Ý thiền trong thơ Nguyễn Trãi
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang
vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
Lớp lớp người đến rồi đi trong lặng lẽ chập chùng qua bao thời đại âm thầm. Tuy
âm thầm lặng lẽ nhưng vẫn còn đồng vọng khôn nguôi tận đáy lòng sâu thẳm của mỗi
một người trong chúng ta và thắp lên ngọn lửa hào hùng bừng sáng rực ngời hồn
thiêng sông núi miên trường.
Ngược dòng sử lịch Việt Nam, vào đầu thế kỷ XIV nước ta còn gọi
là Đại Việt, xuất hiện một con người như vậy. Đó là Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
biệt hiệu Ức Trai, một bậc kỳ tài về đủ mọi mặt, văn võ song toàn đã đem hết
năng lực, trí tuệ trác việt hiến dâng cho dân tộc. Thiên tài Nguyễn Trãi thể hiện
qua mọi lãnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa và đặc biệt
là những kiệt tác thi ca, làm rung động lòng người, khơi dậy ý thiền siêu thoát
để vượt qua đôi bờ có không, sống chết.
Trên những bước đường lịch sử mênh mang, sau những rập rình
biết bao hiểm họa tồn sinh bức bách, cuộc lữ của thi nhân dẫn về thế giới nội
tâm trầm hậu, đối mặt với niềm cô đơn bi tráng của chính mình. Một con người đã
từng đau lòng đứt ruột vì cha bị giặc Tàu bắt đem đi, từng nằm gai nếm mật
trong rừng sâu suốt mười năm trời kiên trì nhẫn nhục, từng tung hoành ngang dọc
khắp chiến trường máu lửa để chống giặc ngoại xâm, từng bàn luận việc quốc gia
đại sự với hoàng đế Lê Lợi, từng viết Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập
đầu tiên của dân tộc Việt, từng vào sinh ra tử như Nguyễn Trãi, khi treo ấn từ
quan không phải vì chán đời mà để cho chí khí, tâm huyết của mình hoà quyện vào
tạo vật thiên nhiên.
Đó là thái độ của bậc đại trượng phu đã chiêm nghiệm toàn cảnh
cuộc đời danh lợi, vinh hoa phú quý đều chỉ là huyễn ảo vô thường, nên quay về
im lặng mỉm cười trong phong thái vô ngại, buông xả thung dung. Hùng tâm tráng
khí mà vẫn nhẹ mỉm cười lui về quy ẩn nơi chốn miền hoang dã Côn Sơn, thuộc tỉnh
Hải Dương ngày nay, chấp nhận sống an bần lạc đạo, gác ngoài tai những chuyện
thị phi, tị hiềm, những đố kỵ, đa đoan của nhân tình thế thái quá chừng rắc rối
rườm rà:
Am trúc hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến cõi yên hà
Cơm ăn dầu có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải lảnh nương hoa
Trong khi hứng động vừa đêm tuyết
Ngâm được câu thần dặng dặng ca
Thị phi nào đến cõi yên hà
Cơm ăn dầu có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải lảnh nương hoa
Trong khi hứng động vừa đêm tuyết
Ngâm được câu thần dặng dặng ca
Thật là thi vị làm sao! Nhà thơ của chúng ta thường chú tâm
chăm sóc gìn giữ hồ ao cho nước mãi xanh trong trẻo để những đêm rằm, ngắm
trăng lên soi bóng dưới dòng nước biếc, rồi có khi dạo gót quanh hàng rào xao động
cỏ hoa mà xuất thần cảm hứng ngâm nga giữa trời thơ đất mộng. Tiêu dao đến thế
là thể hiện một tâm hồn thượng đạt thong dong. Lòng thi nhân thanh bạch đã giũ
sạch bụi phù trần, lâng lâng một niềm thanh thản giữa rừng chiều hoang liêu tịch
mịch. Thỉnh thoảng đến chốn tùng lâm thưởng ngoạn xem hoa, uống trà đàm đạo. Chủ
và khách, tăng và tục cùng vô tâm đối ẩm nguồn thi cảm với thông với trúc, với
rừng cao núi thẳm ngát hương trầm:
Giữa bao nhiêu bụi bụi lầm
Xăn tay áo đến tùng lâm
Rừng nhiều cây hợp hoa chầy động
Đường ít người đi cỏ kíp xâm
Thơ đới tục hiềm câu đới tục
Chủ vô tâm ấy khách vô tâm
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
Năng mấy sơn tăng làm bạn ngâm
Xăn tay áo đến tùng lâm
Rừng nhiều cây hợp hoa chầy động
Đường ít người đi cỏ kíp xâm
Thơ đới tục hiềm câu đới tục
Chủ vô tâm ấy khách vô tâm
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
Năng mấy sơn tăng làm bạn ngâm
Từ hữu tâm đến vô tâm là cả một quá trình hành thiền miên mật, ở đây thiền sư
và thi sĩ đều vô tâm thì quả nhiên là quá tuyệt vời. Thường kết bạn, giao du với
những thiền sư như Đạo Khiêm, Đạo Tấn nên lòng thi nhân cũng không khác chi một
vị thầy trên núi cao. Chốn miền Côn Sơn, nơi nhà thơ đang lưu trú cũng tùng
xanh trúc biếc, chẳng khác chi cảnh am cốc, chùa chiền, thiền viện. Tuy không
xuất gia nhưng thân tâm chẳng hề bị lợi danh buộc ràng, lòng trong sáng như
trăng thanh hằng đêm cùng nhà thơ đối ẩm, thấm nhuần tỏa ngát hương hoa quanh
vườn mà thường ngày ra tay chăm bón. Hồn đất đai cây cỏ ngân nga hoà tấu khúc
reo vui, dưới hồ ao sen lao xao gió lá, trên cành chim bướm ca hót rộn rã líu
lo. Thật là nên thơ thú vị, một vẻ đẹp thiên nhiên thuần túy giữa ngày tháng
nhàn nhã an lành:
Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy
Cứ thân chớ phải lợi danh vây
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày nắng xem hoa bợ cây
Cây rợp chồi cành chim kết tổ
Ao quan mấu ấu cá nên bầy
Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế
Biết một ông này đẹp thú này
Cứ thân chớ phải lợi danh vây
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày nắng xem hoa bợ cây
Cây rợp chồi cành chim kết tổ
Ao quan mấu ấu cá nên bầy
Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế
Biết một ông này đẹp thú này
Đấy là tự tri theo thể điệu tiêu sái, tiêu dao du Trang Tử. Tự biết mình là tỉnh
thức trong từng giây phút, là pháp thiền Hiện pháp lạc trú mà nhà thơ Ức Trai
đang thực tập, đang quán chiếu tự thân và đã nếm được hương vị thanh tịnh bình
yên, lạc phúc trên từng nhịp bước nhẹ nhàng thư thả ung dung.
Đúng là nhà thơ đã an lập, an định vững vàng cái tâm của mình trong bất cứ trường
hợp nào, dù giữa chốn triều đình phức tạp, nhiều phe phái ganh ghét, tranh
giành quyền lực, chức tước, địa vị, thi nhân vẫn xem chốn đó như một quán khách
bên đường, đến rồi đi, không bị vướng mắc hệ lụy gì hết nên vẫn an nhiên an lạc
như Bụt. Với Nguyễn Trãi, tâm là Bụt, Bụt ở ngay chính nơi lòng của mình đây
thôi, chớ vọng cầu chạy tìm kiếm nơi nào xa lơ xa lắc tận đâu đâu:
Chân chẳng lọt đến cửa công hầu
Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách
Đem công danh đổi lấy cần câu
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu?
Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách
Đem công danh đổi lấy cần câu
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu?
Tâm là Bụt, Bụt là tâm. Đức Thế Tôn và chư vị Tổ sư đều công nhận như thế. Thiền
sư Huyền Giác cũng từng xuất thần ca lên khúc hát Chứng đạo ca bất hủ tuyệt trần:
Pháp thân giác rồi không một vật
Vốn nguồn tự tánh thiên chân Phật
Năm ấm ảo hư mây lại qua
Ba độc huyễn hoặc bọt còn mất
Vốn nguồn tự tánh thiên chân Phật
Năm ấm ảo hư mây lại qua
Ba độc huyễn hoặc bọt còn mất
Khi giác ngộ Pháp thân Phật tánh vốn là Tánh Không rỗng lặng thì mỉm cười vô sự.
Tự tánh hay tâm vi diệu là Phật, là nguyên lý đại đồng của nhân sinh vũ trụ. Vì
đại đồng nên tánh không trụ ở đâu hết mà không đâu là chẳng có, nó ứng hoá diệu
dụng vào muôn sự muôn vật như một nguồn năng lượng vô hình, luân lưu giữa trùng
trùng pháp giới. Cho nên tự tánh Không gắn liền với cuộc sống muôn đời vậy. Thiền
nói thấy tánh thành Phật và thành Phật là tựu thành ở chính mình cái nguyên lý
Tánh Không, cái thực tại Nhất Như tối hậu ấy của vũ trụ và nhân sinh. Năm ấm là
sắc, thọ, tưởng, hành, thức tạo nên thân tâm này. Ba độc là tham, sân, si, đều
là ảo hóa, chiêm bao do tâm hư vọng tạo ra mà thôi.
Nhà thơ vĩ đại Ức Trai cũng thấy như vậy. Đó là cái thấy tuệ giác, cái thấy tâm
thiền nên mọi sự ở đời đều hòa âm đầm ấm, linh động, không còn phân biệt cao thấp,
tốt xấu, dở hay, sướng khổ... gì gì nữa, cứ tùy duyên, tùy thuận ra vào:
Có thân thì biết khá làm sao
Lửng vửng công hư tuổi tác nào
Người ảo hoá khoe thân ảo hoá
Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao
Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm
Đường thế nào nơi chẳng thấp cao
Lửng vửng công hư tuổi tác nào
Người ảo hoá khoe thân ảo hoá
Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao
Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm
Đường thế nào nơi chẳng thấp cao
Hào khí dị thường, nhà thơ mở đường lên rừng thiêng đỉnh núi, dựng túp lều
tranh, ngồi thiền giữa thâm sơn cùng cốc, chỉ có cọp beo gầm rú, vượn khỉ lượn
vờn quanh. Lấy núi non, chim chóc làm bạn láng giềng, lấy mây sớm trăng khuya
làm chỗ trao gởi nỗi niềm tâm sự anh em. Còn gì thanh cao tao nhã cho bằng, còn
chi ý nghĩa hơn nữa, phải không?
Bồng tênh giữa cảnh thanh u cô tịch đó, thi nhân làm cuộc hành trình tâm linh đến
tận nơi phát xuất dòng suối Tào Khê, nơi mà Lục Tổ Huệ Năng đã chỉ rõ cái tự
tánh thanh tịnh, cái bản lai diện mục, tức cái mặt mũi xưa nay của con người
muôn thuở muôn nơi. Suối Tào Khê mầu nhiệm ấy đã chảy rạt rào về giữa lòng thi
nhân và đã tẩy sạch hết mọi phiền não của phàm phu tục tử phù trần:
Chụm tự nhiên một thảo am
Dầu lòng đi Bắc lẫn về Nam
Rừng thiền định hùm nằm chực
Trái thì trai vượn nhọc đem
Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh tam
Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm
Dầu lòng đi Bắc lẫn về Nam
Rừng thiền định hùm nằm chực
Trái thì trai vượn nhọc đem
Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh tam
Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm
Bụi phàm tục rơi sạch sành sanh, hiển lộ ra cả bầu trời thơ lồng lộng, bồng
tênh thi sĩ đi về qua khắp dặm dài nhân thế, từ chốn cung đình vua chúa đến miền
thôn dã mộc mạc bình dân vẫn phong độ thong dong vô sự, thư thả hòa hài theo
cách điệu khoan thai:
Lều nhàn vô sự ấy lâu dài
Đi ở chẳng từng khuấy nhiễu ai
Tuyết đượm trà sương thơ dễ động
Hồ in bóng nguyệt hứng thêm dài
Đi ở chẳng từng khuấy nhiễu ai
Tuyết đượm trà sương thơ dễ động
Hồ in bóng nguyệt hứng thêm dài
Tiêu dao vô sự như thiền sư Lâm Tế: “Con người vô sự là người đã dừng lại,
không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết.
Người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay giây phút hiện tại, ở đâu
cũng làm chủ được mình.”* Chúng ta hãy lắng nghe thiền sư Huyền Giác lại phát
biểu hùng hồn một lần nữa về cái thấy bằng tuệ nhãn sáng ngời thông suốt:
Suốt suốt thấy không một vật
Cũng không người cũng không Phật
Thế giới ba ngàn bọt nước xao
Mỗi mỗi thánh hiền như điện phất
Cũng không người cũng không Phật
Thế giới ba ngàn bọt nước xao
Mỗi mỗi thánh hiền như điện phất
Dưới cái nhìn của tuệ giác siêu việt thì thấy không đâu có vật, có người hay có
Phật chi cả mà chỉ thấy toàn là do nhiều nhân duyên kết hợp biểu hiện, thoạt
còn thoạt mất như điện xẹt như ánh chớp lòa. Cả đến ba ngàn thế giới vô lượng
vô biên kia cũng chỉ là những bọt nước nhấp nhô trên bối cảnh của Tánh Không mà
thôi. Tự tánh đó hàm chứa toàn thể càn khôn vũ trụ hư không, viên dung vô ngại
tất cả. Vậy thì cứ như thị như nhiên mà sống với bình thường tâm ấy, chứ đừng
mong cầu, chạy tìm kiếm tận đâu đâu những phương trời vọng tưởng xa xăm... là
cũng đạt rồi, như thi nhân đã từng thấy một cách diệu thường:
Lọ chi tiên Bụt lọ tầm phương
Được thú an nhàn ngày tháng trường
Song có hoa mai trì có nguyệt
Án còn phiến sách triện còn hương
Được thú an nhàn ngày tháng trường
Song có hoa mai trì có nguyệt
Án còn phiến sách triện còn hương
Ngày tháng an cư, tự do nhàn nhã ra vào với từng hơi thở nhẹ nhàng như nước chảy
mây bay. Ngay đây là Tịnh độ, Niết bàn, là Hoan hỷ địa thênh thang rồi. Kìa,
ngoài song cửa hoa mai hoa đào rộ nở, dưới ao rằm lấp lánh ánh trăng soi. Còn
đòi hỏi gì thêm nữa, hỡi những tâm hồn bé nhỏ, ngu ngơ, ngớ ngẩn, cứ mãi lận đận
trong đêm dài sinh tử tham si. Hãy lấy kinh sách thánh hiền ra mà soi lại lòng
mình đi, cảo thơm cổ lục còn nguyên vẹn nằm chờ mi xem đó. Có phải nhà thơ của
chúng ta muốn nhắn nhủ như thế chăng? Có lẽ tự nhắc nhở chính mình thôi, vì
tâm đắc với Tổ sư thiền tối thượng thừa của Bồ Đề Đạt Ma trên đỉnh ngàn Thiếu
Thất tuyệt mù bên dòng sông Liêm Khê xanh biếc:
Thiêu hương đọc sách quét con am
Chẳng Bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm
Ánh cửa trăng mai thấp thấp
Cài song gió trúc nàm nàm
Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực
Dòng nước Lam Khê lục nửa lam
Tiêu sái mấy lòng đà mạc được
Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm
Chẳng Bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm
Ánh cửa trăng mai thấp thấp
Cài song gió trúc nàm nàm
Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực
Dòng nước Lam Khê lục nửa lam
Tiêu sái mấy lòng đà mạc được
Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm
Thường tình, người theo đạo Phật thì tán thán Bụt, kẻ theo đạo Lão thì ca ngợi
tiên, còn Nguyễn Trãi từ ngày có duyên biết được ba thân: Pháp thân, Báo thân
và Hoá thân của Phật thì đã thấy được đường đi chốn đến nên vui vẻ nhẹ hều. Hiểu
được người sống lâu như Bành Tổ hay kẻ chết yểu cũng như người đắc thắng hay thất
bại trong tuồng đời hư huyễn đều do nhân duyên, nghiệp báo theo lý nhân quả mà
thôi. Biết được lẽ tự nhiên cá thì lội, chim thì bay, thường xuyên tiếp xúc,
quan hệ thì thiếu gì bạn bè, siêng năng tinh tấn, chuyên chú đọc sách thì nhanh
chóng hiểu đạo thánh hiền. Tất cả đều do mình sáng tạo kiến lập ra, vậy nên
linh động, sống ở đâu thì sẵn sàng hoan hỷ vui vẻ ở đấy theo thể lệ tùy duyên:
Kẻ thì nên Bụt kẻ nên tiên
Tưởng thấy ba thân đã có duyên
Bành được thương thua con tạo hoá
Chim bay cá lội đạo tự nhiên
Có thân mựa lệ phạp bằng hữu
Đọc sách thì xem thấy thánh hiền
Ta nếu ở đâu vui thú đấy
Người xưa ẩn cả nọ lâm tuyền
Tưởng thấy ba thân đã có duyên
Bành được thương thua con tạo hoá
Chim bay cá lội đạo tự nhiên
Có thân mựa lệ phạp bằng hữu
Đọc sách thì xem thấy thánh hiền
Ta nếu ở đâu vui thú đấy
Người xưa ẩn cả nọ lâm tuyền
“Ta nếu ở đâu vui thú đấy” là sống an nhiên với từng giây phút đang là. Chủ
đích rốt ráo của đạo Thiền là mỗi người chúng ta hãy tự thực hiện điều cốt yếu
này ngay trong cuộc sống hàng ngày của chính mình, ngay ở đây và bây giờ đó
thôi.
Thi sĩ Ức Trai, phải chăng đã thưởng thức được hương vị thực tại hiện tiền ấy
nên chẳng cầu mong danh thơm tiếng tốt, lợi lộc gì thêm nữa, chẳng còn mừng rỡ
hay âu sầu, lo sợ trước những được mất, hơn thua, phải trái của trò đối đãi thế
gian. Buông xuống danh lợi, bỏ chuyện thị phi, vì đeo mang chi cho mệt nhọc,
khi mà về đây giữa chốn lâm tuyền, sớm chiều có sông nước núi rừng xanh biếc
ngoài song cửa, có túi thơ bầu rượu phóng khoáng nghêu ngao hát khúc thiên địa
vô ngôn. Bài ca không lời hòa giai điệu hân hoan nhàn dật, cần chi đàn sáo xôn
xao, vì bạn tri âm hiếm hoi vắng mặt lâu ngày không thấy đến, nên cứ lặng lẽ
vào ra nhàn hạ, thung dung cùng hương vị cô liêu một mình độc ẩm. Lòng thi nhân
mở rộng niềm thương đến muôn loài vạn vật, đến tôm cá trong ao cũng ngại thả bắt
giăng câu:
Danh chẳng muốn lộc chẳng cầu
Được ắt chẳng mừng mất chẳng âu
Có nước nhiễu song non nhiễu cửa
Còn thơ đầy túi rượu đầy bầu
Người tri âm ít cầm nên lặng
Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại câu
Được ắt chẳng mừng mất chẳng âu
Có nước nhiễu song non nhiễu cửa
Còn thơ đầy túi rượu đầy bầu
Người tri âm ít cầm nên lặng
Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại câu
“Lòng hiếu sinh nhiều” là biểu hiện đại bi tâm, thương yêu vô điều kiện. Một tấm
lòng bao dung cùng tận ẩn trong lòng một nhà thơ ở vùng núi rừng Côn Sơn cách
đây gần 600 năm, có làm cho chúng ta xúc động mà bỏ đi những cố chấp, tham si,
tỵ hiềm, ganh ghét để cùng yêu thương nhau giữa người với người trong cuộc sống
hay chăng?
Tiếng thơ hào sảng, hạo nhiên chi khí ngút trời, khơi dậy phong thái rất mực
phiêu nhiên và truyền cảm một niềm vui thanh tao cao khiết. Niềm vui ấy như muốn
trào dâng lên đến những phương trời lồng lộng, mênh mông bát ngát:
Láng giềng: Trùng trùng mây bạc
Khách khứa: Hai ngàn núi xanh
Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh
Khách khứa: Hai ngàn núi xanh
Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh
Lòng thơ mở ra cánh cửa bao la, hòa điệu cùng toàn thể vô tận đất trời. Lấy mây
trắng nắng vàng làm bầu bạn láng giềng tâm sự, xem trùng trùng non núi rừng
xanh là khách lữ trong cuộc giao tình tương đắc tương tri. Còn chi lý thú cho bằng,
làm gợi nhớ đến thi sĩ William Blake cũng từng thấy:
Thấy vũ trụ trong một hạt cát
Thấy trời xanh trong đóa hoa rừng
Nắm vô biên trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu giữa giờ phút trôi
Thấy trời xanh trong đóa hoa rừng
Nắm vô biên trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu giữa giờ phút trôi
Với lòng thơ sâu sắc, nhạy cảm quá đặc biệt, thi nhân biết lắng nghe đến tận
đáy hồn vạn vật, biết cảm nhận sâu xa, dù chỉ là một đoá hoa dại vô danh bên hồ
nước lung linh, giống như Quách Thoại, khi thấy một bông thược dược đứng lẻ loi
bên hàng rào thưa vắng, bỗng phát hiện một điều gì vi diệu nên sửng sốt giật
mình, vội quỳ xuống cúi lạy thẳm sâu:
Lặng yên bên hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Sực nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Sực nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu
Còn Nguyễn Trãi khi nhìn một bụi cây bông bụt lồng bóng nước dưới bờ ao thì bất
thần rúng động, khám phá ra được lẽ sắc không:
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vết nhơ chẳng bén Bụt nơi lòng
Sớm mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không
Vết nhơ chẳng bén Bụt nơi lòng
Sớm mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không
Phải chăng, lúc đó thi nhân đang đi dạo chơi trên một con đường quê yên ả, chợt
thấy cây bông bụt in bóng dưới hồ nước ven đường, chợt dừng chân lại ngắm xem.
Không ngờ trong một sát na giữa bình sinh hy hữu, nhà thơ bỗng trực ngộ ra lý
“sắc tức thị không, không tức thị sắc” của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là lý Bất nhị,
bình đẳng không hai, bình đẳng đến chỗ Nhất Như, không còn một chút phân biệt
nào giữa sinh tử và Niết bàn, chợ búa và đạo trường, lầu xanh và thiền viện,
phiền não và Bồ đề, ngu si và trí tuệ, vô minh và Phật tánh.
Thành thử, khi trực thấy “vết nhơ chẳng bén Bụt nơi lòng” và “sự lạ cho hay tuyệt
sắc không” là thi nhân đã thấu triệt được chân tướng của sắc không rồi vậy. Thấy
cái thân ngũ uẩn ảo hoá cũng tức là cái chơn thật của Pháp thân. Pháp thân và sắc
thân đều diệu dụng, ứng hoá từ một nguồn tự tánh thanh tịnh vốn “xưa nay không
hề có một vật” nào cả.
Thật là tuyệt diệu! Thấu hiểu được vậy là nhà thơ Ức Trai đã thấy được thực tại
vô ngã của nhân sinh, thực tướng vô tướng của vạn hữu, nên mỉm cười niêm hoa vi
tiếu, một nụ cười vô sự giữa dòng đời luân lưu cuộn trào vô quái ngại.
Ngoài Quốc âm thi tập (thơ chữ Nôm) Nguyễn Trãi còn có Ức Trai thi tập (thơ
chữ Hán) là tiếng thơ chan chứa, hòa nhập cùng vũ trụ thiên nhiên của bậc tài
hoa, tràn đầy hương vị giải thoát, rực ngời tư tưởng thương yêu. Nguồn thơ tha
thiết tiếng lòng chạnh xót xa cho bao kiếp nhân sinh bèo bọt, nói lên niềm xúc
động trong dạt dào cảm thông, đồng thời thể hiện tinh thần Phật thiền tự do tự
tại, trải lòng ra với trời đất, vạn vật muôn loài bao la hoằng viễn.
Cung bậc thi ca bắt đầu ngân nga trên phím đàn cuộc lữ ngao du qua những bến bờ
hoang vắng, dọc ven sông gờn gợn sóng nước lung linh. Nhà thơ neo thuyền lãng tử
lại, buộc vào gốc cây trong bóng nhạt chiều tà. Thả bước bồng tênh lên thăm viếng
cảnh chùa trên sườn núi tịch mịch hoang sơ, mờ ảo chập chờn sương mù và mây trắng
lặng lẽ bay về bao phủ quanh thiền đường rêu phong mát lạnh. Long lanh dòng suối
thanh lương, thoang thoảng ngát hương từ những cánh hoa rừng rơi rụng xuống.
Truông rừng sâu thẳm vọng lại tiếng vượn hú trong thấp thoáng hoàng hôn. Bóng
lá trúc đung đưa vươn dài quyện lẫn với bóng núi cô quạnh thanh trầm. Trong cảnh
đó, quả có hàm chứa bao tình ý mà thi sĩ muốn nói một điều gì nhưng rồi bỗng
quên lời. Đó là tâm trạng thoát tục, phiêu diêu của thi sĩ, khi đi du ngoạn viếng
cảnh chùa Tiên Du trên núi biếc xanh ngàn:
Đoản trạo hệ tà dương
Thông thống yết thượng phương
Vân quy thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương
Thông thống yết thượng phương
Vân quy thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương
Dịch thơ:
Thuyền neo bến chiều xế
Vội lên viếng Phật ngời
Mây về giường sư lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Hoàng hôn vượn kêu rộn
Bóng trúc dài núi phơi
Cảnh này thật hữu ý
Muốn nói bỗng quên lời
Thuyền neo bến chiều xế
Vội lên viếng Phật ngời
Mây về giường sư lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Hoàng hôn vượn kêu rộn
Bóng trúc dài núi phơi
Cảnh này thật hữu ý
Muốn nói bỗng quên lời
Chừng như một mình trong núi xanh ngần vắng vẻ, nhìn bóng trúc ngã dài theo
bóng núi rừng chiều, nhà thơ như chợt nhận ra một điều chi vi diệu mà hoát
nhiên sực hiểu ý đạo, theo phép trực chỉ của thiền đốn ngộ vô ngôn?
Cảnh này thật hữu ý
Muốn nói bỗng quên lời
Muốn nói bỗng quên lời
Trời đất núi sông vốn tịch nhiên, không có lời. Lời nói ngôn ngữ chỉ là phương
tiện truyền đạt những cái hữu hạn mà thôi, còn cái vô hạn tuyệt đối, cái Chân
Như diệu lý thì bất khả thuyết, bất khả tư nghì, chỉ cảm nhận bằng một tâm trực
giác nhạy bén sâu sắc. Cái đó không thể dùng ngôn ngữ, lời nói diễn tả ra được.
Chỉ diễn tả những sự việc bình thường trong phạm vi tri thức mà ai cũng có thể
hiểu cuộc đời giống như một giấc mộng kê vàng. Tương truyền, đời Đường có chàng
Lư Sinh lên kinh đô dự thi. Trên đường đi ghé quán trọ nghỉ trưa, chủ quán đang
nấu nồi kê bên bếp lửa. Lư Sinh mệt quá ngủ thiếp đi một giấc, chợt mộng thấy
mình thi đỗ trạng nguyên, được nhà vua gả công chúa cho, nắm quyền một châu quận
lớn, sinh con đẻ cái và kẻ hầu người hạ đầy nhà, thật là tốt lành hạnh phúc. Rồi
bỗng một trận lũ lụt kinh khủng xảy ra, cuốn trôi hết sạch nhà cửa, vợ con, Lư
Sinh hốt hoảng la hét, bừng thức dậy, thấy nồi kê bên cạnh vẫn chưa chín. Ông
bàng hoàng mới hay rằng mình vừa nằm mơ, thấy chiêm bao mộng huyễn hư phù:
Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư
Giác lai vạn sự tổng thành hư
Như kim chỉ ái sơn trung trú
Kết ốc hoa biên độc cựu thư
Giác lai vạn sự tổng thành hư
Như kim chỉ ái sơn trung trú
Kết ốc hoa biên độc cựu thư
Dịch thơ:
Kê vàng một giấc mộng lồng
Nghìn muôn sự việc thành không cả mà
Ưa vào hốc núi cùng hoa
Dựng lều đọc sách thưởng trà ngâm thơ
Kê vàng một giấc mộng lồng
Nghìn muôn sự việc thành không cả mà
Ưa vào hốc núi cùng hoa
Dựng lều đọc sách thưởng trà ngâm thơ
Khi ý thức cuộc đời như huyễn mộng phù du thì không còn chấp thật vào phải
trái, hơn thua, được mất… hay bất cứ gì gì nữa, thi nhân chỉ thích vào một hốc
đá ven triền núi cô tịch nào đó, nằm ngâm thơ, đọc sách bên mấy vồng hoa cỏ dại
quanh đồi mây trắng lặng im lìm.
Nếm được hương vị cô liêu là niềm vui của bậc dật sĩ thanh cao như bài thơ Đề
Nam Hoa thiền phòng đã thể hiện. Nửa đời còn lại chỉ thích nương thân nơi chốn
miền thanh u vắng vẻ. Dạo quanh cảnh vật vườn thiền lắng nghe tiếng vượn hót
chim kêu. Núi sông muôn dặm từ phương Nam nghìn trùng xa thẳm tới. Một đời người
dễ gì được may mắn có dịp đến tận nguồn suối Tào Khê:
Bán sinh khâu hác tiện u thê
Thiền tháp phân minh thính điểu đề
Vạn lý Nam lai sơn thùy viễn
Nhất sinh năng kỷ quá Tào Khê
Thiền tháp phân minh thính điểu đề
Vạn lý Nam lai sơn thùy viễn
Nhất sinh năng kỷ quá Tào Khê
Dịch thơ:
Nửa đời ẩn dật chốn hang sâu
Tiếng nhạn quanh chùa văng vẳng nghe
Muôn dặm từ Nam non nước thẳm
Một đời hồ dễ tới Tào Khê
Nửa đời ẩn dật chốn hang sâu
Tiếng nhạn quanh chùa văng vẳng nghe
Muôn dặm từ Nam non nước thẳm
Một đời hồ dễ tới Tào Khê
Vì sao Nguyễn Trãi lại hân hoan vui mừng khi đến suối Tào Khê như vậy? Suối
Tào Khê là nơi khơi mạch nguồn thiền Vô niệm của Lục Tổ Huệ Năng. Dòng suối vi
diệu ấy đã nuôi dưỡng sức sống cho hai triều đại Lý Trần, hai triều đại được
xem là đỉnh cao của văn hóa dận tộc Việt Nam. Bài thơ Du Nam Hoa tự sau đây cho
chúng ta biết được vì sao nhà thơ lại hân hoan đến thế:
Thần tích phi lai kỷ bách xuân
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân
Hàng long phục hổ cơ hà diệu
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân
Điện trắc khởi lâu tàng Phật bát
Khám trung di tích thuế chân thân
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp tận trần
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân
Hàng long phục hổ cơ hà diệu
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân
Điện trắc khởi lâu tàng Phật bát
Khám trung di tích thuế chân thân
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp tận trần
Dịch thơ:
Mấy trăm năm trước tích gậy thần
Đến Bảo Lâm nay hợp tiền nhân
Sai rồng bảo hổ cơ mầu nhiệm
Không thụ không đài chính Pháp thân
Bên điện dựng lầu gìn Phật bảo
Trong đèn còn vết thoát chân nhân
Tào Khê trước cửa dòng trong suốt
Gột rửa nhân gian sạch bụi trần
Mấy trăm năm trước tích gậy thần
Đến Bảo Lâm nay hợp tiền nhân
Sai rồng bảo hổ cơ mầu nhiệm
Không thụ không đài chính Pháp thân
Bên điện dựng lầu gìn Phật bảo
Trong đèn còn vết thoát chân nhân
Tào Khê trước cửa dòng trong suốt
Gột rửa nhân gian sạch bụi trần
Chùa Nam Hoa ở Hoa Châu, chốn đất thiêng liêng huyền diệu, khiến rồng, cọp phải
phục hàng trước thần uy của lẽ đạo nhiệm mầu. “Không cây cũng không đài” là ý từ
bài kệ của Lục Tổ:
Bồ đề bản vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
“Xưa nay không một vật” là tuyên bố độc đáo, vô tiền khoáng hậu của Huệ Năng,
chỉ cái bản tâm xưa nay vốn là thanh tịnh rỗng rang, tuyệt đối không có bất cứ
gì làm cho ô nhiễm được. Nói cách khác đó chính là Pháp thân, Phật tánh. Nhà
thơ tâm đắc điều này nên mỗi lần nghe là mỗi lần đều mới mẻ tinh khôi. Tinh
khôi mầu nhiệm như dòng suối Tào Khê chảy tuôn trước cửa chùa, cuốn trôi hết thảy
mọi não phiền khổ lụy của trần gian.
Ngoạn du phiêu lãng là những chuyến hành hương sơn hà cẩm tú, viếng thăm các bậc
ẩn sĩ hiền nhân, thiền sư đạo sĩ trong tận chốn miền thâm sơn cùng cốc, nhà thơ
Ức Trai thường giao du với họ nên thỉnh thoảng họ cũng ghé lại am cốc Côn Sơn
hoang vắng tịch liêu để cùng nhau đàm đạo rồi chia tay như bài Tống tăng Đạo
Khiêm quy sơn đã chứng tỏ tình tri kỷ bạn hiền:
Ký tằng giảng học thập dư niên
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng trung phao tục sự
Tiện tầm thạch thượng thoại tiền duyên
Minh triêu Linh Phố hoàn phi tích
Hà nhật Côn Sơn cộng thính tuyền?
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ ngã diệt thượng thừa thiền
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng trung phao tục sự
Tiện tầm thạch thượng thoại tiền duyên
Minh triêu Linh Phố hoàn phi tích
Hà nhật Côn Sơn cộng thính tuyền?
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ ngã diệt thượng thừa thiền
Dịch thơ:
Đã mười năm trước cùng dạy học
Đêm nay gặp lại thỏa hàn huyên
Đời hân hoan quá chừng như mộng
Ngồi trên tảng đá nhắc tiền duyên
Sớm mai Linh Phố về bên ấy
Nghe suối Côn Sơn biết thuở nào?
Chớ lạ già rồi hay nói lẩn
Thượng thừa thiền kia sẽ dồi trao
Đã mười năm trước cùng dạy học
Đêm nay gặp lại thỏa hàn huyên
Đời hân hoan quá chừng như mộng
Ngồi trên tảng đá nhắc tiền duyên
Sớm mai Linh Phố về bên ấy
Nghe suối Côn Sơn biết thuở nào?
Chớ lạ già rồi hay nói lẩn
Thượng thừa thiền kia sẽ dồi trao
Thượng thừa thiền là một pháp môn cao nhất mà thiền sư Đạo Khiêm đang hành trì.
Bài thơ tiễn thiền sư Đạo Khiêm về núi, kể lại cuộc gặp gỡ giữa hai người trong
một đêm trùng phùng cùng nhau tâm sự. Kể chuyện xưa cách đây hơn mười năm, tâm
đầu ý hợp đến kỳ lạ. Nhắc chuyện cùng nhau dạy học thời còn trẻ đến bàn việc
trút bỏ sự đời, đi sâu vào mọi lẽ nhân duyên mà tâm đắc hào hứng. Rồi hẹn một
ngày đẹp trời nào đó, về lại núi rừng Côn Sơn đây cùng nghe suối hát chim ca
hòa điệu thanh trầm. Lâu ngày mới gặp lại bạn tri âm, nhà thơ hân hoan quá nói
đủ thứ chuyện huyên thuyên như lẩn như cuồng, mong bạn hiểu cho. Thôi trước khi
từ biệt, nhà thơ phát nguyện, hứa sẽ thực tập theo đạo thiền thượng thừa cho rốt
ráo.
Rồi tiếp tục, đường thơ băng qua trăng đèo, qua gió bãi sông xa ngút vời theo
mây ngàn vần vũ bay lên trên tuyệt đỉnh núi rừng non thiêng Yên Tử. Nơi vẫn còn
dấu chân Trần Nhân Tông (1258 - 1308) vị Tổ sư khai sáng Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử tự thuở nào. Khi thi nhân leo lên đến tận đỉnh cao hùng vĩ thì choáng ngợp
trước phong cảnh thiên nhiên đẹp dị thường nên xuất thần ngâm nga:
Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng muôn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trừng đồng
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng muôn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trừng đồng
Dịch thơ:
Non Yên trên đỉnh núi trông
Đầu canh năm thấy vầng hồng bừng ra
Vô cùng trời biển bao la
Núi mây cười ngát quanh ta chờn vờn
Chập chùng trúc biếc xanh rờn
Nhũ hương cao thấp bên cồn đá rêu
Nhân Tông dấu cũ tiên triều
Trừng đôi mắt sáng tỏa nhiều hào quang
Non Yên trên đỉnh núi trông
Đầu canh năm thấy vầng hồng bừng ra
Vô cùng trời biển bao la
Núi mây cười ngát quanh ta chờn vờn
Chập chùng trúc biếc xanh rờn
Nhũ hương cao thấp bên cồn đá rêu
Nhân Tông dấu cũ tiên triều
Trừng đôi mắt sáng tỏa nhiều hào quang
Núi rừng Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Trên đó có chùa Hoa Yên cao chất
ngất, mới tinh sương đã thấy ánh bình minh rực chiếu, nhà thơ thức dậy sớm,
phóng tầm mắt thưởng ngoạn bát ngát trời mây, thấy cả biển trời thiên thanh
vĩnh thúy, nghe đâu đó tiếng người cười nói hòa lẫn trong mây trắng sương mù
loang tỏa chung quanh. Rừng tùng trúc trùng điệp bên khe suối đá và rêu biếc
xanh rì. Di tích của vua Trần Nhân Tông vẫn còn ngời sáng với thời gian, trơ
gan cùng tuế nguyệt muôn đời mãi mãi.
Bài thơ diễn tả cảnh trí chập chùng, hùng tráng của núi rừng thiêng Yên Tử mà
cũng là sự lẫm liệt kiên cường của dòng thiền đặc biệt Việt Nam, do Sơ Tổ Trúc
Lâm sáng lập từ năm 1304 đến nay cũng gần 7 thế kỷ trôi qua rồi. Ơi chao! Hơn
600 năm dài đằng đẵng mà tưởng chừng mới hôm nào như thi hào Nguyễn Du bàng
hoàng bỡ ngỡ:
Tưởng bao giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao
Rào rạt gió ngàn phương từ vô lượng kiếp thổi về vi vu vi vút cuối nẻo phong trần
cuộc lữ, nghe lạnh rờn niềm cô đơn cực kỳ bi tráng của thi nhân. Niêm cô đơn ấy
đã chuyển hóa qua ý thiền siêu thoát phiêu nhiên bàng bạc trải rộng bồng tênh từ
núi đồi Côn Sơn, nơi quy ẩn của thi nhân đến tận chốn non cao rừng thiên nhiên
hùng vĩ kỳ tuyệt Yên Tử, miền chốn Như Như với nụ cười linh hiển thiên thu.
Từ đó, thi sĩ đi về thể hiện sức sống mãnh liệt của một hồn thơ đã uống ngụm nước
tận đầu nguồn suối thiền uyên nguyên, nên không ngừng mang trọn tài hoa phong độ
hào hùng của bậc đại thi hào dân tộc.
Lồng lộng hồn thơ Ức Trai Nguyễn Trãi tiêu sái, tiêu dao, ý thơ đạo vị thâm trầm
thấm thía, lời thơ lãng đãng như mây ngàn trong nắng sớm giữa trời thơ bát ngát
mênh mông. Thi nhân vẫn còn đó, vẫn mỉm nụ cười vô sự, song hành cùng chúng ta
trên vạn nẻo đường đời cát bụi phiêu du.
Ghi chú:
* Lâm Tế ngữ lục, Người vô sự. Nhất Hạnh bình giảng. Lá Bối xuất bản 2000.
Thơ Nguyễn Trãi trích trong tác phẩm:
Nguyễn Trãi thơ và đời. Văn Học xuất bản, Hà Nội 1997.
Thơ Nguyễn Trãi trích trong tác phẩm:
Nguyễn Trãi thơ và đời. Văn Học xuất bản, Hà Nội 1997.
Tâm Nhiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét