Các nhà thơ mới cầm tinh con rồng
Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) đã để lại nhiều thành công
vang dội trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Với hơn nghìn thi phẩm đã và đang đến
với độc giả, lượng thì nhiều mà chất cũng đáng trọng. Trong số hàng trăm thi
nhân góp mặt trong phong trào này, chúng tôi thấy có các người cầm tinh con Rồng.
Nhân mùa xuân Canh Thìn đang về, xin có mấy dòng giới thiệu về họ!
Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng
Quảng Đông là Hồ Dzếnh). Ông được biết nhiều nhất qua tập thơ Quê ngoại với
một giọng thơ nhẹ nhàng, siêu thoát phảng phất hương vị thơ cổ Trung Hoa. Ngoài
ra Hồ Dzếnh còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm, tiêu biểu là tập truyện ngắn Chân
trời cũ (1942), Thạch Lam đề tựa.
Ông sinh năm Bính Thìn (1916) tại tại làng Đông Bích huyện Quảng
Xương tỉnh Thanh Hóa. Ông mất năm 1991 tại Hà Nội. Hồ Dzếnh được truy tặng Giải
thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, năm 2007.
Trong Lời giới thiệu Tuyển tập Hồ Dzếnh – Tác
phẩm chọn lọc, Nxb Văn Học 1988, nhận định: Tác phẩm của Hồ Dzếnh không
nhiều, lại không tập trung ở một tờ báo hay đặc san nào. Với bản chất trầm lắng,
ông luôn luôn khiêm tốn tự cho mình là người mới bắt đầu bước vào nghề viết.
Tuy nhiên, với hai tập văn thơ Chân trời cũ và Quê ngoại, Hồ Dzếnh được biết đến
như một nhà thơ có chân tài.
Ông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 (Bính Thìn) tại Hà Nội
Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra là một người có trí thông minh. Mới 16 tuổi ông đã nổi
tiếng tiên phong của phong trào Thơ mới, điển hình là như các bài Tiếng địch
sông Ô (1936), Anh-Nga (1936), …
GS. Trần Hữu Tá trong Từ điển văn học (bộ mới) nhận
xét Huy Thông như sau: Do có một căn bản học vấn rộng, ông là một
trong những thi sĩ “Thơ mới” có ý thức tìm tòi về nghệ thuật nhiều hơn cả. Ông
là người đầu tiên viết kịch thơ lãng mạn, có cố gắng cách tân trong việc lựa chọn
thể thơ, phối hợp cấu trúc, tiết điệu và câu chữ, xây dựng hình ảnh, gieo vần,
ngắt nhịp, tạo cho mình một sức cuốn hút mạnh mẽ. Thơ Huy Thông đã ảnh hưởng đến
nhiều nhà “Thơ mới” lớp sau, kể cả nhà thơ cách mạng Tố Hữu (trang 666).
Ông mất năm 1988, tại Hà Nội, thọ 72 tuổi.
Bà tên thật là Vũ Thị Mai hay Vũ Thị Mai Hương, sinh năm Bính
Thìn (1916) tại làng Trung Lao, (Trực Ninh, Nam Định). Theo Từ điển Văn học (bộ
mới), thì bà chính là người phụ nữ đầu tiên tham gia vào giới phê bình văn học
Việt.
Bà học bậc trung học tại Trường Đồng Khánh (Huế) và Hà Nội.
Bà thích đọc sách, viết văn và làm thơ. Năm 17 tuổi (1933), bà đã có bút
ký Đời Nhật Anh, đăng trên báo Phụ nữ thời đàm. Sau đó, tiếp tục
sáng tác thơ văn, viết bài cho các báo: Đông Phương, Phụ nữ thời đàm, Văn học tạp
chí, Bắc Hà, Tiến bộ, Đông Tây, Mai, Tân Việt Nam, Tri Tân, Bạn đường, Tiểu
thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Thanh nghị,...
Năm 1935, bà bắt đầu được bạn đọc chú ý kể từ khi bài
thơ Viếng mồ lữ khách được đăng trên Văn học tạp chí (số ra ngày 10
tháng 8 năm 1935).
Trong phong trào Thơ mới, Mộng Sơn tích cực tham gia trường
phái thơ Bạch Nga do Nguyễn Vỹ khởi xướng. Sau cuộc kháng chiến chống Pháp
(1945-1954), Mộng Sơn làm biên tập viên cho nhà xuất bản Văn học, và cộng tác với
tuần báo Văn Nghệ. Nhờ tích cực đi thực tế, nên trong thời kỳ này bà lần lượt
cho xuất bản thêm nhiều tác phẩm nữa, như: Giận nhau (tiểu thuyết, 1957), Gỡ
mối (truyện vừa, 1959), Một khoảng trời xanh (tập truyện ngắn, 1960), Tuổi mười
ba (tập truyện ngắn, 1983)...
Mộng Sơn mất ngày 4 tháng 5 năm 1992 tại Hà Nội, thọ 76 tuổi.
Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế, các bút danh khác: Hạnh
Liên, Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên. Bà sinh năm Bính Thìn (1916) trong một gia đình
Nho học tại phố Hàng Trống, Hà Nội. Năm 16 tuổi, bà in tập thơ đầu tiên Giọt
lệ xuân, ký bút danh Hạnh Liên. Năm 20 tuổi, bà viết cho tờ Ngọ báo, Bắc Hà,
năm 21 tuổi, bà có thơ in chung trong cuốn Duyên văn. Năm 22 tuổi
(1938), bà rời Hà Nội vào Sài Gòn, viết cho Điện Tín nhật báo, báo Mai.
Sau đó, bà trở ra Hà Nội viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt
san, Đàn bà... Năm 1939, thi phẩm Trưng nữ vương ra mắt, gây tiếng
vang trên thi đàn. Đầu năm 1944, bà cho in tập thơ Tiếng vọng sông Ngân.
Năm 1949, do hoàn cảnh gia đình, bà quay về Hà Nội, vẫn làm
thơ đăng trên các báo Hồ Gươm, Quê hương, Tia sáng, Giang sơn... ký bút
danh Nàng không tên. Về sau, bà Ngân Giang sống hẩm hiu cô quạnh cho
đến khi từ giã cõi đời ngày 17 tháng 8 năm 2002.
Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
1999 cho biết: Tiếng thơ Ngân Giang một thời vang vọng, như có lần thi sĩ
Đông Hồ (1906-1969) lúc giảng dạy tại Đại học văn khoa Sài Gòn, khi giới thiệu
bài Trưng Nữ vương của bà, vừa ngâm xong bài thơ, ông đột quỵ. Sinh
viên đưa đi cấp cứu nhưng vừa đến bệnh viện thì ông ra người thiên cổ. Âu cũng
là một thi thoại văn chương đáng trân trọng.
Phan Khắc Khoan sinh năm Bính Thìn (1916) bút hiệu: Chàng
Chương, Hồng Chương. Ông cùng với Phạm Huy Thông, là hai người đầu tiên sáng
tác ra thể loại kịch thơ ở Việt Nam, và đã có những vở diễn thành công trên sân
khấu. Ông người làng Yên Lăng, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Năm 1940, vở kịch thơ Trần Can của ông ra đời. Kể từ
đó, ông liên tiếp cho xuất bản hoặc cho trình diễn nhiều kịch bản mới. Ngoài viết
kịch, Phan Khắc Khoan còn làm thơ, viết bài bình luận cho các báo chí đương thời,
như: Phong Hóa, Hà Nội tân văn, tuần báo Quê hương, Thế giới Mới, Tri tân,
Trung Bắc chủ nhật,...
Trong Thi nhân Việt Nam có đoạn Hoài Thanh – Hoài
Chân viết: Hình như một cuộc tình duyên không toại đã vì tác giả khơi nguồn
thơ... Cả tập Xa xa đượm một mối buồn vô hạn, một nỗi nhớ không nguôi. Tuy chỉ
là nỗi lòng riêng, nhưng lời thơ nhân đó có cái buồn bát ngát, cái nhớ nhung
khó hiểu của những nơi trời nước mênh mông...
Năm 1998, Phan Khắc Khoan mất tại Hà Nội, thọ 82 tuổi.
Vũ Hoàng Chương sinh năm Bính Thìn (1916), tại Nam Định,
nhưng quê gốc ở Hưng Yên. Thơ ông sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc,
với nhiều sắc thái Đông phương. Tác phẩm của ông gồm, các tập thơ: Thơ say
(1940)/ Mây (1943)/ Thơ lửa (cùng Đoàn Văn Cừ, 1948)/ Rừng phong (1954)/ Hoa
đăng (1959)/ Tâm sự kẻ sang Tần (1961)/ Lửa từ bi (1963)/ Ta đợi em từ 30 năm
(1970)/ Đời vắng em rồi say với ai (1971)/ Chúng ta mất hết chỉ còn nhau
(1973)...; các kịch thơ: Trương Chi (1944)/ Vân muội (1944)/ Hồng diệp
(1944), …
Ông mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn.
Nhận xét về thơ ông, Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt
Nam đã viết: Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say
sưa khác: say thơ.... cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng
mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng
dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao
ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây có cái vị chua chát, hằn học, và
bi đát riêng...
Xuân Diệu sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 (Bính Thìn), là
nhà thơ mới nhất trong phong trào Thơ mới (Hoài Thanh - Hoài Chân). Ông nổi
tiếng từ tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Những bài được yêu
thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 - 1944, thể hiện một
triết lý vội vàng, một cảm giác không có ai bè bạn nổi nhưng lại
có một mạch ngầm thúc giục, hừng hực sức sống. Ông còn có bút danh là Trảo Nha,
vì quê ông ở làng Trảo Nha, (Can Lộc, Hà Tĩnh). Là cây đại thụ của nền thi ca
hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong
di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình
văn học.
Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ
Ngày Nay và Tiên Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí
Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.
Ông mất năm 1985, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật năm 1996.
Yến Lan sinh năm Bính Thìn (1916), tên thật là Lâm Thanh
Lang, ông còn có bút danh khác là Xuân Khải, quê ở huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Mồ côi mẹ năm 6 tuổi, Yến Lan sống bằng nghề dạy học tư và viết
văn. Ông sáng tác thơ từ sớm và cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp
thành Bàn thành tứ hữu (bốn người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn
lúc đó. Trong giai đoạn này, ông cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên sáng tác theo
trường phái Thơ loạn với những trăng, xương, máu, hồn ma...
trong thơ. Bến My Lăng là thi phẩm nổi tiếng, gắn liền với tên tuổi của
Yến Lan. Ông mất năm 1998, được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ
thuật năm 2007.
Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh năm 1916 (Bính
Thìn), tại xã Phước Lộc (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi). Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông
còn ký bút hiệu Lê Mộng Thu.
Trước khi đến với Thơ mới, một thời gian dài (1931-1936), Bích
Khê đã viết ca trù, thơ Đường luật, đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết
thứ Năm, Người mới...
Sau 1937, ông chuyển hẳn sang Thơ mới do sự tác động và chịu
nhiều ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử.
Tinh huyết là tập thơ duy nhất ra đời (năm 1939) khi ông
còn sống và rất được người yêu thơ chú ý.
Ngày 17 tháng 1 năm 1946, Bích Khê lìa bỏ cõi đời và cõi thơ
lúc 30 tuổi.
Trong lời tựa tập thơ Tinh huyết của Bích Khê, Hàn
Mặc Tử viết: Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị... Và
đem phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: Thơ tượng
trưng, thơ huyền diệu và thơ trụy lạc...Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một phần
thiên tài, và ở một phần sự “Đau khổ”...
Theo Hoài Thanh và Hoài Chân thì Bích Khê có những câu thơ
hay nhất Việt Nam, như: Ô! hay buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi, vàng rơi thu
mênh mông...
Hay: Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?/ Nàng là
hương hay nhan sắc lên hương...
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, thì: Với Tinh huyết,
"Thơ mới" chuyển từ lãng mạn sang tượng trưng và siêu thực. Ở Tinh
huyết phần lớn là bí hiểm, nhưng vẫn có thể nhìn thấy trong đó một hồn thơ đắm
đuối, cuồng nhiệt. Nhà thơ có nhiều tìm tòi đổi mới thơ ca theo hướng chủ nghĩa
hiện đại, đi sâu vào cõi vô thức. Có một số bài, một số câu ý tứ mới mẻ, nhạc
điệu du dương...
Bút danh: Thúc Tề, Lãng tử, sinh năm Bính Thìn (1916), tại Thừa
Thiên. Trước ông học ở trường Quy Nhơn, sau vào học tại trường Quốc học Huế, rồi
gia nhập vào làng báo. Ông viết cho các tờ: Hà Nội báo, Văn học tạp chí, Mai,
Dân quyền và làm chủ bút Đông Dương tuần báo ở Sài Gòn.
Năm 1946, Thúc Tề mất khi mới 30 tuổi. Thúc Tề làm thơ rất
ít, hiện chỉ lưu giữ được 5 bài, đó là: Phù dung và nhan sắc, Trăng mơ,
Xuân lên đường, Em buồn và Nợ văn.
Xuân Tâm tên thật Phan Hạp, sinh năm Bính Thìn (1916), tại Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam. Khởi đầu, Xuân Tâm theo học Trường Chaigneau, rồi trường
Quốc Học Huế và đậu bằng Thành chung. Năm 1941, ông cho xuất bản tập thơ Lời
tim non, trong đó có nhiều bài ông sáng tác từ năm 1935, tức lúc ông 19 tuổi.
Ngoài ra, ông còn có tập thơ: Hương giữa mùa, Hoa cuối mùa...
Hiện ông đang ở Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét