Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2019

Kim Vân Kiều đính giải 3

Kim Vân Kiều đính giải 3
Chương 14:
CÂU 1129 ĐẾN CÂU 1226
“Chừa lòng trinh bạch, Trả nợ phong trần”
1129. Hóa nhi thật có nỡ lòng, [1]
Làm chi đày tía, đọa hồng, lắm nao! [2]
1131. Một đoàn đổ đến trước sau, [3]
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.
1133. Tú bà tốc thẳng đến nơi, [4]
Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà. [5]
1135. Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.
1137. Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
1139. Hết lời thú phục, khẩn cầu, [6]
Uốn lưng xương nổ, cất đầu máu sa. [7]
1141. Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
1143. Bây giờ sống chết ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi!
1145. Những tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
1147. Thân lươn bao quản lấm đầu, [8]
Trót lòng trinh bạch từ sau xin chừa!” [9]
1149. Được lời mụ mới tùy cơ,
Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu. [10, 11]
1151. Bầy vai có ả Mã Kiều, [12]
Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan. [13]
1153. Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
Đón rào đến mực, nồng nàn mới tha. (14)
1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
1157. Thôi đà mắc lận thì thôi! [15]
Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
1159. Phụ tình, nổi tiếng lầu xanh, [16]
Một tay chôn biết mấy cành phù dung! [17]
1161. Đà đào lập sẵn chước dùng, [18]
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay! [19]
1163. Có ba mươi lạng trao tay,
Không dưng chi có chuyện này, trò kia! [20]
1165. Rồi ra trở mặt tức thì,
Bớt lời, liệu chớ chây chi, mà đời!” [21, 22]
1167. Nàng rằng: “Thề thốt nặng lời,
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!” [23]
1169. Còn đương suy trước, nghĩ sau,
Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào. [24]
1171. Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
“Rằng nghe mới có con nào ở đây
1173. Phao cho quyến gió rủ mây, [25]
Hãy xem có biết mặt này là ai?”
1175. Nàng rằng: “Thôi thế thì thôi!
Rằng không, thì cũng vâng lời là không!”
1177. Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay. [26]
1179. Nàng rằng: “Trời nhé có hay!
Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?
1181. Phỉnh người đẩy xuống giếng thơi, [27, 28]
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!
1183. Còn tiên “tích việt” ở tay,
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?
1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài, [29]
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!
1187. Phụ tình án đã rõ ràng, [30]
Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui. [31]
1189. Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
 1191. “Tiếc thay trong giá trắng ngần, [32, 33]
Đến phong trần, cũng phong trần như ai!
1193. Tẻ vui cũng một kiếp người,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru! [34]
1195. Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
1197. Dù sao bình đã vỡ rồi, [35]
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!”
1199. Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong, [36]
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
1201. “Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”
1203. Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!” [37]
1205. Mụ rằng: “Ai cũng như ai, [38]
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
1207. Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. [39]
1209. Này con thuộc lấy nằm lòng,
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. [40, 41]
1211. Chơi cho liễu chán, hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời. [42]
1213. Khi khóe hạnh, khi nét ngài, [43]
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
1215. Đều là nghề nghiệp trong nhà,
Đủ ngần ấy nết, mới là làng soi.” [44]
1217. Gót đầu vâng dạy mấy lời, [45]
Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng. [46]
1219. Những nghe nói, đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!
1221. Xót mình cửa các, buồng khuê, [47]
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
1223. “Khéo là mặt dạn, mày dày,
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
1225. Thương thay thân phận lạc loài,
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?”
Đính chính và xác định:
Câu 1134 – Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà – Chữ hầm hầm ở câu này nghĩa là nét mặt giận dữ đỏ bầm có nghĩa tàn bạo đáng sợ. Có bản Kiều quốc ngữ dịch là “hăm hăm” thật sai ý nghĩa ở đây, vì hăm hăm nghĩa là hăm hở hăng hái, lăm le muốn làm một sự vui thích, trái ý giận dữ ở cảnh này. Hầm hầm tả mặt giận. “Hăm hăm” tả mặt vui.
Câu 1140 – Uốn lưng xương nổ, cất đầu máu sa – Chữ xương nổ câu này các bản Kiều quốc ngữ bây giờ đều in là “thịt đổ” gần như vô nghĩa. Cụ Huyện Hoàng Mộng Lệ, người làng Phù Lưu tỉnh Bắc Ninh, rất thông minh và thích khảo cứu văn chương Nôm cổ. Năm 1946 -1947, cụ có tản cư về ở nhà tôi và hay bàn nghĩa Truyện Kiều với tôi. Cụ rất thích Truyện Kiều, trong hơn 50 năm cụ đã kiếm được hơn chục bản Kiều Nôm cũ, mới, in hay viết tay để so sánh khảo cứu. Trong đó có một bản in cũ có nhiều chữ khác các bản in sau. Rồi cụ kể đại khái như những thành ngữ “lờ thu thủy, nhợt xuân sơn”, “uốn lưng xương nổ”, “dễ mà bọc rẻ giấu kim”… Sau tôi đọc tiểu thuyết Tàu có câu tả người bị đòn đau rằng [          = chu thân cổn bát cốt tiết cách cách địa hưởng = khắp mình máu cuồn cuộn như muốn tóe ra, các khớp xương nổ kêu lắc rắc khi cử động], bấy giờ tôi mới biết lời cụ Huyện ngâm Kiều: Uốn lưng xương nổ, cất đầu máu sa là đúng.
Câu 1145 – Những tôi, có sá chi tôi – Chữ những câu này nhiều bản quốc ngữ dịch lầm là “nhưng” thật sai nghĩa. Những tôi nghĩa là cứ những riêng phần tôi, thì sao có đáng kể gì, chết cũng được, chỉ nỗi tôi chết thì vốn bà bỏ ra mất không. Nếu để chữ “nhưng” thì thật hết ý khẩn thiết sâu xắc.
Câu 1154 – Đón rào tới mực nồng nàn mới tha – Đón rào là đón trước rào sau. Tú bà kể các lẽ bắt Mã Kiều làm tờ cam đoan phải chịu trách nhiệm đủ mọi lẽ trước sau thật kín đáo chặt chẽ, không thiếu lẽ gì để hòng lật lừa được. Nhiều bản Kiều đổi hai chữ đón rào ra “gạn gùng” thật sai nghĩa, vì gạn gùng chỉ tra hỏi cặn kẽ, chữ không phải là lời lẽ viết ở tờ cam đoan.
Câu 1172 – Nọ nghe rằng có con nào ở đây – Chữ nọ nghe ở đầu câu này thật hay, tả rõ khẩu khiếu giọng nói của thằng ngông cuồng ra bộ hống hách người trên, bước chân vào nhà chẳng chào hỏi ai lên mặt thét ngay “Nọ kia! Lạ chưa! sao ta lại nghe có con nào ở đây, nó vu…” là lời thật mạnh mẽ cứng rắn của thằng ngông làm bộ. Nhiều bản đổi là “Nghe như mới có con nào ở đây” lời thật yếu ớt, không đúng giọng của Sở bấy giờ.
Câu 1205 – Quở rằng: Ai cũng như ai – Chữ quở câu này rất khẩn thiết cho tình lý: Tú Bà laị dậy Kiều “nghề chơi”, vừa mở mồm nói: Nghề chơi cũng lắm công phu/ làng chơi ta phải biết cho đủ điều thì Kiều vẫn có ý bất bình khinh bỉ, dám gạt ngang lời mụ mà nói: Liều thân thì chỉ liều đến như thế là xong, chứ còn phải làm gì hơn nữa mà bà nói là lắm công phu. Mụ thấy Kiều có ý coi thường lời mụ như vậy, mụ liền quở ngay cho nàng sợ mà để ý nghe lời mụ dậy. Chữ quở câu này các bản Kiều nôm hay quốc ngữ bây giờ đều in lầm là “mụ” thành mất nghĩa tinh tế ấy. Lúc tôi còn trẻ, chính mắt tôi trông thấy ở trong một cuốn Kiều nôm phường bản cũ in chữ này là [𠵩] (= khẩu [] bên quả []), nhưng chữ điền [] nửa trên chữ quả [] in nhòe thành hình vuông đen. Sau tôi lại thấy một cuốn Kiều nôm phường bản nữa khắc lại chữ này thành chữ [] (= khẩu [] bên mỗ [] = mỏ). Chắc các nhà xuất bản sau thấy “mỏ” vô nghĩa mới đổi chữ mỏ thành “mụ” []. Vậy tôi xin có lời đính chính phân minh chỗ đúng, để khỏi mất nghĩa sâu sắc của nguyên văn.
Câu 1216 – Đủ ngần ấy nét mới là làng soi – Chữ làng soi nhiều bản viết là “người soi” không sát nghĩa bằng chữ làng soi. Làng soi là hạng làng chơi đủ mánh khóe, đáng làm gương trong làng chơi. Còn chữ “người soi” thì ý nghĩa vu vơ.
Chú thích và dẫn điển:
[1] Hóa nhi [ ] = Ông trời trẻ con. Chữ hóa nhi dùng trong văn thơ để tả những ý than thở trời đùa trêu làm khổ người ta như đứa trẻ con.
[2] Đày tía đọa hồng = Đày đọa làm khổ một người gái đẹp.
[3] Đổ đến = Ào ạt chạy tới như nước trên cao đổ xuống.
[4] Tốc thẳng = Chạy mau một mặt đến. ([] = tốc = nhanh).
[5] Hầm hầm – Xem lời đính chính câu 1134 trên này.
[6] Thú phục – Thú [] = Nhận tội mình đã trót làm. Phục [] = Chịu tội, không dám chối cãi nữa.
[7] Uốn lưng xương nổ = Khi bị đánh đòn đau quá, cong lưng xuống để lạy van thì xương sống lưng kêu lắc rắc. (Xem lời đính chính câu 1140 bên trên).
[8] Thân lươn bao quản lấm đầu – Con lươn thường rúc chui ở dưới bùn, nên ta có câu tục ngữ này để nói đành chịu thân phận khổ cực lầm than.
[9] Trót lòng trinh bạc từ sau cũng chừa – Lòng trinh bạch = Lòng bền giữ một niềm trong trắng cao quý. Ôi, tấm lòng trinh bạch của đàn bà đáng quý biết bao, thế mà đây phải nói vứt đi: Tôi đã trót dại giữ lòng trinh bạch, từ nay tôi xin chừa không dám dại dột giữ lòng trinh bạch nữa. (Tình cảnh thật là hết sức thê thảm. Câu này thật là một lời “đoạn trường,” mỉa mai thói đời ô uế tham lợi, hà hiếp bắt người tử tế phải bỏ lương tâm đạo nghĩa).
[10] Bảo lĩnh [ ] – Bảo = Giữ. Lĩnh = Đem về cai quản. Người bảo lĩnh là người xin với người trên tha người có tội, giao cho mình đem về trông coi và chịu trách nhiệm bắt người có tội ở theo đúng phép.
[11] Tờ cung chiêu [ ] = Tờ khai thú nhận tội lỗi và xin làm những gì để chuộc tội.
[12] Bầy vai = Người ngang với nhau.
[13] Chịu đoan = Làm tờ cam kết bắt Kiều phải làm đúng như lời trong tờ cung chiêu và lời Tú Bà bắt buộc phải làm những gì.
[14] Đón rào – Xem lời xác định câu 1154 bên trên.
[15] Mắc lận = Bị lừa. Tục ngữ nói : Thua lừa mắc lận.
[16] Phụ tình nổi tiếng lầu xanh – Thi sĩ Đỗ Mục đời Đường lúc thanh niên chỉ thích chơi bời với gái thanh lâu, sau bỗng hối lỗi và răn đời như sau:
1. [       = lạc phách giang hồ tải tửu hành = lang thang hư hỏng chở rượu đi chơi với gái ở chốn giang hồ].
2. [       = sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh = thích ngắm những cái eo nhỏ hẹp như gái nước Sở và những gái múa lẹ trên bàn tay].
3. [       = thập niên nhất giác Dương Châu mộng = mười năm bỗng tỉnh giấc mộng chơi bời với gái châu Dương].
4. [       = doanh đắc thanh lâu bạch hạnh danh = thật chẳng được gì, chỉ được mang tiếng là một kẻ bạc tình ở chốn lầu xanh].
Câu Phụ tình mang tiếng lầu xanh dùng điển ở câu kết bài thơ trên.
[17] Cành phù dung = Gái đẹp mà mệnh bạc. Hoa cây phù dung buổi sớm nở rất đẹp, rồi chiều đến tàn héo ngay.
[18] Đà đao [ ] = Miếng võ hiểm, kéo lê thanh long đao mà giả vờ thua chạy để lừa tướng địch đuổi đến gần mà hất đao lên chém chết. Ta dùng chữ đà đao để chỉ sự bày mưu hiểm độc lừa người.
[19] Một cốt một đồng – Cốt = Bà cốt thờ thần đàn bà. Đồng = Ông đồng thờ thần đàn ông. Khi cúng khấn thì thần nhập vào bà hay ông này mà phán mọi điều cho người kêu cần biết. Lũ đồng cốt thường thông tin ngầm cho nhau biết, để khi ai cần cả đôi bên, thì nói cùng đúng nhau để lừa người tin là lời phán đúng. Chữ một cốt đây là Tú Bà và một đồng đây là Sở Khanh.
[20] Không dưng nghĩa là nếu không có mưu lừa định sẵn này (thì đâu có truyện Sở đến lừa).
[21] Trây chi (hoặc giây chi) = Nói đụng chạm đến. Mã Kiều khuyên Kiều nhịn chớ nói đụng chạm đến Sở Khanh nữa, chớ giây với nó nữa, phải tránh xa nó.
[22, 23] Mà đời = Bỏ mạng, chết.
[24] Mặt mo – Khi có kẻ làm việc gì bậy bạ xấu lắm, người ta thường nói “rõ thật là đeo mo vào mặt” ý nói phải đeo mo kín mặt để cho người ta khỏi phỉ nhổ vào mặt. Kẻ làm việc xấu như Sở Khanh mà không biết xấu hổ, bị người ta gọi là đứa mặt mo thì thật quá đúng và đắc địa vô cùng.
[25] Phao cho = Thả lời nói cho ai cũng biết.
[26] Thị hùng = Cậy thế khỏe mạnh.
[27] Phỉnh = Tán tụng, khen ngợi người ta cho người ta tin yêu mình rồi tìm cách lừa người lấy lợi vào mình. Chữ phỉnh này ý nói đến những lời Sở Khanh khen Kiều sắc nước hương trời, Hằng Nga trong cung Dao Đài, tiên từ trên cung mây. Nó tả rất rõ ý Kiều trách mắng Sở Khanh là thâm độc đểu giả lừa nàng. Chữ phỉnh đặt vào đây rất hay, rất xác đáng, và bản Nôm viết hẳn hoi là [𠶏] (= khẩu [] bên bỉnh []), mà sao các bản quốc ngữ đều in là “đem” làm mất cả ý hay?
[28] Đẩy xuống giếng thơi – Giếng thơi miệng hẹp và rất sâu, quanh năm có nước mạch. Sách Mạnh tử có câu [       = thôi nhân nhập tỉnh nhi hạ chi thạch = đẩy người xuống giếng rồi quăng đá xuống]. Câu Kiều này lấy điển từ câu ấy.
[29] Lời ngay = Lời nói thẳng thắn.
[30] Án [] là tội kết về việc gì. Đây tức là tội kết về tội Sở Khanh đánh lừa Kiều.
[31] Nhơ tuồng ý nói là Sở Khanh tự thấy mình nhơ nhuốc. Tháo lui = Vội vàng rút lui ra ngoài.
[32] Trong giá = Nước đóng thành băng tuyết = (Tấm thân) trong sạch như băng tuyết.
[33] Trắng ngần – Ngần là bạc, do chữ ngân [] đọc trạnh ra. Trắng ngần = Trắng đẹp như màu bạc.
[34] Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru – Câu này lấy từ ý nghĩa câu [       = tự cổ hồng nhan đa bạc mệnh = từ xưa khách hồng nhan hay xấu số] và nghĩa là: Phải chăng khách hồng nhan là cái giống trời sinh ra để chịu cái kiếp cực khổ ở đời?
[35] Bình đã vỡ rồi – Câu này nghĩa là cái số kiếp mình trời đã bắt phải khổ nhục rồi, thì còn tiếc làm gì nữa. Lấy ý từ câu truyện: Hai người cùng đi đường, người đi trước quẩy cái chõ ở sau lưng, bỗng chõ rơi vỡ. Người đi sau hỏi : Chõ anh rơi vỡ rồi, anh có biết không mà không thấy anh ngoảnh lại? Người kia đáp: Chõ vỡ rồi còn để ý đến làm gì mà ngoảnh lại? Người bạn phục là đạt lý, biết vui yên phận. Nhiều bản Kiều chỉ biết giải nghĩa nông cạn câu này là: Kiều đã bị Mã, Sở phá hoại đời rồi – tôi e mất ý nghĩa Kiều biết đành yên theo số phận.
[36] Nguyệt ánh gương trong – Nghĩa bóng sau này là khi Kiều đã bình phục hẳn, mặt mày tươi đẹp sáng sủa như măt trăng đã hết mây ám lại sáng, như gương đã lau hết bụi lại trong.
[37] Liều thân thì cũng phải liều thế thôi – Câu này lời rất gọn gàng thanh thoát, mà đã nói được đủ nghĩa thô tục, lại tả rõ được ý phát khùng khinh rẻ của Kiều, như nói: Đã làm nghề này, thì liều thân chiều ai cũng chỉ có liều thân một mực đến thế là cùng, chứ còn gì nữa mà bà khệnh khạng nói là “cũng lắm công phu, phải học cho biết đủ điều.”
[38] Quở = Quát mắng một cách oai nghiêm. (Xem lời đính chính câu 1205 trên này).
[39] Nỗi đêm hàm ý các cách tiếp khách ban đêm, tức là tám nghề “vành trong.” Nỗi ngày hàm ý các cách đối đãi khách ban ngày, tức là 7 chữ “vành ngoài” ở lời giải 40 dưới đây.
[40] Vành ngoài bảy chữ = Cách dùng bên ngoài để làm cho khách phải quyến luyến không bỏ được mình, đó là những chữ:
1. Khấp [] = khóc sùi sụt (làm cho khách sinh lòng thương mến).
2. Tiễn [] = cắt (cắt tóc để tặng và thề với khách).
3. Thích [] = trích (lấy mực trích lên khách vào vành tay).
4. Thiêu [] = đốt (đốt hương để thề sẽ lấy khách).
5. Giá [] = lấy chồng (hẹn hò sẽ kết duyên làm vợ khách).
6. Tẩu [] = chạy (hẹn sẽ trốn chạy theo khách).
7. Tử [] = Chết (làm bộ tự tử vì tình với khách).
[41] Vành trong tám nghề = Tám cách tiếp khách ở trong phòng. Vì tục quá không thể kể rõ được, chỉ kể qua đại khái là phải tùy sức vóc, tùy lực lượng, tùy sở thích mà khéo lựa cách làm cho khách thật thỏa mãn dục tình.
[42] Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời = Làm cho tượng đá cũng phải lăn lóc vì tình, người sống cũng phải mê mẩn như tượng đá.
[43] Khi khóe hạnh, khi nét ngài – Khi khóe hạnh = Khi nhoẻn miệng cười nụ cho đẹp như miệng quả hạnh đào chín nứt, để quyến rủ khách phải say sưa ngắm. Khi nét ngài = Khi thì sẽ nhíu đôi lông mày cho thật duyên dáng, rồi sẽ đưa cặp mắt liếc một cách rất tình tứ để đưa tình riêng cho một khách, tỏ ra như mình yêu hắn ta hơn cả mọi người.
[44] Làng soi = Loại làng chơi đủ mọi kiểu cách, đáng làm gương cho cả giới làng chơi bắt chước.
[45] Vâng dạy = Kính vâng nghe lời dạy. Tác giả đặt chữ vâng dạy ở đây thật là một lời “đoạn trường” để than thở cho Kiều, một cô gái tâm hồn thanh cao như thế mà phải “vâng” nghe những lời “dạy” bẩn thỉu như thế!
[46] Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng – Nét nguyệt = Đôi lông mày cong như hình mặt trăng lưỡi liềm. Câu này tả lòng Kiều đau đớn hiện ra ngoài mặt – đôi lông mày đẹp muốn như cau có lại, đôi má đương hồng hào phải xanh tái đi.
[47] Xót mình cửa các phòng khuê = Mình thương mình là con gái nhà khuê các lịch sự. Chữ “các” câu này các bản nôm đều dịch là “gác cho dễ đọc, thành ra tối nghĩa, xa với ý con nhà khuê các.
Diễn ra lời văn xuôi:
Câu 1129, 1130 = Ông trời trẻ con kia sao lại nỡ lòng đày đọa làm khổ người con gái trẻ đẹp này quá lắm như vậy để làm gì ?
Câu 1131, 1132 = Một đoàn một lũ nó ào ào đổ đến vây trước vây sau. Nàng làm gì có vuốt mà bới hang chui xuống đất, làm gì có cánh mà bay thẳng lên trời trốn được?
Câu 1133, 1134 = Tú Bà chạy một mạch đến nơi, mặt hầm hầm túm lấy nàng, một mạch lôi về nhà.
Câu 1135, 1136 = Mụ hung hăng chẳng thèm hỏi, chẳng thèm trả lời nào, cứ việc đánh đập tơi bời chẳng tiếc tay.
Câu 1137, 1138 = Ai là người mà thịt da bị đánh tơi bời thâm tím như thế mà lại chẳng đau!
Câu 1139, 1140 = Nàng đau quá, phải hết lời thú tội và van lạy thảm thiết. Khi uốn lưng xuống để lạy thì khớp xương nổ kêu răng rắc, khi cất đầu lên để lạy nữa, thì từ mặt máu muốn rơi xuống.
Câu 1141, 1142 = Nàng kêu van: Tôi là chút phận hèn mọn, lìa cửa nhà quê quán đến nơi xa lạ này.
Câu 1143, 1144 = Bây giờ sống chết ở trong tay bà. Thân này đã đến thế này thì thôi còn nói gì nữa!
Câu 1145, 1146 = Cứ những riêng phần tôi thì chẳng đáng sá kể làm gì, chết cũng chẳng đáng tiếc; chỉ nỗi tôi chết đã đành, nhưng còn số tiền vốn của bà thì sao? Bà không tiếc của à? (Lời Kiều van nài đánh trúng tâm lý của mụ bợm già này – mụ sợ nhất là nàng chết thì thiệt to).
Câu 1147, 1148 = Tôi nay biết phận tôi lắm rồi, làm thân con lươn không quản gì lấm đầu nữa. Trước tôi trót dại giữ lòng trinh bạch, từ nay về sau tôi xin chừa, không dám trinh bạch nữa. (Câu này thật là một lời đoạn trường. Tầm lòng trinh bạch của nàng cao quý bao nhiêu, mà vì đòn đau phải xin bỏ, thật thê thảm quá cho tình cảnh kẻ yếu).
Câu 1149, 1150 = Thấy Kiều hàng phục như thế, Tú Bà liền thừa cơ ngay, bắt người đứng ra làm bão lĩnh và bắt Kiều làm tờ cung chiêu thú nhận tội lỗi và cam đoan sẽ tiếp khách.
Câu 1151, 1152 = Trong bọn chị em thanh lâu có ả Mã Kiều thấy tình cảnh Kiều đáng xót thương, mới đánh liều ra đứng làm người bão lĩnh, xin nhận sẽ bắt nàng làm đúng như lời nàng cam đoan, nếu không được thì xin chịu tội.
Câu 1153, 1154 = Bây giờ mụ mới càng kể mọi lẽ bắt phải làm thế nọ, phải làm thế kia, rất nghiêm ngặt, rào trước đón sau rất là kín kẽ, hết sức cay nghiệt, rồi mới tha đòn cho nàng và giao cho Mã Kiều bão lĩnh.
Câu 1155, 1156 = Mã Kiều vực nàng vào nghỉ trong nhà, rồi lại nhỏ lời khuyên răn và dặn dò nàng rằng:
Câu 1157, 1158 = Đã trót mắc lừa rồi thì thôi, chớ có lôi thôi gì nữa! Đi đâu mà cô chẳng biết cái tên Sở Khanh là một kẻ mặt người dạ thú đó !
Câu 1159, 1160 = Nó đã nổi tiếng là một đứa phụ tình ở chốn lầu xanh, một tay nó đã lừa đảo làm khổ hại nhiều gái đẹp như cành hoa phù dung mà chôn vùi người ta xuống nơi bùn ô uế.
Câu 1161, 1162 = Tụi nó đã giàn xếp với nhau, dùng mưu tham hiểm để mà lừa cô; xưa nay tụi chúng vẫn là một cột một đồng với nhau như thế mà.
Câu 1163, 1164 = Nó đã được Tú Bà trao tận tay 30 lạng bạc để làm việc này đó, chứ không ra thì đâu bỗng dưng lại có những truyện này trò kia để lừa cô như thế.
Câu 1165, 1166 = Nó phỉnh phờ ngon ngọt lừa người rồi nó lại trở mặt ngay không ngại gì cả. Vậy tôi bảo thật cô nghe, cô phải bớt mồm bớt miệng, chớ có lời kia tiếng nọ lôi thôi với nó nữa. Cô phải nhịn đi, chớ giây đến nó mà có khi bỏ đời đó.
Câu 1167, 1168 = Kiều có ý không tin lời bạn, đáp lại: Hắn quả quyết nặng lời thề với tôi như thế, có lẽ đâu lại là kẻ hiểm sâu tráo trở thế được?
Câu 1169, 1170 = Trong khi Kiều còn đang suy trước nghĩ sau, thì bỗng thấy cái “mặt mo” ấy ở đâu dẫn vào, lừ lừ ra mặt là người trên hống hách.
Câu 1171, 1174 = Sở Khanh ra bộ tức giận rêu rao: Thật lạ! Tao nghe có con nào ở đây dám ra tiếng xấu vu cho tao là đã quyến rũ nó đi trốn! Con ấy đâu? Lại đây mà nhìn ra mặt tao, xem có biết mặt này là ai không?
Câu 1175, 1176 = Kiều có ý vừa sợ vừa khinh, mỉa mai nói: Thôi thế thì thôi ! Tôi còn muốn nói gì nữa! Ông bảo rằng ông không quyến rũ, thì tôi cũng xin vâng lời nhận rằng ông không quyến rũ tôi!
Câu 1177, 1178 = Sở Khanh thấy nàng có ý khinh mỉa mình quá, liền quát mắng nổi giận đùng đùng, bước sấn vào toan cậy thế hùng hổ đánh nàng.
Câu 1179, 1180 = Nàng ngửa mặt lên trời kêu rằng: Trời ơi! Trời có biết không? Ai là kẻ đã quyến rũ tôi đi trốn để tôi phải khổ nhục thế này?
Câu 1181, 1182 = Đã khéo đưa lời người ta để lừa người ta đến bờ giếng thơi rồi đẩy người ta xuống, rồi nói đó, trối đó, nuốt lời ngay được!
Câu 1183, 1184 = Nhưng bảo cho mà biết: Chưa trối nổi được đâu! Còn tờ “tích việt” trong tay này làm chứng đây! Tôi nhìn rõ mặt ông lắm rồi, rõ ràng cái mặt hôm ấy là cái mặt này, chứ còn mặt ai nữa.
Câu 1185, 1186 = Lời ngay lẽ thẳng của nàng nói giữa đám đông người trong nhà ngoài cửa, ai nghe cũng phỉ nhổ chê cười Sở Khanh là đồ bất nghĩa, bất nhân.
Câu 1187, 1188 = Tội án phụ tình này đã rành rõ hẳn hoi, Sở Khanh thấy mặt mình trơ trẻn, rõ ra đồ xấu xa nhơ nhuốc, hắn mới tìm đường tháo lui ngay, không dám lôi thôi gì nữa.
Câu 1189, 1190 = Khi một mình ở trong buồng riêng, Kiều chỉ những sụt sùi khóc ngầm một mình, nàng nghĩ đến thân nàng mà lại ngậm ngùi cực cội, mình những thương mình.
Câu 1191, 1192 = Ta rất tiếc tấm thân trong như băng, trắng như bạc của ta thế này, mà đến nỗi gặp bước phong trần cũng phải chịu kiếp phong trần nhơ nhuốc như kẻ khác.
Câu 1193, 1194 = Ôi! Cũng là một kiếp người, sao mình thì buồn tẻ thế, mà người ta thì vui vẻ thế? Phải chăng khách hồng nhan là cái giống trời sinh ra để chịu kiếp bạc mệnh mãi thế ru?
Câu 1195, 1196 = Thôi cũng đành chịu vậy! Kiếp xưa ta đã vụng tu, thì thế nào kiếp này ta cũng phải đền tội lại mới xong xuôi được.
Câu 1197, 1198 = Dẫu sao nữa số trời đã định, đã trót lỡ làng rồi, thì đành đem thân mà trả nợ đời cho xong đi vậy.
Câu 1199, 1200 = Sau khi Kiều đã bình phục hẳn – mặt lại tươi đẹp như trăng sáng hết mây, gương trong sạch bụi – Tú Bà ghé lại buồng Kiều thong dong chẳng ngượng miệng dặn dò dạy Kiều về nghề gái lầu xanh.
Câu 1201, 1202 = Mụ nói : Nghề chơi cũng lắm công phu, chứ không dễ đâu. Vậy đã là gái làng chơi, thì phải biết cho đủ điều trong nghề này.
Câu 1203, 1204 = Mụ vừa mới nói được mấy câu, thì Kiều như có ý phát khùng khinh rẻ, gạt lời mụ mà nói: Tôi tưởng trong những cuộc dật dìu mưa gió đó, chỉ có cách liều thân như thế là cùng, chứ còn có gì nữa mà phải học mất lắm công phu!
Câu 1205, 1206 = Mụ thấy nàng có ý khùng bướng coi rẻ lời dạy, mụ liền quở ngay để đe dọa cho nàng phải để ý đến lời mụ dạy. Mụ quở : Chớ nói thế, không được! Nếu mình tiếp ai cũng như ai một cách như thế, thì ai người ta đến đây làm gì cho hoài tiền của!
Câu 1207, 1208 = Trong nghề này còn lắm điều hay cần phải học mới biết, đại khái như ban đêm thì có những nỗi khó là phải tùy khách mà khi khép chặt, khi mở rộng, cho ai cũng vừa, cũng thỏa. Ban ngày thì có những nỗi khó là phải rất khéo đối đãi với khách sao cho chung mà hóa ra riêng, riêng mà hóa ra chung, để cho ai cũng tưởng là mình được đặc biệt để ý yêu riêng, mà sinh lòng đắm say quyến luyến.
Câu 1209, 1210 = Này đây muốn làm trôi chảy những nỗi khó khăn ấy, thì con phải học thuộc vào lòng lấy 7 chữ này để làm phép tiếp khách ban ngày ở vành ngoài, và 8 nghề này để làm cách tiếp khách ban đêm ở trong buồng.
Câu 1211, 1212 = Rồi mụ không ngượng mồm chút nào mà kể rõ cho Kiều nghe 7 chữ là những chữ gì và cách thi hành từng chữ thế nào, 8 nghề là những nghề nào và cách thi hành những nghề đó như thế nào. Mụ tiếp tục nói : Ta phải thả cửa mà chơi cho liễu phải chán, cho hoa phải chê, cho tượng đá cũng phải lăn lóc vì tình, cho đời người sống cũng phải mê mẩn như chết vì tình.
Câu 1213, 1214 = Ngoài 7 chữ và 8 nghề ấy ra, lại còn khi thì hé môi cười nụ cho thật đẹp thật tình, khi thì sẽ nhíu mày liếc mắt đưa tình cho ý nhị quyến rũ, khi thì ngâm vịnh thơ từ dưới bóng trăng, khi thì cười cợt tươi vui trước cảnh hoa để tỏ tình với khách.
Câu 1215, 1216 = Đó đều là những điều cốt yếu trong nghề nghiệp nhà này. Con phải học tập cho đầy đủ những nét mánh khóe ấy, mới là một tay làng chơi đáng làm gương mẫu.
Câu 1217, 1218 = Nàng phải cúi đầu kính cẩn ngồi im mà bấm bụng vâng nghe những lời mụ dạy từ đầu chí cuối, lòng thật nhục nhã, không ngăn được cau có đôi lông mày đẹp như trăng cánh cung, phai tái đôi má hồng hoa đào.
Câu 1219, 1220 = Nàng nghĩ: Chỉ nghe nói mà đã thẹn thùng rồi, lại phải làm theo nữa thì đáng hổ thẹn đến đâu! Ôi, đời sao lắm nỗi lạ lùng quái gở khắt khe như thế này?
Câu 1221, 1222 = Nghĩ thật đáng thương tiếc cho mình là con nhà khuê các thanh tao như thế mà lại phải vỡ lòng học cái nghề khốn nạn quái gở này!
Câu 1223, 1224 = Rõ thật là mặt dạn mày dầy! Kiếp người mà đã phải nhơ nhuốc đến thế này thì thôi, thật là sống cũng như chết rồi!
Câu 1225, 1226 = Thật đáng thương cho thân phận lạc loài của ta! Dù sao nữa, đã lọt vào tay mụ này, thì dẫu cực nhọc thế nào cũng đành chịu, tránh làm sao được!
Những câu có ý móc nối và những chữ có ý mỉa mai than thở
Câu Kiều van Tú Bà Phận tôi dành vậy, vốn người để đâu? ứng với câu Tú Bà dỗ Kiều Người còn thì của hãy còn. Thật là Kiều hiểu tâm lý mụ dầu – mụ sợ nhất là “cây tiền” đổ.
Câu Kiều chỉ vào mặt Sở Khanh mà nói Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai ứng với câu Sở Khanh lúc mới vác mặt vào nói Hãy xem cho biết mặt này là ai. Nàng lý thẳng nên khi mạnh dám nói bốp chát vào mặt Sở, quên cả lời Mã Kiều khuyên răn Bớt lời, liệu chớ trây chi mà đời. Lời thẳng mạnh đó đã khiến Sở hết chối tội.
Câu Nhơ tuồng nghỉ mới kiếm đường tháo lui (tả Sở Khanh xấu hổ cắm mặt rút lui) ứng với câu Sở Khanh lên tiếng rêu rao/ nọ nghe rằng có con nào ở đây (tả Sở Khanh ra dáng nghênh ngang oai vệ – lúc mới vào ngửng mặt mo lên thét, rồi khi bị phỉ nhổ thì cúi gầm mặt mà lẩn cho nhanh).
Câu Kiều nói Liều thân thì cũng phải liều thế thôi mỉa mai ứng lại với câu Nghề chơi cũng lắm công phu của Tú Bà.
Chữ “có” ở câu Kiều nói Có đâu mà lại ra người hiểm sâu? vừa tỏ ý ngờ vực để móc nối với mấy câu Mã Kiều bảo Sở Khanh là đứa “phụ tình giở mặt nổi tiếng ở lầu xanh” ở trên, lại vừa móc nối làm nổi bật ý mấy câu sau tả cử chỉ hống hách lật lõng của Sở Khanh, làm cho Kiều tỉnh ngộ biết là ả Mã nói thật.
Câu Sở Khanh ra oai nói Hãy xem cho biết mặt này là ai? khéo đặt, thành ra có hai nghĩa: (1) có ý chối tội “Nó hãy ra xem cho rõ, có phải mặt này đã quyến rũ nó không ?” (2) có ý dọa nạt “Nó hãy ra đây cho biết mặt này là ai mà dám coi thường!” Theo ý nghĩa trên thì câu này móc nối với câu vu trên Phao cho quyến gió rủ mây. Theo ý nghĩa dưới thì câu này móc nối với ý vừa sợ hãi vừa khinh mỉa ở câu Kiều nói sau Nàng rằng thôi thế thì thôi/ rằng không thì cũng vâng lời rằng không!
Trong đoạn này có mấy câu và mấy chữ tác giả dùng để tỏ ý đau thương than thở cho cuộc đời. Câu Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu ? và nhất là câu Trót lòng trinh bạch từ sau cũng chừa, ai đọc đến mà không thương cảm cho Kiều! Câu trên, Kiều biết là đối với quân tham tàn, không thể đem nhân đạo mà kêu xin nó tha mình được, chỉ có đem tiền của làm mồi mới cảm được lòng nó, nên đành bỏ rẻ thân mình đi, mà nhắc đến số tiền vốn của mụ. Lại vì đòn đau mà phải tâng bốc mụ lên bậc thánh thần, mà gọi nó là “người” thì thật là lúc đoạn trường trong cuộc đời bất hạnh.
Tác giả Truyện Kiều đã dùng từ ngữ “mặt mo” để mỉa mai những kẻ mặt dày mày dạn làm bậy mà không biết hổ thẹn là gì như hạng Sở Khanh. Thành ngữ “thong dong” dùng một cách tài tình trong câu Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò để mỉa mai những kẻ nói điều đểu cáng mà không thẹn mồm. Và hai chữ “vâng dạy” sử dụng trong câu Cúi đầu vâng dạy mấy lời thực là khéo chọn để tác giả than thở cho một người con gái tài sắc vẹn toàn gặp cơn thất thế, phải đau lòng mà kính cẩn vâng lời dạy bẩn thỉu của một mụ bất lương tột bực.
Chương 15:
CÂU 1227 ĐẾN CÂU 1370
“Lầu xanh vui gượng, Phận bạc lo xa”
1227. Lầu xanh, mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người. [1]
1229. Biết bao bướm lả, ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
1231. Dập dìu lá gió, cành chim, [2]
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. [3]
1233. Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
1235. Khi sao phong gấm rủ là, [4]
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
1237. Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
1239. Mặc người mưa Sở, mây Tần, [5]
Những mình nào biết có xuân là gì!
1241. Đòi phen gió tựa, hoa kề, [6]
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
1243. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
1245. Đòi phen nét vẽ, câu thơ, [7]
Cung cầm dưới nguyệt, nước cờ trong hoa,
1247. Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai?
1249. Thờ ơ gió trúc, mưa mai, [8]
Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân.
1251. Nỗi lòng đòi đoạn xa gần, [9]
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
1253. Nhớ ơn chín chữ cao sâu, [10]
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà. [11]
1255. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
1257. Sân hòe đôi chút thơ ngây [12]
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình? [13]
1259. Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
1261. Khi về hỏi liễu Chương đài, [14]
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
1263. Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
1265. Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài. [15]
1267. Song sa vò võ phương trời, [16]
Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng. [17]
1269. Lần lần thỏ bạc ác vàng, [18]
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!
1271. Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
1273. Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
1275. Khách du bỗng có một người, [19]
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương. [20]
1277. Vốn người huyện Tích, châu Thường, [21]
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy. [22]
1279. Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. [23]
1281. Trướng tô giáp mặt hoa đào, [24]
Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa?
1283. Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng. [25]
1285. Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
1287. Lạ gì thanh khí lẽ hằng, [26]
Một dây một buộc ai giằng cho ra.
1289. Sớm đào tối mận lân la, [27]
Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.
1291. Dịp đâu may mắn lạ dường,
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
1293. Sinh càng một tỉnh mười mê, [28]
Ngày xuân lắm lúc quên về với xuân. [29]
1295. Khi gió gác, khi trăng sân,
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ. [30]
1297. Khi hương sớm, khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn. [31]
1299. Miệt mài trong cuộc truy hoan, [32]
Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
1301. Lạ cho cái sóng khuynh thành, [33]
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
1303. Thúc sinh quen thói bốc giời, [34]
Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
1305. Mụ càng tô lục chuốt hồng,
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê. [35]
1307. Dưới trăng quyên đã gọi hè, [36]
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. [37]
1309. Buồng the phải buổi thong dong, [38]
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa. [39]
1311. Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. [40]
1313. Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường. [41]
1315. Nàng rằng: “Vâng biết ý chàng.
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu. [42]
1317. Hay, hèn, lẽ cũng nối điêu, [43]
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
1319. Lòng còn gửi áng mây Hàng, [44]
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.” [45]
1321. Rằng: “Sao nói lạ lùng thay!
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?”
1323. Nàng càng ủ dột thu ba, [46]
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:
1325. “Thiếp như hoa đã lìa cành,
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
1327. Chúa xuân đành đã có nơi, [47]
Vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi.”
1329. Sinh rằng: “Từ thuở tương tri,
Tấm riêng riêng những nặng vì nước non. [48]
1331. Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.”
1333. Nàng rằng: “Muôn đội ơn lòng,
Chút e bên thú bên tòng dễ đâu. [49]
1335. Bình Khang nấn ná bấy lâu, [50]
Yêu hoa yêu được một màu điểm trang.
1337. Rồi ra lạt phấn phai hương, [51]
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
1339. Vả trong thềm quế cung trăng, [52]
Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.
1341. Bấy lâu khăng khít dải đồng, [53]
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
1343. Vẻ chi chút phận bèo mây, [54]
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi. [55]
1345. Trăm điều ngang ngửa vì tôi, [56]
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho? [57]
1347. Như chàng có vững tay co, [58]
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
1349. Thế trong dầu lớn hơn ngoài, [59]
Trước hàm sư tử, gửi người đằng la. [60]
1351. Cúi đầu luồn xuống mái nhà, [61]
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng. [62]
1353. Vả trên còn có nhà thông, [63]
Lượng trên trông xuống, biết lòng có thương?
1355. Sá chi liễu ngõ hoa tường? [64]
Lầu xanh lại phó ra phường lầu xanh. [65]
1357. Lại càng dơ dáng, dại hình,
Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng.
1359. Thương sao cho vẹn thì thương,
Tính sao cho vẹn mọi đường thì vâng.”
1361. Sinh rằng: “Hay nói đè chừng! [66]
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?
1363. Đường xa chớ ngại Ngô Lào, [67]
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
1365. Đã gần chi có điều xa?
Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều.” [68]
1367. Cùng nhau căn vặn đến điều,
Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
1369. Nỉ non đêm ngắn tình dài,
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Đính chính và xác định:
Câu 1246 – Cung cầm dưới nguyệt nước cờ trong hoa. Có bản Kiều in là Cung cầm trong nguyệt nước cờ “dưới” hoa e không hợp nghĩa: gảy đàn ở trong trăng thế nào được, phải gảy đàn dưới bóng trăng, đánh cờ ở trong vườn hoa mới hợp nghĩa.
Câu 1282 – Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa – Chữ nét [] (niết) câu này nhiều bản Kiều dịch là “nết” e không hợp lý, vì Thúc mới gặp Kiều biết thế nào được các“nết” Kiều. Nét đây là hình dáng mày mặt, hình thể như nét vẽ, cũng như chữ nét ở câu “Sinh càng tỏ nét càng khen” ở câu 1313.
Câu 1294 – Ngày xuân lắm lúc quên về với xuân nghĩa là vì say sưa cuộc xuân mà quên cả ngày, coi ngày cũng như đêm, đêm đêm liền nhau. Câu này lấy ý câu trong bài Trường Hận Ca: [ 日春     = Xuân nhật xuân du dạ chuyển dạ = Ngày xuân chơi xuân như đêm nọ liền với đêm kia]. Nhiều bản Kiều in là Ngày xuân lắm lúc “đi” về với xuân thật không hiểu nghĩa là gì.
Câu 1303 – Thúc sinh quen thói bốc giời – Bốc giời là tâng bốc người ta cao lên như đến trời, để rồi cầu lợi với người ta. Thúc sinh quen thói bốc giời nghĩa là Thúc Sinh bị Tú Bà phỉnh bốc mãi nên quen đi, tưởng mình tài giỏi cao cả như trời, thành tính ngông đời ra tay hào phóng vứt của không tiếc. Người Bắc kỳ gọi lối cười để phỉnh bốc nhau là “cười bốc giời”; ví dụ nói: “Anh này chỉ cười bốc giời là khéo thôi!” Vì tiếng “giời” dễ lẫn với tiếng “rời” nên các bản Kiều đều in lầm giời [𡗶] (hội ý gồm thiên [] trên thượng [] ra rời [] (Hán đọc là “lai” giả tá thành “rời”) và giải nghĩa câu này một cách nực cười là: Thúc Sinh quen thói “bốc tiền rời” cho Kiều. Ôi, giảng thế rõ thật vô lý, vô nghĩa, mất hết vẻ hay đẹp Truyện Kiều!
Câu 1310 – Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa – Thang lan là nước nấu cây trạch lan để tắm trừ ghẻ lở. Cây trạch lan [ ] là loài thảo, tiếng Bắc gọi là cây mần tưới, lá giống lá đào nhưng răng cưa to hơn, thân mềm có nhiều đốt. Lá trạch lan có mùi thơm ăn được. Tục Tàu trước mùng 5 tháng 5 vẫn nấu nước trạch lan để tắm trừ ghẻ lở. Chữ “hoa” câu này nghĩa là thân thể đẹp đẻ của con gái, nhất là của kỹ nữ. Nhiều bản kiều dịch lầm chữ “tắm” ra “tẩm.” (Xem lời chú giải số 39 ở dưới).
Câu 1319 – Lòng còn gửi đám mây Hàng = Đám mây ở trên dãy núi Thái Hàng. Ông Địch Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa nhớ bố mẹ, khi trông thấy đám mây kia ở trên núi Thái Hàng [ ] ông thường chỉ đám mây đó mà nói “Cha mẹ ta ở dưới đám mây kia đó.” “Lòng còn gửi áng (hay đám) mây Hàng” hàm ý “Lòng tôi còn rối bời vì nhớ cha mẹ, nên không họa được thơ chàng.” Nhiều bản in “mây Hàng” ra “mây vàng” và giảng là lấy điển ở câu thơ cổ [          = Thiên thượng hoàng vân ảnh, du tử hà thì quy = Trên trời có bóng mây vàng, kẻ đi xa bao giờ về?] Đổi và giảng như thế thật sai lầm trái nghĩa, vì câu thơ này nói người ở nhà nhớ người đi xa. Cả bản Kiều của hai ông Kim, Kỷ cũng in là “mây vàng,” lạ thật.
Câu 1337 – Rồi ra lạt phấn phai hương – Câu này là lời Kiều nói: “Tôi e chàng chỉ yêu tôi về phần vật chất trang điểm, rồi khi chàng đã chán tôi rồi, thì dầu tôi đánh phấn khéo thế nào chàng cũng cho là nhạt nhẽo chẳng đẹp, dẫu tôi bôi nước hoa thế nào, chàng cũng thấy thoảng không, chẳng thơm nữa.” Có bản đổi chữ “lạt phấn” ra “lỡ phấn” tức là tuổi già da khô nhăn nheo bôi phấn không ăn nữa. Đổi như thế thật lầm, vì “lạt phấn phai hương” là lỗi ở Thúc Sinh chóng chán Kiều. Còn nếu ở với nhau đến lúc tuổi già đã “lỡ phấn” rồi thì sao nỡ bỏ nhau nữa?
Câu 1342 – Thêm người, người cũng thêm lòng riêng tây – Câu này ý nói: “Từ trước đến nay, vợ chồng chàng vẫn một lòng một dạ với nhau. Bây giờ chàng lấy thêm tôi về, chắc vợ chồng chàng lại mỗi người thêm một dạ riêng tây nữa.” Hai chữ “thêm” và “cũng thêm” đi với nhau nghe thật trôi chảy, thật hay, thật khẩn thiết với nhau. Những bản đổi chữ “cũng thêm” ra “cũng chia” thì lời câu văn đã rời rạc yếu đi, mà lại hóa thừa chữ “chia” vì riêng tây là chia rồi.
Câu 1356 – Lầu xanh lại phó ra phường lầu xanh – Chữ “phó” nghĩa là đuổi về, trả lại có ý theo luật pháp. Có bản đổi chữ “phó” ra “bỏ” gần như vô nghĩa. Câu 1420 “Hai là lại cứ lầu xanh phó về” để tỏ lời nàng lo trước không sai.
Chú thích và dẫn điển:
[1] Phẩm người – Chữ Hán là nhân phẩm [ ] = Giá trị của người theo giai cấp về phần tài năng, đạo đức; đây thì theo tài sắc.
[2] Lá gió cành chim – Nàng Tiết Đào [ ] đời Đường có tài làm thơ. Năm mới lên 7 tuổi, một hôm thấy cha làm thơ vịnh cây liễu ở trước nhà, mới viết được hai câu, nàng liền viết tiếp theo hộ cha hai câu sau là [          = Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong = Cành đón chim nam bắc, lá đưa gió lại qua]. Ông bố thấy hai câu thơ nàng viết vậy, biết cuộc đời con sau này sẽ không ra gì. Sau quả nhiên, cha chết sớm, mẹ con lưu lạc, nàng bán mình làm kỹ nữ trong giáo phường của một vị quan to sống một cuộc đời sa đọa. Tác giả dùng điển này để tả cảnh đời thanh lâu của Kiều thật đúng.
[3] Tống Ngọc, Tràng Khanh – Tống Ngọc người nước Sở đời Chiến Quốc, Tràng Khanh là Tư Mã Tương Như.  Hai người đều rất đẹp trai và rất tài hoa, làm nhiều gái mê say.
[4] Phong gấm rủ là = Giữ gìn thân thể một cách quý trọng cẩn thận như lấy gấm, lấy là mà bao bọc kín đáo.
[5] Mây Tần – Vua Mục Công nước Tần ngủ một giấc lâu 5 ngày mới tỉnh, mơ gặp một cô rất trắng đẹp, mặc lối Vương Phi đến đón vua cùng cưỡi mây bay lên trời chầu Thượng Đế, lúc ra về bảo vua: “Thiếp là Bảo Phu Nhân, vua nên lập đền thờ thiếp, thiếp sẽ giúp vua làm nên nghiệp Bá.”
[6] Đòi phen gió tựa hoa kề/ Nửa rèm tuyết ngậm bốn hè trăng thâu – Dùng đủ bốn cảnh đẹp nên thơ trong văn chương là phong [], hoa [], tuyết [], nguyệt [] để tả cảnh vui chơi với khách trong thanh lâu.
[7] Câu lục-bát Đòi phen nét vẽ câu thơ / cung cầm dưới nguyệt nước cờ trong hoanói đến đủ bốn thứ cầm[], kỳ [], thi [], họa [] để tả cảnh mua vui với khách trong thanh lâu.
[8] Gió trúc mưa mai – Gió trúc = Gió êm ấm mùa xuân thổi vào cảnh tre (trúc) xanh đẹp. Mưa mai = Mưa mát mùa hè làm mai chín vàng đẹp. Đó là hai cảnh “mưa gió” làm cho người ta say mê, hay ngâm thơ để vịnh gió, uống rượu để nếm quả mơ. Câu này mượn hai cảnh mưa gió đẹp ấy để nói những cuộc khách say sưa với nàng, nhưng nàng thờ ơ như không, chẳng vui thích gì.
[9] Đòi đoạn – Truyện Kiều hay dùng chữ “đòi” thay chữ “nhiều” như đòi đoạn, đòi phen tức là nhiều đoạn, nhiều phen.
[10] Chín chữ cao sâu = Chín chữ tả nỗi khó nhọc nuôi con của cha mẹ. Kinh Thi có bài thơ của người con, vì việc công phải đi xa không ở nhà để chăm nom cha mẹ được, làm bài thơ này để tả cảnh cha mẹ nuôi mình khó nhọc bằng chín chữ:
[] Sinh = Đẻ và nuôi cho con sống.
[] Cúc = Cúi xuống mà nâng niu chăm chút.
[] Phủ = Vuốt ve vỗ về.
[] Súc = Chăm nuôi bú mớm.
[] Trưởng = Nuôi dạy cho khôn lớn nên người.
[] Giục = Nuôi dạy cho nên người có tài đức.
[] Cố = Săn sóc trông nom.
[] Phục = Xem xét tính tình mà dạy bảo.
[] Phúc = Giữ gìn trông nom đến luôn.
[11] Bóng dâu tà tà – Câu này có ý nói cha mẹ già chóng suy yếu dần như mặt trời khi đã xế xuống tới ngọn dẫy dâu ở phía tây thì chóng lặn lắm. Điển câu này lấy ở câu chữ Hán “Nhật lạc tang du” [   ] = Mặt trời xế mau như rơi xuống dẫy dâu, dẫy du.
[12] Sân hòe = Sân có ba cây hòe, nghĩa bóng nói nhà cha mẹ nuôi con mong cho con thành đạt. Ông Vương Hựu [ ] đời Tống có công to, vua không thưởng, ông nói: Thế nào trời cũng thưởng thay cho ta – trong ba đứa con ta, thế nào cũng có đứa thành đạt to. Ông mới trồng ba cây hòe ở sân và nói: Ba cây hòe này mà tốt thì lời nói ta đúng. Sau quả nhiên con ông là Vương Đán [ ] đỗ trạng nguyên và làm tể tướng. Người sau dùng ba chữ “tam hòe đình” để chỉ nhà có ba con trai.
[13] Trân cam – Trân [] = Những thức ăn ngon. Cam [] = Những thức ăn ngọt. Tiếng Hán dùng hai chữ trân cam để nói đến những thức ăn ngon ngọt con cung phụng để nuôi cha mẹ.
[14] Liễu Chương đài – Hàn Hoành [ ] đời Đường có tình nhân là kỹ nữ họ Liễu [] ở đường Chương đài [ ]. Khi Hoành phải đổi đi làm quan xa, viết thư cho nàng vẫn gọi nàng là Chương đài liễu (cây liễu ở Chương đài). Liễu thị ở một mình được mấy năm thì bị Phiên tướng là Sa Xá Lợi [  ] bắt đi. Khi Hoành được đổi về gần nơi Phiên tướng đóng, biết vậy thương tiếc lắm. Có người Bộ tướng là Hứa Tuấn [ ] thấy vậy mang thư của Hoành đi đón nàng. Tuấn giả trang làm bộ hạ của Phiên Tướng, phi ngựa đến dinh của Phiên tướng nói Phiên tướng ngã ngựa gần chết, cấp tốc đón nàng cho kịp gặp mặt. Nàng được thư của Hoành, giả cách khóc, vội vã ra đi. Thế là lại được đoàn tụ với nhau. Câu Kiều “Khi về hỏi Liễu Chương đài” này lấy ý ở bài ca lúc ở xa Hoành gửi cho nàng [   昔青            = Chương đài liễu, tích nhật thanh thanh kim tại phủ, dã ưng phân triết tha nhân thủ = Hỡi cây liễu Chương đài, xưa kia xanh xanh thế, bây giờ có còn ở đó không, rất e tay khác bẻ đi rồi!”
[15] Giấc hương quan = Giấc ngủ mơ về quê nhà.
[16] Song sa vò võ phương trời – Song sa = Cửa sổ có màn the đẹp. Thơ Xuân oán [ ] của Lưu Phương Bình đời Đường có câu [  日落           = Sa song nhật lạc tiệm hoàng hôn kim ốc vô nhân kiến lệ ngân = Ngày ngày ngồi một mình trong cửa sổ mà nhìn thăm thẳm phương trời qua bức màn the cho đến lúc mặt trời xế xuống và bóng tối vàng sẫm dần dần; thế mà trong căn nhà vắng này, chẳng hề có ai thấy vết nước mắt của mình buồn khóc].
[17] Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng – Câu này lấy ý ở một bài thơ đời Tống, đó là [              = Khấp tổn song mâu, trường dục đoạn, phạ hoàng hôn đáo hựu hoàng hôn = Khóc xưng đôi mí mắt, ruột muốn đứt, chỉ sợ buổi hoàng hôn này đến, rồi lại buổi hoàng hôn kia đến, lần lượt mãi không thôi].
[18] Thỏ bạc, ác vàng – Trong văn chương ta vẫn gọi mặt trăng là “ngọc thỏ = con thỏ ngọc” và gọi mặt trời là “kim ô = con ác vàng = con quạ vàng” vì người xưa tin rằng trong mặt trăng có con thỏ ngọc giã thuốc; trên mặt giời có con quạ vàng ba chân. Thỏ bạc hàm ý là mặt trăng lúc gần sáng, sắc đã trắng nhợt đi. Ác vàng hàm ý là mặt trời lúc chiều hôm đã vàng ủ đi.
[19] Khách du = Khách ăn chơi nay đây mai đó.
[20] Kỳ Tâm họ Thúc – Thúc Sinh tên là Thúc Thủ [ ] và tự là Kỳ Tâm [ ]. Nghĩa cả bốn chữ “thúc thủ kỳ tâm” là bó giữ lòng mình điềm báo trước là sợ vợ, phải bó giữ lòng mình cho kín không dám nói cho vợ biết.
[21] Huyện Tích = Huyện Vô Tích [ ] ở tỉnh Giang Tô, thuộc Châu Thường.
[22] Lâm Truy [ ] thuộc tỉnh Sơn Đông, nguyên trước là kinh đô nước Tề. Lâm Truy cách Vô Tích một tháng đường.
[23] Thiếp hồng = Tờ danh thiếp viết vào giấy đỏ để tự giới thiệu. Hương khuê [ ] = Buồng thơm, tức là buồng phụ nữ ở, đây tức là buồng Kiều.
[24] Trướng tô = Màn có riềm tua kết đẹp rủ xuống chung quanh phía trên. Chữ trướng tô này lấy điển từ câu trong khúc ca Phù Nam [  ] của Vương Duy: [     = Thúy vũ lưu tô trướng = Cái màn có riềm giải rủ xuống kết bằng lụa xanh biếc như lông chim phí thúy].
[25] Ngày xuân = Ngày có mưa hòa gió ấm của mùa xuân.
[26] Thanh khí lẽ hằng - Thanh là chữ lấy từ thành ngữ [    = đồng thanh tương ứng = tiếng cùng một thanh thì vang ứng lại nhau]. Khí là chữ lấy từ thành ngữ [    = đồng khí tương cầu = các vật cùng một khí thì tìm hút lấy nhau]. “Đồng thanh tương ứng/ đồng khí tương cầu” ở Kinh Dịch và nghĩa bóng nói hai người cùng một tính tình với nhau thì yêu mến quyến luyến nhau ngay. Lẽ hằng = Lẽ thường, lẽ tự nhiên.
[27] Sớm đào tối mận – Kinh Thi có câu [        = đầu chi dĩ đào, báo chi dĩ lý = trai đưa cho quả đào thì gái cho lại quả mận]. Câu này hàm ý rằng lúc mới chỉ yêu nhau lờ phờ thế thôi, sau lân la thành quyến luyến thề thốt nặng lời.
[28] Một tỉnh mười mê = Mười lúc mê man tỉnh ra được một lúc, rồi lại mê luôn.
[29] Ngày xuân lắm lúc quên về với xuân – Xem lời đính chính câu 1294 trên đây.
[30] Câu thần nối thơ – Câu thần = Câu thơ hay, coi như thần giúp mới làm được. Nối thơ = Lối vui chơi bằng thơ: một người nghĩ một câu đầu, người kia nghĩ nhanh lấy hai câu tiếp theo, rồi người thứ nhất lại tiếp theo ngay hai câu nữa. Lối chơi thơ này chữ Hán là liên ngâm [ ].
[31] Bản vây = Đánh cờ vây.
[32] Cuộc truy hoan [ ] = Cuộc vui chơi hết cuộc nọ đến cuộc kia liên tiếp nhau.
[33] Cái sóng khuynh thành = Những khóe lườm liếc đưa tình làm say sưa người.
[34] Quen thói bốc giời – (Xem lời đính chính câu 1301 ở trên).
[35] Hơi đồng = Tiền, do chữ [  = đồng xú = mùi tanh hôi của tiền bằng đồng] dịch ra.
[36] Quyên đã gọi hè – Quyên = Chim cuốc, về mùa hè, thường kêu suốt đêm, tiếng nghe rất buồn thảm.
[37] Lửa lựu do chữ “lựu hỏa” [ ] dịch ra. Các vua đời xưa bên Tàu, theo từng mùa mỗi năm, mà khoan một thứ gỗ để lấy lửa ban cho dân dùng. Về mùa hè thì khoan gỗ lựu lấy lửa, gọi là lựu hỏa. Câu này mượn chữ lửa lựu để tả cảnh hoa lựu đỏ đẹp về mùa hè.
[38] Buồng the phải buổi thong dong – Chữ buổi trong câu này là nói ngày mùng 5 tháng 5, tết đoan ngọ. Người Tàu xưa tin rằng trong ngày tết đoan ngọ phải kiêng việc vợ chồng, trai gái; nếu không kiêng thì chỉ trong ba tháng thế nào cũng chết một hay cả đôi. Bởi vậy buổi hôm đó Kiều được thong dong vắng khách. Chữ “phải” câu này nghĩa là “được” cũng như chữ “phải” ở câu “chó ngáp phải ruồi” nghĩa là may mà được.
[39] Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa – Chữ hoa trong câu này hàm ý thân hình đẹp của con gái, nhất là của kỹ nữ. Tục Tàu thời xưa đến ngày đoan ngọ thì lấy cây trạch lan (ta gọi là cây mần tưới) để nấu nước tắm trừ ghẻ lở. Nhiều nhà xuất bản Truyện Kiều vì không hiểu nghĩa chữ “hoa” nên giảng lầm là “hoa lan” và dịch sai chữ “tắm” ra “tẩm” (tẩm nước hoa làm cho thơm).
[40] Một tòa thiên nhiên = Một pho tượng để nguyên như trời sinh ra, không chút quần áo trang điểm. Tác giả dùng nhóm chữ “một tòa thiên nhiên” để tả hình Kiều nõn nà đẹp đẽ không quần áo, lời thật rõ ràng thanh thoát. Câu này dựa vào ý nghĩa của một câu tương đương trong Ngọc Trai Tập: [        = trú tựu thiên nhiên nhất dạng cốt tướng = đúc thành một thân hình thiên nhiên].
[41] Một thiên luật Đường = Một bài thơ làm theo luật thơ nhà Đường, có 8 câu và 5 vần gieo vào cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8 và câu 4 phải đối với câu 3, câu 6 phải đối với câu 5. Thí dụ như bài vịnh Truyện Kiều của cụ Hoa Đường Phạm Quý Thích.
[42] Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu = Câu nào nói cũng hay như nhả ngọc phun châu, lời câu nào đặt cũng đẹp như gấm thêu hoa. Câu này đặt theo ý nghĩa trong thành ngữ chữ Hán [   = cẩm tâm tú khẩu = bụng nghĩ đẹp như gấm, miệng nói đẹp như thêu].
[43] Nối điêu – Nghĩa đen là lấy đuôi chó nối vào đuôi điêu thử, nghĩa bóng là họa thơ lại một cách vụng kém không hay (lời nói khiêm nhường). Nguồn gốc chữ “nối điêu” như sau: Đời nhà Tấn, Ngự sử là chức quan danh giá nhất, chỏm mũ làm bằng đuôi điêu thử, một loài sóc. Khi gặp hồi loạn, các quan võ cậy công đua nhau xin vua phong chức Ngự sử nhảm quá, khiến người dân có câu [鵰不     = điêu bất túc cẩu vĩ tục = đuôi điêu không đủ, đuôi chó nối vào] để chê cười lũ “Ngự sử” đó. Người sau mới dùng chữ “tục điêu” hoặc “nối điêu” để nói khiêm tốn là mình nối vần thơ một cách vụng về chẳng xứng đáng với bài người ta làm trước.
[44] Đám mây Hàng (chữ nôm [] có thể đọc là “đám” hay “áng” cũng được) – Câu này ý nói là “lòng còn bối rối vì nhớ quê cha mẹ.” (Xem lời xác định câu 1319 này ở trên).
[45] Họa vần = Theo mấy chữ gieo vần của người ta mà làm bài thơ của mình trả lời lại người ta.
[46] Ủ dột thu ba – Thu ba = Lòng mắt trong như sóng nước mùa thu. Ủ dột thu ba = Hai mắt ủ xuống trông buồn bã nghĩ ngợi, chẳng muốn nhìn ai. Kiều ủ buồn là vì nàng cảm thấy Thúc Sinh chỉ là một người tầm thường, không có con mắt tinh đời, chỉ biết phần đẹp vật chất, chứ không nhận ra phần đẹp tinh thần. Đã được nhìn rõ vẻ ngà ngọc của mình như thế, mà vẫn yên chí mình là con đẻ của mẹ Tú hình thù thô bỉ, to béo, nhờn nhợt màu da như thế! Nghe nàng tỏ ý nhớ cha mẹ đã không mừng rỡ sốt sắng hỏi gia thế thanh cao nhà nàng, lại còn ngạc nhiên như tưởng là nàng nói dối. Bởi vậy nàng đang truyện trò vui bỗng thốt lên Thiếp như hoa đã lìa cành/ chàng như con bướm lượn vành mà chơi!” nghe như nhạt nhẽo hết tình với chàng.
[47] Chúa xuân = Dịch từ chữ Hán “Thanh Đế” [ ] là Thần coi về mùa xuân. Nghĩa bóng của “chúa xuân” ở câu Kiều này là người đàn ông đã có vợ rồi. Kiều nói có vẻ hờn dỗi “chàng đã có vợ là người chàng chung tình rồi, thì xin đừng lờ phờ lôi thôi với tôi nữa.” Ý nghĩa lấy từ bài thơ “Lạc hoa” [ ] (Hoa rụng) của Chu Thục Trinh đời Tống như sau:
[       = liên lý chi đầu hoa chính khai = hoa ở trên cành liền thớ chính đương lúc nở đẹp]
[    便   = đố hoa phong vũ tiện tương thôi = bỗng bị trận mưa gió ghen nó cứ dầy vò thúc dục]
[       = nguyện giao Thanh đế thường vi chủ = xin Chúa xuân lúc nào cũng làm chủ cho hoa]
[ 使      = mạc sử phân phân điểm thúy đài = đừng để rụng tơi bời, rơi lốm đốm xuống bãi rêu xanh]
[48] Nặng vì nước non = Nặng vì những lời chỉ núi chỉ sông mà thề.
[49] Bên thú bên tòng – Thú [] = lấy vợ. Tòng [] = theo chồng, tức là lấy chồng. Bên thú là nói Thúc Sinh, bên tòng là nói Kiều.
[50] Bình Khang = Khu phố có các thanh lâu. Đời Đường ở Trường An có phường Bình Khang (  ) là nơi các kỹ nữ ở – những tân khoa tiến sĩ thường tới đó vui chơi. Về sau người ta gọi thanh lâu là bình khang.
[51] Lạt phấn phai hương – Xem lời đính chính câu 1337 bên trên.
[52] Thềm quế cung trăng = Dinh Hằng Nga ở trên mặt trăng, hàm ý nhà Thúc Sinh ở với vợ cả.
[53] Khăng khít giải đồng – Theo phong tục Tàu, trước khi làm lễ đính hôn, nhà trai đưa nhà gái hai giải lụa, để cô dâu nối lại bằng một nút đẹp gọi là “đồng tâm kết” [  ] thành một giải dài gọi là “đồng tâm đới” [  ]. Khăng khít giải đồng = (vợ chồng) rất thân thiết tin cẩn lẫn nhau.
[54] Phận bèo mây = Thân phận lưu lạc như cánh bèo mặt nước, áng mây trên trời.
[55] Bể ái = (tình vợ chồng) yêu nhau sâu rộng như biển. Những chữ Hán liên hệ là “ái hà” [ ] = sông yêu, và “tình hải” [情海] = biển tình.
[56] Trăm điều ngang ngửa vì tôi = (vợ chồng) sinh truyện lủng củng không hòa với nhau. Ý câu này là “Kiều sợ lấy Thúc Sinh thì sẽ làm cho gia đình Thúc Sinh phải lủng củng lộn xộn, thế là mình gây tội nghiệp cho kiếp sau.”
[57] Thân sau = Kiếp sau.
[58] Vững tay co = Vững tay co kéo lại, bênh vực cho nàng.
[59] Thế trong = Thế lực của vợ. Thế ngoài = Thế lực của chồng.
[60] Sư tử – Nghĩa bóng chữ “sư tử” đây là vợ cả dữ dội làm cho chồng phải sợ. Điển tích gọi vợ dữ là sư tử lấy ở câu thơ của Tô Đông Pha. Bạn của ông Tô Đông Pha là Trần Quý Thường, người Hà Đông có vợ rất dữ, tiếng rất to. Mỗi khi bà quát chồng, ông Quý Thường sợ run lên. Ông Đông Pha có câu thơ đùa bạn rằng [    獅子         = hốt văn Hà Đông sư tử hống trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên = chợt nghe con sư tử kêu lên, rơi mất gậy đương chống ở tay, bụng thì sợ hãi như mê đi]. Đằng la [ ] là mấy loài thảo dây leo quấn ở gốc cây to mà các văn sĩ hay dùng để gọi những đàn bà làm vợ lẽ. Trong Kinh Thi có câu [       = nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi = đất nam có cây to (chỉ vợ cả), dây sắn dây bìm (chỉ vợ lẽ) quấn leo ở gốc].
[61] Cúi đầu luồn xuống mái nhà – Cổ thư Trung hoa có chỗ nói “vợ lẽ ở với vợ cả, lúc nào cũng phải khúm núm như vào nhà mái thấp phải cúi đầu xuống.” Trương Thoán [ ] đời Đường mới được bổ ra làm quan thì bị ông quan lớn thượng cấp bắt nạt. Ông than thân “ở dưới mái nhà thấp này mình không thể ngóc đầu lên được” rồi bỏ việc quan ra đi.
[62] Giấm chua – Vũ Hậu ghen quá, giết mấy phi tần của vua Cao Tông rồi ngâm thây họ vào trong giấm. Giấm chua về sau trở thành một ẩn dụ cho kiếp khổ nhục của vợ lẽ bị vợ cả đánh ghen và hành hạ.
[63] Nhà thông là cha, do chữ xuân đường [椿 ] dịch ra. Xuân là loài thông sống hàng mấy vạn năm.
[64] Liễu ngõ hoa tường = Gái lầu xanh ví như cây liễu ở lối ngõ đi, ai bẻ cành cũng được; cành cây thò ra ngoài tường, ai hái hoa cũng được.
[65] Phó = Trả về, đuổi về theo đúng pháp luật.
[66] Nói đè chừng = Đoán chừng trước những sự sẽ xảy ra sau này.
[67] Ngô Lào – Ca dao ta có câu “Chơi cho nước Tấn sang Hồ, nước Tề sang Sở, nước Ngô sang Lào.” Trong ngữ cảnh này, Ngô Lào được dùng để nói đến những điều vẩn vơ xa xôi quá.
[68] Phong ba = Sóng gió. Đây là một ẩn dụ cho những sự nguy hiểm trong cuộc lấy nhau này như đi thuyền gặp sóng bão.
Diễn ra văn xuôi
Câu 1227, 1228 = Thế là Kiều đành phận làm kỹ nữ, buông bức màn điều ở lầu xanh xuống để tiếp khách, giá đặt càng đắt bao nhiêu, thì phẩm cách của nàng càng cao quý lên bấy nhiêu.
Câu 1229, 1230 = Không biết bao nhiêu là khách phải lả lơi đắm đuối về tài sắc nàng, suốt tháng hôm nào cũng rượu say, suốt đêm lúc nào cũng vui cười.
Câu 1231, 1232 = Khách làng chơi bốn phương kéo đến dập dìu một lượt, như chim xuân đến đậu cành, gió xuân đến thổi lá cây liễu trước sân, sớm đưa khách lịch sự như Tống Ngọc đi, chiều lại đón ngay khách lịch sự như Tràng Khanh đến.
Câu 1233, 1234 = Những khi cuộc say rượu tỉnh, và những khi vui đêm canh tàn, nàng nghĩ đến thân phận mình mà xót xa đau thương cho mình.
Câu 1235, 1236 = Kiều nghĩ: “Trước kia thì sao mình giữ thân cẩn thận quý giá thế, như lấy gấm mà bọc, lấy là mà che, dễ mấy ai đã được nhìn thấy, mà bây giờ sao lại rạc rời tan tác, rõ như đóa hoa rơi ở giữa đường, ai cũng dày xéo lên cũng được?”
Câu 1237, 1238 = “Cái mặt thanh tao này sao giờ lại dạn dày với sương gió như thế, cái thân ngà ngọc này sao giờ lại đến nỗi ong bướm nó chán chường như thế! Thật là đáng thương đáng khóc cho thân ta. ”
Câu 1239, 1240 = Mặc người ta mưa mây đằm thắm như Sở Tương Tần Mục mộng gặp gái thần, nhưng riêng phần nàng, nào nàng có biết mùi xuân ở đó là gì đâu!
Câu 1241, 1242 = Biết bao phen tựa ngồi bên khách hóng gió hè mát mẻ, hay kề vai khách dạo cảnh hoa xuân tươi đẹp; lại biết bao phen ngồi trong buồng ấm áp, cùng khách ngắm cảnh đẹp tuyết đông rơi phơi phới xuống nửa rèm trước cửa, hay ngồi ngoài hè cùng với khách ngắm cảnh trăng thu chiếu vằng vặc xuống khắp bốn bên ngoài hè.
Câu 1243, 1244 = Nhưng than ôi! Những cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt ấy tuy đẹp vui thế, mà cảnh nào là cảnh chẳng mang vẻ sầu buồn lại cho nàng? Bởi vì lòng nàng đã buồn thì đâu có cảnh nào là cảnh vui cho nàng được!
Câu 1245, 1246 = Lại biết bao phen nàng vui vẻ vẽ tranh tặng khách, hay vui vẻ đề thơ tặng khách, hoặc vui gẩy cung đàn khách nghe ở dưới bóng trăng hay đánh ván cờ vui với khách ở trong vườn hoa.
Câu 1247, 1248 = Nhưng những cuộc vui cầm, kỳ, thi, họa này, chẳng qua chỉ là vui gượng, kẻo e người ta trách móc đó thôi, chứ nào đâu có ai là người tri âm, để cho nàng thật tình mặn mà với ai được.
Câu 1249, 1250 = Nàng thờ ơ vô tình với cả những cảnh thật đáng vui thú say sưa như cảnh gió xuân đầm ấm đưa thành tiếng êm sóng đẹp trên ngọn dẫy trúc xanh rờn; như cảnh mưa hè mát mẻ làm quả chín tươi vàng trên cành cây mai um tốt. Người ta gặp những cảnh đẹp ấy thì đua nhau ngâm thơ vịnh trúc, uống rượu thưởng mai, nhưng nàng có vui thù gì đâu, chỉ lúc nào cũng ngẩn ngơ trăm mối vì thương thân, vì nhớ nhà, lúc nào cũng âm ỉ thương đau một mình, chẳng biết than thở cùng ai.
Câu 1251, 1252 = Nàng nghĩ gần, nàng nghĩ xa, lòng nàng đầy những nỗi đau buồn, rõ thật là ruột nàng chẳng ai vò mà rối, thân nàng chẳng ai đánh mà đau.
Câu 1253, 1254 = Nàng nhớ đến công đức cha mẹ nuôi nàng khó nhọc đủ đường, rồi nàng thương cha mẹ mỗi ngày mỗi già yếu, mà nàng không được ở bên để hầu hạ chăm non, báo đền lại công ơn sâu nặng đó.
Câu 1255, 1256 = Vì nhớ cha mẹ, nàng lại thương tủi thân mình ở nơi nước thẳm non xa, cách biệt hàng ngàn muôn dặm này, cha mẹ có biết đâu là thân phận đứa con yêu quý phải khổ cực thế này?
Câu 1257, 1258 = Nàng lại nghĩ cha mẹ có ba con, nay chỉ còn hai đứa thơ ngây ở nhà, thì lấy ai mà miếng ngọt, miếng bùi chăm nuôi cha mẹ thay nàng?
Câu 1259, 1260 = Đối với chàng Kim thì nàng nhớ đến lời thề nguyện tha thiết đời đời lấy nhau, chẳng hay khi xa xôi cách biệt này, chẳng biết chàng có thấu tình khổ cực mà tha thứ tội phụ tình cho nàng hay không?
Câu 1261, 1262 = Nàng lại đau đớn thay cho chàng là khi hộ tang trở về hỏi đến cành liễu Chương đài, thì ôi, cành liễu mởn mơ này đã bẻ cho người ta truyền tay nhau rồi!
Câu 1263, 1264 = Lúc nào nàng cũng mong đem được mối tình sâu của nàng để trả đền lại cái nghĩa dầy của chàng cho được thủy chung trọn vẹn, và thường thường lòng lại hỏi lòng “chẳng hay cái hoa tươi đẹp kia (chỉ Thúy Vân) đã chắp vào cái cành gẫy ngang này (chỉ Kiều) cho chưa? ”
Câu 1265, 1266 = Rõ biết là bao nhiêu điều vấn vít như nắm tơ vò rối ở trong lòng nàng. Đêm nào nàng cũng vẩn vơ mơ tưởng về quê hương suốt đêm dài đằng đẵng, dở tỉnh dở mê.
Câu 1267, 1268 = Ngày nào nàng cũng ngồi trong cửa sổ mà nhìn phương trời vò võ qua bức màn the, lòng những đăm đăm tưởng nhớ gia đình. Nàng nhớ khổ nhất là những lúc hoàng hôn, nàng rất sợ những lúc hoàng hôn. Buổi hoàng hôn hôm nay vừa hết, thì chỉ một thoáng đã lại đến ngay buổi hoàng hôn ngày mai!
Câu 1269, 1270 = Ấy cứ lần hồi như thế mãi, đêm nào nàng cũng thức cho đến lúc mặt trăng mờ sắp sáng; ngày nào nàng cũng buồn cho đến lúc mặt trời vàng úa sắp lặn. Thật là lắm nguồn cơn khiến nàng phải xót xa cho người trong hội đoạn trường như nàng.
Câu 1271, 1272 = Nàng đành phận chịu rằng trời đã cho nàng được chữ hồng nhan, thì hẳn là bắt nàng phải chịu tàn hại thế nào cho cân với hai chữ hồng nhan đó mới thôi.
Câu 1273, 1274 = Và khi trời đã đày đọa nàng vào kiếp phong trần rồi, thì thế nào cũng làm cho nàng phải sỉ nhục một lần mới thôi.
Câu 1275, 1276 = Trong bọn du khách bỗng có một người họ Thúc tên tự là Kỳ Tâm cũng là dòng dõi nhà học hành tử tế.
Câu 1277, 1278 = Chàng vốn là người ở huyện Vô Tích thuộc châu Thường, theo cha lên mở một ngôi hàng buôn bán ở huyện Lâm Truy.
Câu 1279, 1280 = Thấy Kiều nức tiếng là bực hoa khôi, chàng rất hâm mộ, mới tìm đến tận buồng thơm của nàng mà đưa danh thiếp màu hồng của mình vào.
Câu 1281, 1282 = Chàng được nàng tiếp đón vào cho gặp mặt tươi đẹp như hoa đào của nàng ở trong bức màn lưu tô lộng lẫy. (Xem lời chú thích [24] bên trên). Chàng thấy nàng đẹp đẽ mặn mà đủ mọi vẻ, và các nét mày mặt đều thanh tao thật đáng ưa thích.
Câu 1283, 1284 = Nàng đã đẹp như đóa hoa hải đường mơn mởn ở cành tơ xanh rờn, lại càng gặp gió ấm, càng gặp mưa hòa ngày xuân, nên vẻ đẹp lại càng nồng đậm.
Câu 1285, 1286 = Thế là cuộc trăng nọ hoa kia, lại cuộc trăng kia hoa nọ, thật não nùng khôn tả. Cảnh đêm xuân say sưa đó, lòng xuân phơi phới chưa dễ ai đã kìm hãm được.
Câu 1287, 1288 = Còn lạ gì cái lẽ thường “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” xưa nay, hai bên đã ý hợp tâm đầu, thì càng ngày cái dây tơ duyên càng thắt chặt, còn ai gỡ cho xa nhau được nữa.
Câu 1289, 1290 = Trước còn sớm đưa quả đào, tối trao quả mận để lân la gây tình thân nhau, và đi lại trăng gió vậy thôi, sau thành ra quyến luyến nặng tình, nên kết nghĩa đá vàng với nhau.
Câu 1291, 1292 = Hai bên đang say sưa nhau thì bỗng đâu gặp một dịp may lạ – cha chàng là Thúc Ông trở về Vô Tích thăm gia đình.
Câu 1293, 1294 = Thế là chàng càng say đắm mê man vì tình, mười lúc mê họa được một lúc tỉnh. Những ngày vui xuân với nàng như thế chàng quên mất cả ngày, coi như đêm xuân nọ liền với đêm xuân kia.
Câu 1295, 1296 = Khi thì cùng nhau ngồi hóng gió mát ở trên lầu khi thì cùng nhau vui ngắm trăng trong ở trước sân, khi thì bầu rượu ngon chuốc mời lẫn nhau, khi thì câu thơ hay xướng họa cùng nhau.
Câu 1297, 1298 = Khi thì cùng nhau dạo vườn hoa thơm buổi sớm, khi thì cùng nhau thưởng chén trà ngon buổi trưa, khi thì đánh vui với nhau vài ván cờ, khi thì gảy họa với nhau vài cung đàn.
Câu 1299, 1300 = Chàng miệt mài theo đuổi hết cuộc vui này lại đến cuộc vui kia với nàng, càng quen thuộc tính nết nhau, lại càng dan díu khăng khít mối tình với nhau.
Câu 1301, 1302 = Thật đáng lạ cho cái sóng lườm liếc của cặp mắt giai nhân, nó làm cho nghiêng nước nghiêng thành, đổ quán siêu đình của người ta như chơi.
Câu 1303, 1304 = Thúc Sinh bị Tú Bà phỉnh bốc mãi quen đi thành ra thói ngông đời, tự cho mình là tay hào phóng tuyệt vời, đem tiền trăm bạc nghìn đổ ra thưởng vào một trận cười của nàng như không, chẳng tiếc chút nào.
Câu 1305, 1306 = Tú Bà càng thấy chàng hào phóng, lại càng tô son điểm phấn, vuốt ve sắm sửa cho Kiều càng đẹp lộng lẫy. Lạ gì cái máu tham của mụ, hễ thấy tiền thì lòng mụ mê đi.
Câu 1307, 1308 = Dạo ấy đêm đêm cuốc kêu ở dưới bóng trăng như gọi mùa hè đến! Rồi ngọn lựu ở trên đầu tường lập lòe nở những hoa đỏ như màu lửa lựu mùa hè.
Câu 1309, 1310 = Gặp hôm tết đoan ngọ vắng khách – xem lời đính chính câu 1309 bên trên – nàng được buổi thong dong, và theo tục lệ tắm nước trạch lan hôm tết đó để trừ ghẻ lở. Nàng yên chí rằng ngày kiêng kỵ ấy không ai đến, nên chỉ rủ bức màn the xuống mà tắm, chứ không đóng cửa buồng.
Câu 1311, 1312 = Thúc Sinh thừa cơ lén đến, trông thấy rõ ràng da nàng trắng như ngà, trong như ngọc, và thân hình nàng đẹp như một tòa tượng trời đúc để tự nhiên phơi bầy.
Câu 1313, 1314 = Sinh càng tỏ rõ mọi nét tấm thân thần tượng, lại càng khen mãi và làm ngay một bài thơ Đường luật để khen ngợi và để tỏ ý ước mong lấy được nàng.
Câu 1315, 1316 = Nàng đọc bài thơ rồi nói với Sinh rằng: Thiếp hiểu ý chàng rồi, xin đa tạ. Bài thơ này hay lắm, ý nào cũng như châu như ngọc, câu nào cũng như gấm như thêu.
Câu 1317, 1318 = Đáng lẽ tài làm thơ của thiếp dù hay, dù hèn thế nào nữa cũng phải họa lại. Nhưng lòng thiếp lúc này còn vướng một vài điều ngang ngang.
Câu 1319, 1320 = Xin chàng biết cho rằng lòng thiếp giờ đang vẩn vơ nhớ cha mẹ ở dưới đám mây Hàng xa thẳm. Bởi vậy xin chàng cho thiếp chịu nợ chàng bài thơ họa hôm nay.
Câu 1321, 1322 = Thúc Sinh nghe nàng nói nhớ cha mẹ, lấy làm lạ hỏi ngay rằng: Sao nàng nói lạ lùng vậy? Thế ra nàng không phải là con má Tú đây sinh ra à?
Câu 1323, 1324 = Kiều thấy Thúc Sinh đã được nhìn ngắm rõ ràng tấm thân ngà ngọc thanh tao của mình như thế mà không tỉnh ngộ, vẫn một niềm cho mình là con đẻ của mụ béo mập thô bỉ đó! Nàng cảm thấy Sinh là hạng người tầm thường, thật không đáng là hạng người tri kỷ mà nàng có thể gửi thân nhờ cậy được, nên nàng đương vui vẻ bỗng ủ dột đôi mắt xuống thất vọng thương thân, nỗi đoạn trường của nàng bấy giờ bỗng dưng nổi dậy, nghĩ sao mà buồn tênh đến thế!
Câu 1325, 1326 = Nàng buồn quá, chẳng muốn kể gia thế cho Sinh nghe nữa, mà chỉ lạnh nhạt thưa lại Sinh rằng: Thiếp nay đây lưu lạc như cánh hoa đã lìa cành, còn chàng thì như con bướm chỉ lượn quanh mà vui chơi chốc lát rồi lại bay đi nơi khác.
Câu 1327, 1328 = Chúa xuân đành đã có nơi chính đáng để làm chủ rồi, thiếp đâu dám trách. Thôi, ngày giờ ngắn ngủi, xin chàng đừng lôi thôi dài lời làm chi nữa!
Câu 1329 đến 1332 = Thúc Sinh vì không hiểu sao nàng bỗng dưng lạnh nhạt với mình như vậy, nên lại ngờ có lẽ vì chàng có ý dò la nguồn gốc nhà nàng để rồi sẽ thay lòng đổi dạ, mà làm mất lòng nàng, nên chàng vội phân trần cho nàng. Chàng quả quyết: Từ khi đôi ta thành bạn tương tri với nhau đến nay, lòng ta lúc nào cũng mang nặng lời thề non nước với nhau. Nay ta muốn làm vuông tròn thật sự cuộc trăm năm của chúng ta, nên ta muốn biết tường tận gia thế nhà nàng, chứ nào phải có ý tò mò gì đâu mà nàng mếch lòng giận ta!
Câu 1333, 1334 = Nàng thấy Sinh có lòng muốn lấy mình thật tình như vậy, nên lại hồi tâm, đành lòng lại nhờ tay chàng cứu vớt và ngỏ lòng trình bầy đủ mọi lẽ khó khăn trong cuộc hôn nhân này cho chàng biết mà liệu tính trước, xem lấy nhau có được không, rồi hãy lấy nhau. Nàng đáp : Chàng có lòng quá yêu muốn lấy thiếp như thế, thiếp xin đội ơn chàng muôn lần. Nhưng thiếp rất e ngại chàng lấy thiếp cũng khó, mà thiếp theo chàng cũng khó, chứ không dễ mà êm thắm được đâu!
Câu 1335, 1336 = Một là thiếp e rằng bấy lâu nay chàng nấn ná ỏ chốn lầu xanh này, say sưa yêu thiếp là chỉ vì yêu về phần nhan sắc trang điểm bề ngoài.
Câu 1337, 1338 = Rồi ra đến lúc lâu mãi nhàm chán, dù thiếp phấn son trang điểm thế nào cũng coi như hết đẹp hết thơm, thì liệu chàng có thường thường giữ mãi được mực yêu đương này không ?
Câu 1339 đến 1342 = Hai là thiếp e rằng chàng đã có bà vợ cả chủ trương ở trong gia đình rồi, bấy lâu nay vợ chồng một thuyền một bến, một lòng khăng khít thân mật nhau, bây giờ chàng lấy thêm thiếp về thì chắc vợ chồng đều sinh thêm một lòng riêng tây, không được thật lòng hòa hợp với nhau như trước nữa.
Câu 1343, 1344 = Thiếp nghĩ cái thân phận bèo mây lưu lạc của thiếp này có ra cái vẻ gì mà làm cho cái biển yêu giữ hai vợ chồng chàng đương đầy hóa vơi như vậy?
Câu 1345, 1346 = Thế có phải vì thiếp mà gia đình chàng phải trăm điều ngang ngửa lủng củng không? Cái tội tầy trời đó kiếp sau ai chịu cho thiếp?
Câu 1347, 1348 = Lại còn nỗi này đáng e ngại cho thiếp nữa: Nếu tay chàng có vững cánh chống đỡ, thì còn che chở đắp điếm cho thiếp được một vài phần.
Câu 1349, 1350 = Còn như nếu thế lực trong buồng lại mạnh hơn nhà ngoài, bà lại bắt nạt được ông, thì rõ thật là chàng đem cái thân sắn bìm lẽ mọn này gửi vào trước hàm sư tử.
Câu 1351, 1352 = Ôi! Thân kẻ làm lẽ mọn lúc nào cũng khúm núm sợ hãi trước mặt vợ cả, y như người phải cúi đầu luồn dưới mái nhà thấp, chẳng bao giờ dám ngóc lên. Cuộc sống lúc nào cũng sợ đòn ghen với giấm chua còn khổ nhục tội nghiệp bằng ba lần kiếp lửa nồng ở lầu xanh.
Câu 1353, 1354 = Vả lại nhất là ở trên còn có nghiêm đường, chẳng biết lòng trên trông xuống có rộng lượng thương tôi không?
Câu 1355, 1356 = Hay ông lại khinh rẻ tôi là hạng gái giang hồ như liễu ngõ hoa tường chẳng đáng kể, rồi lầu xanh, ông lại đuổi về với lũ lầu xanh.
Câu 1357, 1358 = Như thế lại càng thêm dơ dáng dại hình cả đôi. Đối với tôi thì đành thân phận tôi thế nào cũng được, nhưng rất đáng ngại cho danh giá của chàng.
Câu 1359, 1360 = Thiếp xin kể rõ chàng biết các lẽ khó khăn đáng e ngại đó, để chàng liệu có thể thương thiếp được trọn vẹn đủ bề thì hãy thương, và lo tính sao cho êm ả trọn vẹn đủ mọi đường, thì thiếp xin vâng nhận lời chàng.
Câu 1361, 1362 = Thúc Sinh thấy Kiều phân trần đủ lẽ lo ngại, chàng sợ giải quyết với nàng không nổi, nàng sẽ e ngại mà từ hôn, nên chàng vội xí xóa lời nàng và nói để yên ủi nàng rằng: Thôi nàng đừng khéo kể lẽ nọ lẽ kia, để liệu chừng dò xét lòng ta như thế nữa! Quen nhau đã lâu thế mà còn chưa biết lòng ta hay sao?
Câu 1363, 1364 = Dù có xẩy ra sự gì khó khăn như phải đi nơi xa xôi hiểm trở, như sang nước Ngô nước Lào nữa, nàng cũng chớ lo ngại, trăm điều cứ chắc cậy trông vào một mình ta là xong hết.
Câu 1365, 1366 = Hãy cứ làm cho xong việc gần là việc lấy được nhau cái đã, rồi chẳng có việc gì xa xôi đáng lo ngại nữa, sẽ đâu vào đấy hết. Cốt sao ta phải quyết một lòng vững như vàng đá và một mực liều trong cơn sóng gió là được.
Câu 1367, 1368 = Hai bên căn dặn với nhau thật hết điều hết lẽ, và đem những lời thề nặng như núi, sâu như biển hết sức giao kết lấy nhau.
Câu 1369, 1370 = Đêm ngắn tình dài, hai người nỉ non tỉ tê, trò truyện với nhau chưa hết lời thì bỗng trông ra ngoài hiên đã thấy mặt trăng lặn xuống ngọn núi phía tây chỉ còn nửa vành.
Vài nhận xét về tâm trạng Kiều đối với Thúc Sinh mà tác giả ngầm tả trong đoạn này
Kiều ở thanh lâu chí tâm tìm một tay hào hiệp để nhờ cứu mình thoát nạn. Khi gặp Thúc Sinh, nàng biết có thể nhờ cậy được. Nàng thấy Thúc Sinh lầm tưởng nàng là con đẻ Tú Bà mà vẫn say sưa, nàng nghĩ có hai điều đáng e ngại: (1) Thúc chỉ yêu nàng về phần vật chất nhan sắc phấn son, e tình yêu không được bền vững; (2) Kiều e Thúc tưởng nàng là con ruột mụ Tú thì chắc không có lòng cứu nàng ra khỏi tay mụ. Muốn trừ hai điều trở ngại đó, thì (1) là cần phải cho Thúc nhìn rõ thân hình thanh tao ngà ngọc của nàng, khác hẳn thân hình thô bỉ béo nhợt của Tú Bà, để Thúc tự hiểu nàng không phải là con mụ đẻ; (2) là cần phải cho Thúc biết dòng dõi lương thiện thanh cao của nàng, để khiến Thúc yêu quý nàng thêm cả về phần tinh thần nữa thì tình yêu mới thật bền chặt. Chàng có yêu mình đầy đủ cả hai phần vật chất, tinh thần, lại biết mình là con gái nhà thanh lịch tử tế bị lừa vào tay mụ, thì chắc là chàng phải vì tình vì nghĩa mà hết lòng hết sức ra tay cứu vớt.
Bởi vậy nhân dịp tết đoan ngọ là phải kiêng kỵ khách làng chơi, lại có tục tắm nước nấu trạch lan để trừ bệnh ngoài da, nàng mới làm ra vẻ hớ hênh, vô ý cho là chẳng ai đến, mà buông màn tắm trần không đóng cửa buồng, cho Thúc Sinh được lén nhìn rõ ràng đủ mọi màu vẻ tòa tượng thiên nhiên của nàng. Khi đã được Thúc Sinh vịnh thơ khen ngợi thòa thiên nhiên rồi, nàng muốn nhân tiện cho chàng biết rõ ràng gia thế trong sạch tử tế của nàng, mới xin lỗi không họa được thơ là vì lòng bối rối nhớ cha mẹ. Nhưng tiếc thay Thúc đã chẳng hỏi đến cha mẹ nàng lại chỉ hỏi nàng: “Sao nói lạ vậy? Thế ra nàng không phải là con má Tú đây?” Câu hỏi có ý không tin nàng đó, tỏ ra chàng không có con mắt tinh đời để nhìn rõ được vẻ đẹp tinh thần của nàng, và không có đủ tài thông minh linh lợi để hiểu thấu lòng nàng. Thế là nàng vừa thất vọng, vừa buồn tủi, khiến mặt nàng đang tươi vui bỗng hóa ủ dột, lòng nàng đang hớn hở bỗng hóa đầy nỗi đoạn trường, và câu truyện đang mặn mà đằm thắm bỗng nhạt nhẽo ra vẻ hờn dỗi: “Thiếp như hoa đã lìa cành. Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi.” Một câu hỏi vô ý thức của chàng đó gần như làm tan rã cuộc chung tình của nàng đối với chàng bấy lâu. Nhưng may mà tuy chàng không hiểu vì sao nàng bỗng sinh lòng lạnh nhạt, chàng lại ngỏ lời xin lỗi nàng mà nói, vì có chí lấy nàng nên mới muốn biết gốc tích nàng thôi, chứ đâu phải là có ý gì mà nàng giận, nên nàng lại hồi tâm mà bắt đầu tính cuộc trăm năm với chàng.
Kiều bầy tỏ cho chàng biết đủ mọi lẽ khó khăn trong cuộc hôn nhân giữa chàng và nàng: (1) Liệu lấy nàng về, gia đình có được êm ấm như thường không, hay vì nàng mà vợ chồng chàng lạnh nhạt nhau? (2) Liệu chàng có đủ sức bênh vực nàng không, hay lại để nàng bị vợ cả hành hạ? (3) Liệu chàng có giữ được lòng yêu nàng trước sau như một không? (4) Liệu bố chàng có dung nàng không, hay lại khinh rẻ đuổi nàng về lầu xanh?
Tuy Kiều biết Thúc Sinh tài trí tầm thường, không sao lo liệu trôi chảy được đầy đủ các điều kiện đó, nhưng vì tình thế bắt buộc, hãy cốt lấy được chàng, rồi sau sẽ liệu cách giúp chàng gỡ mọi nỗi khó khăn nên đành xí xóa, kết luận một câu cho xong lần: “Thương sao cho vẹn thì thương/ tính sao cho vẹn trăm đường thì vâng. ”Thế là nàng lại đành nhắm mắt đưa chân theo Thúc Sinh ra khỏi lầu xanh.
Xét ra Kiều thật là người trung hậu, khôn biết đủ đường, lo tính mọi lẽ đâu ra đấy. Nhưng tiếc thay, số nàng bạc mệnh, gặp Thúc Sinh hèn nhát quá, và Hoạn Thư khôn ngoan thâm độc quá, thành ra uổng cả tâm trí của nàng.
CHƯƠNG 16
CÂU 1371 ĐẾN CÂU 1472
“Nghiêm phụ phân ly, Phủ quan tác hợp”
1371. Mượn điều trúc viện thừa lương, [1]
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
1373. Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
1375. Bắn tin đến mặt Tú bà, [2]
Thua cơ, mụ cũng cầu hòa, dám sao.
1377. Rõ ràng của dẫn tay trao, [3]
Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công. [4, 5]
1379. Công tư đôi lẽ đều xong, [6]
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
1381. Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
1383. Hương càng đượm lửa càng nồng, [7]
Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen. [8, 9]
1385. Nửa năm hơi tiếng vừa quen, [10]
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. [11]
1387. Giậu thu vừa nảy chồi sương, [12]
Xe bồ đã thấy xuân đường đến nơi.
1389. Phong lôi nổi trận bời bời, [13]
Nén lòng e ấp tính bài phân ly.
1391. Quyết ngay biện bạch một bề, [14]
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
1393. Thấy lời nghiêm huấn rành rành, [15]
Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.
1395. Rằng: “Con biết tội đã nhiều,
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam. [16]
1397. Trót vì tay đã nhúng chàm, [17]
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
1399. Cùng nhau vả tiếng một ngày, [18]
Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
1401. Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc điên thôi có tiếc mình làm chi.” [19]
1403. Thấy lời sắt đá tri tri, [20]
Sốt gan ông mới đơn quì cửa công.
1405. Đất bằng nổi sóng đùng đùng, [21]
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra. [22]
1407. Cùng nhau theo gót sai nha,
Song song vào trước sân hoa lạy quì. [23]
1409. Trông lên mặt sắt đen sì, [24]
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời: [25]
1411. “Gã kia dại nết chơi bời,
Mà con người thế là người đong đưa.
1413. Tuồng chi hoa thải hương thừa,
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
1415. Suy trong tình trạng nguyên đơn, [26]
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
1417. Phép công chiếu án luận vào, [27]
Có hai đường, ý muốn sao mặc mình:
1419. Một là cứ phép gia hình, [28]
Hai là lại cứ lầu xanh phó về.”
1421. Nàng rằng: “đã quyết một bề, [29]
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần. [30]
1423. Đục trong thân cũng là thân.
Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình!”
1425. Dạy rằng: “Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.” [31]
1427. Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quện má liễu tan tác mày. [32]
1429. Một sân lầm cát đã đầy, [33]
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương. [34]
1431. Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
Nẻo xa trông thấy, lòng càng xót xa.
1433. Khóc rằng: “Oan khốc vì ta! [35]
Có nghe lời trước, chí đà lụy sau.
1435. Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu, [36]
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?”
1437. Phủ đường nghe thoảng vào tai, [37]
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
1439. Sụt sùi chàng mới thưa ngay, [38]
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân: [39]
1441. “Nàng đà tính hết xa gần,
Từ xưa nàng đã biết thân có rày.
1443. Tại tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.”
1445. Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi. [40]
1447. Rằng: “Như hẳn có thế thì,
Trăng hoa song cũng thị phi biết điều.”
1449. Sinh rằng: “Chút phận bọt bèo,
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.” [41]
1451. Cười rằng: “Đã thế thì nên!
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.” [42]
1453. Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê xem tường. [43]
1455. Khen rằng: “Giá đáng Thịnh Đường! [44]
Tài này, sắc ấy, nghìn vàng chưa cân!
1457. Thật là tài tử giai nhân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn? [45]
1459. Thôi đừng rước dữ cưu hờn, [46]
Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung.
1461. Đã đưa đến trước cửa công,
Ngoài thì là lý, song trong là tình.
1463. Dâu con trong đạo gia đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.”
1465. Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao. [47]
1467. Bày hàng cổ xúy xôn xao, [48]
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
1469. Thương vì hạnh trọng vì tài,
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
1471. Huệ lan sực nức một nhà, [49]
Từng cay đắng, lại mặn mà hơn xưa.
Đính chính và xác định:
Câu 1388 – Xe bồ đã thấy xuân đường đến nơi – Xe bồ chữ hán là bồ xa [ ], cái xe vành bánh quấn lá cỏ bồ để người già đi cho êm. Sử ký nói: Khi đi tế Phong Thiên (tế Trời Đất) người xưa làm xe bồ để đi khỏi nát đá của Đất, nát cây cỏ của Trời. Sau vua Hán Tuyên Đế dùng xe bồ để tiễn thày học là Sớ Quang và Sớ Thụ về hưu. Từ đó xe bồ hay dùng để chở người già đi xa. Chữ “xe bồ” đặt vào câu này rất đúng để nói Thúc ông đi từ Vô Tích về Lâm Truy. Trong cuốn truyện Thúy Kiều, ông Trần Trọng Kim bác bỏ cuốn in “xe bồ” và theo cuốn in “Gối yên đã thấy…” Ông nói dân không được phép dùng xe bồ, và giải nghĩa chữ “gối yên” là “cái gối dựa vào cái yên ngựa của các ông già ngày xưa.” Tôi không biết ông Kim thấy cái phép cấm dân dùng xe bồ ấy ở đâu, và cái gối dựa ấy đặt chỗ nào trên yên ngựa? Và Thúc ông già rồi, sức đâu ngồi trên lưng ngựa hàng tháng từ Vô Tích về Lâm Truy? Đi xe là phải rồi.
Câu 1390 – Nén lòng e ấp tính bài phân ly – Tác giả dùng nhóm chữ “nén lòng e ấp” là có ý nói Thúc ông vẫn có chút lòng thương Kiều, trước còn dùng dằng không nỡ đuổi, sau vì giận Thúc Sinh phá nhiều của quá, mới đành nén lòng mà bắt Thúc phải đuổi Kiều. Và vì có chút lòng thương ấy mà sau này không kêu nài gì, khi quan cho Thúc, Kiều đoàn tụ. Duy chữ “nén” nôm cũng viết y như chữ “nặng” nôm [𥘀] (= [] thạch ‘đá’ bên chữ [] nẵng ‘nặng/ nén’), nhưng chữ nặng thì hay dùng, chữ nén ít dùng nên hết thẩy các bản Kiều quốc ngữ đều dịch câu này là “Nặng lòng e ấp…” và mỗi bản giảng nghĩa một cách gượng ghịu khác nhau. Ông Trần Trọng Kim thì giảng e ấp là sợ hãi, và “Nặng lòng e ấp…” là nói Thúc ông vì nỗi con đã có vợ rồi mà lại chơi bời lấy người giang hồ, vậy ông mới tính bài bắt phải bỏ ra. Giảng vậy thật sai nghĩa chữ e ấp, gần như vô lý: ông sợ ai mà nặng cái sợ thế, sợ ông thông gia quan to kiện chăng?  Ông Nguyễn Khắc Hiếu thì nói ông không hiểu chữ “e ấp” ở đây nghĩa là gì, đành bỏ không giải thích. Tôi rất phục ông Hiếu về điểm này, không biết thì đành chịu, chứ không dám giảng gượng như người khác.
Câu 1402 – Bạc, điên thôi có tiếc mình làm chi! – Hai chữ “bạc điên” trong câu này chữ Hán là [] bạc là ‘bến sông’ và [] điên là ‘đỉnh núi cao.’ Nhà văn hay dùng chữ “bạc điên” để nói sự tự tử vì tình. Bạc = ra bến nhảy xuống sông; điên = lên ngọn núi nhảy xuống đất. Các bản nôm có bản chỉ giải nghĩa chữ “bạc” là nhảy xuống bến sông mà chết, còn chữ điên thì in lầm ra [] ‘điên đảo’ mà không giải nghĩa là gì. Còn các bản quốc ngữ thì phần nhiều dịch là “bạc đen” và giảng là bội bạc điên đảo, không giữ trọn vẹn lời hứa hẹn, vì phải bỏ nàng thì mang tiếng bội bạc điên đảo, thà chết cho xong đời.
Câu 1404 – Sốt gan ông mới đơn quỳ cửa công – Chữ “đơn quỳ” câu này, có bản in là “cáo quỳ” [ ], lại có bản in là “thân quỳ” [ ]. Xét ra đều có nghĩa giống nhau là làm đơn đưa lên quan mà kiện. Nhưng để là “cáo quỳ” thì đọc nghe không êm tai, mà nghĩa cũng không trôi chảy. Nếu để là “thân quỳ” thì nghĩa khó hiểu cho người không quen thạo chữ trong việc quan. Chỉ có chữ “đơn quỳ” vừa thông dụng, vừa dễ đọc, mà lại vừa đúng với chữ “tình trạng nguyên đơn” ở câu 1415 dưới.
Câu 1414, 1415, 1416 – Mượn màu son phấn đánh lừa con đen/ Suy trong tình trạng nguyên đơn/ Bề nào thì cũng chưa yên bề nào – Theo quyển vần thơ Bạch Hương Từ Phổ [   ], thì các chữ thuộc về vần [] nguyên, [] hàn, []san, [] tiên, [] văn, [] chân,
[] hồn, [] đan / đơn, đều thông dụng vần với nhau. Bởi vậy chữ ‘đàn’ có thể đọc là ‘đờn,’ chữ ‘phiên’ có thể đọc là ‘phen,’ và chữ ‘yên’ có thể đọc là ‘an.’ Vậy thì ba chữ “đen, đơn, yên” trong ba câu này đều vẫn có vần với nhau. Ông Trần Kim Trọng vì không biết, cho là chữ “đơn” mất vần với chữ “yên” nên đổi bừa “nguyên đơn” ra “bên nguyên”, thành ra câu Kiều này hình như vô nghĩa, và mất cả vẻ hay đẹp. Suy trong tình trạng nguyên đơn là suy xét tình trạng kể ở trong đơn, chứ không phải tình trạng của người đưa đơn.
Câu 1429 – Một sân lầm cát đã đầy – Tôi suy nghĩ mãi mà vẫn không hiểu thật nghĩa là thế nào. Hoặc giả nguyên là: “Mặt thân lầm cát dã đầy” [𩈘     𨃐], vì các cụ trước thường đọc chữ [] thân là ‘sân’ và hai chữ ‘dã đầy’ [ 𨃐] lầm ra ‘đã đầy’ [𣹓]. Chữ “mặt” liền ý với nhóm chữ “gương lờ nước thủy”, chữ “thân” liền ý với nhóm chữ “mai gầy vóc sương” ở câu dưới.
Câu 1455 – Giá đáng Thịnh Đường ở câu này, có bản in là “Giá lợp Thịnh Đường,” tôi cho là quá đáng, vậy xin theo những bản in là “Giá đáng Thịnh Đường.”
Chú thích và dẫn điển:
[1] Trúc viện thừa lương [   ] = đi hóng mát ở nơi nhà chơi vui, chung quanh có tre tốt mát mẻ.
[2] Bắn tin = đưa tin cho biết một cách mau lẹ kín đáo.
[3] Của dẫn = đưa tiền trả tận nhà mụ Tú.
[4] Hoàn lương [ ] = cho gái thanh lâu được về lấy chồng thành người tử tế. Luật lệ Tàu xưa đòi hỏi gái thanh lâu phải có giấy quan cho phép mới được hoàn lương.
[5] Thân = đưa lên trình quan để xin phép.
[6] Công, tư đôi lẽ – Công = giấy phép quan phê cho được hoàn lương. Tư = hai bên trao nhận tiền chuộc cho nhau.
[7] Hương đượm lửa nồng – Nghĩa đen = hương cháy êm chậm thơm ngát, lửa cháy rõ sáng. Nghĩa bóng = cuộc tình duyên càng đằm thắm, do chữ “hương hỏa” là tình vợ chồng.
[8] Xôi vẻ ngọc = vẻ đẹp phát hiện tưng bừng ra ngoài.
[9] Lồng màu sen = sắc mặt đẹp như hoa sen lộng lẫy nổi lên. Hai câu lục bát này ý nói tình duyên càng nồng đậm, sắc đẹp càng lộng lẫy.
[10] Hơi tiếng vừa quen = vợ chồng đã “quen hơi bén tiếng” nhau rồi.
[11] Sân ngô cành bích - Trong thơ Đỗ Phủ có câu [       = bích ngô thê lão phượng hoàng chi = cây ngô đồng cành màu bích xưa chim phượng hoàng đậu nay đã già sạm].
Các bản Kiều quốc ngữ bây giờ đều in chữ “cành bích” ở câu này là “cành biếc” e sai nghĩa. “Cành bích” do “bích ngô” [ ] dịch ra. Cành cây ngô đồng mùa xuân non thì da vỏ mầu lục và nhẵn bóng, mùa thu thì màu dở lục dở xanh sạm đục hết mầu nhẵn bóng, có vẻ già cứng. Còn “biếc” là mầu là xanh đẹp có vẻ rực rỡ lóng lánh. “Sân ngô cành bích đã chen lá vàng” nghĩa là “Cảnh sân mùa thu những cành ngô đồng màu bích đã đầy những lá vàng sắp rụng.” Bởi vậy phải nói “cành bích” mới đúng. Tác giả đặt chữ “cành bích” lấy ý là “cành ngọc” để đối với “lá vàng.”
[12] Giậu thu, chồi sương – Giậu thu do chữ thu ly [ ] dịch ra. “Ly” là hàng rào thấp để ngăn các luống hoa cúc trong vườn cho khỏi đổ. Về mùa thu các hoa đều tàn, chỉ có cúc thường vẫn nẩy những chồi non (cũng gọi là “chồi sương”). Thơ Tô Đông Pha có câu “Cúc tàn do hữu ngạo sương chi” [      ] có nghĩa là “cúc tuy tàn nhưng hãy còn những chồi coi thường khí sương lạnh.” Chữ “chồi sương” lấy điển ở câu thơ này.
[13] Phong lôi = gió bão, sấm sét. Câu này nghĩa là cơn giận nổi lên “ầm ầm như gió bão sấm sét.”
[14] Biện bạch = nói rõ ràng hẳn hoi ra như vậy.
[15] Nghiêm huấn = lời dạy bảo nghiêm khắc của cha.
[16] Sấm sét, búa rìu – Sấm sét = chịu tội với trời. Búa rìu = chịu tội với người, với luật pháp.
[17] Tay đã nhúng chàm – Người thợ nhuộm khi đã nhúng tay vào nước chàm để nhuộm vải thì khó rửa được tay sạch hết màu xanh. Vì thế, ta vẫn nói “chớ nhúng tay vào chàm” để tỏ ý khuyên người chớ làm việc dại như đùa với gái, vì một khi quen đi khó chừa được nữa.
[18] Tiếng một ngày – Tục ngữ ta có câu “Vợ chồng một ngày nên nghĩa.” Vì vậy,Cùng nhau vả tiếng một ngày/ ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành nghĩa là “vả lại vợ chồng đã trót lấy nhau rồi, thì dẫu một ngày cũng đã nên nghĩa với nhau rồi, sao lại nỡ dứt duyên mà bỏ nhau được.”
[19] Bạc, điên – Bạc = bến sông. Điên = đỉnh núi. Bạc điên = tự tử bằng cách hoặc ra bến mà nhảy xuống sông, hoặc lên núi mà lao đầu xuống đất.
[20] Tri tri = trơ trơ một mực, nhất định không nghe lời bắt bỏ Kiều.
[21] Đất bằng nổi sóng – Dịch từ câu chữ Hán “Bình địa ba đào” [   ].
[22] Phiếu hồng, thôi tra – Phiếu hồng = giấy quan đưa cho dân đóng nhiều dấu đỏ, tỏ ý khẩn cấp. Thôi tra [ ] = thúc giục đến cửa quan để tra xét.
[23] Sân hoa = sân trước tòa án phủ. Đời xưa dinh quan phủ, huyện hay trồng hoa đào nên gọi là “đào viện” [ ].
[24] Mặt sắt đen sì – Ông Bao Chửng đời Tống là Giám sát Ngự sử, là chức vụ thay vua đi xét xử các việc hình án khó khăn oan ức. Ông xử án rất nghiêm minh, ai cũng sợ. Vì mặt ông đen và lạnh lùng ít cười, nên người ta gọi ông là Thiết diện Ngự sử (Ngự sử mặt đen và lạnh như sắt). Tác giả mượn điển này để tả vẻ oai nghiêm của quan phủ.
[25] Lập nghiêm = tỏ vẻ oai nghiêm cho dân kính sợ.
[26] Nguyên đơn [ ] = đơn kiện của bên nguyên. Trong sự thua kiện nhau có bên nguyên đơn và bên bị cáo, gọi tắt là bên nguyên và bên bị. Bên nguyên là bên bắt đầu đưa đơn khởi việc kiện, bên bị là người bị kiện.
[27] Chiếu án luận vào = theo tội án định ở trong luật mà định tội.
[28] Cứ pháp gia hình [   ] = cứ theo phép làm tội định ở trong luật mà xử tội.
[29] Đã quyết một bề = (Kiều nói) đã nhất định một bề là bỏ lầu xanh mà lấy Thúc Sinh, dù phải làm tội đau đớn thế nào cũng chịu.
[30] Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần – Câu này ý nói đã quyết một bề dứt bỏ lầu xanh mà lấy Thúc Sinh, thì nhất quyết không về lầu xanh nữa, và cũng quyết một tình lấy Thúc Sinh, không lấy ai nữa. Ca dao có câu “Làm thân con nhện mấy lần giăng tơ” nghĩa là thân người con gái đã lấy ai thì lấy hẳn một người, chứ có phải là con nhện đâu mà dứt lưới tơ này lại đi giăng lưới tơ khác.
[31] Ba cây = do chữ tam mộc [ ] dịch ra. “Tam mộc” là ba thứ đồ gỗ để gông cùm tội nhân, đó là nữu [] = cùm tay; già [] = gông cổ; chất [] = cùm chân. Câu Kiều này nghĩa là đem Kiều ra làm tội bằng cả ba thứ gông cổ, còng tay, cùm chân. “Cành mẫu đơn” hàm ý là thân Kiều như hoa mẫu đơn.
Phụ chú:
Trong cuộc xử tội này, truyện không nói ra là Kiều bị đánh, nhưng đọc mấy câu theo sau thì biết là bị đánh rất đau. Đời nhà Minh nghiêm cấm kỹ nữ quyến rũ lừa gạt khách chơi để phá hoại gia đình khách, và cũng nghiêm cấm các quan không được ăn nằm với kỹ nữ. Xem trong Tình sử có mấy kỹ nữ phạm cấm, bị gông cùm đánh đòn đến chết. Cũng trong truyện Tình sử, có một ông Tri huyện bị tố cáo là tư tình với một kỹ nữ. Quan trên bắt người kỹ nữ này để điều tra, nhưng nàng nhất định nói là ông tri huyện bị vu oan, dù bị tra đánh chết đi sống lại mấy lần, có khi bị đánh đến 300 roi mà nàng vẫn trối là không có dính dáng gì với ông ta cả. Kết cục nàng được thả và ông huyện vô can. Ông huyện cảm ân tình nặng ấy, lập mưu bỏ quan mang nàng đi trốn thật xa và trở thành vợ chồng, ăn ở với nhau 20 năm không ai biết. Gặp lúc ân xá, họ mới về quê ở suốt đời bên nhau.
[32] Hoen quện – Hoen = lấm bẩn nhem nhuốc; quện = nhăn nhó ủ tái. Câu này có nghĩa là “má đào của nàng thì nhem nhuốc ủ tái; mày liễu của nàng thì nhăn nhó xác xơ.”
[33] Một sân lầm cát đã đầy – Câu này có lẽ vì sao đi khắc lại mãi sai dần thành ra vô nghĩa. Có bản đổi hẳn là “Một thân quần quại bùn lầy.” (Xem lời phỏng đoán mà đính chính câu 1429 này ở trên là “Mặt thân lầm cát dã đầy”).
[34] Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương – Gương lờ nước thủy = khuôn mặt trong sáng như gương của nàng, vì đau đớn quá mà lờ đục đi như cái gương hết cả vẻ trong sáng của thủy ngân ở mặt sau chiếu lại. Mai gầy vóc sương = hình hài trong sạch như sương tuyết của nàng, vì đau đớn quá trông gày teo đi như cành mai.
[35] Oan khốc = bị đánh oan, đau đớn độc dữ.
[36] Cạn lòng = lòng nông nổi, không biết nghĩ lẽ sâu xa.
[37] Phủ Đường = quan Tri phủ. Trong các đơn từ dân đưa lên quan Tri phủ vẫn viết “Bản phủ phủ đường đại nhân [     ].
[38] Thưa ngay = do câu chữ Hán thường dùng trong giấy tờ việc quan “Cứ thật tường khai” [   ] = khai rõ theo đúng sự thật. (Chớ lầm ra nghĩa là vội vàng kể lại ngay lập tức).
[39] Cầu thân [ ] = sự bàn định tỏ ý xin lấy nhau.
[40] Giải vi [ ] = cởi mở vòng vây ra, nghĩa bóng là gỡ ra cho khỏi tội.
[41] Theo đòi đây tức là theo đòi việc bút nghiên, nghĩa là có đi học tử tế.
[42] Mộc già [ ] = cái gông làm bằng gỗ cứng. Quan phủ bảo Kiều làm một bài thơ vịnh cái gông.
[43] Án phê = bàn giấy quan ngồi phê phán xét xử việc quan.
[44] Thịnh Đường – Thơ đời nhà Đường (618 – 908) là thơ hay nhất nước Tàu. Người ta chia thơ đời Đường ra làm ba thời kỳ, thời kỳ giữa hay nhất gọi là Thịnh Đường.
[45] Chu Trần – Ở tỉnh Sơn Đông bên Tàu có thôn Chu Trần. Trước kia hai họ Chu [] và Trần [] đời đời trai gái lấy nhau; sau này người ta dùng Chu Trần để gọi đôi vợ chồng.
[46] Rước dữ cưu hờn = bỗng dưng mua chuốc lấy sự giận dữ nhau, gây ra sự hờn dỗi nhau.
[47] Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao = nghi lễ đưa dâu. Cất gió = rước một cách vui vẻ, phơi phới trước gió. Điểm sao = rước về ban đêm, đèn đuốc lấp lánh lẫn với sao trên trời.
[48] Cổ xúy [ ] – Cổ = đánh các thứ trống. Xúy = thổi kèn sáo và gẩy đàn. Đây nói có phường bát âm rước dâu, tả cách quan sửa soạn lễ cưới rất trang trọng.
[49] Huệ lan [ ] – Văn chương dùng chữ hoa huệ, hoa lan để nói đến đàn bà con gái có hiền đức, lịch sự đáng quý.
Diễn ra văn xuôi:
Câu 1371, 1372 = Sau khi bàn định và quyết thề đêm hôm đó, Thúc Sinh mới mượn cớ đi hóng mát ở nơi nhà giữa cảnh tre xanh mát mẻ, rồi đem nàng giấu biệt một nơi, và nghĩ cách để lấy được nàng.
Câu 1373, 1374 = Chàng nghĩ sẵn ra hai cách: (1) là “chiến”, nghĩa là nếu Tú Bà nhất định không cho chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, vừa đưa đơn kiện mụ về tội “mãi lương vi sương” [   ] (mua con gái nhà lương thiện về bắt làm đĩ), vừa nhờ hiệp sĩ đánh mụ; (2) là “hòa”, nghĩa là nếu mụ biết điều cho chuộc, thì đem tiền lại chuộc theo giá mua, và bắt mụ phải nộp đơn xin cho Kiều được hoàn lương. Lập định hai cách ấy rồi, chàng mới tìm người làm thày làm thợ giúp chàng trong cuộc chiến và mượn người đi dò la xem tình ý Tú Bà thế nào.
Câu 1375, 1376 = Rồi chàng đưa tin đến tận mặt Tú Bà, kể rõ cho biết hai cuộc chiến hay hòa đó và hỏi mụ thuận theo đường nào. Mụ thấy thế mình thua kém, nếu để bị kiện thì vừa mắc tội vạ, vừa bị nguy đến tính mạng, nên đành xin hòa để lấy tiền chuộc, không dám lôi thôi gì nữa.
Câu 1377, 1378 = Khi đã thu xếp xong với nhau rồi, một bên thì mang tiền chuộc vốn đến trả phần mình; một bên thì nhận tiền, và làm đơn nộp quan xin cho Kiều được hoàn lương và lấy Thúc Sinh.
Câu 1379, 1380 = Thế là hai lẽ công là hình sự và tư là dân sự đều xong xuôi cả, và Kiều bước chân ra khỏi vòng bụi đục.
Câu 1381, 1382 = Từ khi chàng và nàng về sum họp với nhau một nhà, tình sâu như bể càng sâu thêm, nghĩa dài như sông càng dài thêm.
Câu 1383, 1384 = Duyên hương lửa vợ chồng càng thêm thơm đượm, thêm nồng thắm, và vẻ trong đẹp như ngọc như ngà của Kiều càng tỏa ra ngoài, mầu hồng hào như hoa sen càng lộng lẫy tưng bừng.
Câu 1385 đến 1387 = Hai người ở với nhau được chừng nửa năm, đương độ thật quen hơi bén tiếng, thì đã đến cuối thu. Mấy cây ngô đồng ở trước sân đã phơi những cành màu bích đã có những là vàng chen nhau; dẫy cúc ở bên giậu thu đã tàn lại nẩy mấy chồi ngạo nghễ như coi thường khí lạnh sương thu.
Câu 1388 đến 1390 = Vừa đúng dạo cuối thu buồn đó, thì một hôm chiếc xe bọc cỏ bồ của Thúc ông đi từ Vô Tích lên đã đến nơi dừng bánh ở trước nhà Lâm Truy. Thấy Thúc Sinh lấy Kiều về, ông nổi giận dữ đùng đùng như trời nổi cơn gió bão sấm sét. Lúc mới ông còn chút lòng thương hại, nhưng rồi ông nén lòng e ấp dùng dằng ấy đi, mà tính đến truyện bắt Thúc, Kiều phải lìa bỏ nhau.
Câu 1391, 1392 = Ông quyết tâm ra lệnh rõ ràng là Kiều phải về lầu xanh.
Câu 1393, 1394 = Thấy lời cha dạy nghiêm ngặt như vậy, Sinh mới đánh nước bài liều thân bầy tỏ sự tình mà quỳ lạy kêu van xin ông nghĩ lại mà thương cho.
Câu 1395, 1396 = Sinh nói: Thưa cha, con biết tội con nhiều lắm, dẫu trời đem sấm sét đánh tan thây, dẫu cha đem búa rìu chém mất đầu, con cũng xin chịu vì đáng tội lắm.
Câu 1397, 1398 = Nhưng sự đã trót rồi, nhỡ tay đã giúng vào thùng chàm rồi, rửa sao sạch được nữa, con đã trót dại rồi không thể nào trở lại được nữa.
Câu 1399, 1400 = Vả lại tục ngữ có câu “Cùng qua một chuyến đò với nhau là nên nghĩa bạn bè, cùng ở một ngày với nhau là nên nghĩa vợ chồng.” Nay chúng con đã thành vợ chồng yêu mến nhau rồi, nỡ lòng nào dứt tình bỏ nhau được, như đương ôm đàn mà gảy ai lại nỡ dứt dây cho đành.
Câu 1401, 1402 = Nay nếu cha không thương xót mà nhất định bắt phải lìa bỏ nhau, thì con xin thất hiếu mà tự tử vì tình, hoặc ra bến nhảy xuống sông, hoặc lên đỉnh núi nhảy xuống đất, vì còn tiếc gì đến thân này nữa.
Câu 1403, 1404 = Thấy lời Sinh trơ trơ như sắt đá, nhất định không bỏ Kiều, Thúc ông tức bực quá, bèn làm đơn cáo quan nhờ pháp luật bắt phải bỏ cuộc tự ý kết hôn trái phép này.
Câu 1405, 1406 = Thế là đất bằng bỗng nổi sóng gió. Tòa án phủ sai lính mang tờ trát đóng dấu đỏ về bắt Thúc và Kiều phải cùng lên tòa án để quan phủ xét xử.
Câu 1407, 1408 = Hai người cùng nhau theo sai nha lên tòa, khúm núm vào trước sân tòa mà quỳ lạy.
Câu 1409, 1410 = Ngước mắt trông lên họ thấy mặt quan phủ đen như sắt, có vẻ mặt một ông quan án nghiêm khắc như Bao Công thuở xưa. Ngài bắt đầu nghiêm trang ra oai mà nặng lời quở trách Thúc Sinh:
Câu 1411, 1412 = Cái gã kia sao mà quá dại dột, chơi bời được đến như vậy? Ta trông con người mặt mũi khá như thế mà sao lại ăn ở ra người đong đưa tráo trở, mê gái mà dám bỏ cả lời cha dạy như thế ?
Câu 1413, 1414 = Rồi ngài quở Kiều: Ra gì cái của hương thải hoa thừa, cái của chỉ đáng vứt đi này? Nó chỉ điểm tô son phấn cho đẹp để quyến rủ lừa gạt làm hư hại lũ trai trẻ đầu đen bụng dại đó thôi.
Câu 1415, 1416 = Cứ theo tình trạng kể ở trong đơn nguyên đơn mà suy xét, thì sự kết hôn này bề ngoài đối với luật pháp, bề trong đối với lễ giáo, đều chửa bề nào được yên thỏa cả, thế mà đã dám lấy nhau, đoàn tụ với nhau, thật là có tội, vậy bắt buộc phải ly dị.
Câu 1417, 1418 = Rồi quan bảo Kiều: Cứ chiếu theo pháp luật mà xử, thì ta bảo cho con kia biết là có hai điều này cho tùy ý phạm nhân muốn nhận điều nào thì nói cho quan biết để xử:
Câu 1419, 1420 = Một là cứ theo luật pháp mà xử tội; hai là muốn tránh tội, thì lại xin về lầu xanh, quan sẽ tha cho về.
Câu 1421, 1422 = Kiều thưa: Chúng tôi đã quyết chí một bề là bỏ chốn ô nhục ấy, thì còn trở lại vào đó làm gì nữa. Ôi, cái thân phận con nhện này còn vương lấy mối tơ ở đó mấy lần nữa đây?
Câu 1423, 1424 = Thân tôi đây tuy gặp cảnh ngộ không may, đã phải sa vào vòng đục bẩn ấy, nhưng dù đục dù trong cũng vẫn là tấm thân con người. Nếu lượng trên không xét rõ mà lượng thứ cho, thì chúng tôi xin đành chịu tội để giữ lấy giá người. Vậy thân này dù yếu đuối cũng xin chịu hết mọi nỗi cực hình ở trước sân sấm sét nhà trời này.
Câu 1425, 1426 = Quan liền truyền cho thuộc hạ: Vậy cứ theo hình phạt ở luật pháp ra mà xử tội phạm nhân này đi! Rồi quan truyền đem Kiều ra sân, dùng ba thứ hình cụ bằng gỗ mà đóng gông vào cổ, đóng cùm hai tay và đóng cùm hai chân lại mà làm tội.
Câu 1427, 1428 = Kiều tuy bị làm tội oan, nhưng biết thân phận mình hèn mọn, kêu cũng chẳng được, nên đành yên lặng chịu đau đớn chẳng kêu van gì cả. Chỉ thấy vì đau quá mà đôi má đào thì hoen ố tái sạm, đôi mày liễu thì nhăn nhó tan tác.
Câu 1429, 1430 = Nàng đau quá quần quại rẫy rụa làm bụi cát phủ mù một góc sân; khuôn mặt sáng như gương của nàng lờ đục đi, hết cả màu sáng đẹp thủy ngân ánh ra ngoài; hình vóc ẻo lả trắng như sương tuyết của nàng gầy gò đi, trông khẳng khiu như cành mai.
Câu 1431, 1432 = Nghĩ tình chàng Thúc bấy giờ thật đáng thương. Chàng đứng xa trông thấy Kiều đau đớn quá mà mình không cứu được, nên lòng chàng lại càng xót xa hơn.
Câu 1433, 1434 = Rồi bỗng chàng òa ra khóc và nói: Nàng bị đau đớn oan khổ quá như thế, thật là chỉ vì ta thôi. Nếu trước kia ta nghe lời nàng, thì bây giờ có đâu nàng phải đau khổ thế này!
Câu 1435, 1436 = Chỉ vì bụng ta nông cạn, không biết nghĩ sâu xa, để nàng phải trăng tủi hoa sầu thế này, thật là tại ta chứ còn tại ai nữa?
Câu 1437, 1438 = Quan phủ thoáng nghe thấy lời chàng khóc than như thế thì động lòng thương, và cho gọi chàng lại gạn hỏi những lời trước kia Kiều đã nói riêng với chàng như thế nào.
Câu 1439, 1440 = Chàng được quan hỏi, liền vừa khóc vừa cứ thật tình mà kể quan nghe rõ hết đầu đuôi những câu truyện từ khi chàng ngỏ ý muốn lấy nàng, và những lẽ khó khăn nàng kể trong việc hôn nhân trái phép này.
Câu 1441, 1442 = Rồi chàng tiếp lời: Thật quả nàng đã tính hết mọi lẽ gần xa, và từ xưa nàng đã biết trước rằng nàng sẽ gặp những tội tình như thế này rồi!
Câu 1443, 1444 = Nhưng chỉ vì tôi giơ tay ra đảm đương hứng lấy một mình, khuyên nàng cứ chắc cậy ở tôi, không phải lo ngại gì. Bây giờ nàng phải chịu tội đau đớn thế này thật là tại tôi.
Câu 1445, 1446 = Quan phủ nghe chàng kể những lời lẽ nàng nói trước sau, thì có lòng thương tình cho nàng vì những lời nàng nói đó. Quan không ra oai như trước nữa và ngỏ lời có ý gỡ tội cho nàng.
Câu 1447, 1448 = Ngài nói: Nếu quả thật nàng đã nói như thế thì tuy nàng là gái trăng hoa, nhưng cũng là người biết mọi điều phải trái đó!
Câu 1449, 1450 = Thúc Sinh thấy quan đã hồi tâm có lòng thương nàng, liền thừa cơ lại trình thêm cho quan biết rằng: Nàng cũng là người có theo đòi đôi chút nghề bút nghiên, biết làm văn thơ nữa.
Câu 1451, 1452 = Thấy nói nàng biết làm thơ, quan cười nói: Thế thì hay lắm. Vậy ta cho thử làm một bài thơ vịnh cái gông gỗ này để ta xem tài thơ ra sao. Quan sai tháo gông cùm và ban giấy bút cho nàng.
Câu 1453, 1454 = Kiều vâng lời, bái lĩnh bút giấy, rồi lanh lẹ đưa tay viết xong ngay bài thơ, và kính cẩn dâng trình tờ hoa tiên có thơ đề ấy lên bàn giấy quan phủ.
Câu 1455, 1456 = Quan thấy tài nàng lanh lẹ đã có ý khen. Khi cầm thơ xem thì thấy chữ rất tốt thơ rất hay, ngài khen rằng: Giá trị tài thơ của nàng thật không kém gì các thi sĩ thời Thịnh Đường ngày xưa. Tài thơ nàng như thế này, sắc đẹp nàng như thế kia, thì dẫu nghìn vàng cũng chưa xứng đáng!
Câu 1457, 1458 = Đôi này thật là tài tử sánh với giai nhân, chẳng có đôi Chu Trần nào đẹp hơn đôi Chu Trần này!
Câu 1459, 1460 = Rồi quan tiếp lời khuyên Thúc ông rằng: Thôi ông đừng rước dữ mua hờn vào mình nữa làm gì kẻo làm lỡ dịp mất cái cung đàn đương réo rắt giọng hay này đi!
Câu 1461, 1462 = Ông đã đem việc này đến cửa công nhờ phân xử hộ, thì bề ngoài cố nhiên phải xử theo lý, nhưng bề trong vẫn phải xử theo tình thì mới thật ổn thỏa.
Câu 1463, 1464 = Đạo làm cha mẹ ở trong gia đình, đối với dâu con ta nên dẹp hết nỗi bất bình đi là xong hết. Vậy xin ông đừng chấp trách chúng nó nữa để cho cửa nhà được êm vui!
Câu 1465, 1466 = Khuyên Thúc ông xong rồi, quan phủ mới truyền sửa lễ cưới công để kết duyên cho Kiều và Thúc. Khi làm lễ cưới xong rồi thì ngài cho rước dâu rể ngồi cao phơi phới trước gió trên chiếc kiệu hoa, và đuốc hồng lấp lánh điểm thêm sao đêm đó.
Câu 1467, 1468 = Hai bên trước kiệu có hai hàng bát âm đàn sáo vui vẻ, réo rắt nhộn nhịp đưa dâu rể về nhà đoàn tụ với nhau.
Câu 1469, 1470 = Thúc ông sau đó thấy Kiều đã nết na lễ phép lại có tài văn học, nên có lòng thương quý và không tức giận gì nữa.
Câu 1471, 1472 = Vì nàng hiền đức làm cho cảnh nhà được vui êm thơm nức như hoa lan hoa huệ, Thúc ông lúc mới khinh ghét nàng bao nhiêu, nay lại càng quý trọng thân yêu nàng bấy nhiêu.
Những câu và chữ có ý móc nối hay có ý mỉa mai và than thở
Đoạn Truyện Kiều này có thể gọi là đoạn chứng thực những lời lẽ Kiều nói với Thúc Sinh khi chàng ngỏ lời muốn lấy nàng là đúng, không phải lời nói viển vông.
Câu “Nén lòng e ấp tính bài phân ly” đúng với câu Kiều nói “Lòng trên trông xuống biết lòng có thương.”
Câu “Dạy cho má phấn lại về lầu xanh” của Thúc ông và câu “Hai là lại cứ lầu xanh phó về” của quan phủ đúng với câu Kiều nói “Lầu xanh lại phó ra phường lầu xanh.”
Câu quan phủ nói “Bề nào thì cũng chưa yên bề nào” đúng với câu Kiều nói “Chút e bên thú bên tòng dễ đâu.”
Câu “Song song vào trước sân hoa lạy quỳ” và mấy câu quan phủ nặng lời “Gã kia dại nết chơi bời/ Mà con người thế ra người đong đưa/ Tuồng chi hương thải hoa thừa/ Mượn màu son phấn đánh lừa con đen” đúng với câu Kiều nói “Lại càng dơ dáng dại hình/ Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.”
Hai câu tả cảnh cuối thu “Sân ngô cành bích đã chen lá vàng/ Giậu thu vừa nẩy giò sương” đặt vào giữa hai tự sự “Nửa năm hơi tiếng vừa quen” và “Xe bồ đã thấy xuân đường đến nơi” là có ý dùng cảnh trời sinh làm điềm báo trước cho ta biết những sự rủi may sẽ xẩy ra cho Kiều sau khi Thúc ông đến nơi. Câu “Sân ngô cành bích đã chen là vàng” báo trước điềm Kiều sẽ bị kiện bị tội suy tàn như cây mùa thu trơ những cành bích lá vàng. Câu “Giậu thu vừa nẩy giò sương” báo trước điềm Kiều sẽ được quan trọng đãi, làm phép cưới công, như giậu cúc đã tàn lại nẩy giò sương.
Trong Truyện Kiều, tác giả rất dè dặt khi nói đến cái dở của các quan và của người trên, thường chỉ nói họ qua một vài câu có can hệ đến sự dở ấy cho ta nghĩ mà đoán lấy. Về đoạn tả cảnh tàn phá nhà họ Vương thì chỉ tả sự tham tàn của bọn sai nha, còn sự tham nhũng của các quan thì chỉ nói qua ở câu “Tính bài lót đó luồn đây.” Về đoạn tả tổng đốc họ Hồ hư hỏng tệ bạc với Kiều thì chỉ nói qua loa “Hồ Công đến lúc rạng ngày tỉnh ra” và “Sự này biết tính sao đây?”
Câu “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân” của quan phủ thật đã ngầm ý là dịu được lòng tiếc của của Thúc ông. Câu “Thương vì nết trọng vì tài” ứng với hai câu quan Phủ nói “Trăng hoa song cũng thị phi biết điều” và “giá đáng Thịnh Đường.”
Về sự thay đổi của quan phủ từ uy xuống đến gia ân trong vụ sự kiện này, tác giả kể rất có thứ tự: (1) Lúc mới thì lập nghiêm ra oai nặng lời quở trách và lạnh lùng dạy: “Cứ phép gia hình,” chẳng chút thương tình, dù Kiều nói những câu nghĩa lý thật đáng để ý. (2) Rồi động lòng thương, khi thoảng nghe Thúc Sinh than khóc, mà gọi lại gạn hỏi. (3) Rồi dẹp uy và giải vi khi nghe Thúc Sinh kể lại những lời biết điều của Kiều. (4) Rồi tươi cười khi nghe Thúc nói nàng có học thức, biết làm thơ. (5) Rồi khen thưởng khi thấy nàng chữ tốt văn hay. (6) Rồi kết cuộc làm ơn hậu thưởng sửa lễ cưới công.
Tả thái độ quan phủ đối với Kiều cũng dần dần từ nghiêm khắc xuống khoan hòa, xuống khen thưởng : (1) Lúc mới thì quá khinh quá ghét hình như không muốn nhìn mặt, không muốn gọi tên, chỉ mắng bâng quơ “Tuồng chi hương thải hoa thừa,” rồi truyền cứ phép gia hình, không hề thương tình chút nào. (2) Rồi hòa dịu cho là “biết điều thị phi” mà liệu bài giải vi. (3) Rồi tươi cười mà ra thơ làm thử. (4) Rồi hết lời khen thưởng văn tài. (5) Sau cùng khuyên Thúc ông bao dung và cho sửa lễ cưới công long trọng.
CHƯƠNG 17
CÂU 1473 ĐẾN CÂU 1606
“Xa xôi lo phận, Thầm lặng lừa chồng”
1473. Mảng vui rượu sớm cờ trưa,
Đào đà phai thắm, sen vừa nẩy xanh. [1]
1475. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh, [2]
E tình nàng mới bày tình riêng chung: [3]
1477. “Phận bồ từ vẹn chữ tòng, [4]
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên. [5, 6]
1479. Tin nhà ngày một vắng tin,
Mặn tình cát lũy, lạt tình tao khang. [7]
1481. Nghĩ ra thật cũng nên dường, [8]
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta? [9]
1483. Trộm nghe kẻ lớn trong nhà, [10]
Ở vào khuôn phép nói ra mối giường. [11]
1485. E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông! [12]
1487. Mà ta suốt một năm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nàọ
1489. Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao, [13]
Hoặc là trong có làm sao chăng là?
1491. Xin chàng kíp liệu lại nhà,
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình. [14]
1493. Đêm ngày giữ mức giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông.”
1495. Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang. [15]
1497. Sáng ra gửi đến xuân đường,
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia. [16]
1499. Tiễn đưa một chén quan hà, [17]
Xuân đình thoắt đã đổi ra cao đình. [18]
1501. Sông Tần một giải xanh xanh, [19]
Lôi thôi bờ liễu mấy cành Dương quan.
1503. Cầm tay dài ngắn thở than,
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
1505. Nàng rằng: “Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
1507. Dễ mà bọc rẻ giấu kim, [20]
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng! [21]
1509. Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh. [22]
1511. Dù khi sóng gió bất tình, [23]
Lớn ra oai lớn, tôi đành phận tôi.
1513. Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
Lại mang những việc tày trời về sau.
1515. Thương nhau, xin nhớ lời nhau,
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
1517. Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi bữa này năm sau!
1519. Người lên ngựa, kẻ chia bào, [24]
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. [25]
1521. Dặm hồng bụi cuốn chinh an, [26]
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh. [27]
1523. Người về chiếc bóng năm canh, [28]
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525. Vầng trăng ai xẻ làm đôi, [29]
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
1527. Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà:
1529. Vốn dòng họ Hoạn danh gia, [30]
Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
1531. Duyên đằng thuận nẻo gió đưa, [31]
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
1533. Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều giàm buộc thì tay cũng già.
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không.
1537. Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc, ra lòng trăng hoa: [32]
1539. Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên.
1541. Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Hay chi mà rước tiếng ghen vào mình?
1543. Lại còn bưng bít giấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545. Tính rằng “Cách mặt khuất lời,
Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
1547. Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu? [33]
1549. Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
1551. Làm cho trông thấy nhãn tiền, [34]
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.”  [35]
1553. Nỗi lòng kín, chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mé ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin, ý cũng liệu bài tâng công.
1557. Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
“Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
1559. Chồng tao nào phải như ai,
Điều này hẳn miệng những người thị phi!”
1561. Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng.
1563. Trong ngoài kín mít như bưng.
Nào ai còn dám nói năng một lời!
1565. Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
1567. Đêm ngày lòng những dặn lòng, [36]
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
1569. Lời tan hợp, nỗi hàn huyên, [37]
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
1571. Tẩy trần vui chén thong dong, [38]
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra. [39]
1573. Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
1577. Nghĩ đà bưng kín miệng bình, [40]
Nào ai có khảo, mà mình đã xưng? [41]
1579. Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi. [42]
1581. Có khi vui miệng mua cười,
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
1583. Rằng: “Trong ngọc đá vàng thau, [43]
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
1585. Khen cho những chuyện dông dài,
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
1587. Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười!”
1589. Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn. [44]
1591. Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai.
1593. Thú quê thuần hức bén mùi, [45]
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. [46]
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái, mấy mùa gió trăng. [47]
1597. Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
1599. “Cách năm, mây bạc xa xa, [48]
Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn.” [49]
1601. Được lời như cởi tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
1603. Long lanh đáy nước in trời, [50]
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. [51]
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường, [52]
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh. [53, 54]
Đính chính và xác định:
Câu 1493 – Đêm ngày giữ mực giấu quanh – Có bản in là “Ví bằng giữ mực giấu quanh.” Xét thấy chữ “đêm ngày” xác đáng hơn chữ “ví bằng.” Chữ “đêm ngày” vừa liền nghĩa với mấy chữ “nay lần mai lữa” ở câu sau, lại vừa có nghĩa ý là lo ngày lo đêm, không lúc nào yên tâm. Còn chữ “ví bằng” kém phần ý sâu, sát nghĩa như thế.
Câu 1502 – Lôi thôi bờ liễu mấy cành Dương Quan – Chữ “lôi thôi” nôm viết là [ ], phần nhiều các bản quốc ngữ phiên âm là “loi thoi” thế là lầm, vì loi thoi là hình dẫy liễu lẻ thẻ cao thấp không đều, được trông thấy từ đằng xa xa. Còn đây là tả cảnh liễu ở nơi tiễn biệt như ở Dương Quan, nó có những cành rủ xuống dài lôi thôi ngay trước mặt, đối với người đi như có tình lưu luyến giữ lại khi gió ngược, như có ý thân mến tiễn theo khi gió xuôi, làm cho người đi thêm lòng nhớ tiếc lôi thôi mãi. Chữ “lôi thôi” có ý nghĩa sâu đẹp như thế, sao lại đổi ra “loi thoi” cho thành ra vô vị, lạc nghĩa?
Câu 1507 – Dễ mà bọc rẻ giấu kim – Câu này lấy ý ở câu tục ngữ “giấu kim bọc rẻ có ngày thò ra” và nghĩa rất giản dị rõ ràng là: không thể giấu được mãi mà không lộ truyện. Nhưng vì những quyển Kiều phường bản trước in câu này quá nhòe, chính tôi đã được thấy 4 chữ giữa câu này ở vài quyển đó, gần như bốn hình vuông đen hai bên có mấy nét thò ra. Các nhà xuất bản Kiều nôm sau nhận không ra, mới ức đoán, mỗi người viết rõ lại một cách và giải nghĩa một cach gượng ghịu. Các nhà xuất bản truyện Kiều quốc ngữ lại cứ theo các bản Kiều nôm này mà dịch mà giải, ý nghĩa thật quanh co, gượng ép vô lý. Thí dụ như bản Kiều của hai ông Kim, Kỷ in câu này là “Dễ lòe yếm thắm trôn kim”, và giải nghĩa rằng: “Lòe được yếm thắm, khó lòe được trôn kim”, nghĩa là cái yếm thắm tuy rằng đỏ, nhưng có khi vô ý không trông thấy, cái trôn kim tuy nhỏ, nhưng nhìn kỹ thì thế nào cũng thấy. Thậm chí lại có nhà xuất bản Kiều nôm biết “Dễ lòe yếm thắm trôn kim” là vô nghĩa, lại ức đoán mà đổi lại một cách lời thô, nghĩa lạc hơn, là “Dễ mà ép xẩm luồn kim”! Ông cụ huyện Hoàng Mộng Lệ (người làng Phù Lưu, tỉnh Bắc Ninh) là người khảo cứu truyện Kiều rất công phu trong 50 năm có bảo tôi rằng, cụ đã được đọc câu này ở trong một quyển truyện Kiều rất cổ viết câu này là: “Dễ mà bọc rẻ giấu kim.” Tôi rất phục câu cụ huyện họ Hoàng khảo cứu được đó là rất đúng, vừa rõ nghĩa lý, vừa hợp tình trạng.
Câu 1534 – Nói điều giàm buộc thì tay cũng già – Chữ “giàm” nghĩa đen là lấy cái rọ con đan bằng tre gọi là cái giàm mà bịt vào mõm trâu bò cho nó khỏi vơ lúa, nghĩa bóng là tìm lời chèn lấn không cho người ta nói, như bịt miệng người ta lại. Hai câu lục bát nêu ra cái “hiểm độc đáo để” của Hoạn Thư – kể bên ngoài thì cách ăn ở đối với chồng rất hay, rất có lễ độ, nhưng tâm trí rất thâm hiểm khôn ngoan, khi truyện trò thì khéo tìm lời lẽ chèn lấn, như bịt miệng chồng lại không cho chồng nói. Chữ “buộc” thì nghĩa là khéo dùng mưu mẹo, làm như trói buộc tay chồng lại không cho làm được việc gì ngoài ý định của nàng. Chữ “giàm” có bản nôm viết rất đúng là [] (giàm là buộc), nhưng lại có bản đổi một cách vô ý thức thành [𢬥] (giàng); về sau các bản quốc ngữ theo đó mà dịch là “giàng buộc” và giảng nghĩa một cách vu vơ như lạc đề, chẳng ăn nhằm gì với truyện Hoạn Thư bịt miệng buộc tay chàng Thúc ở đoạn sau; thí dụ như Hoạn Thư không cho Thúc Sinh có dịp để dám thưa truyện đã lấy Kiều, nó làm khổ nhục Kiều mà Thúc Sinh đành khóc thầm mà bó tay không dám binh vực. Bản Kiều của hai ông Kim, Kỷ cũng in là “ràng buộc” và giải nghĩa rằng: “Nói những điều thắt vào lý sự thật giỏi.” Lời giải rõ thật vu vơ oan cho Hoạn Thư, suốt truyện nàng đối với chồng bề ngoài vẫn có vẻ yêu kính, chẳng hề “lý sự” với chồng câu nào.
Chú thích và dẫn điển:
[1] Đào phai thắm, sen nẩy xanh – Hoa đào nở về xuân. Đào phai thắm tức là hết mùa xuân. Sen nở hoa về mùa hè. Sen bắt đầu nẩy lá xanh tức là sang mùa hè.
[2] Trướng hồ = bức màn che cửa bằng vải mỏng phất hồ cho đỡ gió mà buồng vẫn sáng.
[3] E tình = lo ngại cho tình hình của mình.
[4] Phận bồ – bồ liễu [ ] = loài cây yếu chịu gió rét, về mùa đông rụng lá trước cây khác. Bởi vậy văn sĩ dùng chữ bồ liễu với hàm ý đàn bà con gái. “Phận bồ” là lời Kiều nói khiêm nhường mình là phận đàn bà hèn. “Vẹn chữ tòng” = lấy chồng, theo chồng.
[5] Đổi thay nhạn yến – nhạn = vịt trời. Giữa mùa thu thì nhạn đến yến đi – yến = chim én, giữa mùa xuân thì yến đến, nhạn đi. Chữ Hán có câu “nhạn yến đại phi” [   ] có nghĩa “chim nhạn chim yến thay nhau mà bay” để nói hết mùa nọ đến mùa kia.
[6] Đã hòng đầy niên = đã sắp được đầy một năm.
[7] Cát lũy [ ] = hai thứ cây dây leo: cây sắn dây và cây lá bạc thau hay quấn leo ở gốc cây to. Kinh Thi có thơ “Cát lũy” để khen bà Hậu Phi có độ lượng bao dung các vợ lẽ “nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi” [       ] = “đất nam có cây to, dây cát dây lũy quấn vào cây đó.” Người sau dùng “cát lũy” để chỉ vợ lẽ, và “cù mộc để chỉ vợ cả. “Tao khang” [ ] nghĩa đen là bã rượu và tấm cám, đồ ăn nuôi lợn, nghĩa bóng là vợ lấy từ lúc còn nghèo phải ăn tao khang. Vua Hán Quang Vũ có bà công chúa là chị vua hoá chồng, muốn lấy ông Tống Hoằng. Vua để bà chị đứng khuất ở trong màn, và gọi ông Tống Hoằng lại hỏi “Ta nghe như có câu tục ngữ nói ‘giầu đổi bạn, sang đổi vợ’, có phải không?” Ông thưa “Thần không nghe thấy câu ấy, thần chỉ nghe thấy câu “bần tiện chi giao bất khả vong tao khang chi thê bất khả hạ đường” [ 便           可下 ] = “bạn cũ lúc nghèo hèn không được quên, vợ cũ lúc còn ăn cám bã với mình, không được đuổi xuống dưới thềm (nghĩa là bỏ).” Vua ngoảnh lại bảo bà chị “Việc không xong rồi!”
[8] Nên dường = đáng ngại, đáng để ý mà lo.
[9] Tăm hơi nghĩa bóng là tin tức, hơi tiếng. Nghĩa đen thì tăm là những bọt cá làm nổi lên trên mặt nước, người đi câu vẫn tìm chỗ nước nào có nhiều tăm xủi lên thì thả câu. Hơi là những mùi con vật để lại ở lối nó đi hay chỗ nó ở. Ta vẫn dùng chó để tìm hơi vật săn, như cầy cáo, chim chóc.
[10] Kẻ lớn đây tức là vợ cả và tức là Hoạn Thư.
[11] Ở vào khuôn phép = ăn ở phải đúng vào trật tự trong lễ phép, trên dưới rõ ràng.
Nói ra mối giường = nói ra những oai quyền khuôn phép đâu vào đấy cho người dưới phải theo, như cầm cái dây giường lưới mà kéo thì cả các mắt lưới phải cùng đi.
[12] Rốn bể, đáy sông – Rốn bể = chỗ sâu nhất của bể; đáy sông = chỗ sâu nhất của sông. Người ta ví lòng người hiểm sâu khó dò, khó đo được cũng như khó dò được rốn bể, khó đo được đáy sông. Câu này đặt theo đại ý câu tục ngữ “Sông sâu còn có kẻ dò/ lòng người hồ dễ ai đo cho cùng.”
[13] Tiêu hao = những tin tức báo cho biết mọi sự biến chuyển rủi may, hay dở sẽ xẩy ra thế nào.
[14] Đẹp ý = làm cho vui lòng vừa ý.
[15] Hồi trang [ ] = sắp sửa các đồ hành trang để về.
[16] Ninh gia [ ] = về thăm nhà ở quê quán.
[17] Chén quan hà – cuộc rượu tiễn biệt người đi xa. Vì cuộc rượu tiễn biệt này hay ở quán rượu gần cửa ải (quan) hay trên bến sông (hà), nên gọi là chén “quan hà” [ ].
[18] Xuân đình, cao đình = Xuân đình [ ] là chỗ nhà chơi vui. Cao đình là nơi tiễn biệt. Gọi là Cao Đình vì quán này hay đặt ở chỗ giang cao [ ] (chỗ bờ sông cong uốn).
[19] Sông Tần một giải xanh xanh – Câu này lấy điển ở câu hát cổ “Dao vọng Tần xuyên, can trường đoạn tuyệt [      ] = Xa trông sông Tần, gan ruột như đứt thành từng đoạn”.
[20] Bọc rẻ giấu kim – Xem lời đính chính câu 1507 ở trên.
[21] Bưng mắt bắt chim – Đây là câu tục ngữ chê người ngu đần tự dối mình trước để dối người: muốn bắt con chim đang đậu, sợ nó trông thấy mình nó bay, lại bịt mắt mình lại, cho là mình không trông thấy nó thì nó cũng không trông thấy mình. Câu “bọc rẻ giấu kim” ở trên thì nói không thể giấu lâu được; câu này thì nói: người ta đã biết thừa đi rồi, lại còn tự dối mình coi như người ta không biết để giấu người ta.
[22] Nói sòng = nói công khai sự thật ở trước mặt mọi người cho ai cũng biết.
Sòng là phơi bày ra, như nói: sòng tiền ra coi; mua bán sòng phẳng.
[23] Bất bình = bất kỳ, ngoài sự mình tưởng đoán.
[24] Chia bào – Bào là vạt trước áo dài mặc ngoài. Chia bào là vợ chồng chia tay nhau khi tiễn biệt; chữ Hán là “phân mệ” [ ] = chia vạt áo.
[25] Rừng phong thu đã nhuộm màu quan sơn – Phong là loài cây to lá hình bàn tay có ba hay năm mảnh, đến mùa thu thì lá màu đỏ đẹp, nhưng cuối thu thì tàn rụng rất buồn. Thơ Đỗ Phủ “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm [      ] = “Giọt móc trong như ngọc làm điêu tàn rừng cây phong.” Câu Kiều này lại dùng thêm điển ở một câu trong Tây Sương Ký “Thu lai thùy nhiễm phong lâm thúy [      ] = Mùa thu đến, còn ai nhuộm được sắc rừng phong cho nó xanh trở lại?”
[26] Dặm hồng = đường đi bụi đỏ bốc lên bởi xe, ngựa.
[27] Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh – Câu này dùng điển ông Lưu Bị tiễn Từ Thứ ở Tam Quốc. Khi Từ Thứ phải bỏ ông Lưu Bị về với mẹ ở bên Ngụy, ông Bị tiễn Từ Thứ đi rồi đứng nhìn theo mãi đến lúc Thứ đi đã khuất mấy ngàn dâu xanh rồi vẫn chưa về, rồi giận mấy ngàn dâu đó, sai người chẵn hết.
[28] Chiếc bóng = lẻ loi một mình lúc đêm khuya; trước kia có hai bóng ở trước đèn, bây giờ chỉ có một bóng mình.
[29] Vừng trăng ai xẻ làm đôi – Thơ cổ có câu vịnh cảnh trăng nửa vành hạ tuần “Thùy bả ngọc bôi phân lưỡng đoạn, bán trầm thủy để bán phù không” [            ] = Ai đem cái chén ngọc này chia làm hai nửa, một nửa chìm ở đáy nước, một nửa nổi ở trên không?” Hai câu 1525, 1526 dùng ý hai câu thơ này mà đặt để tả cảnh tả tình nhớ nhau – Kiều trông trăng thì nghĩ trăng đương soi đường Thúc đi, Thúc trông trăng thì nghĩ trăng đương soi buồng Kiều lúc canh khuya.
[30] Danh gia = nhà dòng dõi quan sang, danh giá nổi tiếng.
[31] Duyên đằng thuận nẻo gió đưa = duyên tự giời, số giời dắt lại. Câu này lấy ý ở câu thơ “Thì lai phong tống Đằng Vương Các [      ] = Lúc vận may đến thì gió đưa đến lầu gác Đằng Vương”. Để nói người đời lúc vận may đến, thì như gió đưa Vương Bột đến dự tiệc ở gác Đằng Vương, mà được nổi tiếng văn hay muôn đời. Sự tích như sau: Vương Bột được vua Đường Cao Tôn nuôi làm bạn học với Thái Tử ở trong cung, sau vì làm bài hịch Đấu kê (gà trọi) có ý hùng dũng quá bị vua ghét đuổi ra ngoài cung. Bột buồn chán, bỏ quan đi thăm bố làm quan ở Giao Chỉ. Một hôm thuyền gặp gió thuận thổi đi vùn vụt một đêm được 700 dặm đến Hồng Châu, vừa gặp ngày tiệc Đô Đốc ở Hồng Châu là Diêm Bá Tự mở mừng lễ khánh thành việc sửa chữa lại gác Đằng Vương, dự tiệc có hàng nghìn văn sĩ đủ mặt tài giỏi, mấy người rủ Bột cùng vào. Bột bấy giờ mới có chừng 20 tuổi, viên Đô Đốc cho ngồi ở chiếu cuối cùng đám tiệc.  Lúc bữa tiệc đã bắt đầu, Diêm Đô Đốc đưa giấy bút xin các quan khách làm cho bài tựa “Đằng Vương Các” để làm kỷ niệm cho bữa tiệc to tát hiếm có này. Các quan khách không ai dám nhận, có ý nhường cho rể Đô Đốc là tay văn sĩ nổi tiếng. Khi đưa giấy bút đến Bột ở cuối cùng, thì Bột nhận làm ngay. Lúc đầu Diên Đô Đốc thấy Bột còn trẻ quá mà dám nhận làm, ông rất giận, định cho viết mấy câu rồi thu giấy bút không khiến làm nữa. Nhưng khi ông xem mấy câu đầu Bột mới thảo, ông thấy hay, ông đã hơi phục, rồi Bột càng thảo, ông càng chịu là hay. Khi thấy Bột viêt được mấy câu hay quá, ông sửng sốt than khen “thật thiên tài” rồi để yên cho Bột viết xong bài. Khi Bột viết xong, Diêm Đô Đốc khen nức nở, đưa quan khách coi để nhờ sửa lại, thì không ai sửa lại được chữ nào. Thế là nhờ bài tựa này mà tiếng Bột nổi mãi đến bây giờ.
Lời chú thích trên này là tôi theo nhiều bản Kiều lưu hành mà kể như một truyện vui trong giới văn chương để cho độc giả biết một bậc văn tài siêu việt, mới 20 tuổi mà thảo trong chốc lát xong bài Đằng Vương Các Tự dài 843 chữ lưu truyền mãi đến nay là một bài tuyệt diệu. Nhưng thật ra là: lấy câu thơ “thì lai phong tống Đằng Vương các” mà giải thích câu Kiều “Duyên đằng thuận nẻo gió đưa” thì không xác đáng. Tôi thấy bài “Bạch đầu ngâm” của Lý Bạch có những câu này:
[    ] = Thỏ ty cố vô tình (Cây dây thỏ ty vốn trước nó không có tình ý gì cả)
[    ] = Tùy phong nhiệm điên đảo (Nó cứ ngả nghiêng theo gió đưa đi đâu thì đi)
[ 使   ] = Thùy sử nữ la chi (Ai sui khiến cành cây nữ la kia)
[    ] = Nhi lai cưỡng oanh báo (Mà nó đến cố tình ôm cuốn lấy)
Lấy 4 câu này mà giải thích hai câu “Duyên đằng thuận nẻo gió đưa, cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày” thì đúng hơn, được cả “duyên đằng gió đưa” câu trên, và “kết tóc xe tơ” câu dưới. Chữ đằng [] là dây leo lầm ra [] là nước Đằng.
[32] Đen bạc = con người bụng dạ điên đảo, bội bạc, đổi trắng thay đen.
[33] Kiến bò miệng chén hàm ý nói “điều không thể nào tránh thoát ra khỏi tay mình được” – như con kiến bị úp trong miệng cái chén thì còn chạy đi đâu được nữa, người ta mở ra bắt lúc nào chẳng được.
[34] Trông thấy nhỡn tiền = trông thấy ngay trước mắt.
[35] Thăm ván bán thuyền lấy ý ở câu tục ngữ “chưa thăm ván đã bán thuyền” và so sánh thật đúng – chàng Thúc lấy Kiều chưa thật chính thức đủ phép đối với gia đình, mà đã quên vợ cả.
[36] Lòng dặn lòng là Hoạn Thư lúc nào lòng cũng đinh ninh lại dặn nhủ mình rằng phải giữ cho kín đừng hở cho ai biết ý định lừa chồng của mình. Bản Kiều của hai ông Kim, Kỷ in “dặn” là “giận” thành ra câu này có nghĩa “lúc nào lòng nàng cũng giận lòng Thúc Sinh” là điều rất lầm.
[37] Hàn huyên = hỏi han, thăm hỏi sau một thời gian dài xa cách.
[38] Tẩy trần = bữa tiệc đón mừng người đi xa về. Nghĩa đen chữ “tẩy trần” [ ] là rửa cho sạch bụi khi đi đường; nghĩa bóng là rửa cho hết sự mệt nhọc khi đi đường.
[39] Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra – Tục ngữ “Nào có trong lòng nhau ra đâu mà biết?” hàm ý “có vào được trong lòng nhau mà bới tìm được sự bí mật của nhau, thì lúc ra mới biết; còn như không ở trong lòng nhau mà ra, thì biết sao được lòng nhau thế nào?”
[40] Nghĩ đà bưng kín miệng bình = Thúc Sinh nghĩ rằng ta đã giấu kín được việc lấy Kiều, Hoạn Thư không biết chút tăm hơi nào, như bình rượu kia ta đã nút kín không bốc chút hơi nào ra ngoài, thì ta cứ giữ cho thật kín miệng như giữ kín miệng bình rượu.” Hầu hết các bản Kiều nôm hay quốc ngữ dẫn điển câu này ở câu “thủ khẩu như bình” [   ]; câu này thật ra là câu khuyên người ta chớ hay nói, phải giữ miệng cho kín cho im như miệng bình, khác với ý nghĩa ở tình trạng Thúc Sinh lúc này, đáng lẽ phải nói thì lại không nói.
[41] Khảo = tra hỏi.
[42] Rút dây động rừng lấy từ câu tục ngữ “chớ rút dây mà động rừng” có nghĩa đen là khi vào rừng chớ rút những dây leo mà hổ báo ra nguy hiểm lắm, và nghĩa bóng ở đây là sợ nói đến truyện lấy Kiều, thì Hoạn Thư giận dữ lên nguy lắm.
[43] Ngọc đá, vàng, thau – Sách Nho có câu “Vũ phu loạn ngọc” [   ] = Đá vũ phu đẹp lẫn với ngọc” thì ca dao ta có câu “Trách cha trách mẹ trách chàng/ cầm cân chẳng biết rằng vàng hay thau/ thật vàng chẳng phải thau đâu/ đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng.” Ý câu Hoạn Thư nói này là “vợ chồng chúng ta đã tin nhau lắm rồi, chẳng còn chút ngờ lòng nhau là thật hay là giả dối nữa.”
[44] Nói xuôi đỡ đòn = theo ý nàng mà nói xuôi một chiều đi cho xong lần, đỡ để nàng ngờ vực điều gì mà tra hỏi lôi thôi.
[45] Thú quê thuần hức bén mùi – Thú quê = sở thích có ở nơi quê nhà mình.Thuần [] = thứ rau mọc dưới nước về mùa thu, nấu canh rất ngon. Hức = thứ cá ăn gỏi rất ngon. Câu này dùng điển tích Trương Hàn [ ] đời Tấn. Hàn quê ở đất Ngô Trung vào làm quan ở Lạc Dương, thấy gió thu thổi, nhớ đến canh rau thuần, gỏi cá lô, bảo mọi người rằng: “Người ta sống trên đời quý nhất là được thích chí mình, hơi đâu làm quan xa để cầu tiếng hão huyền.” Ý câu này nói Thúc Sinh thấy cảnh thu, thương nhớ đến Kiều.
[46] Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô – Giếng vàng do chữ “kim tỉnh” [金井] dịch ra. Xưa có cái giếng về mùa thu thì nước trong màu vàng, nên gọi là kim tỉnh. Văn sĩ đời sau hay dùng chữ kim tỉnh làm điển tả mùa thu. Cổ thi có câu “Ngô đồng nhất diệp lạc/ thiên hạ cộng tri thu [        ] = Cây ngô đồng rụng một lá, người thiên hạ cùng biết là mùa thu đến.” Câu Kiều này lấy điển ở câu thơ đó.
[47] Quan tái – Quan [] = cửa ải. Tái [] chỗ bờ cõi xa. Quan tái = nơi cửa ải ở chỗ biên thùy xa xôi. Câu này nói cảnh đi đường nơi xa lạ, hết nơi lạ nọ đến nơi lạ kia.
[48] Mây bạc = mây trắng do chữ “bạch vân” [ ] dịch ra, với hàm ý là nơi cha mẹ ở.
[49] Thần hôn [ ] = sớm tối thăm hỏi cha mẹ. Kinh Lễ dạy: Con nuôi cha mẹ già, sáng sớm dậy phải đến chào hỏi cha mẹ xem đêm ngủ có ngon giấc không, có mơ thấy sự vui buồn gì không. Tối đi ngủ phải đến chào hỏi cha mẹ xem ngày ăn có ngon không, có gặp sự gì phải buồn bực không?
[50] Đáy nước in trời tả cảnh đi đường trên bờ sông hồ, thấy bóng trời mây in ở dưới nước long lanh thật đẹp, và vì lòng chàng vui, nên cảnh càng đẹp.
[51] Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng tả cảnh đi đường: buổi sớm thì thấy khí sương mù kết thành bức mây thành màu biếc ở chân trời, buổi chiều thì thấy bóng nắng vàng chiếu xuống như phơi màu vàng ở sườn núi. Bản Kiều của hai ông Kim Kỷ giảng “non phơi bóng vàng” là “lá cây trên rừng trông vàng úa cả” thật là vu vơ.
[52] Roi câu – Câu [] = con ngựa non đẹp.
[53] Xe hương = xe lịch sự của đàn bà đi thời cổ. Đường Thi có câu “du bích hương xa bất tái phùng” [      ] = “không gặp lại cái xe thơm ngoài sơn dầu bóng nữa.”
[54] Quy ninh – Đàn bà đã lấy chồng, khi về thăm cha mẹ gọi là quy ninh (về thăm hỏi cha mẹ có được vui không).
Diễn ra văn xuôi
Câu 1473, 1474 = Chàng nàng mải vui những cuộc chơi phong nhã như uống rượu buổi sớm, đánh cờ buổi trưa, mà quên cả ngày tháng, rồi bỗng thấy đào mùa xuân đã tàn hết hoa, sen mùa hè nẩy lá non xanh rờn.
Câu 1475, 1476 = Một đêm nọ, nhân khi thong thả, trong buồng vắng vẻ, Kiều nghĩ đến nông nỗi đáng lo ngại cho mình, mới bày tỏ cho Sinh nghe mọi nỗi tâm tình hoặc đáng lo cho riêng nàng, hoặc đáng lo cho cả đôi.
Câu 1477, 1478 = Nàng nói: Từ khi phận gái này được nên duyên theo chàng về đây, bây giờ đã thắm thoắt hết xuân sang thu, gần đầy một năm rồi.
Câu 1479, 1480 = Thế mà tin tức ở quê nhà Vô Tích càng ngày càng bẵng đi, không thấy chút tin tức nào về việc chàng nặng tình với vợ lẽ quá và nhạt tình quá với người vợ cả tình nghĩa cũ càng như vậy ?
Câu 1481, 1482 = Cái sự tin tức vắng bẵng này nghĩ ra thật đáng nên để ý, vì việc đôi ta lấy nhau này, chắc không ai người ta giữ kín cho ta, thể nào vợ cả cũng biết, vậy mà sao lại im đi được như thế?
Câu 1483, 1484 = Tôi nghe nói bà ấy không vừa, ăn ở thì nghiêm trang đúng vào khuôn phép lễ độ, mà nói năng thì lời lẽ đâu ra đấy, đúng thể thống trên ra trên, dưới ra dưới.
Câu 1485, 1486 = Tôi rất e sợ bụng dạ những hạng người phi thường đáo để ấy, vì tâm cơ họ hiểm sâu như rốn bể như đáy sông, không dễ mà dò xét, mà đoán chừng được.
Câu 1487, 1488 = Chúng ta lấy nhau đã ròng rã một năm giời rồi, chắc không thể nào giấu xong được.
Câu 1489, 1490 = Thế mà bấy lâu nay, bà ấy vẫn giữ kín không cho chúng mình biết chút phản ứng lành dữ thế nào. Hoặc giả trong sự lặng lẽ kín đáo đó, có sự cơ mưu bất trắc nào chăng?
Câu 1491, 1492 = Vậy chàng nên liệu kíp về nhà ngay đi, trước để đẹp lòng bà cả, sau là để biết tình ý bà ấy thế nào.
Câu 1493, 1494 = Nếu cứ ngày đêm lúc nào cũng lo giấu quanh giấu quẩn, nay lần mai lữa mãi như bây giờ, thì hình như tình trạng này chẳng bao giờ được trôi chảy hả hê cả.
Câu 1495, 1496 = Sinh nghe lời nàng thong dong khuyên nhủ cũng đành tình xa nàng mà quyết lòng sắp sửa hành trang về thăm quê nhà.
Câu 1497, 1498 = Sáng hôm sau, chàng dậy sớm sang nói với cha, thì Thúc ông cũng vội giục chàng về thăm quê.
Câu 1499, 1500 = Sau một bữa tiệc tiễn nhau lúc sắp đi xa, thế là đương cảnh vui sum họp ở Xuân đình đã bước sang cảnh từ giã buồn nhớ ở Cao đình.
Câu 1501, 1502 = Ngắm cảnh bước đường sắp đi thật là quá buồn: nào là dưới sông thì nước chảy xanh xanh, nào là trên bờ đê thì những cành dẫy liễu lôi thôi, rũ xuống làm vướng vít lòng người lúc chia rẽ nhau.
Câu 1503, 1504 = Chén rượu rót để mời tiễn nhau lúc chia rẽ nâng lên rồi lại dùng dằng ngừng lại, những lời muốn nói để từ giã nhau thì thổn thức nghẹn lại không nói ra được.
Câu 1505, 1506 = Nàng đinh ninh dặn kỹ chàng rằng: Chàng về rồi, thiếp ở nơi xa xôi cách biệt bao lần sông núi này, chàng nên nhớ rằng chàng phải làm thế nào cho tình thế đối với bà cả ở trong nhà bên đó có được êm ấm, thì tình thế của thiếp ở bên ngoài này mới được yên ổn êm ả.
Câu 1507, 1508 = Sự tình đôi ta thế nào trước sau cũng hở thôi. Tục ngữ có câu Giẩu kim bọc rẻ có ngày thò ra – cái kim nhỏ, bọc dẻ to, giấu kín thế mà còn có ngày hở ra, huống chi cái việc chúng mình lấy nhau nó to tát lộ liễu thế thì kín mãi thế nào được! Vậy xin chàng chớ giấu nữa, chớ như kẻ bưng mắt bắt chim, tưởng là mình không trông thấy chim, thì chim nó cũng không trông thấy mình. Chúng ta cũng chớ lầm tưởng coi như mình không biết truyện mình, thì người ta cũng không biết, để lừa dối người ta. Cái sự tự dối mình để dối người như thế thật khó lòng làm được lắm.
Câu 1509, 1510 = Vậy xin chàng khi về đến nhà, trước hết phải nói sòng ngay trước mặt cho bà ấy biết rõ ràng hẳn hoi truyện chàng lấy thiếp, không giấu giếm chút nào.
Câu 1511, 1512 = Dù cho bà ấy bất kỳ nổi sóng gió giận dữ, đem cái quyền vợ cả mà ra oai với thiếp thế nào nữa, thiếp cũng đành chịu cái phận lẽ mọn của thiếp là xong.
Câu 1513, 1514 = Còn hơn là điều cứ giấu ngược giấu xuôi mãi, để rồi mang lấy cái tai vạ to tầy trời về sau.
Câu 1515, 1516 = Chàng có thương nhau thì phải nhớ lời đinh ninh dặn dò của nhau. Một năm xa nhau tuy lâu, nhưng cũng chẳng lâu là bao nhiêu, rồi ta sẽ lại gặp nhau.
Câu 1517, 1518 = Xin chàng nhớ chén rượu tiễn chàng vào bữa hôm nay, và thiếp xin đợi nâng chén rượu đón mừng chàng vào bữa đúng hôm này sang năm.
Câu 1519, 1520 = Thế là một người thì co tay cương lên ngựa, một người thì buông vạt áo chồng ra mà nhìn theo. Cảnh rừng phong đỏ ửng sắp điêu tàn, mùa thu đã nhuộm một màu buồn cho những ngọn núi xa xăm mà nàng tưởng tượng chàng sẽ phải vượt qua.
Câu 1521, 1522 = Nàng trông theo thấy chàng đi đến đâu thì vó ngựa làm bay bụi đỏ ở đường đến đó. Nàng nhìn mãi cho đến lúc chàng đi khuất bóng vào ngàn dâu xanh.
Câu1523, 1524 = Thế là người thì về đêm đêm thức lẻ loi một mình suốt năm canh; người thì ngày ngày đi một mình ở trên đường xa xôi muôn dặm.
Câu 1525, 1526 = Ôi! Cái vầng trăng kia, ai sẻ nó ra làm đôi vậy, mà một nửa thì soi chiếc gối lẻ loi của người vợ, một nửa thì soi con đường xa thẳm của người chồng?
Câu 1527, 1528 = Thôi hãy xếp lại, kể chi mãi cái nông nỗi của chàng ở dọc đường! Và này đây, hãy kể rõ nông nỗi của người vợ cả chủ trương mọi việc, trong buồng ở quê nhà Vô Tích.
Câu 1529, 1530 = Nàng là con gái một nhà danh giá họ Hoạn, con quan Lại Bộ, và tên là Hoạn Thư.
Câu 1531, 1532 = Thuận theo duyên trời sớm sủa đưa lại, nàng kết duyên cùng chàng từ lâu rồi.
Câu 1533, 1534 = Kể về đường ăn ở cư xử bề ngoài đối với chồng, thì tính nết nàng cũng hay, nói năng lễ độ, chiều chuộng ân cần, nhưng kể đến điều cơ mưu trong lòng nàng để giàm miệng và buộc tay chồng, thì nàng cũng già tay lắm. Khi trò chuyện thì khéo đón trước chặn sau, để cho chồng không nói được câu nào ngoài ý muốn nàng; khi ghen tuông thì khéo dùng mưu cơ để giữ chồng, để như trói buộc tay chàng lại không dám bênh vực được chút nào tình địch của nàng.
Câu 1535, 1536 = Từ khi nàng mảng tin chồng lấy vợ lẽ, miệng người ta đồn đã nhiều, mà chẳng được tin tức gì ở nhà Lâm Truy gửi về nói đến việc này cả.
Câu 1537, 1538 = Nàng càng nén lòng nhịn đi, thì lại chỉ càng thêm tức giận, chẳng khác mớ lửa lòng càng dập đi, thì nó lại càng bùng to lên. Nàng trách chồng đã là kẻ bội bạc điên đảo, lại ra người trăng hoa hư hỏng.
Câu 1539, 1540 = Nàng nghĩ bụng: Ví thử hắn biết điều, cứ thú thực cùng ta hẳn hoi, thì làm gì ta chẳng biết lấy lượng rộng rãi mà bao dung kẻ dưới, cho xứng đáng là người trên.
Câu 1541, 1542 = Ta có dại gì mà chẳng giữ lấy nền nếp, đứng đắn, đàng hoàng, vì nào có hay dưng gì mà rước lấy tiếng ghen tuông vào mình cho người ta chê cười!
Câu 1543, 1544 = Nhưng mà anh ta không biết điều, lại cứ bưng bịt, giấu quẩn giấu quanh, giở những thói trẻ ranh ra mà đối đãi với ta, rõ thật là nực cười!
Câu 1545, 1546 = Được rồi! Ta đã tính nhân cuộc cách mặt khuất lời này, hắn đã giấu ta, thì ta cũng tìm cách giấu lại cho coi!
Câu 1547, 1548 – Chà! Lo gì việc ấy mà chả báo thù được nhau! Rõ như con kiến đã úp ở trong miệng chén rồi, thì bò đi đâu cho thoát được nữa đây?
Câu 1549, 1550 = Ta sẽ làm cho hai đứa gặp nhau mà chẳng dám nhìn nhau! Ta sẽ làm cho cả hai đều nhục nhã đầy đọa, không sao cất đầu lên được!
Câu 1551, 1552 = Ta sẽ làm cho chúng trông thấy ngay trước mắt cái vạ về cuộc giấu bịt ta này. Và nhất là cho cái anh mới thăm ván đã bán thuyền này biết rõ tay ta!
Câu 1553, 1554 = Nàng quyết định lập tâm như thế, rồi nàng giữ kín mưu cơ, nông nỗi trong lòng nàng, không hở cho ai biết. Ai nói gì đến việc chồng lấy vợ lẽ này, nàng để ở ngoài tai hết, như gió qua ngoài mái tai vậy.
Câu 1555, 1556 = Mươi hôm sau bỗng có hai người đến mách truyện này với nàng, ý muốn tâng công lấy lòng nàng.
Câu 1557, 1558 = Nàng liền nổi giận đùng đùng mà quát: Gớm cho những quân thêu dệt ra truyện để trêu người này.
Câu 1559, 1560 = Chồng tao đứng đắn, chứ nào có phải như ai đâu ! Điều này rõ ràng là chúng bay bịa đặt ra để chê bai chồng tao đó!
Câu 1561, 1562 = Rồi nàng liền sai bọn người nhà đem hai người đó ra, người thì bị vả miệng, người thì bị bẻ răng.
Câu 1563, 1564 = Thế là từ đó mọi người trong ngoài giữ kín miệng như bưng, chẳng còn ai dám nói năng một lời nào về truyện chàng lấy giấu vợ lẽ nữa.
Câu 1565, 1566 = Và nàng thì khuya sớm lúc nào cũng một vẻ thảnh thơi ở buồng, khi ra khi vào gặp ai cũng một mực cười nói vui vẻ như không có chuyện gì bận tâm.
Câu 1567, 1568 = Trong khi tiểu thư ngày đêm lúc nào lòng cũng nhủ lòng là phải giữ cho kín nỗi lòng như thế, thì Thúc Sinh đã về đến nơi xuống ngựa ở trước cửa buồng.
Câu 1569, 1570 = Tiểu thư chào đón niềm nở, rồi nào là câu chuyện tỏ lòng nhớ nhung khi xa cách, vui mừng khi gặp mặt, nào là lời hỏi thăm chúc mừng sức khỏe, rõ thật là chữ tình càng thêm mặn mà, chữ duyên càng thêm nồng đậm. (Hai chữ “càng” ở câu này thật hay, tả được đủ nỗi giả dối trong lòng và vẻ giả dối ngoài mặt của tiểu thư để giữ kín cơ mưu lừa chồng, cho chàng trước càng muốn thú thật bao nhiêu, sau càng giấu kín bấy nhiêu).
Câu 1571, 1572 = Nàng ung dung đặt tiệc tẩy trần, và ngoài thì vẫn vui vẻ uống rượu với chàng, nhưng nỗi căm giận trong lòng nàng thì nào ai có ở trong đó ra đâu mà biết được!
Câu 1573, 1574 = Chàng về để xem ý tứ nàng ra sao, cũng nhiều lúc chàng muốn nhân dịp lân la bày tỏ sự tình của mình cho nàng biết rõ.
Câu 1575, 1576 = Nhưng thấy nàng khi tỉnh khi say trong bữa tiệc, cười cười nói nói, chẳng đụng chạm chút nào đến việc chàng muốn nói, để chàng không có dịp nào mà nói.
Câu 1577, 1578 = Chàng nghĩ bụng: Thế là quả nhiên việc này mình đã bưng bít được thật kín, nàng không biết chút tăm hơi nào cả cũng như bình rượu đã đóng nút thật kín, không bốc chút hơi nào ra ngoài. Nàng đã không tra khảo đến, thì tội gì mình lại tự nhiên xưng ra?
Câu 1579, 1580 = Bởi chàng nghĩ thế, nên phần thì chàng e ấp dùng dằng mãi, rồi thôi đi không nói gì đến chuyện đó nữa; phần thì chàng e ngại bỗng dưng nói ra sợ nàng nổi ghen giận dữ lên, có khác nào như rút dây làm động rừng cho hổ báo nó nhào ra thì thật nguy khốn tránh sao được! (Thế là chàng đã mắc mưu “giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho” của Hoạn Thư, mà quên hẳn lời Kiều đinh ninh dặn dò “đến nhà trước vội nói sòng cho minh!”).
Câu 1581, 1582 = Hoạn Thư đã không để cho Thúc Sinh có dịp nói về việc đã lấy Kiều; lại còn khéo dùng lời hể hả để chặn họng chàng trước cho chàng không dám nói nữa; nhân khi vui chuyện mua cười, nàng lại khéo giở những câu vui vu vơ như vô tình ra mà nói để giàm bịt miệng chàng: Hai vợ chồng ta ở với nhau thật là hết lòng thành thật, không còn ngờ nhau chút nào là vàng hay thau, ngọc hay đá nữa. Chúng ta đã tin nhau đủ mười phần mười như vậy.
Câu 1585, 1586 = Thế mà thật đáng khen cho những kẻ mồm miệng dông dài, dám đặt ra những chuyện bướm ong kia nọ để chê cười chàng là lẳng lơ mê gái, lấy vợ lẽ giấu ở Lâm Truy, phụ tình với thiếp.
Câu 1587, 1588 = Thiếp tôi tuy vụng dại ngu dốt, chẳng biết suy nghĩ gì thật, nhưng thừa biết là chẳng khi nào chàng lại nỡ phụ thiếp như thế, nên thiếp chẳng thèm nghĩ gì đến chuyện ấy cho dơ bẩn cả lòng, và chỉ tổ cho người ta cười, làm mang tiếng cho cả hai vợ chồng.
Câu 1589, 1590 = Chàng thấy tiểu thư thủng thỉnh vui vẻ nói như chơi thế thôi, nên chàng cũng theo y lời nàng mà nói đưa đẩy mấy lời cho xuôi đi một chiều để khỏi sinh ra chuyện gì lôi thôi mà mình phải chống đỡ.
Câu 1591, 1592 = Thế là vợ chồng một mực vui hòa, cười phấn cợt son với nhau – khi thì ngồi bên nhau mà ngắm trăng tròn ở trước hiên, khi thì chuyện vui với nhau chung bóng một ngọn đèn khuya trong buồng.
Câu 1593, 1594 = Mùa thu năm trước, chàng từ biệt Kiều về Vô Tích, thắm thoát đã lại đến mùa thu năm nay, một vài lá ngô đồng đã lác đác rụng, và nước giếng đã hóa màu thu trông vàng vàng. Chàng thấy mùa thu lại đến, chàng lại nhớ cảnh mùa thu êm đềm trước với Kiều ở Lâm Truy cũng như Trương Hàn xưa kia thấy hơi thu đến lại nhớ canh rau thuần, gỏi cá hức là những món ăn đầy thú vị, đầy tình cảm ở nơi quê nhà.
Câu 1595, 1596 = Thấy thu lại đến, chàng còn nhớ đến cảnh xông pha bước giang hồ mùa này năm ngoái để về Vô Tích, và những tiếc mấy mùa cảnh đẹp gió mát trăng thanh năm nay, chàng đã phải vui gượng với Hoạn Thư, nhưng lòng lúc nào cũng vẫn một niềm nhớ buồn bơ vơ như bị đày đọa ở nơi quan ải.
Câu 1597, 1598 = Tình riêng nhớ nhung muốn đi Lâm Truy đó, chàng chưa dám hé môi ra nói với ai, thì Hoạn Thư đã biết trước và đè chừng dò hỏi mà bảo chàng rằng:
Câu 1599, 1600 = Chàng về đây đã xa cách nơi cha ở đằng đẵng một năm trời rồi, thì nên liệu đi Lâm Truy mà sớm tối chăm nom cha già cho phải đạo.
Câu 1601, 1602 = Được lời nàng bảo, chàng vui mừng hớn hở, như được cởi mở tấc lòng ra, và liền lên ngựa xông pha nơi quê người ra đi ngay.
Câu 1603, 1604 = Cảnh đi đường hồi này, chàng cảm thấy rất đẹp – nơi thì thấy nước trong long lanh, bóng trời mây in xuống đáy nước sông hồ; nơi thì thấy khói mây buổi sớm như xây nên bức thành phẳng biếc ở trước mắt; nơi thì thấy ánh nắng buổi chiều chiếu xuống làm cho núi non  như vàng phơi một lượt.
Câu 1505, 1506 = Chàng vừa lên ngựa quất roi ra đi nơi đường dài, thì nàng cũng lên chiếc xe thơm đẹp của đàn bà, thẳng đường về thăm cha mẹ nàng.
Các câu và chữ có ý móc nối hay châm biếm:
– Kiều lo ngại sao mà “Tin nhà ngày một vắng tin” móc nối với câu Hoạn Thư nói “Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho” và câu vì Hoạn Thư ra oai bịt miệng mà “Trong ngoài kín mít như bưng/ nào ai còn dám nói năng một lời.”
– Câu Kiều đinh ninh dặn Thúc Sinh “Đôi ta chút nghĩa đèo bồng/ đến nhà trước phải nói sòng cho minh/ dù khi sóng gió bất bình/ lớn ra oai lớn, tôi đành phận tôi” móc nối với những câu “Nghĩ là bưng kín miệng bình/ nào ai đã khảo mà mình lại xưng/ những là e ấp dùng dằng/ rút dây sợ nữa động rừng thì sao?”
– Câu Kiều lo “E thay những dạ phi thường/ dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông” móc nối thật đúng với mưu sâu thâm độc của Hoạn Thư “Làm cho nhìn chẳng được nhau/ làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên/ làm cho trông thấy nhãn tiền/ cho người thăm ván bán thuyền biết tay!”
– Câu “Mặn tình cát lũy nhạt tình tào khang” để tả lòng Kiều tử tế với chồng – chỉ lo chồng mang tiếng phụ bạc – đối ngược lại với câu “Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng” để tả lòng điên đảo giả dối của Hoạn Thư chỉ tìm cách lừa chồng sa vào cạm bẫy ghen tuông của mình.
– Câu “Trạnh lòng nhớ cảnh giang hồ/ một niềm quan tái mấy màu gió trăng” tả Thúc Sinh tuy ở gần Hoạn Thư – nhưng vẫn thờ ơ buồn nhớ như ở nơi quan tái – cùng một ý với câu tả cảnh Kiều ở lầu xanh “Thờ ơ gió trúc mưa mai/ Ngẩn ngơ trăm mối dùi mài một thân.”
– Tâm tính Thúy Kiều trái với tâm tính Hoạn Thư. Kiều thì thành thật, khôn biết đủ điều; những lời Kiều khuyên bảo Thúc Sinh đều do lòng quý chồng, mong chàng ăn ở phải đạo, không chút cậy yêu ghen ngược. – Hoạn Thư thì điêu bạc, khôn ngoan đủ đường, những lời nàng nói với Thúc Sinh đều giả dối, khinh chồng như trẻ con, và lừa chồng vào vòng khổ nhục, để hả lòng thù ghen.
– Khi Kiều lấy lòng thành khẩn khuyên Thúc về Vô Tích thì Thúc cảm tình Kiều mà phải “Đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang”; rồi trước khi ra đi lại có tiệc tiễn biệt đầy tình cảm nhớ nhung tha thiết “Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời”; và khi Thúc lên ngựa đi rồi, Kiều còn trông theo cho đến khi khuất bóng. – Khi Hoạn Thư đem lòng quỷ quyệt lấy lời hiếu nghĩa khinh bạc mà giục Thúc đi Lâm Truy thì Thúc “Được lời như cởi tấm son” và “Vó câu thẳng ruổi nước non quê người” ngay, Hoạn Thư cũng chẳng bầy tiệc tiễn; và khi chàng đi rồi, thì nàng cũng lên xe về bàn với mẹ thi hành cuộc rẽ thúy chia loan.
– Cảnh đi đường về Vô Tích thì đầy buồn nhớ “Vừng trăng ai xẻ làm đôi / nửa in đáy nước nửa soi dặm trường” – Cảnh đi đường lúc về Lâm Truy, thì vì chàng vui nên thấy nước non đều tươi đẹp “Long lanh đáy nước in trời/ thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.”
CHƯƠNG 18
CÂU 1607 ĐẾN CÂU 1704
“Bắt người tráo xác, nhờ khách tìm hồn”
1607. Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
1609. Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen, [1]
Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
1611. Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày. [2]
1613. Lâm Truy đường bộ tháng chầy, [3]
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
1615. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, [4]
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về. [5]
1617. Làm cho: cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
1619. Trước cho bõ ghét những người,
Sau cho để một trò cười về sau.
1621. Phu nhân khen chước rất mầu, [6]
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
1623. Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang. [7]
1625. Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang bến Tề. [8]
1627. Nàng từ chiếc bóng song the, [9]
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
1629. Bóng đâu đã xế ngang đầu, [10]
Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi. [11]
1631. Tóc thề đã chấm ngang vai, [12]
Nào lời non nước nào lời sắt son.
 1633. Sắn bìm chút phận cỏn con, [13]
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng, [14]
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ sao? [15]
1637. Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời. [16]
1639. Nén hương đến trước Phật đài,
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
1641. Dưới hoa dậy lũ ác nhân, [17]
Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra. [18]
1643. Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645. Thuốc mê đâu đã rưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
1647. Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
1649. Sẵn thây vô chủ bên sông, [19]
Đem vào để đó lộn sòng ai hay? [20]
1651. Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình. [21]
1653. Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
1657. Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu!
1659. Hất hơ, hất hải nhìn nhau,
Giếng sâu bụi rậm, trước sau tìm quàng.
1661. Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
1663. Tình ngay ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
1665. Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
1667. Di hài nhặt sắp về nhà, [22]
Nào là khâm liệm nào là tang trai. [23]
1669. Lễ thường đã đủ một hai,
Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ. [24]
1671. Bước vào chốn cũ lầu xưa,
Gio than một đống, nắng mưa bốn tường.
1673. Sang nhà cha tới trung đường, [25]
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên. [26]
1675. Hỡi ôi hỏi hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan!
1677. Gieo mình vật vã khóc than:
“Con người thế ấy thác oan thế này.
1679. Chắc rằng mai trúc lại vầy,
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!” [27]
1681. Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,
Dễ ai rấp thảm, quạt sầu cho khuây.
1683. Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền. [28]
1685. Trên tam đảo, dưới cửu tuyền, [29]
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
1687. Sắm sanh lễ vật đón sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
1689. Đạo nhân phục trước tĩnh đàn, [30]
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương. [31]
1691. Trở về minh bạch nói tường:
“Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra.
1693. Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho!
1695. Mạnh cung đang mắc nạn to, [32]
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
1697. Hai bên giáp mặt chìn chìn, [33]
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!”
1699. Điều đâu nói lạ dường này,
Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
1701. Chẳng qua đồng cốt quàng xiên, [34]
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703. Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
Đính chính và xác định:
Câu 1639 – Nén hương đến trước Phật đài – Nghĩa câu này rất thông thường: Kiều lo ngại nên đến trước bàn thờ Phật để khấn Phật phù hộ cho duyên được vuông tròn. Nhưng vì các bản nôm thường khắc chữ Phật [] là [], rồi lại có bản khắc bỏ nửa [] bên trái, chỉ còn nửa bên phải là [] (thiên = trời). Bản Kiều ông Trần Trọng Kim theo đó mà cải chính phật đài [ ] là thiên đài [ ]. Đó là sự lầm quá đáng của ông Kim. Phép vua Tàu, vua ta, chỉ có vua (thiên tử) mới được cúng Trời ở đền Nam Giao, chứ dân đâu được lập đền thờ Trời.
Câu 1671 – Bước vào chốn cũ lầu xưa – Chữ “lầu xưa” câu này có bản in là “lầu thơ”, lại có bản in là “lầu thư”, chắc là ông nào đổi ra thế cho đúng với chữ “phòng đào viện sách” ở trên, nhưng e câu nệ quá và nghe không được thanh thoát tự nhiên bằng “chốn cũ lầu xưa.”
Câu 1693 – Người này nặng nghiệp oan gia – Có bản in là “Người này nặng kiếp oan gia.” Chữ “nghiệp” ăn nghĩa với chữ “oan gia” hơn là chữ “kiếp”, và đọc lên nghe âm điệu cũng êm tai hơn.
Câu 1697 – Hai bên giáp mặt chìn chìn – Giáp mặt chìn chìn là giáp mặt nhau gần gận quá, gần như hai mặt đụng vào nhau. Hai chữ “chìn chìn” nôm viết là [ ] (nguyên âm chữ Hán là “chiền chiền”), nên nhiều người đọc trạnh “chìn chìn” ra “chiền chiền.” Cần phải đính chính lại cho đúng.
Câu 1704 – Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên – Có bản in câu này là “Thân mà dễ lấy mấy lần gặp tiên”, âm điệu đã không êm tai, mà nghĩa lại rất không chạy.
Chú thích và dẫn điển:
[1] Ngứa ghẻ hờn ghen – Tục ngữ thường nói “Ngứa như ngứa ghẻ, đòn như đòn ghen” nghĩa là ghẻ ngứa thì gãi không chán tay, cơn ghen nổi lên thì đánh không mỏi tay, nhất là vợ cả ghen vợ lẽ. Câu này lấy ý ở lời tục ngữ đó.
[2] Rấp ranh = Sắp sửa định liệu đã lâu
[3] Lâm Truy – Hai đường đi, thủy hay bộ, từ Vô Tích đi Lâm Truy đều xa bằng nhau, nhưng đi bộ phải nghỉ đêm, còn đi thuyền thì không nghỉ đêm, nên coi như gần hơn.
[4] Dọn = Dẹp hết các đồ đạc không cần trong thuyền đi, cho chở được lanh lẹ. Gia nhân = tôi tớ trong nhà.
[5] Dây xích = Cái dây để buộc chân lại, như cái xích, cho khỏi trốn. Đây dùng ý nói đi bắt về giữ lại, chứ không phải dùng dây buộc chân lại thật. Lắm nhà xuất bản truyện Kiều không hiểu ý nói bóng ấy, dám đổi chữ “dây xích” này ra “dây tói”, “dây thắm”, “dây trói” nghe thật đáng cười.
[6] Phu nhân = Hoạn Bà, mẹ đẻ Hoạn Thư. Chước rất màu = Mưu rất hay.
[7] Côn quang = Hạng người côn đồ, trộm cướp – nguyên chữ Hán là “quang côn” [ ], tiếng Việt nay gọi là “du côn.”
[8] Thuận phong một lá = Kéo buồm thuyền giương lên chỉ một lần, rồi thuận gió một chiều mà đi, rất thuận lợi. Bến Tề = Lâm Truy, kinh đô nước Tề đời Chiến Quốc.
[9] Chiếc bóng song the = Ở một mình trong phòng, lúc nào cũng ngồi buồn bã ở trong cửa sổ ngoài che màn the.
[10] Bóng dâu đã xế ngang đầu – Câu này ý nói cha mẹ tuổi già như mặt trời buổi chiều đã xế xuống ngang đầu trên ngọn dẫy dâu trồng ở phía tây nhà để che nắng buổi chiều. Chữ “dâu” nói ở đây là loài dâu bụt (hay dâm bụt), chữ Hán là [ ] tang du. Câu này lấy điển ở câu “Nhật lạc tang du [   ] = Mặt trời xế xuống ngọn dẫy dâu bụt.”
[11] Ấm lạnh ngọt bùi – Kinh Lễ dạy: “Con nuôi cha mẹ, mùa đông phải lo cho cha mẹ được ấm, mùa hè phải lo cho cha mẹ được mát, phải có miếng ngọt miếng bùi cho cha mẹ ăn được ngon miệng.” Ý hai câu này là Kiều rất ân hận đã không được chăm nuôi cha mẹ lúc tuổi già để báo hiếu.
[12] Tóc thề đã chấm ngang vai = Chỗ chân món tóc nàng cắt để thề với Kim Trọng, bây giờ đã mọc lại dài xuống đến vai rồi. Câu này (1631) và câu theo sau cho thấy Kiều rất ân hận vì nỗi số phận khiến nàng không lấy được Kim Trọng mặc dù đã thề cẩn thận với chàng.
[13] Sắn bìm = Phận vợ lẽ như dây sắn dây bìm bám ở dưới gốc cây to tượng trưng cho vợ cả. Điển này lấy từ câu trong Kinh Thi “Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi [     纍累 ] = Đất Thiệu Nam có cây to gốc cong, dây sắn dây bìm leo bám được gốc cây ấy” để khen bà Hậu Phi vợ vua Văn Vương biết cúi mình xuống bao dung các vợ lẽ của vua.
[14] Thân sao nhiều nỗi bất bằng = Những nông nỗi oan khổ mà số mệnh bắt nàng phải chịu, khiến lòng nàng lúc nào cũng ân hận lo buồn không yên tĩnh. Những nỗi đó gồm (a) không được ở gần cha mẹ để săn sóc báo hiếu; (b) không lấy được Kim Trọng để khỏi mệnh bạc; (c) nay đành cam phận lẽ mọn mà còn lo chưa chắc đã được; (d) và sau này lại còn phải lo sợ đủ đường về bà vợ cả nham hiểm.
[15] Liệu như cung Quảng ả Hằng nghĩ sao? – “Liệu” = Lo tính toán trước. “Cung Quảng” = Quảng Hàn điện mênh mông lạnh lẽo ở trên mặt trăng. “Ả Hằng” = Nàng Hằng Nga. Truyện thần tiên xưa kể rằng Hậu Nghệ được bà tiên Tây Vương Mẫu cho gói thuốc bất tử; vợ Nghệ là Hằng Nga uống trộm rồi trốn bay lên mặt trăng ở điện Quảng Hàn. Đọc lại câu Kiều đắn đo muốn từ hôn với Thúc Sinh trước – “Vả trong thềm Quế cung Trăng/ chủ trương đành đã chị Hằng ở trong” – thì biết đích “ả Hằng” ám chỉ Hoạn Thư. Tác giả dùng “cung Quảng” để thêm ý nói Hoạn Thư bị chồng bỏ lửng ở buồng không Vô Tích suốt một năm. “Nghĩ sao” = nghĩ ra làm sao. Nghĩa cả câu này là “Ta rất khó liệu tính trước được cái bà vợ bị chồng bỏ lửng vì ta này sẽ nghĩ cách đối phó với ta ra sao, ta nghĩ còn rất nhiều nỗi bất bằng, người này sẽ gây nhiều điều rất ghê gớm cho ta nữa.”
Nhân tiện, theo ý những câu Kiều bảo Thúc Sinh lúc trước (từ câu 1343 “Vẽ chi chút phận bèo mây” đến câu 1358 “Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng”) tôi xin diễn giải rộng ra cho rõ ràng ý lo nghĩ của Kiều lúc đó đối với Hoạn Thư như sau:
Ta chắc rằng cái người đàn bà ghen giận ta này chẳng sao bao dung ta được. Nếu chàng vững tay binh vực ta được, thì ta còn đỡ khổ. Nếu chàng sợ vợ, thì ta thật khổ nhục đủ đường, chịu sao nổi những ngón đòn ghen thâm độc, ta liệu tránh sao cho được? Nhưng đó chỉ là cái khổ kiếp này, chết là hết; chứ nếu chàng lại thẳng tay bội bạc bỏ lửng hẳn vợ cả, chỉ yêu riêng ta, thì cái tội ta cướp chồng đó, kiếp sau ai chịu thay ta?
[16] Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời – Trước khi dẫn điển và giải nghĩa câu này, tôi xin giới thiệu qua về chòm ba sao: Đó là ba ngôi sao to sáng đều nhau, lại đứng thẳng hàng gần nhau, cách quãng rất đều, thành chòm sao đẹp nhất trong bầu trời. Chòm ba sao này ta gọi là “Sao Ba”, thiên văn Tàu gọi là “Sao Tâm “[] và tức là ba ngôi sao đứng thành cái đai lưng chòm sao cầm kiếm mà ta vẫn dùng làm đích để ngắm hướng. Ngôi Sao Ba này lúc nửa đêm dạo tháng tám, tháng chín đứng ở giữa trời ta trông thấy rất rõ.
Ý nghĩa câu “Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời” lấy điển ở bài thơ khuyến thiện của thi sĩ Trần Đoàn [ ] đời Tống như sau:
[       ] = Hữu tâm vô tướng, tướng tức tâm sinh = Có lòng mà không có tướng, tướng sẽ theo lòng mà sinh ra.
[       ] = Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt = Có tướng mà không có lòng, tướng sẽ theo lòng mà tiêu diệt.
[    ] = Tam điểm như tinh tượng = Tướng ngoài sáng đẹp như hình Sao Ba.
[    ] = Hoành câu bán nguyệt tà = Mà trong lòng thì độc ác như trăng lưỡi liềm nằm ngang ở dưới.
[    ] = Phi mao tòng thử đắc = Khi bới lông xem tướng ai, thì cứ xét chỗ đó là được.
[    ] = Tố Phật dã do tha = Dù ai ngoài mặt làm ra bộ hiền lành như Phật, cũng mặc kệ họ.
Bài thơ này khuyên người ta phải giữ lòng cho ngay thẳng tử tế thì mới được hay được khá. Nếu trông tướng tốt thật, nhưng lòng hiểm ác thì cũng sẽ khổ sở chẳng làm nên gì.
Tác giả dùng ý ở câu 3 và câu 4 ở bài thơ trên này đặt thành câu “Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời” này vừa để tả tâm hồn linh mẫn của Kiều hơi thấy điềm gì là biết ngay mà tìm cách tránh, vừa để tả tấm lòng trung hậu của nàng lúc nào cũng chỉ sợ tội làm mất hòa khí nhà chồng: “Trăm điều ngang ngửa vì tôi/ thân sau ai chịu tội trời ấy cho?”
Xét 5 câu Truyện Kiều này – từ câu 1635 đến câu 1639 – ý nghĩa thật rõ ràng, uyển chuyển, liên tiếp nhau một mạch như sau:
– Câu “Thân sao nhiều nổi bất bằng” tiếp ý với 6 câu bên trên, tả nỗi Kiều tủi thân gặp nhiều sự bất bằng từ trước đến nay;
– Câu “Liệu như Cung Quảng Ả Hằng nghĩ sao” tiếp theo lo gặp nhiều nổi bất bằng xẩy ra sau này, tả nỗi Kiều lo sợ ngón đòn ghen thù độc ác của Hoạn bị chồng say mê mình mà bỏ lửng mụ nằm buồng không, như Ả Hằng ở trong cung Quảng Hàn trong bấy lâu;
– Câu “Đêm thu gió lọt song đào” tả Kiều ngồi buồn lo quên ngủ, mà bỗng thấy gió tung màn cửa sổ lên cho nàng thấy cảnh trăng sao trước buồng;
– Câu “Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời” tiếp tục ý thức đêm câu trên và tả tâm hồn thông minh linh mẫn, lòng luôn luôn lo sợ sự bất bằng xẩy ra cho mình, nên thấy điềm giăng lưỡi liềm hiện dưới ba sao, liền nghĩ ngay đến thơ Trần Đoàn mà cảm tưởng ngay đến tội mình đã đem sắc đẹp như Sao Ba dùng làm lưỡi liềm độc ác cắt đứt mối tình đằm thắm giữa vợ chồng Hoạn Thư;
– Câu “Nén hương đến trước Phật đài” tả Kiều sợ tội vội ra thắp hương lễ Phật để sám hối giải oan.
Ý nghĩa mấy câu tả tâm sự Kiều này thật rất hay, và rất rõ ràng liên tiếp; nhưng vì lời vắn tắt quá, ý sâu xa uẩn súc quá thật khó hiểu, nên các nhà xuất bản Truyện Kiều đã không hiểu lại không chịu suy nghĩ cho ra ý nghĩa trôi chảy, thành ra các bản Kiều, mỗi người giảng giải một cách và dẫn điển một cách vu vơ chẳng đâu vào đâu. Tuy có ông cũng dẫn điển đúng hai câu “Tam điểm như tinh tượng/ hoành câu bán nguyệt tà”, nhưng lại không hiểu thật là sao Kiều thấy trăng sao ấy lại lo sợ, phải đi lễ Phật.
[17] Dậy lũ ác nhân = Lũ ác nhân nổi “dậy”, bỗng hiện ra.
[18] Khốc quỷ kinh thần = Dữ dội quá, làm cho ma phải khóc, thần phải sợ.
[19] Thây vô chủ = Thây chết trôi ở sông không có ai nhận.
[20] Lận sòng hay lộn sòng = Tráo lộn để đánh lừa ngay trước mắt đám đông người.
[21] Pha càn = Xông bừa vào, không quản gai góc.
[22] Di hài [ ] = Thây xương người chết còn lại.
[23] Khâm liệm [ ] – Trong lễ tang ta, người chết rồi thì được rửa mặt, cắt móng tay chân, mặc quần áo tử tế, để nằm ngay ngắn, và phủ mặt bằng giấy trắng. Trước khi vào quan, trải hai bức mền vải xuống đất, bức rộng màu vàng gọi là “đai khâm” ở dưới, bức hẹp hơn màu trắng ở trên gọi là “tiểu khâm”, dưới tiểu khâm đặt sẵn ba băng vải. Rồi làm lễ “phạn hàm” (= bỏ vàng ngọc hay tiền gạo vào mồm), và “hạ thổ” đặt người chết xuống đất trên hai bức mền; gói bức tiểu khâm lại, buộc cho vuông gọn, rồi mọi người con cháu thân cận cầm chung quanh bức đại khâm mà sẽ khiêng lên đặt vào trong áo quan. Lễ gói bọc thây ma như thế gọi là “khâm liệm.” Tang trai = Các lễ chôn cất và tụng kinh cúng tế.
[24] Lục trình [ ] = Đường trên cạn, cũng gọi là đường bộ.
[25] Trung đường [ ] = Nhà giữa. Đây tỏ ra là Thúc ông thương Kiều quá, đặt bàn thờ nàng ở chính nhà sang nhất; đáng lẽ phận lẽ mọn chỉ được thờ ở nhà ngang, nhà dưới.
[26] Linh sàng [ ] = Bàn thờ người mới chết. Bài vị [ ] = Thẻ gỗ nhỏ biên tên tuổi người chết, thường đặt trên cái ngai ở trên cùng bàn thờ.
[27] Vĩnh quyết [ ] = Lời dặn lại khi chào nhau ra đi lần cuối cùng, nhất là lúc sắp chết.
[28] Phi phù trí quỷ [   ] = Phép đốt tờ giấy bùa để đưa hồn người sống đi tìm hồn người chết về, của các thầy đồng, tục gọi là “đánh đồng thiếp.” Thông huyền [ ] = Giao thông (liên lạc) với hồn người chết.
[29] Tam đảo = Ba núi tiên ở trên trời ngoài bể: Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Cửu tuyền = Cõi âm phủ, vì ở dưới chín lần suối.
[30] Tĩnh đàn [ ] = Bàn thờ rất thanh tịnh lập ra để cúng cầu thần thánh.
[31] Xuất thần = Thả hồn mình ra khỏi xác thịt để đi tìm hồn người chết mà hỏi han.
[32] Trong là số tử vi có 12 cung như Thân cung [ ] nói về cha mẹ, Mệnh cung [ ] nói về thân mình, Bào cung [ ] nói về anh em… Trong sách số nói Mệnh cung mà khi có sao Bột tới thì có tai nạn vào thân.
[33] Chìn chìn – Xem lời đính chính câu 1697.
[34] Đồng cốt = Thầy cúng (đàn ông gọi là ông đồng, đàn bà gọi là bà cốt).
Diễn ra văn xuôi:
Câu 1607, 1608 = Hoạn Thư về tới nhà, phô bày với mẹ đủ mọi tình tiết: Chồng ăn ở bội bạc để riêng nàng phải chịu phần đen đủi thiệt thòi đủ phần. Chàng đã lấy vợ lẽ mà khinh rẻ nàng, chẳng thèm bảo nàng, lại còn bỏ lửng nàng hơn một năm trời không thèm về thăm hỏi, để nàng ngẩn ngơ oán giận mà chẳng dám than thở cùng ai.
Câu 1609, 1610 = Nàng nói tiếp: Nhưng con nghĩ rằng, có hay gì cái sự ‘ngứa ghẻ hờn ghen’, mình mà to tiếng nói xấu chê trách chàng, thì chồng mang tiếng xấu, mà chẳng ai khen mình, ai cũng sẽ chê mình là kẻ đàn bà hẹp lượng, ghen tuông, hỗn hào.
Câu 1611, 1612 = Bởi vậy con phải ngoảnh mặt làm ngơ coi như mình không biết; nhưng từ lâu, bụng con đã nghĩ ngầm được một mưu cao báo thù như thế này:
Câu 1613, 1614 = Từ Vô Tích đến Lâm Truy, đi đường bộ thì mất cả tháng, nhưng đi thuyền đường bể thì chóng đến, coi như gần hơn nhiều.
Câu 1615 đến 1618 = Mình dọn sạch lấy một chiếc thuyền cho nhẹ nhàng thuận tiện, và kén lấy một bọn gia nhân tinh khôn, sai đi bắt lấy ả, lấy dây xích cổ lại đem về đây, sửa cho một phen, làm cho xác mệt, cho hồn mê, làm cho đau đớn nhục nhã, ê chề đủ đường, cho biết tay ta.
Câu 1619, 1620 = Trước là cho bõ giận hai đứa si tình quên cả lễ nghĩa, sau là để thành một trò cười về sau.”
Câu 1621, 1622 = Hoạn bà khen mưu ấy hay lắm, và chiều con gái cho ra tay muốn làm gì thì làm.
Câu 1623 đến 1626 = Hoạn Thư được mẹ cho phép, liền sai sửa sang một chiếc thuyền, buồm lèo sửa lại cho tốt, rồi lựa lấy một bọn gia nhân đủ mặt du côn, cầm đầu là hai tên Khuyển, Ưng. Nàng dặn dò bọn chúng đầy đủ hết các cách thi hành mưu mẹo của nàng, và cho kéo buồm thuận gió một chiều thẳng đường vượt sang bến Lâm Truy đất Tề.
Câu 1627, 1628 = Từ khi Thúc Sinh đi rồi, Kiều ở một mình trong buồng cửa có màn the che kín, lúc nào bụng cũng buồn rầu, phần vì tình thương nhớ cha mẹ, tình nhớ tiếc Kim Trọng, phần vì cảnh bơ vơ lo sợ cuộc lẽ mọn dưới quyền Hoạn Thư.
Cau 1629, 1630 = Nào là khi nàng nghĩ đến cha mẹ tuổi đã già như mặt trời buổi chiều đã xế thấp xuống ngang đầu chẳng mấy lúc nữa mà lặn, thì nàng lại băn khoăn không được ở gần để chăm nom, đến nỗi nay chẳng biết có ai săn sóc cho cha mẹ mùa đông được ấm, mùa hè được mát, và phụng dưỡng được cơm lành canh ngọt, miếng ngon miếng bùi không?
Câu 1631, 1632 = Nào là khi nàng ngó đến món tóc chỗ cắt để thề với Kim Trọng, nay đã lại mọc dài xuống tới vai, thì nàng lại thiết tha nhớ tiếc cuộc tình duyên đã chỉ sông chỉ núi mà thề, thế mà trời không cho được thành vợ thành chồng, để đến nỗi nay nàng phải gặp bước long đong khổ nhục như thế này.
Câu 1633, 1634 = Tình nhớ tiếc việc xưa đã làm nàng sầu khổ như vậy, cảnh bơ vơ hiện tại lại khiến nàng phải lo sợ trăm nỗi: Nàng đã đành chịu tủi làm kiếp lẽ mọn, nhưng chẳng biết cái khuôn duyên này trời có cho được vuông tròn không?
Câu 1635, 1636 = Rồi nàng lại ngẫm nghĩ thương thân: Ôi! Một thân ta sao gặp lắm nỗi bất bằng như thế? Nào nỗi bất bằng đã qua, nào nỗi bất bằng hiện tại. Rồi đây lại còn biết bao nhiêu nỗi bất bằng sẽ xẩy ra cho ta sau này nữa? Ta không biết rồi đây mụ Hoạn Thư đã bị chồng vì mê ta mà bỏ bẵng mụ lạnh lùng trong bấy lâu, như ả Hằng Nga nằm trong cung Quảng Hàn, mụ sẽ giở những ngón đòn ghen thù độc ác thế nào với ta? Ta biết chàng Thúc không đủ tài để binh vực nổi ta trước nanh vuốt con sư tử này. Ta chỉ còn cách chịu nhẫn nhục, khéo luồn cúi chiều chuộng để giữ hòa khí giữa hai vợ chồng mụ và để ta khỏi tội cướp chồng người.
Câu 1637, 1638 = Trong khi nàng đương ngồi buồn lo quên ngủ, thì bỗng gió thu thổi tung bức màn cửa sổ trước mặt nàng, nàng trông ra thấy ngôi Sao Ba ở giữa trời, gần dưới có vành trăng lưỡi liềm, nàng sực nhớ đến bài thơ khuyến thiện của một bực tiên tri Trần Đoàn xưa (xem chú thích số 16 đoạn này), nàng giật mình sợ quá, nghĩa rằng, có lẽ vì bụng mình không tốt dạ quyến rũ chồng người, nên trời vén màn lên báo cho mình biết điềm ngoài đẹp, nhưng trong xấu như vậy.
Câu 1639, 1640 = Nàng sợ điềm xấu gở ấy, nên vội vàng chạy đến trước đền thờ Phật mà đốt hương cầu khấn xin Phật giải oan. Nhưng nàng chưa kịp khấn hết lời thì tai nạn đã đến rồi.
Câu 1641, 1642 = Ở dưới dẫy hoa, bỗng đổ ra một bọn kẻ cướp thét lác ầm ầm, làm cho ma phải khóc, cho thần phải sợ, rồi tuốt gươm ra sáng lòa đầy sân.
Câu 1643 đến 1646 = Kiều sợ hãi rụng rời, chưa biết làm thế nào, thì chúng đã tưới thuốc mê vào mặt, khiến nàng mê đi như ngủ, chẳng biết gì nữa.
Câu 1647, 1648 = Lũ nó vực nàng lên ngựa, đem đi ngay lập tức, và vung lửa đốt cả buồng nàng ngủ và thư viện của chàng, lửa cháy nổ đùng đùng một lượt.
Câu 1649, 1650 = Lũ nó còn mang sẵn một xác chết không ai thừa nhận, khiêng vào đặt trong buồng nàng để đánh tráo là nàng, và lừa mọi người trong nhà, nào ai biết được là xác ai.
Câu 1651, 1652 = Bọn tôi tớ trong nhà thấy giặc đến, phách lạc hồn bay, chạy tán loạn đi rúc bừa vào bụi cỏ gốc cây mà ẩn náu.
Câu 1653 đến 1656 = Thúc ông, nhà cũng ở gần quanh, chợt thấy ngọn lửa bốc lên, giật mình sợ hãi, thày trò vội vàng chạy thẳng đến nơi, nào là múc nước tưới lửa tơi bời, nào là kêu, tìm người nhà ồn ào một lượt.
Câu 1657, 1658 = Ngọn lửa càng cao, thì gió thổi càng mạnh, và ngọn lửa càng cao thêm. Tôi tớ trong nhà đều tìm thấy đủ mặt, mà riêng mặt nàng chẳng thấy đâu cả.
Câu 1659, 1660 = Mọi người hất hơ hất hải nhìn nhau lo sợ, người chạy phía trước, người chạy nẻo sau, tìm tòi khắp nơi, nào dưới giếng sâu, nào trong bụi rậm, chỗ nào cũng tìm đến mà chẳng thấy nàng đâu.
Câu 1661, 1662 = Bỗng một người chạy vào buồng nàng ở mà bới đống tro than thì thấy một xác người đã cháy thành than.
Câu 1663, 1664 = Mọi người đều ngay tình, nào ai biết được mưu gian của bọn kia, nên ai cũng cho đó chính là xác nàng Kiều rồi, chứ còn ai nữa.
Câu 1665, 1666 – Thúc ông khóc sùi sụt, nước mắt lã chã, giọt ngắn giọt dài, nghĩ đến con vắng vẻ, lại càng thương nàng là người nết na mà chết thảm hại như thế, không được gặp chồng nữa từ khi khuyên chồng vê thăm quê cho phải đạo.
Câu 1667, 1668 = Ông sai nhặt hết các phần bộ di hài nàng về nhà ông sắp xếp đâu vào đấy và khâm liệm vào quan tử tế rồi làm ma chôn cất, tụng kinh thờ cúng cẩn thận.
Câu 1669, 1670 = Khi các lễ thường ma chay đã làm đủ rồi, thì Thúc Sinh đi đường bộ vừa tới nơi.
Câu 1671, 1672 = Chàng bước chân vào nhà, thấy căn nhà có buồng nàng ở trước và lầu sách của chàng xưa, chỉ còn là một đống tro tàn ở giữa bốn bức tường dầu mưa dãi nắng.
Câu 1673, 1674 = Chàng sang bên nhà cha, vào căn nhà giữa thấy có bàn thờ cúng người mới chết. Trên bàn thờ có bài vị đề tên tuổi nàng để thờ.
Câu 1675, 1676 = Hỡi ôi! Khi chàng nghe Thúc ông kể hết đầu đuôi sự tình bị cướp phá đốt nhà thế nào, và duyên phận nàng xấu số bị chết cháy thành than thế nào, ruột chàng như đứt theo mối tơ tình, và gan chàng nóng bỏng như bị ngọn lửa phiền đốt cháy.
Câu 1677, 1678 = Chàng gieo mình xuống đất mà vật vã khóc than: Thương ôi! Con người như thế mà chết oan uổng thê thảm như thế này à?
Câu 1679, 1680 = Ta những tưởng rằng hôm nay về đây thì vợ chồng lại sum họp vui vẻ với nhau. Nào có ngờ đâu cái ngày vợ chồng tiễn biệt nhau lại hóa ra cái ngày vợ chồng nói những lời cuối cùng để vĩnh biệt nhau!
Câu 1681, 1682 = Chàng càng thương nàng thì lại càng nghĩ đến nàng, càng nghĩ đến nàng thì lại càng thương nàng, khó ai có thể khuyên giải để vùi lấp được nỗi thảm của chàng, hay làm khuây được nỗi phiền của chàng.
Câu 1683, 1684 = Ở gần miền đây, có một ông thày đồng rất cao tay trong nghề đánh đồng thiếp, có thể đốt bùa gửi đi để giao thông được với quỷ thần và gọi được hồn ma đến.
Câu 1685, 1686 = Dù hồn người chết ở các cõi tiên nơi Tam Đảo, hay ở nơi âm phủ dưới Cửu tuyền, đều có thể tìm được tin tức rõ ràng ngay.
Câu 1687, 1688 = Chàng mới sắm sửa lễ vật rồi đón ông thầy đồng ấy đến, xin ông cố tìm cho thấy mặt nàng mà hỏi cho rõ tin tức.
Câu 1689 đến 1691 = Ông đạo nhân này bày bàn thờ cúng, nằm phủ phục xuống trước bàn thờ tĩnh này mà lìa hồn ra khỏi xác thịt để đi tìm vong hồn. Chỉ trong giây phút, chưa hết nén hương, ông đã trở về tỉnh dậy và nói rõ ràng minh bạch rằng:
Câu 1692 đến 1694 = Mặt nàng thì không tìm thấy đâu, nhưng việc nàng đã tra xét được. Nàng hiện còn mang nặng tội nghiệp gây ra từ kiếp trước, nên còn nhiều nợ tiền oan lắm, chưa sao chết được.
Câu 1695, 1696 = Hiện nay mệnh cung nàng còn đương có nạn to, và một năm sau nữa vợ chồng mới lại tìm dò được tin nhau.
Câu 1697, 1698 = Nhưng chỉ lạ một điều là vợ chồng gặp nhau, dù giáp mặt nhau chìn chìn, gần như sát mặt vào nhau, rất muốn nhìn nhau mà chẳng dám nhìn, thế có lạ không?
Câu 1699, 1700 = Nghe lời thày sao lạ lùng quá vậy! Sự nàng chết đã rành rành như thế rồi, lời thày nói tin sao được?
Câu 1701, 1702 = Chẳng qua đó là lời ông đồng bà cốt, nói quàng xiên xong lần, chứ sao còn thấy được mặt nàng ở trên cõi người này nữa?
Câu 1703, 1704 = Càng tiếc nhớ Kiều bao nhiêu, chàng lại càng ngậm ngùi nhớ tiếc những cuộc thơ rượu vui vẻ cùng nàng ở trước cảnh hoa xuân tươi đẹp bấy nhiêu. Chàng nghĩ đến đời chàng dễ đâu lại được gặp tiên lần nữa như thế!
Những câu và chữ có ý móc nối hay châm biếm:
– Những điều Hoạn Thư phô trình với mẹ ở đoạn này (Chương 18) đều là những ý định thầm kín trong lòng nàng ở đoạn trước (Chương 17). Những câu [Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen/ Nghĩ rằng ngứa ghẻ hờn ghen/ Xấu chàng mà có ai khen chi mình] ứng với những câu [Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa/ Dại chi chẳng giữ lấy nền/ Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình] ở đoạn trên.
– Những câu Hoạn Thư kể cách làm tội Kiều cho mẹ nghe [Làm cho, cho mệt, cho mê/ Làm cho đau đớn ê chề cho coi] ứng với những câu [Làm cho nhìn chẳng được nhau/ Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên].
– Những câu Kiều kể định làm khổ tâm hồn Thúc Sinh để báo thù: [Trước cho bõ ghét những người/ Sao cho để một trò cười về sau] ứng với ý nàng định làm ở đoạn trên [Làm cho trông thấy nhãn tiền/ Cho người thăm ván bán thuyền biết tay].
– Câu [Mưu cao vốn đã rấp ranh những ngày] ứng với câu [Lo gì việc ấy mà lo/ Kiến trong miệng chén còn bò đi đâu].
– Ba câu [Đêm thu gió lọt song đào/ Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời/ Nén hương đến trước Phật đài] nghĩa thật liền lạc khẩn thiết với nhau: Gió đêm thu thổi vào buồng làm tung màn cửa sổ lên, Kiều mới trông thấy vành trăng lưỡi liềm dạo hạ tuần ở phía dưới, và ngôi Sao Ba sáng đẹp ở giữa trời. Nàng đương lo số nàng hay gặp lắm sự trắc trở, nên nàng thấy cảnh thơ ông Trần Đoàn tả Sao Ba có trăng lưỡi liềm như thế, để chê người tướng ngoài thì tốt, nhưng trong bụng xấu thì tốt cũng hóa xấu. Rồi nàng nghĩ ngay đến nàng đã cướp chồng của Hoạn Thư là nàng có tội xấu bụng, nên trời mới báo điềm tốt mà hóa xấu như thế, nên mới vội đi thắp hương cúng Phật để sám hối cầu phúc.
– Câu [Nén hương đến trước Phật đài/ Nỗi lòng khấn chửa hết lời vân vân] ứng với câu [Trăm điều ngang ngửa vì tôi/ Thân sau ai chịu tội trời ấy cho].
CHƯƠNG 19
CÂU 1705 ĐẾN CÂU 1790
“Oai bà lại bộ / nhục kiếp thanh y”
1705. Nước trôi hoa rụng đã yên, [1]
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian. [2]
1707. Khuyển Ưng đã đắt mưu gian, [3]
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
1709. Buồm cao lèo thẳng cánh suyền, [4]
Đè chừng huyện Tích, băng miền vượt sang. [5]
1711. Dỡ đò lên trước sảnh đường, [6]
Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
1713. Vực nàng tạm xuống môn phòng, [7]
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai, [8]
Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
1717. Bàng hoàng giở tỉnh giở say, [9]
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
1719. A hoàn liền xuống giục mau, [10]
Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
1921. Ngước trông tòa rộng dãy dài, [11]
Thiên Quan Chủng Tể có bài treo trên. [12]
1723. Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo, ngồi trên một bà. [13]
1725. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự mình nàng đã cứ mà gửi thưa. [14)]
1727. Bất tình nổi trận mây mưa,
Dức rằng: “Những giống bơ thờ quen thân! [15]
1729. Con này chẳng phải thiện nhân,
Chẳng phường trốn chủ, thì quân lộn chồng. [16]
1731. Ra tuồng mèo mả gà đồng, [17]
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
1733. Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
1735. Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.”
1737. A hoàn trên dưới dạ rân, [18]
Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
1739. Trúc côn ra sức đập vào,
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh.
1741. Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen.
1743. Hoa nô truyền dạy đổi tên,
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì. [19]
1745. Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
1747. Quản gia có một mụ nào, [20]
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
1749. Khi chè chén, khi thuốc thang, [21]
Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh. [22]
1751. Dạy rằng: “May rủi đã đành,
Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
1753. Cũng là oan nghiệp chi đây, [23]
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
1755. Ở đây tai vách mạch dừng, [24]
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
1757. Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
Con ong cái kiến kêu gì được oan?”
1759. Nàng càng giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
1761. Phong trần kiếp đã chịu đay,
Lầm than lại có thứ này bằng hai. [25]
1763. Phận sao bạc chẳng vừa thôi, [26]
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
1765. Đã đành túc trái tiền oan, [27]
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
 1767. Những là nương náu qua thì,
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
1769. Mẹ con trò chuyện lân la,
Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
1771. “Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.”
1773. Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục, thiên đàng là đâu.
1775. Sớm khuya khăn mặt, lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
1777. Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày. [28]
1779. Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
1781. Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
1783. Cửa người đày đọa chút thân,
Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng.
1785. Lâm Truy chút nghĩa đèo bồng,
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
1787. Bốn phương mây trắng một màu, [29]
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. [30]
1789. Lần lần tháng trọn ngày qua,
Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
Đính chính và xác định:
 Câu 1727 – “Bất tình nổi trận gió mưa” – Chữ “gió mưa” mới có nghĩa giận dữ. Có bản in lầm ra “Bất tình nổi trận mây mưa” thật không hợp nghĩa ở chỗ này.
Câu 1784 – “Sớm than thở bóng, khuya năn nỉ lòng” nghĩa là ban ngày thấy bóng mình trước nắng lại thương mình mà chỉ dám than thở với bóng mình, chẳng dám để ai biết. Lúc canh khuya cũng vậy, ngủ không được mà chỉ những mình lại năn nỉ nỗi đau xót với chính lòng mình, chẳng dám nói cùng ai, tả cảnh cô đơn khổ cực vô cùng. Bản Kiều của ông Trần Trọng Kim in câu này là: “Sớm năn nỉ bóng, đêm ngơ ngẩn lòng” đã mất vần lại không xuôi nghĩa.
Chú thích và dẫn điển:
 [1] Nước trôi hoa rụng lấy điển ở câu chữ hán “Lưu thủy lạc hoa [流水落花] = Hoa rụng vào suối nước chảy, phải chìm chìm nổi nổi mà chẳng biết trôi đi đâu.”
[2] Địa ngục = nhà giam tù ở cõi âm phủ.
[3] Đã đắt mưu gian = đã làm trôi chạy được các mưu chước giả dối như buôn bán được trôi chạy đắt hàng.
[4] Thẳng cánh suyền – Suyền [] = đi thật nhanh một mạch. Thẳng cánh suyền = gió thuận thổi vào cánh buồm đi thẳng nhanh một chiều như bay.
[5] Huyện Tích tức là huyện Vô Tích, quê nhà họ Hoạn.
[6] Sảnh đường là nơi quan làm việc công. Tác giả đặt chữ “sảnh đường” ở đây để tả sự hống hách quá phép của Hoạn bà. Các bà quan hay có thói lạm quyền như vậy.
[7] Môn phòng là căn phòng giữ phạm nhân ở gần cổng canh trước dinh các quan.
[8] Hoàng lương [黃粱] nghĩa đen là kê vàng. Ngày xưa Lư Sinh, đời nhà Đường, thi hỏng về gặp ông Lã Tiên ở một quán ăn. Ông thấy Lư buồn chán, mới cho mượn chiếc gối Bảo Lư gối đầu mà ngủ cho đỡ phiền. Lúc đó người chủ quán mới quấy nồi cháo kê vàng. Lư mới gối đầu nằm, liền thấy lấy được vợ họ Thôi rất đẹp rất giầu, lại đỗ Tiến sĩ được vua yêu cho làm quan to, lại có công phá được giặc Nhung, được làm Tể Tướng hơn 10 năm, có 5 con trai đều làm quan to, có 10 cháu trai đều làm rể nhà quan sang, sống hơn 80 tuổi mới chết, thì bỗng tỉnh dậy, thấy nồi cháo kê vẫn chưa chín. Lư quái lạ hỏi Lã Tiên, thì Lã nói: “Lạ gì? Cuộc phú quý đời người đều như thế cả, ta còn ham muốn làm gì cho nhọc bụng.” Do truyện này, người sau mới gọi giấc mơ ngủ là giấc Hoàng Lương. Cái gối ông Lã Tiên cho Lư Sinh gối đầu nằm ngủ được giấc mơ phú quí ấy làm bằng gỗ cây mai, nên các văn sĩ sau gọi hồn mộng giấc mơ là hồn mai. Câu này đặt chữ “Hồn mai” liền với chữ “Hoàng Lương” rất khẩn thiết với nhau. Ông Trần Trọng Kim nói: “Các văn sĩ thường nói giấc mơ ngủ là “quế phách mai hồn” cho lịch sự, thật là lầm, vô nghĩa, vì quế phách là mặt trăng, chữ phách đây không phải là hồn phách, nên chữ quế phách không đi với chữ mai hồn được.
[9] Bàng hoàng = hãy còn như say như mê, lúc mới tỉnh dậy có vẻ ngơ ngác lo sợ.
[10] Nha hoàn [丫鬟] – Nhiều người đọc chệch ra “a hoàn” [鴉鬟] = đứa hầu tớ gái, tóc còn đen như quạ [] [“nha” = quạ) và kết thành hai món trái đào hình như chữ [] “nha” là vật có phần ngọn chia hai nhánh. Lại có người nhận lầm chữ “nha” [] này ra []
“tiểu” mà đọc lầm ra “tiểu hoàn.”
[11] Ngước trông = sợ hãi quá, chỉ dám hơi đưa to mắt lên mà nhìn, chứ không dám ngửa hẳn mặt lên. Thơ Xuân Hương vịnh đền Sầm Thái Thú ở gò Đống Đa: “Ngước mắt trông lên thấy biển treo, Kìa đền Thái Thú đứng treo leo.” Lời thì thật tôn kính, mà ý thì thật mỉa mai khinh rẻ: chẳng thèm nhìn thẳng.
[12] Thiên quan chủng tể [天官塚宰] là chức quan cao nhất ở triều đình xưa. Nhà Chu đặt ra chức Thiên quan chủng tể để cai quản tất cả các quan. Về đời nhà Minh các quan hơi cao ở bộ Lại đều lạm xưng là Lại bộ [吏部]. Vì bộ Lại là bộ giữ việc tuyển bổ thăng giáng các quan, nên nhà họ Hoạn dám lạm quyền treo bảng Thiên quan chủng tể cho oai; thật ra bố Hoạn Thư không phải Thượng thư bộ Lại, vì Thúc Sinh chỉ là một người sinh viên xoàng, con một ông lái buôn giầu, lấy thế nào được con gái một ông Lại bộ Thượng thư?
[13] Giường thất bảo = giường đẹp sang nhất hạng, có khảm bảy thứ vàng ngọc quý báu.
[14] Cứ mà gửi thưa = cứ theo sự thật của mình mà trình thưa rõ ràng, đại khái như nói là vợ lẽ Thúc Sinh, lấy nhau được hai năm…
[15] Dức – Quan mắng, quan gắt gọi là dức cho thêm phần kính trọng quan, đại khái như lính hầu quan hỏi nhau “Làm gì mà quan dức mày thế?” Tác giả dùng chữ “dức” ở đây thật là đúng chỗ để tả nổi bật hẳn vẻ hách dịch của bà Lại bộ họ Hoạn. Có nhà xuất bản truyện Kiều đổi chữ “dức” này ra chữ “mắng” thật là không hiểu giọng nhà quan và ý tác giả.
[16] Trốn chủ – Tục Tàu trước, chủ nhà giầu sang hay xuất tiền ra mua con gái nhà nghèo về làm tôi đòi; nếu không có tiền chuộc ra, thì phải ở hầu hạ suốt đời. Nếu chủ có độ lượng thương người thì còn khá, nhưng phần nhiều họ cậy của hành hạ bất nhân, nên hay có những vụ gái nghèo này trốn chủ ra đi, nếu chủ bắt được thì bị tội vạ khổ sở. Lộn chồng = bỏ chồng cũ trốn đi lấy chồng khác.
[17] Mèo mả gà đồng = những gái du đãng, giang hồ, vô gia đình, sống vất vơ hư hỏng như con mèo già hoá cáo ra ở nhà mồ mả ngoài đồng. Gà đồng = loại gà rừng, dù ta bắt về chăm nuôi thế nào nó cũng không quen, thả ra là bay ra đồng.
[18] Dạ rân = vâng lời, dạ ran lên một lượt.
[19] Áp vào phiên thị tỳ = biên tên vào sổ lũ gái hầu. Chữ “áp” hay “áp danh” [押名] = biên tên vào sổ. Nhiều bản Kiều quốc ngữ dịch lầm “áp” [] = ép, không đúng – vì bắt làm thị tỳ là phải làm, cần gì phải ép? Thanh y [青衣] = áo xanh – Tục Tàu trước, các tôi tớ trong nhà vẫn mặc áo xanh, nên gọi là lũ thanh y. Chữ “phiên” [] dịch ra“phen” là sai nghĩa, vì các thị tỳ phải cắt “phiên” nhau vào hầu.
[20] Quản gia [管家] = mụ cai quản bọn thị tỳ trong nhà.
[21] Chè chén đây là “chén trà chén cháo” chăm nom lúc Kiều còn ốm đòn, nên sau được Kiều trả ơn rất hậu. Xem câu 2341 và 2342 [Mụ già, sư trưởng thứ hai/ thoạt đưa đến trước, vội mời lên trên]. Xin chớ lầm chữ “chè chén” này là “chè rượu” như ta thường nói.
[22] Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh – Lời phương tiện = lời theo chiều hướng (phương) thuận tiện mà khuyên nhủ cho người hiểu mọi lẽ. Mở đường hiếu sinh= khuyên nhủ khiến cho Kiều khỏi chán đời mà lại muốn cố sống. Câu này nghĩa là mụ quản gia khéo dò xét tâm sự Kiều có ý muốn tự tử, mới lựa chiều thuận tiện mà lấy lời lẽ khuyên nhủ yên ủi cho Kiều khỏi chán đời.
[23] Oan nghiệt [寃孽] hay oan nghiệp [寃業] = “tiền oan nghiệp chướng” = oán thù từ kiếp trước để lại đến kiếp này mới báo thù lại nhau.
[24] Tai vách mạch dừng – Vách = những bức thuận chia ngang nhà ở ra làm các phòng. Dừng = những bức vách dọc đằng sau nhà làm bằng những thanh tre đan dừng với nhau, ngoài chát đất cho kín phẳng. Tục ngữ có câu: “Dừng có mạch, vách có tai” nghĩa là ngoài bức vách chung quanh chỗ ta ở, thường có kẻ áp tai nghe, ghé mắt dòm để rình ta, nên ta phải giữ gìn.
[25] Lầm than do chữ [塗炭] “đồ thán” dịch ra. Đồ [] = bùn lầm ở mặt đường. Thán[] = than tro. Nghĩa bóng chữ “lầm than” là khổ sở nhục nhã như phải lặn lộn ở mặt đường đầy những than bùn đen bẩn.
[26] Bạc chẳng vừa thôi = sao số phận bạc quá, bạc thế nào cũng chưa vừa, chưa thôi.
[27] Túc trái tiền oan [夙債前冤] = nợ cũ đã lâu, hay oan nghiệp từ kiếp trước, bây giờ phải trả nợ, phải đền tội.
[28] Trúc ty – Trúc [] = tre, tức là ống sáo; ty [] = tơ, tức là đàn. Nhiều bản Kiều quốc ngữ phiên âm là trúc tơ, đành rằng vẫn nghĩa là đàn sáo, nhưng trúc là tiếng Hán, tơ là tiếng nôm đi với nhau không êm bằng trúc ty là tiếng chữ Hán. Bài Tỳ Bà Hành cũng dịch là trúc ty: Người xuống ngựa, khách dừng chèo/ Chén quỳnh muốn cạn không chiều trúc ty/ Say những luống ngại khi hầu rẽ.
[29] Bốn phương mây trắng một màu – Thơ cổ có câu “Tứ cố bạch vân mê [四顧白雲迷]” = Ngó trông bốn bề chỉ thấy mây trắng mù mịt một màu, chẳng biết quê cha mẹ ở đâu.
[30] Cố quốc nghĩa đen là nước cũ, nghĩa rộng là nơi quê quán cha mẹ của mình.
Diễn ra văn xuôi
Câu 1705, 1706 = Thúc Sinh vẫn yên chí rằng cái đời như đóa hoa rụng xuống giòng nước của Kiều thế là xong, là yên rồi; chàng có biết đâu rằng cái địa ngục mà nàng bị giam khổ vẫn ở ngay trên cõi người này.
Câu 1707, 1708 = Bọn Khuyển Ưng đã thi hành trôi chạy các mưu gian của chủ dặn dò rồi, liền vực Kiều xuống để nằm yên dưới thuyền.
Câu 1709, 1710 = Rồi chúng kéo buồm lên cho cao, gò dây buồm cho thẳng và cứ ngắm thẳng đường về phía Vô Tích mà cho thuyền tiến thật nhanh.
Câu 1711, 1712 = Khi đến nơi, chúng đỗ thuyền ở ngay phía trước sảnh đường mà dỡ các đồ đạc lên. Hai thằng Khuyển Ưng khiêng Kiều lên nộp để dâng công.
Câu 1713, 1714 = Chúng vực nàng vào tạm nằm nghỉ trong căn phòng bên cạnh cổng dinh, và nàng vẫn còn thiêm thiếp như ngủ mê chưa biết gì, vì thuốc mê chưa phai tan hết.
Câu 1715, 1716 = Bỗng hồn nàng như ngủ tỉnh dậy. Nàng thấy lạ quá, cửa nhà mình đâu mất, mà đây là lâu đài nào vậy?
Câu 1717, 1718 = Nàng còn đương ngơ ngác bàng hoàng, chếnh choáng như say rượu, thì bỗng thoảng nghe tiếng ở trên sảnh đường đòi nàng lên hầu ngay lập tức.
Câu 1719, 1720 = Rồi một thị tỳ tóc kết thành hai trái đào chạy xuống giục nàng lên ngay. Nàng sợ hãi lắm, theo ngay một người dẫn lên sảnh đường.
Câu 1721, 1722 = Nàng sẽ ngước mắt trông lên thấy tòa rộng dẫy dài đã rất lộng lẫy, lại trên có treo một cái biển đề bốn chữ to “Thiên Quan Chủng Tể” bằng vàng.
Câu 1723, 1724 = Bên trong sảnh đường, ban ngày mà vẫn có mấy cây sáp thắp ở hai bên trước cái giường khảm bảy thứ ngọc rất lộng lẫy đẹp, trên giữa giường có một bà ngồi rất oai nghiêm đường bệ.
Câu 1725, 1726 = Thấy Kiều lên, bà gạn gùng hỏi ngành hỏi ngọn, Kiều chẳng biết hỏi để làm gì, sự tình mình thế nào, nàng cứ theo thật sự mà thưa trình rõ ràng hết.
Câu 1727, 1728 = Bất kỳ bà nổi giận dữ dội như mưa như bão mà quở mắng: Con này thật là cái giống gái hư hỏng, chỉ quen thân bơ thờ ăn chơi bợm bãi.
Câu 1729, 1730 = Con này đúng không phải là người tử tế – nếu không phải là phường tôi đòi trốn chủ ra đi, thì cũng là quân bỏ chồng nọ theo chồng kia.
Câu 1731, 1732 = Nó rõ là giống mèo mả gà đồng chẳng ai chứa được, nên thân đời thành ra lúng túng chẳng ở yên được chỗ nào.
Câu 1733, 1734 = Nó đã đem thân bán vào nhà cửa tao, mà vẫn còn dám khủng khỉnh làm cao, chẳng coi ai ra gì thế này à?
Câu 1735, 1736 = Nào chúng bây đâu! Hãy theo phép tắc nhà tao đem nó ra mà trị tội, đánh thử ba chục roi cho nó biết tay một lần đi!
Câu 1737, 1738 = Lũ con hầu đồng thanh dạ ran lên một lượt. Thế là nàng dẫu có trăm miệng cũng chẳng sao kêu van phân trần phải trái được một tiếng nào.
Câu 1739, 1740 = Chúng nó lấy roi tre to mà hết sức đập vào người, thì thịt nào mà chẳng nát, gan nào mà chẳng kinh?
Câu 1741, 1742 = Thật đáng thương cho nàng đẹp nõn như cành hoa đào hoa mận, mà mỗi phen gặp cơn mưa gió tàn bạo như thế lại tan tành một phen.
Câu 1743, 1744 = Rồi bà lớn lại truyền đổi tên Thúy Kiều ra là Hoa Nô, và biên tên vào sổ những bọn hầu tớ gái để thay phiên nhau vào hầu.
Câu 1745, 1746 = Từ đó Kiều theo lũ thanh y ra vào hầu hạ, đầu bù tóc rối, mặt sạm da chì, chẳng quản ngại gì cả.
Câu 1747, 1748 = Có một mụ quản gia nào đó thấy nàng người đã thanh tao, có tướng mạo khác thường, tính nết lại hiền lành đứng đắn, mà cứ phải ra vào hầu hạ quần quật suốt ngày, lòng mụ rất thương tình cho nàng.
Câu 1749, 1750 = Nên mụ hết lòng săn sóc chạy chữa cho nàng khi còn ốm đòn, lúc thì mụ cho chén nước chè, bát cháo nóng để nàng ăn uống, lúc chạy thuốc chạy thang chữa vết thương đòn cho nàng lành khỏi. Mụ thấy nàng có vẻ chán đời muốn tự tử, mụ lại khéo lựa chiều ý nàng mà đem lời lẽ thuận tiện khuyên giải như mở đường cho nàng hồi tâm lại mà vui đời muốn sống.
Câu 1751, 1752 = Mụ khuyên nhủ nàng: Đã đành ở đời ta phải theo sự may rủi của số mệnh, nhưng ở trong cái kiếp liễu bồ yếu đuối ở nơi nguy hiểm này, cô cũng phải liệu cách mà lo giữ mình mới được.
Câu 1753, 1754 = Chắc đây cũng là bởi sự oan nghiệt nào đó, nên cô mới phải sa cơ mắc vào cuộc khổ nhục thế này, chứ đâu phải truyện bỗng dưng!
Câu 1755, 1756 = Ở đây là chỗ tai vách mạch rừng, trong ngoài trước sau chỗ nào cũng có tai nghe mắt nhòm dò xét cô, nên cô phải cẩn thận, có thấy ai là người quen thân đến đâu nữa, cũng chớ có nhìn nhận làm gì mà khốn đó.
Câu 1757, 1758 = Cô nên nhớ lời tôi dặn, kẻo nữa cô không biết, thấy người quen mà đăm đăm nhìn một cái, là có truyện mưa gió giận dữ nổi ngay lên, thì cái thân phận nhỏ hèn như con ong cái kiến của cô này, kêu oan cũng không được nữa đâu!
Câu 1759, 1760 = Nàng nghe lời mụ dạy, lòng càng cực cội, nước mắt tràn trụa chứa chan, biết bao nhiêu là nông nỗi lo âu, thương nhớ ngầm ngấm quanh quẩn đầy lòng.
Câu 1761, 1762 = Nàng nghĩ thương thân: Mình tưởng đã chịu đầy đủ cái kiếp khổ nhục như thế rồi, thế mà còn gặp cái kiếp tôi đòi nhục nhã khổ cực gấp đôi nữa như thế này!
Câu 1763, 1764 = Thật đáng thương cho phận mình sao mà bạc mệnh quá vậy, bạc không còn chừng hạn nào nữa! Bạc đến bao giờ mới là đủ, mới là hết? Sao mà hai chữ “bạc mệnh” ấy nó cứ khăng khăng buộc trói mãi vào người hồng nhan như vậy?
Câu 1765, 1766 = Thôi! Đành rằng do cái nợ nần kiếp trước, hay cái oan báo kiếp xưa, nó bắt mình phải giả, phải đền như vậy, thì mình đành phải chịu, và cũng đành cố sống liều cho đến lúc ngọc nát hoa tàn chứ có cần chi!
Câu 1767, 1768 = Nàng cứ nương nấu sống tạm bợ như thế mãi ở đó cho đến hôm Tiểu thư tình cờ về nhà thăm mẹ.
Câu 1769, 1770 = Mẹ con trò truyện lân la hết truyện nọ đến truyện kia mãi, rồi Phu nhân cho gọi Kiều ra và bảo:
Câu 1771, 1772 = Bên nhà Tiểu thư thiếu người hầu, vậy ta cho mi sang bên ấy hầu hạ trong lầu trang Tiểu thư.
Câu 1773, 1774 = Nàng vâng lĩnh lời Bà, mới theo Tiểu thư về, chứ biết đâu về nhà Tiểu thư thì phải khổ như vào địa ngục, hay được sướng như lên thiên đàng?
Câu 1775, 1776 = Sang đó rồi, nàng hầu hạ Tiểu thư rất cẩn thận, hầu sớm, hầu khuya, khi khăn mặt, khi lược đầu, cần đến cái gì nàng đều biết trước sẵn sàng, không cần phải sai bảo, lúc nào nàng cũng thân phận con hầu, thì phải làm hết phận sự con hầu, không dám sai lãng.
Câu 1777, 1778 = Được một đêm nhân trời mát mẻ, êm đềm, tiểu thư mới hỏi đến nghề đàn trước kia của nàng.
Câu 1779, 1780 = Nàng vâng lời lấy đàn ra sửa, vặn lại các dây cho đúng, rồi ngồi gảy. Tiếng đàn nàng gãy lúc thì như tiếng hát nỉ non cám dỗ, lại lúc thì như giọng thánh thót phĩnh phờ để làm cho lòng người phải say sưa.
Câu 1781, 1782 = Tiểu thư thấy nàng có tài như thế cũng sinh lòng thương quý, và từ hôm đó đối đãi với nàng cũng bớt vẻ nghiêm khắc.
Câu 1783, 1784 = Từ khi nàng thấy thân mình bị đầy đọa vào nơi cửa quan sang hống hách quá này, mỗi khi sớm dạy trông thấy bóng mình trước nắng, cũng than thở ngầm với bóng; và những lúc canh khuya vắng vẻ một mình, lòng lại năn nỉ nhủ ngầm với lòng.
Câu 1785, 1786 = Nàng những nhớ tiếc người đã kết nghĩa đèo bồng với mình ở Lâm Truy, cho rằng họa chăng đến kiếp sau mới lại được gặp để giữ trọn vẹn lời thề non nước.
Câu 1787, 1788 = Còn thêm nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ nữa. Người xưa xa nhà, thấy đám mây trắng ở trên núi Thái Hàng, thì biết nhà cha mẹ ở dưới đám mây đó. Nhưng nay càng cố trông mây để tìm quê cũ, thì chỉ thấy bốn phương đều mù mịt một màu mây trắng, thì còn biết phương nào là quê cha mẹ nữa.
Câu 1789, 1790 = Kiều chịu cực khổ ở đó qua ngày qua tháng. Nàng chỉ biết nỗi gần của nàng thì sầu khổ như thế, nhưng có biết đâu nỗi của Thúc Sinh ở nơi xa cũng sầu khổ chẳng kém gì nàng.
Những câu hay chữ có ý móc nối hay châm biếm:
– Những câu tác giả đặt để chuyển tiếp đoạn nọ sang đoạn kia thường rất tài tình như đã nói nhiều lần. Hai câu đầu đoạn này cũng vậy. Câu trên [Nước trôi hoa rụng đã yên] thì vừa kết liễu ý Thúc Sinh yên chí rằng Kiều đã chết thật rồi bằng chữ “đã yên.”
– Câu dưới [Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian] thì dùng chữ “hay đâu” để mở đầu ý nói Kiều vẫn còn đương sống khổ cực ở nhà Vô Tích dưới quyền Hoạn Thư độc ác.
– “Đã yên” móc nối khẩn thiết với “Hay đâu” làm cho hai câu 1705-1706 có nghĩa: Thúc cho phận Kiều thế là đã yên rồi, nhưng chàng có “hay đâu” là nàng hãy còn ở địa ngục trên đời.
– Câu Hoạn bà mắng Kiều [Ra tuồng mèo mả gà đồng/ ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào] ứng với câu [Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra/ sự mình nàng đã cứ mà gửi thưa], vì nàng ngay thực khai rõ hết nông nỗi lưu lạc của mình, khi bị Hoạn bà gạn gùng hỏi mọi lẽ.
– Câu [Tiểu thư thấy cũng thương tài/ khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân] móc nối với câu 2369 sau này khi Tiểu thư van xin Kiều tha tội [Lòng riêng riêng cũng kính yêu/ chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai].
– Những chữ “sảnh đường”, “môn phòng”, “đòi ngay lên hầu”, “thiên quan chủng tể”, “dức rằng”, và “truyền cho” tác giả đặt vào đây đều có ý mỉa mai các bà vợ quan to hay lạm dụng quyền thế hống hách để bắt nạt dân chúng.
– Những câu tả sự hách dịch, tàn ác của Hoạn bà, nhiều câu giống như tả Tú bà: (a) Câu [Giữa đường thất bảo ngồi lên một bà] giống câu tả Tú bà [Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay]; (b) Câu [Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra] giống như câu tả Tú bà [Đón rào đến mực nồng nàn mới tha]; (c) Những câu [Đã đem mình bán cửa tao/ hãy còn khủng khỉnh làm cao thế này và [Nào là gia pháp nọ bay] giống như những câu Tú bà nói [Con kia đã bán cho ta/ nhập gia phải cứ phép nhà tao đây].
Tác giả dùng những câu gần giống như thế để tả một bà mệnh phụ phu nhân và một mụ điếm già chủ thanh lâu, là ngụ ý than chê nhiều bà mệnh phụ phu nhân tuy bề ngoài oai vệ sang trọng thế, mà trong bụng chẳng khác gì những mụ tầm thường hư hỏng.
CHƯƠNG 20
CÂU 1791 ĐẾN CÂU 1938
“Thấp cao chung sợ/ Đau sướng khác lòng”
1791. Lâm Truy từ thuở uyên bay, [1]
Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
1793. Mày ai trăng mới in ngần, [2]
Phần thừa hương cũ bội phần xót xa. [3]
1795. Sen tàn cúc lại nở hoa, [4]
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân.
1797. Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương. [5]
1799. Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
1801. Tiểu thư đón cửa dã dề, [6]
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803. Nhà hương cao cuốn bức là, [7]
Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805. Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
1807. Phải chăng nắng quáng đèn lòa, [8]
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
1809. Bây giờ tình mới rõ tình,
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
1811. Chước đâu có chước lạ đời? [9]
Người đâu mà lại có người tinh ma?
1813. Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười, [10]
Mà trong nham hiểm giết người không dao. [11]
1817. Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao, bây giờ?
1819. Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
1821. Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
1823. Sinh đà phách lạc hồn siêu:
“Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
1825. Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!”
1827. Sợ quen dám hở ra lời, [12]
Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
1829. Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
 “Mới về có việc chi mà động dung?” [13]
1831. Sinh rằng; “Hiếu phục vừa xong, [14]
Suy lòng “trắc dĩ”, đau lòng “chung thiên”. [15]
1833. Khen rằng: “Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.”
1835. Vợ chồng chén tạc, chén thù, [16]
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi. [17]
1837. Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
1839. Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
1841. Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra. [18]
1843. Tiểu thư vội thét: “Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.” [19]
1845. Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay. [20]
1847. Tiểu thư cười, nói, tỉnh, say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
1849. Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài,
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.”
 1851. Nàng đà than hoán tê mê, [21]
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn. [22]
1853. Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
1855. Cùng chung một tiếng tơ đồng, [23]
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm. [24]
1857. Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương. [25]
1859. Tiểu thư lại thét lấy nàng:
“Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?
1861. Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.”
1863. Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
1865. Giọt rồng canh đã điểm ba, [26]
Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.
1867. Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
1869. Sinh thì gan héo ruột đầy,
Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
1871. Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn giong canh dài. [27]
1873. Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
1875. Chước đâu rẽ thúy chia uyên, [28]
Ai ra đường nấy, ai nhìn được ai.
1877. Bây giờ một vực một trời, [29]
Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi.
1879. Nhẹ như bấc, nặng như chì, [30]
Gỡ cho ra nữa, còn gì là duyên?
1881. Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu sóng cả, có tuyền được vay?
1883. Một mình âm ỉ đêm chày,
Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh.
1885. Sớm trưa hầu hạ đầy doành, [31]
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra. [32]
 1887. Lựa lời nàng mới thưa qua:
“Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.”
1889. Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
“Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!”
1891. Sinh đà ruột rát như bào, [33]
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
1893. Những e lại lụy đến nàng,
Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
1895. Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ. [34]
1897. Diện tiền trình với Tiểu thư,
Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
1899. Liền tay trao lại Thúc Sinh,
Rằng: “Tài nên trọng mà tình nên thương!
1901. Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên! [35]
1903. Bể trần chìm nổi thuyền quyên, [36]
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!”
1905. Sinh rằng: “Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
1907. Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.” [37]
1909. Tiểu thư rằng: “Ý trong tờ,
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không. [38]
1911. Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho cho nghỉ trong vòng bước ra.
1913. Sẵn Quan Âm các vườn ta, [39]
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. [40]
1915. Có thảo thụ, có sơn hồ,
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.”
1917. Tàng tàng trời mới bình minh, [41]
Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
1919. Đưa nàng đến trước Phật đường,
Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia. [42]
1921. Áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền. [43]
1923. Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà. [44]
1925. Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. [45]
1927. Nhân duyên đâu nữa mà mong,
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
1929. Phật tiền thảm lấp, sầu vùi,
Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương. [46]
1931. Cho hay giọt nước cành dương, [47]
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên. [48]
1933. Nâu sồng từ trở màu thiền, [49]
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,
1935. Cửa thiền, then nhặt, lưới mau, [50]
Nói lời trước mặt, rời châu vắng người.
1937. Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan sơn.
Đính chính và xác định:
Câu 1851 – “Nàng đà than hoán tê mê” – Than hoán là bệnh trúng phong làm cho trí óc mê sảng và người rùng rợn co run. Đây nói Kiều được lệnh gảy đàn cho Thúc Sinh nghe, mừng quá giật mình như bị trúng phong, người run lên. Nhiều bản Kiều đổi “than hoán” thành “choáng váng” làm trái nghĩa ý chỗ này. Bản Kiều của hai ông Kim và Kỷ in là “tán hoán” và giải nghĩa là ngẩn ngơ, mê mẩn, chưa thật đúng.
Câu 1880 – “Gỡ cho ra nữa, còn gì là duyên” = Dù cho mình có gỡ được ra thoát cảnh khổ cực chỗ này nữa, thì khi đó đã hết duyên rồi còn ai lấy nữa. Nghĩa phân minh trôi chảy như thế mà có bản Kiều quốc ngữ dịch chữ “nữa []” này ra “nợ” (vì chữ [] có thể đọc là “nữa” hay là “nợ”) cho hợp với nợ (gỡ nợ) nhưng không ai nói “gỡ cho ra nợ” mà chỉ nói “gỡ cho xong nợ.” Vả lại, để chữ “nữa” mới ăn nghĩa mật thiết với chữ “còn.”
Câu 1885 – “Sớm khuya lệ tủi đầy doành” = Những lúc sớm, lúc khuya vắng người, nàng thường tủi phận khóc ngầm, nước mắt đầy hai vành mắt. Câu này lấy ý ở câu chữ Hán [     = Sầu lệ thường doanh khuông = Nước mắt sầu tủi thường ứa ra đầy trong vành mắt] mà đặt ra. Khuông [] = Hai mí mắt. Doành = Vùng bể. Mặt doành = Mặt bể. Sách thuốc gọi mắt là ngân hải [ ] (bể bạc). Trong văn chương, mắt người khổ cực khóc nhiều vẫn gọi là lệ hải [ ] (bể nước mắt). “Sớm khuya lệ tủi đầy doành” nguyên chữ nôm viết là [𣌋𣌉 𢢇 𣹓+] nhưng vì 4 chữ sau ở bản cũ in nhòe quá, người cho khắc in lại, nhận lầm chữ [] ra [] (hầu) và cho chữ nhòe dưới phải là chữ [] (hạ), mới liền nghĩa với chữ hầu, và hợp với cảnh Kiều bấy giờ. Chữ đầy [𣹓] thì chỉ còn nửa bên hữu là [] (đài = rêu). Chữ doành [+] thì nhận lầm ra doanh [] (cái cột). Thế là câu này ở bản khắc lại lầm ra [𣌋 𣌉     = Sớm khuya hầu hạ đài doanh]. Rồi bản Kiều cụ Vũ Trinh đổi chữ [ ] (đài doanh = cái cột rêu) ra chữ [ ] (đài doanh = cái cột đền) cho có nghĩa hơn. Nhân còn giữ chữ [] này tôi mới suy nghĩ ra được chữ [+]“doành” nguyên bản, và nhân chữ [] mới suy nghĩ ra được chữ [] “lệ” nguyên bản.
Câu 1893 – “Nhưng e lại lụy đến nàng” – Chữ “nhưng” ở câu này, các bản Kiều quốc ngũ đều phiên âm là “những”, khiến cho nghĩa câu này không liên tiếp với mấy câu trên, dưới. Vậy phải để là “nhưng” mới thật đúng, và nghĩa cả bốn câu 1891, 1892, 1893, 1894 này rất liên tiếp là: Thúc Sinh đã thương Kiều nát ruột như bào. Chàng biết thừa là Kiều phải khóc thầm là vì Kiều hối hận đã lầm lỡ mà lấy chàng; là vì chàng chẳng binh vực che chở được chút nào; là vì Kiều thấy chàng vẫn vui vẻ sánh đôi với vợ cả, và bỏ lờ nàng phải lẻ loi tủi cực suốt đêm ngày. Những cớ khiến Kiều phải tủi khóc ấy mà chàng nói ra ở trước mặt Hoạn Thư thì thật là bất tiện, và thấy cảnh Kiều bị nhục thế, thì không nỡ lòng nhìn đến, nhưng Sinh lại e rằng, nếu lờ đi mặc Kiều với Hoạn Thư thì sợ nàng sẽ bị Hoạn Thư đánh đập, nên Sinh mới đánh nước bài liều, đón lấy roi mà không đánh, chỉ sẽ lựa lời hỏi Kiều mấy câu.
Câu 1915 – “Có thảo thụ, có sơn hồ” = Có cảnh hoa cỏ đẹp, cây cối mát. Có bản Kiều in chữ “thảo thụ” là “cổ thụ” nghĩa đã không đẹp bằng thảo thụ, đối lại không chỉnh với hai chữ sơn hồ. Chữ thảo thụ còn gợi trước ý câu “Tìm hoa quá bước xem người viết kinh” ở sau.
Câu 1916 – “Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh” – Chữ “chép kinh” có bản in là “đọc kinh”, có bản in là “viết kinh” đều là lầm cả. Chữ “đọc” thì thật sai hẳn nghĩa, còn chữ “viết” cũng không xác đáng bằng chữ “chép”, vì viết kinh còn có nghĩa là sáng tác ra một quyển kinh. Bên Phật giáo có tục chép kinh Phật để phân phát cầu phúc. Có người thuê chép hàng trăm quyển để phát cho dân chúng. Đây chắc Hoạn Thư cũng bắt Kiều chép kinh để phân phát cầu phúc.
Chú giải và dẫn điển
[1] Uyên bay – Uyên ương [ ] = loài chim chân vịt, có lông đẹp, sống ở sông hồ, đôi nào riêng đôi ấy, luôn ở bên nhau, nên văn sĩ vẫn dùng chữ uyên ương để chỉ vợ chồng. Đây nói uyên bay nghĩa bóng là Kiều bị bắt đi. Đáng lẽ nói là ương bay mới đúng, vì ương mới là con mái, nhưng vì tiếng ương nghe không đẹp, vì gần chữ ương ngạnh hay tai ương, nên con gái chỉ đặt tên uyên cho đẹp. Đây tác giả cũng theo tục ấy.
[2] Trăng mới in ngần = Thúc Sinh mỗi khi trông thấy trăng đầu tháng (trăng mới) hình cong như cánh cung, lại nhớ đến đôi lông mày đẹp của Kiều giống như vậy.
[3] Phấn thừa hương cũ – Văn chữ Hán có câu “Thặng phấn dư hương” [   ] = Phấn hương còn thừa của người vợ đã mất đi (làm cho chồng trông thấy, ngửi thấy, lại thương nhớ khổ sở).
[4] Sen tàn, cúc lại nở hoa – Vì sen nở về mùa hè, cúc nở về mùa thu, câu này hàm ý “mùa hè đã hết, lại sang mùa thu rồi.” Ý nghĩa thâm thúy của nó là “cái tình đằm thắm như hoa sen đối với Kiều thì đã tàn rồi, và cái tình nhạt nhẽo đứng đắn như hoa cúc, đối với Hoạn Thư lại sắp sửa nẩy nở trở lại.”
[5] Vận mệnh = Vận hạn số mệnh do trời đã định cho mình, mình đành phải chịu không thể trốn tránh được.
[6] Dã dề = Vui vẻ niềm nở.
[7] Nhà hương = Nhà có hoa lan thơm, do chữ “lan thất” [ ] dịch ra. Bản kinh để nguyên chữ là nhà lan, tức là căn nhà lịch sự, sạch thơm vẫn để tiếp khách. Bức = Bức màn may bằng vải the mỏng đẹp.
[8] Nắng quáng đèn lòa = Bị nắng làm cho quáng mắt, bị đèn làm cho lóa mắt. Ý câu này là: Nào có phải mắt Kiều bị nắng, bị đèn làm quáng lòa đi đâu. Rõ ràng là Kiều trông thấy Thúc Sinh ngồi kia hẳn hoi.
[9] Chước = Mưu mẹo đặt ra để lừa người. Chước lạ đời = Mưu mẹo khéo đặt thâm hiểm lạ lùng ở trên đời.
[10] Thơn thớt = Cười nói một cách rất vui vẻ ở bề ngoài.
[11] Giết người không dao – Chữ Hán có câu “Sát nhân vô đao kiếm” [    ] = Giết người không cần dùng đến dao gươm. Lại có câu “Lý Lâm Phủ tiếu trung hữu đao” [      ] = Trong cái cười tươi của Lý Lâm Phủ có lưỡi dao giết người. (Lý Lâm Phủ là một tay gian tướng đời nhà Đường).
[12] Sợ quen = (Thúc Sinh) sợ vợ đã thành thói quen đi rồi.
[13] Động dung [ ] = Đổi nét mặt vì lòng thương cảm.
[14] Hiếu phục [ ] = Mặc quần áo tang mẹ. Xem câu này thì biết Thúc Sinh lấy Kiều trong khi còn tang mẹ là trái lễ trái luật nên lại sợ Hoạn Thư không dám nhận Kiều làm vợ lẽ.
[15] Trắc dĩ [ ] = Nhớ mẹ. Trong Kinh Thi có mấy bài thơ của người lính thú phương xa tả lòng nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ anh. Bài nhớ mẹ có câu “Trắc bi dĩ hề, chiêm vọng mĩ (mẫu) hề” [      ] = Lên núi kia này, trông ngóng mẹ này.Chung thiên – Sách Nho gọi con để tang cha mẹ là “Chung thân chi tang” [   ]= Cuộc tang chở suốt đời. Vì vậy người con gọi tang cha mẹ là chung thiên, nghĩa là cho đến lúc hết tuổi trời cho. Nghĩa cả câu: Suy lòng người xưa nhớ mẹ này, thì ta thương mẹ suốt đời.
[16] Chén tạc, chén thù – Tạc [] = Chén rượu mời. Thù [] = Chén rượu mời trả lại.
[17] Trì hồ [ ] = Người cầm hồ rượu mà đứng hầu, thấy chén ai cạn thì đến rót mời thêm.
[18] Giạm = Nói ướm trước. Giạm bài lảng ra = Thúc Sinh tỏ ý mình say rồi, muốn thôi không uống nữa để Kiều khỏi phải đứng hầu.
[19] Có đòn = Lời đe đánh đòn của kẻ trên hống hách với tôi tớ.
[20] Bồ hòn = Thứ quả cây hình tròn mà cũng có hột đen như quả nhãn, nhưng vỏ có nhiều nhựa rất đắng và dùng để giặt quần áo được. Quả bồ hòn trông rất ngon, trẻ con không biết bỏ vào mồm ăn là vội nhè ra ngay. Cho nên khi gặp việc đắng cay đau khổ mà cứ phải đành chịu, thì nói là “ngậm quả bồ hòn.” Cao dao có câu “Đắng cay em ngậm quả bồ hòn/ Con nhà gia thế mà chồng con kém người.”
[21] Than hoán [ ] = Bịnh trúng phong làm thần kinh tê dại, gân thịt co run.
[22] Bình the = Bức bình phong bằng the căng trong mấy khung gỗ.
[23] Tơ đồng = Cây đàn làm bằng gỗ cây ngô đồng [ ]. Tiếng tơ đồng = Tiếng đàn gảy. Theo sách Hán, xưa kia có người đốt gỗ ngô đồng để nấu cơm. Ông Sái Ung nghe tiếng lửa nổ kêu sang sảng, biết là gỗ làm đàn tốt, liền đổi gỗ củi khác, xin về làm đàn. Quả nhiên tiếng đàn gảy rất hay, vì vậy mà người sau mới biết dùng gỗ cây ngô đồng làm thân cây đàn.
[24] Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm = Hoạn Thư thấy Thúc Sinh nghe đàn, lòng đau thương Kiều quá, mà sợ mình chẳng dám nói gì, lòng mụ rất vui thích, phải cố nhịn cười ra mặt, phải nhúm miệng lại mà cười nụ. Còn Thúc Sinh đau xót quá, nhưng sợ vợ phải bấm bụng mà khóc thầm ở bên trong.
[25] Giọt sương = Giọt nước mắt cố kìm hãm lại chỉ còn như hạt sương bám vào cánh hoa.
[26] Giọt rồng – Đồng hồ cổ của Tàu có ba cái hồ bằng đồng (gọi là “đồng hồ” [ ]) để chứa nước. Hồ trên chứa đầy nước cho chảy dần qua lỗ con ở đáy xuống hồ thứ hai. Nước hồ thứ hai lúc nào cũng chứa có chừng hạn đến một lỗ ở gần miệng hồ. Đáy hồ thứ hai này có cái vòi làm hình con rồng, miệng rồng có cái lỗ rất nhỏ để nước rỏ từng giọt xuống hồ thứ ba. Hồ thứ ba này có cái thẻ ghi giờ khắc cắm trên cái phao. Nước đầy dần, và đưa dần cái thẻ chỉ giờ khắc lên. Trông giờ khắc nào ngang với sợi dây căng ngang trên miệng hồ, thì biết là mấy giờ mấy khắc. Chữ “giọt rồng” ở đây tức là giọt nước đồng hồ chảy qua vòi rồng kể trên.
[27] Đèn giong = Ngọn đèn đốt sáng suốt đêm.
[28] Rẽ thúy chia uyên – Thúy là chữ tắt của phỉ thúy [ ], uyên là chữ tắt của uyên ương [ ]. Phỉ thúy và uyên ương là hai giống chim đều có lông đẹp và đều đôi nào riêng đôi ấy suốt đời ở với nhau. Rẽ thúy chia uyên = Làm chia rẽ đôi vợ chồng ra mỗi người một nơi.
[29] Một vực một trời = Cao thấp cách nhau xa quá như trên đỉnh trời với dưới đáy vực. Chữ Hán có từ ngữ “Thiên uyên tương khứ” [   ] = Trời vực cách nhau.
[30] Nhẹ như bấc, nặng như chì = (Kiều nghĩ thân phận mình) thì nhẹ như bấc, mà lòng sầu buồn lo sợ thì lúc nào cũng nặng như chì.
[31] Xem lời đính chính câu 1885 ở mục đính chính và xác định bên trên.
[32] Chạm mặt = Gặp mặt.
[33] Rát ruột như bào – Khi Thúc Sinh thấy Kiều tủi khóc thê thảm thì chàng đau đớn như ruột bị bào bị nạo.
[34] Thân cung [ ] = Tờ khai bày tỏ sự lòng và ý nguyện của mình.
[35] Đúc nhà vàng – Lúc vua Hán Vũ Đế còn nhỏ, mới làm Thái tử, một hôm đến chơi nhà bà Trưởng công chúa, bà chỉ mấy người thị nữ thật đẹp mà hỏi đùa Thái tử có muốn lấy cô nào không? Thái tử đều lắc đầu. Rồi bà chỉ con gái bà mới lên 7 tuổi, mà hỏi có muốn lấy Ả Kiều không? Thái tử nói “Nếu cháu lấy được Ả Kiều, thì cháu đúc nhà vàng cho ở!” Vì truyện này người sau mới có câu “Kim ốc trữ Kiều” [   ] = Đúc nhà vàng để chứa nàng Kiều.
[36] Bể trần – Chữ Hán là “trần hải” [ ] = “bể bụi” để ví người ta sống ở đời như sống ở trong vùng rộng như bể, đầy những bụi bậm khổ sở.
[37] Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa – Thúc Sinh thấy Hoạn Thư có vẻ ngơ ngẩn về tài của Kiều, mới thừa cơ mà liều khuyên răn Hoạn Thư nên theo đức từ bi của Đức Phật mà bớt tay ác nghiệt với Kiều đi. Nhưng vì câu này hơi tối nghĩa, có thể giảng ngược lại được là: liệu mà bớt tay từ bi đi, nên có người đọc chữ “từ bi” [ ] là “từ bây âu liệu” nghĩa là bớt tay từ bây giờ trở đi mới vừa. Đọc thế cũng có nghĩa thanh thoát xuôi hơn, nhưng chữ “từ” nôm viết là [] (tự = từ) mới đúng. Vả lại nếu nói thì giờ thì phải nói “từ bây giờ” mới có nghĩa, không ai nói “từ bây” bao giờ. Tác giả đặt chữ “từ bi” ở đây là có ý nhắc trước việc thờ Phật ở dưới. Còn câu dẫn điển ở cuốn Kiều Trần Trọng Kim ở trong cuốn Thanh Tâm Tài Nhân là [“Hiền thê tu từ bi dã” [     ] = Hiền thê nên từ bi vậy] không thành văn lý gì cả, không đáng tin.
[38] Cửa Không – Do chữ Hán “không môn” [ ] (cửa Phật] vì đạo Phật cho cái gì cũng là không cả.
[39] Quan Âm Các = Lầu thờ Phật Quan Thế Âm.
[40] Cây trăm thước, hoa bốn mùa – Câu này mượn ý ở câu trong kinh Phật “Bồ đề bách sích thụ, liên tọa tứ thì hoa” = [        ] = “Bồ đề là cây cao trăm thước, tòa sen là hoa nở bốn mùa”  để tả cảnh trong vườn gác Quan Âm có cây to bóng mát, bốn mùa đều có hoa nở đẹp.
[41] Bình minh = Lúc sáng sớm chưa mọc mặt trời.
[42] Tam Quy = “Quy y Phật, quy y Pháp, Quy y Tăng” [      ] = Phát nguyện đem cả thân và lòng hướng về Phật, hướng về đạo Phật, hướng về các vị sư chân chính theo đạo Phật. Ngũ Giới = Năm giới luật phải tuân theo = 1/ Giới dâm [ ]: răn không mê chuyện trai gái, 2/ Giới tửu [ ]: răn không uống rượu, 3/ Giới vọng [戒妄]: răn không nghĩ bậy, làm bậy, 4/ Giới đạo [ ]: răn không trộm cắp, 5/ Giới sát [ ]: răn không sát sinh.
[43] Pháp danh [ ] = Tên đặt lúc xin theo đạo Phật. Bên đạo Phật, cái gì thuộc về Phật cũng đều gọi là Pháp, như con nuôi Sư gọi là Pháp tử, áo mặc lễ Phật gọi là Pháp y, các đồ đạc thờ Phật gọi là Pháp khí [ ].
[44] Xuân, Thu là tên rút ngắn của hai đứa gái hầu coi sóc Kiều (Xuân Lan và ThuNguyệt).
[45] Rừng tía – Trong Tây Du Ký có địa danh [“Tử trúc lâm” [  ] = Rừng tre tía”] là chỗ Phật Thế Âm ở. “Rừng tía” câu này là cảnh Phật, đối lại với “Bụi hồng” là cõi tục.
[46] Pho thủ tự [ ] = Bộ sách tay Kiều chép. Nồi tâm hương = Nồi hương do tâm niệm thành kính mà nàng đốt từng nén cắm vào để cầu nguyện. Ý câu này: Ngày thì nàng chép kinh luôn tay, đêm thì đốt hương ngồi niệm Phật để khuây lòng.
[47] Giọt nước cành dương – Cành dương = Cành dương liễu. Chỉ riêng lá dương liễu mặt trên bạc hơi trắng mà mặt dưới lại xanh, có ý hướng về cõi âm, về linh hồn, nên Phật Quan Âm dùng cành lá dương liễu để vẩy nước cam lồ vào chúng sinh cho linh hồn người sống kẻ chết đều được mát mẻ hay siêu sinh tịnh độ.
[48] Lửa lòng = Lòng nóng nẩy bồng bột, nó sui người sinh lòng ham muốn tình dục.
[49] Mầu thiền = Ăn mặc theo lối tu hành như quần áo nâu sòng, ăn chay dưa muối.
[50] Quan phòng = Canh giữ phòng bị không cho Thúc Sinh và Kiều gặp nhau. Hoạn Thư cắt hai thị tỳ Xuân và Thu đảm nhiệm việc đó rất nghiêm ngặt để hai bên không thông tin tức cho nhau được.
Diễn ra văn xuôi:
Câu 1791, 1792 = Từ khi Kiều ở Lâm Truy bị bắt mang đi mất tích, thật đáng thương cho Thúc Sinh trong cảnh cô đơn, lúc nào cũng ngơ ngẩn tiếc thương suốt ngày qua tháng.
Câu 1793, 1794 = Mỗi khi chàng trông thấy trăng non đầu tháng in thành ngần sáng cong cong ở trên trời, thì chàng lại nhớ đến đôi lông mày đẹp hình cánh cung của Kiều. Nhất là mỗi khi chàng thấy những hộp son phấn thừa, hay thoang thoảng ngửi thấy những mùi sáp thơm cũ của nàng, thì chàng xót xa bội phần.
Câu 1795, 1796 = Chàng nhớ Kiều mãi, trải qua mùa hè ao sen đã tàn, lại sang thu hoa cúc lại nở. Mối sầu thương của chàng thì dài, mà ngày tháng thì ngắn, bỗng lại mùa đông qua mùa xuân đến.
Câu 1797, 1798 = Ôi! Còn tìm đâu cho thấy người yêu cũ nữa! Thày đồng nói một năm nữa mới tìm thấy nhau, thì nay đây đã trải qua bốn mùa rồi đó, mà nào có được tin tức gì đâu! Thôi số vận đã định ra thế rồi, chàng đành chịu vậy mà khuây dần nỗi nhớ thương.
Câu 1799, 1800 = Nỗi tiếc Kiều đã nguôi dần đi rồi, Thúc Sinh mới động lòng nhớ đến quê Vô Tích, thế là chàng lại về thăm quê nhà.
Câu 1801 = Khi chàng về đến quê Vô Tích, Hoạn Thư ra cửa đón rất niềm nở, vợ chồng gặp nhau rất mừng rỡ, hả hê.
Mấy lời nhận xét thêm:
Từ câu 1802 đến 1938, tác giả tả cách Hoạn Thư đối với chồng, bề ngoài thì thật đứng đắn, có lễ độ, đúng với câu “Ở ăn thì nết cũng hay.” Nhưng bề trong, mụ coi chồng rõ như đứa trẻ con, bắt thế nào phải y theo như thế – làm cho chồng muốn khóc, lại bắt chồng phải cười; làm chồng đau đớn trong bụng lại bắt chồng phải tươi vui ngoài mặt; làm chồng sát mặt với người yêu mà không dám nhìn. Thật đúng với các câu “Đến điều giàm buộc thì tay cũng già” và “Làm cho nhìn chẳng được nhau/ làm cho đau đớn cất đầu chẳng lên.”
Câu 1802 đến 1804 = Khi tiểu thư chào mừng hỏi han đủ mọi điều lề lối lẽ phép xa gần rồi, nàng mới rước chàng vào ngồi chỉnh chẹn ở trong căn nhà khách thơm nức những mùi hoa lan; nàng lại sai quấn gọn bức màn the lên. Bấy giờ nàng mới truyền cho gọi Hoa Nô ở trong buồng ra lạy mừng ông chủ.
Câu 1805, 1806 = Kiều thấy tiểu thư gọi ra lạy mừng chồng tiểu thư, đã có ý ngờ, nên bước ra vừa ngần ngại, vừa sẽ đưa mắt nhìn xa thì biết ngay là bụng mình ngờ đoán không sai.
Câu 1807, 1808 = Kiều nghĩ: Nào đâu có phải là nắng làm quáng mắt mình hay đèn làm lòa mắt mình! Cái người ngồi đó rõ ràng là Thúc Sinh thật rồi!
Câu 1809, 1810 = Bây giờ mình mới rõ thực tình của sự tình này là thế! Thôi, thôi! Thế là mình đã mắc vào trong vòng đánh ghen ghê gớm này rồi!
Câu 1811, 1812 = Mưu chước đâu lại có cái mưu chước lạ lùng khác đời như thế? Và người đàn bà nào lại có cái tinh ma quỷ quyệt thế này!
Câu 1813, 1814 = Rõ ràng một lứa đôi người ta như thế, mà làm chia rẽ thành ra con ở một nơi, chủ nhà một nơi như vậy!
Câu 1815, 1816 = Ngoài mặt thì thơn thớt nói cười như thế, mà trong bụng thì hiểm độc giết người không cần dao như thế!
Câu 1817, 1818 = Bây giờ thì mình thấp hèn như ở dưới đất, mà chàng thì cao quý như ở trên trời, thì mình biết ăn nói làm sao với nhau bây giờ nhỉ?
Câu 1819, 1820 = Nàng càng nhìn mặt chàng, thì mặt nàng càng ngẩn ngơ và lòng nàng càng bối rối như mớ tơ vò từng khúc ruột.
Câu 1821, 1822 = Nàng biết đích xác là Thúc Sinh rồi, nhưng sợ oai Hoạn Thư đâu dám nhận và đâu dám không vâng lời, cứ việc một chiều cúi đầu nép xuống sân mà lạy.
Câu 1823, 1824 = Về phần Thúc Sinh, thoạt trông thấy Kiều, chàng giật mình sợ bạt hồn vía và bụng nghĩ: Thương ôi! Đúng là Kiều đây rồi chứ còn ai nữa!
Câu 1825, 1826 = Mà nhân cớ làm sao mà nàng phải chịu khổ nhục đến thế này? À thôi, thôi! Ta mắc mưu vào tay mụ này rồi!
Câu 1827, 1828 = Chàng thương vậy, nghĩ vậy, nhưng vì sợ vợ đã quen, nên chẳng dám hé môi nói nửa lời, song không thể nào ngăn được nước mắt thương nàng rơi xuống.
Câu 1829, 1830 = Tiểu thư để ý thấy chàng buồn bã khóc thầm như vậy, mới tra hỏi ngay rằng: Kìa! Chàng mới về, đang vui vẻ như vậy, bỗng vì cớ gì mà động lòng thương cảm, để sắc mặt hóa buồn như vậy?
Câu 1831, 1932 = Sinh thoái thác ra chuyện khác mà thưa rằng: Tôi buồn khóc là vì tuy vừa mới đã hết chở mẹ rồi, nhưng suy nghĩ đến tấm lòng nhớ mẹ của người làm bài thơ ‘Trắc dĩ’ đời xưa, tôi những đau xót cái tang ‘chung thiên’ không bao giờ quên được này!
Câu 1833, 1834 = Thấy Thúc Sinh hèn quá, thương Kiều quá, nhưng sợ mình phải lờ đi, Hoạn Thư rất mừng là có thể bắt nạt thế nào cũng phải chịu; lại thấy chàng nói dối mình như nói dối đứa trẻ con, nên cũng khinh chàng như đứa trẻ con và làm như tin lời chàng nói là thật mà khen chàng một cách khinh bạc rằng: Chàng thật là một hiếu tử đáng khen lắm! Thôi xin chàng đừng buồn nhớ mẹ nữa. Tôi xin đặt tiệc tẩy trần để giải phiền trong buổi đêm thu này.
Câu 1835, 1836 = Thế là Hoạn Thư bày tiệc tẩy trần, vợ chồng chén tạc chén thù mời lẫn nhau, và bắt Kiều khoanh tay bưng hồ rượu đứng hầu, thấy ai uống cạn chén thì sẽ phải lại đón lấy chén rót cho cả hai bên.
Câu 1837, 1838 = Tiểu thư còn đem đủ lễ nghi ra mà bẻ bắt Kiều đủ điều: khi rót rượu phải quỳ xuống mà dâng chén lên, khi mời rượu phải tự tay nâng chén mà đổ vào miệng Thúc Sinh. Tiểu thư bắt làm thế là vừa có ý làm nhục nhã Kiều, vừa làm cho Thúc, Kiều kề sát mặt nhau mà chẳng dám nhìn nhau cho càng khổ tâm.
Câu 1839, 1840 = Thúc Sinh thương nàng quá, tâm trí như dại như ngây, vừa tuôn nước mắt giọt ngắn giọt dài, vừa đón uống chén rượu mời chẳng biết chén đầy vơi thế nào.
Câu 1841, 1842 = Chàng đã bấm bụng ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn Kiều, lại còn phải bỗng lúc gượng nói, lúc gượng cười để lấy lòng tiểu thư. Rồi chàng muốn mượn cớ là say rồi để tỏ ý lảng ra, từ trối không uống nữa cho Kiều khỏi quỳ mời nhục nhã.
Câu 1843, 1844 = Tiểu thư liền quát Kiều: Này con Hoa! Nếu mày không mời được chàng uống cạn mấy chén nữa thì sẽ đòn vào xác đó!
Câu 1845, 1846 = Thấy tiểu thư dọa đánh Kiều, Thúc Sinh thương sợ quá như nát ruột tan hồn, liền đón lấy chén rượu nàng mời mà dù lòng chàng đau thương cay đắng thế nào, chàng cũng cố làm ra bộ vui vẻ mà uống cạn ngay.
Câu 1847, 1848 = Tiểu thư tuy ngoài mặt vui vẻ, cười cười nói nói, lúc tỉnh lúc say, nhưng trong lòng vẫn chưa hả hê thật, còn muốn hành hạ cả đôi nữa cho thật bõ ghét, nên chưa xong cuộc rượu, lại còn bày ra trò chơi nữa.
Câu 1849, 1850 = Nàng khoe với Sinh rằng: Con Hoa Nô này nó thật đủ mọi tài! Tôi bảo nó gẩy một bản đàn cho chàng nghe nhé!
Câu 1851, 1852 = Được lệnh gảy đàn cho chàng nghe, Kiều thấy dịp tốt để ngầm tỏ nỗi mình với Thúc Sinh thì nàng mừng quá, cảm động quá, tâm thần mê đi, thân thể run lên như bị bệnh trúng phong gọi là “than hoán.” Nàng liền vâng lời, mang cây đàn ra ngồi ở trước bức bình phong bằng the căng trong khung gỗ, mà vặn lại các dây rồi gảy.
Câu 1853, 1854 = Bốn dây đàn bật ra những tiếng như khóc như than, rầu rĩ thê thảm, khiến cho Thúc Sinh ngồi trên bàn tiệc đang vui thế mà cũng phải tan nát lòng vì đau thương.
Câu 1855, 1856 = Rõ thật là vẫn một tiếng dây tơ gỗ đồng ấy, mà để một người (Hoạn Thư) thì lòng vui ngoài miệng tủm tỉm cười nụ, một người (Thúc Sinh) thì mặt buồn thiu, trong lòng tê tái khóc thầm.
Câu 1857, 1858 = Thúc Sinh cảm thương quá, không thể cầm được nước mắt, cứ phải cúi đầu xuống mà gạt ngầm những giọt lệ hãm không được, đầm đìa tuôn ra như hạt sương bám ở mí mắt.
Câu 1859, 1860 = Tiểu thư muốn bắt Thúc Sinh thương Kiều mà không dám khóc, vừa cho càng khổ lòng hơn, mới quát Kiều rằng: Trong tiệc vui sao lại dám gảy khúc ‘Đoạn Trường’ ấy làm gì vậy?
Câu 1861, 1862 = Sao mà ngu thế! Chẳng biết ý tứ gì cả, để làm cho chàng phải buồn bã như thế là tội mày đó.
Câu 1863, 1864 = Thúc Sinh đã thương Kiều quá rồi, thấy Hoạn Thư kết tội dọa Kiều, chàng lại càng thảm thiết lo thương bội phần, bèn vội vàng gượng nói gượng cười làm ra vui vẻ cho qua chuyện để Kiều khỏi bị tội trách.
Câu 1865, 1866 = Bây giờ đêm đã khuya, trống canh ba đã điểm, Hoạn Thư nhìn vẻ mặt khổ não của đôi Thúc Kiều, lòng dạ có vẻ hả hê đầy đủ rồi.
Câu 1867, 1868 = Trong bụng nàng rất hí hửng, mừng thầm là đã báo thù Thúc và Kiều được một cách thật đích đáng thỏa mãn: cái vui buổi hôm nay thật đã bõ với cái buồn trong suốt một năm trời nay!
Câu 1869, 1870 = Về phần Thúc Sinh thì thật khô héo ruột gan, tức giận đầy lòng, càng nghĩ đến nông nổi mình và nông nỗi Kiều, lại càng cay đắng căm thù, mà đành phải chịu.
Câu 1871, 1872 = Thế là Thúc, Kiều lìa rẽ nhau một cách thê thảm – chàng thì phải ôm hận vào chung gối trong phòng với ác phụ, nàng thì phải ra ngồi lẻ loi với bóng ở trước ngọn đèn giong suốt đêm dài.
Câu 1873, 1874 = Kiều nghĩ: Bây giờ mình mới biết tăm hơi sự tình là thế! Gớm cho máu ghen của mụ này sao mà thâm độc lạ lùng đến thế?
Câu 1875, 1876 = Mưu kế chia rẽ vợ chồng người ta được đến thế là cùng! Thật rõ ràng người nào ra đường người ấy, chẳng ai còn đoái hoài được ai nữa.
Câu 1877, 1878 = Bây giờ hai người cao thấp cách biệt nhau xa quá – chàng thì như ở trên đỉnh trời, ta thì ở dưới đáy vực. Ta với chàng thế là bên khinh bên trọng, thật là hết điều giao thiệp với nhau. Ta với mụ thế là thân con đòi với bà chủ, không ai có lời chê trách được mụ là ghen tuông cả lẽ gì nữa.
Câu 1879, 1880 = Ôi! Ở trong cảnh thân phận và tính mạng rẻ như bèo, nhẹ như bấc, mà tâm hồn lúc nào cũng đầy những nỗi cực nhục lo sợ nặng như đá như chì này, chẳng biết có bao giờ ta gỡ cho thoát ra khỏi được không? Mà dù cho có gỡ ra khỏi được nữa, thì cũng đã già đời hết duyên rồi còn mong gì nữa!
Câu 1881, 1882 = Cái thân gái thuyền quyên của ta đã lỡ làng đến mực này, chẳng biết có toàn được ở nơi bể sâu sóng cả này không?
Câu 1883, 1884 = Nàng ngồi thức một mình, nghĩ âm ỉ mãi suốt đêm, lúc nào cũng tràn trụa nước mắt mà ngắm đĩa dầu đèn cạn dần dần.
Câu 1885, 1886 = Từ đó, lúc khuya lúc sớm, lúc vắng người, lúc nào nàng cũng khóc ngầm, nước mắt ứa đầy hai vành mắt như hai bể lệ sầu. Tiểu thư thấy mặt nàng khóc như vậy, sợ nàng khóc để cầu cứu với Thúc Sinh, mới tra hỏi cho rõ cớ làm sao mà khóc.
Câu 1887, 1888 = Nàng mới lựa lời mà thưa qua cho xong lần rằng : Tôi khóc là vì tôi bỗng thương xót cho nông nỗi thân phận tôi.
Câu 1889, 1890 = Hoạn Thư muốn bắt Thúc Sinh phải đánh Kiều mới ngoảnh lại hỏi chàng có biết cớ nào mà Kiều khóc không và nhờ tra khảo. Thúc Sinh muốn nói thật những cớ mình biết ra nhưng không tiện.
Câu 1891, 1892 = Trước cảnh thê thảm này, ruột Thúc Sinh đã bị đau rát như bị lưỡi bào nạo, muốn nói ra lời van xin hộ Kiều thì không thuận tiện, sợ Hoạn Thư càng giận thêm, mà trông vào cảnh khốn cực của Kiều thì không sao đành lòng không nói được.
Câu 1893, 1894 = Và chàng cũng không nỡ để Hoạn Thư xử tàn tệ với Kiều quá, nên chàng đành liều nhận lời Hoạn Thư, nhưng chỉ ôn tồn lựa lời vừa sẽ hỏi, vừa sẽ dọa cho xong việc.
Câu 1895, 1896 = Kiều mới cúi đầu quỳ xuống trước sân lát gạch hoa, mà viết ngay một tờ cung khai kể rõ thân thế lưu lạc, tình cảnh cơ cực, và tỏ ý muốn xin đi tu cho thoát ly cõi tục.
Câu 1897 đến 1900 = Viết xong nàng đưa lên trình ngay trước mặt Tiểu thư. Thoạt nhìn tờ nàng viết, thấy chữ tốt văn hay, tình ý thảm thiết, Hoạn Thư bỗng ngẩn ngơ, có tình thương nể, mới đưa cho Thúc Sinh xem và nói:
Câu 1901, 1902 = Người này tài thật đáng trọng, và tình thật đáng thương, ví mà có số giầu sang ra, thì thật được người ta đúc nhà vàng cho ở cũng xứng đáng.
Câu 1903, 1904 = Nhưng tiếc thay số xấu quá, thành ra con người thuyền quyên này phải chìm nổi trong bể đời bụi đục. Thật là đáng thương cho kiếp hữu tài mà vô duyên như thế!
Câu 1905, 1906 = Thấy Hoạn Thư đã có ý thương nể Kiều, Thúc Sinh mới dám thừa cơ khuyên nhủ vợ rằng: Thật đúng như lời hiền thê nói. Nhiều kẻ hồng nhan bạc mệnh như vậy, chứ nào có một ai đâu!
Câu 1907, 1908 = Số kiếp những khách hồng nhan xưa nay vẫn thường thế. Vậy tôi dám khuyên hiền thê nên đem lòng từ bi mà đối đãi với nàng, liệu bớt tay cho vừa vừa phải đạo đi!
Câu 1909, 1910 = Thấy chồng đã có ý liều dám tỏ ý bênh vực Kiều lại thấy chàng đem đạo từ bi phải chăng ra khuyên nhủ, Hoạn Thư liền nghĩ được một cách giam lỏng Kiều vào chùa để chia rẽ hẳn hai bên tình nhân một cách rất êm đềm chắc chắn và rõ đứng đắn theo lời chàng khuyên bảo, mới vui vẻ nói với chàng rằng: Chàng dạy phải lắm! Xem ý trong tờ này thì nàng muốn đem thân phận bạc mệnh của nàng đi nhờ cửa Phật cho sạch hết trần duyên.
Câu 1911, 1912 = Thôi thì tôi cũng chiều lòng cô ta cho cô ta đi tu, để cô ta được ra khỏi vòng trần lụy.
Câu 1913, 1914 = Nhà ta đã có sẵn gác Quan Âm, vườn ở đây có đủ cảnh nhà Phật: nào là cây trăm thước (cây cao tượng trưng cây bồ đề chỗ Phật Thích Ca ngồi mặc niệm thành đạo), nào là hoa bốn mùa (cây mùa nào cũng có hoa, tượng trưng tòa sen).
Câu 1915, 1916 = Lại có cây cối mát mẻ, có hoa thơm đẹp và núi non bộ, hồ thả sen. Ta cho nàng ra tu ở đó, giữ đèn hương thờ Phật và chép kinh cầu phúc.
Câu 1917, 1918 = Sáng hôm sau, trời mới tàng tàng bình minh, Tiểu thư đã sai người sắm sanh sắp sửa đủ các thứ hương hoa ngũ quả cúng lễ thường ở Quan Âm Các.
Câu 1919 đến 1922 = Rồi đưa nàng ra trước bàn thờ Phật, làm đủ các lễ Tam Quy, Ngũ Giới cho nàng bỏ nhà ra tu ở đó; thay bỏ bộ áo xanh mà mặc bộ áo cà sa, và theo lệ nhà Phật đặt pháp danh nàng là Trạc Tuyền.
Câu 1923, 1924 = Tiểu thư lại sai cấp đủ số dầu đèn đốt thờ sớm khuya, và cắt hai gái Xuân Hoa và Thu Nguyệt ở luôn đó hầu hạ giúp nàng mọi việc thờ Phật như đốt hương pha trà.
Câu 1925, 1926 = Từ khi nàng ra ở riêng biệt nơi vườn này, thật là ở gần cõi Phật, ở xa cõi trần.
Câu 1927, 1928 = Lòng nàng thoảng không, chẳng còn mong gì về đường nhân duyên nữa, chỉ còn chút mừng là may được khỏi thẹn với tấm hồng nhan của mình.
Câu 1929, 1930 = Trước bàn thờ Phật vùi lấp được mọi nỗi thảm sầu, ban ngày thì chép kinh làm bạn với pho thủ tự, ban đêm thì đốt hương niệm Phật, coi cái nồi hương như bạn tâm tình.
Câu 1931, 1932 = Thế mới biết phép Phật làm nguội lạnh được mọi nỗi lòng trần, y như lời người ta nói nước cành dương rẩy tắt được lửa lòng phiền não.
Câu 1933, 1934 = Từ khi nàng ăn mặc nâu sòng ra đây tu đến giờ đã được ra sân ngắm trăng thu tròn sáng đứng đỉnh đầu vài phen rồi.
Câu 1935, 1936 = Vì sự canh phòng nghiệm ngặt cẩn mật quá của hai con Xuân và Thu, trước mặt chúng nó, nàng vẫn nói năng như thường, nhưng mà khi vắng người, nàng thương thân không thể nào nhịn rơi lệ khóc thầm được.
Câu 1937, 1938 = Tuy gác kinh và viện sách đôi nơi cách nhau rất gần, chỉ trong gang tấc, mà hóa ra còn xa gấp muôn lần núi nọ ải kia.
Những câu và chữ có ý móc nối hay khen chê
– Đoạn Truyện Kiều này có nhiều câu ứng nghiệm với mấy câu đoạn trên. Những câu ứng nghiệm với hai câu 1795 và 1796 thày Đồng nói : [Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân] ứng nghiệm với câu 1696 [Một năm nữa mới thăm dò được tin] (hết mùa sen (hạ) qua mùa cúc (thu), lại hết mùa đông qua mùa xuân, đủ bốn mùa đúng được một năm).
– Những câu tả cảnh Thúc Sinh được Kiều rót rượu phải quỳ tận mặt mời tận tay, lòng Sinh thương vô cùng mà sợ vợ quá, không hề dám nhìn, phải: [Ngoảnh đi chợt nói chợt cười].
– Những câu tả Kiều phải ra chào lạy Thúc Sinh thì: [Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều].
– Khi được Thúc Sinh liều thân sẽ liệu đường hỏi tra, thì đành:[Cúi đầu quỳ trước sân hoa] mà viết tờ cung chiêu rồi lại: [Diện tiền trình với Tiểu thư], chứ không dám nhìn mặt Thúc Sinh.
– Hai từ ngữ “ngoảnh mặt” và “cúi đầu” rõ ứng nghiệm với câu thày Đồng nói: [Hai bên giáp mặt chìn chìn/ Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay].
– Đều ứng nghiệm với những câu Hoạn Thư kể mưu sâu cho mẹ nghe: [Làm cho cho mệt cho mê], [Làm cho đau đớn ê chề cho coi], [Làm cho bõ ghét những người] là những câu: [Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi], [Bắt khoan bắt nhặt đến lời], [Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay], [Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn], [Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi], [Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay], [Giọt châu lã chã khôn cầm], [Cúi đầu chàng những gạt ngầm giọt sương].
– Đọc suốt đoạn này, chúng ta nhận thấy Hoạn Thư tuy dùng những ngón đòn ngầm thâm độc làm chồng đau đớn đủ phần, mà bề ngoài nàng vẫn rất mực lễ độ với chồng, thật đúng với hai câu tác giả Truyện Kiều giới thiệu nàng: [Ở ăn thì nết cũng hay/ Đến điều giàm buộc thì tay cũng già] và cũng đúng với câu Kiều phê bình nàng: [Bề ngoài thơn thớt nói cười/ Mà trong nham hiểm giết người không dao].
– Hai câu lục bát [Nhà hương cao cuốn bức là/ Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng] mở đầu cho cuộc phân ly tuyệt đối, và cho cuộc đòn ngầm độc ác, đánh cho cả đôi Kiều và Thúc cũng bị đau đớn tái tê, mà không dám thở than nửa lời. Ác phụ đã khéo đặt chồng lên ngôi ông chủ cao quý đường bệ, và hạ tình địch xuống địa vị quá hèn hạ, để lấy quãng không gian ngắn ngủi từ chỗ ông chủ ngồi đến chỗ sân con ở lạy, làm bức hàng rào cao kín rẽ thúy chia loan. Cái bức thành hư vô mà rất độc ác, nó làm cho chàng càng thấy mình cao quý bao nhiêu, lại càng thấy nàng hèn kém bấy nhiêu và lòng chàng càng khổ ngầm bấy nhiêu; và nàng càng thấy ác phụ tôn trọng chàng bao nhiêu lại càng thấy lòng mình khốn cực bẽ bàng bấy nhiêu.
Ác phụ đã lấy địa vị mà giàm được miệng chồng, buộc được tay chồng rồi, mụ mới tha hồ ra tay giở những ngón đòn “đánh khói cho đau lòng lửa” để “lửa” trông thấy nhỡn tiền mà đành ngồi chịu đau đớn gạt thầm nước mắt.
– Suốt đoạn Truyện Kiều này, tác giả đặt lời Hoạn Thư luôn luôn gọi Thúc Sinh là “chàng” ở trước mặt Kiều, để tỏ ác phụ có thâm ý khêu lại mối thâm tình giữa Kiều và Thúc, cho hai bên nghe càng thêm nhớ tiếc, thêm đau khổ. Khi mụ thét [Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn] hoặc [Để chàng buồn bã tội thì tại ngươi], thật rõ ràng là ác phụ có ý cho Kiều biết rằng chồng là chồng chung thật đấy, nhưng mà “chưa dễ ai chiều cho ai” đâu! Mi chớ có hòng.
Đàm Duy Tạo - Đàm Trung Pháp
Theo http://viethocjournal.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bùi Minh Vũ: Tiếng thơ siêu thực chính ngọ

Bùi Minh Vũ: Tiếng thơ siêu thực chính ngọ Bùi Minh Vũ, cũng giống như rất nhiều người làm thơ hôm nay trăn trở, quyết liệt (nếu không muốn ...