Vừa mới tốt nghiệp, mẹ đã bảo tôi về tạm chỗ dì để học hỏi
công việc. Tôi phản đối ra mặt. Tôi đường đường là một cử nhân. Liệu tôi sẽ học
hỏi được gì ở cái quán ăn nhếch nhác nơi thị trấn nghèo heo hút ấy. Nhưng mẹ
kiên quyết không đổi ý. Mẹ dọa sẽ cắt tiền tiêu vặt nếu tôi không đi. Cực chẳng
đã tôi đành phải bằng lòng.
Nhà dì nằm ở lưng chừng con dốc nhỏ phía cuối thị trấn, cạnh
những quán cà phê, khách sạn cũ kỹ. Phía sau, thung lũng rộng mênh mông, lồng lộng
gió. Giờ sắp sang mùa mưa, con suối nhỏ trong vắt vẫn róc rách chảy về xuôi.
Hai bên, những thửa ruộng bậc thang uốn lượn nhấp nhô tận lưng đồi, xanh rì lúa
hãy còn con gái. Xa nữa là những dãy núi trùng trùng điệp điệp lẩn khuất trong
mây trời.
Tôi thường bị đánh thức từ khi trời chưa sáng. Đó là lúc dì lục
tục bắc bếp và kê dọn bàn ghế. Tiếng chén bát va vào nhau leng keng. Sau đó là
tiếng máy nẹt pô lẹt đẹt, tiếng xe kéo lịch xịch đậu trước nhà. Móng ngựa lộc cộc
gõ vào bậc thềm làm màng nhĩ tôi bùng nhùng như trống đánh. Khách buổi sớm hầu
hết là người đi nương, đi rừng. Thỉnh thoảng có những người từ trong mỏ khai
thác vàng ra và rất kiệm lời. Họ tự ngồi vào bàn, vô tư lấy rượu, lấy đồ ăn như
là người trong nhà. Còn dì mải mê xào xào nấu nấu, dọn rửa phía trong, thỉnh
thoảng mới à, ừ một câu.
Thời tiết ở đây thật lạ, buổi sáng trời se sắt lạnh. Đôi khi
có cả mưa phùn. Nhưng đường phố vẫn khá nhộn nhịp. Những chiếc váy thổ cẩm che
ô xúng xính sang đường mỗi khi chiếc ôtô du lịch đậu lại. Mấy đứa trẻ mặt lấm
lem, chân trần vấn vít chạy theo. Du khách áo mưa lẹp nhẹp quấn thành từng đám,
thích thú chỉ trỏ đám sương trắng từ trên đỉnh núi đang nhẹ nhàng trườn qua những
sườn đồi, tràn vào thị trấn. Chỉ một lát thôi là tất cả sẽ chìm vào hư ảo. Những
ngôi nhà gỗ trầm mặc giấu mình vào trong sương. Những cửa hiệu nhạt nhòa trong
ánh đèn đỏ rực như còn giữa đêm. Người qua đường dò dẫm tìm nhau. Tiếng cười
đùa vang lách cách. Khi ấy tôi chỉ việc chọn một góc quán trên gác hai cố nhìn
ra phố và gọi một ly đen đá. Tôi cứ ngồi mãi cho đến khi cơn hậm hực nguôi dần
mới chịu về.
Trong những ngày lê la khắp các hàng quán, tôi quen được thằng
Chải. Đó là thằng nhỏ người Mông hay đi giao hàng cho các cửa tiệm. Nhìn nó bơi
trên một chiếc xe máy Simson màu đỏ kềnh càng trông thật ngộ nghĩnh. Thằng Chải
đã mười lăm tuổi nhưng có dáng dấp của một đứa trẻ lên mười. Da nó đen nhẻm. Chỉ
có đôi mắt híp và nụ cười khá duyên.
Có lần, tôi hỏi nó đại ý trên này có chỗ nào đáng xem không.
Nó cười cười rồi hất hàm về phía đuôi xe. Tôi hiểu ý, chạy ra. Chiếc xe lao vút
xuống một con dốc, băng qua những khu vườn trồng hoa hồng và rau. Chúng tôi đi qua
một cây cầu nhỏ, men theo những lối mòn bên những thửa ruộng bậc thang, qua những
sườn đồi. Rồi lại đi lên, lên tít một con dốc quanh co gần như dựng đứng. Tới đỉnh
dốc thì xe dừng lại. Chỗ đó có một tảng đá lớn chìa ra phía bờ vực.
Chải bảo đó là mỏm Đá Chờ. Cái tên nghe thật lạ. Tôi hỏi có
phải vì người ta hay chờ nhau ở đây không. Nó cười, chỉ những người yêu nhau
thôi. Đứng trên mỏm Đá Chờ nhìn xuống mới thấy cảnh vật thay đổi thật nhanh. Đó
là khi những cơn mưa phùn dứt hẳn. Mặt trời bắt đầu lên bên kia khe núi. Những
tia nắng vàng óng xuyên qua mấy ngọn cây rừng, tràn vào thung lũng. Hơi nóng sẽ
làm những đám sương mù nở bung. Từ đây, có thể nhìn rõ những đám mây trắng từ
trên đỉnh núi tuột xuống, trườn qua các sườn đồi, qua những ruộng bậc thang lúa
đang chín, len lỏi vào thị trấn. Phố núi mịt mù trong sương. Những con đường bỗng
mất hút. Những ngôi nhà cũng mất hút. Chỉ còn chóp nhà thờ cao vút nhô lên giữa
mấy cây bách tán nhọn hoắt.
Tôi tròn xoe mắt ngạc nhiên, đưa tay quờ lấy những vạt sương
óng ánh, xuýt xoa. Thằng Chải đứng bên cạnh không quên nhắc tôi phải cẩn thận.
Hai tay nó chắp ngang hông, vẻ hãnh diện. Nó cười, nụ cười hồn nhiên, hoang dại
như sương núi bay qua. Tôi chụm hai tay trước miệng, thả một tiếng hú dài vào
không trung. Thằng Chải cũng làm theo. Và rừng núi cũng hú lên vọng lại từng hồi.
Hai đứa tôi hò hét cho đến khi hoàng hôn tắt hẳn mới chịu về.
Mấy hôm sau, thằng Chải biến đi đâu mất dạng. Tôi sốt ruột, tự
mướn xe để lên chỗ mỏm Đá Chờ. Khi đang say sưa với những khung hình tuyệt đẹp
tôi bỗng nhận ra mình cũng đang ở trong tầm ngắm. Kẻ nhìn trộm ngượng ngùng khi
bị tôi bắt tại trận. Đó là một cô sơn nữ với bó cỏ xanh còn đẫm sương khoác
trên lưng. Tay cô vân vê tà áo đầy hoa văn đã bạc màu, thỉnh thoảng ngước lên
nhìn tôi. Chiếc váy xòe cũng đẫm hơi sương. Những bông len đỏ chót gắn trên
vành khăn lúc lắc trước mặt. Chùm khuyên tai lấp lánh, đong đưa. Tôi ngẩn ngơ,
cô có nét gì đó khác hẳn với những cô gái sơn cước tôi hay gặp. Bởi đôi mắt to,
đen nháy. Tôi thấy lạ quá. Không phải là cặp lông mày mỏng nhạt, đôi mắt hẹp và
buồn tôi thường thấy. Tôi mỉm cười, mặt như đang bừng lên. Đôi má cô cũng ửng đỏ.
Không biết vì tôi hay vì những hạt nắng đầu tiên của buổi sớm nữa.
Tự dưng tôi thấy cảnh bình minh sau lưng như không còn thú vị
nữa. Như một phản xạ tự nhiên, tôi nhấc máy lên chụp. Cô gái không bỏ chạy mà
chỉ nở một nụ cười e thẹn nhìn về phía tôi. Được một lát, như chợt nhớ ra điều
gì đó, cô gái vội vàng quay đi. Cô ào xuống chân dốc lúc mặt trời ló hẳn ra.
Chiếc váy xòe rực rỡ xúng xính theo từng bước đi vội vã. Tôi ngỡ ngàng, vội lia
máy theo. Cô gái cắm cúi chạy không thèm quay đầu lại. Rồi cô rẽ vào một lối
mòn, băng những ô ruộng bậc thang đã lốm đốm vàng và chìm khuất dưới những mái
nhà gỗ nằm cheo leo phía lưng đồi. Bữa ấy, tôi ra về với tâm trạng lâng lâng
khó tả.
Dì ngạc nhiên khi thấy tôi thẫn thờ ngồi trước máy tính.
- Sao lại biết con bé? - Dì chỉ vào bức hình tôi chụp cô gái.
- Cháu gặp cô ấy trên mỏm Đá Chờ.
- Tránh xa nó ra.
Dì dừng lại trước mặt tôi, nghiêm nghị. Hình như chưa khi nào
dì tin tưởng tôi. Và tôi cũng ngạc nhiên trước thái độ hơi quá của dì. Điều ấy
khiến tôi càng tò mò.
Sau một ngày lang thang qua các bản nhỏ phía chân đồi, tôi đã
biết được nhiều điều. Cô gái tên Mùa. Nhà Mùa nằm một mình phía sau dãy núi bên
kia thung lũng. Mẹ Mùa mất từ khi cô lọt lòng. Không lâu sau, bố cô cũng nhảy
xuống vách núi tự tử. Mùa lớn lên với cậu mợ. Cậu là một người nát rượu. Cứ mỗi
lần say lại quay ra chửi bới Mùa. Cậu mợ cho rằng Mùa là nguyên nhân dẫn đến
cái chết của cha mẹ mình. Mùa vẫn hay lủi thủi một mình. Mọi người gọi cô là
con bé kỳ quặc. Nhưng tôi không tin. Những điều đó không giống với cô gái hôm
trước tôi gặp.
Quán của dì tạm nghỉ vì ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới. Trời
sụt sùi từ mờ đất. Nước giọt tí tách ngoài mái hiên. Tôi nằm dài suốt buổi. Đến
lúc chán quá, tôi vùng dậy mặc đồ đi ra ngoài. Nhưng vừa mở cửa thò mặt ra khỏi
nhà đã thấy sương núi sà xuống. Lạnh buốt. Tôi vội thụt vào trong. Cả ngày, dì
bần thần hết ra lại vào, dọn dẹp một ngày không biết bao nhiêu lần. Tôi ủ rũ, nằm
chán lại ngồi, rồi ôm máy tính than thở với đám bạn thành phố. Thằng Chải thỉnh
thoảng đội mưa lượn qua hỏi thăm chúng tôi. Trông nó cũng có vẻ rệu rã. Hình
như cả tôi và nó đều thấy nhớ mỏm Đá Chờ, nhớ những bình minh bạt ngàn mây trắng.
Nhưng dì cấm chúng tôi đi. Mùa này hay có đá lở, rất nguy hiểm.
Đến hôm thứ ba thì mưa tạnh. Thằng Chải và tôi sướng rơn, ùa
ra chợ. Ở đó chúng tôi gặp Mùa. Mùa địu một đứa bé còn đỏ hỏn trên lưng đi bán
đồ lưu niệm, vẻ mặt buồn buồn. Tự dưng tôi thấy lòng hẫng hụt.
- Con nhỏ thế, sao không ở nhà?
Thằng Chải phá lên cười, huých vào cánh tay tôi:
- Đấy là em nó. Mới được hơn một tháng thôi.
Chải có vẻ rất thích Mùa. Nó bảo, khi nào kiếm được nhiều tiền
sẽ bắt Mùa về làm vợ. Tôi đùa, Mùa lớn tuổi thế, không sợ Mùa già trước hay
sao. Chải tặc lưỡi, mặc kệ. Nhưng Mùa lại giận dỗi mỗi khi Chải bông đùa. Mùa
thường tránh mặt nó. Chải không buồn, vẫn cứ nhe răng cười hềnh hệch.
Tôi vẫn thường giấu Chải mỗi lần đi gặp Mùa. Khi thì ở mỏm Đá
Chờ, lúc Mùa đi hái cỏ buổi sớm. Có khi lại giữa chợ phiên, Mùa ngồi thêu váy
hoa xúng xính ngay lối đi. Mùa giả vờ ngó lơ nhưng vẫn len lén nhìn tôi, mỉm cười.
Thỉnh thoảng trên đường về, Mùa có ghé quán dì tôi nhưng chỉ ngồi mớm trước
hiên, không dám vào trong. Dì thấy tội, từ bếp đi ra, chẳng nói câu nào nhưng vẫn
dúi vào tay Mùa ít bánh. Mùa cầm lấy, lí nhí cảm ơn rồi lững thững ra về.
Có lần tôi đang nặn mụn trứng cá ngoài sân, Mùa sán đến.
- Đẹp nhỉ - Mùa thốt lên.
- Tôi á?
Tôi nhìn Mùa ngạc nhiên, không tin vào tai mình nữa.
- Không. Cái này này - Mùa chỉ vào chiếc gương trên tay tôi.
- Vậy à - Tôi thấy mình tẽn tò - Có thích không? Tặng đấy.
- Thích.
Mùa bẽn lẽn. Tôi dúi chiếc gương vào tay Mùa.
- Thích tôi không? Tặng luôn!
Mùa không nói, đỏ mặt quay đi.
Mùa vẫn hay đi về qua lối quán của dì tôi. Nhưng không vào,
chỉ liếc một cái vào trong rồi cắm cúi đi nhanh. Có khi thằng Chải cũng theo
sau, lắc đầu không hiểu.
Dì bắt đầu phàn nàn vì cái tính bừa bãi của tôi. Đúng hơn là
dì khó chịu mỗi lần tôi cà kê gọi điện kể lể với đám bạn về Mùa.
- Con Mùa còn dại. Đừng gạt nó, tội... - Dì thều thào.
- Cháu rất nghiêm túc.
- Nhưng thằng Chải không thể sống thiếu con Mùa.
- Đó là việc của Chải - Tôi tỉnh bơ.
Dì nín lặng, ánh mắt long lanh đầy nước.
- Đừng tàn nhẫn thế. Cháu vốn không thật lòng với Mùa.
Tôi bỗng thấy hoang mang. Tôi cảm thấy khó chịu khi dì còn
quan tâm đến thằng Chải hơn cả tôi. Nhưng những điều dì càng cố ngăn cản thì
tôi lại càng cố thực hiện.
- Sao lại không? Dì đã yêu bao giờ đâu mà biết.
Tôi xô chiếc ghế đứng dậy vùng vằng bước về phòng đóng sập cửa
lại. Dì im bặt, cắn chặt môi nhìn tôi. Tôi vừa đổ xuống giường đã vội bật dậy bởi
tiếng dì rít lên ngoài hiên.
- Chải… Dừng lại đã! Chải…
Tôi vừa chạy ra đến hiên thì cái bóng nhỏ nhanh thoăn thoắt
đã tụt xuống cuối lối mòn có chiếc cầu khỉ bắc qua khe suối. Lối ấy chỉ có Chải
mới hay dám chạy mỗi khi lên quán dì tôi. Tiếng thét của dì vang lên giữa lưng
chừng dốc, vỡ toạc trong đêm. Mấy con cú đêm giật mình bay lên tao tác. Tiếng
cành cây đứt gãy. Tiếng đất lở rào rào…
Tôi trèo xuống tới nơi thì người dì đã mềm oặt, nằm vắt ngang
giữa nhánh cây bên suối.
Hôm đưa dì lên đồi, mưa bụi giăng kín cả thung lũng. Những hạt
sương trắng buốt đọng lại thành hạt trên kẽ lá. Mẹ gào khóc gọi tên dì giữa đồi
hoang. Tiếng khóc lạc vào vách núi, nghe thao thiết não nùng. Tôi thảng thốt
nhìn quanh tìm Chải. Nhưng nó không đến. Mùa đứng bên kia đỉnh đồi, thẫn thờ
trông lại. Gió núi hoang vu. Tôi ngẹn ngào nuốt vội những giọt nước mắt mặn đắng
vào trong. Lòng thấy nặng trĩu.
Tình cờ tôi phát hiện ra chiếc hộp gỗ thỉnh thoảng dì vẫn đem
ra ngắm một mình sau nhà. Đó là khi tôi rệu rã xếp đồ để trở lại thành phố. Chiếc
hộp được khảm trai rất đẹp. Bên trong toàn những con thú bằng gỗ ngày bé dì tự
tay làm nhưng mà tôi không thích. Có một cuốn số tiết kiệm dưới đáy hộp. Tôi lật
nó ra xem và vô cùng kinh ngạc. Số tiền khá lớn và đề tên người hưởng là tôi.
Ngăn dưới cùng còn có một tấm ảnh tôi chụp cùng dì năm tôi tám tuổi. Tôi giơ
lên trước mặt. Dòng chữ "Mẹ yêu con" ghi nắn nót ở góc dưới khiến tôi
chột dạ. Lòng tôi bỗng hoang mang.
Mẹ sững sờ khi thấy tôi cầm chiếc hộp đi ra. Chiếc cốc thủy
tinh trên tay mẹ rơi xuống, vỡ tan. Mẹ loạng choạng chống tay xuống bàn.
- Mẹ. Chuyện này là sao? - Tôi hét lên.
Mẹ rơm rớm nước mắt. Hai bàn tay bấu chặt vào nhau. Mẹ nghẹn
ngào kể lại câu chuyện của dì cho tôi nghe. Rằng thời con gái, dì gặp và yêu một
chàng khách du lịch từ thành phố đến. Mọi người phản đối kịch liệt nhưng dì
không nghe. Hai người từng thề non hẹn biển. Nhưng khi dì biết mình mang bầu,
người đó đi biệt tăm. Dì suy sụp nhanh chóng. Ngoại biết chuyện, nổi giận đùng
đùng. Mẹ đành đưa dì lên thành phố ở cùng vì sợ tiếng đời cay nghiệt và những hủ
tục rùng rợn nơi này. Sinh con xong, dì trao lại đứa bé cho mẹ nuôi, một mình về
lại thị trấn. Và dì cứ sống lầm lũi một mình trong cô độc từ đó đến giờ, ngay cả
khi ngoại tôi đã mất.
- Không…!
Tôi gào lên đau đớn. Có cái gì đó vụn vỡ trong tôi khi biết rằng
đứa trẻ dì trao lại chính là mình. Tôi chạy ra khỏi quán trong tiếng khóc nấc của
mẹ. Tự nhiên nước mắt tôi cũng trào ra, ướt đầm vai áo. Đầu tôi như muốn nổ
tung. Mọi cảm xúc cũng hỗn độn. Tôi không rõ mình đã chạy qua biết bao nhiêu
con đèo, bao nhiêu thửa ruộng. Tôi cứ chạy, chạy mãi cho đến lúc đôi chân mỏi
nhừ. Tôi đã ngã khụy khi gần lên đến mỏm Đá Chờ. Nỗi u uất lại trào dâng. Gió
hun hút ngoài vực sâu thổi vào nghe ai oán. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý
nghĩ điên rồ. Tôi bò tới mỏm Đá Chờ. Chưa kịp làm gì thì bàng hoàng nhận ra thằng
Chải cũng đang ở đó. Ngay sát bờ vực. Trước mặt nó, thung lũng rông mênh mông.
Đám mây chiều lướt vun vút qua những sườn núi. Chải vẫn ngồi bất động nhìn về
phía thị trấn, suy tư.
Tự nhiên, cái ý định điên rồ vừa lóe lên trong tôi tắt lịm.
Tôi lần đến bên Chải, ngồi xuống. Nó vẫn nhìn xa xăm. Hoàng hôn buông đầy trong
mắt.
- Mùa lấy chồng bản bên rồi. Nhà giàu lắm.
Chải cố rặn từng tiếng một. Rồi nó bỗng bật khóc. Tiếng khóc
khô khốc của gã trai chưa kịp lớn đã nếm mùi vị đắng của tình yêu. Tôi bối rối
chẳng biết phải an ủi nó ra sao. Và trong tôi lúc này, nỗi đau như cũng đang rạn
vỡ. Tôi cứ để cho nó khóc một mình như thế. Có lẽ khóc được sẽ khiến cho nỗi buồn
nguôi ngoai đi.
Chờ một lúc cho lòng mình lắng xuống, tôi mới kể lại chuyện của
mình cho thằng Chải nghe. Tự nhiên tôi cũng muốn có một người nào đó để chia sẻ.
- Dì mới là người sinh ra tôi.
Thằng Chải nín bặt, quay sang nhìn tôi, xót xa. Và nó lặng
thinh ngồi nghe tôi kể lại mọi chuyện. Có lẽ nó không thể hiểu hết được những
điều tôi đã trải qua và cả tâm trạng của tôi lúc này. Nhưng có lẽ nó biết cái cảm
giác bị lừa dối là như thế nào. Và giờ lại đến lượt tôi khóc. Thằng Chải ngập
ngừng quay đi. Rồi nó vỗ vỗ xuống vai tôi như dỗ trẻ con.
- Còn hơn làm một đứa con hoang ở cái đất này. Như tao, khổ lắm.
Giọng Chải buồn hiu. Hai hàng nước mắt của nó đã khô cong
trên gò má đen sạm. Quen nó bao nhiêu lâu nhưng đây là lần đầu tiên tôi biết nó
không có cha. Bình thường tôi cứ nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ biết buồn. Có lẽ nó
đã phải chịu nhiều tủi cực khi lớn lên trên cái mảnh đất quanh năm mù sương
này. Tôi chẳng biết nói gì với Chải. Tự dưng thấy lòng mình trống rỗng.
Tôi bần thần nhìn vào khoảng không gian mênh mông trước mặt.
Những cơn gió chiều man mác thổi qua mỏm Đá Chờ. Giờ thì tôi đã biết vì sao dì
nghiêm khắc với tôi như vậy. Có lẽ dì đã đúng. Dì đã chọn một giải pháp tốt hơn
cho tôi. Và có khi là tốt hơn cho cả dì. Chỉ tiếc rằng dì ra đi quá đột ngột mà
chưa kịp nói rõ mọi chuyện với tôi. Dì đã chọn cách im lặng gần nửa cuộc đời.
Tôi quyết định giao quán dì để lại cho thằng Chải. Nó giãy nảy
từ chối. Nhưng tôi không đành lòng để quán cho một người xa lạ. Thằng Chải miễn
cưỡng gật đầu.
Và tôi rời thị trấn vào một sớm tinh mơ. Ngoài trời vẫn còn
se sắt hơi đêm. Thỉnh thoảng, tôi ngoái đầu nhìn lại, như muốn tìm một điều gì
đó rất quý giá mà có lẽ chưa một lần thuộc về tôi. Nhưng thật khó. Chẳng còn điều
gì níu kéo tôi ở cái thị trấn bé nhỏ này cả.
Tôi vội vã bước đi khi tiếng còi xe réo gọi. Phố núi vẫn
thênh thang. Chỉ có sương mù giăng kín lối, giăng kín cả trong tôi lạnh giá tâm
hồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét