mong đại sư bỏ lỗi cho!
Nhà sư nghĩ: “Được lắm! Bây giờ ta sẽ buông một mũi tên xem
thử con chim nào rớt ở cuối trời!”
- Có một cái tâm! Nhà sư nói, xin túc hạ ẩn nhẫn lắng nghe
cho. Nó ở trong câu này: “Trăm sông đổ về đông kìa! Muôn dòng đua chảy. Ngàn
sao chầu Bắc Đẩu kìa! Thiên cổ quy tâm!” Phải! Chỉ có cái tâm đó thôi mà xuất xử
trăm đường, xuống lên vạn nẻo. Bần đạo dẫu ở trong cái “xử tạm thời” cũng khế hợp
với ý của chư thiền đức xưa: “Chống gậy lên non khi thích chí, mệt buông rèm
trúc ngủ giường tre!”; còn túc hạ là gì? Xin thưa thẳng, nếu Hưng Đạo Đại Vương
cầu kẻ hiền tài, quy nhân tâm về một mối làm thế cá nước để giữ hiểm họa Bắc
xâm, thì bần đạo sẽ xét lại cái “lạc đạo tạm thời” của mình. Còn nếu như ai đó
muốn thu nhân tâm về một mối để thỏa mộng “muôn sao chầu Bắc Đẩu”, thì bần đạo
sẽ là kẻ thứ nhất trong Đại Việt ta... không phục đâu!
Bất đồ, nhà sư nói lớn:
- Đức ông Hưng Nhượng Vương! Hãy hiện hình đi thôi!
Thư sinh áo xanh chính là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng,
thêm một lần nữa đổi sắc, sau đó, cười lạt mà rằng:
- Hay lắm! Chính là tại hạ đây! Im lặng một lát rồi y cũng
nói lớn - Giả dụ đại sư không phục thì đại sư làm gì nào?
Nhà sư cười tủm tỉm:
- Bần đạo bước tới!
- Khó đấy! Hưng Nhượng Vương rút kiếm ra rồi chậm rãi tiếp lời
- Thiên hạ đều đồn đãi tại hạ kiếm thuật thông thần! Thông thần thì hơi quá
nhưng cũng không ngoa truyền lắm đâu - Vương lia một nhát kiếm hình cầu vồng rất
đẹp mắt, xanh rờn rợn, hướng mũi kiếm về trước - nếu đại sư bước tới thì nguy
hiểm vô cùng. Thôi thì thế này vậy - Vương với tay trái nắm bầu rượu - Đại sư đừng
bước tới mà hãy bước lui, bỏ cái “bất phục” qua một bên, ta sẽ cạn với nhau vài
chung thảo mộc để kỷ niệm buổi tao phùng kỳ thú này, được chăng?
Nhà sư đáp vang vang:
- Bần đạo giới tửu!
- Vậy không ngại kiếm bén ư?
- Phải! Giọng nói nhà sư nghe rổn rảng - Thân này vốn không,
kiếm kia vốn không, sao bảo rằng ngại? Vậy ra đức ông xem thường kẻ tu hành này
quá. Vả, nếu cái đầu của bần đạo mà đổi được cái an cho trăm họ, hai nhánh trưởng
và thứ của nhà Trần kia hòa thuận với nhau để chung lưng đấu cật khuôn phò xã tắc;
nhờ vậy cái nhân, cái dũng của các đấng tiên hiền còn duy trì và tồn tại; đạo
Phật nhờ vậy cũng được hưng thịnh dài lâu - thì cái huyễn thân của bần đạo còn
ích dụng hơn cái tài Hoa Đà, Biển Thước kia quá nhiều!
Nói xong những lời đầy chính khí, nhà sư phất tay xăm xăm bước
thẳng tới đầu mũi kiếm...
Ánh sáng xanh lóe lên lạnh buốt. Vạt áo phía trước của nhà sư
bung ra hàng chục mảnh bay lả tả. Những con rắn xanh không ngớt tung lượn...
Hốt nhiên, kiếm chợt bắn lên cao rồi rơi xuống đánh “choang”
trên tảng đá, tóe lửa, có tiếng gãy vỡ vụn.
- Đại bản lãnh! Đại bản lãnh!
Không biết ai đã thốt lên.
Lúc đó, sương mù ùn ùn nổi dậy, chập chờn, bãng lãng kéo nhau
đi, huyền ảo như cổ tích, mơ hồ như mộng mị... Lát sau, vây tỏa kín đặc cả núi
non một màu trắng đục, tịnh không thấy gì. Không còn thấy đâu là cây cối, không
còn thấy đâu là đất, đâu là trời.
Bỗng, một tiếng cười từ trong đám mù vẳng ra rồi có tiếng
nói:
- Có, không giờ thế nào?
- Là vẫn có, là vẫn không!
- Nếu xuất xử thì nhân quả thế nào?
- Thảy đều tự nhiên.
Yên lặng một lát.
- Rút gươm mà chém rắn chăng?
- Cứ chém!
- Rút gươm mà không chém rắn chăng?
- Cứ không chém!
Đột nhiên, hai tràng cười ha hả đồng thanh vang lên, kéo dài
rất lâu.
Một cơn gió thổi mạnh, sương mù lại chao động, vật vờ đầu
cây, lững lờ qua suối, lượn quành theo chòm lá biếc, cành cây khô rồi dứt khoát
lang thang kéo nhau đi, hàng ngàn, dặm ngàn về phương trời vô định.
Màu mù sương trên non Côn nhạt dần, loãng dần...
Tiếng chim reo như ngọc rớt giữa biển lặng. Nắng nhẹ, mỏng,
ngại ngần hắt vài tia sáng thăm dò đầu tiên xuống những lùm cây xanh, dòng nước
biếc, những cánh hoa tím, hoa vàng, li ti hồng, lơ thơ đỏ... Chốc sau, trời
quang mây tạnh như một đổi đời, một phép lạ!
Bên bờ đá nâu, vươn dài ra một cành hoa, như một chuỗi ngọc
trắng tinh tuyền, lấp lánh sao Hôm, sao Mai, thơm thoang thoảng, mềm, thanh dịu,
váng say ngây ngất... Là Huyền Hương thảo? Là Tuyết Mai hoa? Là Sâm Thương thảo?
Chịu! Không biết!
Xung quanh lặng ngắt, tịnh không một tiếng lời!
Hoa Thiên Hương
Có người nói rằng, Mư-jô-chư là một nghệ sĩ đã khai sinh nghệ
thuật cắm hoa ở Nhật Bản. Có người lại quả quyết rằng, không, ngài là một vị
thiền sư, chẳng phải ngài cắm hoa, mà ngài đem sự bất tử đặt giữa lòng tạo vật.
Ở đây, ta sẽ cảm nhận cái khoảnh khắc sinh diệt chính là vẻ đẹp chân thường và
hằng cửu, không có vẻ đẹp nào khác như ý niệm con người đã từng phác tưởng.
Nhưng dẫu thiền sư hay nghệ sĩ, Mư-jô-chư đã tồn tại, vừa rực rỡ, vừa khiêm tốn
như cụm hoa “Thiên Hương” - một loài hoa dại sống ở góc rừng, xó núi, trung
thành với không thời gian mà nó ngụ cư. Trọn vẹn, chính là sự hiến dâng âm thầm
và cao cả vậy.
Có lẽ ta không cần phải xác định ngài là thiền sư hay nghệ
sĩ, vì dẫu sao, danh từ không thật nghĩa bằng chính con người. Vả chăng,
Mư-jô-chư sinh ra và lớn lên như một con người bình thường, cũng có tình yêu -
một tình yêu nhỏ bé nhưng thanh khiết. Ngài từ bỏ đời sống tại gia như chưa hề
có ý niệm từ bỏ, chẳng có bước chuyển tiếp nào. Và đột nhiên, ngài như là một
nghệ sĩ, như là một thiền sư - bằng cốt cách, phong thái, cả đời sống cũng như
cái mà ngài biểu hiện.
Về già, ngài sống trong một sơn động bên chân ngọn Phú Sĩ,
nhu cầu thanh bạch và khiêm tốn của một cánh chim trời. Đi đứng tới lui, ăn nói
giản dị như một người dân cày. Khi màu hoa anh đào phô ánh huy hoàng, tươi nõn,
người ta thấy ngài bước những bước nhẹ nhõm để nhàn du đây đó; khi thì trên con
lộ vắng, tịch mịch tiếng chim ca; khi trên chiếc thuyền nan lãng đãng như cụm lục
bình trên sông nước; khi lững thững trên lối về sơn đạo xanh mướt cỏ và rải rác
những khóm hoa Thiên Hương. Khi màu hoa anh đào tàn tạ, cánh héo úa và sắc màu ảm
đạm như loang nhạt màu máu tía - lục ám hồng hi xuân khứ dã - người ta thấy
bóng dáng ngài ngồi lặng lẽ ở đâu đó, trước cửa sơn động, trên tấm thạch bàn hay
dưới một cội thông già. Người ta thấy ngài không có bạn, không đệ tử, không có
“nhàn đàm thiên ban sự”, không có trịnh trọng hai tay nâng bát trà - theo nghi
thức trà đạo - trong một trà thất ấm cúng được trải ra trong một không gian nhỏ
hẹp, thanh bình. Ngài ngồi ở đâu đó, chẳng phải thiền tư, chẳng phải thiền tưởng,
chẳng phải thiền tọa, chẳng phải để tâm chìm ngập trong cõi mơ hồ sắc sắc không
không, chẳng phải trì chú, niệm kinh, lần chuỗi...
Ngài tới lui đây đó để làm gì? Không ai hiểu. Ngài ngồi như vậy
để làm gì? Không ai hiểu. Nếu bảo ngài là một nghệ sĩ - thì đúng là một nghệ sĩ
cô liêu, xa hút và sâu thẳm nhất - mà nghệ phẩm chính là bóng dáng của mình giữa
lòng tạo vật, trong mỗi khoảnh khắc đến và đi, vào ra như hơi thở. Nếu bảo ngài
là một vị thiền sư - thì đây đúng là một thiền sư “vô học, vô tu, vô công, vô hạnh,
vô chứng” vậy!
Khi từ giã cõi đời, ngài tự cắm cho mình một bình hoa Thiên
Hương, hai tay nắm hai nắm đất, mỉm cười ung dung trong thế bán già. Có chăng,
ngài đang nhìn bình hoa như nhìn vào cõi bất tử nào?
Mư-jô-chư tịch vào hậu bán thế kỷ XVII, có lưu lại trong sơn
động một cuốn tự truyện viết theo lối cổ văn. Thời gian sau, một nhà sư vô danh
tìm đến, hỏa táng thi hài của ngài rồi bỏ đãy ta bà mang đi mất...
Đây là một phần của cuốn tự truyện, dường như không liên hệ
gì đến giai đoạn học đạo của ngài mà thiền sử đã lược bỏ. Tuy thế, nó quan trọng
xiết bao - nếu không muốn nói là quan trong nhất - cái bước chuyển sinh không
gián cách của nó, từ “tục” đến “thanh”, từ bờ này qua bến nọ. Ở đây là con người
bình thường giữa cuộc đời, và đạo là cái gì tự nhiên giữa lòng nhiên giới; dường
như không hề giải quyết “cái tôi”, mà một sớm mai kia, “cái tôi” hốt nhiên là
“nó” - cùng với tạo vật, sinh tồn, cái đẹp và sự bất tử.
Nếu một người sống chân thật, lặng lẽ, cô đơn, không làm hại
ai, biết chiêm ngưỡng cái đẹp - là một thiền sư - thì Mư-jô-chư đúng là một vị
thiền sư, biểu hiện bằng cả cuộc đời của mình vậy. “Tôi là một thanh niên sinh
ra và lớn lên trong một ngôi làng nhỏ bé, khiêm tốn nép mình bên chân ngọn núi
Phú Sĩ. Cha tôi là một quan chức của triều đình, vì một bất đồng nào đấy về
chính kiến nên bị hồi hưu. Người là một “kẻ sĩ” với vốn liếng học vấn và kiến
thức vừa đủ để tạo cho mình một nếp sống trung lưu. Nhưng Người không chịu thế.
Bản ngã và trí khôn của Người lại thúc hối Người chạy theo danh vọng và địa vị;
muốn biến đổi cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường, vô danh của dòng họ, tổ tiên thành
những danh gia vọng tộc. Đến lứa tuổi năm mươi, Người mới hiểu rằng, đấy là một
nỗ lực bất khả và vô vọng. Người đã chẳng cưỡng được cái “tất định” của nghiệp,
cái phận số đã an bài - mà lại bị lún sâu thêm dưới đống bùn quan hoạn ấy. Cuối
đời, Người dường như mất trí vì bất đắc chí. Gia sản chắt chiu, dành dụm được,
Người đem ra phá tán hết. Rốt cuộc trắng tay lại hoàn tay trắng, cộng thêm với
những vết thương không bao giờ lành. Đấy là tai tiếng để lại cho gia đình. Đấy
là một phần hồn thanh cao bị nhơ nhuốc.
Tôi sinh ra lúc gia đình đã sa sút nhiều. Mẹ tôi vì bận rộn
công việc đồng áng nên suốt ngày tôi làm bạn với đất cát cỏ cây. Tôi đen, khỏe
và không hề bệnh tật. Tôi có được học hành, cũng có đọc sách và ham mê văn
chương thi phú ít nhiều. Tuy thế, không có duyên phần với khoa cử, tôi cũng
bình an được với cuộc sống ruộng vườn, đồng áng. Tôi không có cái “mã” thư
sinh, mà dáng người lại cục mịch quê mùa. Thế nhưng, để biếm nhẽ, người trong
làng gọi tôi là “công tử, con quan hồi hưu!”. Mẹ tôi đối với tôi bằng tình
thương vừa phải nhưng nghiêm khắc, Người đúng là nghiêm phụ hơn là hiền mẫu. Mẹ
tôi mất, việc chạy chữa thuốc thang phải bán đi tất cả ruộng vườn còn lại.
Năm đó, tôi vừa chẵn hai mươi. Gia sản còn lại là ngôi nhà dột
nát - trước đây cho gia nhân ở - cùng mảnh đất nhỏ và con trâu cày. Tôi đi cày
thuê để tự nuôi sống.
Cuộc đời thầm lặng trôi qua, chẳng vui, chẳng buồn. Mọi người
vẫn nhìn tôi qua bóng dáng của cha tôi nên họ không ưa tôi. Điều đó cũng dễ hiểu
là vì cha tôi đã tách lìa thôn ấp quá lâu, muốn bước tới những chốn sang cả của
kinh đô và cung đình. Lại nữa, bằng cấp, trí thức và sự thông đạt đôi khi là lá
chắn ngăn cách với đám quần chúng ngu dốt và nghèo hèn. Ít giao tiếp được hiểu
là ngạo mạn, kiêu căng. Ít thân cận được hiểu là khinh khi, vô lễ. Vươn lên cao
hơn đồng nghĩa với phản bội. Thế nên, dẫu tôi có hòa đồng, thật sự sống đời
bình dị của người dân cày, cũng vẫn bị lầm oan, nghi ngờ, ghét bỏ. Cá tính tôi
cũng lặng lờ, phớt tỉnh nên lại càng bị hiểu lầm hơn. Tôi đối với ai cũng vậy,
không biết cách chào hỏi sao cho người ta vui, không biết nói gì để phân ưu khi
người ta gặp chuyện buồn.
Tôi làm việc, sống, vô tình, chẳng có mối bận tâm nào khác.
Như một cái cây, rễ đâm sâu vào lòng đất - thế là phải hít thở, phải trải qua nắng
mưa, mùa xuân, mùa đông, sương tuyết, ánh trăng dịu dàng, những làn gió thu mát
lạnh và cả những cơn bão dông quá quắt... Tôi không biết giận ai, chưa nghĩ rằng
mình sẽ thương ai. Cũng chẳng biết gì ngoài nhu cầu ăn ở - vốn đã quá dễ dàng đối
với tôi. Đi cày thuê với con trâu, thế là tôi dư tiền. Nghĩ là mình có thể sửa
lại căn nhà dột nát, may thêm một chiếc áo để thay cái đã rách nên tôi cũng biết
dành dụm. Tôi cũng có giúp đỡ những người khốn khổ hơn tôi chút ít gì đó, bằng
công hay bằng của, nhưng đều không đáng kể. Họ thiếu, tôi thừa, thế là nên san
sẻ. Nó là chuyện tự nhiên như “nước chảy xuống chỗ thấp”, như “bớt chỗ dư, bù
chỗ thiếu” vậy thôi.
Cuộc đời của tôi tưởng như êm ả thế, nhưng mà không! “Thiêng
liêng” dường như luôn tìm cơ hội để thò chân quậy sóng, rồi nó xô đẩy con người
vào chốn xa khơi hút mắt nào đó mà chẳng ai lường trước được.
“Ngươi phải ra đi, ấy là nghiệp định!
Sự sống chết của ngươi - Bất tử có cần chi!
Chìm nổi, khổ vui - nào có ra gì!
Vùng đứng dậy - trong ánh mắt long lanh
triêu dương thần nữ!”
Mùa xuân năm ấy, tôi đi cày thuê cho một gia đình cự phú ở
ngôi làng kế cận. Tôi ở thôn Đoài, nhà kia ở thôn Đông. Hai làng cách nhau một
hòn núi và một thung lũng. Khi được người gọi, tôi nhận lời ngay mà quên bẵng
đi là trước đây, cha tôi và chủ gia đình đó có mối bất hòa. Tôi không rõ nguyên
nhân ra sao, nhưng có lẽ họ ở chung triều, do cạnh tranh đất đứng, chỗ ngồi mà
ra.
Đây là lần đầu tiên tôi đi ra khỏi ranh giới làng. Với trâu
và cày, tôi bước đi trong sương sớm. Hai bên đường, bắp đậu đã lên xanh, và
ngút ngàn trước tầm mắt là cánh đồng lúa nõn đang thời con gái. Đây là vụ cày muộn
nhất mà tôi nhận cày rồi sau đó nghỉ ngơi chút đỉnh, có thể đọc sách, làm thơ,
chăm chút mấy khóm hoa hoặc nghiên cứu triết đạo học. Những khoảng thời gian trọn
vẹn cho mình thật vô cùng thú vị. Ân sủng cuộc đời có gì hơn - khi cơm áo đủ
dùng, có mái che mưa nắng trên đầu và niềm an lạc tịnh mịch với cổ nhân, cổ
thư, thánh hiền?
Đến eo núi thì nắng sớm đã lên. Vị thần triêu dương xòe những
tia nắng vàng rực rỡ xuyên chiếu ngàn cây nội cỏ. Và ô kìa! Trong tầm mắt tôi,
chạy suốt theo cả triền thung lũng là một rừng hoa Thiên Hương nở rộ. Hoa long
lanh nhiều sắc màu, lấp lánh sương mai như ngàn ngàn, trùng trùng viên bảo châu
li ti reo ca nhảy múa.
“Đẹp quá!” Tự nhiên tôi thốt lên và lặng người đi giây lâu.
Ôi! Thật là một cảnh sắc huy hoàng, suốt đời tôi chưa từng thấy. Thế giới đổi
khác. Tôi lặng lẽ ngồi xuống. Bỏ trâu, bỏ cày, tôi ôm gối, mở lớn mắt chiêm ngưỡng
cái kỳ diệu của thiên nhiên trời đất. Giây phút này không bao giờ tìm lại được.
Nó mong manh hơn cả những tia nắng, hơn cả hạt sương; nhưng đồng thời, nó chân
phúc, vĩnh cửu hơn cả những gì người ta hằng ý niệm. Những cái thoáng đến,
thoáng đi trong đời mà người ta thường cưu mang, ấp ủ như uớc mơ, danh vọng, sự
nghiệp... cho chí nước mắt, niềm vui, hận thù, gian dối... trong giây phút này
đây, không còn nữa. Chỉ còn lòng mình trải ra với mênh mông, vô tận, cái đẹp,
cái sáng, cái chân phúc... Có gì cuồn cuộn trong cổ tôi, nó muốn trào ra, nó
căng lồng ngực làm hơi thở tôi dồn dập, máu huyết như muốn vọt ra. Thế là đột
nhiên tôi cất tiếng hát:
“- Ôi! Rừng hoa Thiên Hương ơi!
Ngươi nở ra từ trái tim của đất
Đất nuôi sống ngươi, lặng lẽ, âm thầm
ngươi cựa mình, nứt ra từ vĩnh cửu
Ngươi cho ta sự vô tận
Sự huy hoàng từ phù du của niềm đau nỗi chết
Ta hát lên
Ca tụng ngươi!
Rừng hoa Thiên Hương ơi!
Cái đẹp của ngươi và trái tim ta,
Đồng nhịp thở!
Ta hôn lên linh hồn của ngươi
Để nghe sự ngây ngất và an lạc
Làm run run kiếp sống tất tả nặng nề
Ta có ngươi là bạn
Như cỏ, như cây, như chân thật, như đá cuội
Trên đồi hoang vu và rác rưởi!
Đôi mắt ngươi long lanh
Như thì thầm, như nhắn gởi
Trong cuộc hành trình vô định
Thoáng giây là vuột mất
Tao ngộ một lần,
Ôi! Muôn trùng cách xa!...”
Và rồi tôi quỳ xuống lạy trời, hôn đất, rồi khóc nức nở. Ôi!
Hạnh phúc, hoan lạc xiết bao!
Có ngờ đâu, tình cảm của tôi lại dạt dào đến thế. Từ lâu, sự
dửng dưng lạnh lùng đã tạo cho tôi một cá tính trầm mặc, cỗi cằn và xa cách.
Tôi đã dường như gỗ đá trước những niềm đau, nỗi khổ, sự thất vọng hay lo lắng
của người đời. Bản tính này đẩy tôi tới góc trời cô lập nên chẳng thể hòa đồng
được với thôn xóm, mặc dù tôi chưa hề khởi lên ý niệm phân biệt. Vả chăng, tôi
cũng là người lao động như họ. Tôi yêu mến tri thức cũng như yêu mến lao động.
Vẻ sáng, vẻ đẹp của tri thức và lao động, chỉ hiện hữu nơi một tâm hồn đẹp, một
trạng thái tinh thần đã được thăng hoa. Vậy thì lao động hay tri thức chỉ là
công cụ phô diễn, là hai phụ tá khuông phò cho cái chí chân, chí mỹ và chí thiện.
Thiếu vẻ sáng, vẻ đẹp của tâm hồn thì lao động hay tri thức chỉ dẫn đưa con người
đến hố thẳm, địa ngục thảm họa của trục vật nô lệ!
Bây giờ thì tôi hiểu. Từ lâu, tâm hồn tôi chỉ ngủ quên! “Thất
tình” ngủ quên khá lâu trong vô thức chợt ào ào bước ra, dẫu không xô động, ồn
ào, nổi loạn - chúng có vẻ lễ độ, khiêm tốn và nhỏ nhoi - nhưng tôi dễ dàng thấy
rõ mặt chúng. Chúng đã đến, tôi tiên liệu sự đau khổ đã đến. Nghiệp định lưu
đày đã cho sứ giả báo triệu. Chúng có thể là trái cây độc, tri thức, con rắn
cám dỗ đã thè lưỡi ra từ vùng câm nín, tối tăm, đen nghịt ngàn đời...
Tôi thở ra và đứng dậy. Mặt trời đã lên cao. Sương đã khô
trên hoa lá. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Sự huy hoàng của rừng hoa Thiên Hương
không còn nữa; hoa thì còn đấy, nhưng sự “vĩnh cửu” của nó đã tan nhòa trong
sương sớm. Có cái gì đó như mới mẻ, tinh khôi, sáng long lanh... vừa biến mất,
không bao giờ trở lại, không bao giờ được gặp lại! Giây phút kỳ ngộ thế là đã
qua đi, mất đi vĩnh viễn...
Tôi lần xuống đồi. Con trâu cày của tôi không có ở đó. Khi
tìm ra thì quả là tai hại. Ngót một đám ngô lớn, con trâu của tôi đã ăn và dẫm
nát hết sạch. Người ta giữ trâu và bắt tôi phạt vạ. Điều này thì đúng rồi và
tôi có thể cày thuê để trả nợ dần dần. Nhưng oái ăm thay! Chủ của đám ngô chính
là gia đình cự phú kia, đã lợi dụng cơ hội để trả thù; nên sau khi cho người
đánh tôi đến ngất xỉu, họ cột trói tôi lại rồi đẩy vào một nhà chứa phân. Suốt
một ngày một đêm bị đau đớn vì thể xác bầm dập, nhức nhối, tôi còn phải chịu sự
đói khát, muỗi mòng và hôi hám nữa. Sáng ngày, họ dẫn tôi ra huyện đường cách đấy
mười dặm cùng với lá thư tay. Chẳng hỏi cung, tra xét gì lôi thôi, họ tống tôi
vào ngục tối!
Thật là kỳ lạ. Cuộc đời không đơn giản chút nào. Nó thầm lặng
nhưng phức tạp, bí hiểm dường bao! Bóng tối dễ đồng lõa với nhau nên tôi chẳng
thể chờ đợi gì hơn ở công lý. Trong lao tối, tôi ngất xỉu vì đói, vì mệt, vì
khát, vì đau buồn. Ôi! Có bao giờ tôi nghĩ rằng, đến một lúc nào đó trong đời,
tôi lại phải chịu cảnh huống đau buồn và sầu khổ như thế này? Những tình cảm vẩn
đục, lợn cợn bắt đầu đến với tôi, dày vò tôi và làm cho tôi chảy nước mắt. Tâm
hồn rệu rã, bạc nhược và vô cùng tối đen. Mặc dầu bị còng hai tay nhưng tôi
cũng rán lần đến ô vuông nhỏ, ở đó có một thứ ánh sáng mờ đục từ bên ngoài hắt
vào. Tôi hít một ít khí trời ẩm mốc, nồng nặc, không tỉnh táo được chút nào mà
lại lả đi.
Chẳng biết mấy ngày đã trôi qua, người ta tháo còng, cho tôi
ăn, cho uống bằng khẩu phần ít ỏi của con chó con nhưng thiu hôi và tanh tưởi.
Thời gian sau đó, tôi được đưa ra khỏi lao phòng, chung với những tù nhân khác,
có nước, có ánh sáng, có khí trời, được làm việc, tôi hồi sức rất nhanh. Đồng
thời, sự phẫn nộ, cô đơn và hận thù lại tìm đến. Tôi dùng hai tay bưng mặt, gục
đầu xuống, nghiến răng để chống chọi với những tình cảm đầy bóng tối, xấu ác
này. Và nhủ thầm với lòng rằng, dẫu sao, “định mệnh” đã đến, “nó” đã đến, vậy
hãy cam chịu nó như cam chịu môt đám đất khó cày, một người chủ khó tính, một
ung nhọt ở nơi thân. Tôi sẽ chiến thắng. Hãy đứng lên, ngửa mặt, vươn cao và
thách thức mọi sự. Yếu đuối, bạc nhược tâm hồn là nguyên nhân của sa đọa, trầm
luân và tội ác. Ngươi là sư tử chứ không phải là cừu non. Hãy uy dũng, hiên
ngang và lớn rộng tâm hồn. Sự ngu si, hèn hạ của con người chẳng làm gì nổi
ngươi. Thế là tôi khỏe hẳn.
Từ đó, tôi đã thản nhiên và an bình trước mọi sự hành hạ kỳ
quái của những tên cai ngục. Ở đây, đừng bảo hợp lý hay phi lý. Không có cái
“lý” nào cả. Chỉ có cúi đầu tuân phục, nghe mắng chưởi và lãnh đòn vọt. Tuy thế,
tôi chẳng sợ gì, vì trong tôi đã có rừng hoa Thiên Hương, mặt trời và màu xanh
của cây cỏ. Lại có cả sư tử và cừu non nữa chứ. Nếu gọi được là “tiến bộ” thì
tôi đã tiến bộ rất nhanh về sự tháo vác, nhẫn nhục, nụ cười và sự tha thứ, bao
dung. Chỉ nom vài tháng sau là tôi lấy lại tấm thân thể lực điền, sự vững chãi
và trẻ trung của tâm hồn. Từ những công việc nhẹ như làm cỏ, quét sân, lau nhà,
làm bếp... đến những công việc nặng nhọc như bổ củi, đào mương, tải đá... chẳng
việc gì mà tôi không làm bằng cả sự nhiệt tình, hoan hỷ và lương thiện. Người
ta tin cậy tôi, cho tôi coi sóc một đám bạn tù và sống dưới chế độ lương thực,
làm việc và ngủ nghỉ khác. Thế là tôi nhanh chóng học thêm một điều: sự ganh tỵ,
ghét bỏ từ xung quanh lại tìm đến!
A! Thật khó sống làm sao? Tôi mỉm cười và tự nhủ. Tôi đem chúng
lên cán cân và bắt đầu sống thí nghiệm “lừng khừng”, nghĩa là sống vừa phải, chừng
mực trong mọi công việc lẫn thái độ khu xử. Như vậy, tôi không còn là tù nhân
gương mẫu nữa, bù lại, bạn bè đỡ gay gắt và méo mó khi nhìn tôi. Sóng chỉ còn
xao rất ít và tôi rút ra được kinh nghiệm sống này; và nó chính là “chân lý đời”
chăng?
Rằm tháng bảy đã đến. Nhà tù mở cửa lao xá bảy ngày cho bà
con thân nhân đến thăm viếng và các hội đoàn từ thiện đến ủy lạo. Tôi chợt thấy
rằng, trong những ngày này, sự rãnh rỗi của mình không phải là điều đáng vui.
Trong lúc mọi người vui vẻ, được ăn ngon, được nhận những món quà quý báu từ thế
giới ánh sáng và đầy thân thuộc ở bên ngoài, thì tôi, với ít của từ thiện, thui
thủi nằm dài nơi góc vắng hoặc thơ thẩn nơi những chỗ không có một ai. Tôi cảm
nghiệm sự cô đơn đến xót xa tận cùng, chợt đâu tôi nghĩ quấy rằng, chẳng có ai
thăm hỏi, tặng một món quà, một lời an ủi dẫu đãi bôi, một cái nhìn giả vờ
thông cảm - thì cũng là một thiếu sót ở đời! Đôi khi như thế là bất hạnh nữa!
A! Sống - có nghĩa là phải đầy đủ tất cả những cái tầm thường và rỗng không ấy?
Có gì đó đã sai lầm trong tôi chăng? Có cái gì đó đã sa đọa trong tôi chăng? Rõ
ràng là có một cái gì đó đã làm cho sự trong sáng, thánh thiện thuở đầu đời ở
trong tôi không còn nữa. Tránh đi là hơn. Thế là tôi rút lui vào thế giới thầm
lặng đầy mặc cảm của mình.
Bất chợt, vào buổi sáng ngày thứ năm, người ta gọi đúng tên
tôi. Tôi mở mắt ngạc nhiên, mở lớn tai xem thử có nhầm lẫn nào chăng? Tôi vừa e
ngại, vừa rụt rè, thận trọng tiến ra cổng nhỏ đến khu vườn tiếp tân. Đến nơi,
tôi chọn một gốc mù u rậm lá nhìn dáo dác ngược xuôi. Một cô gái quê cũng đang
ngược xuôi dáo dác trong ghế đợi. Bất giác tôi chạy tới và kêu lên: “Chuồn chuồn”;
rồi run run nắm lấy tay nàng, nghẹn ngào im lặng. Tay nàng cũng run run trong
tay tôi, nghẹn ngào, im lặng. Bốn tia mắt gặp nhau, con mắt nào cũng tươm nước
như một màn sương ướt.
Chẳng biết chúng tôi ngồi với nhau như thế trong bao lâu. Chợt
dưng, nàng đứng phắt dậy, đặt cái gì đó vào tay tôi, áp hai tay vào hai má tôi,
nhìn tôi với cái nhìn bi thương khó tả. Đột nhiên, nàng hôn vào má tôi rồi hối
hả quay lưng bỏ chạy...
Tôi đứng bất động, lạ lùng với cái cảm giác nóng ấm, đê mê ở
trên má. Tay tôi sờ vào đấy rất lâu, có cái gì đó rất mới mẻ mà tôi chưa cảm
giác được ở trong đời. Khi nàng bỏ chạy, gót chân thoăn thoắt ấy không còn là của
một cô gái tinh nghịch nữa, mà là một cái gì rất khó hiểu, một cái gì rất thân
thương và bí mật mà tôi chưa hề thấy ở nơi nàng. Thế đấy, nàng đến với tôi như
sớm mai, như sự lóe lên của ánh nắng huy hoàng, như sứ giả của rừng hoa Thiên
Hương. Chợt nhiên, tôi linh cảm mơ hồ một sự mong manh nào đó, như hạt sương
trên nhụy hoa, như một sự vĩnh cửu tinh khôi vừa tan mất:
“Đôi mắt ngươi long lanh
như thì thầm
như nhắn gởi
trong cuộc hành trình vô định
thoáng giây là vuột mất
tao ngộ một lần
Ôi! Muôn trùng cách xa!..”
Tôi hát lên nho nhỏ khi về lao phòng. Tôi trân trọng gói quà
của nàng. Người ta thôi thì đủ thứ sơn hào hải vị, riêng tôi, ngoài quà từ thiện,
còn có thêm gói bánh kê của nàng - gói quà quý báu do tự tay nàng trồng ra, làm
nên, bằng mồ hôi và bằng cả tấm lòng. Tôi dùng nó không cho ai thấy, còn cất để
dành! “Chuồn chuồn”, tên thật là Sin-yai-ko, là một cô gái quê nhỏ nhắn và xinh
đẹp. Cô ta đi ở thuê cho một gia đình tương đối khá giả, đạo đức và lương thiện.
Nàng làm lụng giỏi, tính tình cũng không phải dịu dàng gì. Nói thế cũng không
đúng hẳn, nàng rất dịu dàng nhưng đôi khi cũng rất chanh chua, rắn mắt và cứng
đầu. Nghe đâu, nàng là con của một tu sĩ theo phái Tân Tăng, ra đời với nhiều mặc
cảm, cô đơn và nghèo khó. Cha nàng là một tu sĩ có danh, uy tín nhưng lại khước
từ tất cả, sống đời rày đây mai đó với phong thái hạc nội mây ngàn, lãng đãng
nghệ sĩ hơn là một thiền sư. Nàng mang ít dòng máu của cha nên thông minh, tài
hoa và lãng mạn; một ít dòng máu của mẹ nên chịu khó, siêng năng và sùng đạo.
Nơi góc tâm hồn nàng lúc nào cũng có khoảng trời thiêng liêng, cao cả, thơm
ngát trầm hương thanh khiết. Nàng hãnh diện ở vào cái giai cấp thấp thỏi nhất của
xã hội đủ để khinh bỉ và chế riễu cái hợm hĩnh ngu si của giai cấp “trọc phú”.
Chúng tôi có nhiều lý do để gần gũi nhau, ấy là sự nghèo khổ, có chút ít chữ
nghĩa và tâm hồn. Chúng tôi không thân thiết đến độ yêu thương chết bỏ hay thề
non hẹn biển; chỉ thân thiết vừa đủ để gặp nhau thì chào hỏi, nói vài câu trống
rỗng bá vơ hoặc đôi khi trao đổi một cuốn sách hay, một câu thơ thú vị.
Một hôm, nàng đi dự lễ chùa ở đâu đó với bộ khoác trẻ trung
và tươi tắn ở bên ngoài. Từ xa, màu áo xanh trong sáng, dáng dấp nhỏ nhắn, bước
chân thoăn thoắt của nàng làm tôi liên tưởng đến một con chuồn chuồn đang bay
lượn nhởn nhơ trong nắng sớm.Tôi bèn gọi:
“- Chuồn chuồn!”
Nàng quay lại, trừng mắt:
- Cái gì vậy?
- Là tên của nàng.
- Không có nghĩa lý gì cả, chẳng có tư tưởng, chẳng phải thi
tứ! Anh này trống rỗng mất rồi!
Tôi cười cầu hòa:
- Đúng thế! Một hình ảnh thoáng hiện trong tôi và tôi gọi
tên, chẳng ra sao cả. Xin lỗi nàng vậy.
- Thế thì lại khác. Nàng dịu dàng nói - Một hình ảnh thoáng
qua! Hay đấy! Nghĩa lý, tư tưởng, thi tứ mà làm gì! Được lắm, chàng trống rỗng ạ!
Thế là nàng bắt đầu “thương” tôi, có kỳ không chứ? Tôi không
hiểu. Chẳng lâu sau đó, gặp tôi, nàng nói:
- Hãy nhìn ngắm vô duy những hình ảnh thoáng qua, cha tôi bảo
đấy là Cái Đẹp Thiên Thu!
Tôi rúng động cả châu thân! Ôi! Sin-yai-ko! Nàng đã khai ngộ
cho tôi như vậy đó. Tri ân biết mấy. Bây giờ nàng lại đến thăm tôi nữa. Vĩnh cửu
còn đầy dấu ấn trên má tôi. Nó cho tôi sự diệu kỳ ngọt ngào của đời sống.
Ngày cuối tuần, “Chuồn chuồn” lại đến thăm tôi. Lần này, món
quà của nàng là một bó hoa Thiên Hương cuối mùa. Ôi! Quý báu kỳ lạ mà cũng ngẫu
nhiên kỳ lạ. Hay là nàng biết rõ câu chuyện của tôi? Sau này tôi mới biết, việc
tôi mê mải ngắm nhìn rừng hoa Thiên Hương mà bị rơi vào vòng lao lý, người ta
đã đồn đại, thêu dệt và xem đấy là hành động của một gã điên khùng, quái gở!
Tôi có yêu hoa không? Quả thật, điều này chính tôi cũng mơ hồ
lắm. Nhưng rõ ràng là với bó hoa trên tay, tôi cảm động vô cùng. Mùa hoa Thiên
Hương đã tàn tạ khắp nơi vào tiết tháng bảy, thế nhưng ở đây lại còn tươi nõn.
Chắc “Chuồn chuồn” của tôi phải lặn lội lên tận những bờ khe nước ở núi sâu.
Ôi! Biết bao là tấm lòng! Chợt dưng, một vọng tưởng đến với tôi: bó hoa này phải
trở nên Bất tử!
Thế là tôi nghĩ cách gắn bó hoa ấy lên đầu giường. Người ta
ăn trái sa-kê và quăng vỏ rải rác khắp đó đây. Vỏ sa-kê có gai cứng, tôi lấy một
tấm và bỏ vào trong cái bát vỡ miệng. Loay hoay giờ lâu tôi mới làm xong “tác
phẩm” của mình. Tôi đã cố gắng trưng bày trọn vẹn bó hoa vào đó, chỉ cắt tỉa bớt
một ít thân, cành và lá rườm rà. Tôi tận dụng, trân trọng và thưởng ngoạn trọn
vẹn món quà tinh thần của nàng. Các bạn tù của tôi, họ nói là họ sửng sốt khi
chợt thấy một khóm hoa Thiên Hương mọc ở đầu giường. Căn phòng sáng rỡ lên,
tràn đầy sinh khí, vui tươi và mát mẻ. Nhưng niềm vui của tôi không được bao
lâu, vì mắc gai của vỏ sa-kê không đủ sức giữ cọng hoa được bền. Thế là hôm sau
ra ngoài lao dịch, tôi kiếm về những cái gai cứng, sỏi và sạn làm chân cắm.
Bình hoa được làm lại sau một ngày, vậy là phải loại bớt một số hoa lá cành tàn
úa và bầm dập. Tôi loay hoay hoài mà chẳng được gì cả, bình hoa nom xấu một
cách kỳ dị. Tôi lại bỏ, cắm kiểu khác. Thế là một số gai, cành lại bị hư. Tôi
chán nản bỏ đi. Khuya, tôi thắp đèn làm lại, vẫn không vừa ý, tôi âu sầu và đi
ngủ.
Suốt đêm tôi trằn trọc. Và bó hoa Thiên Hương lại hiện ra. Từ
bó hoa Thiên Hương và sắc màu, nó mơ màng dẫn tôi đến một thế giới đầy hoa sắc.
Vị thần Bất tử bước ra từ chòm mây trắng huyền hoặc, trang sức bằng vòng hoa
Thiên Hương, nói với tôi:
- Ngươi muốn bất tử không?
- Có muốn. Tôi đáp.
- Vậy thì ngươi hãy chết! Chết tức phục sinh và bất tử!
Vòng hoa Thiên Hương xoay xoay rồi hiện hình chiếc búa. Vị thần
Bất tử đánh vào đầu tôi. Hoảng hốt, tôi ôm đầu và vùng chạy.
Đấy là khoảng quá nửa đêm về sáng. Bình hoa đầu giường bị rơi
đổ tung tóe. Dường như trong cơn mộng du, nửa tỉnh, nửa mê, tôi đã ngồi dậy và
cắm lại bình hoa.
Trong giấc ngủ, vị thần Bất tử hiện ra, nhìn tôi mỉm cười.
- Ngài đến đây làm gì nữa? Tôi trừng mắt hỏi.
- Ngươi còn muốn bất tử không?
Tôi không nói không rằng, thò tay nắm chiếc búa. Vị thần Bất
tử đột nhiên biến mất, để lại mấy đóa hoa rung rinh trong làn mây trắng. Ôi! Đấy
là cả một bình hoa chứ! Đẹp quá! Sáng ngày, tôi giật mình khi thấy bình hoa cắm
hồi khuya - giống bình hoa trong mộng y hệt. Tôi ngồi bó gói yên lặng ngắm mãi
mà không nghe tiếng kẻng báo hiệu giờ ăn và giờ lao tác. Tôi được bạn tù lôi dậy
và họ thương hại tôi như thương hại một gã tâm thần.
Chuyện của tôi thế là được người ta đồn đại, thêu dệt rồi lan
rất nhanh. Cả trại, từ ban giám đốc, giám thị, cai tù, tù nhân, ai cũng nhìn
tôi bằng tia mắt khác lạ. Là chuyện gì đây? Tôi linh tính là có chuyện gì rồi
nên bình tĩnh chờ đợi.
Hôm đó, tôi được gọi lên văn phòng ban giám thị.
- Hãy khai đi!
Viên giám thị đầu hói nhìn tôi bằng ánh mắt lừ đừ, mệt mỏi. Hỏi
xong, y ngáp. Tôi được người ta cho ngồi trên chiếc ghế thấp. Khai gì? Tôi có
hiểu gì đâu? Thế là tôi cất tiếng hỏi:
- Khai gì?
Viên giám thị trở người, hai cùi chõ chống trên bàn, nâng lấy
cằm, nhìn tôi một cách hờ hững, rồi cất giọng nhừa nhựa như ban đầu:
- Khai đi!
Tôi ngước mắt lên nhìn y rồi cũng hờ hững nhìn ra cửa sổ. Ồ!
Nắng mai đẹp quá!
- Mư-jô-chư! Y gọi.
Tôi nhìn y. Y lại cất giọng khàn khàn, đều đều:
- Hãy khai đi!
- Chắc có một lầm lẫn nào chứ? Tôi nói. Thưa ngài, chắc có một
lầm lẫn nào chứ?
- Không lầm đâu! Mư-jô-chư! Không lầm đâu!
Y đứng dậy, bước đến và chậm rãi nắm cổ áo tôi. Và thật bất
ngờ, chớp nhoáng, tôi thấy tối tăm mặt mũi, thân mình bị bốc đi, văng bắn vào một
góc tường. Máu phọt ra từ mũi, tôi nghe cay cay ở mắt, dường như ở đó đã bị xé
rách.
- Khai đi, Mư-jô-chư!
Giọng y vẫn như cũ. Y đứng chống nạnh và nhìn ra cửa. Tôi nhướng
mắt, nghe nhầy nhụa ướt và nghe tai mình lùng bùng. Nó cũng kỳ khôi và vô lý
như chuyện rừng hoa Thiên Hương và việc ở tù của tôi vậy.
- Ta chỉ có thời gian hút xong một điếu thuốc. Y nói - chừng
đó để làm việc này. Giọng y đục, nhừa nhựa, khàn khàn, trầm trầm - Nếu khôn thì
khai, dại thì cứ im lặng và cứng đầu, ta không cấm. Cái đó gọi là tự do. Chối
làm chi? Cậu cũng hiểu hậu quả của nó rồi. Làm gì ư? Làm gì thì cậu biết lấy chứ?
Phải thế không? Khai gì ư? Ai biết là cậu sẽ khai gì? Dễ thôi!
- Tôi chẳng biết gì hết. Tôi nói - Thật là rừng rú! Ông đánh
tôi bằng tay đấm thú vật. Tôi là một con người, một công dân. Tinh thần Thần đạo
truyền thống của chúng ta không cho phép ông làm điều đó. Nhưng tôi là Phật tử.
Tôi tha thứ cho ông và cầu nguyện đức Phật gia hộ hạnh phúc cho ông. Tôi chỉ cắm
một bình hoa Thiên Hương thôi, ấy là việc tôi làm.
Y ngồi vào bàn, gật gật đầu.
- Tốt, cứ khai nữa!
- Đấy là khai à? Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Cứ tiếp tục. Y nói - Cắm một bình hoa Thiên Hương, ấy là
chuyện con cóc dưới gầm giường cậu, nó cũng biết. Nhưng mà “dấu hiệu” kìa? “Ý
nghĩa” kìa? Ây mới là điều!
- Tôi không biết gì cả.
- Biết mà!
Giọng y vẫn không lớn hơn, không nhỏ hơn, vẫn lừ đừ và ngái
ngủ. Rồi y lại bước tới, chậm rãi vỗ vỗ vào vai tôi, và thật bất ngờ, chớp
nhoáng hơn cả lần trước, y tống tôi bằng một cú đấm vào quai hàm. Tôi bị bắn
tung đi, rồi bất tỉnh.
Sau đó, tôi còn bị kêu lên gọi xuống nhiều lần nữa. Đôi mắt lừ
đừ và cái giọng khàn khàn trầm trầm bình thản của y làm cho tôi kinh sợ. Nhưng
tôi biết gì mà khai? Thế là tôi lại bị hộc máu, bất tỉnh, người ta quăng cái
xác tôi vào ngục. Các bạn tù thương hại, ân cần chăm sóc những vết thương cho tôi.
Hơn tháng, tôi mới lấy lại sức. “Khai đi” - Giọng của viên giám thị đôi khi
vang lên trong bóng tối, tôi nhìn quanh dáo dác rồi đưa tay ôm mặt. Cái âm
thanh ấy ám ảnh và đe dọa khủng khiếp làm cho tinh thần tôi bất an, dao động.
Sau này tôi mới hiểu, đây là vụ trả thù truyền đời do sự vu
cáo của tên cự phú ở thôn Đông. Cha tôi thì đã mất rồi nhưng tôi bây giờ là nạn
nhân kế tục. Nguyên thời ấy có một lực lượng chính trị chống lại triều đình, đằng
sau có thế lực Gia-tô giáo trong và ngoài nước yểm trợ. Dấu hiệu bí mật của họ
là khóm hoa Thiên Hương. Họ đang hoạt động trong bóng tối, đả kích Phật giáo,
phân hóa tinh thần Thần đạo dân tộc và khuynh đảo cả thế lực của Thiên hoàng.
Triều đình đã ra tay ngăn chặn, đập vỡ từ trong trứng nước. Chỉ dại khờ và xui
xẻo cho tôi - còn ngồi đây mà chiêm ngưỡng cụm hoa Thiên Hương!
Để xác tín cho tất cả những điều này, hôm kia, đến gặp tôi
trong tù là một tu sĩ của triều đình. Y phục vụ cho một thế lực. Y thương xót
đưa mắt nhìn tôi rồi nói:
- Phước thay là linh hồn không bị mất đi vì loài “quỷ dữ”!
Phước thay là linh hồn còn trong trắng như đóa sen tinh khiết ở cõi “thượng phẩm
thượng sanh!” Ta chúc mừng linh hồn của con!
- Còn linh hồn của ngài, nó ở đâu?
Tôi cất giọng hỏi. Và lạy Phật, lần đầu tiên trong đời, tôi
có một câu nói khiếm nhã đối với một tu sĩ tích cực nhập thế.
- Đầu tiên, Chúa sáng tạo ra vũ trụ. Y giả vờ không nghe câu
hỏi của tôi nên vẫn tiếp tục nói, hai đùi rung rung với nụ cười hiền dịu. Và thế
là có vạn vật, con người, muôn thú và cỏ cây. Cái con người - Y nhấn mạnh rồi lại
rung đùi - vị thủy tổ của nó bị đức Chúa trời trừng phạt, lưu đày miên viễn ra
khỏi Vườn Địa Đàng - vì tội cứng đầu, ngạo mạn, không tuân ý Chúa! Ai bảo nó
không chịu phục tùng nô lệ! Phước thay cho ai sống đời tùng phục tùng, nô lệ
ngài - vì thế là sẽ được ngài cho lên Thiên đàng, ăn cái bánh “cực lạc”. Tội
cho ai ngỗ nghịch, bất tuân, phỉ báng ngài thì sẽ bị đày ở hỏa ngục đời đời, ăn
cái bánh “cực hình”!
- Ngài muốn nói gì? Tôi ngắt lời và hỏi.
- Có muốn. Tu sĩ gật gật - Muốn cho con hiểu rằng, ta hiểu rõ
gốc nguồn của “tà giáo” ấy. Đừng con! Đấy là âm mưu của lũ Quỷ trắng - bắt con
người nô lệ vào đấng thần linh mà bỏ quên năng lực tự chủ, tự giác của mình. Ta
có thể thay đổi hoàn cảnh, chuyển nghiệp bằng tâm ý thiện lương, bằng sự sáng
suốt của trí tuệ... Con hãy bỏ đi sự cầu nguyện và chiêm ngưỡng bá vơ, dẫu là cầu
nguyện và chiêm ngưỡng “hương trời”; “thiên hương” không bằng “thiên lương”,
“thiên lương” không bằng “tuệ giác” - là năng lực sáng suốt tự tâm. Đừng dại gì
để mất linh hồn và làm nô lệ cho quỷ dữ!
- Ngài là ai? Tôi hỏi.
- Là tu sĩ... Y ngạc nhiên nói.
- Vậy thì tôi tin những điều ngài nói. Và ở trong “linh hồn”
tôi, tôi cũng có những điều như vậy. Tôi đang sống với tự lực, tự chủ và tự
giác. Và một đời hiền lương vô hại. Hốt nhiên tôi thấy rừng hoa Thiên Hương một
sớm mai kia, giữa sương trắng và nắng vàng - nghĩa là tôi thấy sự chí chân, chí
mỹ cùng sự bất tử của trời đất. Một thoáng mong manh đó, lòng tôi nở hoa cùng với
tạo vật. Hạnh phúc thay cho ai được thấy sự bất tử này giữa đời sống hám danh,
trục lợi, cụn mằn, vị ngã. Mây mù u tối ở nơi tâm địa con người và trần gian,
trong phút giây ấy được rọi sáng bởi mặt trời thiên phúc. Tôi hít thở với thiên
phúc. Và đấy chính là “thượng phẩm thượng sanh”, là Niết-bàn, là Tịnh Độ, là Cực
lạc mà ta hằng chối từ trong mỗi phút giây. Đất Phật mở ra cho những người con
nhìn thấy. Các quan niệm về Thượng đế, thiên đường vĩnh viễn và địa ngục vĩnh
viễn là những tư tưởng ấu trĩ - nhưng dù sao, Chúa cũng đã từng nói: “Ta là ánh
sáng, là sự sống, là con đường”? Vậy thì kệ cho ai loay hoay tô vẽ Chân phúc
theo cái bầu dục vọng vô độ của họ, đong nước Thiên đàng bằng cái bình ham muốn
không đáy. Chính ngài đang làm cái công việc gì đó, ngài Đại đức? Ngài rao giảng
nhầm chỗ rồi, có một nơi nào ở cái quán đầu chợ thích hợp cho ngài hơn. Hãy bước
đi! Vậy là tôi đã vô cùng trân trọng và lễ độ với ngài rồi!
Vị tu sĩ há hốc. Tôi còn muốn nói nữa. Một sự phẫn nộ đâu đó,
nó trào ra, nó vọt ra. Vị tu sĩ nhìn tôi với đôi mắt mở lớn, y thối dần ra cửa
rồi biến mất.
Từ đó, người ta không bắt tôi khai điều gì nữa. Có lẽ họ đã
rõ trắng đen. Và có lẽ họ đã quên tôi như quên một con chó ghẻ, một bó giẻ
rách.
Mùa xuân lại đến, mới đó mà đã một năm trời trôi qua rồi nhỉ!
Ngày tháng trong tù cũng không dài lắm đâu. Tôi biết mùa xuân qua làn khí ấm
cùng với ánh nắng trong lành. Người ta rộn rịp đi thăm tù trong những ngày mở cửa
lao xá.
Tôi hít thở khí trời, và cảm ân xiết bao khi thấy mình được sống
và còn mạnh khỏe. Đồng thời, tôi lại thấp thỏm chờ đợi. “Chuồn chuồn”, hoa
Thiên Hương và tôi như được gắn bó với nhau trong một định mệnh không rời. Thật
trong sáng và thật đẹp là sự nhớ nhung này. Nhưng nàng không thấy đến. Cửa lao
xá sắp đóng lại thì một tu sĩ đột ngột bước vào phòng cùng với tên giám thị đầu
hói. Họ nói gì với nhau, sau đó, tôi được gọi đến. Viên giám thị tỏ vẻ kính cẩn
đối với vị tu sĩ này.
-... Nó đấy! Là hoa Thiên Hương!
Vị tu sĩ nom đã đứng tuổi, lặng lẽ nhìn tôi, đôi mắt to, đen,
phản chiếu màu xanh bên ngoài cửa sổ. Có một cái gì đó lặng lẽ, ấm áp trong đôi
mắt hiền dịu. Không khí thân thiết tỏa ra xung quanh. Ở nơi tu sĩ này, tất cả đều
toát ra cái dung dị nhưng không phải thường phàm...
- Ta nghe tin thì đã quá muộn... làm cho ngươi đau khổ trong
bao lâu. Nhưng mà... nó thế, là nó thế!
- Vâng, nó thế là nó thế - Tôi thầm lặp lại lời nói của tu sĩ
và ngơ ngác nhìn cả hai người. Tôi không hiểu ra sao cả!
- Ngươi được tự do. Viên giám thị đầu hói nói - Đây chỉ là một
sự nhầm lẫn đáng tiếc. Cầu nguyện đức Phật gia hộ cho ngươi!
Tôi im sững giây lâu. Thế đấy! Chỉ là sự nhầm lẫn! Chợt dưng,
tôi nhảy lùi mấy bước, hầm hầm nhìn tên giám thị, vẫy tay nói:
- Lại đây! Tao sẽ đấm cho ngươi mấy đấm. Lại đây!
- Gì vậy? Cái gì vậy? Vị tu sĩ nhìn tôi hỏi.
- Hắn đã đánh tôi chết đi sống lại nhiều lần - vì cái hiểu lầm
đáng tiếc của hắn. Cái giọng tra tấn khàn khàn, trầm trầm của hắn đã làm cho
tôi bị ám ảnh, sợ hãi ngay cả trong giấc ngủ. Tôi thù hắn, tên đao phủ khốn kiếp!
Vị tu sĩ vỗ nhè nhẹ lên vai tôi:
Tôi đớ người ra. Cánh tay từ từ bỏ thõng xuống. Tôi ngước mắt
nhìn tu sĩ, biểu lộ sự biết ơn vô hạn - vì người đã nói đúng. Phải! Người đã
nói rất đúng. Cơn nóng nảy bỗng dịu dần rồi hoàn toàn tắt ngấm: sự ám ảnh, hận
thù, sợ hãi đã tiêu tan ở trong tôi!
Thế là sau đó, tôi theo tu sĩ đi ra khỏi tù, không hiểu gì cả.
Cái nhân duyên, nghiệp báo thật là quái gở! Trong cái vòng quay dường như tất định
ấy, tôi có tham dự vào đấy không? Ý chí của tôi cũng có đấy, nhưng nhỏ nhiệm
làm sao trong cái dòng thác cuồn cuộn của nghiệp lực cơ hồ không cưỡng được, cơ
hồ như những chuyện tình cờ, ngẫu nhiên! Ai là kẻ hốt nhiên đến, hốt nhiên đi,
thong dong như chưa hề vướng vấp vào một kháng lực tất yếu nào? Tôi đang bước
qua một ngã rẽ của đời mình và hy vọng học thêm được nhiều điều.
Chúng tôi theo hướng trở về làng cũ. Vị tu sĩ cất những bước
đi dài, vai không động, thoăn thoắt trên đầu cỏ. Đến một ngọn đồi thì chiều đã
ngã bóng non tây.
Vị tu sĩ bây giờ mới ngồi xuống, chậm rãi kể nhiều chuyện cho
tôi nghe. Ngạc nhiên xiết bao khi biết ngài là cha của Sin-yai-ko, “Chuồn chuồn”
của tôi. Sin-yai-ko cũng bị bắt sau khi tặng khóm hoa Thiên Hương cho tôi. Bốn
tháng sau, ngài nghe tin, vội đến can thiệp, Sin-yai-ko được thả ra nhưng đã mắc
bệnh trầm trọng, thang thuốc thảy đều bất lực. Trước khi nhắm mắt qua đời,
Sin-yai-ko yêu cầu thống thiết ngài phải đùm bọc che chở cho tôi.
Nghe xong, trời đất quay quay đảo lộn trong tôi. Đợi cho tôi
tỉnh táo đôi chút, ngài dẫn tôi đến một ngôi mộ chưa xanh cỏ. Ai đã thắp nhang ở
đấy và cắm thêm một khóm hoa dại. Màu hoa nhàn nhạt trong nắng chiều mang vẻ quạnh
hiu, ảm đạm không thể tả.
Tôi ngồi xuống, nhìn nắm đất rất lâu, đột nhiên tôi thốt lên:
- Khó kham nhẫn! Khó kham nhẫn!
Vị tu sĩ chăm chú nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Vậy thì bước tới hay tránh qua một bên?
Tôi cũng nhìn thẳng vào mắt ngài, lắc đầu:
- Hai đàng đều chẳng thể!
- Nếu chọn lựa?
- Ra khỏi nó!
- Bằng cách nào?
Chợt nhiên tôi đứng dậy, cười ha hả, cười chảy nước mắt. Và rồi,
tôi hát:
“- Ôi! Rừng hoa Thiên Hương ơi!
Ngươi nở ra từ trái tim của đất
Đất nuôi sống ngươi,
Lặng lẽ, âm thầm
Ngươi cho ta sự vô tận
Sự huy hoàng
Từ phù du của niềm đau, nỗi chết...
Đôi mắt ngươi long lanh
như thì thầm
như nhắn gởi
tao ngộ một lần
Ôi! Muôn trùng cách xa!..”
Để cho tôi chìm ngập trong thế giới hồi tưởng của riêng mình,
vị tu sĩ thò tay vào đãy ta bà lấy ra một bức tranh đã cũ vàng. Trong tranh,
người con gái bị tật một chân đang bước đi trong chiều muộn, đến cánh rừng hoa
anh đào nhờn nhạt, đằng sau là khung trời xa thẳm.
- Đấy là “dì” của Sin-yai-ko! Vị tu sĩ chậm rãi nói - Là một
người đàn bà tật nguyền nhưng tâm hồn vô biên, đủ để khinh thị và cao ngạo cả
niềm đau, nỗi chết, cả sự bất hạnh của chính mình. Ta là một tu sĩ đa tình, muốn
bảo vệ, che chở cho nàng nhưng lại bị nàng phủ nhận. Ta đã từ bỏ mọi thứ trên đời,
một thời, để chạy theo nàng. Thì bây giờ, ta cũng từ bỏ mọi thứ trên đời... để...
Tôi trầm ngâm nhìn vào bức tranh:
- Đi tìm mùa xuân cũ đã mất?
- Đấy không phải là điều vô vọng sao? Tu sĩ nói. Nhưng còn
ngươi thì thế nào, Mư-jô-chư?
- Có cần gì thứ vô vọng ấy - Tôi có quyền mà! Tôi có quyền
mà!
Vị tu sĩ mỉm cười lặng lẽ, thò tay vào đãy ta bà lấy ra một
khúc sáo ngắn. Người leo lên một tảng đá cao, ngồi xếp bằng rồi bắt đầu thổi.
Ôi, tiếng sáo! Tôi chồm dậy. Tôi muốn hét to lên cho nứt vỡ cả
đất trời! Thân thế tôi mà gì? Niềm đau nỗi khổ của tôi là gì? Tôi bị bốc tung
vào vô tận. Tôi bị ném vào giữa ruột đại dương sâu. Tôi như được chắp đôi cánh
đại bàng để bay vút qua hàng ngàn miệng núi lửa... Tôi không còn là tôi, mà là
một thực thể phiêu bồng, vô danh, lướt qua hàng triệu kiếp trả vay, sinh tử.
Ôi! Kinh khiếp, vĩ đại thay là tiếng sáo!
Mặt trời đã tắt, vì sao Hôm xuất hiện. Vị tu sĩ đứng dậy,
bóng cắt giữa nền trời.
- Ta đi chứ? Tu sĩ nhìn ra xa nói.
- Vâng, ta đi!
Vị tu sĩ bước xuống, cất tranh cất sáo vào đãy ta bà, nắm tay
tôi rồi dẫn tôi lên núi cao.
Tôi là Mư-jô-chư - “Tôi đã đi tu như vậy đó.”
Kẻ Được Chân Truyền
Chuyện được kể lại do một thiền sư Nhật Bản vào thế kỷ thứ
XI. Ngài xuất thân từ giới võ sĩ đạo, sau này vì thâm ngộ Phật học mà thấy được
chân lý vẹn toàn và cao cả của nhân sinh.
Từ bỏ chức vị coi mấy vạn quân cấm vệ của triều đình, ngài
khoác áo du tăng hành cước, rồi sau đó ẩn dật nơi động thẳm hang sâu. Vết chân
ngài, sau này, không những còn lưu lại nơi các võ đường trứ danh của con cháu
“Thái dương thần nữ” mà còn lưu đậm trong các truyện ký, ngữ lục hoặc
những giai thoại của Thiền tông.
Vì không được chân truyền của thầy, Vệ Hải lủi thủi trở về quê
nhà lập nghiệp. Không bao lâu, dưới chân núi Vô Vi mọc lên một võ đường, bao giờ
cũng có khoảng mười ngàn môn sinh khắp bốn phương đến thụ giáo.
Tuy đã là một võ sư khét tiếng, Vệ Hải sống một đời thanh bần
và giản dị. Chàng dành hầu hết số tiền có được để tặng cho các bệnh xá và các
quỹ xã hội. Ngoài ra, nơi chỗ ngụ cư của chàng bao giờ cũng có khoảng từ hai
mươi đến ba mươi vị du tăng hành cước dừng chân với đủ y thực, sàng tọa và thuốc
men.
Người ta kính trọng chàng cả tài năng lẫn đức độ. Hôm kia, đức
vua nghe tiếng thỉnh Vệ Hải vào triều: “Ta phong cho khanh chức võ tướng đầu
triều, coi tám muôn quân cấm vệ, đệ nhị phẩm và lộc thiên thạch để hưởng phú
quý”.
Vệ Hải phủ phục dưới bệ rồng:
- Hạ thần căn trí ngu độn, chỉ có cái hư danh, chẳng có thực
tài. Xin bệ hạ tha cho tội chết.
Nhà vua ngạc nhiên hỏi:
- Có lẽ nào? Khoa tiến sĩ võ cử năm kia, đứng đầu hai vạn môn
sinh, võ tướng vô địch trấn thủ bắc thành Phú Hách với tài thần tiễn “bách bộ
xuyên dương”, vốn xuất thân từ chân núi Vô Vi?
Vệ Hải kính cẩn tâu:
Nhà vua lại nói:
- Khoa tiến sĩ võ cử năm vừa rồi, bây giờ là tiên phong hổ tướng
Lý-đát-noa, với hai thanh liễu diệp đao có thể lấy đầu tướng giặc cách xa hai
trượng, nghe đâu cũng từ dưới trướng của khanh?
- Muôn tâu! Thanh niên Lý-đát-noa huyết khí phương cương,
không có chí dài lâu, chỉ mới học một năm về đao thương đã vội về kinh lập công
danh.
Vua vuốt râu cười hỉ hả:
- Hay lắm! Vậy nếu khanh từ chối lộc hàm, khanh phải đào tạo
cho hai hoàng tử con ta có cái bản lãnh được vài phần của khanh cũng được.
Chẳng biết sao hơn, Vệ Hải xin phép được dẫn hai hoàng tử về
chân núi Vô Vi.
Năm năm sau, chàng dẫn hai hoàng tử về phục mạng, tâu là đã học
hết cái tài làm tướng ở đời.
Vua nhìn thân thể gầy gò của hai hoàng nam thì nghi ngờ khôn
xiết. Với vóc dáng ấy thì rõ là tay văn nhược, làm sao mà “cử đỉnh bạt sơn?”
Hiểu ý rồng, Vệ Hải tâu:
- Nhờ phúc ấm của bệ hạ, hai hoàng tử cốt khí hơn người, giữa
một vạn môn sinh họ đã trổ tài vô địch. Chân núi Vô Vi không có người thứ ba.
Cuộc thử tài sau đó được diễn ra ở đại võ trường.
Hoàng tử thứ nhất dùng thanh kiếm báu của vua ban, ngồi bất động.
Hoàng tử dùng tâm chỉ huy kiếm. Thanh kiếm đảo lộn giữa hư không lấp lánh hào
quang, chém cụt cả hàng trăm võ báu.
Lần thứ hai, hoàng tử sử dụng thanh kiếm gỗ tầm thường, dùng
ý lực tạo sức mạnh ngàn cân, đánh rơi tất cả đồng chùy và thiết côn vĩ đại.
Lần thứ ba, hoàng tử cầm một nhánh liễu, tập trung ý lực.
Nhành liễu như con rồng thần lả lướt vờn mây, len lỏi giữa rừng vũ khí, điểm tê
mọi huyệt đạo. Vũ khí rơi như lá rụng.
Nhà vua và quần thần kinh sợ quên cả vỗ tay, miệng há hốc
không nói nên lời.
Văng vẳng có giọng Vệ Hải tâu:
- Xin bệ hạ tha tội! Hạ thần đã đem hết tâm truyền nhưng
hoàng tử chỉ học có bấy nhiêu; “dùng tâm sử dụng kiếm”. Là giai đoạn thứ nhất của
một hành giả võ đạo.
Biết tài thần sầu quỷ khốc của hoàng tử thứ nhất nên hoàng tử
thứ hai bước ra với hai bàn tay không, mọi người đều nín hơi chờ đợi...
Hoàng tử ngồi xuống theo thế kiết già phu tọa.
Cuộc đấu khởi đầu...
Hai mươi võ tướng hét “ki-a” một tiếng, hai mươi thanh đại
đao như hai mươi con thanh long đầy móng vuốt đồng lao tới một lượt. Nhưng kìa!
Hai mươi thanh đại đao đều rơi nằm yên lặng trên đất.
Năm mươi tay thần tiễn đồng buông một lúc năm mươi mũi tên
vàng. Nhưng kìa! Năm mươi mũi tên lại đổi hướng bay lên hư không!
Hoàng tử này không còn “dùng tâm chỉ huy kiếm” mà “tâm đã là
kiếm”, sử dụng vũ khí của đối thủ theo ý muốn của mình.
Giọng Vệ Hải thoảng giữa võ trường, mồn một bên tai đức vua:
- Xin bệ hạ tha tội! Hoàng tử quả có căn cốt ưu tú, trí tuệ
hơn người, đã học được chặng đường thứ hai của một hành giả võ đạo: kiếm là
tâm, tâm là kiếm.
Sau cuộc tiệc đãi đằng trọng hậu vị võ sư siêu việt, hoàng tử
thứ hai xin phép đức vua theo thầy để thụ giáo cho đến nơi đến chốn.
Vệ Hải tâu:
- Tâu đại vương! Tâu hoàng tử! Khả năng một đời của hạ thần vậy
là đã trao truyền hết rồi.
Đức vua ngạc nhiên:
- Khanh dường như có nói đến giai đoạn thứ ba?
Vệ Hải thở dài:
- Quả có, tâu đại vương! Nhưng hạ thần phước mỏng nghiệp dày
chẳng theo học được. Hạ thần đã bị vị ân sư cao cả đuổi về nơi chặng đường thứ
ba này vì căn trí ngu độn.
Đức vua và quần thần kinh sợ.
Hoàng tử đứng chôn chân một chỗ, tự nghĩ:
- Thầy ta khiêm tốn và cao cả vô cùng. Thầy ta mà đã nói vậy
thì ta chẳng thể học được nữa rồi.
Từ đó, nhà vua được hai hoàng nam, như hai cánh tay của vì
thiên tướng, biến một nước hèn nhược thành một quốc độ phú cường, các nước lân
bang đều khiếp phục. Tuy thế, trong lòng nhà vua luôn bị tò mò ám ảnh bởi hình ảnh
cuối cùng của một hành giả võ đạo. Y là thế nào? Tài của y kinh khiếp đến độ
nào?
Một năm sau, từ chân núi Vô Vi loan tin về: vị võ sư siêu việt
đã giải tán đám môn đồ. Vệ Hải đã được thầy gọi lên núi.
Nhà vua, hai hoàng tử và cả triều đình hồi hộp đón chờ lần trở
lại của vị võ sư ấy. Nhưng thời gian... thời gian đã quá lâu, đã không biết bao
nhiêu mùa hoa anh đào, vị võ sư vẫn biệt vô âm tín.
Hôm kia, không ngờ được, họ lại nghe tin vị võ sư đã từ chân
núi trở về.
Ai cũng ngỡ ngàng.
Vị võ sư siêu việt bây giờ đã là một sa-môn hành cước, y áo đầy
bụi đường, khuôn mặt xương xẩu, khắc khổ, chứng tỏ đã trải qua cuộc sống gian
lao.
- Tâu bệ hạ! Đây là chặng đường thứ ba của một hành giả võ đạo:
con đường tự thắng mình!
Nói xong, vị sa-môn mỉm cười kín đáo rồi lặng lẽ cúi đầu đi về
phía trước.
Mảnh Trăng Tiền Kiếp
Mảnh Trăng Tiền Kiếp
Hoàng đế Mễ Sa thả lỏng dây cương cho con long câu chậm vó lại.
Con lương mã tinh khôn đang phóng nước đại, chợt cảm thấy dây cương lỏng dần, vội
hãm đà đổi sang nước kiệu nhỏ. Nhà vua như rã rời, ngựa cũng đã thấm mệt, thế
mà bóng con thú lại biến mất lần nữa. Suốt một thời oanh liệt trên lưng ngựa,
chưa lần nào ngài để kẻ thù trước mắt vuột khỏi, thế mà lần này, con hươu sao
bé nhỏ lại như nhởn nhơ, bỡn cợt thật đáng hận vô cùng!
Nhà vua miên man suy tưởng mặc cho con tuấn mã chạy rủng rải
theo lối mòn. Khi mở choàng mắt, nhà vua thấy một con suối, ngài khoan khoái vô
cùng; vội xuống ngựa và vục đầu trong dòng nước mát. Khi ngẩng lên, thì bờ bên
kia, một con hươu sao! Nhanh như cắt, hoàng đế vọt đến bên ngựa, chụp vội cây
cung. Vừa mới giương cung thì con hươu sao đưa mắt tròn đen lay láy nhìn nhà
vua rồi lại lủi mất. Thịnh nộ nhưng trầm tĩnh, nhà vua lại lên ngựa, phóng qua
suối, đuổi theo chân con thú. Nắng chiều lấp lánh trên ngàn cây. Tiếng vó ngựa
dồn dập thoảng động rồi chìm mất giữa đám lá rừng xào xạc.
Trời đã sẫm tối. Hoàng đế Mễ Sa lại một lần nữa chậm vó. Núi
rừng trùng điệp vây quanh. Một vài bóng chim đập cánh uể oải. Hoàng đế chợt giật
thót mình, lo lắng nhìn quanh. Mải đuổi theo con thú, nhà vua đã lạc mất đường
về. Núi rừng lạnh lùng hoang dã. Đâu đây đã vọng tiếng hổ gầm.
Không biết trải qua bao nhiêu giờ khắc căng thẳng lầm lủi dưới
bóng đen càng lúc càng dày sâu, nhà vua thấy xa xa thấp thoáng có ánh đèn. Theo
chân ngựa, ngài tìm lần về điểm sáng. Chẳng bao lâu, ánh lửa từ cây đèn mù u hiện
rõ trong tầm mắt, soi tỏ một chái am tranh, hoàng đế thở phào xuống ngựa.
Chợt cánh cửa trúc mở toang, bóng người, cây đèn và tiếng nói
như hiện ra cùng một lúc.
- Kính chào bệ hạ! Bần tăng chờ đợi bệ hạ nơi này đã lâu.
Hoàng đế Mễ Sa kinh ngạc đến đớ cả người. Mãi một lúc sau,
nhà vua mới thốt được nên lời:
- Làm sao... mà đại sư biết trẫm... trẫm đến mà đón?
Nhà vua thấy rõ chủ nhân là một vị sa-môn rất già.
Vị sơn tăng mỉm cười nhẹ, nụ cười dịu dàng mát mẻ tỏa sáng
như mảnh trăng buổi sơ thu, rồi khoát tay, bước trái qua một bên:
- Xin cung thỉnh bệ hạ vào thảo am ngơi nghỉ đã! Bệ hạ rong
ruổi nhiều, long thể chắc đang thấm mệt.
Nhà vua mặc dầu còn bỡ ngỡ cũng vội dắt ngựa tiến vào.
- Cỏ lúa đều đã được dành sẵn, bệ hạ hãy giao ngựa cho bần
tăng.
Hoàng đế Mễ Sa chậm rãi bước vào tịnh thất. Ngài đưa mắt nhìn
quanh. Một tấm ngọa cụ bện bằng cỏ đặt nằm sắt vách tường phía đông. Hai chiếc
bồ đoàn trải giữa phòng cùng bộ đồ trà bé nhỏ bày trên chiếc kỷ. Nơi vách nứa
chính giữa, treo buông thả một bức tranh thủy mặc, nét bút khoát hoạt, mờ ảo đầy
vẻ phóng dật, tiêu sái. Không khí thiền am như toát ra cái gì đó, nửa xa lạ, nửa
thân thiết.
Nhà vua nhè nhẹ cởi hài, ngồi ghé lên bồ đoàn, lại đưa mắt
nhìn bức tranh lần nữa. Sao lạ, có cái gì kỳ quái ở bức tranh này? Ta đã từng
thấy nó ở đâu? Nó quen thuộc lắm! Nhà vua săm soi nhìn kỹ. Nét bút này, giản
phác, mạnh mà mau lẹ - chuyên để vẽ lan trúc - mà sao tác giả lại phối hợp thêm
những nét “bát mặc” của vương gia đời Đường? Lối “bát mặc” thì dễ loạn mà ở đây
không loạn, chứng tỏ nghệ sĩ đã biến được cái “vô pháp” thành “hữu pháp”. Vẽ
sơn thủy như tác phẩm này dẫu chưa đạt được “vẽ núi đứng như núi bay, vẽ suối
chảy như suối dừng lại” (sơn phi tuyền lập), nhưng cũng tạm coi là những nét
tĩnh, nét động đã toát ra đúng độ, hài hòa, khí vận trôi chảy tự nhiên, nhất
quán. Đây chính là nét bút mà nhà vua rất yêu thích, nếu không muốn nói là một
tâm đắc độc đáo của mình. Giấy thì đã cũ vàng, nhưng nhà vua vẫn nhìn không lầm
lộn là loại “kim tiền” làm ở Cao Ly và Vân Nam - giấy màu xám, phẩm chất thô,
có nhiều vôi - chỉ dùng trong hạng dân dã.
Nhà vua bần thần nghĩ ngợi. Một rung động thoảng qua làm nhà
vua tái mặt. “Nét bút này chẳng lẽ là của ta?”
- Bệ hạ thấy bức tranh đó thế nào?
Nhà vua chỉ loáng thoáng nghe mơ hồ câu hỏi. Tâm trí nhà vua
vẫn đắm chìm trong dòng suy tưởng. Ta có bao giờ dùng loại giấy “kim tiền” này?
Nếu không tìm ra giấy đời Tống, hiệu Đông Tân đường làm bằng bẹ tre, thì ta
dùng giấy của đất Sở, Hồ Bắc. Mà bức tranh này, nếu đúng là ta vẽ, thì ta đâu
đã vẽ hoàn tất?
Tiếng vị sư già như gió thoảng bên tai:
- Bần tăng nhớ hồi xưa, cách đây gần bốn mươi năm về trước,
người vẽ nên bức tranh này đã nói như sau: Cái đặc biệt ở tác phẩm này là “vô
pháp” mà thành ra “hữu pháp”. Mực vẩy theo lối “bát mặc”, tưởng là loạn mà
không loạn. Đây là một trường phái riêng, vừa cổ kính như thời gian đọng trên
ngôi thành xưa rêu mục, vừa mới mẻ như giọt sương long lanh trên đầu lá buổi sơ
xuân... Hà... hà... hà... Người ấy cười vui khoái thích rồi tiếp - Tuy thế...
phải để ý, đằng sau những giọt sương kia, loáng thoáng ẩn hiện vành trăng sơ
huyền thăm thẳm và xa xôi...
Hoàng đế Mễ Sa sực tỉnh.
- Mảnh trăng? Đại sư nói mảnh trăng nào?
Ngọn đèn mù u chợt tỏa sáng rộng dưới tay nhà vua, ngài cố
nhìn cho rõ bức tranh hơn tí nữa. Rõ ràng ở đây không có mảnh trăng nào. Vậy
đâu là mảnh trăng sơ huyền mà vị sư già nói đến?
Hoàng đế Mễ Sa như chợt sáng ý ra, gật đầu:
- Đại sư nói phải! Ở tác phẩm này còn thiếu một mảnh trăng.
Thêm một mảnh trăng sơ huyền ẩn ẩn hiện hiện sau màn sương, bức tranh sẽ tỏa
sáng, có tư tưởng và tăng xúc cảm hơn.
Vị sư già dường như không nghe lời của nhà vua, vẫn tiếp tục
với chuỗi hồi ức quá khứ:
- Người vẽ là một nhà sư có tài cao chí lớn. Tâm thì như chứa
cả ngũ nhạc, mà trí thì như kình ngư biển lớn vùng vẫy. Ôi! Nét bút của y mới
tài hoa phong vận làm sao? Người xưa nói rằng, đọc văn là biết người. Ở đây, ta
có thể xem tranh và tinh thần của nó mà đọc ra đường chỉ vận nghiệp duyên mai hậu.
Bức tranh này: còn nghiệp chướng si mê, tù trong lục đạo, trăm dây phiền não,
nghiệp báo không rời. Bần đạo đã nói như thế sau khi y phác thảo nên bức họa
này. Và đây là lời nói của y như còn mồn một bên tai: Hiền huynh! Tiểu đệ sinh
ra trong một gia đình nghèo khó, lại đi tu từ nhỏ, thành thử chuyện đời chưa từng
biết qua. Như hiền huynh từng giáo dụ thì chúng sanh, ai ai cũng phải trải qua
những kinh nghiệm khoái lạc và đau khổ trong ba cõi sáu đường rồi mới có thể
giác ngộ. Vậy thì đệ nguyện kiếp sau sinh làm hoàng đế để xem thử mùi vị cao
sang quyền thế nó như thế nào. Nếu lúc ấy mà đệ đắm say vào vinh hoa dục lạc,
thì hiền huynh tìm cách nhắc cho đệ tỉnh thức nhé! Hiền huynh ơi! Bức tranh này
đệ vẽ đang còn dang dở. Giả như khi đó đệ vì: tình ái si mê, tù trong lục đạo,
trăm dây phiền não, nghiệp báo không rời... thì hiền huynh nhớ đưa ra, không chừng
đệ nhớ lại mà tỉnh ngộ cũng nên.
Hoàng đế Mễ Sa bàng hoàng. Ngọn đèn trên tay rơi đổ xuống nền
đất. Mảnh trăng sơ huyền từ trong bức tranh hiện ra lấp lánh sau màn sương. Nhà
vua đứng bất động.
Vị sư già thoáng nhẹ nụ cười trong tối, tiếng nói bây giờ ấm
và mạnh như một hồi chuông thu không:
- Tâu bệ ha! Vầng trăng đó đã chờ bệ hạ gần suốt bốn mươi năm
nay. Bần tăng nhớ lời hẹn ước xưa về đây lập thảo am chờ nhân duyên để tái ngộ
cố nhân! Con hươu sao hồi trưa là một chút phép mọn của bần tăng, để dẫn dắt bệ
hạ về đây xem lại tác phẩm của mình đang còn dang dở!
Vị sư già dứt tiếng mà hoàng đế Mễ Sa như còn miên man trong
cõi mộng xa thẳm nào.
Sau khi thắp đèn, chuyên một tách trà nóng ấm cho nhà vua, vị
sư già lại thở dài:
- Ôi! Thoáng chốc mà chúng ta xa nhau gần nửa thế kỷ rồi! Vật
đổi sao dời, sinh sinh hóa hóa, chuyện xưa nào khác giấc mộng đầu hôm. Chúng ta
vốn là đôi bạn đồng đạo dưới chân ngọn Thiên Lĩnh, nay thì kẻ là bệ ngọc mình rồng,
người thì đang còn áo đà dép cỏ. Giờ đây, ước nguyện làm hoàng đế đã thỏa chưa,
hả cố nhân tài cao phong vận? Mảnh trăng sơ huyền có bao giờ lặn khuất? Bệ hạ
thấy thế nào? Ôi! Sá gì chiếc ngai vàng tanh hôi danh lợi lẫn quyền uy sớm còn
tối mất? Cát bụi trần ai hãy trả về cho cát bụi trần ai! Khi cơ duyên chín muồi
thì trái cây kia rụng xuống. Hãy tỉnh ngộ đi thôi bệ hạ!
Đột nhiên, hoàng đế Mễ Sa rướn người dậy, thò hai tay chụp vội
bức tranh, chạy vọt ra rừng đêm mất dạng.
Vị sa-môn già nhìn đăm ra khung cửa một lúc lâu rồi quay vào,
thoáng đọng hai hạt sương không rơi trên khóe mắt.
Ngọn đèn mù u lụn bấc leo lét tàn. Vị sư già lựa một thế ngồi
thoải mái trên nệm cỏ, lưng dựng thẳng, môi thoảng nụ cười xa rộng, rồi hơi thở
cũng dường như chìm tan vào cõi mênh mông, hư tĩnh...
Mảnh trăng sơ huyền cong cong nằm nghiêng bên cửa sổ từ từ
khuất vào một đám mây.
Yên Hà các, Đạm Lư hiên 1980
(cùng viết với Pháp đệ Pháp Tông)
Đạp Tuyết Tầm Mai
(cùng viết với Pháp đệ Pháp Tông)
Đạp Tuyết Tầm Mai
Buổi sáng mùa đông năm ấy, tu viện Thiên Môn, phía Bắc thị trấn
Odeti, chợt xuất hiện một người khách lạ. Không biết y bao nhiêu tuổi nhưng nom
đã già cỗi lắm. Lão vác một nhánh mai to nặng và thò tay giật chuông cổng tu viện.
Lúc ấy tuyết đang rơi, đường sá phủ từng đống tuyết tròn, nhấp
nhô như mộ địa, không một bóng người lai vãng. Gió tây bắc ào ào thổi qua, tung
tuyết rát mặt. Trời nặng nề, đục, đầy vẻ hăm dọa, có lẽ phải lạnh đến mươi độ
âm.
Người khách trùm chiếc áo bông đã tang thương và phong trần
quá đỗi. Đôi ủng da cũng đã xác xơ và điêu linh như thế. Không biết y đã dẫm
qua bao nhiêu sông núi mới đến được nơi này.
Một nhà sư to, cao, cà-sa trùm kín người, tay đung đưa chùm
chìa khóa, dáng bực bội ra mở cổng tu viện. Y chững lại. Ở đâu ra người khách kỳ
quái này? Và nhành mai như thần thông diệu hóa thế kia? Làm sao lại có được
nhành mai đương độ khi tuyết băng như đang trùm lấp xứ này, cây cối chỏng chơ
những que cọng vươn lên từ biển tuyết thế kia thì chưa hứa hẹn một mầm xanh nào
cả. Giữa cái trơ trụi của mùa đông, nổi bật lên nhành mai mơn nõn, điểm lác đác
mấy nụ vàng tươi như thách thức và bỡn cợt với hóa công! Người khách - cái lão
già khú đế kỳ khôi này - rõ ràng là đang đứng đó thôi: bất động, lạnh lùng, đôi
mắt sáng đục, lờ đờ nhưng bình thản. Đấy là sự nghỉ ngơi của con ngựa già dẻo
dai, hiển hách sau chặng đường xa lao nhọc.
- Quý tôn ông hẳn là không gõ lầm cửa đấy chứ ạ? Nhà sư dè dặt
cất tiếng hỏi.
- Không lầm đâu. Người khách đáp - giọng nhỏ, nhưng luồng hơi
dường như đi xoáy vào tai.
Nhà sư biến sắc, giật lùi một bước, lát sau mới trấn tĩnh lại:
- Xin cho bần đạo hay là vào tu viện để gặp ai? Có việc gì?
Người khách như thoáng mỉm cười rồi giọng nói như làn gió mùa
thu mát mẻ:
- Nó như thế này - Khách nói như phân trần - lão sẽ làm phiền
nhà chùa một chút thôi. Đại đức ạ! Lão xin được cắm nhành mai này
vào một chiếc lọ thích hợp, mà đúng là thích hợp đấy nhé - Lão nhấn mạnh rồi
ngước nhìn trời - Tiết dương nguyên cũng không còn bao chày, có một gốc mai
đúng độ để nhà chùa thưởng xuân, cũng là một nhã thú đấy chứ? Chẳng hay có trở
ngại gì không ạ?
- Dạ không! Nhà sư vội đáp nhưng có vẻ ngần ngừ - sao lại có
chuyện kỳ lạ như vậy? Bần đạo có nghe lầm chăng? Có điều kiện gì chăng?
Người khách lại tủm tỉm cười, cất giọng dịu dàng:
- Đại đức ạ! Nếu đây là việc cúng dường thì hẳn là tốt chứ?
- Đúng vậy. Nhà sư gật đầu - việc cúng dường thì chẳng có gì
trở ngại, mà lại rất quý báu nữa, thưa tôn ông!
Nói xong, nhà sư nhấc tay đẩy cánh gỗ lim dày.
Hơn ai hết, nhà sư hiểu rõ giá trị của nhành lão mai nọ, dẫu
ngàn vàng cũng không mua được. Sau những ngày tuyết giá là mùa xuân, nhưng mùa
đông năm nay dường như kéo dài ra, hoa anh đào sẽ nở muộn. Suốt cả vùng tây bắc
này sẽ không có được một nụ hoa tươi. Tại chốn đế kinh, mấy năm về trước, thiên
hoàng cũng có được mấy cành do các nhà thương buôn Trung Quốc mang đến phụng
dâng, nhưng chắc là không thể sánh được với cỗi mai tuyệt vời này. Người lựa chọn
nó chẳng phải là một con người tầm thường. Cành mai này thì bậc đế vương cũng
ngoài tầm mơ ước. Cỗi mai xứng đáng để trong một cái lọ cổ quý màu thanh ngọc
điểm tuyết vân, đặt trên cái kỷ bằng gỗ trầm hương, chẳng cần phủ gấm thêu chỉ
vàng chỉ bạc. Được bình mai vô giá này, danh tiếng nhà chùa sẽ lan tới chốn đế
kinh, chắc chắn thiên hoàng sẽ tìm đến cùng với thiên hậu, thứ hậu lẫn tùy tùng
đông đảo. Và như vậy, nhà chùa sẽ có chút bổng lộc, sống đầy đủ vài ba tháng.
Ngoài ra, các tao nhân mặc khách tha hồ tìm đến để ngâm vịnh, xướng họa. Thơ
phú sẽ được trân trọng viết lên giấy bạch vân, hoa tiên, xuyến chỉ, nguyệt cung
điện... để chưng ở khách đường, viện trà, thư hương quán... Mà hễ có tài tử tất
có giai nhân - biết bao nhiêu là tía hồng kiều mị lả lướt vào ra, đông vui như
ngày hoa bướm hội.
Miên man suy tưởng, rạng rỡ nụ cười, nhà sư đã dẫn khách đến
Nghinh Phong đường hồi nào chẳng hay. Cả chùa đổ xô lại, sửng sốt, hết nhìn
khách lạ lại nhìn nhành mai: cành, nhánh phân bố hài hòa, gốc to đen sần sù,
gân guốc, bám đầy rêu đá. Đẹp như tranh!
Sư tri sự bước lại. Sau khi biết chuyện, một chiếc lọ cổ được
mang ra. Người ta chuẩn bị mọi thứ cho khách cắm nhành mai vào đấy.
- Không được! Khách nói lớn giọng, dứt khoát - Không thích hợp!
Giọng oang oang đinh cả tai mọi người.
Nhóm thiền sinh hoảng kinh, dạt ra xa. Sư tri khách lễ độ
nói:
- Thưa tôn ông! Đây là cái bình cổ nhất, quý nhất, đẹp nhất của
tu viện.
Người khách có vẻ không muốn nhiều lời, chỉ một mực lắc đầu.
Một vài tiếng thì thào. Nhưng giá trị của cỗi mai bắt người ta phải chiều lòng
vậy. Rồi mấy chục chiếc lọ nữa được mang ra, khách vẫn không vừa ý. Cả chùa đã
tỏ ra bực bội vì sự khó tính này, một vài lời bất như ý, phạm thượng đã nho nhỏ
thốt ra.
- Có một chiếc lọ cổ - khách chậm rãi nói - không quý lắm!
Trên miệng bình đã sứt hai chỗ. Một to bằng đồng tiền có phù điêu của Thánh đức
Thái tử. Một to bằng miệng chung rượu niên đại Suy Cổ Thiên hoàng. Men màu thúy
lam, đôi chỗ lửng ửng màu hoàng yến; đường hoa văn thủy tiên chạy chỉ thêu màu
thanh thủy rạng...
Ai nấy đều ngơ ngác. Vài vị thượng tọa niên cao, lạp lớn nhăn
trán, nhíu mày. Chịu. Không ai biết ất giáp gì cái lọ ấy.
Hòa thượng viện trưởng đang đọc sách ở Thính Tâm đường sau
khi nghe thượng tọa tri khách trình bày câu chuyện về người khách, cỗi mai và
chiếc lọ - Ngài vội buông sách, chụp vội chiếc gậy lê, không kịp xỏ hài, đã như
đám phù vân lướt nhanh ra phía trước.
Bốn tia mắt gặp nhau. Những ánh sao loáng lên. Hòa thượng
rùng mình. Không khí lặng yên, đọng lại. Đột ngột, hòa thượng đọc to lên:
- Kỵ lư quá tiểu kiều
Cảm thương mai lạc hoa...
Lạ lùng thay! Đôi mắt khách chớp chớp, thoáng mờ như hơi
sương. Hai câu thơ kia được tiếp tục như gió xao qua ngàn lau:
- Cổ nhân sầu bạch phát
Kỷ độ thủy lưu hà!”
- Các con - Ngài cố dấu sự xúc động - chiếc lọ cổ ấy các con
không biết là phải. Đấy là di vật của tổ sư, ta cất giữ kín đáo ở Tàng Vân các.
Lão tôn ông đây không phải là người lạ. Tạm thời các con ai về phòng nấy. Ta sẽ
nói chuyện với các con sau.
Tổ sư khai sơn chùa Thiên Môn, vốn là chưởng môn một tông
phái võ học danh tiếng. Sau khi nghe pháp thấy đạo, ngài biến võ đường thành
thiền đường, lần lượt thụ giáo các cao tăng, sau đó thâu nhận môn đồ cả tăng lẫn
tục. Ngài chọn một con đường riêng biệt. Các đệ tử của tổ sư phải trải qua một
thời gian công phu khổ hạnh - về đạo, về võ học cũng như văn chương, nghệ thuật...
Có người đã đi những bộ môn chuyên biệt, nên sau này ra đời, họ có thể xuống
núi theo con đường tùy duyên hạnh nguyện. Đấy như là thông lệ để gạn cát tìm
vàng, đào tạo những bản lãnh tăng tài làm giềng mối mai hậu cho cửa thiền.
Cứ mỗi năm giáp Tết, tổ sư cho sửa sang quét dọn sau trước, đốt
hương, xông trầm rồi chưng ở chiếc kỷ một bình mai. Bên kia vách nứa thấp
thoáng vài câu đối. Bên này vách nứa lấp loáng câu thơ trên mảnh giấy “mộc vân”:
“Kỵ lư quá tiểu kiều
Cảm thương mai lạc hoa
Cổ nhân sầu bạch phát
Kỷ độ thủy lưu hà!
(“Cởi lừa qua cầu nhỏ
Cảm thương mai rụng hoa
Người xưa sầu bạc tóc
Nước chảy mấy thu là”!)
Bài thơ này được tổ sư chép ra từ bức tranh thi họa ở chiếc lọ
cổ - kể từ năm năm thứ nhất khi đợt đệ tử đầu tiên xuống núi. Rồi năm năm thứ
hai nữa qua đi, bài thơ cũ được viết lên trên giấy mới, cành mai được lựa chọn
công phu hơn, cành nhánh tỉa tót nghệ thuật hơn - vẫn không có bóng dáng người
đệ tử nào trở về!
Từ hai mươi tháng chạp, những năm tuyết tan sớm, tổ sư thường
đi vào cơn nhập định dài. Ngài ngồi trên nệm cỏ, đôi mày bạc kéo xiên như hai vệt
tuyết, vừng trán cao nhẵn bóng như vách đá cẩm thạch. Bình mai bây giờ đã là một
tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Bài thơ bây giờ rõ là nét chữ đang muốn hóa rồng
để bay lên mây xanh! Nhưng sự đón chờ dường như đã mỏi mòn, chỉ có ngọn gió
đông thì thào thoảng qua như cợt, như trêu! Qua cánh cửa tròn nhìn ra vùng đồi
nhấp nhô, những cánh đào bung lộc mởn, lơ thơ mấy nụ “hồng vân sơn trà” ửng đỏ
như điểm chu sa - tổ sư ngồi nhìn bất động. Có lẽ nào tổ sư đang ngưng lắng cả
thân tâm để phân biệt chiếc lá khô rơi hay tiếng bước chân khe khẽ quen thuộc
bên kia triền núi? Tổ sư có xả thiền vài lần, chống chiếc gậy lê, lững thững cô
liêu theo triền núi xanh sim dại, bóng cắt giữa nền trời quạnh hiu. Tiếng chim
núi hót vút lên không. Mấy con đường mòn ngoằn ngoèo bò lên tu viện, heo hút. Vẫn
không có một bóng ma nào!
Buổi giảng pháp đêm giao thừa, tổ sư ngồi trên chiếc bồ đoàn,
từ xa, phất tay áo rộng. Một làn gió quật tới. Chiếc lọ cổ dường như được chà
thành men láng. Màu thúy lam chợt sáng lên, hiện rõ nét, linh động hơn, bức
tranh: “Đạp tuyết tầm mai”.
- Các con hỡi! Giọng tổ sư thoảng như tiếng gió lướt qua sơn
khê hồ hải - Những huynh trưởng của các con thành tài, xin xuống núi, thế là
hơn mười năm rồi, không có ai trở lại. Thế là đã như ông lão trong bức tranh
kia, suốt bao ngày lặn lội, công phu tìm kiếm trên non cao tuyết giá, lúc về
làng, qua cầu, ngoảnh nhìn lại - thì nhành mai tuyệt đẹp chỉ còn là nhánh củi
khô!
Các con ơi! Đời tu hành lập nguyện đều như thế cả. Mai này
các con có xuống núi, thầy mong rằng được nhìn thấy chỉ một cành mai nguyên vẹn
cũng đã thỏa nguyện lắm rồi...
Tổ sư nói xong, thở dài, đưa mắt nhìn đệ tử một lượt, đôi mắt
vừa thẳm sâu, vừa thương bi khó tả. Đột nhiên, thân không động, một làn khói vọt
đi. Chỉ mấy thoáng nhấp nhô. Tổ sư đã đến vách đá phía tây tu viện, hai tà áo
không ngớt lay động, những mảnh bụi đá tung bay tào rào... Sáng ngày, tuyết
trong, nhật rạng, như chạm vào vách trời một câu thơ - một vế đối - lạnh buốt cả
hư không:
“Thiên hạ minh mông, vị tằng nhất hữu!”
(Thiên hạ mênh mông rộng lớn, chưa từng có một (người đệ tử)).
Và ngạc nhiên xiết bao, bên cạnh đấy, nét chữ sâu mạnh cũng một
tám một mười, vế đối lại cũng hàm tàng mấy phần khẩu khí:
“Môn trung lạc bạc, hà dĩ duy vô!”
(Trong cửa (chùa) đơn sơ, ít ỏi, (tuy thế), há lại không (có
ai!)).
Rồi từ đó, cửa Thiền mất bóng vị đệ tử trưởng tràng tài hoa.
Y vì tự ái hoặc vì đau xót tâm sự bi thương của tổ sư mà đã lặng lẽ vác lưỡi
gươm Thiền đạo lên đường? Lời nguyền nơi vách đá không biết có hổ thẹn với tuế
nguyệt và trời cao?
Nhà tổ chỉ có hai người. Trầm hương ấm cúng và man mác. Một
loài chim tuyết lạc giọng kêu ở đâu đó. Gió thì thào ở rất xa...
Chiếc lọ cổ được hòa thượng viện trưởng đích thân mang ra.
Đôi mắt khách lạ sáng lên rồi cúi xuống thò tay xoa lớp bụi đục. Tranh là một
ông lão cỡi la qua cầu, đằng sau là chú tiểu đồng vác một cành mai, cuốn bụi chạy
theo, hoa rơi từng đóa, từng đóa... Như gặp lại hình ảnh giáo huấn đẹp đẽ đã
quá lâu xưa, khuôn mặt khách toát ra niềm vui tĩnh lặng. Nó như thoáng nắng mới
hồng lên rồi tan nhanh giữa hư không - tan mà không mất. Khách như trẻ lại hằng
mươi tuổi.
Bình mai đã cắm xong, đầy tinh tế và đầy trân trọng. Đặt đúng
vào chiếc lọ này, cỗi mai như tăng thêm sức sống và sự linh động. Vài hạt tuyết
li ti còn dính ở đâu đó làm cho cành nhánh tươi mới hẳn lên. Gió lất phất thổi
qua. Không cần nắng ấm mà chỉ cần cành mai đơn sơ mấy nụ, với một nghệ thuật vững
chắc, mùa xuân thật sự đã về ở đây rồi!
Người khách đứng vòng tay, trầm mặc. Lát sau, y bước tới bàn
thờ tổ. Y quỳ rất lâu như hoàn toàn quên bẵng mình và ngoại giới. Y như bỏ cả sông
núi, phong trần bên ngoài chân trời, thu gói mình lại trong không khí cô đọng,
cổ xưa và thanh khiết.
Khi quay lại, như bước ra từ vùng huyền hoặc khói sương,
khách vươn mình đứng thẳng, dáng cao lênh khênh và cằn cỗi như một lão bách
tùng, khuôn mặt sáng rỡ bình an và đôi mắt như hai ngôi sao lấp lánh.
Hoàng thượng Thiên Môn thân nổi gai ốc, hai đầu gối như muốn
khuỵu xuống.
- Hãy bình tĩnh! Hãy bình tĩnh! Giọng khách rất dịu dàng, như
đỉnh núi nói với ngàn dâu, như sự tịch lặng nói với niềm xao xuyến - hòa thượng
đã nhận ra ta, lão sư huynh bạc hạnh này. Dẫu bây giờ ta đã không còn hổ thẹn với
tổ sư xưa, nhưng ta... nhưng ta...
Khách chợt xúc động nắm bàn tay run run của hòa thượng viện
trưởng. Họ không nói được, chỉ nhìn lặng lẽ vào mắt nhau. Họ dẫn nhau đến bàn
trà. Cũng rất lặng lẽ.
Khách nhìn khắp liêu phòng, dừng lại nơi mấy bức tranh, mấy
bài thơ đã cũ vàng, trang trọng lồng trong những khung hoa văn cổ kính - vẻ đăm
chiêu. Hòa thượng nhỏ nhẹ nói:
- Mấy bài thơ, mấy bức tranh này là bảo vật còn lại của tổ
sư. Sau khi lão huynh xuống núi, tổ sư đóng cửa dạy môn đồ. Thì giờ còn lại, tổ
sư dành cho thiền định. Tổ sư không còn làm thơ, vẽ tranh, cắm hoa hoặc bất kỳ
một sinh thú chân tay nào khác. Tổ sư cũng không còn thông lệ dạo chơi trên những
ngọn đồi vắng hay ngồi bên bình mai vào mỗi độ giáp Tết. Tuy thế, những hành
tung của lão huynh, dầu tận chân trời cuối đất, tổ sư vẫn biết rất rõ... Hòa
thượng nghỉ một lát, định nói gì, lại thôi. Sau đó, hòa thượng thở dài rồi tiếp
- tổ sư tịch năm 845, khi Hoàn Vũ Thiên Hoàng thiên đô từ Nại Lương về Kyoto
năm thứ mười...
Hai tay khách nâng chung trà uống một ngụm sâu, xoay xoay cái
chung trong tay, trầm ngâm, rồi hỏi:
- Những huynh đệ của chúng ta và cả vài thế hệ sau này nữa,
có ai về núi đến không?
- Có, khá nhiều! À, nhưng mà không! Tổ sư bảo là không có một
nhành mai nào nguyên vẹn cả!
Khách mỉm cười xa xôi:
- Thế thì vế đối nơi vách đá của tổ sư, vẫn là cái tiên tri đời
đời vậy.
Hòa thượng móm mém nở nụ cười, nhưng lại lắc đầu:
- Không phải thế, không hẳn là thế! Còn nhành mai nguyên vẹn
của lão huynh thì sao? Hà dĩ duy vô?
- Đấy cũng là mong ước của ta! Nhưng mà không biết tỏ sư có
chứng giám cho ta chăng? Cành mai kia không biết có phải là cành mai nguyên vẹn
như kỳ vọng của tổ sư chăng?
Hòa thượng Thiên Môn không biết nói làm sao cả. Lời nói nào
cũng chưa chắc đúng, đôi khi lại trống không, vô nghĩa nữa. Cũng như thế hệ
huynh trưởng đi trước, vị lão huynh này cũng mang đầy nhiệt huyết xuống núi sống
đời hạnh nguyện, tát nước bể đông, biến cải thế gian. Y đã lao thân vào dòng,
chẳng ngại gì những vùng nước xoáy. Cái bản lãnh của y, lưỡi gươm chính khí của
y đánh bại được cả những ma quân hung bạo nhất, thế nhưng y đã không đánh bại
được chính mình. Khoảng cách này là sợi tóc. Lộ trình này là đi trên lưỡi dao cạo.
Và thế là... trọn một đời tìm kiếm, hoạch đắc, cái gia tài vô giá ấy đã rơi rụng
xuống dọc đường, trên mọi nẻo tối tăm của dục vọng và bản ngã... Nhưng mà vị
lão huynh này đã trở về, thành khẩn trở về... và ta đã thấy trong đôi mắt y có
một nhành mai. Như vậy thì sự thất vọng kia quan trọng hay sự giác ngộ khổ đau
quan trọng hơn?
Chợt nhiên, một hình ảnh lóe lên từ bức tranh cổ.
Cụ già ở đây hốt nhiên trắng bạc, da mặt với những nếp nhăn
nheo như sóng gợn, điệp điệp lên nhau thời gian và sinh tử. Lưng lão cúi xuống,
cong hơn, gót chân sây sứt máu, mồ hôi vã ra, rơi xuống biển đen. Trăng trên
cao lạnh lùng băng giá. Hoang mạc tiếp hoang mạc, sơn khê tiếp sơn khê... Tất cả
chúng đang chập chùng nhảy múa trong vô thức như những ám ảnh trường đồ tại thế
khổ nạn... Hòa thượng Thiên Môn rùng mình, thấy thêm một mật ngữ của khổ đế
trong bức tranh “Đạp tuyết tầm mai” mà vị lão huynh đã chứng nghiệm bằng chính
trái tim, hơi thở, bằng cả sự sống của một đời người. Hòa thượng bần thần dã dượi.
Khi ngước mắt lên thì khách lạ đã đi đâu mất. Ánh trăng đêm đông về sáng lấp ló
sau bức mành thưa. Té ra một đêm đã trôi qua. Xung quanh cửa đóng then cài
nhưng khách lạ đã biến đi như một trò huyền hoặc.
Hòa thượng khơi đèn. Trên bàn còn có một phong thư với những
nét chữ chưa ráo mực.
“Chỉ có đau khổ và sự giác ngộ đau khổ. Không còn gì nữa hết.
Không có gì đáng nói ở trong đời. Khi mặt trời đã lên thì còn đâu nữa những ngọn
đèn leo lét bên đường rọi tìm an lạc hay chân phúc? Ta về đây không phải vì lời
thề trên vách đá. Ta chỉ muốn đặt dưới chân Tổ sư một cành mai nguyên vẹn mà
thôi.”
Đọc xong, hòa thượng Thiên Môn tủm tỉm cười. “Đúng như ta
nghĩ là cành mai kia còn nguyên vẹn, nguyên vẹn và tươi đẹp hơn cả ở đầu non,
hơn cả trên băng tuyết! Nhưng mà lão huynh đã phải lặn lội tìm kiếm lâu quá,
lâu quá... Ồ, mà có hề gì đâu! Có kẻ suốt đời ướp trầm, xông hương rồi chưng
trên những chiếc bình trân quý mấy cành củi khô, hoa đã rụng lâu rồi! Còn ta nữa,
tám mươi năm qua, có lẽ nào ta cũng đã từng làm vậy?”
Một tình cảm mang mang len vào lòng. Hòa thượng đứng dậy. Ánh
trăng vẫn lạnh lùng bên bức mành thưa, sáng nhờn nhạt. Một tâm hồn nào vòi vọi ở
trên cao, sau mấy tầng mây khói? Một cơn gió thổi mạnh. Một mảnh giấy chao động
trước mắt. Hòa thượng bước lại. Đấy là một bài thơ trên manh giấy “mộc vân” đã
cũ. Bài thơ với nét chữ tài hoa hiện ra như một trò ảo thuật. Bài thơ cũ, thêm
hai câu mới, như mở ra một chân trời mới, rồi khép lại đâu cũng ở cuối chân trời...
“Kỵ lư quá tiểu kiều
Cảm thương mai lạc hoa
Cổ nhân sầu bạch phát
Kỷ độ thủy lưu hà
Ngã kim bạch vân quá
Không xứ, vong cố gia!”
Tạm diễn ý hai câu cuối:
“Quên quê nhà, quên chốn
Ta nay mây trắng qua.”
Hòa thượng sung sướng quá, buông rơi ngọn đèn. Trước mắt, đám
mây trắng và dòng nước xanh trôi chảy bình yên, thanh thản. Và khách lạ đứng ở
trên cao, mỉm cười dịu dàng, mảnh y bào phất phới. Sao kết thành từng chuỗi, từng
chùm bông trắng rơi tua tủa. Cỗi lão mai thò qua từ sau hốc núi điểm lơ thơ mấy
nụ vàng, nụ vàng kết thành đài sen. Và tổ sư tĩnh tọa an nhiên, khuôn mặt vĩnh
cửu và nụ cười hỷ hoan như chư Phật.
Say Hoa
Say Hoa
Vào đời vua Trần Nhân Tôn, dưới chân núi Thiên Thai có một
nhà ẩn sĩ họ Khưu, tánh tình lập dị, không màng danh lợi mà quanh năm chỉ say
mê hoa kiểng.
Gia tài của cha mẹ để lại cũng có trăm vạn, vài chục đám ruộng
nhưng lần hồi Khưu ẩn sĩ bán sạch. Hễ nơi nào có giống hoa quý, hoa lạ thì với
giá nào chàng cũng mua cho bằng được. Không có tiền mua, chàng đổi bằng của cải,
tài sản. Chỉ non mười năm sau, nơi khu vườn của chàng đã có hơn trăm loại phong
lan, trăm loại thổ lan, ngoài ra các lại danh hoa, danh mộc như trà mi, mẫu
đơn, tảo mai, mộc cẩn, thục quỳ, oanh trúc... thì thật không kể xiết.
Vào vườn, khách phải đi xuyên qua một khu rừng trúc. Trúc
cũng không phải là những thứ trúc tầm thường, mà được sưu tầm từ các xứ xa xôi.
Có những thứ trúc như tảo đằng, tuyết đầu, thiên bút, cao phong, vân lôi...
chàng phải đặt mua từ các dãy núi Thiên Sơn, Côn Luân tận cực Tây Trung Hoa.
Qua khỏi khu rừng trúc, khách phải dừng chân nơi một con suối
thơ mộng. Ở đâu đó, nước rỉ ra từ những kẻ đá, trôi lặng lờ trên mặt cuội trắng
tinh rồi vỗ nhẹ lên mấy đám cỏ biếc nở hoa li ti ngũ sắc. Cá lội từng đàn đủ
màu, đủ vẻ, giỡn với những hạt bọt nổi phù du nom thanh bình như giữa cõi bồng
lai. Đứng mỏi, khách có thể ngồi trên những tảng đá lưu niên cổ đại, tượng đứng,
tượng ngồi, tượng nằm, sắc đá loáng thoáng rêu đen, xám, nhợt nhờ sương nước
như những bức tranh “vĩnh tịch”.
Qua suối, bên mép chiếc cầu đá cong cong, ai đó viết nguệch
ngoạc vài câu thơ không rõ nét, trông cũng phóng khoáng và phiêu bồng quá thể.
Trên một tảng đá dựng thẳng, cao hơn trượng, đầu xám bạc, chân rêu xanh, nổi
lên hai câu thơ, nét đại tự sắc mạnh như vệt đao chém giữa hư không:
“Thiên hạ hốt nhiên đại định,
Tứ thời tịch mịch hoa khai!”
Chẳng có gì hay ở đó, đại ngôn và tầm thường nữa, nhưng kể ra
là có khí phách, ngang tàng một chút hoặc cuồng ngông một chút thì cũng vậy.
Nhưng đâu là cái đại toàn? Giữa cái tuyệt bích rơi xuống một vài nét chấm phá
thô tháo không tạo cho ta một vài cảm giác mạnh và đột ngột hay sao?
Người ta thường gọi chàng là Khưu ẩn sĩ, nhưng cái danh của
chàng chơi hoa ở núi Thiên Thai đã làm rung động chốn đế kinh và thu hút rất nhiều
danh sĩ, đạo nhân, tao nhân mặc khách...
Hôm kia, qua chân núi Thiên Thai là hai Tăng nhân bộ hành
phong trần. Đến khu rừng trúc, họ dừng chân lại.
Một người nói:
- Cái thú say hoa kiểng thì thế gian chỉ có Khưu ẩn sĩ là một.
Người kia đáp:
- Họ say hoa thì chúng ta say Phật. Tục, thanh hay thoát tuy
có khác nhau nhưng cũng là một cách say đó thôi!
Nói xong, y cười ha hả, giở chiếc nón rộng vành bày khuôn mặt
ốm thanh tú, đôi mày sắc và nước da sạm đen. Y còn rất trẻ, tuy khoác chiếc áo
nâu rộng đã bạc màu nhưng cũng không dấu được nét phong lưu kỳ mỹ.
Người kia đã đứng tuổi, to lớn, cằm vuông. Y nhăn mặt:
- Pháp đệ nói vậy không sợ giảm giá trị của đạo ta xuống sao?
Hoa mà dám ví với Phật sao?
- Có gì đâu mà Pháp huynh bảo là dám và không dám?
Rồi tăng nhân trẻ chợt cao giọng:
- Phật là hoa. Hoa là Phật. Phật là tối thắng hoa, diệu thắng
hoa. Pháp huynh vì không thấy Phật nên không thấy hoa. Hoặc giả, Pháp huynh bận
đi tìm Phật nên chẳng thấy hoa bao giờ.
Tăng nhân đứng tuổi nhăn mày có vẻ trách móc nhưng lặng lẽ nhẫn
nhục không nói gì. Ngay khi ấy có tiếng reo từ rừng trúc vọng lại:
- Hay lắm! Hay! Sư bác luận thế làm cho kẻ quê mùa dốt nát
này bái phục làm sao! Phật là hoa, hoa là Phật, hay lắm!
Câu nói vừa xong, thì một người gầy gò mặc áo bào xanh chống
gậy trúc sau vòm cây bước ra, dáng dấp tiêu sái, nhàn thoát khó đoán nổi tuổi
tác. Y cung hai tay lại, phong cách lễ độ vừa phải.
Vị tăng trẻ đáp lễ rồi hỏi:
- Ẩn giả là chủ nhân chốn kỳ hoa?
Người ấy là Khưu ẩn sĩ, cười đáp:
- Vâng, xin thưa, chữ chủ nhân kia chỉ là lạm dụng, khiên cưỡng.
Ai đòi làm chủ hoa thì kẻ đó khi mạn, thất lễ với trời đất. Kẻ ngu hèn này đâu
dám thế. Hoặc giả sư bác muốn chỉ dạy một bài học về tâm pháp chăng?
Vị tăng lớn tuổi bây giờ mới quay lại, chăm chú nhìn người lạ
mặt một hồi:
- Quả thật danh bất hư truyền. Đúng là phong độ cao nhân ẩn
sĩ họ Khưu! Chúng tôi cam bề thất lễ. Nhưng bây giờ thì xin cáo từ!
Vị tăng trẻ nói:
- Huyền Quang tôn giả có lễ chưa về núi, hiện giờ đang còn ở
Yên Tử cũng nên. Hay là, Pháp huynh à, chúng ta qua bộ vào trong kia một lát
cho mãn nhãn cái kiếp nhân sanh?
Vị tăng đứng tuổi hừm một tiếng:
- Hoa sắc, sắc hoa đều là hiện tướng của ma quân! Pháp đệ hãy
khá lưu tâm. Sinh tử là việc lớn, trăm năm nào có mấy khắc, chớ có say mê hoa
thơm cỏ lạ dọc đường để ngàn thu ân hận.
Khưu ẩn sĩ tủm tỉm cười:
- Mời quý sư ông, sư bác vào tệ xá uống vài chung thanh trà lấy
thảo. Huyền Quang tôn giả và ngu lão đây vốn có tình quen biết, lúc nào đến
Thiên Thai, đại sư cũng dừng chân ở đây giây lát để ngắm hoa và thưởng trà.
Vị tăng trẻ nói:
- Vậy thì xin phép chủ nhân cho chúng tôi được quấy quá.
Thế là vị tăng đứng tuổi đành miễn cưỡng đi theo. Cảnh đẹp
làm cho vị tăng trẻ phải ngẩn ngơ, thán phục. Qua cầu, y dừng chân nơi hai câu
thơ thật lâu rồi trầm trồ khen ngợi không hết lời. Vị tăng đứng tuổi hừm một tiếng
rồi xăm xăm đi trước.
Ôi! Thật là không thể kể xiết được những kỳ hoa dị thảo ở khắp
nơi. Trên cội cây, hốc đá, lối đi, bờ suối, triền non... đâu đâu cũng trăm sắc
nghìn vẻ. Lời đồn đại của thế gian là mười mà chưa nói lên được một. Cảnh trí u
nhã làm cho tâm hồn con người lâng lâng lắng dịu. Chủ nhân và vị tăng trẻ có vẻ
tâm đầu ý hợp nên trò chuyện huyên thuyên...
Khi rời rừng hoa để bước vào Thảo nhai đình, tức là chái mây
nhô ra bờ vực làm nơi thưởng trà, vọng nguyệt, vị tăng trẻ hốt nhiên ngâm mấy
câu thơ lục bát với nhã ý tặng riêng Khưu ẩn sĩ:
Trần gian một thoáng không dài
Có khi mộng hóa, liên đài cũng nên!
Thềm mây đọng bóng chơn thiền
Ai ngờ tâm pháp một miền cỏ hoa!
Vị tăng đứng tuổi lòng ngổn ngang trăm mối buồn phiền vì người
Pháp đệ của mình. Vừa qua chung trà thứ nhất, y đã cất giọng nói lớn:
- Chủ nhân có một đời sống thanh cao lắm, nhưng dám xin thưa
thẳng một điều: tự mình có một đời sống nhàn lạc ở nơi góc núi đẹp như tiên cảnh
này, danh lợi thị phi đắc thất dường như gió thoảng ngoài tai, dẫu vậy, phải
chăng cũng còn ở trong cái ngã ái chật hẹp lắm ư?
Ẩn sĩ họ Khưu mỉm cười mà rằng:
- Dạ phải, sư ông dạy chí phải!
Vị tăng đứng tuổi cười lạt:
- Khưu ông mang cốt cách, phong thái của một dật sĩ, năm kinh
ba giáo xem chừng cũng đã có ghé mắt xem qua. Vậy thì lời dạy của thánh hiền phải
chăng là sở đắc này: Một đời sống nhàn lạc riêng tư, chật chội, phó mình buông
trôi cho dòng chảy xiết “bộc lưu sinh tử”?
Ẩn sĩ họ Khưu cúi đầu nhũn nhặn:
- Dạ phải, sư ông dạy chí phải!
Vị tăng trẻ lấy làm khó chịu:
- Pháp huynh sao lắm lời đến thế? Mỗi người ai chí nấy, nhân
nào quả nấy, tâm nào cảnh nấy! Đức Thích Ca đại sĩ bao nhiêu năm thuyết pháp mà
không hề nói một chữ! Tu-bồ-đề im lặng thiền duyệt mà chư thiên rải hoa! Tâm mà
có thể nói được? Pháp mà có thể nói được?
Vị tăng đứng tuổi khuôn mặt thoáng rắn lại, rồi chợt cười ha
hả:
- Hay lắm! Cám ơn Pháp đệ đã thuyết Bát-nhã tánh không cho ta
nghe! Cám ơn Khưu ẩn sĩ đã cho bần tăng lãnh hội tri kiến Pháp Hoa kinh. Thậm
tri! Thậm tri! Vậy thì quý ngài cứ tâm đắc thù tạc, cho bần tăng thất lễ kiếu từ.
Ân sĩ họ Khưu chợt nói:
- Xin sư ông nán lại một chút. Có mấy đóa “bạch vân trà”, có
lẽ vữa mới mãn khai. Đấy là loại tinh khiết, vương giả giữa trăm hoa, không để
cho sư ông thưởng ngoạn thì biết để dành cho ai nữa?
Nói xong, ông ta biến mất sau mấy cụm bích đào, lát sau, mang
ra một chậu trà mi trắng trang trọng đặt lên phiến đá cẩm thạch.
Cả hai vị sư đều sửng sốt.
Trong chậu, mấy đóa trà mi trắng nõn nường. Như lụa? Như thủy
tinh? Như sương? Có lẽ chẳng phải thế! Nó như màu nguyệt bạch hoặc như màu bạch
ngọc nhìn qua làn trăng mỏng. Cũng không hẳn thế. Thôi, chỉ diễn tả là đẹp lắm,
đẹp tuyệt vời, đẹp không có gì sánh nổi, không có cách gì mà dùng lời được. Từng
cánh hoa cong cong xếp lại. Mỗi cánh là một nét yểu điệu, mềm mại của vì tiên nữ.
Ngoài ra còn có những đường vân tinh vi khi ẩn khi hiện qua ánh sáng đã được chắc
lọc tinh khôi, vô nhiễm...
Khưu ẩn sĩ nhìn đôi mắt sửng sốt của hai vị tăng, y mãn nguyện,
rung đùi ngâm:
- Tướng Phật, tướng hoa: vô nhị tướng!
Tánh hoa, tánh Phật: bản lai đồng!
Vị tăng trẻ cũng nhã hứng, thốt lên một cách sảng khoái:
- Biệt biệt, nhất trần vô cá biệt!
Khán hoa kiến Phật, liễu vô cùng!
Khưu ẩn sĩ đứng dậy cung tay hoan hỷ tán thưởng. Vị tăng đứng
tuổi chép miệng, chặt lưỡi, ngó lên trời than dài:
- Ôi! Đảo điên đến thế là cùng! Pháp lộn tâm! Tâm lộn pháp!
Chẳng hiểu đầu đuôi gốc ngọn ra sao mà dám xem Phật, hoa là đồng đẳng! Khán hoa
là kiến Phật! Ôi! Than ôi! Phật pháp suy vi đến thế là cùng! Kẻ học Phật thời
nay ngông cuồng đến thế là cùng! Ôi! Than ôi!.
Bí Mật Võ Đạo
Tajima lấy tấn, loang kiếm một đường theo thế Yogo rồi thu kiếm
đứng bất động giữa làn mưa tuyết. Mắt y nhòa đi nhưng óc y tỉnh thức cao độ. Y
bắt đầu thực hành yếu chỉ nhập môn thượng thừa tâm pháp: Chuẩn bị đi vào trạng
thái này là loại bỏ các tư niệm, tạp niệm, để tâm trôi chảy thong dong như đám
mây mùa hạ, như dòng nước mùa xuân...
Bóng người in giữa ánh tuyết mang đường nét cô đơn và vĩnh cửu
như bức tranh chấm phá của một họa gia Sumiye. Tuyết vẫn rơi từng hạt như bông.
Tajima vẫn đứng tịch nhiên như đã hóa thạch. Cây cối trút hết lá, chơ vơ như
nhìn ngắm nỗi phế hưng cô liêu của trời đất. Những đám mây thấp, đục, ùn ùn từ
đỉnh Phú Sĩ sơn kéo về phương đông. Trời lại nổi gió.
Bấy giờ là vào tiết đại hàn, khô se, lạnh.
Phật giáo kể từ hời Đức Khâm Minh Thiên hoàng, thế kỷ thứ VI,
có mặt ở xứ sở này, đã hiển lộ sinh lực vĩnh cửu của nó bằng tất cả những nét
quang minh rực rỡ. Ngót một thiên niên kỷ, từ giới quý tộc cho đến lớp sĩ phu,
đại chúng, đã thấm nhuần giáo lý trí tuệ và từ bi cao cả này, nên mọi sinh hoạt
tinh thần và vật chất của xã hội đều được thăng hoa. Tuy thế, sự thăng hoa đúng
độ phải được kể từ thời triêu dương của Thiền tông, tức là khoảng đầu của thời
đại Kiếm Thương, tiền bán thế kỷ VII đến tiền bán thế kỷ XIV. Và cao
độ của nó thì được tỏa rạng từ một chân dung: Tukuan đại sư, hậu bán thế kỷ
XVI.
Người ta bảo rằng: “Cùng tức biến, thịnh tức suy”. Phật giáo
quý tộc ở giai đoạn này được quá nhiều ưu đãi của triều đình đã trở nên mục ruỗng
vì danh lợi, quyền lực, kéo theo cả tòa nhà Phật giáo nguy nga đồ sộ sắp bị sụp
đổ. Khắp nơi, khó tìm ra một bậc xuất gia phạm hạnh đúng nghĩa. Tăng
chúng thì vợ con hầu thiếp đùm đề hoặc bước vào những phạm vi sinh hoạt không
phải là của mình. Nhãn hiệu Thiền tông được treo la liệt từ núi non đến thành
thị, những bảng hiệu quảng cáo rẻ tiền mà thực chất là chốn chợ búa đổi lợi,
mua danh! Cung đình trụy lạc, tranh giành phe nhóm, quyền lực, bè đảng là một số
tăng sĩ đã lỡ bán linh hồn cho quỷ!
“Phật giáo luôn luôn tự cứu mình!” Đấy là chân lý được rút ra
từ lịch sử. Nên một đêm kia, có một nhà sư xuất hiện ở cửa thành tây, đột nhập
vào hoàng cung lấy đi ba mươi cái thủ cấp. Trong đó có hai mươi quan đại thần,
năm vị hòa thượng, một hoàng hậu và bốn cung nữ. Mấy hôm sau, lãnh chúa các
phương dấy loạn. Lại một lần nữa, một nhà sư, với hành tung kỳ bí, trong bốn
đêm lấy thêm tám thủ cấp của tám vị lãnh chúa cát cứ tám phương! Cả nước rợn
người, tóc dựng ngược. Thế là chấm dứt loạn lạc. Dường như sau đó mấy năm, vua,
quan, tăng sĩ sáng hôm sau ngủ dậy thường đưa tay sờ lên cổ mình, xem thử cái đầu
có còn ở đấy hay không!
Đêm tối qua đi, trời lại sáng, Phật giáo bắt đầu chấn hưng.
Tăng sĩ được tuyển chọn bằng cách thi cử, phát nguyện. Loại bỏ bớt những hình
thức được xem như là ngoại đạo, tà giáo. Kinh điển được kết tập lại.
Phong trào đang rầm rộ ở khắp nơi thì ở núi Tỷ-duệ, đông nam
Kyoto, bỗng xuất hiện một nhà sư to lớn, mặc y đỏ chói màu san hô, tự xưng là hậu
thân của đại sư Truyền Giáo (Deng-yô-daisi), vốn là vị khai sơn Thiên Thai tông
của núi này. Nhà sư giảng đạo suốt sáu tháng, không ăn, không ngủ, chỉ ngồi thiền
và uống nước lạnh. Người ta đồn rằng, như loài chúa của muôn thú, với tiếng rống
của sư vương, nhà sư với uy lực dõng mãnh của kiến thức lẫn sở chứng đã làm cho
cử tọa thính chúng bủn rủn, tê liệt... Tư tưởng các giáo phái đối lập, sai khác
đều chợt bị rã tan hoặc lung lay tận nền móng. Cao tăng, danh sĩ bốn phương trời
đổ xô đến luận tranh, tham vấn, cầu đạo..., nhưng đột nhiên, nhà sư lại biến mất,
kéo theo ba mươi người đồ đệ.
Người ta ghép các dữ kiện lại với nhau rồi nhất quyết khẳng định
rằng, nhà sư xuất quỷ nhập thần lấy thủ cấp bao người và nhà sư giảng đạo sáu
tháng không ăn không ngủ, chỉ là một. Và ba mươi người đồ đệ đi theo chẳng phải
là để được truyền tâm ấn Phật học, mà chắc chắn là chỉ vì bí kíp võ học mà
thôi!
Bí kíp võ học lại càng lôi cuốn tâm địa con người hơn. Ai ai
cũng mong muốn mình có được một phần nào bản lãnh thần sầu quỷ khốc của nhà sư
vô danh kia. Thế là một cuộc lên đường chưa từng thấy trong lịch sử võ học bắt
đầu...
Tajima vốn là thanh niên đệ nhất kiếm thủ ở Kyoto sau lần tuyển
chọn cuối năm tại các võ đường, dĩ nhiên chàng cũng bị cuốn theo lớp sóng tràn
tìm về núi Tỷ-duệ, với chí nguyện lớn là sẽ khuôn phò xã tắc bằng tay kiếm của
mình. Đêm kia, sau khi lạc mất toán người bí mật trong thung lũng Nưu-dực hiểm
trở, sáng ngày, chàng lần mò qua Tây Lũng đạo, một sơn đạo cheo leo hiểm trở,
và bắt gặp một chuyện kỳ bí lạ lùng. Ở Đây, Tajima chứng kiến một trận đấu kinh
hồn giữa chừng năm mươi tay kiếm thủ, gồm cả tăng lẫn tục nhưng đều được hóa
trang một cách khéo léo. Họ đang giết nhau để tranh giành một mảnh cà-sa đẫm
máu. Người cuối cùng được sống sót, dĩ nhiên là tay đại bản lãnh nhất trong bọn,
lấy được bí kíp võ học rồi vọt đi như giông như gió. Tưởng thế là xong, ai ngờ
một chiếc bóng như tự trời sa xuống, thò chiếc gậy trúc cản đường lại...
Cả hai đứng sững nhìn nhau.
Kẻ chiếm được manh áo cà-sa trùm mặt bằng vuông vải đen, để lộ
hai tia mắt loang loáng. Kẻ thò cây gậy trúc cản đường là một nhà sư phong trần,
rách rưới, râu tóc tua tủa, sau vai đeo một đãy ta bà.
- Buông kiếm xuống, sư đệ! Và hãy quăng luôn cái manh áo
cà-sa kia xuống vực thẳm. Máu đã đổ quá nhiều rồi. Hãy theo ta về núi mà sám tội
đi thôi!
Giọng nhà sư nghiêm lạnh mà vẫn đầy vẻ thiết tha từ ái. Nhưng
kẻ bịt mặt hừ một tiếng khô khốc, đi liền với thế kiếm kinh hồn, trong một lúc
phủ chụp, uy hiếp, tấn kích luôn mười trọng huyệt. Nhà sư thoáng tái mặt nhưng
rồi đã chậm rãi, bình thản bước tới một bước, bước lui hai bước, bước phải một
bước, bước trái một bước là đã tránh khỏi dễ dàng những tử chiêu của đối
phương.
Nhà sư giọng cũng không lớn hơn, cũng không nhỏ hơn.
- Buông kiếm xuống, sư đệ! Dẫu sư đệ đã thay đổi rất nhiều võ
học của sư môn, dẫu sư đệ có thông minh và tế vi cách mấy khi tấn, tảo, chiết,
chuyển, nhưng chỉ cần một căn bản của bộ vị không thay đổi là ta cũng nhìn rõ gốc
nguồn. Giọng nhà sư chợt thiết tha hơn - Sư đệ ơi! Sư đệ nỡ lòng nào phản bội
di huấn của tổ sư? Nỡ lòng nào sắt đá trước cảnh đầu rơi máu chảy? Chỉ vì một
khởi niệm bất thiện, môt khát vọng mưu đồ là tay sư đệ đã chàm đen mấy lớp? Đã
đọa sa mấy tầng địa ngục?
Kẻ bịt mặt cất tiếng cười man rợ. Kiếm lại nhoáng lên. Kiếm lại
vụt tắt. Cây gậy trúc của nhà sư chậm rãi chập chờn di động, mà cũng dường như
bất động giữa hư không - đã là bức tường kiên cố bất khả xâm phạm! Nhà sư nói
như ngâm:
- Dẫu sát nhất miêu,
Không cứu vạn thử!
Dẫu cứu vạn thử
Không sát nhất miêu!
Ai làm hề!
Ai chịu hề!
Ta giết!
Kiếm trên tay tên bịt mặt bối rối, lúng túng rồi dừng tắt
vĩnh viễn. Và Tajima, có lẽ suốt đời chàng cũng không quên được thảm cảnh hãi
hùng. Tay kiếm bịt mặt đứng sững như trời trồng, tròng mắt trắng dã lồi ra, biểu
hiện một ngạc nhiên cao độ. Ôi! Khó mà có thể thấy được nhà sư sử dụng cây gậy
trúc như thế nào? Động hay bất động? Cho đến khi tên kiếm thủ chết đã lâu mà
bóng cây gậy trúc vẫn nằm giữa hư không, nguyên chỗ cũ như chưa hề di động bao
giờ!
Nhà sư cúi xuống, quăng cả người, cả manh áo cà-sa xuống vực
thẳm rồi lướt đi như vệt khói.
Tajima bây giờ mới thở ra nhè nhẹ. Chàng lặng người đến không
còn cảm giác nữa. Chàng đâu có ngờ rằng võ học có thể bước đến những chân trời
như vậy!
Như sực nhớ ra, chàng lần xuống vực thẳm. Ngạc nhiên làm sao,
chỉ thấy xác tên kiếm thủ, nhưng không tìm ra manh áo cà-sa. Vung vãi xung
quanh chỉ có mấy tờ kinh rách nát, số mất chữ, số nhòe nhoẹt. Những phần đọc được,
Tajima cố chắp lại với nhau. Cuối cùng chàng cũng mơ hồ hiểu rằng, đây là yếu
quyết của một môn võ thượng thặng. Chàng bèn tìm đến một nơi khuất tịch để luyện
tập.
Nhưng bao tháng bao ngày chàng cũng không đi lọt
qua cửa. Tâm ý cứ qua lại
lăng xăng. Nó chẳng “thong dong như đám mây mùa hạ, như dòng nước mùa xuân”. Nếu
có yên lắng thì cũng không ở trong trạng thái từa tựa như yếu chỉ: “Hành giả phải
tức khắc thấy rõ các trạng thái đồng dạng ở nơi thân và ở nơi tâm. Thân bất động
không phải là tâm bất động và ngược lại. Coi chừng một tâm lý mỏng như màn
sương hiện lên ở đây. Nó biến cảm thức thành đối tượng và đối tượng thành cảm
thức. Dường như không còn năng, sở, chủ và khách, nhưng trạng thái ấy không phải
là bất động. “Bất động” phải là trạng thái cao nhất của “sinh động”. Nó chuyển
động quanh trục của một tâm điểm “không hề dao động”. Ở đây, nó tỉnh thức và
bén nhạy như một tấm gương phản chiếu. Hình ảnh nọ kế tục hình ảnh kia, trong
sáng, rõ ràng và không lầm lộn. Bất động chẳng phải là một sinh thể vô hồn; có
thể là vô tâm, vô niệm nhưng không phải là hư vô trống rỗng. Vô hay hữu đều là
chướng ngại che mờ giác tánh”.
Tajima lại thở dài. Thật khó mà lãnh hội điều đó bằng tri thức.
Nhưng nếu không thể lãnh hội bằng tri thức thì lấy gì để thể nhập, để biến
thành khí huyết, để thông vận tự nhiên như hít thở khí trời?
Và chàng chợt đâm ra hoài nghi: đây là yếu quyết võ học hay
là yếu chỉ Phật học?
Tajima chống kiếm, ôn nhẩm lại: “Thế nào là động mà bất động?
Hãy nhìn bánh xe quay quanh trục xe, bánh xe chuyển động mà trục xe bất động.
Cũng vậy, phải bám trụ vững chắc, kiên định vào một tâm điểm. Tâm điểm này muốn
gọi là Phật địa, chơn địa, tuệ địa hoặc danh từ gì tương tự như thế, trước khi ứng
xử, tiếp vật, đón đỡ, ghi nhận các pháp từ thế giới xung quanh đến với ta. Bất
động không phải là cái để tìm kiếm, bắt nắm. Nó là cái để mà liễu tri, giác hiểu.
Tâm điểm bất động này nó không ở ngoài, không ở trong. Không phải hữu thức, chẳng
phải vô thức. Chẳng thể nói có, chẳng thể nói không. Không nỗ lực, chúng tác ý
và biến hóa. Không lộ diện, chúng hiện hữu, chi phối và quyết định tức thời, phản
ứng đúng lúc. Nó làm cho dòng vận chuyển được liên lỉ và làm cho sinh lực chảy
trôi không gián đoạn. Chính ở đây ta chiếm thế thượng phong, tuyệt đối quyết định
trò chơi sinh tử! Ôi! Rõ ràng bài tâm pháp đã ở ngoài sự lãnh hội thông minh nhất.
Càng nghe, càng rối; càng thực hành, càng loạn. Động mà bất động? Bất động mà động?
Bất động mà tỉnh thức chứ không phải là cái ngưng đọng vô tri, đối lập với dòng
vận hóa. Nhưng ở đây sao lại là: “Sự vắng bóng tuyệt đối của hữu thức, của ý tưởng,
của tư niệm?”
Tại sao lại thế được? Và tại sao lại như tấm gương trong
sáng, chụp bắt (thủ) và buông xả (xả) là hai tác động đồng thời, không gián
cách, không thời gian? “Nó ở trong khoảnh khắc sinh và diệt của ý giới nhưng ý
giới không phát lộ được y. Nó nắm ý giới như người kỵ sĩ lão luyện cầm cương ngựa
trên đường thiên lý. Đây chính là tâm điểm, từ đó khởi sinh sự tinh nhuệ, mẫn
tiệp, sự linh hoạt cần thiết nhất định. Nó động, ta động. Nó tịnh, ta tịnh.
Không trước ý, ta biết hoàn toàn (toàn giác). Không khởi động, ta
làm chủ nó.”
Tuyết bắt đầu rơi nặng hạt. Tajima đưa mắt nhìn về cổ trấn
Osaka, con sông Yodo như chìm trong biển sương mù. Mây, bầu trời, sông nước là
một. Tuy là một nhưng nó hàm tàng sinh hóa. Chính là sinh hóa. Yếu chỉ chính là
điều này chăng?
- Nó là cái một tâm điểm từ đó phát sinh vạn hữu. Tâm là chủ,
là nội công? Pháp là ngoại giới, là ngọn, là chiêu thức?
- Càn thỉ quyết! (que cứt khô)
Ai mà mở giọng khinh bạc đến thế? Ngạc nhiên, Tajima quay lại.
Trước mắt chàng là một du tăng, áo phanh hở ngực đầy lông lá; chiếc nón mê rách
tả tơi không gói kín chỏm tóc muối tiêu. Bầu rượu (có lẽ là bầu nước chứ) treo
toòng teng trên đầu gậy trúc. Đôi hài cỏ xơ xác như vừa qua những chặng sơn khê
hồ hải. Râu ria tua tỉa. Và đặc biệt là nụ cười toe toét phô hàm răng trắng ngọc
hiền lành.
Tajima nhìn sững. Y có phải là nhà sư đã hạ sát tên kiếm thủ
bằng thế trúc bất động kỳ dị hôm ở Tây Lũng đạo? Nhưng trông y sao lại có vẻ
phong trần hơn và hiền lành hơn?
Nhà - sư - gậy - trúc - bây giờ ta gọi thế - mắt chợt nhấp
nháy, bước tới một bước, bước lui hai bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ vào bụng
mình, nói như ngâm:
- Lòng tuyết rơi
Cô liêu đời kiếm sĩ
Bóng một Phú Sĩ sơn
Ngủ quên trong hạt bụi
Đứng đây chi?
A! Kỳ lạ! Tajima thầm nghĩ. Xem bộ pháp thì đúng là Nhà - sư
- gậy - trúc, nhưng phong thái và lời thì đúng là nhân vật truyền thuyết: Tây
Hành đại sư - kẻ đã có công sáng tạo một thể thơ vượt mọi khuôn thước, tiền
thân của thơ Haiku mà sau này trở thành sở đắc của Ba Tiêu. Dòng suy tưởng của
Tajima vẫn không gián đoạn. Hơi thơ được đi ra một cách tự nhiên, dường như
chưa qua sự khúc xạ của trí óc. Y muốn dẫn dụ điều gì? Nghĩ gì nói nấy, một
cách vô tâm (mushin) của Đạt Ma? Một cách vô niệm (muga) của Huệ Năng?
Nhớ đến thế trúc nơi Tây Lũng đạo dạo nào, Tajima cung tay
tham bái:
- Bạch đại sư! Xin ngài hoan hỷ chỉ giáo cho thế nào là động
mà bất động? Bất động mà động?
- Tầm bậy. Nhà sư huơ gậy trúc lên cười to - Ai biết gì chúng
nó. Và biết làm gì. Hãy nghe thơ đây:
- Tuyết rơi nhiều
Chân ta về mây trắng
Mùa thu bay!
Thực tại nào bất động ở đây? Tuyết? Chân ta? Mây trắng? Mùa
thu? Tất cả đều chuyển động. Phải chăng chẳng thể có cái bất động? Sự vĩnh cửu
của một hạt tuyết, một đám mây chỉ là một cái nhìn đầy khinh bỉ phóng rọi vào sự
chuyển dịch tử sinh của hiện tượng giới đấy thôi. Tìm một tâm điểm bất động để
trú vào đấy là một nỗ lực vô ích và phù phiếm thế nào!
Nhà - sư - gậy - trúc nở nụ cười méo mó vẻ nhạo báng, tháo bầu
rượu (có lẽ là bầu rượu rồi) tu một hơi, khà thành tiếng:
- Một bầu rượu,
Trăm năm say mộng hóa
Giọt đang rơi!
Tajima dở khóc, dở cười. Nó chẳng liên hệ gì câu hỏi của
chàng. Lời thơ tuôn phát ra, có thể là một thực thể vừa bước ra từ lòng tuyệt đối,
từ cái tâm linh sâu thẳm nào đấy, nhưng có ích gì cho chàng? Dẫu nó có là thực
tại, là tài hoa thì vẫn toát ra cái gì là tự ngã, kênh kiệu và đa tri.
Khi Tajima vừa quay lưng bước đi thì một hạt rượu rơi bắn vào
huyệt kiên tĩnh. Một cảm giác tê rần khó chịu lan nhanh trong tủy sống. “Bị y
điểm huyệt rồi”, chàng thầm nghĩ. Nhưng chẳng biết y có giết ta không? Nghĩ đến
cái thế trúc bất động nơi Tây Lũng đạo, chàng lại rùng mình. “Sát nhất miêu, cứu
vạn thử”; hay y đã biết ta xuống vực sâu lấy “bí kíp”?
- Cuộc đời ôi!
Lang thang gió bụi
Hư không ôi!
Còn ta trần trụi,
Gậy trúc về
Đâu nguồn, đâu cội?
Nhà – sư - gậy – trúc hát to như ngâm, chốc chốc vẳng lại nụ
cười cô đơn và xa vắng. Có đúng y là Tây Hành đại sư? Nhưng mà... sao vậy kia?
Tây Hành đại sư vốn là một cao thủ tuyệt vời của triều đình Kamakura, thế kỷ thứ
XIV! Nhưng bây giờ năm nào? 1630! Ta còn tỉnh hay mê? Ta cũng đang bị điểm huyệt
đây!
Tajima lặng người, quay đầu lại. Hóa ra chàng không bị điểm
huyệt, tất cả đang bình thường. Hít một hơi cho đầy chân khí, Tajima sải cước lực
vân hành. Chàng cương quyết dò la tin tức của Nhà - sư - gậy - trúc bí mật.
Đến cổ trấn Osaka thì trời tối đã lâu. Tuyết ngập đường. Nhà
nhà đóng cửa. Tajima thấy từ cuối đường, Nhà - sư - gậy - trúc đang bước vào một
căn lầu màu xanh, đèn leo lét tỏ. Tại sao y lại bước vào đây? Tajima suýt nữa bật
lên câu hỏi.
- Ai đấy? Tiếng từ trong vọng ra - Mùa tuyết rơi, “lầu xanh”
không nhận khách. Nếu là giang hồ võ đạo lỡ đường thì xin ghé qua chùa Đa Môn,
bảy dặm phía bắc thị trấn.
Tajima lần nhẹ đến, đôi mắt mở lớn cực độ.
- Eguchi! Tiếng Nhà - sư - gậy - trúc - Nàng còn nhớ đến tên
võ tướng vô phước bạc hạnh cầm kiếm xuyên thủng trái tim mình bên đền Quan Âm đại
sĩ ở Kyoto?
Im lặng một lát.
- Saiyo! Là người đấy chứ? Tiếng thánh thót trong như pha lê,
cũng có thể như tiếng chim hót - Ngươi đã phủi bụi, đã rời bỏ cõi ô trọc từ
lâu, đã thành một cao tăng thạc đức, thành một thi tăng nổi tiếng cửa thiền rồi
đó chứ?
- Là ta đấy, Eguchi nàng hỡi! Ta là cát bụi nên không bao giờ
còn tan theo cát bụi. Cao tăng thạc đức, lãng đãng phiêu bồng thi tăng, kiếm
sĩ, tục khách đều có đủ ở nơi ta. Cũng như nàng vậy thôi, gần hai trăm năm nay,
nàng đã mười lần hóa thân làm kỹ nữ, nhưng đối với ta nàng vẫn cứ là Quan Âm đại
sĩ thuở nào!
Tajima hãi hùng, thò tay véo vào da thịt mình. “Ta vẫn còn tỉnh
đây! Ta vẫn còn sống đây!” - Tajima lẩm nhẩm.
- Saiyo! Hãy nghe đây! Giọng người con gái bây giờ chợt trở
nên oai nghiêm, sắc lạnh - Chuyển động và bất động hai tướng bổn lai là không.
Ta chuyển động mà bất động. Ngươi chuyển động mà chẳng thể bất động. Ta có hóa
thân mà không hóa thân. Ngươi hóa thân mà bị thân hóa. Ngươi như hạt bụi tung
vô định vào giữa cơn lốc xoáy của cơ, của cảnh, của duyên, của nghiệp. Ngươi bị
cuốn đi mù mịt. Tự do ở nơi ngươi là lớp ngụy trang giả tạo, dối lừa được ai? Đức
Thích Ca đại sĩ đêm ba canh nằm nghỉ nghiêng lưng chưa được nửa canh, ngày sáu
khắc không thèm sống tự do, tự tại. Ngài sống giữa buộc ràng, câu thúc, lễ
nghi, trang nghiêm thân, trang nghiêm giới để giáo hóa sinh quần. Còn ngươi, hỡi
Saiyo! Ngươi được mấy thành hỏa hầu? Cả thầy ngươi cũng thế, gã Tukuan ở núi Tỷ-duệ
hôm nào!
Chợt nhiên, người con gái cao giọng, đầy uy vũ:
- Kiếm tuốt trần
Và địa ngục
Hãy bước tới,
Không có ngoảnh đầu,
Rồi dưới chân, sen sẽ nở hoa!
Thơ của ngươi đấy, Saiyo! Và ngươi cứ bước tới, thầy ngươi
cũng vậy. Và địa ngục sẽ chờ đón các ngươi. Hoa sen sẽ vĩnh viễn không nở trong
lửa đồng sôi, mà nó vươn lên từ đống bùn ô trược. Nó mọc đấy, nó vươn lên đấy.
Còn ngươi là gì? Đừng đồng hóa bản năng và tự tại. Đừng lấp lửng giữa hai bờ
sinh tử. Mới uống vài ngụm mà tưởng là đã cạn được dòng nước đầu nguồn. Hãy đi
đi thôi! Hãy ra đi như hạt bụi và trở về như hạt bụi. Ở đây không có chỗ cho
ngươi!
Saiyo vẫn cứ léo nhéo cái giọng si tình:
- Eguchi nàng hỡi!
Khi tôi chưa bỏ cõi đời,
Tim nàng sao nên rắn?
Sao lại hắt hủi tôi,
Chỉ một đêm trần gian huyễn mộng!
Người con gái lầu xanh cũng đáp lại bằng thơ:
- Ngươi là cát bụi trần gian
Thì vẫn là cát bụi trần gian
Ta khuyên ngươi đừng hư tưởng
Đừng tâm niệm khăng khăng
Cuộc đối thoại kỳ lạ chìm vào yên lặng. Tajima như rơi hẫng
vào một thế giới nào.
Khi Tajima ngước đầu lên thì Tây Hành đại sư (Saiyo) không
còn ở đấy nữa. Và căn lầu màu xanh như biến mất trong đêm.
Bây giờ thì chàng biết rõ nhà sư xuất hiện cứu đời và nhà sư ở
núi Tỷ-duệ chỉ là một, chính là Tukuan đại sư. Đây là một cuộc hóa thân hay thị
hiện thế nào đó do một cái nhìn sâu thẳm khôn dò từ tâm linh thiền chứng. Sinh
tử đối với họ là trò chơi. Dẫu chuyển động ba cõi sáu đường với những sinh hoạt
lăng xăng, nhưng bao giờ họ cũng trú nơi cái bất động cao đại của chính mình,
là thanh tịnh địa, Phật địa, giác tánh, như chơn... Ôi! Cái mà Tajima tưởng là
bí kíp võ học, chỉ là nội dung tâm pháp của một thiền phái Phật học, nó không
còn là thiền sơ thủy từ Đạt Ma lập cước từ kinh Kim Cương hoặc như Hoa Nghiêm,
Lăng Già của các tổ đi sau, mà đã được dung nhiếp hoặc chắc lọc tinh hoa từ chư
kinh, rồi biến nó thành ngôn ngữ, khẩu quyết hay nền tảng thuyết lý cho một
tông phái.
Ôi! Đâu là bến bờ của võ học và đạo học? Hỏi vậy chứng tỏ ta
bạc nhược kiến thức cùng sự nghèo nàn của tâm hồn. Thiền treo lưỡi kiếm trên đầu
ta, và ta bước tới. Không có vấn đề sinh tử lẫn những tri thức phù phiếm ở đây.
Một bước nhảy quyết định chẳng kể vực thẳm hay hư vô. Lửa bốc cháy ngùn ngụt ở
trong tâm, và chỉ có một hành động duy nhất là xả kỷ. Chẳng có tí tẹo nào là tư
dục và vị ngã. Thế là hoa sen nở trong lửa. Tukuan đại sư là hiện thân cho những
lý giải bá vơ này! Ngài nói bằng máu! Chúng ta nói khô kiệt của tử thi. Những đệ
tử của ngài, sau này, bước xuống cuộc đời, chẳng phải bằng đôi cánh của thiên
thần mà bằng sự trần trụi của con người, bằng sự cô liêu từ sơ thủy; sẽ lang
thang cùng với trời đất lang thang, trên con đường cứu độ vô thủy vô chung...
Tajima sau đó mất tích. Rồi chẳng biết có những tao ngộ thế
nào mà chàng lại trở về kinh đô với mấy chục hiệp sĩ, dùng tay kiếm vô địch lật
đổ triều đình Đức Xuyên tướng quân. Chàng ở lại đấy, huấn luyện cho chừng một
trăm tướng quân, rồi lại biến mất, khoảng hậu bán thế kỷ XVII.
Mấy chục năm sau, người ta nói rằng chàng đã là một du tăng
hành cước. Có lần chàng tìm đến căn lầu xanh thuở nọ; ở đây, chàng chẳng gặp
Tây Hành, chẳng gặp đức Quan Âm đại sĩ mà chỉ thấy một bức tranh của Okyo
Maruyana tạc hình đức Phổ Hiền hóa thân làm kỹ nữ; người kỹ nữ này vì muốn bảo
trọng danh dự cho Tây Hành nên đã từ chối một đêm huyễn mộng của gã thi tăng
lãng đãng này. Cuộc ứng đối năm xưa lại trở về với chàng. Rồi đột nhiên, bức
tranh biến mất. Và nhà sư này nghe tiếng vọng tự lưng chừng trời, ngước lên thì
thấy giữa hư không hiện ra một đường kinh hành bằng ngọc, nằm vắt ngang như một
dòng sông thủy ngân. Và bóng một người phụ nữ lướt nhanh, từng đóa hoa trắng nối
dài sau gót chân như những đốm sao. Tiếng nhạc bay bổng. Bây giờ thì đức Phổ Hiền
đang ngự trên con voi trắng có những tiên nữ tùy tùng biến mất giữa đám mây
lành rực rỡ...
Lên Non
Lên Non
Trên con đường mòn nhỏ dẫn vào khu rừng u tịch, khi ấy vào
khoảng giờ Thân, một kiếm khách giang hồ đang lê từng bước chân khập khiễng ra
vẻ không còn hơi sức. Trong ánh chiều tà, y cúi gập tới đằng trước, bóng đổ dài
theo vệ đường; tay trái chống lên đầu gối trái, tay phải quài ra sau nắm chặt đốc
kiếm; cứ thế, y tiến lên, chậm rãi, mệt mề...
Đến chân dốc đứng cheo leo cạnh chiếc cầu gỗ mục, y dừng lại
thở một hơi dài...
Đấy là một thanh niên cường tráng, vận chiếc lam y đã thủng
rách nhiều chỗ, đầu quấn chiếc khăn xanh lấm len những vệt máu đã khô cứng.
Trên khuôn mặt sạm đen phong trần, thanh tú, những vệt sây sứt do đao kiếm còn
hằn những nét chỉ đỏ, chợt ứa ra những giọt lệ nóng hổi. Y khóc. Y khóc mà đôi
mắt đen tròn đầy đặn không hề động đậy. Từng giọt, từng giọt như được rỉ ra từ
hai kẻ hở của một sườn núi yên lặng, bò qua má, xuống cằm, từ từ qua cổ rồi len
thấm vào vuông áo vải. Tay phải của thanh niên vẫn không rời đốc kiếm, y chậm
rãi quay lại rồi đứng bất động, đăm đăm nhìn vào phương trời mù mịt dưới xa -
nơi y đã đi qua - bây giờ chỉ còn bàng bạc trong màu khói lam nhạt của chiều
hôm.
Một cánh chim rừng từ tàng cây sanh phủ dày bên bờ suối kêu
chiêm chiếp rồi tung mình khuất sau rặng cây xanh. Cảnh núi rừng trong buổi xế
tà tịch mịch lạ.
Chợt có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại. Một chốc, từ cuối con
đường dốc thoải, bóng con tuấn mã hiện ra, càng lúc càng rõ nét. Trên lưng ngụa,
một cô gái chừng hơn hai mươi tuổi, ngang lưng đeo một thanh trường kiếm, dung
mạo chim sa cá lặn. Người chưa đến mà tiếng nói đã vang vang cả một triền thung
lũng:
- Sư ca ơi.. Sư ca! Sao sư ca đành đoạn bỏ tiểu muội mà đi!
Sư ca ơi... sư ca!
Bóng ngựa lướt nhanh cuốn theo vó một luồng bụi đỏ. Thoáng thấy
thanh niên, cô gái buông lỏng dây cương, trong mắt thoáng hiện nỗi vui mừng.
Nàng nhảy xuống ngựa, nụ cười tươi như hoa:
- Sư ca! Sao sư ca nhìn sững tiểu muội như thế? Sao sư ca bỏ
đi mà không nói với tiểu muội một lời?
Thanh niên chẳng có một xúc cảm nào từ khi cô gái xuất hiện.
Những hạt lệ đã khô nhưng tròng đen vẫn giữ nguyên vị trí không hề lay động. Một
chiếc lá vàng nhỏ rơi xuống, chao lượn mấy vòng giữa không gian rồi bám hờ trên
vai áo, cũng yên lặng.
Cô gái quấn cương qua đầu con ngựa bạch, vuốt lại chiếc khăn
hồng, sửa lại đốc kiếm rồi khoa đôi hài nhung đỏ bước lại gần.
- Tiểu muội đã ruổi ngựa mấy chục dặm đường mới theo kịp sư
ca. Lạy trời run rủi, chứ sư ca rồi như chim rừng hạc nội biết đâu mà tìm!
Cô gái đứng dừng lại cách thanh niên khoảng vài trượng.
- À! Sư ca bị thương ư?
Nàng chợt như hốt hoảng rồi tiếp:
- Ai? Ai có thể làm cho sư ca bị thương? Tên đại ma đầu nào
đã dùng độc kế ám toán sư ca?
Thanh niên không trả lời, tay phải của y vẫn còn trong tư thế
quài ra phía sau nắm chặt đốc kiếm.
- Rẹt...!
Một làn sáng xanh nháng lên, cô gái đã rút kiếm ra khỏi vỏ,
đôi mắt long lanh, miệng mỉm nụ cười dịu dàng:
- Sư ca ơi! Giang hồ từ các mạn sông Hoài, sông Trường, cho
chí Yên Kinh, Trường An, Giang Nam thường đồn đãi rằng: Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng
Triều chưa một lần đào thoát dù một phần sống, ngàn phần chết. Thế thì hôm nay
phải có sự bí mật nào nên sư ca mới bỏ chạy?
Thanh niên nhúc nhích tia mắt, bình thản nhìn qua hướng cô
gái, mấp máy môi trả lời:
- Ta không chạy. Ta đi!
Cô gái quay thanh kiếm một vòng trên không, những ngón tay trắng
hồng như búp sen khẽ nắm đầu mũi kiếm, cười nói:
- Ồ! Thế thì tiếng đồn quả đã không ngoa! Sư ca ạ, sư ca đi,
nghĩa là sư ca đã đơn thân đại thắng quần hồ?
Cô gái dùng ngón tay trỏ búng mũi kiếm lên cao, thân kiếm lượn
nửa vòng hình bán nguyệt, đốc kiếm rơi nhẹ nhàng vào bàn tay phải của nàng.
- Sư ca bị thương khắp người như thế thật là đau lòng tiểu muội
lắm! Vô lẽ sư ca lại bại?
- Ta không bại!
Cô gái tròn xoe đôi mắt:
- Ồ! Có kỳ lạ không chứ? Giang hồ cũng thường đồn đãi rằng:
Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng Triều là một kiếm khách của Phật môn, y không bao giờ
nói dối!
Thanh niên vẫn đáp hờ hững:
- Phải mà. Ta không hề nói dối!
Cô gái đôi mắt long lên, chiếc hài nhung đỏ bên phải chợt
nhích tới, bước qua trái nửa bộ, tay trái quàng ra sau, tay phải đưa mũi kiếm
chênh chếch lên trời.
- Sư ca ơi! Điều này tiểu muội cũng có nghe đồn, nhưng hôm
nay mới được mục kích tận tường. Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng Triều thường dùng bất
biến mà ứng với vạn biến; tay phải y luôn hờm sẵn đốc kiếm, tư thế dung mạo dường
như buông thả hững hờ mà nội khí thường huân tụ cụ túc ở thượng phần đơn điền;
bao giờ y cũng là kẻ xuất chiêu sau mà chiếm thượng phong.
- Phải rồi!!
- Bởi vậy tiểu muội cũng ngại lắm nên thủ bộ trước.
- Thế là phải. Từ lúc hạ sơn đến nay, ta chưa một lần chiếm
tiên cơ của thiên hạ. Còn điều này nữa, ta tuyệt đối không ra chiêu đối với sáu
hạng người.
- Ồ! Vậy ư? Điều đó thì tiểu muội chưa nghe được rõ ràng, phải
tự miệng sư ca nói ra tiểu muội mới tin được.
- Thứ nhất là sa-môn và ni cô; thứ hai là lão phu lão phụ; thứ
ba là kẻ tật nguyền; thứ tư là đàn bà mang thai; thứ năm là trai gái vị thành
niên; thứ sáu là kẻ đã ngã ngựa...
- Ồ! Thật là bậc đại nhân đại dũng! Tây Sơn Cuồng Khách Mạc
Chấn Vi, Nam Nhạc Túy Tiên Lãng Thụy Ông mà còn phải hạ kiếm nếu nơi nào có sự
xuất hiện của Không kiếm Trấn ma thay; huống hồ gì tiểu muội chỉ là một yêu nữ
hồng quần tiểu tốt vô danh! Xin sư ca dong thứ.
- Khỏi. Ngươi cứ xuất chiêu đi!
- Sao sư ca lại nói thế? Tấm lòng của tiểu muội đối với sư ca
thế nào thì sư ca đã biết. Tiểu muội nào dám xuất chiêu với sư ca. Tiểu muội chỉ
đề phòng những khi sư ca hắt hủi tiểu muội mà ra đòn thẳng tay bất ngờ đấy
thôi. Sư ca ơi! Sư ca tệ bạc với tiểu muội lắm, sư ca biết không?
Thanh niên im lặng.
Cô gái giọng nói càng lúc càng thê lương:
- Sư ca bị thương, tiểu muội thấy mình như đoạn từng khúc ruột,
những muốn kề bên để han hỏi, lương liệu thuốc thang mà sư ca cứ mặt lạnh như
tiền, quả tim thì trơ trơ như đá. Vậy lỡ sư ca có mệnh hệ nào thì tiểu muội
đành ôm hận mà về chín suối thôi.
- Phải rồi! Ta bị cả hàng chục vết thương, giờ không còn một
chút khí lực nào. Ngươi có muốn giết ta thì ra tay đi, vĩnh viễn ta chẳng đem
lòng oán hận. Ngươi nói nhiều quá!
- Thế ư? Tiểu muội cảm nghe trong hơi thở và giọng nói của sư
ca có vẻ như là “trung khí bất túc”. Điều này chứng tỏ sư ca bị cả nội lẫn ngoại
thương, nhưng tại sao sư ca vẫn hờm sẵn đốc kiếm như vậy?
Thanh niên cười rộ:
- Ồ! Ta có cố ý thủ kiếm đâu.
Cô gái có vẻ tức tối:
- Thế thì tay ai quài ra sau đốc kiếm như thế?
- Tay ta chứ ai!
Cô gái hét lên:
- Trước mắt tiểu muội mà sư ca còn nói dối đến mặt dạn mày
dày thế ư?
Thanh niên chợt hú lên một tiếng dài, khu rừng vang động
không ngớt; những cánh chim chiều từ trong các lùm cây tán loạn bay lượn tứ
tung; chung quanh đấy khoảng vài trượng, lá cây rụng rã ào ào như bị một cơn lốc
bão.
- Hồng Diện Nương! Hồng Phấn La Sát! Đỗ Đồng Triều này dù sao
cũng là kẻ nam nhi trên đời, một lời nói ra xem nặng bằng non, còn tin hay
không tin đó là quyền của ngươi. Tiếng sư tử hống vừa rồi là kết tụ của tất cả
chân khí còn lại. Ngươi hạ thủ đi thôi!
Thấy thanh niên đã bị thương trầm trọng mà còn thần oai lẫm lẫm
như thế, cô gái không rét mà run. Khi thanh niên cất tiếng hú thì cô gái đã
hoành thân nhảy vọt ra xa, bây giờ đã trở lại.
- Tay sư ca rõ ràng đang thủ hờ đốc kiếm mà sư ca cứ bảo rằng
không. Tiểu muội chẳng dám trách ai mà chỉ tủi phận mình đã chọn lầm thần tượng.
Thôi, từ rày tiểu muội chẳng dám quấy rầy bậc quân tử nữa! Giang hồ mênh mông ắt
hẳn còn có ngày tái ngộ...
Cô gái nói xong, hạ thanh kiếm xuống, cúi đầu theo tư thế
“liên hoa nghinh Phật”, kiếu từ...
Thanh niên đôi mắt sáng rực như điện rồi buông rủ xuống, lờ đờ,
nói lớn:
- La sát yêu hoa tiễn! Hay lắm!
Thanh niên nói chưa dứt thì ba mũi ám tiễn từ phía cô gái đã
bay đến trước mặt nhanh như luồng sao xẹt, hướng đến các trọng huyệt ở cổ và ở
tay - những mũi tên đằng chuôi có đính những bông sen nhỏ bằng lụa không ngớt
rung rinh.
Cô gái phóng ám khí xong, nhún mình một cái, người đã lạng ra
xa, đứng vừa vặn trên một tảng đá cao.
- Sư ca ơi! Tiểu muội cung kính dùng thế “liên hoa nghinh Phật”
để dâng tặng sư ca ba đóa hồng liên, chứng tỏ tiểu muội thương kính sư ca như
thần như Phật, sao sư ca không hoan hỷ đưa tay đón nhận mà lại bỡn cợt dùng nội
lực hút dính vào người như thế? Sư ca coi thường tiểu muội như thế thì thôi!
Khuôn mặt thanh niên thoáng chốc biến đổi, nhưng y đã gượng lấy
sắc bình thường rồi nói:
- La sát yêu hoa tiễn chỉ một vài khắc là độc tố lan khắp cơ
thể, chạy đến tim thì dù Biển Thước, Hoa Đà cũng không còn cơ cứu vãn. Hồng Phấn
nương tử! Ta tuyệt đối không thù hằn gì ngươi cả, nhưng trước khi chết, ít nhất
ngươi cũng cho ta hiểu rõ ngọn nguồn, tại sao ngươi lại oán độc đối với ta lắm
vậy?
- Sư ca nói thế thì thôi! Tiểu muội đem lòng thương tưởng sư
ca đã không hết thì có đâu lại để dạ oán ghét sư ca? Tiểu muội trộm nghĩ rằng,
sư ca là một kỳ nam tử, là một đóa hoa ưu tú trong võ lâm, nếu không giữ sư ca
cho riêng mình thì làm sao một nữ ma đầu như tiểu muội lại tranh đoạt nổi với
giang hồ, với những hạng thuyền quyên thục nữ trong đời?
- Vì vậy nên ngươi giết ta?
- Tiểu muội không giết. Tiểu muội không hề giết sư ca. Giết
sư ca thì tiểu muội làm sao còn sống được?
Thanh niên mỉm cười dịu dàng:
- Ngươi không giết ta thật, mà ngươi chỉ phóng ba mũi tên kỳ
độc vào cái thân “ngũ ấm vốn không” này thôi!
- Không phải mà! Sư ca nhạo tiểu muội làm chi!
- Ngươi làm việc ác đức, ta ngăn. Ngươi vì tình ái hoang dâm
mà giết người vô cớ, ta cấm. Bao giờ ta cũng nhún nhường, nhã nhặn tìm cách dẫn
ngươi về với lương tâm, về với con đường phải. Trong quãng đời hành hiệp, ta
chưa một lần vô lễ với ngươi? Ở Trường An năm xưa, đã hai lần ta cứu ngươi
thoát khỏi bàn tay dâm đầu của Đại Diệu Thủ Phong Tình Khách. Và không dưới bảy
lần ta đưa ngươi ra khỏi sự vây bủa của Đông Hải Triêu Dương Bang. Đã biết bao
nhiêu lần ngươi gài bẫy ta phạm những giới cấm của sư môn, dẫu thế, ta chẳng
phiền trách gì ngươi mà chỉ tìm cách dẫn ngươi về với chánh đạo...
Nghỉ một chút dường như để lấy lại khí lực, thanh niên tiếp:
- Thế đấy! Hồng Phấn nương tử ơi! Dẫu ở gần hay xa, dẫu ngươi
tội lỗi nhiều hay ít, ta chưa bao giờ dám khinh ngươi. Trong ta, không có oán
ghét và thù hận... Thế mà... bây giờ ngươi lại giết ta.
Thanh niên nói một thôi dài, người y cúi gập xuống. Thiếu nữ
òa khóc.
- Sư ca ôi! Tiểu muội không giết, tiểu muội yêu sư ca còn hơn
là mạng sống của mình nữa!
Thanh niên thở ra, khuôn mặt ngả màu tím đen, đôi mắt lờ đờ,
miệng lẩm nhẩm:
- Phàm kẻ xuống núi hành đạo, trước tiên là phải có kiếm, có
ma. Thầy đặt Pháp danh cho con là “Không kiếm Trấn ma”, có phải là để cho con
ngộ được điều này: Kiếm tuy có mà cũng dường như không, dùng tâm mà
vệ đạo giáng ma chứ không phải dùng kiếm mà vệ đạo giáng ma! Kiếm ấy chỉ là
phương tiện hạ thừa. Bao nhiêu năm qua, kiếm này đã coi như không, mà ma kia vẫn
còn đó... Thế thì... Thế thì... Ta đã “Không kiếm Trấn ma chưa?”
Một cơn gió núi lạnh lẽo lùa qua, thanh niên đôi chân run run
lảo đảo, nhưng y cố trấn tỉnh gượng đứng lại... Chợt trong tiếng gió, y nghe rõ
mồn một giọng nói khàn khàn, già nua:
- Không kiếm Trấn ma con! Không kiếm Trấn ma chỉ mới là giai
đoạn đầu tiên của một hành giả kiếm đạo. Cuối giai đoạn ấy, con phải thật sự thấy
rõ “kiếm đã không rồi mà ma kia cũng không!”
Thanh niên chợt ngửa mặt nói lớn giữa hư không:
- Thầy ơi! Gần một năm nay con đã không hề trả chiêu. Có kiếm
mà cũng dường như không, có ma mà cũng dường như không, vậy thì có phải...
- Thế thì ta sẽ cho con lên non. Lên non để con có cơ hội thể
nghiệm cái chặng đường cuối cùng của một hành giả kiếm đạo: người cũng không!
Thanh niên chợt mỉm cười, vừa nói vừa đổ ập chiếc thân về
phía trước:
- Hay quá! Thầy ơi! Con đã được lên non. Hay quá! Thầy ơi! Kiếm
không, Ma không, mà Người cũng không!
Thiếu nữ chạy nhanh lại, nhổ mạnh mũi ám tiễn ở ngực và cổ.
Khi đưa tay ra định nhổ mũi tên ở cánh tay cầm đốc kiếm, nàng sững lại: cánh
tay thanh niên đã bị ai chém gãy rồi họ cột chặt vào đốc kiếm bằng sợi gân tê
ngưu.
- Ồ! Y đã không nói dối!
Cô gái òa khóc, rồi chợt hớt hải lần tìm phương thuốc chữa
thương. Núi rừng hoàng hôn đang đi vào sẫm tối.
Ma Không Đầu
Ở tại Phong Trần huyện, Nam Bình thôn, có anh học trò nghèo họ
Trương tên Tam, học giỏi mà lận đận lao đao về đường khoa cử.
Trương sinh có người bạn đồng khoa thương yêu nhau như ruột
thịt. Người ấy họ Lý tên Tứ, học không giỏi nhưng gặp thời. Niên hiệu Minh Mạng
thứ ba, nhờ tài chạy chọt khôn khéo nên Lý đã được thăng tri phủ trấn nhậm Nghệ
An, còn Trương thì vẫn cái điều ta đây là:
“Tay trắng vẫn cứ nòi quân tử
Khăn điều nào đáng mặt phong lưu!
Mọi người khuyên Trương nên bỏ kinh sử để theo đường doanh
nghiệp thì Trương cười to mà đáp rằng:
- Cổ nhân có biết bao kẻ vác lều vác chõng mấy chục năm ròng
rã mà chưa qua khỏi cái tam trường? Có biết bao nhiêu kẻ “thập niên đăng hỏa”
mà biết chắc là sẽ đắc chí công hầu khanh tướng? Do lai, tất cả đều không vì chữ
thời và chữ mệnh đó ru? Trương mỗ này, xuân thu mới bốn chục, còn hơn cái lão Bạch
Lý Hề kia, thì lo gì bước hoạn đồ không ngựa xe áo mão, đem sức tài mà thi thố
Hàn, Lương? (Hàn Tín, Trương Lương)
Thấy Trương tuy ngông nghênh nhưng văn hay chữ tốt, lại có
chí lớn nên mọi người không lấy đó làm chuyện tiếu đàm.
Cha mẹ Trương mất sớm, anh em không có, chàng lại không nghĩ
đến chuyện thê tử nên đời sống cũng tương đối thảnh thơi. Ngoài những khi phải
hái rau kiếm củi độ nhật, chàng thường được tự do mai Tần, tối Sở; cũng biết
hát khúc Nghê, thả cần câu sông Vị (Khương Tử Nha câu cá ở sông Vị để đợi thời),
thỉnh thoảng cũng biết ôm trăng mà ca bài “Tương tiếu tửu” với họ Lý, ngâm vịnh
với chàng Tô, thả neo Tây Hồ với họ Phạm... Nói vậy chứ trừ những khi có sự trợ
cấp tiền bạc của họ Lý kia, đa phần họ Trương phải tự lực hoăc dựa lưng nằm dài
nơi “Cô hồn am” để nhờ miếng cơm manh áo của ông thủ từ già họ Phùng tốt bụng.
Tuy thế, Trương sinh cũng biết dành dụm, nhất là trước ngày lều
chõng. Cánh hạc kia tuy sông hồ quanh năm suốt tháng, vong cội quên nguồn,
nhưng nó cũng biết lúc nào nên đậu lại! Mà nơi đậu lại chính là ở “Cô hồn am” -
một cái am lạnh lẽo điêu tàn về phía tây Nam Bình thôn, một nơi nổi tiếng là
“ma gào quỷ thét”, nổi tiếng là có những “oan hồn uổng tử” thường lãng vãng, ẩn
ẩn, hiện hiện, kêu khóc nỉ non. Ai hỏi Trương tại sao lại không sợ, Trương đáp:
- Ma quỷ cũng là người nhưng họ sống ở thế giới khác đó thôi.
Phùng ở được sao Trương mỗ lại không ở được? Phùng hương khói hoa quả sớm hôm
là lo phần “xác” cho họ. Còn Trương mỗ đọc kinh, đọc sử, dẫn những bài học của
cổ nhân, những lời dạy của thánh hiền là lo phần “hồn” cho họ. Ma quỷ chắc phải
cám ơn không hết, có đâu lại làm cho Trương mỗ sợ hãi phải bỏ đi!
Nhiều người mỉm cười khi nghe Trương nói thế, tưởng là lý luận
của anh đồ gàn, nhưng sự thật hầu như chứng minh điều đó. Những người đi làm gỗ,
làm mây, làm củi từ phía tây thôn, khuya sớm có dịp băng qua nghĩa địa đến Cô hồn
am, thì chỉ thấy đèn chong rạng và giọng ngâm thơ bình phú hoặc đọc kinh đọc sử
sang sảng của họ Trương, chẳng thấy ma quỷ kêu gào ở đâu hết.
Từ đó, Cô hồn am không còn là nơi đáng sợ cho dân Nam Bình
thôn nữa.
Niên hiệu Minh Mạng thứ năm, từ miệt Thanh Hóa trở vô cho đến
Thừa Thiên, hạn hán, mất mùa, đói kém, cướp làng, cướp chợ, cướp đường nổi lên
khắp nơi. Tri phủ họ Lý bị giặc chặt đầu phanh thây, nghe nói là vì cai trị hà
khắc và bòn rút của dân. Phong Trần huyện lại bị thêm cái lụt vào cuối mùa thu
nên tình cảnh màn trời chiếu đất, tang tóc thê lương kể sao cho xiết? Ở Nam
Bình thôn, người ta tranh giành cướp giật nhau cả từng nắm cỏ xanh. Ông thủ từ
già họ Phùng không chịu nổi cơ hàn đã run lẩy bẩy, sùi bọt mép từ giã cõi đời
vào một đêm mưa gió. Trương sinh bây giờ chỉ còn cô quạnh một mình nơi Cô hồn
am với cái xác xanh xao, chống gậy lom khom vào ra, lê tấm thân tàn đợi tử thần
đến gõ cửa. Manh chiếu cũ còn lại, Trương sinh bó xác người thủ từ già không đủ
kín, vẫn còn thừa hai cái chân trắng bệch thò ra bên ngoài. “Bát cơm phiếu mẫu”(Tích
Hàn Tín nhớ ơn người cho bát cơm lúc hàn vi.), “tình nghĩa Lưu Dương”(Tích Lưu
Bình, Dương Lễ.), Trương sinh cũng biết lắm, nhưng vốn nhấc chân lên đã run rẩy
thì làm sao đào được một cái lỗ để vùi lấp đi bộ xương còm?
Đã một ngày và một đêm rồi mà Trương sinh còn nằm đó. Mấy củ
chuối cuối cùng sau góc am cũng đã chia hết cho nhau từ tuần nay. Trương sinh
nhớ là mình đã không có gì ăn từ lâu lắm. Khi đưa tay sờ lưng thì đụng bụng,
khi đưa tay sờ bụng thì đụng lưng! Râu, tóc, lông tay, lông chân rã ra từng
đám, từng nắm! Trời trở lạnh đến đóng băng, mưa gió lại lợi dụng cái cảnh thê
lương này để gào thét ghê rợn. Trương sinh nằm mơ mơ màng màng mà không biết
mình đang ở cõi nào, sống hay chết; nhịp đập của tim và hơi thở bấy giờ hầu như
là của ai khác, Trương nghe mong manh và xa lạ quá đỗi.
- Ào...ào... ào... rắc... răn... rắc...
Cô hồn am như muốn bị cơn gió trốc đi, ngửa nghiêng như chiếc
tiểu thuyền giữa cơn đại lãng. Mưa ào ào như trút, mấy tấm tranh ở nóc bị bắn
thốc đi, nước tràn vào lai láng.
Khoảng canh hai, trời lạnh. Trương sinh tự dưng chống tay lồm
cồm bò dậy, người ướt như chuột lột. Ngọn đèn dầu lạc nơi góc am, được đậy bằng
vỏ chai vỡ không biết phép lực kỳ dị nào mà không chịu tắt, lập lòe ánh sáng
xanh lè. Đôi chân của tử thi thò ra khỏi chiếc chiếu hình như dài hơn và xanh
hơn, dường như có gợn lân tinh và nhúc nhích nữa! Trương sinh nổi da gà toàn
thân và một luồng khí lạnh từ đâu chạy dọc suốt xương sống.
- Sống khôn thác thiêng, xin vong hồn tiên sinh chứng giám
cho. Trương sinh lâm râm khấn thầm trong miệng - Trương mỗ vì đói quá nên chưa
lo được nhang khói mộ phần cho tiên sinh đó thôi, chứ không phải Trương mỗ là kẻ
bạc tình bạc nghĩa đâu. Đừng nhát sợ Trương mỗ nữa.
Đôi chân của Phùng lão hình như đã nằm yên lặng như cũ.
Trương sinh yên trí lò dò dựa vào mép bàn lần tay bưng ngọn đèn dầu lạc khơi
tim lên. Khi quay lại thì trước mặt mình có một người cụt đầu đứng đó tự bao giờ!
- Đừng sợ. Đừng sợ. Trương huynh đừng sợ. Mạng Trương huynh lớn
lắm, “vía” này không làm gì được Trương huynh đâu. Đệ là Lý tri phủ đây! Âm
dương dẫu cách nhưng tình chiếu văn, nghĩa kim bằng không vì vậy mà xa nhau.
Trương sinh gượng đứng dậy, mắt thì chăm chăm nhìn người cụt
đầu, chân thì lần lần xê vào xó vách. Chẳng biết giọng nói phát xuất từ đâu
nhưng vang vang lạnh lẽo như tự dưới mồ sâu.
- Hà, hà! Nhớ ngày nào ta bình văn luận phú, tri âm tuy không
dám ví với Tử, Bá (Bá Nha, Tử Ky) nhưng biết nhau nào há thẹn với Di, Tề (Bá
Di, Thúc Tề.)? Lần đệ đi trấn nhậm Nghệ An, Trương huynh trở về Nam Bình thôn,
đệ cũng đã cả gan xuống ngựa, uống một chén rượu mà ngâm bài “Tống biệt” của họ
Vương:
“Hạ mã ẩm quân tửu
Vấn quân hà sở chi
Quân ngôn bất đắc ý
Quy ngọa Nam sơn thùy
Đản khứ, mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì...”
Trương huynh ơi, Trương huynh! Tuy Trương huynh không “bất đắc
ý” nhưng cũng “quy ngọa Nam Bình thùy” và “tình ta như mây trắng, còn mãi đến
muôn đời”. Trương huynh ơi! Trương huynh còn nhớ không chứ?
Nghe nhắc đến chuyện cũ, Trương sinh mới biết chắc đây là Lý
tri phủ, người bạn cố tri đã giúp đỡ chàng qua rất nhiều cơn túng bấn, và cũng
nhờ y mà Trương có được những ngày tháng phong lưu để chèo thuyền thăm Tây Tử,
lên núi viếng Vu Nghi. Cảm động quá, Trương chạy đến, nhưng bỗng sựng lại sững
sờ vì kia là cái xác không đầu, một cái bụng to lớn phình ra phía trước, tay
chân gầy ốm tong teo như bốn que tăm găm vào một củ khoai lang!
Lâu lắm, khi đã định thần, Trương lắp bắp hỏi:
- Lý... Lý tri phủ đó ư?
Chợt có tiếng cười vô cùng lạnh lẽo rồi đáp:
- Lý tri phủ hay Lý âm phủ cũng một Lý đó thôi! Lý âm Lý
dương hình thù dẫu khác nhưng cũng cùng chung một mệnh phận đoạn trường bi ai
thống khổ như nhau. Trương huynh ơi! Đệ đau khổ lắm, Trương huynh ơi!
Tiếng nói chợt như bị cái gì chặn lại, rồi như nức nở. Và cái
xác không đầu trước mặt Trương sinh chợt run lên bần bật; cái bụng thóp vô thóp
ra liên hồi, hai tay không ngớt thọc vào bụng, vào lưng, vào ngực...
- Lý... Lý đệ làm gì thế? Lý tri phủ sao lại tự hành hạ mình
như thế?
Ma không đầu sau một hồi lăn xuống đất ôm bụng rên la, đã đứng
lên, kéo ghế chững chạc ngồi. Trương sinh cũng đã hết sợ, mạnh dạn ngồi vào ghế
bên kia.
-“Vay trả, trả vay, nhân quả báo ứng”, ấy là luật trời chứ ai
nào hại được ai? “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng,
thưa mà chẳng lọt). Quả vậy, không thể nào lọt được! Quay đầu là thấy bến. Thế
mà... thế mà..
Trương sinh lắp bắp:
- Lý tri phủ không có... không có... cái đầu thì làm sao...
quay? Quay làm sao?
Tiếng cười lại âm u lạnh lẽo:
- Trương huynh giờ mà còn khôi hài với đệ đấy ư? Rồi Trương
huynh cũng thế, cả cái trần gian này nữa, coi chừng đều bị làm ma không đầu hết
cả đấy; rồi chẳng còn cái đầu nào mà quay về nữa đâu!
Trương sinh cho đến bây giờ cũng còn chưa để ý đến nội dung ý
tứ câu chuyện, mà cứ tò mò quan sát không biết cái mũi ở đâu, cái miệng ở đâu?
Khi ma nói, Trương thấy cái bụng có nhúc nhích, khi mà cười thì cái bụng có giật
giật. Quả là quái dị! Biết bao câu hỏi cử lẩn quẩn trong đầu Trương.
Bây giờ thì Trương đã hết đói, hết lạnh và hết sợ.
- Cái mũi, cái miệng của Lý tri phủ ở đâu?
- Ở trong này - Ma vỗ bụng đáp - cả cái đầu nữa, cũng ở trong
này tuốt. Nhân gieo thì quả trổ. Quả thành thì nhân hoại. Đấy là thường lý mà
Trương huynh không biết ư?
Trương sinh ngẩn ngơ đáp:
- Chứ không phải Lý tri phủ bị...?
- Bọn cướp chặt đầu? Phải mà không! Không mà phải! Ma lắc đầu
- chặt đầu là một chuyện, mất đầu hay không đầu lại là chuyện khác. Chặt đầu
thì có hạn, nhưng ma không đầu thì... hà... hà có hằng muôn ức triệu trên thế gian.
Trương huynh coi đây...
Chợt nhiên ma đứng dậy cất tiếng hú rợn người, tiếng hú quả
là quỷ khốc thần sầu. Chưa đầy nháy mắt, bên ngoài như có hằng thiên binh vạn
mã chạy rầm rập, tiếng tru tréo đến dựng tóc gáy. Rồi thì ma không đầu đứng dày
đặc cả một nghĩa địa, lố nhố đến tận chân trời.
Trương sinh mắt mở trừng, cơ thể như một tảng đá lạnh. Ma
không đầu lại mất tăm sau một cái nháy mắt.
- Đệ là chủ súy của bọn chúng. Vì tuy cũng là ma không đầu
nhưng đệ còn có một chút lương tri, biết phân biệt điều phải và điều không phải.
Còn bọn kia thì hoàn toàn mất hẳn lương tri, suốt đời, chúng chỉ sống bằng bụng
thôi!
- Làm vua cũng lo cho cái bụng, làm quan cũng lo cho cái bụng,
làm lính cũng lo cho cái bụng, làm dân cũng lo cho cái bụng; đọc kinh, đọc truyện,
đọc sử, thập niên đăng hỏa cũng lo cho cái bụng; bóp óc nặn trán, lên non xuống
núi rồi cũng lo cho cái bụng... Cái bụng! Cái bụng! Cái bụng trở thành mục đích
cho kẻ tang bồng hồ thỉ; mục đích cho bọn hồng quần khăn lược; mục đích cho
sa-môn, đạo sĩ; mục đích cho ý chí, ước mơ và tham vọng... Thế đó, Trương huynh
ơi! Thế thì làm sao cái đầu nó không tiêu hoại cho được khi mọi cứu cánh của
con người đều đổ xô về cái bụng? Cái đầu nghiên cứu, học hành, nghĩ suy, mưu kế,
mưu lược... là “nhân”, cái bụng thành là “quả”. Quả thành thì nhân hoại. Mầm
thành cây thì hạt không còn. Cho nên, làm ma không đầu là một kết quả tất nhiên
vậy.
Bất giác, Trương đưa tay sờ lên đầu mình. May mắn sao, đầu của
Trương sinh vẫn còn! Chàng sợ mình mất đầu là phải, vì mấy chục năm nay, dẫu
chàng có bảo mình quân tử, phong lưu, học hạnh thánh hiền chăng nữa, thì chàng
cũng chưa nhìn xa hơn cái bụng, nếu như không muốn nói, hầu như mọi nỗ lực của
chàng đều đổ xô về đó: cái bụng!
Trương đưa tay xoa bụng thì chàng cảm thấy an tâm. Sờ bụng
thì chàng đụng lưng! Ở nơi cái bụng của chàng chưa có cái gì cả nên cái đầu
chưa thể tiêu hoại được. Trương nghe mình thở phào khoan khoái.
Bỗng nhiên trời lại nổi gió. Gió rít lên từng hồi ghê rợn ngoài
rừng thông, rừng liễu, ào ào chạy qua nghĩa địa, va đập vào liếp cửa những tiếng
động kinh hồn. Ma không đầu chợt ôm bụng lăn xuống đất, quằn quại rên la, giọng
nói của y lại dồn dập, áo não:
- Mau đi! Hãy bỏ tất cả đi. Cả thế gian này. Đừng dùng cái đầu
mà lo cho cái bụng nữa. Trương huynh ơi! Hãy bỏ đi, bỏ gấp đi! Khổ lắm, khổ
không chịu nổi đâu!
Trương nắm chặt mép bàn cố giữ cho người khỏi ngã, trong lúc
Lý có vẻ thống khổ lắm, y lồ cồm bò dậy rồi chuệnh choạng chạy ra ngoài khung cửa.
- Vĩnh biệt Trương huynh! Chớ quên. Chớ quên. Chỉ có ai giữ
cho “cái đầu bằng cái bụng, cái bụng bằng cái đầu” thì Diêm Vương mới phê cho
ba chữ “khả vi nhân” (Có thể làm người.). Bụng bằng đầu, đầu bằng bụng là “khả
vi nhân”. Nhớ lấy. Nhớ lấy. Khổ lắm. Khổ không chịu nổi đâu...!
Tiếng nói càng lúc càng não nùng thê lương, càng lúc càng
chân tình, chí thiết. Và khi ấy, hình bóng ma không đầu cũng xa dần... mờ dần
trong bóng đêm của nghĩa địa.
Bên ngoài mưa gió vẫn cứ rít gào như cả hàng trăm ngàn ma
không đầu vẫn cứ rít gào muôn đời giữa cõi hư vô lồng lộng.
Từ đấy, nơi Cô hồn am, Nam Bình thôn, người ta không còn thấy
bóng dáng chàng thư sinh họ Trương nữa. Chàng đi đâu không hề ai hay biết.
Mùa xuân niên hiệu Minh Mạng thứ sáu, một nhà sư du phương đi
qua Cô hồn am chợt phát giác một tử thi đã mục rữa và tập ký tự Trương Tam, ghi
lại chuyện trên và phía dưới đề bốn chữ: “Lưu hậu ích thế”.
Chiếc áo cũ
Câu chuyện được kể lại từ thời Phật giáo Thiền tông hưng thịnh,
tức là thời đại Kiếm Thương (Kamukara), trong khoảng thế kỷ XII và XIII ở Nhật
Bản.
Khi Ô-chu từ giã tông phái Nhật Liên của Nhật Liên thượng
nhân (Nichiren Shonin), thì mái tóc đã điểm hoa râm, chàng quay lưng ngọn núi
Phú Sĩ bạc đầu, xuyên qua mấy rừng hoa anh đào để đi vào miền xuôi.
Vai với bọc hành lý đơn giản, đầu chiếc nón rộng vành che kín
khuôn mặt, từng bước một chậm rãi như chúa lạc đà, chàng đi mấy ngày đêm ròng
rã, chỉ dành đôi chút nghỉ ngơi.
- Kia rồi!
Chàng ngước mặt lên khẽ thốt. Chiếc cổng trúc vàng và hai bụi
thục quỳ nổi hoa tím đã hiện ra. Đằng sau lối sỏi trắng điểm hoa cỏ li ti có
bóng người gầy cao chống trượng đứng.
Chàng quỳ gộp hai đầu gối xuống trong tư thế của một môn sinh
thiền gia:
- Bạch Thầy, giọng chàng xoắn xít, nôn nao biểu lộ một cảm
xúc tuôn trào - thầy vẫn còn mạnh.
Người gầy cao chống trượng đứng, không quay lại. Một đám mây
bạc ửng màu lưu hoàng trôi qua đầu cây tuyết tùng. Buổi sáng có những tia nắng ấm
và có mưa nhẹ lay bay...
- Anh lại bỏ áo? Anh đến chào tôi rồi hẳn làm một cuộc ra đi
mới hả Ô-chu?
Giọng người gầy cao chống trượng đứng, nói trầm ấm và không
biểu lộ một tình cảm nào.
- Đã bỏ áo? Dạ bạch thầy, không, con không bỏ áo. Không bao
giờ.
Người gầy cao chống trượng đứng, đột ngột quay lại, cúi xuống
hom hem nhìn chàng. Ký ức của lão thiền sư trở về...
Người gầy cao chính là thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) năm đó đã
83 tuổi. Và kia là vị đệ tử trưởng của lão thiền sư, pháp danh Ô-chu (Oju
Shonin) cách ba mươi năm về trước. Ngài còn nhớ rõ như in, người thanh niên với
chiếc cằm vuông vức, trán phẳng và cao, đôi mắt xanh to nhưng sâu thẳm ẩn dưới
hàng chân mày sắc mạnh như một vệt dao. Người học trò này thông minh, tuyệt vời
thông minh, nhưng nóng nảy. Trong các buổi giảng tập kinh điển, luận bàn giáo
lý, đôi mắt y sáng rực rực, giọng hăm hở, dồn dập, náo nức; ngôn ngữ, chữ nghĩa
trôi chảy cuồn cuộn như sông dài; lý lẽ minh chứng xác thực, sắc bén như lưỡi
kiếm xuyên nước. Ba trăm môn sinh không ai tranh luận nổi với chàng dẫu là một
điểm nhỏ về giáo lý. Nơi thiền phòng bao giờ chàng cũng là người đến trước mà
ra sau. Học Pháp không biết mỏi mệt. Hành thiền không biết mỏi mệt. Tuy thế,
lão thiền sư Đạo Nguyên bao giờ cũng lắc đầu: “ba mươi năm nữa, ba mươi năm nữa”.
Vì sao vậy? Lão thiền sư Đạo Nguyên lại nghĩ tiếp, y khó mà thấy được cái bình
thường tâm. Y không bao giờ an tâm mà làm các công việc nhỏ nhặt như bổ củi,
gánh nước, tưới rau, quét sân, nhổ cỏ... Y là con người của đại sự kia, kẻ gánh
vác những công việc lớn lao trong trời đất; sứ mệnh của y phải là cái gì tương
tự như tát cạn bể đông, quảy càn khôn trong cái đãy ta bà. Mỗi lần thượng tọa quản
chúng hay Thượng tọa tri sự giao cho y những công việc chân tay thì khuôn mặt của
y mới thiểu não làm sao. Y thường nói: ”gánh một núi sách lên Hy-mã-lạp-sơn còn
dễ chịu hơn cái việc lượm lá, quét sân”. Sự khát khao về chân lý đạo bừng bừng
bốc lửa trong ý chí của y. Thế nên, y không chịu được đời sống một môn sinh tầm
thường. Vì vậy y khoác áo du tăng hành cước đi từ núi cao đến rừng thấp. Cuộc từ
giã hôm ấy là một buổi sáng mờ sương, lão thiền sư đã ân cần trao cho chàng một
chiếc áo cũ: “Thầy không có gì để kỷ niệm trước lúc con ra đi. Đây là chiếc áo
cũ năm xưa thầy cho, con bỏ đi, nay thầy đã khâu vá lại. Con đừng quên nó nhé”.
Đã lâu lắm rồi, lão thiền sư nghe y bỏ áo rồi xin nhập một tu viện. Lại bỏ áo.
Lại lên đường đến một thung lũng của các đạo sĩ Yogi nghe đâu ở tận miền Bắc hải
đạo. Một ngày mùa đông, tuyết ngập khe suối, các hoang đạo những vũng nước đóng
băng, chàng dẫm qua mười hai ngọn núi, mười bảy làng sơn cước, đêm khuya trở về
gõ cửa. Lão thiền sư tiếp chàng ngay nơi tẩm phòng, đốt lên một lò sưởi, hâm lại
ấm trà, lấy ra một gói kẹo thảo mộc.
Câu chuyện âm thầm giữa thầy cũ và trò xưa chẳng ai biết, chẳng ai hay. Mờ sáng hôm sau, người lữ khách không biết mỏi mệt ấy lại ra đi, lại lên đường, con đường nhiêu khê vô định, vai vẫn với bọc hành lý đơn giản dạo nào: “Bạch thầy ạ, con chưa thể dừng chân được. Sinh tử là định mệnh hối thúc không rời. Tri thức con phóng vọt tới đằng trước như một con ngựa bất kham. Nó không cần biết vực thẳm hay thảo nguyên, quê xưa hay đất trích. Bạch thầy ạ, tuy thế con còn có chiếc áo cũ của thầy, giáo huấn, nhắc nhở con mỗi khi lầm lỡ. Nó vẫn còn đây. Nó vẫn còn đây”. Chàng mỉm cười xa xôi, diệu vợi, vỗ vào bọc hành lý bạc màu rồi cúi đầu bước qua khung cửa thấp, đội tuyết lâm hành.
Câu chuyện âm thầm giữa thầy cũ và trò xưa chẳng ai biết, chẳng ai hay. Mờ sáng hôm sau, người lữ khách không biết mỏi mệt ấy lại ra đi, lại lên đường, con đường nhiêu khê vô định, vai vẫn với bọc hành lý đơn giản dạo nào: “Bạch thầy ạ, con chưa thể dừng chân được. Sinh tử là định mệnh hối thúc không rời. Tri thức con phóng vọt tới đằng trước như một con ngựa bất kham. Nó không cần biết vực thẳm hay thảo nguyên, quê xưa hay đất trích. Bạch thầy ạ, tuy thế con còn có chiếc áo cũ của thầy, giáo huấn, nhắc nhở con mỗi khi lầm lỡ. Nó vẫn còn đây. Nó vẫn còn đây”. Chàng mỉm cười xa xôi, diệu vợi, vỗ vào bọc hành lý bạc màu rồi cúi đầu bước qua khung cửa thấp, đội tuyết lâm hành.
Mùa hoa anh đào cách đây đâu đã hai mươi năm, lão thiền sư
nghe tin chàng đang thọ giáo với một pháp sư người Trung Hoa tại miền cực nam đảo
Trường Kỳ. Không lâu sau lại tham học với một thiền sư người Đại Hàn tại
Ko-chi. Và cứ thế, nào là giảng sư Tích Lan, hòa thượng tiến sĩ người Miến Điện...
Sở học sau đó, không biết chàng đã tiến bước đến chân trời nào - hay
là không còn chân trời thì cũng vậy - mà chàng lại phất áo ra đi, từ bỏ con đường
vi vút chông chênh của duy lý để đắm mình trong khí hậu của chơn ngôn Mật giáo
tại Đông Tự (Toji) phía nam Kyoto. Lửa ngàn đời lại âm ỉ thiêu đốt, đẩy chàng từ
kinh đô lên núi non vùng tây bắc Akita, ăn rễ trái cây, sống đời khổ hạnh.Từ giả
núi khổ hạnh, chàng về Đông Kinh đăng đàn thuyết pháp. Chàng rống tiếng sư tử
trước mười ngàn thính chúng cử tọa gồm tăng lữ và môn sinh các tu viện, thiền
viện, Phật học viện... Người ta bàng hoàng, bủn rủn, tê dại trước ngôn ngữ sấm
chẻ và đôi mắt thu hút ma quái của chàng. Buổi giảng pháp đầu tiên đã vang đến
cung đình. Thủ lãnh các tông phái, các pháp sư, luận sư tìm đến, dưới sự chủ tọa
của thái tử Khải Nguyên (Koen), chàng lần lượt đánh bại Tịnh Độ tông mà đại biểu
là Thân Loan thượng nhân (Shiren Shonin) sau đó là Nhất Biến thượng nhân (Ippen
Shonin), một nhà sư lang thang tiếng tăm lừng lẫy không hẳn Chân tông không hẳn
Tịnh Độ. Rồi lần lượt những cao sĩ của Phật giáo quý tộc, Thiên Thai, Pháp Tướng,
Luật, Tam Luận, Hoa Nghiêm, Thành Thật... đều bị rớt đài. Chàng giương cao ngọn
cờ hưng khởi của Thiền tông, mà chàng gọi là Thiền tông tịch mặc. Trong lúc
thái tử Khải Nguyên muốn dành mọi vinh quang cho vị pháp sư siêu việt thì chàng
đã mất tích. Nghe nói Nhật Liên thượng nhân đã mất (1282), và mong chàng là người
kế vị giáo chủ. Và bây giờ ....
- Anh hãy nói đi! Vị lão sư quay lưng ngồi lên chiếc giả đôn
bằng đá trắng, nói dịu dàng - không phải là nói cái kinh qua mà nói cái còn lại,
cái đọng lại!
Ô-chu ngước đầu lên, tròng mắt phản chiếu nước mặt hồ xanh
trong lặng lẽ. Y cởi bọc hành lý đặt dưới chân đức thầy già nua rồi lấy ra chiếc
áo cũ, chiếc áo chàm nâu đã bạc mầu còn nguyên nếp gấp, những tấm vá vụng về đã
long những sợi chỉ vàng. Y nhìn thật lâu vào đấy đầy xúc động.
- Bạch thầy ạ, đây là chiếc áo cũ năm xưa, bây giờ còn muốn mặc
lại, xin thầy cho phép.
Giọng chàng như lạc hẳn đi.
Đôi mắt lão thiền sư rớm lệ. Có lẽ là những hạt nước mắt đầu
tiên và cũng là những hạt nước mắt cuối cùng.
- Con có nói gì nữa không, Ô-chu? Tóc con đã bắt đầu điểm muối
sương rồi.
- Dạ!
Im lặng.
- Con không nói gì ư?
- Dạ!
Lại im lặng.
Một con chim vành khuyên mỏ đỏ hót một tiếng hót lảnh lót xao
động không gian. Một cơn gió nhẹ nhặt mấy cành hoa anh đào ném tung thành vài
con bướm lượn. Một cánh rơi nằm trên manh áo cũ. Lão thiền sư mỉm cười cúi xuống
bắt bỏ lên lòng bàn tay:
- Ba mươi mùa hoa anh đào đã qua đi rồi, thuở còn từ giã nơi
này. Thời gian qua đi nhưng hoa nở hoa tàn thì vẫn vậy.
Lão thiền sư ngước nhìn trời. Đám mây bay qua đầu cây tuyết
tùng giờ lại long lanh màu hổ phách. Ngài chống gậy chậm rãi bước đi. Nhìn theo
dáng hạc gầy guộc của thầy, Ô-chu liên tưởng đến một đỉnh núi đá cô liêu. Và
chàng là con sông dài cuồn cuộn chảy về khơi. Ai ngờ con sông trở lại.
Trai đường rộng mênh mông, mấy trăm môn sinh ngồi tỉnh tọa
giây lát trước khi vào bữa ăn sáng bằng cháo ngũ cốc. Họ đã tụng Phật hiệu xong
- Namo Sak-ya-mu-ni Bud-dha - tiếp theo là lời quán tưởng. Giọng tụng thoát
khung cửa lớn ùn ùn tỏa ra chao động cả khoảng không gian còn đọng hơi sương.
Lão thiền sư lọc cọc đầu gậy trúc đột ngột đi vào với một trung niên tóc đã điểm
hoa râm.
- Các con thân mến! Rồi lão thiền sư vỗ nhẹ lên vai Ô-chu -
Hôm nay thầy giới thiệu với các con một môn sinh mới xin nhập viện. Thầy đã cho
y thọ trì Tam quy và Bát quan trai giới. Pháp danh là Ô-chu. Các con hãy sống
thuận thảo tương ái tương kính lẫn nhau, lấy Lục hòa, Tứ nhiếp làm trọng.
Mấy trăm đôi mắt tò mò, thú vị hoặc lãnh đạm nhìn người đàn ông
lớn tuổi, lớn tuổi hơn cả những vị thượng tọa cao hạ ở đây. Nhưng người y sao rừng
rú thế? Ở nơi cái thân thể lực điền, mày thô mắt cứng không tìm thấy một nét
văn nhược thì học hành cái gì! Cuốc đất thôi! Y lại khoác lên người chiếc áo
thô cũ, quá cũ, vá đùm, vá chụp trông chẳng được mắt chút nào.
- Thượng tọa Quản chúng, Thượng tọa Tri luật, Thượng tọa tri
sự, Thượng tọa Giáo thọ đâu? Tiếng lão thiền sư yếu, thanh nhưng sắc mạnh.
Cuối trai phòng, bốn vị Thượng tọa đồng đứng dậy, chấp tay
ngang ngực.
- Các thầy đã biết bổn phận nhất định của mình là phải làm gì
đối với một tân môn sinh.
- Dạ.
Lão thiền sư lẳng lặng nhìn quanh một vòng rồi từ từ bước ra
cửa. Chiếc bóng cao lênh khênh, màu áo khói hương như tan lẫn trong sương, chỉ
còn vọng lại đều đặn tiêng gậy trên lối sỏi.
- Lại đây, lại đây, người bạn đạo.
- Lối này, lối này.
- Chiếu này, chỗ này!
- Chỗ anh là chỗ cuối cùng kia, người em út!
- Mới vào chùa mà ra vẻ sư cụ nhỉ?
- Một trăm gánh nước, ha ha, bài học nhập môn hạng bét cơ đấy!
- Quét một ngàn giỏ lá hoa anh đào, ông bạn già. Mòn vô lượng
vô biên a-tăng-kỳ kiếp cái chổi, phải biết!
- “Cù” thế!
Tiếng tiếp tiếng, câu tiếp câu chen lẫn xen lộn ồn ào. Một tiếng
bảng mộc vang lên.
- Chư đệ, chư đệ, hãy im lặng.
- Chư đệ, chư đệ, chớ quên mình, chớ phóng dật!
Người ta rất ngạc nhiên về vị môn sinh mới. Suốt ngày y rất
ít nói, lặng lẽ như chiếc bóng của mình. Y không tỏ vẻ cố gắng lắm nhưng hoàn tất
dễ dàng các công việc được giao phó. Y làm không chậm, không nhanh, đôi khi rất
chậm, đôi khi rất nhanh, bao giờ cũng toát ra cái vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng, êm
ả, dẫu cho cái thân thể to lớn nặng nề. Người ta không thấy y trầm tư, thiền định,
không mơ mộng và buồn phiền. Đôi khi y ngâm khe khẽ một vài câu thơ cổ, một vài
câu kệ với âm thanh phát ra ư ử trong cổ họng, không ai nghe được. Đặc biệt,
cái trầm tĩnh của y đến độ làm cho người ta lạnh mình. Chuyện kể rằng, lão thiền
sư cho phép y làm cái cốc rạ phía sau hốc núi, cách chỗ của thiền sư một con suối
nhân tạo và một hòn giả sơn. Hôm kia, cốc phát hỏa do một môn sinh nướng khoai
sơ ý gây nên. Về đến nơi thì chỉ còn một đống tro. Vị môn sinh kia áy náy bối rối
đến tội nghiệp. Ô-chu mỉm cười mà rằng: “Vậy chớ sau đó thầy có ăn khoai được
không, hay là nó đen thui?” Người ta chơi nghịch đốt giải áo của chàng trong
lúc chàng nghỉ trưa. Chàng ngồi dậy thì đám lưng đã cháy một mảng. Chàng bị bỏng
nặng mà không hề than một tiếng. Chàng đã không biết giận ai mà lại hay cười.
Chàng mỉm cười với mọi sự. Mỉm cười với tất cả “lính cũ bắt nạt lính mới”. Mỉm
cười với mọi công việc nặng nề, hôi hám mà người ta đùn cho chàng. Ở đâu mà
không thế. Chàng rất ít nghỉ ngơi, ai hỏi lý do, chàng nói: “Ngay chính nơi
công việc, ta luôn luôn tìm được sự nghỉ ngơi”. Những công việc tay chân và
thiên nhiên là sự nghỉ ngơi của chàng, sự nghỉ ngơi thiêng liêng nhất mà không
phải tuổi nào cũng thấy được, người nào cũng hiểu được. Do vậy, trong công việc,
chàng làm với tất cả lòng đam mê và sự sáng tạo. Trong thiên nhiên, sự hiện hữu
của muôn loài, muôn vật, chàng nhìn ngắm với sự mới lạ trong từng giây từng khắc,
với trọn tâm hồn của mình.
Sáu tháng sau, Thượng tọa Giáo thọ kêu chàng lên:
- Chú chấp tác mọi công việc đều tốt, rất tốt. Thượng tọa tri
sự yêu cầu tôi bắt đầu dạy giáo lý cơ bản cho chú. Nhưng trước khi vào chương
trình, tôi phải biết sơ về trình độ, hầu dọn cho chú một chương trình giáo lý
riêng biệt thích hợp. Muốn vậy, chú phải trả lời những câu hỏi của tôi. Chú đi
tu đã lớn tuổi, chú đến với Phật giáo quá muộn màng. Chú biết đấy. Vậy thì chú
biết gì về Phật không? Nghĩa là tôi muốn hỏi, chú đã biết Phật là gì chưa?
“Lão tân môn sinh” lúng túng ra mặt, khẽ nhìn vị “Thượng tọa
bác học” rồi lại cúi đầu xuống.
Đọc được tia mắt ấy, Thượng tọa Giáo thọ cố gắng diễn giải:
- Chú chỉ cần nói ra cái ý niệm. Không, chả cần, chữ “ý niệm”
rắc rối khó hiểu - Thượng tọa nhăn mày - Hay là thế này vậy, chữ “Phật” gợi cho
chú hình ảnh nào; phải, hình ảnh, cái hình ảnh thiêng liêng hoặc gần gũi mà chú
đã bắt gặp được trong đời sống của mình. Phải rồi, chú nói đi, Phật là gì nào?
Quả thật, chàng lạ lùng, ngạc nhiên trước câu hỏi
này. Phật là gì nhỉ? Ở nơi cái ngôn ngữ tối tăm và u ám của con người, có chỗ
nào diễn tả chân xác nhất? Đầu óc Ô-chu làm việc thật nhanh, như chiếc đèn cực
sáng quét qua một lượt mấy cánh rừng ngôn ngữ. Qua gần năm cổ ngữ và mười ngoại
ngữ khác nhau, chàng không tìm ra từ thích hợp. Những chữ, những chữ hiện tuần
tự thứ lớp như cuốn phim tốc quay và chàng chụp bắt với đôi mắt của loài cú. Thế
nhưng, Phật là gì? Ồ! Phật là gì nhỉ?
Và thế là Ô-chu thiểu não lắc đầu.
- Chú không biết! Thượng tọa Giáo thọ thở dài. Phật mà chú
không biết là gì, thì xin lỗi... đi tu vậy là cuồng tín mất thôi. Ôi, tín mà
không có trí là hỏng rồi!
Ô-chu cũng thở dài. Biết sao được.Thầy Giáo thọ quở phiền chàng
là phải lắm. Ôi, rõ ràng là không thể nói Phật là gì. Nói ra là hỏng mất thôi.
- Pháp là gì? Thượng tọa Giáo thọ đưa mắt thương hại hỏi tiếp
- dẫu chú không biết Phật là gì, nhưng tôi vẫn hy vọng là chú biết Pháp, biết
được cái chân lý mà từ đó, chú đoạn bỏ đời sống cư sĩ áo trắng tục lụy và tối
tăm để về với ánh sáng đạo. Pháp là gì? Tôi đã cố gắng tìm kiếm nơi chú một hiểu
biết tối thiểu, như gạn cát tìm vàng. Pháp là gì? Bạn thân mến, Pháp là gì nào?
Pháp là gì? Ô-chu chợt mỉm cười. Chàng biết rõ cái đó trong
tâm. Chàng đã cùng hít thở, đi đứng với nó. Nhưng biết nói làm sao nhỉ? Ôi, sao
ngôn ngữ loài người nó nghèo nàn đến thế?
Trong lúc cố gắng tìm kiếm, cân nhắc, bất chợt chàng thấy một
cánh thảo lan thò nụ hoa vàng từ sau gộp đá nâu.
- Kìa, Thượng tọa - Chàng rối rít đưa tay chỉ - Một nụ thảo
lan, có phải không? Là một nụ thảo lan! Ôi! Đẹp làm sao!
- Cái gì? Vị Giáo thọ sư quắt mắt - Chú nói cái gì? Chú nói
kìa một nụ hoa vàng, một nụ thảo lan, là quái gì? Thượng tọa giáo thọ bốc giận
- Đấy là ngôn ngữ thiền sư “rởm” chú ạ! Ai cũng có thể nói được một nụ hoa
vàng, đẹp lắm, xưa quá rồi. Thôi đi, “nởm” ạ!
Thượng tọa Giáo thọ đứng bật dậy, thu vội sách vở trên bàn.
- Chú hãy trở về trình diện lại với Thượng tọa tri sự, kiếp
này chú không tu huệ được đâu, chỉ tu phước thôi. Hãy cố gắng tích lũy công đức
trong lao tác, trong đời sống phục vụ Tam Bảo. Công đức kia sẽ hộ trì, dắt díu
chú. Con đường này tuy chậm, nhưng chắc chắn và vững vàng, hợp với khả năng của
chú. Tôi cầu nguyện Phật lực gia hộ cho chú...
Ra đến cửa rồi, Thượng tọa Giáo thọ quay lại nhìn chàng một hồi
lâu:
- Chiếc áo vải thô của chú đã cũ quá rồi. Chú không có cha mẹ,
bà con, họ hàng thân thích gì cả sao?
- Dạ không ạ!
- Vậy thì để tôi đề nghị lên Thượng tọa Quản chúng, Đại đức
Thủ quỷ may cho chú một vài bộ áo quần cho tiện việc chấp tác. Chiếc áo kia cũ
quá rồi đấy!
Ô-chu mỉm cười:
- Thôi Thượng tọa ạ! Chiếc áo này cũ nhưng còn chắc chắn hơn
cả bao gai. Nếu biết vá víu cho khéo thì cũng có thể dùng được lâu. Chỉ có cái
là bàn tay của đệ tử thô tháo, vụng về thôi.
Thượng tọa Giáo thọ nhìn hai bàn tay chai sạn, u nần, kệch cỡm
của Ô-chu, cười thành tiếng:
- Phải rồi, chú sinh ra không phải là để học, để ngồi trên những
chiếc ghế vàng son lộng lẫy của pháp sư, giảng sư...
Ba hồi chuông trống bát-nhã rộn ràng vang lên đánh thức sự tịch
mịch của đêm sương. Đèn đuốc bất chợt được đốt sáng khắp đó đây.
- Thầy đã tịch rồi!
Tin truyền rất nhanh. Tất cả môn sinh đã tụ về lố nhố đứng
cung kính, ủ rủ trước cốc của lão thiền sư Đạo Nguyên. Không một tiếng động.
Lát sau tiếng niệm Phật hiệu thầm thì rồi lan ra, lan ra mãi. Các vị Thượng tọa
cao hạ và chức sắc quỳ thành vòng tròn xung quanh thiền sàng, chấp tay lên ngực,
có đôi vị rưng rưng như cố kìm giữ tiếng nấc.
Lão thiền sư Đạo Nguyên không bệnh, không báo trước mà lặng lẽ
ra đi. Ngài ngồi kia, trong thế kiết già phu tọa, khuôn mặt tỏa sáng niềm an lạc,
nhưng thần thức giờ đã tiêu diêu ở cõi đầy hào quang và ánh sáng nào.
Phần ngài thế là xong. Nhưng còn người nối hậu? Y pháp chưởng
giáo ngài đã truyền lại cho ai chưa? Đấy là câu hỏi lởn vởn trong đầu óc của mọi
người.
Không ai tìm ra di chúc, một lời giáo huấn tối hậu nào. Thật
là khó xử đây. Thượng tọa Quản chúng một đời hỷ xả, niên trưởng và đạo hạnh.
Thượng tọa Tri sự một đời phục vụ, hạ lạp cao và vô vàn công đức. Thượng tọa
Tri luật, niên cao lạp lớn, gương mẫu cho chúng, nghiêm minh và thanh tịnh. Thượng
tọa Giáo thọ dẫu hạ lạp ít hơn chút đỉnh, trẻ tuổi nhưng một đời ít ngủ, ít ăn,
chăm lo hàng trăm lớp giảng huấn, hàng chục trình độ khác nhau; lại nữa, là người
suốt thông Tam Tạng, là linh hồn tri thức, kiến thức cho viện.
Sau lễ nhập tháp ba ngày, một buổi họp giới hạn được tổ chức,
nơi đây chỉ gồm các Tỷ-kheo chức sắc hoặc từ năm hạ trở lên. Bốn nhóm thân hữu,
đệ tử hoặc cảm tình với bốn vị thượng tọa tranh luận cho phe phái của mình. Ai
cũng có thể đưa ra những dẫn chứng chính đáng và cụ thể nhất.
Ban đầu thì ngôn ngữ khiêm cung, nhã nhặn, đến lúc chẳng ai
chịu thua ai, tranh luận biến thành tranh cãi rồi trở nên sôi nổi, gay cấn, ồn
ào. Một vài cánh tay giận dữ đưa lên cao. Một vài đôi mắt đã gườm gườm bốc
khói. Những tiếng bảng mộc không ngớt vang lên.
- Chư đệ, chư đệ, im lặng nào!
- Chư đệ, chư đệ, chớ phóng dật, chớ quên mình!
Nhưng vô ích. Ở đây đã có rất nhiều loại ngựa non háu đá, gà
tơ mới mọc cựa...
Trong lúc ở thiền đường xảy ra cuộc tranh luận thì ở sau hốc
núi có một bóng đen lặng lẽ luồn qua các vòm cây đến ngôi tháp mới. Bóng đen quỳ
trước cửa tháp từ canh gà đầu tiên đến lúc sao Mai vừa mọc. Y đứng dậy giũ
sương trên áo rồi lảo đảo thắp ba nén nhang. Sương mù đầy đục cả trời, gió hiu
hiu buốt lạnh. Quày qua lối cũ, đến cổng trúc vàng, bụi thục quỳ, y dừng lại.
Ánh trăng hạ tuần nhợt nhạt trong màn sương trắng. Tiếng một con cú rúc lẻ loi.
Y đưa mắt một vòng. Lát sau y quảy đãy ta bà lần theo lối sỏi khuất dưới chân đồi.
Đấy là Ô-chu, chàng lặng lẽ từ giã thiền viện, nhẹ nhàng, âm
thầm và cô liêu hơn cả kẻ từ giã cuộc đời. Chàng đến một động đá, trịnh trọng
khoác chiếc áo cũ lên người rồi an nhiên kiết già tịch diệt, trên môi còn nở nụ
cười bất diệt. Qua ánh sáng mờ từ cửa động hắt vào, người ta đọc được từ lưng
chiếc áo cũ mấy dòng chữ chân phương, đôn hậu, bút tích không thể lầm lẫn của
lão thiền sư quá cố:
“Y Pháp Bất Y Nhân
Y Nhân Bất Y Pháp
Nhân Pháp Liễu Mật Thâm
Mạc Cầu, Phi Thủ Trước”
Tạm dịch nghĩa:
Nương theo pháp, chẳng nương theo người
Nương theo người, chẳng nương theo Pháp
Người, pháp rõ nguồn căn
Chẳng cầu chẳng ôm giữ.
(Thiền tông đời thứ hai, Kiếm Thương hưng khởi, Đạo Nguyên Tỷ-kheo;
phụng truyền đệ tử trưởng đắc pháp đời thứ ba là Ô-chu).
Thế là Pháp, Nhân đã cùng tịch diệt với nhau trong động đá.
Cho nên hiện nay, phái này đã không còn truyền thừa. Chuyện kể rằng một trăm
tám mươi năm sau, di tích này vẫn còn. Một thiền sư nghệ sĩ vô danh trong khi
sơn thủy hành cước ghé qua đây, biết chuyện của người xưa, xúc cảm làm một bài
thơ nét chữ long phượng, dường như còn mãi đời đời nơi vách đá:
“Thầy là đỉnh núi cô liêu ngàn đời tịch mặc,
Trò là con sông dài cuồn cuộn bỏ núi ra khơi
Còn đây áo cũ ngậm ngùi
Còn đây biển núi nụ cười an nhiên.”
Bức Tranh Cuối Cùng
Bức Tranh Cuối Cùng
Chàng họa sĩ giang hồ trở lại ngôi biệt thự ấy vào đầu mùa
xuân.
Ngôi biệt thự nằm trên một khu đất hình vuông, diện tích áng
chừng hai mẫu Tây, bốn mặt tường dựng đứng cách biệt với thế giới bên ngoài.
Chàng còn nhớ rõ như in, mặt tiền ngôi biệt thự ngăn bởi một con đường tráng nhựa
rộng rãi, là bãi biển với hàng dừa xanh tắp mọc lên trên bãi cát trắng phau kéo
dài đến tận chân núi phía đông nam. Sóng và gió từ biển đông ì ầm và vi vút suốt
ngày đêm tạo nên một khúc hòa âm triền miên bất tuyệt. Bãi biển là nơi mà chàng
thường hay đi dạo, vốc cát qua kẽ hở năm ngón tay, nhìn dấu chân hôm qua của
mình đã mất, lượm những vỏ sò, vỏ hến lấp lánh như kim cương, gối đầu trên cánh
tay nằm dài nghe sóng vỗ, chạy đuổi những con còng, bắt rồi thả ra bằng nụ cười
hồn nhiên vui sướng. Lớn lên theo ngày tháng, những bước chân chậm rãi tư duy,
nhìn vẻ đẹp lồng lộng và chan hòa của đất trời; đôi khi chàng lên tận cả những
mỏm đá vắng người, thấy mình cô đơn giữa mọi vật, giữa biển, núi và mây trời;
cô đơn hơn cả những mỏm đá chơ vơ, đón gió lộng từ trùng dương, ngước mắt nhìn
trăng sao mà sương xuống trên đầu đêm đêm âm thầm hứng lấy những hạt lệ! Đôi
khi chàng xúc động thái quá, sững sờ thái quá khi chàng nhận ra được vẻ đẹp cuồng
nộ của biển, nhất là về mùa đông. Vẻ đẹp mang sức sống vỡ bờ, lạnh lẽo, ướt át,
và ào ào của một tuổi trẻ niên tráng, lại như toát ra cả sự bạo tàn và hủy diệt
nữa. Về mùa xuân hoặc mùa hạ, biển trầm lặng và dịu dàng hơn, nhưng nó cũng ẩn
dấu vẻ đẹp của sự dậy thì, sự thôi thúc hoặc gọi kêu của dục vọng; đồng thời,
như là một cái gì mơn trớn, vỗ về, ủi an của tình mẹ!
Năm mười sáu tuổi, trước khung vải đã căng ra không biết bao
nhiêu ngày, chàng chợt thấy mình bối rối, bất tài khi muốn ghi nhận lên đấy những
tư tưởng vừa khởi sinh mà hình ảnh, màu sắc sẽ là phương tiện phô diễn.
Phía nam biệt thự là một Nữ tu viện thuộc dòng Thánh Francois
d’Assise. Vì luyến lưu một đôi mắt, bị ám ảnh bởi một đôi mắt mà chàng đã bỏ
công không biết bao nhiêu ngày để tìm cho ra ý nghĩa Francois d’ Assise! Vốn
không biết tiếng Pháp nên chàng đã ghi tên lên một mảnh giấy nhỏ rồi lục lọi
lung tung. Sau nhờ một người bạn học ở trường Dòng cho biết, chàng mới hổ thẹn
làm sao! Cũng nhờ vậy, nhờ tự ái mà chàng đã tìm hiểu giáo lý của tôn giáo này
cùng với cuộc đời của Thánh. Càng biết cuộc đời của Thánh, cuộc đời của một người
lên đường với đức tin triệt để, khổ hạnh triệt để, chàng lại càng mê mẩn đôi mắt
ấy hơn. Hình như cả suốt thời niên trẻ đôi mắt ấy ám ảnh chàng không rời. Đôi mắt
mà chàng thường không biết định nghĩa làm sao, ghi lên khung vải thế nào - vì
nó vừa thánh thiện, siêu việt cuộc đời mà cũng vừa cuộc đời quá đỗi. Khi mùa
xuân đến, chàng thấy trong đôi mắt của người nữ tu những chồi non của lá và những
nụ nõn của hoa. Mùa hạ đến, chàng thấy hai hàng phượng đỏ rực, tiếng ve kêu, bầu
trời trong, xanh, cao cùng sức sống rạt rào của cây cỏ. Mùa thu đến thì chàng
thấy cả khung mây bàng bạc, cành liễu buông mềm dưới trăng lạnh cùng những vì
sao ấp lánh giữa thiên hà bao la. Mùa đông đến, chàng thấy cả trăng sao đều ướt
át, những cánh chim non run rẩy cùng sự hiu quạnh, tịch mịch của hoàng hôn, của
đêm, của trời, của đất... Đôi mắt ấy là cả cuộc đời, là trọn vẹn cuộc đời, là
toàn thể vũ trụ đại hóa. Chàng đã say mê, điên đảo. Nhưng cũng đã không biết
bao nhiêu lần, chàng chỉ đứng lặng xa để chiêm ngưỡng hoặc vòng tay vừa khiêm tốn,
vừa thành kính - như đứa trẻ ngoan đạo với Thánh nữ Maria- khi dáng liễu dịu
dàng, trầm mặc và xa vắng ấy đi qua! Khung vải vẫn hoàn là khung vải. Vẻ đẹp ấy
quả là vẻ đẹp ngàn đời, không có khuôn khổ và kích thước. Bao giờ cũng vẫn như
gần, như xa, vừa trầm luân vừa thánh thiện, trong cuộc đời mà ngoài cuộc đời, hữu
hạn mà vô cùng... Chàng định bỏ bút ngay thời kỳ ấy, nhưng chợt nghĩ, biết đâu
thiên tài trong chàng chưa đến hồi khai hiện!?
Nhưng quả là chàng đã nghi ngờ thiên tài của mình lắm rồi! Vì
chàng cũng đã thẩn thờ bất lực khi tiếp xúc với thế giới phía tây ngôi biệt thự.
Đấy là cô nhi viện của một hội từ thiện, nuôi và cho ăn học các trẻ con bơ vơ
vì chiến tranh loạn lạc. Thế giới ấy cũng đa dạng và phức tạp dường bao! Mỗi đứa
là mỗi nét mặt, mỗi dáng đi. Mỗi đứa là mỗi cuộc đời riêng lẻ, riêng lẻ cho đến
nỗi, hình như nó không liên hệ với bất cứ cái gì khác. Mà giống nhau thì giống
nhau y như hai giọt nước. Rồi thì sự yên tĩnh của những trưa hè, những đêm
khuya khoắc, những ngày đông lạnh; sự ồn ào của những lúc ra chơi, tập họp; sự
lao xao của những bữa ăn; tiếng nói cười, la hét, nô đùa, chạy nhảy... Thỉnh
thoảng chàng đã lặng người, đông cứng lại khi thấy vài tia mắt cô đơn, những tiếng
khóc thầm rưng rức ở một góc vắng. Những bà phước, bà dì... bác ái và nghiêm
nghị, sắc sảo và dịu dàng. Những bà lớn áo quần lộng lẫy và sặc sỡ, xe cộ bóng
lộn; những tướng tá, những giám đốc, những nghị viên, những hội từ thiện! Những
món quà cho đi, máy quay phim, máy ảnh chớp lia lịa! Những nụ cười ngây thơ lẫn
những nụ cười no đầy thỏa mãn. Những cánh tay vẫy gầy ốm lẫn những cánh tay lấp
lánh hột xoàn, nhẫn, kim cương. Một cái gì đó ở trong chàng không có tên gọi, cứ
âm ỉ thúc hối chàng căng khung vải ra... Diễn tả cái màu vàng trong ngọn lá
xanh? Cái bóng tối mù mịt trong ánh sáng chói chang? Sự náo nhiệt trẻ trung lẫn
sự cô đơn kinh khiếp của tuổi thơ? Ôi! Những điếu thuốc nối nhau, những đêm thức
trắng, những ngày đi vơ vẩn, lang thang chỉ nói lên cái bi đát, cái nghèo nàn
và sự thiếu tài của chàng mà thôi! Những ngọn bút, cây cọ và hộp màu vẫn nằm
khiêu khích, hí lộng chàng bên giá vẽ, chưa có một bức nào thành hình!
Còn thế giơi phía bắc nữa, cái ngôi chùa nằm im ỉm lạnh lùng
ít khi chàng thấy thập phương lui tới. Nó tịch mịch cho đến độ mà mỗi lần đi
qua đấy, chàng thấy lòng mình lắng xuống thật sâu, như không còn liên hệ gì với
văn minh, thị thành, sự đổi thay của thời đại, xã hội; những đợt thủy triều xuống
lên của chính trị và kinh tế. Nếu ví von được, thì đấy phải là chỗ “ngàn dặm dưới
đáy biển” hoặc là cái động thẳm sâu nào đó trong hang núi - chẳng may may dao động
dù sóng dữ hay bão to! Hòa thượng trụ trì là một lão trượng quắc thước, gầy và
khô như thân hạc, chống cây gậy trúc cũng gầy và khô như cẳng hạc. Chàng chưa
thấy hòa thượng cười bao giờ, mặc dầu chàng đã nhiều lần qua đấy chơi với chú
Ích và chú Sanh - đệ tử của ngài. Ít khi chàng dám đến gần hòa thượng. Chỉ cái
nhìn của hòa thượng thôi là chàng thấy lưng mình ớn lạnh mất ba ngày! Khi hòa
thượng chống gậy đứng một mình trước tam quan thì giống như Trương Phi chống
cây xà mâu một mình nơi cầu Trường Bản làm vỡ mật hai mươi vạn quân Tào. Cái loại
“ma quỷ” hoặc ngoai đạo như chàng thì thật không dám héo lánh đến, vừa thấy đã
chạy dài! Khi hòa thượng chống gậy đứng quay mặt vào chánh điện thì cả thế giới
sau lưng ngài đều như lùi xuống thấp hoặc vô nghĩa. Và rõ ràng những cái mà
chùa khác cần như điện to Phật lớn, đệ tử và tín đồ đông đúc thì hòa thượng chẳng
cần tí nào. Những điều mà các tôn giáo khác thấy cần thiết, quan trọng như giáo
hội, tổ chức, cơ sở từ thiện, cơ sở kinh tế, hoằng hóa, phát triển, độ sinh...
thì hòa thượng chẳng mảy may để ý đến. Cái mà mọi người quy lụy, cầu cạnh như
tiền bạc, giàu sang, danh vọng, địa vị, quyền hành, chức tước... thì hòa thượng
chẳng coi ra gì cả. Chính cái đời sống giản dị, trầm lặng, không vồn vã tiếp
đón thập phương, không mở cửa mời quan lớn; và ngôi chùa nghèo nàn, hư bên này,
sụp bên kia, lẫn các con đường đều phủ dày rêu xanh đã cho chàng thấy biết như
vậy. Hai người đệ tử cũng có một đời sống thầm lặng như thầy, kiến thức thật
uyên bác, văn thơ hay, viết chữ đẹp - thì không lý gì ngài hòa thượng chỉ là
ông thầy tụng nhà quê! Mà theo chú Sanh cho biết, sở học của thầy họ, đáng bậc
thầy của những vị thầy có danh tiếng thời ấy nữa. Cũng chú Sanh kể lại, hòa thượng
có hai quyển tự điển dày - đấy là đúc kết lại những chữ Hán khó trong vòng năm
mươi năm người ta đến hỏi ngài. Hòa thượng lại ít nói, rất ít nói. Có một lần,
chỉ một lần duy nhất thôi, khi chàng hỏi chú Ích, tại sao chùa không có tín đồ,
quanh năm suốt tháng lạnh tanh như thế này, sao không sửa sang xây dựng lại,
không thuyết pháp, giảng kinh, đem đạo Phật “đi vào cuộc đời”? Chú Ích ngần ngừ
rồi lấm lét đưa mắt nhìn hòa thượng - khi ấy Ngài đang đọc sách nơi án thư gần
đó.
- “Đi ra ngoài kia mà nói chuyện!”
Đấy. Đấy là câu nói duy nhất mà chàng nghe được trong vòng
năm năm lui tới quen biết với chú Ích và chú Sanh! Rõ ràng đó là câu la rầy,
nhưng không to quá, không nhỏ quá, trầm mà nghiêm. Cũng có ý nghĩa là, các chuyện
đại loại như chàng hỏi, phải đi ra “ngoài kia” tất cả! “Ngoài kia” là ngoài cái
cuộc đời ô trọc kia, ngoài cái cõi luận tranh, nghị bàn ỏm tỏi; ngoài cái thế
giới tham sân, đổi lợi mua danh... Kể từ lúc ấy, chàng tránh luôn, tránh hòa
thượng và tránh cả ngôi chùa nữa. Một phần ngán cái “đỉnh núi đá lạnh lùng” cô
liêu và trầm mặc ấy; một phần sợ rêu xanh trên bờ đá, tường thành, sân và đường
sẽ mọc lan hoặc xâm lăng tâm hồn chàng; sợ trầm hương ở đó sẽ tỏa ra, rồi đọng
lại làm cho đen kịt cái bầu trời trong xanh của tuổi xuân chàng đi; lại sợ luôn
tiếng chuông u minh trầm trầm lặng lặng giữa đêm khuya thanh vắng nữa! Ôi! Tiếng
chuông sao mà buồn, mà não nùng đến thế! Nó u u, vù vù... hù hù mãi,
như xoáy sâu vào tâm can phế phủ người ta!
“- Chỉ có quệt một lớp sơn màu đen mà thôi vậy!”
Thuở đó chàng thầm nghĩ như thế, khi muốn vẽ lại những ý nghĩ
của chàng về ngôi chùa và vị hòa thượng. Rõ ràng là chàng không thăm dò gì được
cả, kể cả cái bí mật rêu xanh vây trọn cả ngôi chùa cũng đã khiêu khích, phỉ
báng lên “thiên tài chàng”. Tất cả đều lạnh toát, lạnh như băng giá. Có thể vẽ
một cục nước đá chăng? Bí mật, lạnh lùng, kỳ dị và khó hiểu quá!
Bao năm rồi? Chàng họa sĩ không còn nhớ rõ nữa. Sau đó, chàng
đi giang hồ. Chàng bỏ đi, từ biệt ngôi biệt thự. Từ biệt bờ biển phía đông, từ
biệt nữ tu viện và đôi mắt phía nam, phía tây là cô nhi, phía bắc là ngôi chùa
và vị hòa thượng. Bỏ đi, ra đi là đớn đau và chua xót. Nhưng đồng thời ra đi là
tiếng gọi kêu giục giã của định mệnh! Chàng cắn răng vứt những hộp màu và xé toạt
khung vải, lòng thầm đợi sự trưởng thành trong mai hậu - nhờ khổ đau, lớn khôn,
bụi cát, cô đơn, hy vọng và tuyệt vọng; chàng sẽ trở về chốn cũ, tiếp tục cái
khung vải ngày xưa đang để một khoảng trống lớn trong tâm hồn chàng.
Chàng họa sĩ trở lại ngôi biệt thự ấy khi tóc đã có vài sợi bạc.
Quả thật, y bây giờ không còn là hình ảnh của gã thư sinh mặt trắng nữa.
Mười lăm năm qua chàng đã sống quá nhiều, dạt trôi đã quá nhiều,
hoan lạc và khổ đau quá nhiều, suy tư và sáng tạo cũng đã quá nhiều! Nhưng than
ôi! Cái đỉnh cao của nghệ thuật - cái Chí Mỹ - thì vẫn còn ở cuối chân trời mù
mịt. Có một cái gì bãng lãng, bồng bềnh, sâu thẳm mà không bao giờ cây cọ của
chàng chụp bắt được mặc dầu nó vẫn ở đó, bất cứ đâu trong mọi sinh hoạt, mọi hiện
tượng của đất trời: trong một ngọn cỏ, một ánh nắng hoặc một giọt sương mai!
Nhưng dẫu sao, cái nhìn của chàng bây giờ đã có kích thước chiều rộng và chiều
sâu hơn. Hơn thế nữa, lại có cái gì như “thấu thị”, nhìn xuyên qua hiện tượng,
vẽ ra được cái gì ẩn giấu sau bề mặt. Niềm tin rằng mình sẽ là thiên tài không
hề lung lay trong chàng. Phải biết nuôi dưỡng và hoài thai thêm nữa,
với số tuổi bây giờ chỉ mới nửa đoạn đường. Chàng biết là chàng đã bước qua mấy
cấp độ trên đường nghệ thuật để vươn lên cái chí mỹ, nhờ chàng không ngừng đọc
sách, lên đường, suy tư và tìm kiếm. Cái thuở bình minh của tâm thức trẻ thơ,
người ta chỉ biết ghi nhận hiện tượng bằng những màu sắc nguyên thủy. Khá hơn,
người ta chụp bắt ngoại giới trong sự biến dịch đổi thay, tạp đa và muôn sắc.
Khá hơn thế nữa, người ta chọc thủng hiện tượng, bức phá hữu hạn bằng cái nhìn
đầy sắc bén, góc cạnh của kiến thức và trí năng. Cao hơn thế nhiều, người ta vượt
bỏ kiến thức và trí năng hữu hạn để nhảy vào chiều sâu uyên áo của tâm năng và
trực giác. Cái tâm năng và trực giác này, chàng “mường tượng” đã bắt gặp ở Thiền
tông hoặc những danh họa đượm màu sắc và tính chất Lão Trang. Nhưng than ôi! Mấy
chục bức họa “thiên cổ” của chàng đã thất bại vô cùng đớn đau trong lần triển
lãm cuối cùng. Con người, đầu óc chúng, còn lông lá nguyên thủy, ngây thơ hoặc
duy lý làm sao. Họ không thể hiểu được, cảm nhận được, sao trong đôi mắt thiếu
phụ lại có bầu trời mùa thu? Họ không thể hiểu được, tri nhận được, tại sao lá
vàng lại nằm trên cây và lá xanh lại rụng dưới đất?
Họ đã đưa tay chỉ trỏ và cười cợt khi biển ở trên cao và núi nằm dưới thấp. Cái đó, trời ơi! Nó mới thâm viễn và kỳ diệu làm sao! Cuộc đời đấy! Sự thật điên đảo đấy! Sự mâu thuẫn, diệt sinh, tương xung, tương nghịch của vũ trụ thế giới hiện tượng đó mà! Xã hội, lịch sử và tư tưởng nữa! Ấn tượng và lập thể là cái gì! Tượng trưng và siêu thực là cái gì! Đối với chàng, chúng chỉ là những “mode” thời trang đã phế thải hoặc được cất giữ ở bảo tàng viện! Chính những cái thuộc tư tưởng và tâm linh như của chàng mới là những sáng tạo đời đời. Ha ha ha... “thời đại và kỷ nguyên nằm sau lưng ta như chiếc ga và con tàu ở cuối chân trời xa...”
Họ đã đưa tay chỉ trỏ và cười cợt khi biển ở trên cao và núi nằm dưới thấp. Cái đó, trời ơi! Nó mới thâm viễn và kỳ diệu làm sao! Cuộc đời đấy! Sự thật điên đảo đấy! Sự mâu thuẫn, diệt sinh, tương xung, tương nghịch của vũ trụ thế giới hiện tượng đó mà! Xã hội, lịch sử và tư tưởng nữa! Ấn tượng và lập thể là cái gì! Tượng trưng và siêu thực là cái gì! Đối với chàng, chúng chỉ là những “mode” thời trang đã phế thải hoặc được cất giữ ở bảo tàng viện! Chính những cái thuộc tư tưởng và tâm linh như của chàng mới là những sáng tạo đời đời. Ha ha ha... “thời đại và kỷ nguyên nằm sau lưng ta như chiếc ga và con tàu ở cuối chân trời xa...”
Nuôi dưỡng, hoài thai và sáng tạo nữa. Chàng thầm nghĩ. Thiên
tài phải biết chấp nhận khổ đau, vượt qua sỉ nhục, coi thường dư luận, mỉm cười
trước thất bại, đắng cay cùng đói rách. Cái tuổi thơ xa xăm kia chàng đã không
thực hiện được, một quãng đời giang hồ chưa thành tựu được thì lứa tuổi phong
sương này phải thực hiện cho bằng được!
Ông cậu của chàng, một luật sư lão niên, kiến thức uyên bác,
hiểu biết và độ lượng; sau khi trao tất cả giấy tờ sổ sách, chìa khóa phòng ốc ở
ngôi biệt thự, đã nói với chàng như sau:
- Cái ngôi biệt thự ấy, người quá cố đã “trao truyền tâm ấn”
cho anh - người nghệ sĩ thiên tài! Về đó mà nuôi dưỡng những danh họa thuộc bậc
thầy của thế kỷ! Về đó mà hoài thai sức lửa lớn để chuẩn bị cho cuộc cháy bùng
trên đỉnh cao sáng tạo.
Khi nói, cậu chàng đã nhích nhích hàm râu muối tiêu cùng nụ
cười nửa miệng. Chàng ớn bộ râu và nụ cười ấy quá - cũng có thể chàng ớn bởi cuộc
đời đạo đức, cần mẫn, khiêm nhu và trong sạch của ông nữa. Chàng trả lời nhũn
nhặn như con “chi chi”.
- Thôi mà cậu. “Đốt” cháu chi, tội nghiệp! Lúc này, cháu đâu
còn bốc đồng, ồn ào như xưa nữa. Cháu già rồi. Tóc bạc rồi. Đã biết im lặng rồi.
Ngay như hội họa - nó còn khó nói hơn là tư tưởng - mà cháu cũng đã bắt đầu trở
về trong chiều hướng “Kumorai” của Zen đó cậu!
Lão luật sư nhìn chàng bằng nửa con mắt rồi quay lưng đi:
- Tôi sợ anh Kumorai ở nơi mấy phòng trà thì được! Kumorai
theo cái kiểu ăn hót đấu láo với những tay giang hồ hiệp sĩ, với các ngài thiền
sư bụi đời, các ngài đạo sĩ chán non xanh, các ngài đại trí thức ở chợ búa, thì
được; chứ Kumorai với một đời sống tịch mịch, không rượu, không bóng hồng,
không quán, không đường phố, không cao lâu thì...
Nói đến ngang đó, cậu chàng nhún vai rồi đi thẳng. Chàng nói
với theo:
- Thôi cậu! Đừng chửi cháu nữa. Để coi, rồi cháu sẽ tu tỉnh,
tư duy và sáng tạo cho cậu coi.
Để coi. Để coi. Nhưng chàng họa sĩ trở lại ngôi biệt thự chưa
được ba ngày đã vội vã ra đi! Ông cậu của chàng có lẽ đoán trước được điều ấy
nên đã điện thoại gọi chàng khi chàng về đô thị vừa được một tuần.
Ông tiếp chàng trong căn phòng nhỏ, mỗi bề chừng bốn năm thước,
bài trí thanh lịch và u nhã. Sàn gỗ trải tấm nệm màu nước biển; giữa phòng duy
nhất một án thư, một bình hoa, một bộ trà độc ẩm và hai cái chung. Tường gỗ màu
nâu nhạt sáng sủa, treo mấy bức tranh Thiền tông. Một bức, hình ngài Huệ Năng đẵn
tre, tranh của Lương Khải, nét bút sắc, mạnh và linh động. Góc tường phía đông
là hai bức tranh của Keishoki, một họa sĩ lớn của Nhật bản thế kỷ XIV hoặc XV;
một bức người ta gọi là “Thiền sư và tục khách”, bức thứ hai ghi lại giai thoại
một nhà thơ đời Đường làm thái thú đến vấn đạo Điểu Sào thiền sư.
Cả ba bức này, chàng họa sĩ đã từng nghiên cứu qua. Chàng
không học được gì ở đó vì chẳng có gì đặc sắc, ngoại trừ ý nghĩa của nó. Điều
ngạc nhiên là ông cậu của chàng lại hấp thụ sâu xa cái thẩm mỹ Thiền tông đến
thế. Một ông cậu mà chàng chỉ biết “kính nhi viễn chi” bởi đời sống quy củ, mực
thước; một người cha khả kính trong gia đình; một luật sư lão thành uy tín, cần
mẫn, đầy đủ lương năng xã hội - chàng không ngờ cũng có riêng một thế giới thầm
lặng u nhã và thanh thoát đến như vậy.
- Con ạ! Hôm nay cậu cháu mình sẽ nói chuyện, tâm tình trong
căn phòng mà hai mươi năm nay chỉ tiếp một người: Hòa thượng Không Như. Và bây
giờ là con vậy.
Cái vẻ thân tình, dịu dàng và trang trọng của ông cậu làm
chàng bối rối không ít. Hòa thượng Không Như - chàng đã biết rõ, chính là vị
hòa thượng tịch mịch, cô liêu, thẳm sâu, băng giá, uy nghiêm trong kỷ niệm
chàng. Và như vậy, bằng vào tính chất đặc biệt ấy, thì câu chuyện hôm nay không
phải tầm thường; nó mang một trọng lượng ghê gớm nào đó mà chàng phải chất lên
đôi vai, trí não; hoặc trái lại, phải vứt bỏ tất cả mọi trọng lượng về kiến thức,
tư duy; tước trần trọn vẹn mọi sở đắc của bản ngã mới dám ngồi nơi đây, đối diện
với bức tường nhàn thoát trong căn phòng u nhã thanh tịnh này.
Bây giờ thì chàng mới để ý là ông cậu chàng đã thay đổi y phục
thường ngày để khoác lên người một chiếc choàng rộng màu vàng khói. Và do đó, mọi
nét thế tục trên người cậu hầu như đã biến mất. Trong khung cảnh này, không khí
này - rõ ràng là chàng thấy mình đang đối diện với một thiền sư lỗi lạc - và tất
cả kiến thức, tư tưởng, triết lý, thẩm mỹ học của chàng, sợ rằng sẽ trở nên vô
duyên như thanh kiếm rỉ nằm chơ vơ dưới thạch bàn của vị thiền sư trong bức
tranh kia.
Chung trà thơm ngon đầu tiên cho chàng cái khí vị yên tĩnh và
đầm ấm.
- Bây giờ thì con hãy nói đi. Tư duy lẫn sáng tạo, quan niệm
về thẩm mỹ học - hay cái gì đại loại như vậy - đại loại như đời sống riêng tư
trầm lặng, cá biệt tính, ý hướng tính; và nhất là sự phóng sâu nhãn quan vào vạn
giới cũng như tâm nội... Ở đấy, ở đấy - mà cậu nghĩ là con sung túc lắm, tràn
trề và viên mãn nữa! Nó có thể ngộp chết một người hay xô đẩy y vào cơn điên thầm
lặng. Cuộc đời đã dạy cho con nhiều, phong sương hình như không còn dám bám lên
mái tóc tư duy của con nữa! Con trở về trong bầu trời sương khói, mờ ảo mà lạy
Phật, cậu đã nhìn thấy được. Con bỏ biệt thự về đây, không hẳn là sự bỏ cuộc cuối
cùng - mà gọi là sự bỏ cuộc cuối cùng cũng đúng nữa, có phải vậy không? Cậu hy
vọng xem một họa phẩm cuối cùng của con thôi - ngay chính trong căn phòng này -
là đúc kết trọn vẹn một cuộc đời lên đường, tư duy và sáng tạo của con. Bây giờ
thì con nói đi!
Qua hai tuần trà rồi mà chàng họa sĩ còn trầm ngâm. Ông cậu của
chàng cũng không nóng nảy, khuôn mặt khoan hòa, mát mẻ. Trong thời gian ấy, biết
bao nhiêu hình ảnh, tư duy ồ ạt đến với chàng - như một con thác đổ - mà dòng
sông tâm thức chàng không đủ sức chứa. Đầu tiên, chàng trình bày tóm tắt nhưng
đầy đủ những quan niệm, hiểu biết cùng tư duy của một tuổi trẻ xa xăm. Dự định
chụp bắt cái bề sâu của hiện tượng, nét đẹp của tất cả những cái gì nghịch lý
trong thiên nhiên; hoặc là sự hàm chứa tư tưởng mà hiện tượng muốn nói lên theo
chủ quan của người nhìn ngắm. Chàng cũng không quên diễn tả đầy đủ cái vẻ đẹp sống
động của biển, vẻ đẹp lãng mạn vô bờ của nó; đôi mắt của người nữ tu, cô nhi viện
lẫn ngôi chùa phía bắc. Bao năm tháng qua đi, những bức tranh triển lãm sau này
chỉ làm cho hệ thống lại, hoặc tiếp nối cái tư duy ngày trước. Chàng đã thất bại
như thế nào, con người đã không thể lãnh hội được cái thông điệp mà chàng muốn
trao gởi cho thế gian như thế nào. Quả là chàng vẫn còn sức lửa ở bên trong,
nên đã làm cháy bùng được đôi mắt lặng lờ nguôi lãng của ông cậu: một ánh lửa
lóe lên ở đó.
Chàng lại im lặng. Ông cậu cũng im lặng.
- Mọi sự đều đổi thay, thưa cậu. Chàng nói tiếp - Mọi sự đều
khác đi khi cháu trở về. Chàng có vẻ trầm tư - Bãi biển thơ mộng trước mặt ngôi
biệt thự, bây giờ người ta dựng lên đấy những nhà cửa và quán sá dày san sát.
Cháu tưởng tượng là biển không còn chỗ để thở nữa. Con người đã thật sự xâm
lăng thiên nhiên. Sóng và gió cũng chợt hiu quạnh và thê lương quá đỗi. Nữ tu
viện ngày xưa, con đường mùa thu rợp lá me bay, cháu cũng không còn tìm thấy nữa,
bây giờ là trụ điện, bảng quảng cáo cùng các bảng hiệu giao thông. Còn đôi mắt
của người nữ tu... đôi mắt...
- Đôi mắt? Không, con cứ nói. Đôi mắt, tình yêu, nó đẹp lắm
chứ. Đấy là cái thẩm mỹ học ngàn đời. Ngay cả nhục thể mà một quan niệm Zen Nhật
Bản cũng nói là có thể dựng dậy một tình yêu thanh cao nếu được hướng dẫn đúng
đắn. Con yêu một đôi mắt thì có sao đâu. Cứ nói.
- Đôi mắt của người nữ tu ngày xưa cháu đã từng say mê điên đảo
- thưa cậu, nàng vẫn còn đấy - nhưng hình như không còn ẩn giấu ngập ngừng dưới
làn mi cong nữa. Bây giờ thì đôi mắt ấy mở sáng quá, mở lớn quá, lại như là
nhìn thẳng xuyên thấu hoặc thách thức người đối diện. Mùa xuân và lá hoa không
còn tìm thấy. Những đám mây mùa thu bàng bạc trong bầu trời xanh lơ, vẫn không
tìm thấy. Hồi xưa, cháu chiêm ngưỡng nàng mà phải đứng đằng xa, vòng tay hoặc
cúi đầu thầm lặng; bây giờ nàng tiếp cháu trong phòng khách - căn phòng rộng và
cao, vôi tường trắng toát, quạt máy quay vù vù. Cháu nhắm mắt để tưởng tượng lại
căn phòng thấp ở đây, ngọn đèn dầu lù mù những đêm cháu đi chơi về muộn; qua
tàng cây phủ thấp, dáng nàng đứng lặng lẽ dịu dàng của một cành liễu mơ màng đứng
buông rũ dưới trăng - mà phải trăng không sáng quá. (Giá mà có thêm một bờ hồ
có gió hiu hiu thổi, văng vẳng xa đưa tiết điệu trúc ti?).
Cậu ơi! Cháu nghệ sĩ và lãng mạn quá không? Không. Nghệ sĩ
thì có nhưng không lãng mạn chút nào. Vì đấy là thẩm mỹ ngàn đời như cậu đã từng
nói. Cháu mơ mộng quá chăng? Không. Vì đó chính là thẩm mỹ ngàn đời - thẩm mỹ
quan này là phần thưởng tôn vinh cho những ai đã đạt được cái huyền đồng với
chí mỹ! Nhưng cháu chưa nói điều đó ra ở đây, điều cháu muốn nói là, ánh sáng
điện, sự nghèo nàn của tâm hồn, sự nguy nga của vật thể đã đuổi mất thiên đường
tuổi thơ của cháu. Thiên đường tuổi thơ đã hãi sợ quả đất, bèn chấp cánh bay
cao!
Đôi mắt của người họa sĩ lại thẩn thờ, xa vắng.
Cái cô nhi viện phía tây thì ít kỷ niệm, có bâng khuâng nhưng
chưa thật sự gọi kêu trong cháu một tình-cảm-động nào cả, chỉ là tình-cảm-tịnh
mà thôi. Bây giờ thì người ta đã làm kho chứa phân!
Ông cậu gật đầu:
- Phải rồi! Đấy là sự bức xúc của một thời!
Người họa sĩ mỉm cười ý nhị rồi tiếp:
- Ngôi chùa phía bắc thì hòa thượng Không Như đã tịch rồi.
Người kế vị là một thượng tọa tốt tướng, to lớn, đẫy đà, nước da hồng hào, thiện
nam tín nữ và đệ tử đông đúc. Chùa được kiến thiết và sửa sang thật lộng lẫy.
- Điều đó ta biết.
Trong giọng nói của ông cậu hình như có tiếng thở dài.
- Nhưng cậu cũng cho cháu nói hết, nhất là kỷ niệm và ý nghĩ
của cháu về nó chứ! Người họa sĩ nhắp thêm một ngụm nước trà như lấy hơi - Hồi
xưa cậu ạ! Cháu ngán hòa thượng xiết bao, nhưng sau này cháu kỉnh mộ làm sao
cái vóc hạc cô đơn ấy. Nó mang một vẻ đẹp kỳ lạ. Vẻ đẹp của một cội thông già,
của tùng bách ngàn năm, của đá núi dựng đứng rêu phủ - nghĩa là của tất cả những
gì như trải qua những lịch nghiệm trong đời, phong sương và tuế nguyệt, cái bất
động trầm mặc, lạnh lùng thản nhiên trong lúc sự sống, cuộc đời đang run rẩy đổi
thay, huyên náo ở xung quanh.
Bất chợt chàng họa sĩ ngâm lên nho nhỏ:
Bốn mùa ví thử xuân đi cả
Góc núi ai hay gốc lão tùng.
Ôi! Một cội tùng già, một gốc mai già, một cẳng hạc gầy guộc
ngàn năm. Đẹp biết mấy!
Chàng họa sĩ yên lặng một chốc.
- Hồi xưa cháu không dám ở đó lâu, vì thấy tất cả sân, đường
đi lót gạch, bờ tường, cổng tam quan - đâu đâu cũng dày bịt những rêu. Cháu sợ ở
đấy rồi tâm hồn mình cũng bị đóng rêu luôn cậu ạ. Nhưng mấy ai tâm hồn được mọc
rêu cậu nhỉ? Những đám rêu vô danh, lặng lẽ, xanh, khiêm nhường, tịch mịch, yên
nghỉ? Hồi xưa, cháu ngán tiếng chuông u minh thì giờ đây, cháu thèm nó xiết
bao! Cũng là ngôi chùa ấy nhưng tiếng chuông bây giờ sao có vẻ dồn dập, vội vã;
tiếng kêu không còn lặng, không còn trầm mà như muốn gọi kêu sự hiện hữu, muốn
vỗ ngực, nhón gót lên cho mọi người đều thấy mình, biết mình. Đấy, đấy là điều
mà cháu gọi là sự “huy hoàng của thời mạt pháp”. Ồ! Không! Nên nói là bị “vật
thể hóa” thì đúng hơn - dùng theo thuật ngữ của Heidegger! Nhưng nhờ “vật thể
hóa” nên nó bề thế, lộng lẫy, chói chang và sặc sỡ... Cậu ơi! Cái ấy nó đã bỉ
báng lên tâm hồn cháu biết bao nhiêu! Cháu cũng thầm thương cho mình rồi chảy
vài giọt lệ. Chú Ích, chú Sanh, những tâm hồn thi nhân cỡ lớn của cháu đã không
còn ở đấy nữa. Các chú sợ bị vật thể xâm lăng nên đã chạy trốn lên núi cao; một
gùi, một gậy, một túi thơ với trời mây, chim muông và cây cỏ...
Người họa sĩ im lặng ngang đây, đôi mắt vẩn vơ nhìn lên bức
tranh “thiền sư và tục khách”, lại nói tiếp:
- Cây kiếm của tục khách đành bỏ lại - chàng chỉ lên bức
tranh - thì cây cọ của cháu cũng đành bỏ lại, chẳng vẽ được gì, không vẽ được
gì; trước cũng như sau, khi cháu ở, đi hoặc trở về lại ngôi biệt thự ấy. Sự sống,
cuộc đời bao la quá. Vẻ đẹp cũng bao la và thiên hình vạn trạng quá.
Ông cậu vẫn ngồi im, không xen lẫn một lời nào, sợ tư duy của
người họa sĩ không được liên tục.
- Đấy là chuyện ngoài ngôi biệt thự. Còn trong ngôi biệt thự
thì cháu thấy gì? Cậu ơi! Khi bước chân vào cánh cửa sắt hoen rỉ, cháu thầm ngạc
nhiên tại sao ký ức nơi cháu về “bên trong” ngôi biệt thự lại ít ỏi và nghèo
nàn đến thế! Phải chăng tuổi trẻ là cái “sống ngoài”, như một thời thơ ấu của
cháu? Trong ngôi biệt thự nơi cháu sống, ăn, ở, học hành với các anh chị, với
dì và dượng, với cả người làm vườn già nua nữa; nơi cháu thở, nơi mà cháu trưởng
thành từng giọt máu, từng tế bào; để rồi, đến nỗi những điều mà cháu sắp nói ra
đây, mọi tư liệu đều do người làm vườn già nua kỳ lạ ấy cung cấp tất cả...
- Người làm vườn ấy ư? Ồ! Ta biết rõ y lắm. Y cũng là một nghệ
sĩ giang hồ. Cuộc đời y thật kỳ lạ. Y đã từng là tay đại ca “đứng bến”, khí
phách, hảo hán. Lại còn một khoảng thời gian là tu sĩ; cũng là một nhà văn
chuyên viết phóng sự và chuyện đường rừng... Sau này, phước duyên đâu đó lại được
gặp hòa thượng Không Như!
- Phải rồi! Có thế chứ! Người họa sĩ vỗ tay lên đùi mình -
Thưa cậu, hồi xưa cháu chỉ biết mang máng; và cháu không để ý gì đến lão lắm.
Sau này, khi trở về, cháu mới chợt nhận ra đấy là một hòn núi Thái Sơn. Cũng kỳ
lạ xiết bao, những hòn núi Thái Sơn đều ở ngay nơi cái chỗ mình bỏ để ra đi,
không thấy!
Khi nói, chàng liên tưởng đến hòa thượng Không Như, lão làm
vườn già nua và cả ông cậu của chàng nữa. Chàng chợt thấy mình nhỏ bé lại,
khiêm nhường hơn tí nữa.
- Cậu ơi! Chàng tiếp sau một hồi trầm tư - Ngôi biệt thự đã
thay đổi ngoài sức tưởng tượng của cháu. Khoảng vườn phía trước vẫn còn râm
mát, vẫn còn dày bịt những tàn cây, con đường lót sỏi trắng từ ngoài cổng vào
thì rõ ràng từ lâu không có người lui tới hoặc kẻ quét dọn chăm sóc. Lá vàng,
lá mục chất đầy xen lẫn cứt chim, cứt chuột, trái cây vụn bẩn, nhầy nhụa do dơi
đã ăn thừa vung vãi ra. Sao hoang vắng và tịch liêu quá cậu ạ. Lòng cháu chợt đọng
lại một cách đột ngột, có lẽ do trạng thái quá đầy của thị thành, rồi bây giờ
rơi hẫng vào không gian tịch mịch này chăng? Cháu chưa phân tích vội, nhưng quả
thật, ở đâu cũng toát ra cái mùi vị điêu tàn. Những gốc cây hình như cũng sần
sùi và hiện ra những hình thù ma quỷ quái đản. Những cành cây thì khẳng khiu hoặc
chơ vơ như những cánh tay tuyệt vọng của ai muôn đời khôn với tới trời cao! Sự
nhộn nhịp của đô thị cho cháu cái váng vất say khướt đến mệt mỏi và bệnh hoạn;
nhưng cũng hàm tàng sinh lực, là cuộc đời, là sự sống trẻ trung; thì ở đây là sự
cô liêu của nghĩa địa; một cái gì đã hoàn toàn buông tay, đã chấm dứt hơi thở.
Nghĩa là sự già lụn và tử vong!
Cậu ơi! Cháu mang ấn tượng rờn rợn, ngây ngấy trên da thịt -
không biết là tại sao - khi đi thăm mọi tàn tích, kỷ niệm. Cháu mong sẽ tìm ra
được một vẻ đẹp nào đó ở nơi đây. Vẻ đẹp của sự điêu tàn chẳng hạn. Nhưng cháu
chỉ gặp sự cô liêu. “Vẻ đẹp của cô liêu” ư? Đấy là điều bất khả. Đấy là sản phẩm
của những tư tưởng tiêu cực, những tâm hồn bệnh hoạn, những đầu óc đầy đặc đen
tối và vàng úa! Cậu cho cháu được nói thế. Phải rồi, cháu chỉ bắt gặp sự cô
liêu; mà chết nỗi, cháu không nắm bắt được, hoàn toàn không nắm bắt được sự cô
liêu ấy nó ở đâu. Mà hình như ở đâu cũng có nó cả. Có thể ở nơi cái bề thế
khang trang và vĩ đại của ngôi biệt thự trong ký ức của cháu chăng? Cũng có thể
ở nơi mái nhà ngói đỏ vươn lên, và lẻ loi quá giữa bầu trời xanh thẳm của mùa
xuân miền biển? Cũng có thể ở nơi hai dãy nhà ngang gồm phòng đọc sách, phòng
khách, thư viện, nhà để xe, phòng chưng hoa... bây giờ đã đóng cửa im ỉm với những
mặt kiếng rạn nứt hoặc lờ mờ bám đầy bụi. Cũng có thể ở nơi cái sân thể thao nhỏ
trán xi-măng mà bây giờ rêu và cỏ mọc dày chi chít, chen lẫn những cành hoa dại
vươn lên - vươn lên với màu sắc tươi thắm nhưng yếu đuối và mảnh mai quá. Cũng
có thể ở nơi mấy chiếc ghế đá nằm lăn lóc cạnh hồ tắm mà lâu quá không có hơi
người hoăc mưa nắng đã làm cho phai nhạt lớp men ngoài?
Cậu ơi! Cháu nhìn ngắm tận tường đủ mọi thứ - và thú thật, thẩm
mỹ quan trong cháu đã bắt đầu chuyển hướng. Một cái gì gượng gạo và không thật
bấy lâu, bây giờ vỡ bùng ra - để lộ nguyên trạng cái sơ thủy, cái bổn lai của cảnh
vật, của thực tại. Cháu sẽ diễn tả điều này rõ ràng hơn. Ví dụ như cháu thấy
cái hồ tắm xinh xắn thở xưa, bây giờ đã khô cạn, cây cỏ mọc um tùm; phía dưới một
vũng nước dành cho ễnh ương, cóc nhái bơi lội bì bõm bên đám lục bình cao nghễu
nghện, nỗi lềnh bềnh xen lẫn bao ni-lông, giấy vụn và rác rưởi... Đối với cháu,
đó là toàn thể cuộc đời, là thực tại toàn bộ, nguyên thủy chưa hề có bàn tay khối
óc hoặc tình cảm con người tham dự. Ý cháu muốn nói gì? Quan niệm thẩm mỹ nhân
bản vốn từ chối thực tại nguyên thủy trên; nó không cho phép người ta tùy ý
trét tô lên cảnh vật những màu sắc hoặc những hình thù quái dị, những đường nét
thừa thải đứng xen nhau trong toàn thể. Vậy thì sự cô liêu, điêu tàn của khung
cảnh này có mang sắc thái thẩm mỹ nhân bản không? Không. Chắc chắn rằng không.
Nó phi nhân bản. Phi nhân bản cũng đồng nghĩa với thực tại toàn bộ, vô luân và
tuyệt đối!
Ông cậu chợt góp một câu:
- Tư tưởng của cháu thật là quái gở! Nó kỳ dị chứ không phải
là tối nghĩa.
Chàng họa sĩ cười nhẹ:
- Thế là cậu đã nắm bắt được ý cháu. Ồ, kỳ dị lắm! Cho cháu
tiếp... Thực tại toàn bộ ấy, như vậy nó đồng nghĩa với cô liêu. Mà cô liêu thì
nó làm héo lòng người chứ không đem lại một sức mạnh, một trạng thái êm đềm hoặc
một lạc phúc nào cả. Có thể người ta sẽ học được một bài học nào đó, nhưng chắc
hẳn chỉ để dành cho thiểu số người, kẻ có sẵn trình độ lớn. Cháu muốn đi xa hơn
chút nữa. Thực tại vốn đẹp hay xấu? Điều đó khó nói quá. Tách rời từng sự vật
ra thì sự vật vẫn chỉ là sự vật; hình tướng, tính chất có từ, có sẵn
ở nơi nó chứ không phải ở nơi người nhìn ngắm. Thực tại toàn bộ cũng vậy, nó
không có giá trị và ý nghĩa gì. Nó ở ngoài thẩm mỹ quan nhân bản của chúng ta.
Nó như vậy. Ngàn đời nó như vậy. Một con thằn lằn yên lặng lờ đờ nhìn muỗi mòng
ruồi nhặng mà không buồn há miệng ra - nó đẹp hay xấu? Khó nói. Người mang tâm
thức như tờ giấy trắng, khi nhìn nó, thì nó chỉ là nó thôi. Nhưng người mang đầy
đặc kỷ niệm, ký ức, quá khứ, tư duy, ý tưởng, tình cảm, quan niệm... thì y sẽ
nhìn ra cái khác, cái khác này có ở nơi y! Dùng theo thuật ngữ Phật giáo thì nó
chính là mẹ sinh ra phiền não; là “tư hoặc, kiến hoặc” vậy. Cậu có đồng ý thế
chăng?
Thanh niên họa sĩ cười cười trong ánh mắt nhìn lão luật sư.
Ông cậu chàng gật đầu nhẹ, im lặng. Chàng họa sĩ nói tiếp một hơi, hình như ngại
tư tưởng ấy nó loãng đi.
- Tiếng một con nhái quẫy mạnh từ cái chậu nuôi cá, nhảy hẫng
lên rồi bám chặt nơi cành phong lan chỉ còn trơ những cọng vàng - khêu gợi
chàng nghệ sĩ hay người tư tưởng nhìn ngắm, tư duy, liên tưởng, mơ mộng hoặc
suy chiếu với quá khứ, với hiện tại hoặc tương lai - để rồi phát sinh ra...
phát sinh ra... cái trần gian ảo vọng... cái tam giới duy tâm... Ôi! Con nhái
là con nhái thôi. Chẳng có gì cả. Chẳng có ý nghĩa, giá trị gì cả. Và đấy là
“thực tại y như là thực tại”, thưa cậu.
Lão luật sư có vẻ chăm chú lắng nghe những điều này lắm.
Chàng họa sĩ giang hồ chợt nói lớn, giọng như vỡ ra, bùng lên:
- Hãy đốt đi thẩm mỹ học; thẩm mỹ nhân bản và cả phi nhân bản;
tương đối và tuyệt đối! Cái gì thế? Căn nhà thì nói là căn nhà, có thẩm mỹ gì
đâu? Sự sống vận hành đâu cần một tiêu chuẩn thẩm mỹ nào? Thẩm mỹ học là nơi
phân biệt ý nghĩa, giá trị, tiêu chuẩn chủ quan hay phổ quát. Cậu ơi! Nó là
nguyên động lực tạo thêm sự nghịch năng, đau khổ và hỗn loạn cho cuộc đời; xung
đột bên ngoài, xung đột bên trong, đánh mất sự quân bình hài hòa tâm nội. Cậu
có đồng ý với cháu điểm này không?
Ông cậu lặng lẽ rung đùi nói:
- Khi cậu và con ngồi đây, mùa xuân đang đến, đang ở và đang
đi; nó “không đẹp hơn” cũng “không xấu hơn”. Bên ngoài cửa sổ, những cành mai
đong đưa theo gió; cái thì nở, cái thì búp, cái thì rụng. Cái cánh to, cánh nhỏ,
cánh dài, cánh ngắn. Thảy đều tự nhiên.
- Đấy! Đấy là điều mà cháu muốn nói. Trời ơi! Suốt cuộc đời
tìm kiếm, sở dĩ không bao giờ cháu với tới được thực tại; sở dĩ cây cọ của cháu
bất lực là vì cháu không bao giờ vẽ “thực tại” mà cháu chỉ vẻ tâm niệm, tư và
tưởng của chính cháu thôi.
Lại im lặng. Ông cậu cất tiếng:
- Có một triết gia nào đó nói là “giải thoát tri kiến”; có một
triết gia nào đó nói là ”sự đảo hoán tận căn mọi kiến tưởng”! Nói đúng cả,
nhưng đó đâu phải là cái để sống? Đấy mới chỉ là cái để nhận thức! Hai điều này
cũng dường như khác nhau lắm chứ? Con nghĩ thế nào? Vì cuối cùng vẫn có cái đẹp
và cái xấu chớ? Vẫn có thẩm mỹ quan nhân bản và phi nhân bản chớ? Nghĩa là, vẫn
có cái thiện và cái ác đó mà!
Ông cậu nhìn chàng họa sĩ, mỉm cười lặng lẽ, rồi đứng dậy bước
ra trước hiên, cắt một cành mai đem vào. Người họa sĩ vừng trán nhăn lại. Có lẽ
điều này vượt ngoài hiểu biết của chàng chăng?
- Con là họa sĩ, nhà thẩm mỹ! Con cắm nhành mai này thế nào?
Ông cậu trao cho chàng một cành đầy lá, năm bảy hoa nở và rất
nhiều hoa búp.
- Phải tỉa bớt lá xen lẫn giữa hoa. Lá nó nhiều quá. Quá nhiều
màu xanh mà ít màu vàng; sợ rằng cái “chính” nó thành cái “phụ” chăng?
Người họa sĩ nhìn rồi nói ngay, có lẽ là theo thói quen cân đối
thẩm mỹ. Ông cậu vẫn lặng lẽ mỉm cười để cho người họa sĩ tự do cắt tỉa.
Khi đã cắm xong, lão luật sư gật gù:
- Đẹp lắm, thẩm mỹ lắm! Ông ngừng giây lâu - A! té ra con phá
bỏ thẩm mỹ quan nhân bản mà con vẫn còn bị phạm trù và quy định của nó ư? Lẽ
đâu có thế! Lẽ đâu có thế!
Người họa sĩ há hốc, đứng trân.
- Vẫn có cái đẹp và cái xấu chứ con? Ông cậu ôn tồn nói - Cái
đẹp chung chung giữa cậu và con đó mà!
Người họa sĩ tần ngần tắc lưỡi:
- Cậu để cho cháu “thong thả” về điểm này!
Lão luật sư để chàng ngồi đó trong thế giới tư duy trầm mặc,
khi trở lại thì thấy chàng đang săm soi ngắm bức tranh nhà thơ đời đường và Điểu
Sào thiền sư. Ông cậu hỏi:
- Con còn nhớ quan Thái thú hỏi Đạo thiền sư Điểu Sào câu hỏi
gì không, nơi bức tranh ấy?
- Dạ có. Chàng đáp - Ông ta hỏi Điểu Sào: “Đại ý Phật Pháp là
gì?” Điểu Sào đáp: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị
chư Phật giáo.” Quan Thái thú nói: “Điều ấy thì trẻ nít lên ba cũng biết.” Điểu
Sào đáp: “Trẻ nít lên ba cũng thuộc nhưng ông lão tám mươi làm không được.”
- Con thấy gì? Ông cậu hất đầu hỏi.
- Chấp nhận tương đối, hữu hạn nhân quả chăng?
Ông cậu lặng lẽ ngồi xuống. Im lặng một lúc nữa, thấy ông định
nói, nhưng không nói nữa; có lẽ ông ngần ngại một điều gì. Ông nhìn người họa
sĩ rồi đưa mắt qua bức tranh “Lục Tổ đẵn tre”.
- Thôi! Cuối cùng mọi việc sẽ đâu vào đấy cả. Chân lý luôn
luôn diễn bày trước mắt. Ta hy vọng con không chóng thì chầy cũng thấy được,
cũng uống được ngụm nước đầu nguồn. Trong, sạch, không biết - nhưng nó đầu nguồn.
Bây giờ thì con hãy kể tiếp đi. Mọi nhân mọi duyên đều cần thiết cho con cả.
Chàng họa sĩ trở lại án thư, ngồi theo thế bán già:
- Dạ phải - và chàng nói - Trước khi tiếp tục vào chuyện, cho
cháu được nói sơ qua về lão làm vườn, mà có lẽ cậu còn biết lão hơn cháu nữa.
Lão cũng đóng một vai trò nào đó trong cái tâm thức vỡ òa của cháu.
Thưa cậu, lão dẫn cháu đi thăm các nơi, dọn phòng cho cháu ở,
nấu cơm cho cháu ăn. Nhưng bao giờ cháu cũng có cảm tưởng rằng, lão nhìn cháu bằng
cái nhìn của “bề trên”! Cái nhìn này là cái nhìn đầy kiến thức, phong trần, sắc
bén, dày dạn, trầm lặng - mà cũng bao dung, hiền từ và độ lượng nữa. Xin lỗi cậu,
cháu phải mất khá nhiều tính từ mới khả dĩ dựng đứng lão nơi đây để cùng cậu và
cháu nói chuyện tay ba. Ồ! Vui biết mấy!
Ông cậu cảm thấy người họa sĩ giang hồ trước mặt vẫn có cái
giọng ngây thơ độ nào. Ồ! Cái ngây thơ cũng không mất đi mà! Ông thầm nghĩ.
- Cậu ạ - sau một tiếng cười, người họa sĩ tiếp - Nếu không
thế thì làm sao diễn tả được con người muôn mặt của lão ta? Cậu xem, vết xăm
chó sói nơi ngực lão là chứng tích một thời làm đại ca; vết dao lớn nơi vai là
chứng tích một thời đâm chém, hảo hán giang hồ; rồi ba chấm nhang trên đầu lão
là dư huệ một khoảng đời làm tu sĩ. Có một cái gì tương phản giữa mấy chứng
tích bất khả đồng hiện hữu này. Lão còn là nhà văn, nhà thơ nữa chứ. Quả là
trong lão có cả thiên thần lẫn ác quỷ; nai tơ và chó sói! Cậu có tin không? Con
nai tơ nằm sau lưng lão đấy! Khi cháu thoáng thấy, muốn phanh áo xem thì lão
hét: “Đừng tò mò, công tử! Nhìn nhau thì nên nhìn bằng đôi mắt chó sói thôi!”
Câu nói trọng lượng quá chứ cậu. Lại gọi cháu bằng “công tử” nữa chứ. Lão ta đã
“sỉ nhục” cháu đến thế là cùng. Hóa ra hơn mười lăm năm giang hồ của cháu chẳng
có nghĩa lý gì đối với lão cả. Khi ấy cháu cố nuốt nước bọt sâu trong cổ rồi hỏi
dịu dàng: “Thế con nai tơ có ý nghĩa gì?” Ông lão mỉm cười hiền lành: “Cậu ăn
cơm kẻo đói”. Cứ làm như là lão thiền sư không bằng. “Đại ý Tổ sư tây lai là
gì?”. “Con ăn cháo chưa?”. “Dạ rồi”. “Thế thì hãy rửa chén đi!” Đấy, đấy! Nó thời
thượng quá chứ! Nhưng mà không, tại cháu xiêng xẹo, chứ ý của lão là thế này: đừng
đóng vai trò nai tơ ngoan hiền với cuộc đời mà sau lưng lại dấu cái mõm chó
sói. Thà rằng bên ngoài dữ tợn như chó sói mà tấm lòng bên trong lại dịu dàng
như con nai tơ! Cậu ơi! Cái lão già làm vườn kia mà cũng dạy cho “thiên tài”
này nhiều bài học quá sá. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, Tôn Ngộ Không
thần thông mãn biến mà cũng không nhảy qua được bàn tay của Phật tổ Như Lai.
Cái lão đại giang hồ ấy chẳng biết nhân duyên nào mà lại chịu khuất phục bởi
hòa thượng Không Như! Chuyện ấy cậu biết rõ, cậu kể cho cháu nghe.
- Rồi hẳn hay. Con kể tiếp đi.
- Dạ. Bây giờ cháu đi vào chuyện căn phòng. Chính tại nơi căn
phòng này mà những hồi ức của cháu về đời sống của gia đình dượng và dì - lẫn
giọng kể hài hước hoặc thâm trầm ý vị của lão làm vườn - nó kích động sâu xa đến
tâm não cháu, len tận cả vào chiều sâu vô thức của cháu nữa. Ôi! Biết nói làm
sao... là những hoàn cảnh, những... những con người... những cuộc đời... Rõ
ràng mọi thẩm mỹ quan của cháu đều tuyệt vọng, ngơ ngác, bối rối trước cái vô
biên của “định mệnh” đã trải ra để vây chụp hoàn vũ, mọi thể phận, tánh phận của
con người! Cậu cho phép cháu dùng chữ “định mệnh” như hàm chỉ cái gì “tất yếu”
nhé?
Người họa sĩ cười ý nhị. Lão luật sư cũng cười.
- Khéo bày vẽ. Con nói chuyện với ta mà tưởng như nói chuyện
với một tu sĩ Phật giáo “chính thống” không bằng. Đâu có, đâu có tương tranh,
nghịch lý nào giữa định mệnh thuyết của Khổng Nho với lý nghiệp báo nhân quả tất
định của Phật Mâu-ni. Dùng chữ “định mệnh” để hàm chỉ cái gì ràng buộc con người
trong hữu hạn; cái nghiệp quả mà y phải gánh nặng trên vai thì đúng lắm chứ. Ta
đồng ý với con như vậy.
- Định mệnh buộc chặt thì tự do vùng vẫy. Tự do vùng vẫy
không ra ngoài định mệnh; vì định mệnh quá sâu dày, hay nghiệp báo quá sâu dày,
vô minh quá sâu dày thì cũng giống nhau phải không thưa cậu? Và như vậy thì tự
do phải tìm đường thoát. Không thoát ra ngoài bầu trời cao rộng như cánh chim
thì ngồi trong lồng mà “tưởng tượng” rằng: “Cái lồng là bầu trời”. Lối thoát
này có cái thanh, có cái trược; có cái thiện, có cái ác; có cái động, có cái tịnh;
có cái đạo đức, có cái phi đạo đức; có cái hận thù và có cái từ bi... vân vân
và... vân vân...
Người họa sĩ nhìn lão luật sư mà cười trong đôi mắt, nói chậm
rãi, rõ ràng:
- Ông Phật cũng là cái ông vùng vẫy không ra khỏi định mệnh
nên tìm lối thoát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn đó thôi!
Ông cậu cười sảng khoái:
- A! ta đâu phải là “cục kê” cho Phật giáo mà con gác chân
gác tay nặng thế? Được, không sao! Lý luận và tư duy vốn tự do, “tự do trong định
mệnh” - ông cậu lặp lại câu đó rồi cười hề hề - mà con bảo ngài đại từ đại bi
thì ngài đâu có thèm chấp nhất chi trẻ nít!
Người họa sĩ cười dịu dàng:
- Thỉnh thoảng cháu cũng tung thử vài chiêu để coi nội lực của
cậu có thâm hậu không, đã “lô hỏa thuần thanh” chưa, hay cậu chỉ là em của Cừu
Thiên Nhận giả tung “thiết sa chưởng” để lóa mắt cao thủ giang hồ là cháu đây!
Chàng vỗ ngực, cười ha hả rồi nhắp thêm vài chung nước trà.
- Cậu ơi - Giọng chàng trầm xuống - Rõ ràng là mỗi người vùng
vẫy mỗi cách. Có kẻ thì vùng vẫy hào sảng trên đỉnh cao ngàn trượng, cất tiếng
cười lạnh giá cả trăng sao! Có kẻ vùng vẫy khí phách liệt oanh như chú ngựa Hồ
tung vó ngoài quan ải! Trái lại, cũng có kẻ vẫy vùng trong đống bùn tanh hôi hạ
liệt chỉ dành cho dòi bọ, muỗi mòng! Nếu nói rộng thêm nữa, có người vùng vẫy
cười sằng sặc trong máu me và thịt xương đồng loại. Có người vùng vẫy với ngựa
xe áo mão, no nê với giấc mộng công, hầu, khanh tướng. Có người vùng vẫy lê lết
kiếm ăn nơi quán chợ góc đình. Có người vùng vẫy trong thư phòng khói đọng, ngọn
đèn leo lét, hoặc truyện hoặc thơ hoặc kinh hoặc sử. Có người vùng vẫy trong
chén rượu, cuộc cờ qua ngày qua tháng. Có người vùng vẫy giữa động vắng non
cao, với chim muông, dã thú, trăng sao và hoa cỏ. Có người vùng vẫy với thúng mủng
lật lường mua ba chém bảy... Mỗi... mỗi... đều vùng vẫy để kiếm tìm hạnh phúc
hoặc tự do trong cõi phù sinh bọt bèo bày. Vậy là cậu ơi, sự vùng vẫy ấy nói
lên cái gì? Nói lên sự bất lực trước tuyệt đối, vô biên? Chối từ tuyệt đối,
vô biên? Hay kiếm tìm tuyệt đối, vô biên? Bất khả! Mà cũng có thể cả
hai, cả ba? Mà cũng không hẳn cả hai, cả ba? Khó nói!
Người họa sĩ dừng lại, nhìn cậu.
- Ngôn ngữ cháu sử dụng có hiện sinh quá không? Thời thượng
quá không? Hoặc là, có mờ mịt không hả cậu?
- Dễ hiểu lắm! Con cứ nói. Ta uống từng giọt. Và người cũng
váng vất khướt say như nhắp một ly rượu mạnh.
Người họa sĩ chợt vỗ tay cười:
- Hay quá! Ít khi mà cháu có được cuộc nói chuyện sảng khoái
như thế này. Nói có người nghe, đã khó. Nghe mà “hiểu” lại càng khó hơn. Hiểu
mà “thông” lại càng khó hơn nữa. Thông mà “biến” mà “cửu” thì lại càng hy hữu!
Nhất là cháu lại là tên lãng tử phiêu bạt kỳ hồ, ma vương ác quỷ - còn cậu là bậc
quân tử chính hiệu Khổng Nho! Quả thật, cháu là trưởng lão Ma giáo Khúc Dương,
còn cậu là Lưu Chính Phong bạch đạo! Ha... ha... Hai ta hãy gãy một khúc “Tiếu
ngạo giang hồ” cậu nhé!
Người họa sĩ để cho tiếng cười của mình lắng dịu đi, rồi tiếp
với giọng chậm rãi, xa vắng hơn.
- Sở dĩ mà cháu nói gà nói vịt, mang tính chất hí lộng như thế
là để làm cho nhẹ bớt cái trọng lượng đang đè nặng trong cháu khi nhắc đến câu
chuyện gia đình dượng và dì! Cậu ạ! Dượng và dì cháu cũng vùng vẫy. Dượng cháu
vũng vẫy trên chính trường. Dì cháu thì vùng vẫy trên thương trường. Vùng vẫy
được hay không được, cuối cùng đều bi thảm cả. Chắc cậu cũng biết rõ câu chuyện,
nhưng cứ để cháu nói, bằng vào cái nhìn của cháu.
Dượng cháu thì vùng vẫy để rồi thành công trong cơn điên thầm
lặng. Căn phòng cháu ở hôm ấy chính là căn phòng mà dượng cháu sống “vinh
quang” trong những ngày cuối cùng của cuộc đời. Cái gì cũng gợi lên hình ảnh của
con người bất đắc chí đó cả. Ông lão làm vườn chắc chắn là nhân chứng nên lão kể
với đầy đủ chi tiết, bóng bẩy có, văn hoa có, khôi hài, sâu sắc và ý nhị có...
Bây giờ cháu kể lại cho cậu nghe.
Đến đây thì chàng họa sĩ trầm ngâm.
Thời gian qua đi chừng nửa khắc, y cất giọng đều đều.
- Cậu ạ! Ông quả là một nhà chính khách lỗi lạc và ái quốc
chính hiệu. Sau khi “trở về”, ông cho sửa sang lại tất cả phòng ốc. Có nơi để
làm việc, nơi tiếp sứ thần ngoại giao, nơi diễn thuyết, nơi nghỉ ngơi. Buổi
sáng ông điểm tâm bằng một ly rượu mạnh, nhấc điện thoại gọi qua bộ quốc phòng
hỏi về chương trình “nguyên tử” và ngân sách dự bị chiến tranh; nhấc điện thoại
gọi qua bộ xã hội hỏi số ngoại trợ cho thương binh và cô nhi... Sau đó, ông
đóng veston xám, thắt caravate, mũ dạ, tay xách cặp, tay chống gậy nạm vàng bước
qua diễn thuyết ở hội trường quốc gia. Ông lên bục cao nói lưu loát bằng tiếng
Anh, trước khi ngả mũ ra, đầu cúi thấp chào thính giả, thái độ như một
“gentleman” chính cống. Ông nhã nhặn xin lỗi cử tọa là đến trễ mấy phút vì mãi
bận kiểm tra và phân phối các công tác hành chánh. Nụ cười lịch sự nở ra sau bộ
râu cá trê muối tiêu. Ông nhướng nhướng cặp mắt rồi xoa xoa hai tay vào nhau
như cái điều “rất tiếc, rất tiếc”, như cái điều lỗi lầm mà không ai có thể
tránh được; và vì nhờ quý ngài đều là những người “trí thức” và “độ lượng” cả.
Ông cố ý kéo dài chữ “và” - như thể “trí thứ” và “độ lượng” vốn là hai cái gì
khác nhau! Và thế là bắt đầu cuộc diễn thuyết tràng giang đại hải, nói về sự
tranh chấp thế giới, các thế lực chính trị đang khuynh loát toàn cầu; sự bế tắc
kinh tế của các nước nhược tiểu, do nhân mãn, ngu dốt và kiêu căng; sự tranh đấu
về quyền tự quyết của các nước Á - Phi; những “hiệp hội” quốc tế đang hình
thành không cứu vãn nổi thế cờ chính trị đang đi về các tay chủ nghĩa đế quốc
trục lợi... Và thế là... và do đó... chỉ có giá trị “nhân chủ” là tối thắng, ưu
việt, (sở dĩ ông nói giá trị “nhân chủ” là tối thắng, ưu việt, có lẽ do một tiến
trình suy tư lâu dài - mà bởi quý ngài đều là bậc trí thức nên điều đó quý ngài
cứ suy luận là khắc hiểu, tôi không dám làm mất thì giờ của quý ngài - có lẽ
ông nghĩ thế chăng?) Thế rồi, ông nói tiếp - và quả không nằm trong một mạch lạc
nào cả - một quốc gia chỉ đứng vững và đứng mạnh khi quốc gia ấy biết tự chủ, tự
lực và tự cường - ông đưa tay làm dấu cái kiềng ba chân, mỗi chân là một chữ “tự”
- trong mối tương quan ngoại giao “phải lẽ” không vong thân mà cũng không cô lập
kiêu ngạo để tự diệt. Đường lối này - hai tay ông nắm chặt vào nhau như rõ ràng
là “nó ở đây rồi”, “tôi nắm chặt ở đây rồi”, rồi nhấn mạnh từng chữ từng câu -
chúng tôi xin tuyên bố với quốc dân khả kính. Và chúng tôi dám xác tín rằng, nó
được hình thành do một khối óc siêu việt, khôn ngoan và thông minh nhất loài
người. “Đường lối ấy”... “Đường lối ấy”... Đại khái là bao giờ ông cũng diễn
thuyết những điều tương tự, nhưng quy mô hơn, rộng lớn hơn, văn hoa và suôn sẻ
hơn. Nhưng khi đến chỗ cuối cùng, “Đường lối ấy... Đường lối ấy...” là dường
như ông bắt đầu sùi bọt mép, hai tay rã rời sau cái nắm chặt, thân thể chúi tới
phía trước rồi gục xuống mê man. Người cháu gái của ông, hoặc tôi (lời của ông
lão làm vườn) đã theo thói quen là cứ để ông nói gì đó thì nói, nhưng đoán chừng
thời giờ rồi vểnh tai nghe... Và cứ mười lần như chục, đến ba chữ “đường lối ấy...
đường lối ấy” từ to đến nhỏ lần, là chuẩn bị vào phòng là vừa. Vào phòng thì
đúng lúc tiếng “đường lối ấy” còn mấp máy trên môi ông trước khi “bất tỉnh nhân
sự” không còn biết gì nữa. Thế là cứ việc vực ông vào phòng, nhúng một chiếc
khăn lạnh đắp lên trán. Chiếc phòng này - ông lão làm vườn đưa tay chỉ - nhưng
thuở trước còn tấm nệm và bọc tấm drap xanh kia. Nhưng như vậy đã hết đâu, vì
ông là một nhà ái quốc, đâu có thì giờ rảnh rỗi, chí trong giấc ngủ mà ông vẫn
còn làm việc thay! Thế là vừa tỉnh dậy, theo thói quen nghề nghiệp siêng năng
và cần mẫn, ông đưa tay lên đầu nhấc điện thoại. Thật ra, do cái điệu bộ mà ta
đoán thế chứ bà dì đã cho cất mọi thứ ấy rồi. Ông nhấc điện thoại rồi hỏi han
lung tung mọi vấn để có vẻ chuyên nghiệp và chuyên biệt ở các bộ. Thỉnh thoảng
ông cũng phùng mang trợn mắt lên, có lẽ là do một vài ông lớn nào đó tắc trách
trong nhiệm vụ chăng? Phùng mang trợn mắt hoặc là la hét to tiếng... ông giận dữ
thật là ghê gớm. Xong công việc đó, ông sửa sang lại y phục, đến tấm kiếng lớn
nơi tủ quần áo - tủ áo quần vẫn còn khi chàng họa sĩ đến đây - tém tém lại bộ
râu, quay lưng lại sửa nếp nhăn sau áo, mang nón gậy... rồi chững chạc và bệ vệ
bước qua phòng tiếp các sứ thần ngoại giao... (mà có lẽ người ta chờ đợi tiếp
kiến đã lâu lắm!)
Đấy là phòng khách tương đối lớn có hai bộ salon nhung màu đỏ
thẫm, một ít tạp chí ngoại quốc, vài bức tranh sơn dầu của một họa sĩ vô danh,
hai bình hoa - thường là cắm đầy hoa ni lông. Thỉnh thoảng, đứa cháu gái theo lệnh
bà dì đem thay vào đấy ít hoa cúc Nhật màu vàng nhụy đen (ôi, cái màu vàng nhụy
đen. Phải chăng sự bất hạnh thường đã do “thiên nhiên” hoặc “ngẫu nhiên” báo
triệu?) Ông không làm tổng thống, thủ tướng được suốt cả một đời bôn ba quốc nội
lẫn quốc ngoại; vào tù ra khám vì bị nghi ngờ là thuộc nhóm chính trị đối lập,
phản động - thì cũng làm tổng thống và thủ tướng được, ít ra là trong biệt thự
này, trong căn phòng này - trong “cơn điên thời đại” của ông. Tất cả mọi người
đã quá quen thuộc chương trình hoặc giờ giấc bất thường của nhà “đại chính
khách” nên cũng không lấy đó làm điều, đôi khi có vẻ vui mừng là khác nữa! Ông
không hề phá phách hoặc đụng chạm đến việc của ai. Thỉnh thoảng - thỉnh thoảng
thôi - khi nghe tiếng cười giỡn thái quá của cháu con, ông lắng tai nghe rồi chống
gậy bước ra, nghiêm nét mặt lại nói: “Một người có “văn hóa” không bao giờ bước
chân đi nặng nề, dậm thình thịch, nói to tiếng dẫu là trong phòng một mình - huống
chi các người lại nô giỡn như vỡ chợ thế?
Các người không sợ bị mất thể diện của một quốc gia “bốn ngàn năm văn hiến” sao? Ít ra đây cũng là chỗ tai mắt, là nơi mà các sứ thần ngoại giao hay lui tới. Ở đây là đại diện, là tiêu biểu cho văn hóa, văn minh của một nước mà!” Nói thế xong là ông bị xúc động - hình như thế thì phải - nên ông lấy khăn tay lên “xịt” mũi. Có lẽ là con cháu ông đã thiếu văn hóa nên ông cảm thấy mình bị xúc phạm chăng? Một lần, cũng là một lần duy nhất thôi, tôi - lời ông lão làm vườn - phá một ít cây vô dụng đã cỗi để thay thế vào đấy một ít cây ăn trái. Ông dừng lại, trong một cuộc đi dạo bất thường, gọi tôi đến rồi ôn tồn bảo: “Đã đành là quốc gia mình nghèo, nhưng đừng cho tụi ngoại quốc nó thấy cái nghèo của mình. Cái cây nó cỗi, nó vô dụng; nhưng cái hay của nó, cái dụng của nó là ở nơi cái “cỗi”, cái “vô dụng” ấy. Chưa nói đến vẻ đẹp già cỗi của những gốc cổ thụ này mà mình chỉ chứng tỏ là đất đai mình còn rộng rãi và phì nhiêu! Đừng cho kinh tế xâm lăng vào đất đai của các cơ quan văn hóa. Văn hóa là nên làm chuyện “hóa văn” mà thôi. Nghe rõ không?” Dĩ nhiên là tôi nghe rõ chứ, quá rõ chứ, phải không thưa công tử? Lời ông lão - Lợi, Mỹ; Mỹ, Lợi - hai cái đó đừng cho chúng xâm lăng nhau, mỗi cái một sứ mạng. Quả là ông già điên mà có văn hóa hơn cả những nhà đại diện hoặc nhân danh văn hóa!
Các người không sợ bị mất thể diện của một quốc gia “bốn ngàn năm văn hiến” sao? Ít ra đây cũng là chỗ tai mắt, là nơi mà các sứ thần ngoại giao hay lui tới. Ở đây là đại diện, là tiêu biểu cho văn hóa, văn minh của một nước mà!” Nói thế xong là ông bị xúc động - hình như thế thì phải - nên ông lấy khăn tay lên “xịt” mũi. Có lẽ là con cháu ông đã thiếu văn hóa nên ông cảm thấy mình bị xúc phạm chăng? Một lần, cũng là một lần duy nhất thôi, tôi - lời ông lão làm vườn - phá một ít cây vô dụng đã cỗi để thay thế vào đấy một ít cây ăn trái. Ông dừng lại, trong một cuộc đi dạo bất thường, gọi tôi đến rồi ôn tồn bảo: “Đã đành là quốc gia mình nghèo, nhưng đừng cho tụi ngoại quốc nó thấy cái nghèo của mình. Cái cây nó cỗi, nó vô dụng; nhưng cái hay của nó, cái dụng của nó là ở nơi cái “cỗi”, cái “vô dụng” ấy. Chưa nói đến vẻ đẹp già cỗi của những gốc cổ thụ này mà mình chỉ chứng tỏ là đất đai mình còn rộng rãi và phì nhiêu! Đừng cho kinh tế xâm lăng vào đất đai của các cơ quan văn hóa. Văn hóa là nên làm chuyện “hóa văn” mà thôi. Nghe rõ không?” Dĩ nhiên là tôi nghe rõ chứ, quá rõ chứ, phải không thưa công tử? Lời ông lão - Lợi, Mỹ; Mỹ, Lợi - hai cái đó đừng cho chúng xâm lăng nhau, mỗi cái một sứ mạng. Quả là ông già điên mà có văn hóa hơn cả những nhà đại diện hoặc nhân danh văn hóa!
Người họa sĩ ngưng nói, nhắp nhắp miệng liên hồi. Hình như có
cái gì bên trong chàng đang “khát” quá chăng? Một lúc, y lần tay cởi hạt nút áo
trên cổ, kéo lỏng caravate một tí. Rõ ràng là y không những “khát” mà còn
“nóng” nữa! Y lắc cổ một hồi, chống hai tay lên bàn rồi nói tiếp - trong lúc
lão luật sư vẫn trong tư thế kiết già bất động, mắt lim dim như đang “cúi nhìn
vào trong cái vĩnh cửu nào đó” của ông!
- Cậu ạ! Cháu sẽ cố gắng diễn tả mọi thứ, kể cả những chi tiết
hầu như thừa thải và vô nghĩa nữa. Té ra, cậu ơi! Cái thừa thải và vô nghĩa nó
tác động cháu không cùng. Trong một bức tranh - dĩ nhiên thuở trước cháu làm
sao hiểu nổi - cái làm nên bức tranh không phải là màu sắc, cũng không phải là
hình ảnh, mà chính là khoảng trống. Nhờ khoảng trống, bức tranh nó mới có “đời
sống” - đang sống trong không gian bao la và thời gian vô tận. Đây là cái đặc
thù của các họa phái tâm linh Đông phương, những bức tranh thủy mặc và một số
loại tranh thiền. Rồi trong cái khoảng trống đó, chỉ một nét chấm thôi là bức
tranh đã hoàn thành tam tài: thiên, địa, nhân; nghĩa là hình thành càn khôn và
nhật nguyệt!
“Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.”
Chàng họa sĩ ngâm lên khe khẽ rồi nói - “trên đầu sợi lông là
không gian; trong hạt cải là thời gian thì...”
Chàng họa sĩ ngưng nói một lúc.
- Thì... cái “một” cũng ở trong cái “nhiều” mà cái “nhiều”
cũng ở trong cái “một” ... Cậu ạ - chàng họa sĩ chợt đứng dậy đi tới đi lui
trong phòng - trở lại vấn đề có mạch lạc một chút. Cháu hình như suốt đời là chạy
đuổi cái to lớn, những cái có kích thước và tầm vóc vũ trụ. Muốn đem cả vũ trụ
vô hạn nhét vào trong khung vải hữu hạn của mình. Đấy là việc làm của trẻ thơ,
nói nặng hơn là của người ngu không thấy được cái hữu hạn của mình. Cậu ơi! Một
cành lau phất phơ giữa khoảng trống mêng mông đã là vô hạn rồi. Một nét chấm, một
nét phẩy mường tượng hình dáng con chim, hay không cần cả hình dáng con chim là
đã vô hạn rồi. Con chim ư? Ồ! Nếu quả đấy là con chim, thì là một con chim cô
đơn, không quê nhà, không tổ ấm, bay mà không biết bay về đâu, hình như bay từ
vô thỉ đến vô chung! Bay mà bất động giữa khoảng trống bao la, có thể là giữa
trăng, giữa hư vô, giữa mây, giữa mù sương hoặc giữa đồng không mông quạnh. Đấy
là định mệnh? Là thân phận? Là tự do? Ý nghĩa ư? Cậu ơi, làm sao nói hết! Một hạt
cát nằm trên bãi cát thôi - giữa vô lượng hằng sa hạt cát - cũng đã nói lên vô
lượng nghĩa rồi! Mà con thì, ơi trời, muốn tìm hết ý nghĩa của tất cả mọi hiện
hữu! Cậu nghĩ thử coi, có điên rồ không chứ? Con điên rồ hơn dượng con hay dượng
con điên rồ hơn con? Suy ra, việc làm của lý trí, lý luận, kiến thức, khoa học...
trên trần gian này? Ý nghĩa! Ý nghĩa!... Thôi! Trời ơi!...
Nói ngang đây, chợt dưng người họa sĩ bật khóc. Y quỳ xuống
và chấp tay lạy. Y cứ cúi đầu và lạy lia lịa, vừa lạy vừa khóc nức nở.
Những hạt nước mắt đầm đìa trên mặt mũi rơi xuống tấm thảm xanh. Lão luật sư vẫn
ngồi im lặng.
Khóc một hồi, chàng họa sĩ chợt ngửng phắt đầu dậy, đi về
phía các bức tranh, la lớn:
- Phải rồi! Nhất định là phải rồi! Cái vô hạn, cái vĩnh cửu
là ở đây và bây giờ. Cái chí mỹ, cái đẹp tuyệt vời ở chính ngay nơi đời sống tầm
thường này: gánh nước, bửa củi, đẵn tre. “Huệ Năng! Ngươi làm gì vậy?” “Ta đẵn
tre”. Có Đạo gì, ở đâu? Mà tại sao không phải là Đạo? Ở đâu? Tại sao? Ý nghĩa
gì? “Cục phân!”
Y thở hào hển, trán rướm đầy mồ hôi.
- Bạch Lạc Thiên! - Chàng chỉ tay vào bức tranh có quan thái
thú là Bạch Lạc Thiên, nhà thơ đời Đường với người hầu đứng dưới đất, còn Điểu
Sào thiền sư ngồi chênh vênh trên cây, rồi hét lên - Chính cái chỗ của ngươi mới
nguy hiểm, chỗ thủy hỏa tương giao, chỗ thức tri không ngừng chạy nhảy, nô rượt
tìm bắt hữu hạn, vô hạn, đạo và phi đạo... Chính cái đó... là... là nhà Phật gọi
là cái gì hở cậu?
Chàng quay lại, nét mặt đã dịu hơn. Ông cậu bây giờ mới mở mắt
ra:
- Không cần biết, con ạ! Không cần biết nó là cái gì. “Cục
phân”!
- Ha ha... Chàng họa sĩ cười to - cháu đã điên mà té ra cậu
cũng điên luôn. Điên nói chuyện với điên mới hy hữu chứ!
Nói xong, y chỉ vào bình hoa:
- Cái gì đây?
Rồi tự trả lời:
- Ha ha... cục phân!
- Sai rồi. Là cái bình hoa!
Lão luật sư “chỉnh ngay”, rồi đưa tay chỉ vào đầu người họa
sĩ:
- Nếu cưỡng danh mà gọi thì “cục phân” ở trong đó, trong cái
đầu của con, là nơi thức tri không ngớt nô rượt, chạy nhảy kiếm tìm vô hạn, hữu
hạn, đạo và phi đạo... Còn ngoài này, bình hoa thì cứ nói là bình hoa. “Huệ
Năng! Ngài làm gì vậy?” “Ta đẵn tre!”. “Chú tiểu đi đâu đó?”. “Con đi chợ”.
“Con ăn cơm chưa?”. “Dạ rồi”. “Rửa chén đi!”
Người họa sĩ lặng người.
- Cảm ơn cậu. Cháu hiểu. Cháu hiểu. Cháu hiểu.
Lại im lặng nữa.
Người họa sĩ vẫn thấy có một cái gì không ổn ở trong lòng, cứ
thay đổi thế ngồi luôn. Chàng đưa tay gõ một con ruồi trên bàn.
- Cậu ơi! Có điều người ta cứ bảo là dượng cháu điên. Điên
sao được con người trí thức chân chánh ấy. Điên sao được, một người không bao
giờ nói giỡn với ai, nói chuyện hàng xóm, nói chuyện chợ búa, nói chuyện đào
hát, xi-nê... Có phải vì ông ấy “tỉnh” quá, tỉnh quá và trong sạch quá giữa cuộc
đời bùn nhơ ô trọc này nên ông mang tâm sự của Khuất Nguyên:
“Thế nhân giai trọc, ngã độc thanh!
Chúng nhân giai túy, ngã độc tỉnh!”
Bèn trầm mình dưới sông Mịch La?
Ông thao thức về hạnh phúc và tự do cho con người đến nỗi ông
bỏ quên hoàn toàn con người ông, đẩy cái tự ngã của mình mất tăm vào đại ngã, đẩy
cái ý thức với những giao tiếp thường nhiệm lùi sâu vào vô thức, để chỉ hoàn
toàn còn lại “con người nhân loại” của ông thôi. Phải chăng, vì vậy mà “con người
nhân loại” ấy có thể giúp ông đứng dậy bất cứ lúc nào, ngay giữa đêm khuya, gọi
điện thoại qua cục an ninh cho xe lên phi trường để ông đáp máy bay đi thăm các
anh em chiến sĩ ở tiền phương; hoặc lên sân thượng đi dạo mát rồi “thù thì thủ
thỉ” với trời đất trăng sao - về những tranh chấp vô ích, vô bổ và ngu dại của
con người. Thôi thì nhờ Thượng đế hãy ban cho ông sức mạnh tinh thần để ông
hiên ngang lên đường và chiến thắng... Ông thường cầu nguyện như thế đó. Nhưng
người ta thường nói là “trời cao có mắt” chứ không ai nói “trời cao có tai”! Vì
Thượng đế không có tai nên không nghe được ông nói những gì. Và cũng vì “tai
vách mạch rừng” nên những điều ông tuyên bố trong phòng kín mà cả thảy “quốc
dân” đều biết cả: “Tôi đã tự ý tuyên bố rút lui khỏi chính trường - giọng nói
ông xúc động thái quá - kính thưa quốc dân khả kính và đồng bào mến yêu! Tôi đã
không làm gì được cho nhân loại và tổ quốc này, khói lửa vẫn còn đó và đau
thương vẫn còn kia... Đau thương do đói khát, bệnh tật, dốt nát và ly tán...” Cậu
ơi! Chính cái giây phút đó, cái giây phút thương tâm cùng độ ấy, ông từ giã cõi
đời. Ông xúc động thái quá vì tiếng hoan hô hoặc lời tán dương nồng nhiệt của
quốc dân đồng bào chăng? “Tôi đã là kẻ đánh mất niềm tin của quốc dân và đồng
bào; nhưng tôi không mất danh dự, không mất khối óc và trái tim, không hề bị sỉ
nhục... mà nếu nói được, thì tôi chỉ là kẻ bệnh-hoạn-thời-cuộc hoặc bất-lực-thời-cuộc
mà thôi. Xin vĩnh biệt tổ quốc và đồng bào mến yêu!” Và câu nói ấy, thế là đã
đi vào lịch sử; câu nói cuối cùng và vĩnh viễn của một nhà đại chính khách bất
đắc chí! Khối óc và trái tim ấy không mất nhưng nó đã khô máu...
Chàng họa sĩ thở dài não ruột. Y đưa mắt nhìn bất động lên
cao.
- Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ sự bất lực trước định mệnh,
trước cái đại toàn!
Người họa sĩ lại im sững, vừng trán dường như giãn ra. Lão luật
sư bây giờ mới từ từ chế thêm một bình trà mới, trao cho người họa sĩ ly trà đầu
tiên.
- Đủ chưa con?
Chàng họa sĩ nhắp từng ngụm nhỏ nóng ấm, hương trà thơm tỏa dịu
dàng. Trong giọng nói hầu như không còn hăm hở và dồn dập như trước. Y gục gặc
đầu mấy cái.
- Đáng lý ra cháu còn nói thêm nữa, vì trong cái bối cảnh lớn
mà đôi mắt thẩm mỹ cháu ghi nhận còn có hình ảnh bà dì cháu, những đứa con
trai, con gái trong gia đình ấy nữa.
Lão luật sư cũng gật đầu.
- Những người kia cũng không có gì đặc biệt lắm. Ở đâu cũng
thấy, ở đâu cũng gặp những con người tương tự. Một gia đình giàu có rồi bị phá
sản do con cái phá phách, do bệnh hoạn, do tai bay vạ gió... con cái hư hỏng,
tù tội, trà đình tửu điếm... Ồ! Cái đó... cái đó...
Ông cậu lắc đầu mà không nói tiếp.
- Nhưng còn ni cô - còn gái út? Chàng họa sĩ đôi mắt chợt
sáng quắc, hăm hở trở lại - Ít nhất đó cũng là màu xanh dịu dàng giữa cái đổ
nát, một nét liễu cong mềm giữa những hình kỷ hà học, một niềm an ủi ngọt ngào,
hiền từ và mát mẻ xiết bao giữa cuộc đời khô cháy và mệt mỏi này!
- Phải. Và như thế nghĩa là...
Lão luật sư bỏ lững câu nói, đưa mắt chăm chú nhìn chàng họa
sĩ, trong mắt ông có cái gì ngời sáng và long lanh.
- Phải rồi. Cháu đã hiểu.
Chàng họa sĩ trả lời mà tâm trí như mơ màng ở tận đâu đâu.
- Về cái đẹp, cái xấu? Cái thiện, cái ác?
Ông luật sư dồn dập hỏi.
- Dạ!
Hai người lại im lặng.
Chàng họa sĩ miên man nói:
- Bên ngọn lá xanh có ngọn lá vàng chứ cần gì vẽ màu vàng
trong ngọn lá xanh? Không cần vẽ sự điên đảo của biển và núi, vì chẳng có gì mà
không hàm nghĩa điên đảo. Cậu ơi! Cháu ngạc nhiên cái sự vươn lên lẻ loi phô thắm
của một cành hoa dại bên đám cỏ mọc lan tràn vô trật tự; sao cháu
không nghĩ thêm rằng, trong đổ nát cũng hàm chứa sự sống hay là một phần của sự
sống? Mà sự sống nào lại không mang trong chính nó sự thiện mỹ? Thiện mỹ nó ở
nơi toàn thể nhưng không cá thể, toàn thể không hiện hữu. Và như thế, tuyệt đối
cũng ở nơi cành mai đẹp tương đối này, nơi cái “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng
hành” này. Nó vừa là nhân vừa là quả. Nó đầy đủ ba đời. Đầy đủ cho chính nó.
Nói ngang đây, chàng họa sĩ quay qua luật sư già:
- Hòa thượng Không Như điểm đạo cho lão làm vườn như thế nào
hả cậu?
Chàng họa sĩ chợt nhiên hỏi lạc qua ý khác, lão luật sư cũng
trả lời xa xôi:
- Cây cọ của con bất lực trước cái vô hạn thì cây kiếm của tục
khách kia cũng trở thành vô dụng trước thiền gia. Lão làm vườn dĩ nhiên là
“giác ngộ cái sự đời” thâm hậu hơn con chứ?
Nói xong, ông luật sư già cười cười trong mắt. Chàng họa sĩ cất
tiếng “ồ” rồi im lặng.
- Bây giờ cây cọ của con đâu?
- Cháu bỏ rồi cậu ạ!
Trả lời xong, người họa sĩ cười, tiếp:
- Có lẽ cháu phải bỏ một thời gian.
Lão luật sư cất tiếng hỏi hờ hững:
- Con có ý định vẽ lại không?
- Dạ, có! Có thể! Vẽ cũng được chứ không sao cả.
Y đưa mắt nhìn thoáng mấy bức tranh. Lão luật sư hỏi:
- Nhãn quan, trường phái và quan niệm?
- Không. Hoàn toàn không nhãn quan, không trường phái, không
quan niệm.
- Vậy thì sao nhỉ? Có một thẩm mỹ quan vượt thoát ra ngoài tất
cả mọi thẩm mỹ quan sao?
Lão luật sư chăm chú nhìn người họa sĩ.
Y gật đầu một cách mạnh mẽ:
- Dạ. Có chứ! Ưa nhành mai thì cháu vẽ nhành mai, đúng hình
dáng, góc cạnh, sắc độ trong không-thời-gian mà “nó là”, rồi đề dưới là “nhành
mai”. Ưa bụi trúc thì cháu vẽ bụi trúc, đúng hình dáng và sắc độ trong không-thời-gian
mà “nó là”, rồi đề dưới “bụi trúc”. Thế thôi. Đấy là thẩm mỹ quan của cháu,
không nói “trong”, không nói “ngoài”, không nói “tại”, không nói “xuất”.
- Đơn giản nhỉ!
- Dạ! Đơn giản!
Cả hai cùng cười xòa. Ông luật sư già định đưa tay chỉ mảnh
trăng sơ huyền đang treo lơ lửng giữa bầu trời rồi nói: “Con thấy đó. Trăng thì
có khi tròn, khi khuyết; trời thì có khi nắng, khi mưa; xã hội thì có khi suy,
khi thịnh... Tất cả đều diễn tiến một cách sinh động như nó “đang là”, luôn
luôn trọn vẹn với chính nó...” Nhưng rồi chợt nghĩ, nếu nói vậy thì thừa thải,
nhạt nhẽo và vô duyên quá, lại thôi. Vô tình khi ấy, chàng họa sĩ cũng đưa mắt
nhìn mảnh trăng sơ huyền, y mới chợt nhớ ra là trời đã tối, bèn đứng dậy...
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Theo http://trungtamhotong.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét