Thơ trong Truyện Kiều
P. Valéry: Khúc ca “Thủy tiên”
Que tu brilles enfin, terme pur de ma course.
Paul Valéry - Fragments du “Narcisse”
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời:
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Nguyễn Du - Đ.T.T.T.
Xưa có một nữ sĩ tên là Phùng Tiểu Thanh, bị vợ cả ghen, bắt
ra ở riêng một mình trên núi vắng gần Tây Hồ, Hàng Châu. Nàng buồn mà chết
ở tuổi mười tám, để lại một tập thơ. Người vợ cả ghen cả đến thơ, bắt
đốt hết. Còn vài bài sót lại không bị thiêu: Văn chương không có mệnh mà cũng
bị lụy vì lửa ghen.
Nguyễn Du đọc truyện và thơ của Tiểu Thanh, cảm khái mà viết
ra bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất tử thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Các nhà phê bình trước đây chỉ để ý đến hai câu cuối của bài:
Không biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Lúc này Nguyễn Du chưa viết Đoạn Trường Tân Thanh. Ông ngồi một
mình trước cửa sổ, cầm trong tay tập Phần Dư Cảo của nữ sĩ xấu số
mà ngọn lửa không đốt thành tro được, và khóc cho Cổ kim hận sự (nỗi hận
cổ kim không hỏi được Trời) của Tiểu Thanh. Nhưng chính ông thì sao?
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Ta ở trong một nỗi oan lạ lùng vì phong vận
Ba trăm năm lẻ nữa, có ai trong đời biết được nỗi oan của ta
mà khóc thương ta?
Ba trăm năm sau, vườn hoa ở Tây Hồ đã thành bãi hoang, lòng
người đã thay đổi. Cuộc bể dâu trong cõi vô thường, hỏi rằng ai là người
hãm lại được?.
Ba trăm năm hơn là quá khứ, ba mươi năm hơn là quá khứ, ba chữ
mà tôi viết ra đây cũng đã thành quá khứ, có ai hiểu được nỗi lòng của
thi sĩ khi cầm lên mà đọc bên song những mảnh tàn của tập thơ đã thoát được ngọn
lửa của chiến tranh ý hệ chăng?
Chúng ta sinh ra trong một lúc đảo điên của lịch sử, khi nền
cổ học bị bức tử. Chúng ta lớn lên trong một thời đại loạn, ở chiến trường
máu đổ thịt rơi, chất lên có thể thành núi, nhưng trong lòng người thì vào đến
xương tủy, vào đến vô thức. Tôi chỉ xin nhắc với quý độc giả rằng tác giả
Truyện Kiều - Nguyễn Du, tự Tố Như - cũng đã sống một thời đại loạn của lịch sử
trong đó nhà Lê mất ngôi, đối với người xưa thì không khác gì là mất
nước, gia đình ông tan tác, làng Tiên Điền của ông bị đốt, tương lai và
lý tưởng của ông bị tiêu tan, ông phải bán mình vì cơm áo vào một triều đình mà khi thấy
rõ sự tàn ác
và thâm hiểm, ông ghê sợ, nhưng vẫn phải phụng sự. Ông đã sống,
đã mơ, đã yêu, đã thấy, đã hoạt động, đã buồn, nhưng ra đi thanh thản,
chỉ với một tiếng "ĐƯỢC", không trối lại thêm lời nào nữa.
Nỗi hận ngàn thu của Tiểu Thanh còn lưu lại trong mấy tờ giấy
chưa thành tro tàn mà ba trăm năm sau Nguyễn Du cầm trong tay.
Cái oan lạ lùng trong đó Tố Như tự giam mình, Nguyễn Du cũng
đã
nói ra được, để rồi nhắm mắt về cõi yên tịnh vĩnh cửu, đến
nay mới hai trăm năm. Có ai hiểu cho chăng?
Với phần đông người Việt Nam, Nguyễn Du là tác giả hai tập
thơ, trong đó ông gửi gắm nỗi lòng của ông trước khi chết:
Văn Chiêu Hồn, bài thơ Ly Tao ông khóc những người trẻ tuổi
cùng thời, ôm những mộng “cất gánh non sông” hay “cung quế Hằng Nga” mà chết
trong quốc loạn:
Một phen thay đổi sơn hà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu phách lạc, biết đâu bây giờ?
Và Đoạn Trường Tân Thanh tức Truyện Kiều là bài thơ dài đứt
ruột ông viết để dãi bầy nỗi oan của đời ông.
Thi sĩ không phải là người làm thơ. Thi sĩ là những người muốn
nói ra một cái gì trong tâm nhưng không nói ra được bằng lời thường, vì
lời thường dùng để buôn bán, để lừa dối, là một dụng cụ phàm tục, đã bị ô nhiễm,
uế tạp, đã mất đi sự linh thiêng, sự huyền bí, sự trang trọng của thủa
nguyên sơ. Thi sĩ cũng phải dùng tiếng nói của người ta, nhưng đã lọc cái tiếng
nói ấy cho trong như nước suối mới chảy ra từ nguồn, và nói bằng hình ảnh, bằng
biểu tượng, bằng tinh hoa và bằng những âm thanh đã đúc kết trong tiếng
nói lúc nguyên thủy. Thơ là hội họa, thơ là hương cốt, thơ là âm nhạc, thơ
là tình tự, thơ là tư duy. Người ta nghe một bản nhạc có thể thấy êm tai, nhưng ai
là người bắt được cái thần khí của nhạc? Người ta ép hoa để lấy ra cái
tinh làm cho đời sống lên hương, nhưng có ai biết được nghĩa của hoa lan và lý của
bông cúc? Thơ cũng không dễ gì để cho người phàm thấy được cái tinh túy,
cái thần ẩn ở trong cái toàn thể của nó, là chữ nghĩa, hình ảnh, biểu tượng,
âm nhạc quấn quyện nhau như một bông thược dược, một ngọn hải đường, một
cành hồng, một nhánh huệ vi vu lơi lả trước gió.
Một bài thơ lớn, không phải thi sĩ muốn viết ra lúc nào thì
ngồi vào bàn, đem văn phòng tứ bảo, giấy, bút, mực, nghiên ra, rồi đặt bút
thành thơ.
Thi sĩ có một tâm tư mang nặng trong lòng - “ngã tự cư” - hằng
đêm dày vò tim gan, đốt cháy tì phế mà không lối thoát:
Triển chuyển nê đồ tam thập niên,
Văn tự hà tằng vi ngã dụng?
Ba chục năm qua, ngụp lặn trong bùn lầy,
Chữ nghĩa ta nào có dùng được làm gì?
Rồi đột nhiên thi tứ bùng cháy như từ than hồng bốc lên ngọn
lửa biếc, thanh sắt đen trong lò rực đỏ rồi chảy ra thành nước.
Ngôn từ trào ra, phải gò lại, rập bớt đi rồi đổ vào khuôn, và
rèn và luyện và đúc và rũa và mài cho thành hình để trao lời thơ của tâm
mình cho hậu thế ba trăm và ngàn năm lẻ về sau mà giải được cái nghiệp oan.
TƯ, TỨ, TỪ là những bước để tạo nên một bài thơ, còn với Nguyễn
Du là ba bước của cả một cuộc đời để đi tới một tập thơ. Người cùng
thời với thi sĩ, và sau đó ít lâu, không có ai hiểu Đoạn Trường Tân Thanh. Từ
Phạm Quí Thích,
Nguyễn Công Trứ, đến Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến rồi Ngô Đức
Kế đều là những nhà nho lỗi lạc, thấm nhuần kinh sách Khổng Mạnh, có
người có những cao vọng mà tôi kính phục. Nhưng Nguyễn Công Trứ viết rằng:
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm
Rồi Huỳnh Thúc Kháng lại mắng:
Sách dạy, ngày nay đĩ đứng đầu
Thì tôi xin mạn phép thưa rằng đây lại là một cái oan trái nữa
của Nguyễn Du.
Những sự thực, gọi là “tệ nạn xã hội”, nạn cáo gian, nạn
tham nhũng, nạn lạm dụng quyền thế, nạn nhà quan móc ngoặc với những bầy
côn quang, nạn mãi dâm, nạn bán mình làm nô lệ tình dục, ở thời xưa cũng như
trong thời nay, lúc Bắc thuộc, Pháp thuộc cũng như lúc gọi là “độc lập”, “dân chủ”,
có bao giờ là hết đâu? Các cụ Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến
đều biết rõ trong bản thân, các cụ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng làm
cách mệnh không lẽ không biết, nhưng sao các cụ lại nhắm mắt mà mắng
các nạn nhân đau khổ của sự thối nát đầy rẫy trong chốn quan trường cũng
như ở tầng lớp dân gian? Trong cả ngàn năm, khi, như cụ Ngô Đức Kế nói, nước
Việt Nam ta chính thức nhận “Hán văn tức là Quốc văn, Khổng học tức là Quốc học”,
chưa có Truyện Kiều, phải chăng nước ta là nước không có sự bóc lột,
chuyện ăn hiếp, chuyện khinh rẻ những nghề nghiệp tay chân và chuyện mua dâm bán
dâm sao? Không phải chỉ vì dựa theo truyện Tàu mà Nguyễn Du viết
ra những câu đầy cảm tình với Từ Hải, ông tướng cướp “thế thiên hành Đạo”
(Đạo Trời báo phục chỉn ghê):
Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Kém gì cô quả, kém gì bá vương.
Đó chính là cái hùng tâm tráng chí của ông trong tuổi trẻ,
khi ông phải trốn tránh sự truy lùng của Nhà Tây Sơn nhưng vẫn còn nuôi
cái mộng phục quốc:
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm
Chí lớn phải dấu kín làm cùn cây gươm ngắn
(TẠP NGÂM)
và:
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên
Chống gươm dài, ngạo nghễ ngắm trời xanh
(KHẤT THỰC)
Thiết tưởng các cụ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng cũng tựa gươm
nhìn trời mà than như thế trong thời nhà Nguyễn bị quân Pháp hiếp
đáp, vì chưa gặp thời. Đây mới là nguyên ủy của tâm tư tác giả Truyện Kiều, mà ông
mang theo trong suốt cuộc đời.
Ở trời Tây, sự phê bình trong cuối thế kỷ XX đã vượt qua
giai đoạn đầu, lấy sử liệu làm nền móng, dùng ấn tượng chủ quan làm
phương châm. Có thể nói rằng ngày nay, tất cả hiểu biết về con người văn hóa đã
được dùng vào sự phê bình văn chương và đã có những người tuyên bố rằng trong
đời nay, phê bình là sáng tác. Các triết gia lớn từ Lukacz, Heidegger, J.
P. Sartre, Ricoeur, Derrida, Deleuze, các nhà ngữ lý học lớn như Roman Jakobson,
Greimas, các nhà nhân học lớn như Claude Lévi Strauss, các nhà phân tích lớn
như Roland Barthes, Todorov đều coi sự phê bình văn chương là một phần
quan trọng hay thiết yếu của sự đi tìm ý nghĩa của cuộc nhân sinh. Tác giả
những dòng này đã dùng phương pháp cơ cấu theo Jakobson để giảng giải bài thơ
“Hoa Dâng Bụt” của Nguyễn Trãi, và dùng dân tộc học cơ cấu theo
Lévi Strauss để bày tỏ một khía cạnh của Truyện Kiều (Truyện Kiều trong Dân gian).
Trong bài này, cơ cấu pháp sẽ ưu tiên được dùng để giảng thơ trong Truyện Kiều,
không phải vì tác giả nghĩ rằng sự phân tích cơ cấu tự nó và đơn độc có
thể thay thế và che lấp sự phê bình cổ điển theo truyền thống Đông phương cũng
như Tây phương, nhưng vì tác giả nghĩ rằng trong một trăm năm nữa -
ba trăm năm sau khi Tố Như viết xong Đoạn Trường Tân Thanh - khi cái cảm-tính
của người Việt Nam (ở thế kỷ thứ XXII) đã khác thời Cung Oán - Chinh Phụ,
tiếng Việt Nam cũng đã gột được ít nhiều những tệ nạn của đời nay, những
lý do làm cho người ta hiểu thơ trong Truyện Kiều và khóc Tố Như sẽ ít còn
dựa vào sự ngâm nga hay sự thích thú chủ quan mà đòi hỏi một sự phê bình có
tính cách khoa học. Tuy nhiên, cũng còn có một điểm phải nhờ Phân tâm học để
làm sáng. Bài này chia làm ba phần, theo thứ tự: TƯ, TỨ, TỪ.
A. TÂM TƯ CỦA NGUYỄN DU
Tâm tư của một thi sĩ là những ẩn tình thâm sâu mà thi sĩ thường
dấu kín hoặc chỉ để hé ra cho một người tri kỷ biết. Như Paul Valéry
đã nói, mỗi bài thơ có cái ý nghĩa mà người đọc thơ đem vào trong khi đọc, và điều
này làm cho thơ thành bất hủ. Ở nước ta, còn có một lý do để thi sĩ phải
dấu cái tâm tư của mình vì nếu có những kẻ xúc xiểm thì thơ có thể mang cái họa
sát thân. Những điều tôi nói đây không áp dụng cho những bài thơ xỏ xiên, chế
nhạo những thói đời lố lăng điêu bạc. Truyện Kiều không thuộc loại thơ
thời sự này. Nhưng thời thế của Nguyễn Du là một thời hẹp hòi, ác độc, không biết
đến sự bao dung, chưa có chữ “tự do”, mà vận nước thì thay đổi một cách
tàn bạo như chính Nguyễn Du viết ra trong bài thơ khóc những hồn mồ côi
trong thời. Nếu là một bài thơ của đời nay thì tính cách chống chiến tranh,
nhất là nội chiến ý hệ, có lẽ không ai không thấy:
Còn chi ai quý ai hèn,
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu.
Chuyện Kim Vân Kiều bắt đầu từ những thêu dệt của dân gian
quanh một mẫu sử của Nhà Minh, ở Trung Hoa. Chuyện chép trong sử chỉ có
bọn giặc lùn, cầm đầu bởi Từ Hải, từ Đài Loan đánh vào miền Giang Nam (1550
- 1560), bị Hồ Tôn Hiến dùng mưu giết chết. Hai người vợ của họ Từ đã đâm đầu
xuống sông Tiền Đường tuẫn tiết theo chồng. Ba bốn nhà văn nghe được câu
chuyện ấy, đã dựng thành tiểu thuyết; Thanh Tâm Tài nhân là người sau cùng,
vào cuối đời Nhà Minh, đã viết ra Kim Vân Kiều Truyện, còn được lưu truyền ở
miền Nam Trung quốc và ở Việt Nam vào đầu đời Thanh.
Truyện Kiều của Nguyễn Du dựa vào Kim Vân Kiều Truyện của
Thanh Tâm Tài nhân, nhưng lược đi nhiều chi tiết dơ bẩn, thô tục. Nếu
Kim Vân Kiều Truyện là một cuốn tiểu thuyết tầm thường ngày nay không còn
ai đọc ở bên Tàu, thì Đoạn Trường Tân Thanh, qua tay Nguyễn Du, đã trở thành
một kiệt tác văn chương, lời như châu ngọc, tâm như gấm thêu. Và đã là
cái phương tiện, hay cái xe, để Nguyễn Du giải bày cái tâm tư và tỏ lộ nỗi
long riêng của mình.
Vì thế mà Đoạn Trường Tân Thanh không phải là một tuyệt tác của
cổ văn, mà là một bài thơ của muôn thủa.
Tâm tư I: Nỗi oan của Mẹ
Truyện Kiều của Nguyễn Du - tôi nói TRUYỆN - có hai phần
chính. Phần đầu kể đời Thúy Kiều, gồm 2.648 câu, phần thứ hai kể sự tái
sinh của Kiều sau khi đã trả hết nghiệp, gồm 591 câu, với 13 câu kết. Chúng tôi
dùng bản của Duy Minh Thị.
Cuộc đời của Thúy Kiều chia ra:
1- Thời con gái Câu 1 - 568 568 câu
2- Tai-họa, bán mình Câu 569 - 918 349 câu
3- Lầu xanh (Tú bà) Câu 919 - 1274 355 câu
4- Vợ lẽ (Hoạn thư) Câu 1275 - 2034 739 câu
5- Lầu xanh (Bạc bà) Câu 2035 - 2164 130 câu
6- Từ Hải - Hồ Tôn Hiến Câu 2165 - 2648 473 câu
Đời tái sinh Câu 2649 - 3240 591 câu
Kết Câu 3241 - 3254 13 câu
Thời kỳ Thúy Kiều ở với Thúc sinh và bị vợ Thúc sinh bắt về
làm con hầu chỉ có vài tháng, chưa chắc đã tới tròn một năm, mà được kể
ra dài hơn cả hai lần làm kỹ nữ ở lầu xanh, dài hơn cả sáu năm rưỡi sống với Từ
Hải. Tại sao lại có sự chênh lệch như thế?
Nói về văn chương thì toàn truyện thường chỉ kể đơn sơ, nhiều
khi như chỉ có cái sườn khô của truyện, nhưng đoạn đời làm vợ lẽ của
chàng Thúc thì không thua mấy những truyện đời nay, đối thoại thẳng, cả đến
những ý nghĩ thầm của ba người cũng được kể và những phân tích tâm lý rải
rắc dọc theo từng bước của truyện, đến cả cảnh trí cũng được tả một cách
hiện thực.
Khi Thúy Kiều báo ân báo oán thì đầu tiên hết, trước cả bọn Bạc
Hạnh, Bạc Bà, Sở khanh, Ưng, Khuyển, Tú bà với Mã Giám sinh:
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra, CHÍNH DANH THỦ PHẠM tên là HOẠN THƯ.
Tại sao Nguyễn Du lại đặc biệt chú trọng đến cái giai đoạn ngắn
này trong đời của Thúy Kiều?
Sự phê bình phân tâm học theo trường phái Vienna của Sigmund
Freud hay theo triết lý hiện sinh của J. P. Sartre đều chưa đạt được
kết quả, là chứng minh sức mạnh của vô thức trong sự thực hiện một văn bản, dầu
là một tiểu thuyết, một tập thơ, hay toàn bộ tác phẩm của một nhà văn lớn.
Vô thức và hành động vô phí (acte gratuit) đã có trong những truyện lớn
của Dostoevsky.
Trí nhớ vô tri đã được Marcel Proust tả ra trong tiểuthuyết
rất dài “Đi tìm Thời gian đã mất” của ông. Nhưng sự chứng thực trên một
tác giả chưa đạt được. Mouron có lẽ là phê bình gia (người Pháp) nổi tiếng nhất
đã dùng phân tâm học làm phương pháp để tìm những dấu tích của vô thức
trong những tác phẩm rất khó hiểu như thơ của Stephane Mallarmé, nhưng
phương pháp của Mouron rất tinh vi và khó lòng áp dụng được cho
văn chương Trung quốc hay Việt Nam vì người ta gần như không biết gì về tuổi ấu thơ
của các nhà văn, nhà thơ Đông phương.
Trường hợp của Nguyễn Du hơi khác thường vì gia thế đặc biệt:
Cha là Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, tể tướng dưới thời vua Lê Hiển tông
và chúa Trịnh Doanh rồi Trịnh Sâm; anh cả là Nguyễn Khản, cũng
là tể tướng thời Trịnh Sâm, lại là một nhà thơ đã có một bản dịch Chinh phụ ngâm
còn lưu truyền và là một “phong lưu công tử” như lời người ta gọi
trong thời và như Nguyễn Du tả Kim Trọng:
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa nổi tiếng về những tối tiếp tân lớn có ca hát đàn địch và thơ
văn ở ngôi nhà bên bờ Hồ Giám:
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa,
Có cổ thụ, có sơn hồ...
Không mấy khác lời tả trong Hoàng Lê Nhất Thống chí của Ngô
Thời Chí, là “dinh thự có núi, có hồ, có cây, có đá, cảnh trí rất thú”, tức
là “thanh nhã”.
Nguyễn Du là con của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm với vợ ba
là Trần Thị Tần. Trần Thị Tần là con gái Bắc Ninh, từ nhỏ đã nổi tiếng trong
vùng quê là xinh đẹp và hát quan họ hay. Năm 15-16 tuổi, xin được theo
cha, là một viên chức nhỏ làm việc sổ sách cho nhà quan Tể tướng Nguyễn Nghiễm,
vào xem nhà quan đẹp và sang đến thế nào. Quan đi qua, nhìn thấy và đứng
lại hỏi vài ba câu. Cô bé ứng đối ngây thơ và thật thà. Ít tuần sau, cô
Trần Thị Tần được đón về làm vợ nhỏ của quan Tể tướng.
Hai đứa con đầu của Nguyễn Nghiễm với Trần Thị Tần chết sớm
sau khi sinh. Đứa con thứ ba được đặt tên là Nguyễn Du. Không cần phải
nói, ai cũng biết là Nguyễn Du được mẹ yêu dấu là chừng nào. Tình của mẹ,
đã bị cắt cụt với hai đứa con trước, nay dồn vào cho đứa con mới là một điều
tự nhiên và tất nhiên. Nguyễn Du, từ lúc khóc chào đời, đã được nghe tiếng
ru con của mẹ với những câu thơ lục bát của dân tộc, của quê hương và của
đáy lòng mẹ, với giọng réo rắt, tình tứ, quyến rũ của mẹ. Năm Nguyễn Du 13 tuổi,
mẹ chết, tiếng hát của mẹ tắt hẳn. Cha của Nguyễn Du cũng đã mất từ ba
năm trước.
Nguyễn Du thương yêu cha mẹ không những là vì chữ Hiếu mà Đạo
Nho dạy. Cha là người đã dạy ông về cái nghĩa của kẻ sĩ là sự tận
trung báo quốc. Còn mẹ là người dạy ông nói thơ như người ta đi, như người ta
làm, như người ta hát, rằng thơ là nhịp, thơ là điệu, thơ là lời, thơ là
thanh, thơ là nhạc. Một buổi tối Thanh Minh, một mình ngồi trong phòng vắng không có
rượu để giải sầu thâu đêm, ông viết:
Đông phong trú dạ động Giang thành,
Nhân tự bi thê, thảo tự thanh.
Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,
Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.
Thôn ca sơ học tang ma ngữ,
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh.
Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn
Mạc giao mao thảo cận giai sinh.
Gió đông ngày đêm thổi ở thành bên thành Giang, Người cứ buồn, cỏ vẫn cứ xanh.
Ngày xuân, có thân mà không còn tuổi trẻ,
Ở nơi chân trời, (cũng) không có rượu mà đón chào tiết Thanh Minh
Tiếng hát quê đưa ta vỡ lòng vào tiếng nói của tằm tang.
Tiếng khóc ngoài đồng ta nghe như tiếng sát phạt thời chiến tranh
Trong cái phòng nơi đất khách đã chứa nỗi sầu vô hạn
Xin đừng cho cỏ mao mọc đến gần thềm
Ông sẽ trao lòng yêu cha mẹ của ông cho Thúy Kiều.
Nỗi buồn cô độc xa nhà (lúc này có lẽ Nguyễn Du đang nhậm chức
tri huyện Phù Dung, bên sông La Phù), không có rượu để đón xuân về,
lại nghe tiếng hát đồng quê vẳng lại và tiếng khóc tiễn đưa người
thân, sự sầu muộn thực là vô hạn. Nhưng “cỏ mao” là gì mà thi sĩ lại phải cầu
xin là đừng mọc đến gần thềm?
Là những nhớ nhung vương vấn, những sợi tơ lòng không dứt được
và cứ ám ảnh tâm trí của thi sĩ không nguôi. Lúc này thi sĩ chỉ có
sự nhớ quê nhà và sự tưởng niệm đến cha mẹ đã quá cố, nhưng nhất là đến người mẹ
mà tiếng hát trong và ấm đã nuôi dưỡng tuổi nhỏ, còn thoảng lại trong tiếng
ca của cô thôn nữ hái dâu nuôi tằm. Nguyễn Du, như ta thấy trong Truyện Kiều,
không những là yêu văn thơ, hiểu thiên nhiên, thẩm hương hoa, mà còn thưởng
thức sâu sắc âm thanh tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng trống, tiếng ca, tiếng
gió thổi, tiếng sóng reo, tiếng cỏ lay động và những thổn thức của tiếng lòng, là
nhờ mẹ.
Không chỉ có thế. Trong cái xã hội xưa, nhất là ở các nhà
quan, quan ông thì “xuất môn giai úy đồ” (Ninh Minh giang chu hành), ra khỏi
cửa thì phải lo vỗ về lông cánh để đối phó những xúc xiểm của đồng liêu trong
triều, còn các quan bà tám, bà cả thẩy ở hậu cung của quan Tể tướng Xuân Quận
công, thì giành giựt nhau tình yêu của một ông chồng già đã mệt mỏi khi
về nhà.
Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du, lấy chồng năm 15 - 16 tuổi, Nguyễn
Nghiễm 48 tuổi. Cô vợ mới, trẻ đẹp và tài hoa tất nhiên là được
ông chồng ở tuổi hồi xuân hết sức yêu chiều, nhưng ở trên còn có bà hai
và bà cả, gọi là “chính thất”, đã có một người con tiến sĩ làm quan trong triều
cùng với cha.
Gia phả không nói gì đến những chuyện ghen tuông tầm phào,
nhưng đời sống của cô gái quê nhà nghèo trong cái gia đình quyền quý nhất
phẩm ấy, ở cái thân phận “cát lũy” (sắn, bìm) mà lại “mặn tình” với ông
chồng chung, hẳn là không dễ dàng. Những cái ra lườm vào nguýt và sai vặt hằng
ngày theo “phận con hầu” đã đành, hai đứa con đầu chết sớm lại là đề tài
của những dèm pha nhằm đưa đến sự loại người mẹ non dại không biết nuôi
con ra khỏi nhà. Nguyễn Du lớn lên đã thấy nỗi buồn hận của mẹ.
Sớm năn nỉ bóng, đêm ân hận lòng đã chán ghét cái cảnh nhà quan bệ vệ, dọa nạt với bà quan hống hách
ác độc, trong một câu dằng dặc bốn dòng:
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
“THIÊN QUAN CHỦNG TỂ” có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo, ngồi trên: MỘT BÀ.
Và đã ghê sợ sự phân biệt cả lẽ mà mẹ mình là nạn nhân khi
sinh tiền:
... một vực, một trời,
Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi,
Cuối cùng, khi Kiều báo ân báo oán, trong Kim Vân Kiều truyện
Thanh Tâm Tài nhân phán quyết rằng “Tội chết tha được, nhưng tội sống
thì không thể tha” và truyền đánh Hoạn thư một trăm trượng đến nát thịt nát
da, Thúc sinh phải thuê người khiêng về nhà ở Huyện Vô Tích phục thuốc sáu
tháng mới dậy được.
Nhưng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du, nhân danh Thúy Kiều, đã:
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Nguyễn Du vẫn thương mẹ, nhưng đã hết oán hận, không những vì
hiểu rằng “Trong dạ đàn bà: ghen tuông thì cũng người ta thường
tình”, mà quan trọng hơn nữa, thấy rằng ngay từ lúc đầu, Hoạn thư hận là hận
Thúc sinh, người chồng đã “buôn ván bán thuyền”:
“Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi mà giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình;
Lại còn bưng bít dấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười;
Tính rằng cách mặt khuất lời,
Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho!
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu.”
Cho đến cuối hồi, Hoạn thư không hề ghen tức Kiều đẹp hơn, mà
khi đã biết Kiều, lại bắt đầu thương tài; tài đàn, tài văn thơ, tài
bút pháp. Thúy Kiều cho đi bắt Hoạn thư là để trả thù riêng nhưng khi nghe Hoạn thư trần
tình, Kiều là người thông minh đã hiểu rõ ngay:
“Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!”
Chuyện giận hờn vì mẹ đã bị ngược đãi bởi sự ghen tuông của mẹ
cả, mẹ hai, Nguyễn Du cũng đã rũ sạch khi ngồi vào bàn viết câu:
Trăm năm trong cõi người ta
Tâm tư của thi sĩ đã giải được một nỗi buồn và một cái nghiệp
mà thi sĩ sẽ để vào đời của Thúy Kiều.
Tâmtư II: Quan và Dân
Tâm tư của thi sĩ không phải chỉ có thế.
Nguyễn Du ra làm quan với Nhà Nguyễn vào lúc thế cùng, lực kiệt:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm, sinh kế, lưỡng mang nhiên.
(TẠP THI)
Tráng sĩ đầu bạc buồn mà ngửa trông trời,
Hùng tâm và sinh kế cả hai đều mờ mịt!
Làm quan ở Hưng Yên, rồi ở Quảng Trị, ông đã thấy rõ bộ mặt
thực
Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại, chẳng qua vì tiền!
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
Trong Truyện Kiều, Hoạn bà là người nêu “gia pháp” ra để sai
người làm đánh đập người vô tội, còn người độc nhất chẳng những cũng
nêu “phép nhà” mà còn nói “nhân” nói “nghĩa” để chửi thằng chồng hờ, là mụ
chủ chứa, là Tú bà. Nó nói:
Tuồng vô NGHĨA, ở bất NHÂN!
Rồi lại còn:
Có quan Tổng Đốc trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài,
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung.
Đã đánh lừa, nuốt lời hẹn, lại dở say nài ép tình dục, rồi chạy
tội bằng cách ém nhẹm bằng chứng gán người để diệt khẩu...
Tôi xin được miễn nói nhiều về những tội phạm chính trị, xã hội,
đổ lên đầu một người con gái suốt một thời trẻ từ 15 đến 30 tuổi.
Tâm tư của Nguyễn Du về những tội ác này còn nhiều ở trong thơ chữ Hán của ông,
nhưng ông không kể được trong Truyện Kiều, nên tôi không dám dài dòng.
Hơn nữa, điều thâm trọng nhất trong nội tâm của ông cũng chưa phải là những
bất công và bất nghĩa trong đời, mà ông thấy bất nhẫn, nhưng hiểu rằng ở
ngoài tầm tay của ông.
Tâm tư III: Lòng Trung và Lòng Trinh
Đại văn hào Pháp Gustave Flaubert, tác giả của tiểu thuyết nổi
tiếng
“Madame Bovary”, khi được hỏi về nhân vật chính trong tác phẩm
của ông, đã nói: “Bà Bovary là tôi.” Trong một bài viết đã khá lâu của
tôi, tôi mượn câu nói này của ông để viết rằng: “Thúy Kiều là Nguyễn Du và Nguyễn
Du là Thúy Kiều.” Nguyễn Du không tạo ra nhân vật Thúy Kiều. Thúy
Kiều là một người thực, đã có một cái chết oan bi thảm nên người dân, ở
Trung hoa cũng như ở Việt Nam, đã dựng ra một huyền thoại trong đó Kiều bị
vùi dập đày đọa, nhưng rồi lại được cứu sống. Nguyễn Du, tâm sự ngổn ngang, đã thương cảm khi đọc Kim Vân Kiều truyện và tự thấy đời mình cũng giống như nỗi oan của
Thúy Kiều. Thúy Kiều giải được cái nghiệp, mối oan tình cũng được gỡ và được
hiểu, còn mình thì sao?
Nguyễn Du và Kiều cả hai đều bất đắc chí, cả hai đều thấy
trong một
đêm, giấc mộng lớn của tuổi trẻ tan tành vì một tai họa đột ngột
đổ xuống không biết tự đâu và vì sao. Đó là nguyên nhân của cái mà
Nguyễn Du gọi là “phong vận kỳ oan” trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”. Sau đó thì, trong mười lăm năm, Kiều như một con chim non lạc
đàn, bị sa đọa vào bùn lầy của xã hội, và mỗi lần muốn ngoi lên thì lại
bị dìm xuống sâu hơn, khổ hơn, phi lý hơn, vô vọng hơn, đến độ phải gieo mình
vào dòng nước bạc để chấm dứt những cay đắng của cuộc sống.
Nguyễn Du, sau khi thất bại trong việc bảo giá (1789), đã phải
trốn chạy về ẩn nấp ở quê vợ, nghèo, đói, bệnh hoạn cũng gần mười lăm năm,
muốn vùng lên để phục Lê nhưng chưa kịp làm gì thì đã bị bắt và hạ ngục,
tuyệt vọng, rồi mới đành bó thân về với triều đình Nhà Nguyễn (1802). Khi Nguyễn Du rời bỏ giấc mộng phục Lê và về quy phục triều đình
mới thì phần lớn các nhosĩ Bắc Hà, vẫn còn nặng lòng với Nhà Lê,
đã chế riễu, châm biếm những nhà khoa bảng hèn nhát quên nghĩa với bốn câu
thơ còn chép trong Quốc Sử Di Biên:
Lê triều nhị thập tứ tiến sĩ,
Bát chân, bát ngụy, bát chân ngụy.
Như kim thoát khước triền đầu cân,
Vị thức thùy phi hựu thùy thị.
Lê triều hăm bốn vị tiến sĩ
Tám chân, tám ngụy, tám chân ngụy
Nay dù cởi bỏ khăn chít đầu
Nào biết ai phi và ai thị?
[Chân ngụy có hai nghĩa:
1. nửa chân, nửa ngụy
1. nửa chân, nửa ngụy
2. ngụy thực là ngụy]
Nguyễn Du còn có một lý do riêng để đắn đo do dự, vì đã được
người bạn gái là Hồ Phi Mai, một cô hàng bán sách giấy ở bờ Hồ Tây,
khuyên và nhạo rằng đừng bước qua Đèo Ba Dọi mà vào Nam, lại đã nói rõ cho
Nguyễn Du biết rằng cô chỉ có một lòng thờ Nhà Lê:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với NƯỚC NON.
Rắn nát mặc dàu tay kẻ nặn,
[Các quý vị (độc giả) đều biết rằng Hồ Phi Mai là Hồ Xuân
Hương, và cửa hàng sách của cô là Cổ Nguyệt đường, có một cái lầu (Lầu Nguyệt)
để ngắm trăng ở Thụy Khê. Chữ Hồ 胡 gồm chữ Cổ
và bộ Nhục, nhưng Nhục viết giống như Nguyệt, vì thế Xuân Hương mới đặt tên cho thi trang của
mình là Cổ Nguyệt đường].
Cha anh của Nguyễn Du đều đã làm quan nhất phẩm và ăn cơm của
Nhà Lê. Nguyễn Du thủa nhỏ là một công tử ăn chơi nhưng giáo dục
gia đình rất nghiêm khắc, đặt trọng tâm vào lòng TRUNG, trung với nước,
trung với vua, tức là một dòng trong một chế độ, và trung với dân, toàn dân,
không phân biệt
kẻ cao sang quyền thế hay người nhà nông, người dệt vải, và
thấp hơn nữa, người làm, người ở, người bán thân nuôi miệng. (Giới sĩ vẫn
là một cấp riêng, ngoài ra đều là thứ dân, như nhau). Với Nguyễn Du, nhà Lê là
truyền đời của Lê Lợi, vị anh hùng đã cứu nước và lập ra một vương quốc có
luật pháp, trọng văn hiến, một “đức thánh quân”, như ông viết (Kỳ lân mộ, Bắc
Hành Tạp Lục).
Sau khi Lê triều sụp đổ trong cuộc Bắc tiến thứ Hai của Nguyễn
Huệ, Nguyễn Du hận đã không được chết như Khuất Nguyên trước khi nước mất
nhà tan:
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thủy,
Thiên thu, vạn thu, thanh kiến để....
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”?.
Vị tất cổ nhân tri hữu ngã,
Nhãn trung Tương Thủy không du du.
Lòng Khuất Nguyên, nước Tương giang,
Ngàn vạn thu, vẫn trong suốt đến đáy....
Người đàn bà trinh liệt xưa nay không có hai chồng,
Hà tất phải “đi chín châu và thờ vua khác”1?
Chưa chắc gì người xưa biết có ta;
Trước mắt ta, dòng sông Tương dằng dặc trôi không nghỉ.
(BIỆN GIẢ Bắc Hành Tạp Lục)
Ông còn thương tiếc Trường Sa Giả Thái phó đã buồn vì không
làm được hết phận sự phò vua giúp nước và phải lấy cái chết ra để tỏ lòng
mình:
Sư chức hà phương chí từ bi.
Mặc dù mỗi thu qua thì hy vọng khôi phục lại nước càng mỏng
manh:
Thập tải trần ai ám ngọc trừ
Bách niên thành phủ bán hoang khư....
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.
Cát bụi mịt mù thềm ngọc đã mười năm,
Thành phủ từ trăm năm, một nửa đã hóa gò hoang...
Cá rồng im lặng đêm thu vắng
Trăm mối u hoài chưa giải toả được.
(BÁT MUỘN)
Nằm trong ngục tù với viễn tượng là sẽ bị xử chết, ông vẫn
kiên quyết không đầu hàng Tây Sơn:
1. Khuất Nguyên thà trầm mình chết ở sông Tương hơn là nhìn cảnh
nước mất nhà tan.
Chung tử viên cầm tháo Nam âm,
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thời liễu,
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.
Chung Nghi gảy đàn theo âm điệu nước Sở cũ,
Trang Tích ngả bệnh ngâm những khúc ca nước Việt xưa,
Nhìn ra bốn bể đều gió bụi, mà ta rơi nước mắt vì nhà với nước
Nằm mười tuần trong lao tù, với chuyện sống chết ở long
Mối hận mất nước (ở núi Bình Chương), biết đến bao giờ mới giải
được,
Phong thái cao quý của (người hiền) nước Cô Trúc [thuộc Nhà Thương, không chịu ra làm quan Nhà Chu] không còn tìm thấy được nữa.
(MI TRUNG MẠN HỨNG)
Nguyễn Du vẫn cương quyết không dao động, không ngại gió lạnh
đường xa, đêm tối mịt mù:
Bất sầu cửu lộ triêm y duệ,
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần
Không lo sương lâu thấm ướt áo,
chỉ mừng râu mày không bám bụi.
(DẠ HÀNH)
(DẠ HÀNH)
Và thề nguyền dưới trăng trên mặt giếng:
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
...
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.
Trăng sáng chiếu giếng xưa,
Nước giếng không gợn sóng....
Trong vắt một tấm lòng,
Giếng cũ trăng soi bóng.
Oan Thúy Kiều, Oan Nguyễn Du
Thúy Kiều mang hai cái oan lớn.
Oan thứ nhất là oan trái của gia đình, bị thằng bán tơ
vô danh vu cáo và bọn tham quan ô lại hành hạ tra khảo không đường gỡ:
Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây....
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người,
Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa!
Nỗi oan đầu tiên ấy, mà nay ai cũng thấy là do sự thối nát của
một chế độ, nhưng với gia đình họ Vương thì là số mệnh, là “cơn vạ
gió tai bay bất kỳ” đổ xuống đầu người cha của gia đình nhưng là để bắt người
con gái:
Trời làm chi cực bấy trời,...
Nỡ đày đọa trẻ, càng oan khốc già!...
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình!
Cái oan lớn ấy lôi cuốn theo những cái oan khác:
Mã Giám sinh:
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên
Tú bà:
Thương ôi! Tài sắc bậc này!
Một dao oan nghiệt dứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở xa gần...
Sở khanh,
Rồi Thúc sinh:
Khóc rằng: “Oan khốc vì ta,
Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau”
Hoạn thư, Hoạn bà và Khuyển Ưng với bầy lũ côn quang bắt cóc Thúy Kiều và ngụy tạo hỏa hoạn:
Con người thế ấy, thác oan thế này!...
Người này nặng nghiệp oan gia
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho!...
Cũng là oan nghiệt chi đây,
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
Rồi Bạc bà, Bạc Hạnh.
Cuối cùng gặp được Từ Hải, tưởng rằng:
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
thì lại bị Hồ Tôn hiến lừa, khiến cho Từ Hải chết oan còn
chính mình thì phải chịu cái tiếng oan giết chồng:
Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống, Từ liền ngã ra.
một kiếp người suốt một tuổi trẻ:
Những là oan khổ lưu ly.
Cho đến khi đã chết một thế kỷ rồi, mà Thúy Kiều vẫn còn chưa
hết hàm oan dưới sự phê phán của một bậc đại nho là Uy Viễn Tướng công
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1857):
Từ Mã Giám sinh cho đến chàng Từ Hải,
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu,
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu
Mà bướm chán ong chường cho đến thế?
Bạc mệnh chẳng lầm người tiế nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Đố đem chữ HIẾU mà lầm được ai.
Nghĩ đời mà ngán cho đời!
(Nguyễn Công Trứ)
Thực ra, đây chỉ là chuyện riêng giữa tác giả bài hát cô đầu
trên và tác giả Đoạn Trường Tân Thanh, mà cô bé “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập
kê” bị đem ra mổ làm con dê tế thần. Nguyễn Du có ngây thơ ngớ ngẩn khi so
sánh sự bán mình để cứu cha và em của Thúy Kiều với chuyện quạt nồng ấp lạnh
và chuyện (tiếu lâm) ông Lão Lai nằm trong bụng mẹ 70 năm mới ra
đời rồi lúc 5 tuổi tức là lên 75 đứng ở sân múa cho cha mẹ xem trong lô
chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu của Thượng quốc không? Thấy cái cảnh cả ngàn cô Kiều thời
nay bị bọn Mã Giám sinh và Tú bà đầu cơ thịt người bán đi làm ô sin và
sex nô, bất cứ ai còn có chút tình người cũng chỉ biết thương và giận, còn có
ai nhẫn tâm mà hỏi là vì hiếu, vì nghèo, hay là vì dâm dục?
Thúy Kiều còn có một nỗi oan thứ hai nữa.
Nỗi oan thứ nhất đã vùi dập đời Kiều, làm cho Kiều đau khổ,
nhưng trong cái nhân sinh quan của thời xưa, tất cả những sự phi lý vô pháp của cuộc đời đều quy vào “số mệnh” hay vào một cái “nghiệp quả” huyền bí,
thì Kiều cũng chỉ biết cúi đầu chịu tội:
nhất là sau khi đã hai lần được Đạm tiên hiện về, cho biết là
“trong sổ đoạn trường có tên”:
Âu đành quả kiếp nhân duyên
Muốn trốn cũng không trốn được, muốn chết cũng không được chết,
còn có thể làm gì khác là:
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
Nhưng còn một nỗi oan nữa mà Thúy Kiều cũng như Nguyễn Du,
canh cánh trong lòng, là đã dưới trăng thắp hương thề nguyền trăm
năm vàng đá với chàng Kim, mà rồi đã không giữ được mình, còn lâm vào cảnh
“sống làm vợ khắp người ta” thì xấu và thẹn biết bao nếu lại gặp lại
chàng:
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng, từ đây!
nhất là nếu nhắc lại chuyện xưa, mọi người lại muốn hai người
nối duyên vợ chồng:
“Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa;
Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn,
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào!
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh?
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Từ nay khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng như tu mới là.
Chàng dù nghĩ đến tình xưa,
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ,
Nói chi kết tóc se tơ,
Đã buồn cả ruột, lại dơ cả đời!”
Thúy Kiều thấy xấu hổ với Kim Trọng, nhưng nhất là hổ thẹn với
chính mình. Ngữ pháp Việt ngữ dùng đại danh từ/ mình/ sau căn diễn thuật từ
để chỉ thể tự (voix réflé chie, reflected voice); trong đoạn
trên, có/ hổ mình/ và/ thẹn mình/, là mình hổ thẹn với mình, “Một mình mình biết, một
mình mình hay”.
Trong nền văn hóa Đông phương thủa xưa, chữ TRINH đối với người
con gái cũng như chữ TRUNG đối với người con trai. Nguyễn Du
không được chết vì vua vì nước và hổ thẹn với chính mình:
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm,
Tiêu điều lữ muộn đối thời ca.
(TẠP NGÂM)
Hùng tâm lạc lõng làm cùn cây kiếm ngắn
Nỗi buồn lữ thứ tiêu điều khi nghe những bài hát thời nay (điệu
hát mới thời Tây Sơn)
Nhưng lúc trẻ chạy theo vua, khi già rồi mà còn bừng bừng
dũng khí lúc qua cầu Dự Nhượng và khi thấy cái bia đá đề tên Kinh Kha.
Thúy Kiều bị cha mẹ thôi thúc và Kim Trọng nhắc rằng:
Một lời đã trót thâm giao,
Dưới dày có đất, trên cao có trời,
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
đã không còn thể trốn tránh được nữa và phải làm lễ đuốc hoa
với người yêu sau mười lăm năm xa cách.
Nhưng Kiều còn giữ được một điểm son nguyên thủy và cuối cùng
mà nàng nói ra như một lời cầu nguyện, đồng thời trách móc:
Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững, lại giày cho tan.
Nàng nhắc lại cái đêm đầu hai người gặp nhau, “đinh ninh hai
mặt một lời song song” dưới ánh của “vầng trăng vằng vặc giữa trời”, nàng
đàn cho chàng nghe rồi khi
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
nàng đã ngăn chàng lại và từ chối chàng. Chỉ có một giây phút
trong trắng ấy trong suốt một cuộc đời đoạn trường của nàng mà nàng đã cầm
như một kỷ vật cao quý và an ủi trong lòng, xin đừng giày nó cho tan:
Khéo là giở nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi!
Kim Trọng hiểu ngay, và Kiều cũng thấy:
Tương tri dường ấy mới là tương tri
và hai người cùng sống ngược lại cái buổi đầu ở chốn
thư hiên, nàng lại đàn lại bản đàn xưa với tâm hồn thư thái cho chàng nghe.
Nỗi lòng cô trung của Tố Như, mới 190 năm sau khi thi sĩ mất,
không biết có ai hiểu và nhỏ một giọt nước mắt cho một người đã phải
khoanh tay trước cảnh nước mất nhà tan không?
B.THI TỨ
TƯ là những thao thức dằn vặt người thi sĩ tự thấy mình vô dụng
vô phương, phải bó tay trước một thời cuộc tàn ác mà tài sức của
mình thì cứ hao mòn dần với thời gian.
Nhất sinh từ phú tri vô ích
Mãn giá cầm thư đồ tự ngu.
(MẠN HỨNG)
Một đời từ phú, biết là vô ích,
Sách đàn đầy giá chỉ làm mình ngu.
TỨ là cái duyên không ngờ làm cho ý thơ bừng sáng, là cái tia
sáng ấm làm cho trên cành lê trắng nở một vài bông hoa.
Cái gì, sự gì đã làm cho tâm tư của thi sĩ biến thành bài thơ
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, làm cho cuộc đời bế tắc của thi sĩ nhập vào
làm một với cuộc đời của Thúy Kiều mà giải tỏa được nỗi oan tam thập
niên?
Nhìn lại nội tâm của thi sĩ qua những bài thơ chữ Hán của
ông, kẻ cầm bút vô tài này chỉ nhắc lại sáu câu mở đầu Truyện Kiều mà
chắc rằng ai ai cũng nhớ:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ TÀI, chữ MỆNH khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Lúc này, Nguyễn Du đang làm quan trong triều, tinh thần an
thái bình
thản hơn, không, hay gần như không, viết thơ chữ Hán nữa. Năm
1813, Vua Gia Long phong cho Nguyễn Du làm Cần chánh Học sĩ và phái làm
Chánh sứ cầm đầu một phái đoàn trong một dịch vụ ngoại giao bình thường
sang Bắc Kinh. Nguyễn Du phải ra lại Thăng Long trên đường đi Trung quốc.
Đến Thăng Long, ông gặp bốn việc dồn dập làm ông vô cùng xúc
cảm và ông ghi lại thành bốn bài thơ trong Nhật ký Hành trình của
ông mà Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện gọi là Bắc Hành Thi Tập.
Theo thiển ý, bốn sự kiện này chính là “những điều trông thấy
mà đau đớn lòng”, trong “cuộc bể dâu” ông trời đã bày ra để “đánh
ghen” với ba người “má hồng” mà thi sĩ đã biết khi tất cả
đang còn trẻ.
* Việc thứ nhất là có một người đưa đến khách quán cho ông một
bức tiên mai, đề rõ là gửi cho “Cần chánh Học sĩ Nguyễn hầu; Hầu (Nguyễn
Du được phong Đông Du Hầu năm 1805), người làng Nghi Xuân, huyện Tiên
Điền.”
CẢM CỰU KIÊM TRÌNH CẦN CHÁNH HỌC SĨ
NGUYỄN HẦU
(Nhớ người (chuyện) xưa, viết thư kính trình
Cần Chánh Học sĩ Nguyễn hầu)
Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương gieo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong
Bức thư viết từ Lầu Nguyệt, là của Hồ Xuân Hương nhắc lại mối tình văn thơ gần ba năm tròn nhưng dang dở giữa hai người, và nói rằng nếu Nguyễn Du còn một chút nhớ đến người cũ thì đêm nay ghé lại nhà, bà chỉ có một mình chờ ở trên lầu trăng. Vì tình thế bắt buộc, Nguyễn Du không đáp ứng cũng không trả lời.
* Ông khổ tâm lắm về điều này, và trong hai ngày liền, ông lang thang trong thành Thăng Long đang bị san bằng ở khu chính phủ, là nơi ông sinh ra và lớn lên. Đó là cuộc bể dâu đang diễn ra trước mắt ông, và là việc thứ hai làm ông đau lòng:
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
(THĂNG LONG KỲ I)
Nghìn năm cự thất thành quan lộ
Một giải tân thành lấp cố cung
(Quách Tấn dịch)
còn người thì:
* Việc thứ ba làm cho sự thương cảm của ông tăng thêm lên một
tầng, là sự thình lình gặp lại cô nàng hầu của một người em đã chết trong
binh lửa, cô cũng đã lấy chồng khác và có ba con, nhưng vẫn còn mặc cái áo
hồng của đời chồng trước:
Phúc bồn dĩ hỷ nan thu thủy
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ty
(NGỘ GIA ĐỆ CỰU CA CƠ)
Chậu nước đã đổ khó vớt lại được,
Ngó sen đã đứt mà tơ còn vương.
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Nàng thì vẫn còn tưởng nhớ đến người chồng cũ đã chết, còn
ông thì không quên được cái triều đình và cả cái xã hội văn hóa xưa
trong đó ông đã được nuôi dưỡng nhưng cũng đã bị tiêu diệt không thể trở lại.
Hai cái đầu bạc gặp lại nhau chỉ biết cùng khóc cái thời đã mất.
* Vụ thứ tư là tiếng đàn cầm được nghe lại sau bữa tiệc tối ở
dinh Tuyên phủ:
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm,
Thanh như song hạc minh tại âm.
(LONG THÀNH CẦM GIẢ CA)
Dịch phóng, có thay đổi:
Trong như tiếng hạc bay qua
[Đục như tiếng suối mới sa nửa vời]
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
[Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa]
Cũng tiếng đàn cầm của hai mươi năm trước mà thi sĩ đã được
nghe trong tuổi trẻ của “Long thành giai nhân” có biệt danh là cô Cầm,
nhưng nay chỉ còn là một người đàn bà mặt võ mình khô ngồi rúm ró ở cuối chiếu.
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Trong đám ca kỹ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
Mặt gầy, thần khô, hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong
một thời, Khúc xưa đàn lên, nước mắt tôi thầm tuôn theo từng tiếng.
(Dựa theo bản dịch xuôi của Quách Tấn)
Thực là:
Thành quách suy di, nhân sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải.
Thành quách dời đổi, nhân sự khác,
Nương dâu bao nhiêu đã thành biển xanh.
Những khổ ải của sự vô thường mà thời gian lạnh đem lại, ông
thấy đổ dồn vào người đàn bà, và ông viết hai lần cùng một câu trong
hai bài thơ lớn của đời ông:
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu.
(VĂN CHIÊU HỒN)
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH)
Tiếng than ấy sẽ còn lại trong vĩnh cửu, để nhắc người ta phải
xóa nó đi. Cái tứ thơ làm ra Đoạn Trường Tân Thanh đã nảy mầm vào lúc
này.
C.NGÔN TỪ THƠ
TỪ là lời THƠ.
Nói đến THƠ, nhiều người nghĩ đến “phong, tuyết, nguyệt, hoa”
lúc nhàn hạ, như người xưa nói:
Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên...
hay như một thi sĩ đời nay viết:
Là thi sĩ nghĩa là run với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Thơ không chỉ có thế. Thơ là một rung động đến đáy tầng
nguyên sơ của tâm trí do sự tiếp xúc với một ngoại cảnh, tính chất,
hình hài, màu sắc của một vật thể hay một cảnh trí hoặc một hoàn cảnh, một sự việc,
thoát ra như một thông điệp qua ngôn từ với âm thanh và chữ nghĩa sắp xếp một
cách “tú khẩu cẩm tâm” như “ném châu gieo vàng” mà có ý nghĩa:
CUỘC ÐỜI NGOẠI VẬT
Vật thể
Cảnh trí
Sự việc
TÂM TƯ TỨ TỪ THƠ
Âm thanh
Hình thái
Cú pháp
Nội dung
Ý nghĩa
Nguyễn Du viết truyện cô Kiều, đề là Đoạn Trường Tân Thanh,
là mượn đời Thúy Kiều để nói lên sự đoạn trường của chính mình. Nhưng
Truyện Kiều là một truyện đầy đủ, mạch lạc, lại đã có Kim Vân Kiều Truyện của
Thanh Tâm Tài nhân làm mẫu đi trước, nên bắt đầu từ Phạm Quí Thích, vì
đã có đọc cuốn truyện của Thanh Tâm Tài nhân, rồi nhiều người sau đã nghĩ rằng
đây chỉ là một cuốn truyện để “mua vui” giải sầu. Nguyễn Du cũng muốn
che đậy tâm tư của mình và đã cố tình đánh lạc ý nghĩ của các người cùng
thời để tránh những phiền nhiễu - và có thể, tai họa - cho bản thân. Trước
khi vào đề, nói về Ngôn từ THƠ trong Đoạn Trường Tân Thanh, chúng ta phải thỏa
thuận nhận rằng Đoạn Trường Tân Thanh là một bài thơ dựng trên một cốt
truyện, như một vườn hoa hồng trên một khoảng đất thích hợp, như một pho tượng
dựng trên một cái lõi sắt, như một bức họa vẽ trên một tấm vải căng
trên một cái khung gỗ. Chuyện cô Kiều là thửa đất, là cái lõi tượng, là vuông vải,
là cái cốt, cái xương trên đó một tòa kiến trúc đã được đúc nên để cho chúng
ta có thể được thấy:
Rõ màu trong ngọc trắng ngà,
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Truyện Kiều dài 3.254 câu. Thơ trong Truyện Kiều, thơ trên
Truyện Kiều cũng dài 3.254 câu, không lúc nào đứt quãng, không chỗ nào vá
víu, như bầu trời một ngày đẹp, trên một cái nền bích ngọc mờ xanh nổi
trôi những vầng mây trắng, chỗ tơ như nắm sợi lụa vừa chải, chỗ bồng bềnh như
những nét bút lông chấm phá trên giấy, chỗ lổn nhổn như những nắm bông gòn
trên mặt nia, ánh nắng rọi vào làm ửng hồng như má đào lại rực sáng và chói
như mệnh bạc, mà tất cả thuần nhất một sự im lặng mênh mông. Thơ Kiều cũng
thế, khi kể, khi tả, khi tán, khi tụng, khi giận dữ, khi mỉa mai, khi
thương cảm, khi tàn bạo, khi tình tự, khi giảng luận... đều như nước chảy mây trôi
không hàn gắn, không chắp nối.
THỜI GIAN THƠ
Làm sao để có một sự liên tục trường giang như thế? Trước hết
là có một dòng thời gian với những đợt sóng xuân hạ thu đông từ buổi
Thanh Minh cho đến sông Tiền Đường. Và có sự liên tục của tình yêu đã bị bẻ
gãy nhưng tơ vương vẫn còn. Tình thơ thắm đượm cả cảnh bên ngoài lẫn tình
bên trong, kết nên cái nền ngọc không nứt rạn của truyện.
Mở truyện ra là:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi;
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
rồi khi bóng chiều đã ngả thì:
Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
Buổi tối thì:
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương treo nặng cành xuân la đà
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, chàng Kim bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người cho tới khi:
Lần lần ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua
Xuân qua, hạ tới, tai họa đổ xuống gia đình họ Vương hết ba
tháng, rồi Kiều phải ra đi với “người khách đã mua nàng”; đường đi
“trong cõi hồng trần” vào “góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm” một tháng
tròn:
Nàng thì cõi khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây.
Vilô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông;
Rừng thu từng biếc chen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn
Đến Lâm tri, bước qua ngưỡng cửa lầu xanh của Tú bà, rồi bị
giam lỏng ở lầu Ngưng Bích và lần đầu Kiều định trốn khỏi số mệnh nhưng bị
sự lường gạt của Sở Khanh, thì vẫn còn trong mùa thu ấy:
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương,
Lối mòn cỏ lạt màu sương,
Lòng quê đi một bước đường, một đau.
Sau đó bị bắt về lại lầu xanh, thì thời gian không còn nữa,
chỉ là những tháng ngày dằng dặc:
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng
“Lần lần thỏ bạc ác vàng” ngày qua đêm
lại mấy năm, một đêm xuân
bỗng có “người khách ở viễn phương xa” nghe mộ tiếng hoa khôi
của Kiều nhi gửi thiếp hồng tìm đến và làm cho sóng gió lại nổi lên, thời gian
lại rực sáng.
Thúc Kỳ Tâm gắn bó với cô gái lầu xanh suốt ba tháng xuân cho
đến một tối:
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.
thì không thể cầm lòng hơn được nữa, “đá vàng đã quyết, phong
ba cũng liều”, Thúc sinh lập kế chuộc Thúy Kiều về nhà riêng của mình “Sum họp
trúc mai”:
Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng;
Giậu thu vừa nảy giò sương
Sau đó thì trận phong lôi đầu tiên nổi lên: ông “nghiêm đường”
của chàng Thúc về nhà, “đất bằng nổi sóng đùng đùng”, nhưng rồi cũng
yên và huệ lan lại “sực nức một nhà” cho tới đầu mùa hè năm sau, khi:
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh
Thúy Kiều lại dục Thúc sinh “kíp liệu lại nhà”. Nàng căn dặn
chồng phải ở quê với vợ cả đủ một năm tròn:
Thương nhau xin nhớ lời nhau,
Năm chày cũng chẳng đi đâu mà chày.
Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.
Lúc ấy là vào mùa thu:
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
nhưng chưa được ba tháng, thấy:
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
thì chàng đã chạnh lòng nhớ đến tình riêng và nghe lời vợ nhủ,
lên ngựa về với người yêu. Đường về, đi qua “Sông Tần một dải xanh xanh”, cảnh
thu thực là đẹp:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng,
(Tôi cũng nhớ lại câu thơ của Tản Đà: “khói thu xây thành”).
Cùng lúc ấy, ở Lâm Tri, lúc “bóng dâu đã xế ngang đầu”, Kiều “chiếc bóng
song the”, buồn vì mối tình đầu dang dở, lo vì phận lẽ mọn cỏn con không biết rồi
ra sao, thắp mấy nén hương ra vái trời đất:
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời
thì đột nhiên bị tưới thuốc mê, đem xuống thuyền, đưa đường
biển về Huyện Tích, giao cho mẹ con Hoạn thư. Không gian và thời gian đảo
điên, “hay đâu địa ngục ở miền nhân gian”:
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà,
Lần lần tháng trọn ngày qua,
Nỗi gần nào biết đường xa thế này
Nhưng thời gian chỉ ngưng đọng với một người, nó vẫn vô tình
vô cảm quay tròn:
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân.
cho đến ngày “nhớ quê, chàng lại tìm đường thăm quê”. “Chàng”
là Thúc sinh, “về quê” là về với Hoạn thư, mà không
ngờ lại cũng có Thúy Kiều ở đó, nhưng đã bị “làm ra con ở, chúa nhà đôi nơi”. Những ngày giờ sau đó
là những ngày giờ giả dối, tán hoán tê mê, gan héo ruột đầy:
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời
từng phút từng giây, từng bước:
Bước ra một bước, một dừng
Giọt dài, giọt ngắn, chén đầy, chén vơi
từng tiếng nói, từng tiếng cười:
Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười
từng tiếng đàn, từng giọt châu:
Cùng chung một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm,
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương
nhưng chiếc đồng hồ trên vách vẫn điểm từng giọt lạnh lùng:
Giọt rồng canh đã điểm ba
để nhắc cho:
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.
Mấy ngày sớm khuya như thế rồi Hoạn thư tha cho Kiều “áo xanh
đổi lấy cà sa” ra gác Quan Âm ở vườn sau để chép kinh:
Nâu sồng từ trở màu thiền,
Sân thu, trăng đã vài phen đứng đầu.
nhưng Hoạn thư vẫn không tin chồng, nên bày một tấn kịch nhỏ
để nẹt ông chồng “tim hoa quá bước”. Đêm hôm đó, Thúy Kiều:
Cất mình qua ngọn tường hoa.
Lần đường theo bóng trăng tà về tây;
Mịt mù dặm cát đồi cây,
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu sương
Sau đó, gửi mình ở chùa Chiêu Ẩn, được bốn năm tháng muối dưa
thong dong với kinh với kệ:
Cửa thiền vừa cữ cuối xuân,
Bóng hoa rợp đất, vẻ Ngân ngang trời,
Gió quang mây tạnh thảnh thơi
thì tung tích lại bị lộ và Kiều lại bị khủng bố tinh thần để
đâm đầu vào cái bẫy của họ Bạc rồi bị bán vào một ổ nhện ở Châu Thai.
Cho đến ngày gặp Từ Hải, một người tuy là khách giang hồ từ
chốn biên đình, nhưng từ thân người, dáng điệu và lời nói toát ra
một sức mạnh làm cho người ta phải tin. Thời gian trở nên đích xác, vững vàng,
cương trực, thẳng thắn. Không cần mưu kế gì cả, tiền đặt xuống bàn và Kiều đi
ra khỏi lầu xanh. Hai người sống với nhau đường hoàng như vợ chồng trong nửa
năm, rồi chàng ra đi làm việc lớn, hẹn ngày về:
Chầy chăng là một năm sau vội gì
và chàng về sớm, bất ngờ, với uy vũ rõ ràng, thanh thiên bạch
nhật:
Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ công ra ngựa thân nghinh cửa ngoài
Việc báo ân báo oán chỉ trong một ngày. Sau đó thì là, theo lời
Thúy Kiều:
Năm năm trời bể ngang tàng
cho tới một buổi sáng, trúng kế lừa của quân quan triều đình,
Từ Hải bị phục binh giết và Thúy Kiều trầm mình ở sông Tiền Đường, chấm dứt
một kiếp đoạn trường. Người dân lành, bất bình vì sự bất tín hèn mạt của Hồ Tôn hiến
và có lẽ vì cả chính sự của Minh triều vào lúc cuối thời, đã dựng lên cái
thoại hậu Đoạn trường để giải oan cho một người con gái chung thủy đáng
thương. Nỗi oan ấy trùng hợp với nỗi oan của Nguyễn Du nên thi sĩ đã viết lại cuộc
Đoạn trường với tân thanh. Nhưng thời gian đã vô nghĩa với những người
không phải trả nghiệp. Họ cũng có sinh, có già, có chết và cũng có những đau
khổ của sự biệt ly. Có nghĩa gì không, những cuộc sống vô danh, ăn uống, thi
cử, kiếm ăn, làm giàu, đẻ con...
Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần...
Chỉ có thế trong sự tái hồi Kim Kiều.
MỘT CHỮ TÌNH BA MỐI
Thời gian đã dệt truyện Thúy Kiều thành một bài thơ Đoạn trường.
Tình yêu là yếu tố thứ hai làm thành sự liên tục của những
đám mây trôi nổi vô định trên nền trời xanh và giúp cho Truyện Kiều là bài
thơ Đoạn Trường. Bà Tam Hợp đạo cô phán rằng, Thúy Kiều:
... Mang một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong;
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng,
Ma đưa lối, quỷ đem đàng,
Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Bà nói đúng. Thúy Kiều là một cô gái có một tâm hồn bất ổn định,
“sắc sảo khôn ngoan”, nhưng còn non dại. Người ta không thể trách điều
ấy được ở một người con gái “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, ở một
gia đình nghèo (gia tư (nghỉ) cũng thường thường bậc trung) muốn ngoi lên mà không
có phương tiện, con trai có đi học và con gái thì hơi thả lỏng, biết chữ
nghĩa, biết đàn địch, theo truyện thì được đọc cả Tây Sương Ký: nếu con người là sản phẩm
của xã hội thì làm sao một người con gái nhỏ tránh được sự ước mong
và thấp hơn nữa, sự mơ mộng? Trong sự méo mó nghề nghiệp của người viết
những dòng này, nếu trên tuổi 12-14 mà thân thể cũng như tâm tính của một
thiếu nữ chưa bắt đầu nảy nở, thì là một trường hợp bệnh tật, trừ khi là
chính gia đình và xã hội của thiếu nữ ấy có vấn đề. Phương chi, trong trường hợp
Thúy Kiều, lại có chuyện:
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời,
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa!
Đó là một tội ác mà chỉ có những gia đình và xã hội ấu trĩ mới
có thể vô tâm mà để xảy ra được cho con trẻ trong nhà.
Thúy Kiều có mang một chữ tình. Cái tình ấy không chỉ có một
mà là
ba:
Thứ nhất là yêu mẹ yêu cha, yêu gia đình, yêu quê hương;
Thứ hai là yêu chính mình, thương chính mình;
Thứ ba là mối tình đột ngột, vừa chớm nở, còn mơ hồ, với một người bạn học của em trai mình, họ Kim tên Trọng, mới gặp mặt trong một buổi chiều tà, chỉ thoảng qua như một giấc mơ chập chờn.
Nguyễn Du cũng là nòi tình và cũng có ba mối tình: tình yêu
nước cũ
với quê hương, tình yêu và thương cái thân phận mình, và một
mối tình văn thơ đã xưa nhưng chưa dứt được. Nguyễn Du đã nhập khối tình già của mình vào khối tình ngây
thơ của Thúy Kiều thành thơ.
Chúng ta là những người đời nay, đã bớt bị những đè nén, trói
buộc của nền đạo đức luân lý cổ thời, trọng lễ giáo và hình thức đến độ
không nhận sự chân thực và thành tâm. Không ai biết trong một trăm năm nữa,
sự xung đột giữa những khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa và cái nền văn hóa
bảo thủ sẽ thỏa hiệp ở mức độ nào. Ở Thế kỷ thứ Hai Mươi Mốt, tuy Thế kỷ mới vào tuổi thứ 10, tôi tôn kính các cụ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, và
cả Phạm Quỳnh, như những nhân sự lớn của một thời lịch sử, nhưng đó
là về mặt chính trị. Trong cái thế giới càng ngày càng nhỏ hẹp và chật chội
này, những quan niệm về con người và về gia đình, xã hội không còn theo
Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu được, và Thơ cũng không còn ở trong cái khuôn của
Thi Kinh.
1- TÌNH QUÊ HƯƠNG và GIA ĐÌNH
Thúy Kiều, yêu mẹ yêu cha, yêu cái gia đình nghèo mà ấm cúng
của mình, không cần phải nói đến chữ Hiếu. Tình là cái tính tự nhiên mà
Trời cho, rồi đời sống bồi dưỡng (hay có khi hủy hoại). Còn Hiếu là giáo dục,
là lễ nghĩa, là một cột trụ lớn của xã hội quân thần phụ tử, và là một giáo điều
của Đạo thờ tổ tiên. Kiều có học chữ Hiếu, nàng không muốn thua nàng Oanh ả
Lý, nàng biết cả chuyện quạt nồng ấp lạnh và tin cả chuyện Lão Lai bảy mươi
lăm tuổi múa nhảy ở sân cho cha mẹ già vui (!), tuy rằng việc hiếu là dành
cho con trai vì “con gái là con người ta”. Kiều không
cần viện chữ Hiếu; nàng xin bán mình vì thương yêu cha mẹ và vì cùng đường rồi không còn cái gì khác
để ra thoát được một chính quyền tham nhũng thối nát. Sự bi thảm là không
một ai ngờ rằng Kiều rơi vào một đường dây buôn người.
Nguyễn Du yêu quê hương và yêu nước. Tình quê thâm sâu và thắm
thiết; quê với ông là làng Tiên Điền với 99 ngọn Hồng Lĩnh, với chim
kêu vượn hót, với tiếng sáo đồng quê, và còn là Thăng Long, là nơi ông ra đời
rồi lớn lên với bọn trẻ hàng phố. Còn tình yêu nước trước hết là yêu nước Đại Việt
mà Đức Thánh vương Lê Lợi đã đòi lại từ tay Nhà Minh, mà cha anh ông
đã giúp công xây dựng và chính ông hy vọng được phụng sự. Ông được học chữ
Trung, Trung là cái Nghĩa của đời sống kẻ thần tử; được chết về sự
Trung là cái vinh dự lớn nhất không những của một người mà của cả một dòng họ.
Những chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa xã hội chưa làm méo mó lòng trung và chưa làm dơ bẩn tình yêu nước.
2- TÌNH YÊU - MỐI TÌNH ĐẦU
Tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng lúc đầu chỉ là một
thoáng nghĩ mơ màng:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm có biết duyên gì hay không?
Nhưng sau đó ít lâu thì thành gắn bó với lời thề chung thân.
Sự lén lút bí mật càng làm tăng thêm tính cách lãng mạn và nghiêm trọng của buổi
thề bồi dưới trăng. Kiều đàn để tỏ tình với Kim nhưng đã từ chối và ngăn
chặn chàng khi:
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
Mối tình của Nguyễn Du với nữ sĩ họ Hồ lâu gần ba năm
(1802-1805?) nhưng là một mối tình văn thơ hoàn toàn trong trắng như bà nhắc
lại trong bức tiên mai đưa tay cho ông khi ông trở lại Thăng Long:
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Nhưng với ông cũng như với bà, vẫn có “muôn nghìn nỗi nhớ
nhung”. Trong Đoạn Trường Tân Thanh tên của nữ sĩ là Mai, là Hương, là
Xuân, được để vào những câu tình tứ và âu yếm nhất, và mặt trăng sáng không những
đúng hẹn không rời bước đường của ông suốt từ Thăng Long lên tới lầu
Hoàng Hạc:
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung....
Cổ thì minh nguyệt chiếu tân thành
Thâu đêm không ngủ, lòng thương khổ
Sáo ngắn véo von ánh trăng trong...
Trăng sáng thủa xưa soi thành mới
Phong kinh duy thuyền tảo,
Sơn cao đắc nguyệt trì.
Gió mạnh cột thuyền sớm,
Núi cao trăng đến chầy
[SƠN ĐƯỜNG]
Phù vân liên Ngũ Lĩnh
Minh nguyệt hội Tam Tương
Ngũ Lĩnh, mây trôi nổi
Trăng sáng rọi ba sông
[TƯƠNG GIANG]
Mãn mục giai thu sắc,
Mãn giang giai minh nguyệt
Tịch liêu kim dạ vọng
Thiên trích cổ nhân tình.
Đầy mắt toàn màu thu
Đầy sông toàn ánh trăng
Đêm nay nhìn đất lạ
Nghìn xưa, tình miên man
[TƯƠNG ÂM]
Trung tình vô hạn bảng thùy tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri
Với ai bày tỏ tình vô hạn
Gió mát trăng trong cũng không hay
[HOÀNG HẠC]
Ánh sáng trăng soi suốt dọc tập thơ Đoạn Trường của Tố Như.
Từ khi còn lưu lạc như ngọn cỏ bồng lìa gốc trước luồng gió
Tây2
(Đoạn bồng nhất phiến, Tây phong cấp) và có thể trước nữa,
Nguyễn Du vẫn yêu trăng. Hằng Nga e lệ chỉ mới hơi hé mở cái nắp gương
tròn, ông đã có thơ:
Hấp đắc dương quang tài thướng thiên
Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên.
Thường Nga trang kính vi khai hạp
Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền
2. Tây phong: Gió lạnh thổi đến từ phương Tây (ở Trung Hoa).
Nguyễn Du chỉ cuộc loạn Tây Sơn. Đó là cái ý ngầm trong câu thơ nói về nỗi oan
phong vận kỳ dị của Nguyễn Du (Độc Tiểu Thanh ký).
Nhận ánh mặt trời, vừa ló dạng,
Mùng ba mùng bốn chửa tròn vành,
Gương bóng Hằng Nga mới hé nắp,
Cánh cung tráng sĩ dây chưa căng
[SƠ NGUYỆT]
hay trăng rằm tỏa ánh ra muôn dặm:
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên....
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Đêm nguyên tiêu, sân vắng, trăng đầy trời,
Trọn vẹn không thay, vẫn vẻ đẹp xưa....
Cùng đường, lại được cùng trăng gặp,
Sau ba mươi năm, ở góc biển chân trời
Trăng, với thi sĩ, là người đẹp, là nguồn an ủi, rồi là chính
lòng thi sĩ vằng vặc như bóng trăng soi giếng cổ:
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thủy vô ba đào....
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.
Trăng trong lòng giếng cổ,
Nước giếng không ba đào....
Vằng vặc một mảnh lòng,
Giếng trong trăng giọi bóng.
(Quách Tấn dịch)
Đến cuối đời thì thi sĩ có hơn một duyên cớ và lý do để yêu Cổ
thời
Minh Nguyệt. Trong Truyện Kiều, Tố Như là nhà thơ của trăng.
Trăng đến với Thúy Kiều ngay từ buổi tối ngày Thanh Minh, thực
là đẹp và lơi lả, mơ màng với hai việc trăm năm không giải đáp:
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không;
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân;
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời
–“Người mà đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi;
– Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.
Dưới sáng trăng, thời gian lặng lẽ lạnh lùng trôi, tấm gương
trăng tròn như tò mò, như thương xót, chênh chếch dòm song rồi chênh
chênh xế mành, còn Thúy Kiều thì một mình với một mình ngồi yên lặng với hai
câu chuyện chung thân và trăm mối lo nghĩ, rồi một mình nhắm mắt đi gặp
một cái bóng hình sương tuyết lãng đãng như gần như xa.
Đó là tất cả cuộc đời của Thúy Kiều thu gọn trong chớp mắt của
một giấc mơ màng dưới trăng. Cái chớp mắt ấy sẽ trải ra mười lăm năm
lưu lạc đầy vơi của một người con gái ngây thơ. Đã đành rằng mười lăm năm
cũng chỉ là một chớp mắt đắm trong một giấc mơ, nhưng trong giấc mơ ấy, biết
bao nhiêu tình mà trăng sẽ thấy.
Trăng trở lại, rực rỡ, uy nghi để mở đầu cho một cuộc tình
duyên trong trắng tuyệt đẹp đầy hứa hẹn nhưng sẽ không thành:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Trăng là chứng nhân tối cao cho mối tình và lời thề “trăm năm
tạc một chữ đồng đến xương” của hai người. Trăng là biểu hiệu, là
hình tượng của tình yêu. Trăng thành ra cuộc đời của Kiều. Trăng là niềm an ủi,
là mẹ hiền không rời những bước đau khổ lưu ly của Kiều, trăng mờ và xót
thương người con gái nhỏ vô tội mà bị đầy đọa trong những địa ngục của cõi bụi trần.
Sau những ngày trời đổ đất long xảy ra cho gia đình rồi thấy
luân thường đảo ngược ở cái động mãi dâm của Tú bà, Thúy Kiều được
nhốt vào một phòng ở Lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Tất cả đều là biểu tượng, tất cả là những cảnh trí biến đổi
mà đại văn hào André Gide ở nước Pháp vào đầu thếkỷ XX sẽ gọi là cảnh nộitâm
(le paysage intéreur), nhưng cảnh nội tâm của Gide thì tĩnh mà nội tâm
của Thúy Kiều thì dao động vì cải biến hàng phút hàng giờ. Nguyễn Du lại
đem những cảnh thực của đời mình làm những tâm cảnh của người trong
truyện. Tha hương là cảnh những đồi cát vàng và những dặm dài chỉ có những
bụi hồng mà gió cuốn lên, ở Quảng Trị hay trên đường đi Bạch Mã trong
tỉnh Thừa Thiên; quê nhà là những núi và ngàn tùng rú bách của Hà Tĩnh,
Nghệ An.
Quanh lầu Ngưng Bích không phải là không có nhà, xa hơn một
chút còn có một cái rừng thưa, nhưng với Kiều thì “chung quanh những nước
non người” nên tâm cảnh chỉ là cồn cát dặm hồng bốn bề bát ngát hoang vu. Thế
nhưng lúc đầu lại có:
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
“Vẻ non xa” là tình nhà, tình quê, “dặm
nghìn nước thẳm non xa”, trông vời cố quốc biết là ở đâu.
“Tấm trăng gần” là tình yêu, nó gần là
vì mới đây mà “trăng thề còn đó trơ trơ”, ngày ngày vẫn thấy.
Trong lòng Kiều còn đầy ắp hai mối tình ấy, vẹn toàn, ở
chung, quấn
quyện lấy nhau. Sự thương thân sẽ đến sau.
Giai đoạn Sở khanh là một sự kiện đẩy Thúy Kiều chìm sâu vào
đầm
lầy mà không ngoi lên được nữa. Trăng thu lấp ló rình theo từng
bước của người con gái nhỏ bị quyến rũ cho đến lúc nàng bị đẩy xuống
giếng thơi (bản BK/TTK chú thơi là sâu thăm thẳm). Sau một chiều buồn man mác
dẫn đến vô vọng, Kiều thả bức rèm cửa xuống để cắt đứt mình ra khỏi những
ảo ảnh ở chung quanh, thì Sở khanh lảng vảng đến bên ngoài với mấy vần
thơ. Ánh trăng đã len qua những khe của cái mành cửa để nhòm ngó:
Bóng nga thấp thoáng dưới mành.
Nàng đóng cửa lại để khỏi bị xao xuyến, nhưng một mình bơ vơ
với sự chua xót và bất an, không khỏi nghĩ quẩn nghĩ quanh:
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đinh;
Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
Cảm lòng chua xót, lạt tình bơ vơ.
Kiều liều lĩnh cầu cứu và Sở khanh đáp ứng liền, hẹn ngày giờ.
Trăng hạ tuần, mọc chậm, nhưng đúng giờ đã ngấp nghé sau bông hoa
trà mi ở cửa.
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành, Sở Khanh lẻn vào phòng Thúy Kiều
rồi nửa đêm, hai người ra khỏi cửa, lên ngựa đi trong rừng, dưới
ánh trăng mờ, suốt đêm cho đến sáng, trăng lặn, gà gáy:
Đêm thu, khắc lậu, canh tàn,
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương,
Lối mòn, cỏ nhạt màu sương,
Lòng quê đi một bước đường một đau.
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
Bọn lâu la của Tú bà ập đến, điệu Thúy Kiều về.
Trăng thề trong sáng vằng vặc còn trở lại một lần, như để chế
diễu mỉa mai mối tình đầu của Kiều, đã bị chôn vùi trong một quá khứ
không có đáy:
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò.
Từ đó, trong mấy năm liền, không có trăng, chỉ có nguyệt hoa:
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa
Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng
Cho đến một bữa, bỗng có một người, là Thúc Kỳ Tâm đến với Kiều,
và đất bùn lại nổi sóng vì chàng.
Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
Trăng non đầu hè lại về, nghe tiếng nỉ non tình dài đêm ngắn
của hai
người cho đến tảng sáng,
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Kiều biết rằng không phải là trăng của mình, vì:
Vả trong thềm quế cung trăng,
Chủ trương, đành đã chị Hằng ở trong nhưng yên lòng một phần nào về những lời quả quyết của chàng,
nàng cũng chịu nhắm mắt đưa chân, nghĩ rằng mình có thể khuyên người chồng
mới để thoát khỏi những búa và rìu của gia đình Thúc sinh. Thúc sinh
rụt rè mãi rồi cũng chịu nghe lời vợ lẽ và về nhà với vợ cả.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi;
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Thúy Kiều mong rằng có được một vầng trăng tròn nguyên vẹn để
nương tựa mà trốn cái nạn phải bán thân “làm vợ khắp người ta”,
nhưng trăng vỡ làm đôi. Cái đêm ngửa mặt lên nhìn trăng thấy hiện ra chỉ có nửa
vành với ba mảnh vụn là ba ngôi sao, chính là đêm khốc quỷ kinh thần của một sự
đọa đầy mới chưa từng ngờ đến:
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời
Một lũ ác nhân nấp trong vườn hoa đã xông ra bắt nàng đem đi,
đến
một nơi không biết là đâu, để chịu những hình phạt không hiểu
là vì lý do gì, cho đến khi vỡ ra là vợ cả của Thúc sinh đánh ghen.
Lần lần tháng trọn ngày qua, trăng như vắng bóng cho đến cái
đêm
Kiều không còn chịu nổi sự đe dọa khủng bố tâm thần nữa và:
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây,
Mịt mù dặm cát đồi cây,
Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
Kiều không còn thấy trăng trong những năm sau cho đến ngày cuối
đời, mở cái màn ở khoang thuyền nhìn ra ngoài, chỉ thấy “chân trời
mặt bể lênh đênh”, trông lên trên thì cái lưỡi liềm của trăng hạ tuần
cũng đã lặn:
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Ngọc đắm hương chìm, thế là hết một cuộc đời đoạn trường.
Trong Truyện, Kiều được cứu, sống lại, và về nhà, không có mặt
trăng đi theo. Thúy Vân, thay Kim Trọng, nhắc đến vầng trăng cũ:
Còn vầng trăng cũ, còn lời nguyền xưa, nhưng Kiều trả lời:
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
3- SỰ THƯƠNG THÂN
Trong đời, Kiều hai lần phải nói chữ “chừa” như ta chừa một tội
lỗi,
một thói xấu. Lần đầu với Tú bà:
Chút lòng trinh bạch, từ sau xin chừa
và lần thứ hai, là với Kim Trọng, sau khi đánh đàn lần cuối:
Một phen tri kỷ cùng nhau,
Cuốn dây từ đấy, về sau cũng chừa
Thúy Kiều ở nhà với cha mẹ và các em cũng yêu đời, ham vui,
ham sống, thơ, vẽ, ca, ngâm, phong lưu đàn địch như bất cứ ai:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
và đến ngày lễ hội đầu xuân, thì chị em nô nức bộ hành đi
chơi trên cỏ, hòa mình với đời.
Cô con gái mới lớn lên ấy đã có một mối lo từ nhỏ, là được biết
rằng đời mình sẽ chẳng ra gì mai sau:
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
“Nghìn thu bạc mệnh” là thế nào? Trong nước Trung Hoa cổ thời,
số mệnh là cái sức mạnh huyền bí độc tôn ngự trị không những trên lịch sử
mà trên từng giây phút của đời mỗi người, và bói toán là cái khoa học
tối cao để hé mở cái thiên cơ bầy trên ngôi vị của các sao và trong cuốn sổ lớn
của Nam Tào Bắc Đẩu. Hoàng Đế là Thiên tử, cũng phải hỏi bốc sư trong mỗi
hành động. Một đứa con gái nhỏ của một ông viên ngoại nghèo là cái gì mà
không lo sợ với một lá số “bạc mệnh”. Ra khỏi nhà buổi đầu xuân mà đụng vào một nấm
đất không hương không khói bên đường (là cái mả Đạm Tiên), làm sao mà
không động lòng? Kiều khóc, không phải là khóc người đời xưa, mà là khóc
chính mình.
Thúy Kiều đẹp và tài hoa. Ở đời, không có ai là không tự yêu:
yêu mình, thương mình, lo cho mình, muốn mình không phải bị đau khổ, nhục
nhằn. Người đẹp lại càng yêu mình, không phải là tự đánh giá cao,
mà là yêu. Như một thi sĩ viết thay Thần Thủy tiên, người trai đẹp nhất của
thần thoại Hellen (Hy lạp):
Tout autre n’est qu’absence.
Ô mon bien souverain, cher corps, je n’ai que toi!
Le plus beau des mortels ne peut chérir que soi...
[Tất cả cái khác đều là không.
Thân hình yêu quý, của báu tối cao của ta, ta chỉ có mi!
Con người đẹp nhất thếgian, chỉ có chính mình để chìu mến mà
thôi] (Paul Valéry - Fragments du Narcisse)
Sự tự yêu, tự quý, tự thương, tự trau dồi sắc đẹp làm cho sự
hy sinh của Kiều để cứu cha em ra khỏi móng vuốt của một chính quyền đầu
trâu mặt ngựa đã cao quý lại thành cực kỳ cao cả.
Trong suốt Đoạn Trường Tân Thanh, Tố Như nói đến Kiều như một
bông hoa sống. Lần đầu khi Kim Trọng mới đến thuê phòng sát nhà của
Kiều ở bên tường đông, thì chỉ thấy:
Dưới đào, dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm, xốc áo vội ra...
thì chỉ có chút hương để lại:
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
Thúc sinh đến với Kiều:
Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chăng ưa.
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân, càng gió càng mưa, càng nồng. Thân người Thúy Kiều:
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa:
Rõ màu trong ngọc trắng ngà,
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Kiều bị đánh ở phủ đường:
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương.
Thúy Kiều bắt đầu buồn vì thân phận sau khi việc nhà đã tạm
yên, buổi tối trước khi phải rời nhà để sang ở với Mã Giám sinh mấy ngày
trước khi lên đường:
Một mình nương ngọn đèn khuya,
Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu,
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu
Từ cái ngày đó, mỗi ngày là một ngày tủi phận thương thân, mỗi
lúc xảy ra một việc gì, Kiều lại lún sâu hơn vào đất bùn dơ dáy và nàng
nghĩ và than và khóc suốt những đêm dài một mình với một bóng. Khi phải tiếp khách ở lầu xanh:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Lúc phải hầu hạ Hồ Tôn hiến, kẻ đã giết chồng mình:
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay,
Và cuối cùng, khi bị áp xuống thuyền trên con nước Tiền Đường
mênh mông “trời cao sông rộng một màu bao la”, nghĩ lại tất cả cuộc
đời của mình:
Đành thân cát dập sóng vùi,
Cướp công cha mẹ, thiệt đời thông minh.
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Duyên đâu ai dứt tơ đào,
Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay,
Thân sao thân đến thế này,
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Một mình cay đắng trăm đường.
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!"
Hai chữ “thôi thì” mở đầu, rồi “thì thôi” ở cuối bao bốn chữ
“nát ngọc tan vàng” thực là đứt ruột nát lòng.
Nguyễn Du kết cuộc đời của Thúy Kiều với bốn câu:
Thương thay, cũng một kiếp người,
Hại thay, mang lấy sắc tài làm chi!
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp, còn gì là thân.
* Khi bị giữ ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ Kim Trọng và xót mình
trong
bốn câu quan trọng nhất là câu cuối (vì cũng là tâm tư của
Nguyễn Du):
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ,
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai!
nghĩ đến cha mẹ, nhất là đến mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
buồn rằng không được ở gần để săn sóc và làm ấm tuổi già:
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
cũng bốn câu để đối xứng. Nhưng thương thân và lo cho mình
thì tám câu, làm thành bốn tâm cảnh trước mắt trong tai quây lấy tứ phương bốn
bề. Trước hết là sự mơ màng xa vọng rằng ngoài biển cả vào chiều
tối, chàng sẽ tới để cứu mình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
nhưng chỉ là một hình bóng ẩn hiện của một cánh buồm huyễn ảo
ở Biển Đông ngoài chân trời.
* Nhìn gần thì chỉ có một lạch nước với một mảnh đời là một
bông hoa tàn sa xuống và đang trôi đi tới nơi vô định:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu.
Một thảm có xanh rì trải ra cho tới chân trời vắng lặng là
cái hình ảnh
của sự bơ vơ cô độc trong đất trời bao la, rồi đột nhiên,
sóng nhồi khắp quanh mình như cái lúc cuối cùng của cuộc đời, vào trong con nước
mênh mông của sông Tiền Đường lúc triều lên nổi tiếng đùng đùng.
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh;
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Mở mắt ra, là bốn cảnh đời, sống động, nối tiếp nhau, lồng
vào nhau
từ hiện tại vô vọng cho đến kết cuộc khốc liệt, thảm sầu.
Nhắm mắt lại, hãy lắng nghe những tiếng lòng thổn thức rồi
kinh
hoàng trong tiếng nhạc của thơ, sau bốn chữ/ buồn/ mở đầu:
Buồn trông _ _ _ _
Th _ th th, _ _xa xa
Buồn trông _ _ m sa
_ _ m m _ _ _ _
Buồn trông _ k d d
_ m m _ , m m x x
Buồn trông _ k g
ầm ầm _ _ k k g ng
(k = c, q)
Những tiếng âm điệp và âm gần (alliterations và assonances),
trong sáu câu đầu dùng những âm môi, âm niếu còn mềm mại bỗng đổi sang
những âm hậu ở cúa mềm cằn cỗi, cứng cỏi, gồ ghề. Các vần cũng biến dạng,
/xa xa, sa, là/ rồi /đâu, dầu dầu, mầu/ đổi sang những vần nam tính, chặn ở
mũi, /xanh xanh, ghềnh, quanh/. Tâm thần đã thốt ra bằng âm thanh của thơ.
Tôi chưa nói đến thi điệu: Trong cái khuôn bốn đoạn “Buồn
trông” lấy từ ca dao:
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi! nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi! nhớ ai sao mờ?
Bốn câu buồn của Kiều kéo dài ra dằng dặc, mất dần cái nhịp
đôi của những bước chân đi, phải trái, nặng nhẹ, mà chuyển theo tiếng khóc
nức nở rồi thành
hơi thở hồi hộp hổn hển:
Buồn trông|| cửa bể| chiều hôm,
Thuyền ai| thấp thoáng| cánh buồm| xa xa.
Buồn trông|| ngọn nước mới sa,
Hoa trôi| man mác|| biết là về đâu,
Buồn trông|| nội cỏ dầu dầu,
Chân mây | mặt đất || một mầu xanh xanh.
Buồn trông || gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm|| tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Những ai yêu phong tuyết nguyệt hoa sẽ thấy trăng, hoa,
phong, tuyết đầy trời thơ của Đoạn Trường Tân Thanh. Không chỉ có thế, mà thơ dày đặc trong không khí vì các
phong cách mà cổ thi dùng nhưng thơ mới đã rời bỏ, hoặc hoàn toàn, hoặc
chưa hết hẳn.
1- ĐIỂN CỐ
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Một bài thơ không lẻ loi cô độc, một bài thơ là tất cả một rừng
thơ từ
thuở nguyên sơ đã sống lại, một dòng thơ chảy suốt từ suối
nguồn qua những khe những lạch, uốn khúc trong những cánh đồng hay lách mình
giữa những khối đá ngổn ngang. Đó là cảnh thơ, đó là khí thơ, đó là thơ. Điển cố không phải là chữ nghĩa. Điển cố là cái khoảng trống ở
giữa các nét chữ và ở quanh các chữ. Nếu như Nguyễn Du viết: “Kinh
không chữ mới thực là CHÂN KINH”, thì thơ là cái không chữ trong bài
thơ, và điển cố là cái không trong cái không. Vì sao? Vì ngôn ngữ là chữ nghĩa,
chữ (hay tiếng) có nghĩa, những dòng chữ nối tiếp nhau theo quy luật ngữ pháp
có nghĩa, cái nghĩa ấy là chủ đích của sự thông tin, và ngôn ngữ của loài
người trước hết là để làm ra những thông điệp.
Thơ cũng dùng ngôn ngữ để chở, và không thể tránh được
công việc thông tin. Khi tính cách thông tin quá nặng, quá lộ, thì tính
thơ giảm đi, có thể không còn nữa, và ta chỉ thấy là văn vần, đọc lên là hiểu
ngay và thấy vui tai.
Thanh Minh trong tiết tháng Ba,
Lễ là “Tảo Mộ”, hội là “Đạp Thanh”
Khi Kim Trọng đi hộ tang Chú trở về thì tìm đến vườn Thúy để
mong gặp lại Thúy Kiều và thấy:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời,
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Đây là một điển cố mượn từ mấy câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Chữ nghĩa không có gì khó, mỗi chữ chỉ đúng cái nó được làm
ra để chỉ: “hoa đào” là hoa đào, “năm ngoái” là năm ngoái, nhưng cái chữ nghĩa
ấy là ngôn ngữ, không phải là điển cố. Điển cố là cái cảnh ngộ, là
sự hụt hẫng của thi sĩ khi trở lại vườn xưa, thấy cảnh vẫn như xưa, hoa đào
năm ngoái vẫn còn rún rảy cười đùa với gió xuân, nhưng thiếu nữ thì không thấy
tăm dạng đâu.
Tôi không kể hết chuyện, vì ra ngoài điển cố. Sự thờ ơ vô cảm
của trời đất trước sự sống chết của người đẹp và trước sự thương cảm của
con người là một đề tài lớn của thơ. Hoa đào đẹp và là biểu tượng của hạnh phúc,
nhưng khi thi sĩ trở lại thì hình ảnh đẹp của hạnh phúc còn mà hạnh phúc
thực thì đã mất. Hoa đào lại là biểu tượng của người con gái, mùa xuân là
mùa của yêu đương và cũng là lúc mà tạo vật của mặt đất sống lại. Nhưng với
người có tình, nếu người kia vắng mặt thì cảnh vật đều vắng lặng, rỗng
không. Đó là điển cố:
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Triết gia Wittgenstein viết rằng:
2.03 Trong một tình cảnh (state of affairs), các vật thể gắn
liền với nhau như các mắt của một cái xích...
2.032 Cái cách đặc thù nhất định các vật thể liên hệ với nhau
trong một tình cảnh là cái cơ cấu của tình cảnh (the structure of
the state of affairs).
2.034 Cơ cấu của một sự kiện (the structure of a fact) bao gồm
các cơ cấu của các tình cảnh.
2.04 Cái toàn bộ (totality) của các tình cảnh hiện có
(existing states of affairs) là thế giới (the world).
(Tractatus Logico Philosophicus, London, 1953)
(Toàn thư Luận lý - Triết lý)
Một điển cố là một tình cảnh mà tinh hoa được cô đặc lại
trong một bức họa rồi được diễn ra trong một câu thơ. Ý nghĩa của câu
thơ, tức là điển cố, là do người đọc thơ tìm ra và đặt vào. Kiều nói rằng:
Dầu khi lá thắm chỉ hồng
rồi mấy bữa sau lại nhắc lại:
Nàng rằng: “Hồng diệp xích thằng,
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.”
Tiếng đàn tái ngộ với Kim:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồđiệp hay là Trang sinh?
và rất nhiều câu nữa... đều là điển cố.
Chầy sương3 chưa nện cầu Lam
3 “Sương” là “huyền sương”, thuốc tiên phải dùng chầy cối bằng
ngọc để luyện (cho bà mẹ của người đẹp). Ý nói đồ sính lễ quý báu, xứng
với người tiên, chất chứa không biết bao nhiêu ước mong và bao nhiêu hứa hẹn
trong một chữ “chưa”; ở sau cái cối và chầy ngọc đưa đến cầu Lam để được
kết bạn với người tiên còn có cái gì mà thi sĩ lại nói là “chầy sương”?
Khi tôi tìm ra cái mật mã của câu thơ thì sương mù tan hết, sự trong sáng của điển cố
làm cho thơ e lệ trốn đi mất. Điển cố không phải là để làm cho rõ nghĩa, điển cố
chỉ khêu gợi một hoàn cảnh tương tự trong thơ của muôn đời và vì thế điển cố
đóng góp rất nhiều vào sự có thơ trong một bài thơ. Các thi sĩ đời nay ở
Âu châu, trước sự tàn tạ của các điển cố xưa, bứt ra từ Huyền thoại Hy Lạp,
La Mã và từ Thánh Kinh, đã đặt ra loại thơ bế tỏa (hermétique) khó hiểu để che
đậy những tư tưởng rất thâm trầm và rất thơ của họ đồng thời bảo vệ sự kín đáo của
cái đẹp trong thơ. Sau đó, trên địa hạt triết học, một chủ thuyết mới đã xuất
hiện (Dilthay, Ricoeur, Poulet) là Hermeneutique, nhằm vào sự tìm nghĩa lý của
một tác phẩm bằng cách dùng trực giác (intuition) để nhập nội tư tưởng của
một tác giả. Trên bình diện phê bình triết học cũng như văn chương, như thế là
trong hiện tại có ba khuynh hướng và phương pháp để giảng nội dung (content) của
một văn bản hay một triết thuyết: Herméneutique (Giải bế),
Structuralisme (Cơ cấu pháp), và Déconstruction (Derrida, Paul de Man, Kristeva). Chúng ta ở
Việt Nam, còn quá xa những chùm sao này của bầu trời trí thức. Các thi sĩ mới
của ta, vì nhiều duyên cớ, đã bỏ sự dùng những điển cố rút trong
văn chương Trung Hoa, và chưa làm được như Ezra Pound ở Hoa Kỳ, là trích văn
thơ Đông phương để làm mới thơ Anh ngữ, nên thơ mới mất một cái rễ lớn
của rừng già thi từ phú của nhân loại, một điều mà tôi chỉ biết tiếc như một
người thấy rằng mình khiếm khuyết một cái gì đó trong tâm hồn.
Điển cố trong Đoạn Trường Tân Thanh, phần lớn là gốc từ thơ
văn và chuyện cổ Trung quốc, nhưng với lớp sĩ trong nước ta thì sự
song ngữ là tự nhiên đã từ hơn một ngàn năm nên những thành ngữ như “sử
xanh” và người đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” cũng đã là sáo ngôn sáo ngữ.
Truyện Kiều lại ở trong một dòng văn chương, cao hơn là bình dân, trong đó rất
nhiều điển cố đã được cho nhập tịch, không phải chỉ từ Đường thi.
Nguyễn Du đã hái không biết bao nhiêu bông hoa đẹp trong vườn
thơ Việt, từ tục ngữ ca dao đến Cung Oán, Chinh Phụ, Hoa Tiên...
Lương sinh trong Hoa Tiên truyện, nói với Dao Tiên:
Chút nghĩa tri giao.
Chưa cùng sum họp, nỡ nào chia phôi,
thì Kiều nói với Kim:
Chút nghĩa tri giao.
Chưa cùng sum họp, nỡ nào chia phôi,
thì Kiều nói với Kim:
Ông tơ ghét bỏ chi nhau
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
Mười lăm năm sau, Kiều nói với Kim:
Mấy lời tâm phúc ruột rà,
Tương tri dường ấy mới là tương tri
có khác bao nhiêu với lời của Lương sinh:
Tình xa bao quản người xa,
Tương tri có thế mới là tương tri.
“Lửa phiền” là chữ của Hoa Tiên:
Lửa phiền như đốt niềm tây,
Non tà, liễu đã tơ xoay bóng vàng.
Nguyễn Du yêu chữ ấy đến độ hai lần dùng nó:
Tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan
và:
Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền
“Trăng hoa” đã thành một lời sáo, cả trong tiếng mách qué của
ta. Nhưng trong Truyện Kiều, bằng sự láy lại và đảo nghịch, “nguyệt hoa”
đã làm thành một câu thơ não nề uốn éo trong cú pháp cũng như theo
âm thanh:
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa, càng nồng.
Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
“Nguyệt hoa hoa nguyệt” là lấy ra từ Chinh phụ ngâm mà Đoàn
Thị Điểm, Nguyễn Khản rồi Phan Huy Chú đã chuốt thành một áng văn đầy
tình cảm:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt êm một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt, trong lòng xiết đâu.
Sự biệt ly bao giờ cũng buồn, một mối buồn man mác như không
bao giờ dứt. Chinh Phụ ngâm kể lúc người vợ tiễn đưa chồng và chia
tay trong khói sương của Tiêu tương trước những ngàn dâu của thành
Hàm dương. Tôi chỉ đục ra bốn câu mà Nguyễn Du cũng đã yêu:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai?
Nguyễn Du chỉ lấy có bốn chữ mà nhắc lại được cái tình dài lê
thê của sự chia ly:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Cung Oán cũng để lại những mẫu câu duyên dáng và một số điển cố
đẹp như cẩm tú, tôi chỉ nhặt ra một câu:
Cảnh hoa lạc, nguyệt minh dường ấy,
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.
Hôn hoàng thôi lại hoàng hôn,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa
mà Nguyễn Du đã lấy và đổi thành:
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng...
Những chiều vàng... rồi chiều vàng... lại chiều vàng không
hy vọng có một rạng đông là một chuỗi vô tận những thảm sầu nối tiếp.
Nhưng những điển cố chứa chất và mang nặng nhất không phải là
từ thơ Hán Đường Tống hay thơ Việt Nam, mà là từ chính thơ chữ Hán của
thi sĩ. Các hình ảnh đầy tình tứ của mặt trăng hay ghê rợn của đống xương
vô định, sắc
xa vắng của mùa thu khi quay đầu về cố-hương và mối hận cũ những
đêm trăng tàn, là những mảnh vụn của các bài thơ trong những năm
gió bụi và thời kỳ Nam Trung của chính thi sĩ. Tiếng đàn của Long Thành Cầm giả
là một nửa tâm hồn của Thúy Kiều khi nàng mới gặp Kim Trọng:
Hoãn như sơ phong độ tùy lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Trong như tiếng hạc bay qua
Hai câu:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
là dịch từ câu:
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti
trong bài Ngộ Gia Đệ Cựu Ca Cơ, nhưng mối tình đầu với Kim Trọng
đã đứt lìa, chỉ còn chữ “nghĩa”, và cái ngó sen (“ngẫu”) được mang
cái “ý” còn cái tơ ở cuống sen (“ti”) thì là tự trong “lòng”.
Đôi lúc tôi vẫn tiếc rằng thơ mới đã tuyệt tình với thơ cũ một
cách rứt
khoát không còn một sợi tơ vương, như thể là sông và biển
không cần phải có nguồn có suối.
2.SONG HÀNH và ĐỐI CHỌI
Các lý thuyết gia của thơ mới không những chủ trương thanh lọc
điển cố, mà còn chống lại nhiều điều khác của thơ cổ điển. Các nhà
thơ, từ cuối thế kỷ thứ XVIII, đã khai hỏa bắn vỡ cái pháo đài kiên cố của Đường luật
Tống từ.
Hồ Xuân Hương đã bóp méo cái khuôn thơ của họ Lý, họ Đỗ và nhạo
báng cả cái ý hệ của Thiên triều bằng những lời thuần Nôm của người
đàn bà Việt Nam. Cuộc cách mệnh thơ bắt đầu từ đó, về sau mới đến sự đập
phá hình thức khi người ta thấy được rằng thơ Pháp cũng lôi cuốn quyến rũ
và ngoài trời này ra còn có trời khác. Tôi không coi thường thơ mới của ta nhất
là khi dòng thơ mới còn đang lớn lên, nhưng bàn đến thơ trong Truyện Kiều,
tôi chỉ mong rằng khi đổ chậu nước tắm đi người ta đừng đổ cả đứa bé còn đang
ngồi ở trong chậu.
Có lẽ cái mà những người viết bằng bút sắt ghét nhất trong
thơ văn bút lông là cái được gọi là phép “biền ngẫu”: hai con ngựa đóng
song song trong một cái khung. Người ta hiểu chữ biền ngẫu một cách quá máy
móc, hẹp hòi và chỉ nhìn thấy những thí dụ nhặt ra từ một vài bài vần vè của
một ông thợ thơ nào đó. Sự học ngôn ngữ ngày xưa đặt căn bản trên sự đối
(contrast). Học trò đến nhà thầy thì học từng cặp chữ đối nhau:
Thiên/ Địa/ Cử/ Tồn/ Tử/ Tôn...
Trời/ Đất/ Cất/ Còn/ Con/ Cháu...
rồi đối nhau hai chữ:
khuôn trăng/ nét ngài
đầy đặn/ nở nang
hoa cười/ ngọc thốt
sắc sảo/ mặn mà
đối nhau ba chữ:
mai cốt cách/ tuyết tinh thần
làn thu thủy/ nét xuân sơn
nền phú hậu/ bậc tài danh
bốn chữ:
mây thua nước tóc/ tuyết nhường màu da
hoa ghen thua thắm/ liễu hờn kém xanh
văn chương nết đất/ thông minh tính trời
vào trong phong nhã/ ra ngoài hào hoa
Đối nhau thì phải trên cả ba diện của ngôn ngữ: ngữ âm (bằng
đối trắc), ngữ pháp (cùng loại ngữ pháp hay cùng là thực tự, cùng
là hư tự), và ngữ nghĩa (nghịch nhau hay đồng hướng); sự thâm sâu hay hóm hỉnh
là ở ngữ nghĩa hay có khi ở ngữ pháp, nhưng vì sự mách qué của tiếng
nôm pha trộn với sự nghiêm chỉnh của chữ Hán, nên nhiều câu ỡm ờ
không đối được (đỏ hồng hồng, da trắng vỗ bì bạch).
Mỗi ngôn ngữ có những sở trường và sở đoản riêng nên sự chuyển ngữ (phiên dịch) chỉ có thể làm được cho nghĩa đen còn những sự
bóng bẫy thì bất khả thi nếu là một tác phẩm văn chương và nhất là một bài thơ
trừ khi là hai ngôn ngữ cùng gốc sát nhau như Latin và Pháp, Đức và Anh, hay
hai ngữ đã lồng vào nhau cả hai ba nghìn năm như Đường thi và tiếng Việt
(điều này khó hơn với thơ đời Tống Minh Thanh và thơ Hán đương thời). Tôi đố
học giả nào dịch được đôi câu đối rất tầm thường của đứa bé bảy tuổi (“Trạng
Quỳnh”) Việt Nam:
Trời sinh ông Tú Cát
Đất nứt con bọ Hung
ra bất cứ một ngữ nào trong hơn 4500 ngôn ngữ của loài người.
Thơ là cái không thể dịch, trừ khi người ta chấp nhận “cây
cau” dịch là cây dừa, cây cọ (vì cùng họ) hay cây táo, cây gạo (vì âm giống
nhau), hay cây nêu, cây sequoia (vì cùng cao), nhưng dầu gọi nó là “cau” thì nó
cũng vẫn vô nghĩa với những người chưa bao giờ ngửi thấy mùi hoa cau khi mặt trời
lặn ở non đoài trong một vườn cau bên sông.
Thơ lại là một cái gì kỳ bí của loài người vì thơ dùng
ngôn ngữ để chở nhưng không phải là ngôn ngữ mà ta dùng để buôn bán, thông
báo - Jean Paul Sartre nói rằng thơ là không ngôn ngữ, “la poésie est le
non-langage” - mà không có dân tộc nào không có thơ. Vì thơ là cái ước vọng
thâm sâu của tâm hồn con người mong muốn trở về cái uyên nguyên trong trắng của
ngôn ngữ khi ngôn ngữ phục vụ sự sống toàn diện không bị ám ảnh bởi lợi
và tiền. Ôi, êm đẹp, dịu dàng, ấm áp, kỳ diệu làm sao, tiếng nói được nghe
thấy ở gần, là một có mặt, một cứu nguy, một giúp đỡ, một an ủi, một
yêu thương, một tất cả; tiếng là âm, là nhạc, là nghĩa, là lời, là toàn thể.
Nhưng cái toàn thể, cái tất cả ở gốc nguồn đã mất khi trong bầy chia ra đàn nọ, đàn kia,
có tao, có mày, có đổi chác, có biếu xén, có gả bán, tức là sơ khởi có xã hội.
Tiếng nói, trước hết là tiếng, bản chất là tiếng, tức là
âm nhạc. Thơ, là tiếng phôi thai sơ thủy, là âm nhạc phát ra bởi con người trong luồng
hơi từ phổi qua cái hộp vang của họng và miệng mũi. Đầu tiên, có sự nhắc
lại: nhắc tiếng, nhắc vần, nhắc âm, nhắc điệu:
Cùng trông lại và cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Vần: thấy/ mấy, dâu/ mầu
Âm: c + c, th + th, x + x, ng + ng, m + m.
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình
Vần nặng: nghiêng, nghiêng, riêng, riêng, riêng
Vần nhẹ: chạnh/ mình
Âm: m + m, ng + ng, r + r + r.
Sự nhắc đi nhắc lại là một phương cách để ru hồn vào cõi mộng
như tất cả các người học nhạc đều biết:
Lại càng mê mẩn tâm thần
lại càng đứng lặng tẩn ngần chẳng ra
lại càng ủ dột nét hoa...
Chơi cho liễu chán hoa chê,
cho lăn lóc đá
cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh,
khi nét ngài,
khi ngâm ngợi nguyệt,
khi cười cợt hoa
Đều là nghề nghiệp trong nhà,
đủ ngần ấy nết mới là người soi (sành chơi)
Lên trên một bực là sự song hành, biền ngẫu.
Sự song hành không chỉ nhắc lại một âm, một vần hay một tiếng.
Song hành vượt lên trên ngữ âm. Song hành là sự nhắc lại một cơ cấu
gồm ba mặt, ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa. Nói là song hành, nhưng có thể
hơn hai, mà là đóng ba, đóng bốn con ngựa vào với nhau như những chiến xa
La Mã, hay cả mấy đôi như những phi đoàn thời nay. Trong sự song hành,
có sự hợp lực, có sự so sánh, lại có sự chuyển đảo của hai cái trục chính của
thi pháp là trục tương đồng (metaphore) và trục tương cận (metonymy). Đó là
cái lý do chính để có thể nói theo R. Jakobson (1968) rằng có một Ngữ pháp của
thơ (Grammar of Poetry) và nói thêm rằng có một Địa ký của thơ (Geometry
of Poetry). G. M. Hopkins (1959) cũng nói rằng “Cơ cấu của thơ được định bởi một
sự song hành liên tục” và sau Hopkins, Jakobson đã viết rằng sự
song hành (parallelism) là một vấn đề cơ bản của thơ, rộng lớn hơn vần
(rhyme) vì vần chỉ là một ca (trườnghợp) chi tiết của sự song hành.
* Đây là một trường hợp song hành khi Kiều đàn trong bữa tiệc
trùng
phùng của vợ chồng Thúc sinh và Hoạn thư. Có ba người trong
cuộc:
Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Trên chiếu tiệc chỉ có hai người, cùng ăn với nhau, cùng nghe
một tiếng đàn, nhưng một người là người ngoài còn người kia thì là người
trong. Hai chữ “trong” và “ngoài”, mỗi chữ có hai nghĩa. Sự lưỡng nghĩa (ambiguity) là một đặc tính của thơ vì trong thơ, sự thông tin chỉ là thứ yếu,
có thể bị dìm đi, bị
che phủ, để sự khêu gợi tình cảm nổi lên mặt trên, hiện ra
phía trước. Sự thực phũ phàng, có thể gọi là phàm tục, thì “ngoài” là ngoài cuộc,
tức là Hoạn thư, kẻ làm chủ, đứng trên tình thế. Người “trong” hay trong cuộc,
là người bị động, theo đồng văn (content) thì có vẻ là Thúc sinh vì câu
sau nói là chàng Thúc:
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương
nhưng chàng Thúc có ứa nước mắt thực, nên “người trong” không
những có thể cũng là Kiều mà còn có thể là hai người như một. Kiều và
Thúc sinh, cùng khóc thầm ở trong. Tiếng Việt, không có giới phái (gender) và
không có số ít, số nhiều trong hình thức của danh từ cũng như động từ, cho
phép một sự lửng lơ mà tiếng Anh, tiếng Pháp bắt buộc phải chọn một sự
chính xác kém thi vị khi diễn ra bằng lời.
“Trong” và “ngoài” còn có nghĩa khác nữa: “ngoài” là “ngoài mặt”, “trong” là “trong lòng”. Hai câu thơ trên thành hai câu để tả
tình cảm chung của cặp tình nhân.
Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Trong bữa tiệc chỉ có một mình Hoạn thư là thực, bên ngoài
thì cười nói ra oai, ở trong thì “khấp khởi mừng thầm” (cái mừng này cũng “thầm”
để đối lại với cái “khóc thầm” của kẻ kia). Còn Thúc sinh và Thúy Kiều,
mỗi người lại là hai người, một người thì ngoài mặt “gượng nói gượng cười” giả
một cái cười nụ, một cái cười không nở ra được thành hoa, với một người
trong “thảm thiết bồi hồi”, khóc mà không ra tiếng.
Việc đời phức tạp đảo điên, nói ra được những tang thương nghịch
lý ấy trong hai câu đồng cơ cấu cột vào nhau như hình với bóng là
những điêu khắc, kiến trúc hay nhạc điệu mà chỉ có thơ, trong tất cả các nghệ
thuật của người, là tạo ra được.
Sự song hành có một vạn cách, có cả trăm trạng, và có khi hai
con ngựa cùng chạy, tám cái vó cùng cất, ăn nhịp với nhau như một,
không khác gì một dàn nhạc đại hòa hỗn hợp đàn cầm, đàn phong, tiếng chiêng, tiếng
trống mà cùng thành âm điệu như nhạc trời, trộn lẫn gió, mưa, tiếng
lá, tiếng đất cùng với sấm sét mà uy nghi lẫm liệt hay rền rĩ đau thương như tiếng
lòng thiên cổ của chúng sinh dưới Trời.
* Thúy Kiều bị ép phải đàn cho Hồ Tôn hiến sau khi đã bị họ Hồ
lừa để giết không những chồng nàng, mà tất cả cái hy vọng còn lại của
nàng để trở về với cuộc sống ấm áp êm đềm trong một gia đình bình thường. Chỉ
có hai câu:
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Nguyễn Du bỏ sự đối nghịch dễ dàng giữa Hồ Tôn hiến kiêu ngạo
trên một thành công đê hèn và Thúy Kiều đau khổ hối hận vì đã ngây
thơ và vị kỷ mà mất một đấng trượng phu mà nàng vừa yêu vừa kính phục.
Nguyễn Du dựng lên sự song hành giữa vật và tâm, giữa bốn cái dây đàn
vô tri và năm đầu ngón tay, nhưng sự song hành ấy chỉ còn một cái bóng, một mẫu
hình thức rõ ràng đã gẫy, đã vỡ - bốn dây và năm đầu ngón tay -. Một sự
song hành cọc cạch của hai con ngựa nhưng một con đã què hai chân sau:
bốn dây nhỏ máu
năm đầu ngón tay
Một cung đàn tuyệt âm, chỉ để lại có một hình ảnh, mà cái
hình ảnh bi thảm đến rùng rợn ấy cũng đã nhòa đi vì muôn oán nghìn sầu.
Theo ngữ pháp, thì máu từ bốn dây đàn ứa ra mà nhỏ vào năm đầu ngón
tay, nhưng theo cái lý thông thường thì máu phải từ đầu ngón tay nứt ra mà
vào dây đàn. Bốn dây đàn và năm đầu ngón đã được máu hợp lại làm một mà không
một ai biết máu đến từ đâu hay chỉ là sự sầu thảm và oán hận hiện thành.
* Thúy Kiều phải đánh đàn theo lời sai của Hoạn thư rồi cuối
cuộc đời đoạn trường, lại phải đàn theo lệnh của Hồ Tôn. Nàng đàn với
tâm hồn đau khổ hay tan nát.
Ở đầu Truyện và cuối Truyện, nàng còn đàn cho Kim Trọng nghe
và hai lần này là với toàn tâm toàn ý, theo lời cầu của chàng; nhưng
sau mười lăm năm, cũng là một bản đàn xưa mà là tân thanh, vì tâm và ý của
nàng đã khác.
Nguyễn Du tả tâm tình của Kiều trong tiếng đàn một cách tuyệt
diệu, với những hình ảnh song hành, chuyển từ tâm vào âm rồi từ âm sang
ảnh. Đồng thời, Kim Trọng cũng được cho một tài thẩm âm tinh tế và
sâu sắc.
Lần hòa đàn thứ nhất, Kiều lộ ra một tâm hồn xao xuyến, rối loạn,
bất an, giao động. Tình yêu mới chớm nở trong lòng tuy chân thật,
nhưng còn rè rặt và pha trộn, không như tình yêu của Juliet với Romeo. Juliet
chỉ thấy Romeo một cách bất ngờ, gần như vụng trộm trong một giây phút thoảng
qua, nhưng ngay từ sự gặp mặt ở một kẽ hở của một bữa dạ hội, đã yêu trọn
vẹn, không cần những quy luật xã hội, bước qua cả mối thù truyền kiếp của
hai gia đình, hiến hết và sẵn sàng chết để có cái hy vọng mong manh được sống
lại với người yêu. Tình yêu của Kiều cũng bị u ám từ đầu: Kiều gặp mả
Đạm Tiên rồi mới gặp Kim Trọng là một điềm xấu, thêm vào lại còn lời thày
bói tiên tri một cuộc đời bi thảm; giấc ác mộng đêm Thanh Minh có thể chỉ là
do tâm thần bị ám ảnh rồi lo lắng quá mà sinh ra, nhưng ảnh hưởng trên
tâm trí một người con gái mới lớn lên ở trong cái ý hệ cổ truyền của Tàu hay của
Ta có thể nhuộm tang tóc cả một đời người. Vì thế nên ngay buổi sáng
trước khi gảy đàn, Kiều đã thổ lộ ra với Kim Trọng nỗi lo buồn của nàng và sự rối loạn
trong
thâm tâm trước cái viễn tượng về một sự đứt đoạn:
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
... Trông người lại ngẫm đến ta,
Một dày một mỏng, biết là có nên?
Tiếng đàn của Kiều vì thế mà pha trộn. Tình yêu bị làm đục bởi
sự tính toán, hạnh phúc bị bôi đen tối bởi lòng ưu tư, “nước đục bụi
trong” là thế. Bốn khúc đàn nối nhau không đâm bông kết trái mà lại chống nhau,
chọi nhau, cùng một khúc mà trên dưới cũng lệch lạc:
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau;
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng.
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân
Quá Quan này khúc Chiêu quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia
Mỗi khúc của một bản đàn là một vấn đề với một ưu tư, sầu muộn hay một ý tưởng giải thoát. Sự trình bày là hai câu nhạc
song hành, hoặc đối nhau, hoặc cùng tiến đến một sự thanh thản siêu thoát. “Khúc
nhà” mà Thúy Kiều tạo ra, phỏng theo những bài nhạc cổ điển, nhưng là
tâm trạng và tư tưởng của chính mình. Sự phân liệt và bế tắc hiện ra trong từng
khúc nhạc.
Nếu biết trước những gì sẽ xảy ra trong truyện, thì Thiên Bạc mệnh
này chính là diễn tiến của cuộc đời Thúy Kiều.
Khúc Hán Sở Chiến trường đối lại với khúc Tư Mã phượng cầu:
trên chiến trường thì tiếng sắt và tiếng vàng sát phạt nhau; trong lời
phượng cầu thì có ẩn cả sự sầu và sự oán. Thời sống với Từ Hải chỉ là để dẫn đến
cái bi kịch của mẹo lừa Hồ Tôn hiến. Những vùng vẫy để trốn khỏi nạn lầu xanh và
áo xanh là một chuỗi thất bại đau thương. Trong khúc Quảng Lăng mà Kê Khang được truyền thụ, nhạc như
nước chảy mây trôi, khi nhanh cuồn cuộn khi chậm lững lờ, nhưng
lúc nào cũng thanh thản. Khúc Quá Quan của Chiêu quân đầy tình quê hương và lòng
yêu kính quân vương ngập ngừng như luyến tiếc khi phải biệt ly với những
gì quý giá nhất trong đời.
Sự nhớ nhà và mối chung tình ngắn ngủi với Kim Trọng cũng là
hai sự thương cảm thâm sâu của Thúy Kiều trong những năm dài sắp tới.
Nàng chỉ ước mong được thong dong yên ổn, không phải trôi dạt như chiếc
lá lìa cành nhưng khúc nhạc Quảng Lăng đã tuyệt tích. Những song hành và mâu thuẫn trong bản đàn có thể diễn ra như
sau:
Ý NGHĨA
Dòng đời
Hán Sở chiến trường
(Hạng Vũ - Lưu Bang)
SONG HÀNH ĐỐI NGHỊCH
Sắt - Vàng (Giao đấu: Con người chống lại
số mệnh, nghiệp)
Tình duyên Tư Mã Phượng cầu hoàng
Tư Mã Tương Như - Trác Văn uân
Oán + Sầu
Ước vọng Quảng Lăng
Lưu thủy - Hành vân
Thanh thản
Sự thanh thản đã mất
Tâm tư Chiêu quân Quá Quan
Luyến chúa - Tư gia
Ly biệt
Tình yêu + Nhớ nhà
Các khúc nhạc là sáng tác của Kiều, dựa theo những bản nhạc cổ điển mà nàng đã tự ý chọn ra.
Tiếng đàn là tự tâm phát ra, tùy lúc. Tiếng đàn phản ánh những
cảm
khái nhất thời của Kiều khi ngồi cùng với Kim Trọng trong
thư phòng, sau khi đã thề nguyền cùng nhau kết duyên vợ chồng. Tiếng đàn ấy cũng
lúc trong lúc đục, lúc nhẹ, lúc nặng, lúc thong thả, lúc rồn rập, không nhất
thiết bình tâm, không yên ổn hạnh phúc:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời;
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
TÂM TRẠNG
Thật (yêu, vui)
TIẾNG ĐÀN
Trong
VÍ
Tiếng hạc kêu trong trời xanh
Rối loạn Đục Tiếng suối reo lưng chừng núi
An bình Khoan Tiếng gió thoảng ngoài vườn
Bất an Mau Tiếng mưa rào
Vật vô tri giác cũng rung theo tiếng đàn: ngọn đèn leo lắt,
lúc mờ lúc
tỏ.
Kim Trọng là người biết thẩm âm và thấy cái tâm trạng dao động
của
Kiều nên “ngơ ngẩn sầu”, và có lúc không vưà ý (chau mày):
Khi tựa gối, khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.
và nói ra, để trách móc:
Rằng hay thì thực là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
Chỉ vài khắc đồng hồ sau, mặt trăng vừa tắt sáng trên các tầu
lá thì có tin nhà đưa tới, gọi Kim Trọng về chịu tang và hai người phải
chia tay nhau trong mười lăm năm đoạn trường.
Mười lăm năm sau, đốt thêm nến trên giá, nối thêm trầm trong
bình, Kim Trọng lại muốn Thúy Kiều đàn để vui chung. Kiều đã là một con người khác. Nàng đã chết đi sống lại. Nước sông Tiền Đường đã rửa sạch hết
cái mệnh bạc xưa của nàng. Ngồi trong cái thảo am của Sư Giác
Duyên, tụng kinh gõ mõ đã không biết bao nhiêu ngày tháng mà không nhìn thấy mặt
trăng, đối với sự đời, Kiều đã tắt lửa lòng. Còn có một nỗi oan cuối cùng
và cũng là nỗi oan đầu tiên về chữ trinh, thì Kim Trọng đã giải thoát cho
nàng.
Thân tàn gạn đục khơi trong
lòng nàng đã sạch lâng lâng, bao nhiêu cay đắng đã tan hết
trong tâm và thấy lại được cái ngọt ngào của cuộc đời vô sự, “khổ tận cam lai”,
Kiều ôm lại cây đàn để dạo lại bài đàn của lúc ban đầu cho Kim Trọng nghe:
Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa,
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh,
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên,
Trong sao! châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm sao! hạt ngọc Lam điền mới đông.
Trong cái không gian ba chiều của căn phòng đuốc hoa, tình
xưa lai láng, tâm hồn thong dong, tiếng đàn từ tay tiên tỏa ra, lẫn vào với
hương trầm cao thấp.
Các khúc đàn như thực như hư, rõ ràng minh bạch là thế mà vẫn
như mơ như ảo, không biết là Trang đã mơ là bướm hay bướm đang mơ là
Trang, vua Thục đã chết rồi hay vẫn sống vĩnh cửu trong thân hình của
loài chim đỗ quyên không bao giờ quên được quêhương đất nước êm đẹp với
tình xuân vô tận.
Tiếng đàn cũng đã trút sạch những ám muội của bụi trần và những
lạnh lẽo của lo âu: trong như tiếng của hạt châu mới nhả lăn trong
làn nước trong róc rách của duềnh quyên, ấm như hòn ngọc đang thành từ đá được
hơi nóng của lòng đất nung trong cả triệu năm mà đông lại rồi nguội dần;
ngọc đang thành còn ấm và ẩn trong đá núi là ngọc quý, chưa bị dơ bẩn
vì tay người đụng vào.
Không có một tiếng, một chữ nào gợi đến “tình yêu”. Châu ngọc
cũng là của cảnh tiên, ở những chỗ và trong những thời huyền thoại.
3- NGỮ PHÁP CỦA THƠ
Song hành (biền ngẫu) là hiện thân của ngữ pháp và là bản thể
của ngôn từ thơ, nhưng cũng chỉ là một hình thức của thơ, dầu là một
hình thức cơ bản. Ngữ pháp lớn rộng hơn và thâm sâu hơn nhiều.
Các thi sĩ lớn thấm nhuần ngôn ngữ của dân tộc, không những
biết ngữ pháp tự tâm, mà có thể sáng tạo ngôn từ và đôi khi phá ngữ pháp
để nói ra được từ trong đáy lòng mình những điều mà ngôn ngữ chợ búa nhầu
nát của người đời không phát biểu được và chỉ biết khóc cười. Một
ngôn ngữ không sáng tạo được là một ngôn ngữ già nua lụ khụ sắp tàn đời. Sự
sáng tạo trong ngôn ngữ phần lớn là nhờ thơ và nếu có, nhờ khoa học.
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Đoạn Trường
Tân Thanh tức Truyện Kiều lại là bài thơ lớn của đời ông và là tác phẩm
đã được dân tộc Việt Nam nhận là bảo vật tinh thần trân quý của dân
ta.
* Khi chỉ là để kể chuyện và không có gì quan trọng lắm, Nguyễn
Du nói những lời nói của người dân, có khi phủ phàng, có khi thâm độc,
nhưng có thể thực là bình dân, như một người nhà quê gọn lời mà thẳng tắp vào đích. Tôi xin chỉ nhặt ra vài lời làm mẫu, trong những câu mà cá nhân
tôi thán phục:
Thúy Kiều nói về Đạm Tiên:
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng
Nguyễn Du tả Túbà qua con mắt của Thúy Kiều đối sự đồ sộ
thô bỉ của mụ với câu hỏi úp úp mở mở dấu một chữ tục tĩu không thể nói
ra:
Thoắt trông lờn lợt màu da,
Ăn GÌ cao lớn đẫy đà làm sao!
Lời của Tú bà mắng Kiều:
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã NGỨA NGHỀ lắm sao?
Kim Trọng nhất tâm cương quyết tìm lại Kiều:
Bao nhiêu của, mấy ngày đàng
Còn tôi, tôi MỘT gặp nàng mới thôi.
Tôi không dám kể nhiều. Một thi sĩ mà ba trăm năm sau còn có
một câu được người ta nhắc lại, thiết tưởng cũng đã mừng lắm.
Shakespeare có một câu:
To be or not to be, that is the question.
John Keats có một câu:
A thing of beauty is a joy for ever.
Giản dị, dễ dàng, mà âm hưởng miên man, ý nghĩa thâm sâu
không bao giờ cạn.
* Những câu và đặc ngữ hiển nhiên, trắng trợn và lồ lộ Việt Nam
như trên tuy không thâm trầm về tư tưởng, nhưng mộc mạc và đặc sắc,
đã thực là tiêu biểu cho cảm tính chân thực của con người Việt Nam. Trước
khi có Tây học, Tàu, Ta và tất cả Đông phương trong vòng bánh của
Trung quốc không có quan niệm ngữ pháp và không có ngữ pháp học, nhưng không thể
nói rằng không có ai biết đến các vấn đề về ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ tự nhiên
là ngôn ngữ được tạo ra rồi lại được thu nhận vào các cơ cấu của óc
con người thì cái lõi của ngữ pháp phải là tiên thiên (innate) trong người ta,
và tự nhiên có thể có những người tìm thấy được một vài nguyên tắc và quy luật
trong tiếng của dân tộc.
Sự biết cho phép sự làm, và cao nhất trong sự làm là sự sáng
tạo. Nguyễn Du không những sử dụng ngôn ngữ Việt Nam như ít người có thể làm được, mà còn sáng tác như chưa ai tưởng nổi. Tôi theo ngữ pháp mới. Ngữ pháp mới là ngữ pháp đang thành và đang được dạy ở những Đại học lớn và cao nhất của Hoa kỳ,
Anh, Pháp, Đức, Nhật, Trung và nhiều nước khác. Tôi sẽ cố phổ thông hóa những
điểm chính và chú trọng đến sắc thái văn chương, thi ca của ngữ pháp Việt.
Tôi cũng nghĩ như tất cả mọi người rằng Nguyễn Du không biết và không cần
biết ngữ pháp, mới cũng như cũ. Tôi dùng những gì tôi biết về ngữ pháp Việt
để nói về “Thơ trong Truyện Kiều” chứ không làm ngược lại. Không có ngữ pháp,
Nguyễn Du vẫn là Nguyễn Du, nhưng nếu ngữ pháp không giảng được một
chút nào của thơ Nguyễn Du, thì là sự thất bại của ngữ pháp.
Về các loại từ, tôi sẽ chỉ nói đến ba thực tự là danh từ và
diễn thuật từ/ cận từ. Sau đó, tôi sẽ vào cú pháp học và nói đến những trường hợp
phá ngữ pháp.
Cuối cùng, nói về thi pháp, dùng ngữ âm học nhiều. Các danh từ chuyên môn sẽ được chua ngoại ngữ, và tôi xin tất
cả các quý vị đã đọc hay nghe tôi đến đây thứ lỗi cho. Vì về Tây học,
có phần nào tôi vững hơn Đông phương học, mà những danh từ Pháp, Anh, Đức dịch
sang Hán ngữ hay Việt ngữ nhiều khi thiếu chính xác, nếu không thì
sai lệch mà lại thiếu thi vị, nên tôi xin phép được viết song ngữ. Trước hết là danh từ (N, tức là Noun). /Cái cưa, con bò, con ở, con tạo, kẻ lớn, lầu xanh, lời thề,
má hồng, tình yêu, tấm son.../ là những danh từ có cấu trúc n 2-n1
Tiếng đầu (loại danh n 2) là tiếng định loại từ, như/ con
bò/. Nếu nói/ bò/ trơ trọi, thì không biết là tiếng kêu của một con vật hay là
một từ diễn thuật (verb) để chỉ cách vận chuyển của một đứa bé, một con bọ, con
sên hay một cái xe thiết giáp. Nhưng nói/ con bò/ thì là một danh từ./ Con/
có tác dụng ngữ pháp là làm thành danh từ/ con bò/. Đặt/ con/ trước một tiếng
nào thì cho tiếng đó một từ loại là danh từ: con dun, con dê, con bú rù, con mắt,
con đường, con sông, con quay,...
– Con cò mấp máy suốt đêm thâu (Hồ Xuân Hương)
– Một con chèo đủng đỉnh dạo Hồ Tây (Nguyễn Khuyến)
– Ngày xuân con én đưa thoi
– Thử xem con tạo xoay vần đến đâu
– Mập mờ đánh lận con đen
– Trông vời con nước mênh mông
– Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ (Nguyễn Du)
– Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ (Nguyễn Trãi - Bùi Kỷ dịch)
Nhưng loại danh/ con/ không có mặt trong tất cả mọi danh từ.
Những danh từ có tiếng/ con/ ở đầu rất đông đảo, nhưng vẫn là giới
hạn. Ta nói con quay, con vụ, nhưng không nói *con chong chóng, *con cánh quạt,
*con (quả) đất, *con thò lò, hay *con cối xay, tuy những vật này cũng có quay.
Nhiều loại danh chỉ thấy có trong vài ba danh từ hạn hẹp và vì thế được người
ta cho là có nghĩa: điều này chỉ là thứ yếu. Loại danh trước hết là một dạng vị
danh từ hóa (nominalizing morpheme), tương đương với Anh hay Pháp ngữ:
(-ty): beauty, certainty
(-ion): education, motion, regulation
Nguyễn Du lợi dụng quy lệ ngữ pháp này để làm ra những danh từ mới, có tính chất kiêu kỳ tức là thơ hơn là những danh từ mà
ta thường dùng khi nói chuyện. Thí dụ, loại danh/ giấc/, thường kết trong
danh từ giấc ngủ, giấc mơ đến độ ta chỉ cần nói/ giấc/ là ai cũng biết là một trong
hai cái giấc ấy: Hôm qua tôi thức giấc lúc hai giờ sáng.
Ca dao:
Đêm qua có ngủ, xin thề
Một giấc đến sáng, chớ hề vẫy tai
Nguyễn Du:
– Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
– Tiếng sen khẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
– Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân...
– Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng,...
– Đêm xuân một giấc mơ màng.
– Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
– Giọt sương treo nặng cành xuân la đà
là giọt sương thật, và lại là tình yêu của Nguyễn Du với cành
Xuân.
– Giọt rồng canh đã điểm ba chỉ là những giọt nước trong cái đồng hồ cổ, tiếng Hellen xưa
và tiếng Pháp gọi là clepsydra, tiếng Anh là water clock.
● “Lòng thơ, lòng tơ, lòng quê, lòng xuân” là danh từ, “lòng
trinh bạch, lòng Phiếu mẫu” cũng là danh từ tuy dài hơn. “Lòng bốn
phương” là ‘tính giang hồ, phiêu bạt’, “lòng trọng nghĩa khinh tài” là ‘lòng hảo sảng,
ngay thẳng’ đều là danh từ.
●Loại danh n2/ duyên/ cũng làm ra một số danh từ trong Truyện. Duyên trời, duyên kim, duyên hội ngộ, duyên trăm năm, duyên
Châu Trần, duyên Đằng, duyên cưỡi rồng, duyên tơ hồng” đều là danh từ cả.
Nghĩa là gì, khó lắm, nó là những gặp gỡ nảy lửa nhưng huyền bí, hôm nay chúng ta
nói chuyện thơ đã rắc rối lắm rồi, tôi xin được thông qua vì giảng thì khó,
nhưng ai cũng đã
● Giở trang nào của Truyện Kiều ra cũng thấy những danh từ mới,
rất văn chương, rất điển cố và đầy tính thơ. Tôi giở ra một tờ
như để bói Kiều mà không tụng niệm “Ông Từ Hải, vãi Giác Duyên, tiên Thúy Kiều”
gì hết, trúng ngay đoạn Chàng Kim đi tìm nhà Kiều thì đọc được: điều nghĩ,
mạch Tương, nỗi riêng, tấc riêng, giống hữu tình, mối tơ mành, mây Tần, song
the, bóng hồng, tuần trăng, buồng văn, ngọn thỏ, phiếm loan, mành Tương, gió đàn,
giọng tình,... Tôi thôi không trích dẫn nữa vì sợ phải chép lại hơn ba ngàn câu thơ
thì sức già không làm nổi. Có thể có người cho rằng tôi quá đáng, nhưng chắc không
ai phủ nhận sự tưởng tượng dồi dào, và cái văn pháp phong phú của tác giả
Truyện Kiều; trong đó có hơn mười câu thơ mà chừng ấy siêu dụ, ẩn dụ, điển cố,
hình ảnh đổ xuống như thác nguồn thì cổ kim có lẽ chưa ai làm nổi. Mà không phải rằng các loại danh được chọn ra để ghép vào biệt
danh đi sau là không có ý thơ:
Cho hay là giống hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong
Đối lập CÁI/CON:
Căn bản của ngôn ngữ là những cơ cấu bậc hai (binary
structure): đối lập và phản nghịch có ở mọi từng của ngôn ngữ; thơ đưa sự đối nghịch
lên sự song hành.
Ý hệ Việt Nam, phản ảnh trong ngôn ngữ có hai đối nghịch: đối nghịch [cái bao trùm]/ [cái bị bao trùm] trong vũ trụ quan và đối nghịch
[nguyên vẹn]/ [vụn vặt] trong nhân sinh quan.
Đối nghịch thứ nhất được thực hiện bởi hai loại danh CÁI/
CON./ Cái/ là loại danh nguyên sơ, bao trùm vạn vật, phổ cập nhất,
thông thường nhất, với một sức mạnh danh từ hóa vô địch, đặt trên tiếng
nào thì làm thành một danh từ với tiếng ấy: cái cầy, cái tát, cái đẹp, cái
gì...
– Cái ngủ mày ngủ cho lâu
– Cái già sồng sộc nó thì theo sau
– Cái buồn này ai dễ giết nhau
– Giết nhau bằng cái u sầu...
Vì/ cái/ là cái thông thường, tạp nhạp, nên có khi chỉ còn là
một tiếng mà ngữ pháp xưa gọi là “article” và ngữ pháp mới gọi là tiếng chỉ định “determiner” rỗng nghĩa, có tác dụng ngữ pháp và có thể có
tác dụng văn chương, như:
– Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Chữ “cái” mà rất ít khi các thi sĩ dám dùng trong thơ (trừ
ca dao) có tác dụng chỉ thẳng vào mặt “cái số đào hoa” mà chửi “chém
cha”. Câu này là một câu rủa “cái đứa nào ăn cắp con gà nhà bà” thuần túy Việt Nam
được ghi khắc vào tập thơ mà dân Việt Nam kiêu hãnh nhận là của mình. Vì loại danh/ cái/ điển hình cho cái tạp nhạp, thông thường,
nên khi một cái gì cao quý, một bảo vật tiết sạch giá trong mà bị gọi
là “cái” thì là một sự khinh nhờn, một sự dìm giá quan trọng, như một câu thơ của
Nguyễn Khuyến:
– Cái gái đời nay gái mới ngoan.
nhưng khi chính mình gọi mình là/ cái/ thì là một sự
chán ngán bi thương làm tan nát lòng người:
– Chém cha cái số hoa đào
– Bấy chày gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn,
Còn gì là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?
– Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi?
– ... Phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi.
– Lỡ từ lạc bước bước ra,
Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Đối lập TẤM/ MẢNH là hai loại danh đầu đàn, điển hình cho đối nghịch “nguyên vẹn”/ “vụn vặt”. “Tấm” là cái toàn thân, nguyên vẹn, thuần nhất, trong trắng,
như câu hát của một cô gái quê còn ở nhà với cha mẹ:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
“Tấm lụa đào” là toàn tấm, chưa bị xé lẻ, đây một vuông, đây
một áo, để được may hay vá thành một cái khăn, cái túi, cái yếm gì đó. Còn “mảnh” là cái đã nát, đã bị xé vụn ra từng phần nhỏ,
không còn nguyên vẹn, như trong hai câu thơ mở đầu Cung oán:
Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
Mảnh vũ y là cái áo lông chim chỉ còn hình hài, nhưng tình
yêu đã mất, nên không đủ để sưởi ấm lòng.
Trong Truyện Kiều,/ tấm/ trước hết là tấm lòng thuần nhất,
toàn tâm toàn ý, Kim Trọng, mang “tấm tình si”:
Được lời như cởi tấm lòng
khi được Kiều trả lời rằng: “Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang”
Thúy Kiều từ giã cha mẹ để lên đường vào cuộc đời vô định:
Lỡ làng nước đục bụi trong,
Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
“Tấm lòng” còn là tấm lòng yêu cha thương mẹ:
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi
Thần hôn chăm chút lễ thường,
Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
và có lúc là tình yêu, và được gọi hẳn là “tấm yêu”:
Hoa hương càng tỏ thức hồng
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Vì “vầng trăng vằng vặc giữa trời” để chứng giám và là biểu tượng
cho tình yêu của hai người nên thành “tấm trăng”:
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
“Tấm” về sau hẹp lại nhưng vẫn là tấm trọn vẹn, không sứt mẻ
trong tâm ý, tuy về vật chất có lấm láp:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Sự bi thảm của Kiều là về cuối chuyện, không còn chữ “tấm” trọn vẹn, thuần nhất nữa. Tam Hợp Đạo cô có phán về Kiều rằng:
Tấm thành đã thấu đến trời.
là về lòng thành nhân hiếu của Kiều, chứ còn tâm hồn cũng như thân xác của nàng thì đã tan tác cả rồi:
Còn chi là cái hồng nhan.
Chữ “tấm” độc nhất mà Kiều còn nói là để cảm lòng từ bi của
Giác Duyên đã cưu mang nàng khi nàng trốn khỏi nhà Hoạn thư:
Nhớ khi lỡ bước xảy vời
Non vàng chưa dễ đến bồi tấm thương
Đối nghịch với/ tấm/ là/ mảnh/.
/Mảnh/ cũng là một danh từ được dùng làm loại danh để tạo ra
những danh từ mới./ Mảnh/ là một mấu trong một chuỗi danh từ/ loại danh
dùng phụ âm đầu/ m-/, bắt nhánh từ/ miệng/:
miệng > miếng (miểng) - mảnh
mánh - mảng - món
mụn
mẩu - mảy
mạt
Tất cả đều là những vụn vỡ ra từ một cái nguyên khối, một thửa
ruộng, một cái bánh, một khúc gỗ, một tấm vải. Những loại danh này
là những tan vỡ, sứt mẻ, chia lìa hay sót lại, to nhỏ khác nhau đã mất sự
nguyên vẹn. Trăng rằm tròn no là vành trăng hay vầng trăng, vì/ vành/ là cái
“vành” quanh của hình tròn, làm thành hai cận từ (adjuncts) là “vành vạnh” và
“vằng vặc”, lại vào trong một cận từ nữa, chỉ sự đầy đủ hoàn hảo, là “vẹn” (trọn vẹn
> tròn vành vạnh) và là căn của quầng (q vầng) và quành (q vành). Nguyễn
Du viết:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
không chỉ là dùng chữ, mà là dùng âm để tả (v - v.v...) sự toàn
hảo hoàn mỹ của tình yêu và lòng thành của Kim và Kiều.
Có lẽ, trong đời Kiều, sau Kim Trọng chỉ có Từ Hải là người
được hưởng tình yêu trọn vẹn của Kiều trong một câu nhỏ nhưng đầy
đủ rõ ràng:
Tấm lòng nhi nữ cũng siêu anh hùng.
Nhưng đến sông Tiền Đường thì trăng của nàng chỉ còn là một “mảnh trăng” đã vỡ mà cũng đã lặn rồi:
Mảnh trăng đã gác non Đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Từ lúc tai họa đổ xuống nhà Vương viên ngoại, tất cả những gì
của Thúy Kiều đều tan vỡ, chỉ còn những mảnh. Những “của tin” của mối
tình đầu như những chân hương đã thắp thì thành những “mảnh nguyền”:
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Con người cũng chỉ còn là một mảnh người:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan
và về cuối đời còn xuống một bực nữa, chỉ là một mảnh hồng quần:
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
hơi tàn được thấy gốc phần là may.
Đến tờ giấy viết thư cũng là một “mảnh giấy”
Mảnh tiên kể hết xa gần
2. Thực từ thứ hai của ngữ pháp Việt Nam là diễn thuật từ
(verb) và cận từ (adjunct), mà ngữ pháp cổ gọi là động từ và tĩnh từ (hay
tính từ hoặc trạng từ), theo Hán văn, tùy thời.4
Diễn thuật từ lại khác cận từ vì có chia (conjugation). Ngữ pháp
cổ không nhận ra điều này, một phần là vì chữ Nôm xưa viết tiếng
ta thành những ô vuông rời rạc và cái hình ảnh ấy đã in sâu vào trí óc
của lớp người có Hán học và Nôm học. Sự khó khăn còn tăng thêm một phần vì ta
để các dấu hiệu (gọi là dạng vị, morphème) về thì, mốt và sắc thái ở trước
căn verb (verb root), trong khi các ngữ Âu tây mà ta học lại để những dấu hiệu
này ở sau vào đuôi của căn verb. Như:
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
thì Anh văn lại nói (viết) là thấy - đã.
4. Trong từ điển Việt Nam không có sự phân biệt hai loại từ này,
mà ngữ pháp Âu tây gọi là Verb và Adjuncts (xưa là adjectives). Sự phân biệt đặt
căn bản trên cú pháp và trên khả năng “chia” được các verb. Đây là một phát kiến của ngữ pháp
mới mà Truyện Kiều là một minh họa và một minh chứng tuyệt diệu.
Các diễn thuật từ (verb) thì ở ngôi giữa câu, sau danh từ chủ tử (noun subject) và trước danh từ khách tử (noun, object). Trong văn thơ, nhất là trong
thơ, có sự đảo vị để khêu một trong ba từ chính.
Cận từ (adjuncts) là từ phụ, đi gần hay sát (/adv/) từ chính:
ngữ pháp Việt Nam đặt từ phụ ở sau từ chính (như tiếng Pháp) còn ngữ pháp Trung Hoa
thì để từ phụ ở trước từ chính, người đẹp, người hiền khác mỹ nhân, hiền nhân, vì thế
tôi coi mỹ nhân, hiền nhân đều là danh từ, mà người hiền, người đẹp cũng là danh từ mà
cũng có thể là danh từ có một cận từ theo phụ. Cận từ cận diễn (adverb) cũng đi theo từ
chính, nhưng tự do một cách rộng rãi hơn như trong tất cả các ngôn ngữ Âu tây.
find - ed = found
Pháp văn thì là:
trouv - a
Tuy thế, nhưng Anh văn cũng có
has found
và Pháp văn thì có:
a trouvé
Sự khó khăn còn tăng lên một bực vì mốt (mood, mode), thì
(tense), sắc (aspect) của ta không giống các ngữ Âu Tây. Điều này rất khúc
mắc, tôi chỉ xin nói qua, nhưng nếu không biết thì mất rất nhiều hương hoa của
thơ trong Đoạn Trường Tân Thanh:
Sự chia verb dùng ba hình thức, tức là ba cách chính:
1- Đổi vần, đổi phụ âm đầu hay đổi tất cả. Thí dụ:
Anh ngữ: sing - sang - sung (hát)
eat - ate- eaten (ăn)
have - had - had (có)
be - was - been
2- thêm một dấuhiệu là/ -ed/ dính vào sau căn like - lik(-ed) - lik(-ed)
3- dùng một verb phụ có chia dẫn verb mang nghĩa
to ask - will/shall ask
would/should ask
have asked...
Việt ngữ cũng dùng cả ba cách:
1- bóp - bẹp
đẩy - đổ
có - còn - của
2- (thêm một dấu hiệu, để trước căn verb)
Tôi đã đi (quá: past)
Tôi đang viết (progressive: tiến hành)
Tôi sắp nói (immediate future)
Tôi sẽ làm (future)
3- dùng một verb phụ có chia, để dẫn.
Ta có bốn verb phụ (auxiliary verb) dùng để chia, tôi chỉ kể
hai, là/ có/ và/ chẳng/:
/Chẳng/ có bốn thì (tenses) là/ chẳng, chưa, chớ, chỉ/
/Có/ có sáu thì (tenses) là /có, còn, cứ, càng, cũng, cùng/
Tôi mở Truyện Kiều ra và đọc một đoạn nhỏ:
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn
Xuất thần đôi chút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra.
Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho.
Bột cung đang mắc nạn to,
Một năm nữa, mới thăm dò được tin.
Những verb có chia (có tô đậm), rõ mốt, thì (tense), sắc
(aspect) và sự điều hợp thì (concordance de temps) không thua gì tiếng Pháp,
tiếng Anh, sao lại nói rằng tiếng Việt không chia verb, rồi kết luận rằng Việt ngữ
không có ngữ pháp (Maspéro)?
Đây là hình thức nhấn (emphatic) của sự khẳng định, lại thêm
hình thức gượng gạo khẳng định (mà Anh, Pháp ngữ không có):
– Như chàng có vững tay co, (nhấn)
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài. (gượng)
– Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Đây là thức khuyến lệnh (imperative) thì hiện tại hướng
tương lai.
– Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Đây là một thì tương lai hiếm hoi trong Truyện, dùng dạng vị
/sẽ/ truyền lại từ nguyên ngữ Môn Việt:
– Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
Xin rứt khoát với những định kiến cổ hủ, tự ty, lệ thuộc rằng
tiếng Việt không chia verb, không có ngữ pháp và là tiếng độc vận. Thơ
trong Truyện Kiều sẽ bị gẫy, bị cụt nếu ta còn giữ những cái chấp cố định ấy
của thời bị trị.
Tiếng Việt không độc vận, Việt ngữ có chia verb, Việt ngữ có
sự uyển biến (inflection), Việt ngữ có ngữ pháp. Trong một câu, nếu có một
tiếng hay một khúc được cơ cấu của câu chỉ rõ là từ diễn thuật làm công việc
diễn thuật về chủ tử và khách tử, lại được “chia” để điều hợp với đồng văn
thì tiếng ấy hay khúc ấy là một diễn thuật từ, một verb. Thí dụ, trong tiếng
Việt, “năm con” có thể là một verb.
Anh lấy em từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám em đà năm con.
Ra đường người tưởng còn son;
Về nhà em đã năm con cùng chàng
Không nói đến những diễn thuật từ khác (lấy, ra, tưởng, về):/ đã năm con/ là một diễn thuật từ. Từ điển không có đề “năm con” là verb thì
là từ điển thiếu và vì cho đến ngày hôm nay, không có từ điển tiếng Việt nào
có chú thích đầy đủ về ngữ pháp cả. Không những/ đã năm con/ là một diễn thuật từ
đã chia ở thì đã qua, ở sắc thái hoàn thành, mà/ còn son/ cũng là diễn thuật từ
ở thì hiện tại, sắc tiến hành (progressive) tức bất hoàn (Pháp:
imparfait). Lại còn/ mười ba/ và /mười tám/ cũng là verb ở mốt không cùng (infinite)
(không chia).
Trong Truyện, những diễn thuật từ có những hình thức bất thường
nhưng rất cụ thể và thực như ca dao thỉnh thoảng xuất hiện khiến
cho người ta có một cái cảm nghĩ thân mật tự nhiên như đang nói chuyện:
– Hiên sau treo sẵn cầm trăng
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Hay:
– Sinh đà phách lạc hồn siêu
rồi lại có những diễn thuật từ là những hình ảnh biểu tượng tạo
ra những ngọn gió thơ làm siêu thoát những điều bi thảm:
– Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ
(nói về cái chết của Đạm Tiên)
- Thổ quan theo vớt vội vàng
Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi
(nói về sự trầm mình của Thúy Kiều)
- Ấy ai dặn ngọc thề vàng
- Bây giờ kim mã ngọc đường với ai
- Thẹn mình đá nát vàng phai
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao
- Chút vì cầm đã bén dây
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
Những trường hợp khác không thương tâm như thế nhưng cũng được
thi sĩ làm nhòa đi với lời thơ:
– Nàng càng ủ liễu phai đào
Trăm phần nào có phần nào phần tươi
– Vì ai rụng cải rơi kim,
Để con bèo nổi mây chìm vì ai?
THƠ PHÁ NGỮ PHÁP:
Những thí dụ về ngữ pháp trong thơ hay là thơ của ngữ pháp có nhiều lắm trong Đoạn Trường Tân Thanh. Nhưng thơ lên đến những
tầng cao nhất khi phá cả ngữ pháp mà bốc lên hay nổ ra như hoa đèn,
như điện trời.
– Ý nghĩa học (semantics) bị phá rồi xếp đặt lại trong những
siêu dụ (metaphore), bao gồm những hình ảnh, những giả tưởng. Mỗi vật thể,
trạng thái, sự việc là một bó nét. Nếu ta không gọi đích tên cái ấy
ra mà lại gọi ra một cái khác có những nét chính của cái ấy, là siêu dụ. Trong Truyện, chia ly là một sự đau khổ. Nguyễn Du tả những
chia ly bằng những siêu dụ. Kim Trọng biệt Thúy Kiều để về Liêu Dương chịu tang:
Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai
Buồn trông phong cảnh quê người
Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày
Thúy Kiều rời nhà:
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm
Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương.
Và:
Nàng thì dặm khách xa xăm
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai một người.
Thúc sinh xa Kiều, hai người rất là bịn rịn:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi,
Vầng trăng, ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Từ Hải thì nhẹ nhàng dứt khoát:
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi
Nhớ nhung là một đề tài sông có thể cạn, đá có thể mòn, nhưng
trong thơ thì không cùng, không tận, tôi không đi vào sâu thêm nữa vì
như thi sĩ viết:
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời
Sự phá ngữ pháp trong lời thơ là những phiêu lưu vào những thế giới mới. Là vì ngôn ngữ là nguyên tắc và quy lệ, phá ngữ pháp có
thể là khai một nguồn suối mới mà cũng có thể là làm loạn nếu không phải là một
chuyện lập dị kỳ cục. Phá ngữ pháp đúng chỗ, đúng lúc thì như nụ cười
thanh thản vĩnh cửu trên môi của bức chân dung Mona Lisa trước ngày nàng
thành người thiên cổ; hay như một câu nhạc u uất, tiếc nuối nổi lên trong
một bản đàn man rợ Nghi lễ Ngày Xuân.
Thơ của Nguyễn Du thường hòa nhã, nhẹ nhàng, thanh tao uyển
chuyển, lập lại chữ như sóng lượn, không khác lời hát Quan Họ:
Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non
hay:
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Nhưng khi Hoạn thư nghe tin chồng có vợ bé dấu ở xa thì tính
chuyện trừng trị ông chồng đen bạc và bưng bít. “Lửa tâm càng dập
càng nồng”, đầu óc quay cuồng những ý nghĩ báo thù, câu nghĩ cũng đảo xuôi đảo
ngược:
Làm cho nhìn chẳng được nhau
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên,
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.
Bốn câu “làm cho” dồn dập theo nhau, nhưng câu cuối cùng đến
nhanh mất chữ “làm”. Câu đầu thì lộn lên, thường thì nói “nhìn nhau chẳng
được” hay “chẳng được nhìn nhau” lại thành “nhìn chẳng được nhau” một
cách thâm hiểm dị thường. Câu thứ hai cũng còn đảo, thường thì nói “chẳng cất
đầu lên được”, nhưng thành “cất đầu mà chẳng lên”. Sau đó, khi quyết định bắt
cóc Thúy Kiều thì dằn từng chữ “làm cho” sau một chữ “làm cho” rồi ngừng lại,
như để hưởng thụ hết cái khoái lạc của sự hành hạ anh chồng trăng hoa:
Làm cho... cho mệt, cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi,
Trước cho bõ ghét những người,
Sau cho để một trò cười về sau.
Tư tưởng sadic (bạo dâm) hiện ra trong chừng ấy chữ “cho” nhằm vào một người mà mở rộng ra đến toàn thể những tên đàn
ông lừa dối vợ (những người). Nguyễn Du có lẽ bằng lòng lắm với hai chữ “làm cho” này, nên
lại nhắc lại, dài hơn, với bốn cận từ cận danh (adjectives) tăng cường độ
lên dần:
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho... cho hại, cho tàn, cho cân,
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi
Cái ghen của ông Trời còn dữ hơn lòng ghen của Hoạn thư đến mấy
bực.
● Trong Truyện Kiều, có những câu làm nổ tung ngữ pháp với những tác-dụng thơ kỳ diệu:
/ Sao/ là một từ hiểm hóc bậc nhất trong ngữ pháp của Việt ngữ.
/ Sao/ là s-ao: Dạng vị buộc (bound morpheme)/ -ao/ có trong/ nào, bao, đâu/ có nội dung vô định trái với/ -ăy, ây/ và có thể dùng để
hỏi.
Dễ dàng trong miệng Thúy Kiều,/ sao/ có nghĩa là “làm thế
nào”:
Kiều: Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Ở cửa miệng của Sở khanh,/ sao/ là một lời hỏi không có trả lời,
để than: “vì lý do lạ lùng kỳ bí nào”?
Sở: Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa?
Tiếng đàn của Kiều trong và ấm vô cùng, được ví với hạt châu
lăn trong dòng suối và như hạt ngọc mới đông còn nóng. Nhưng câu
thơ không nói là “như”, không ví, vì ví là kém, là còn chưa đạt được.
Thơ dùng chữ/ sao/, chỉ khen hòn châu (cũng có thể là giọt lệ) và hạt ngọc:
Trong sao! Châu nhỏ duềnh quyên,
Tiếng đàn là châu, là ngọc, trong cái thể tinh túy nhất của
châu ngọc, và tiếng than/ sao/ nói lên cái vô cùng không thể tưởng của sự
trong và ấm.
Cuối cùng là hai chữ/ sao/, có cùng một ý nghĩa nhưng lại là
hai loại từ khác nhau:
Thề SAO thì lại cứ SAO gia hình
Chữ/ sao/ thứ nhì là một lưỡi dao sắc bén của đao phủ thủ. Nó
là một mệnh lệnh; đi sau/ cứ/ (diễn thuật từ phụ), nó có cái trọng lực
của một diễn thuật từ chính, nó không vô định, nó đích xác là cái lời thề ấy,
không suy suyển, không sai lệch một ly, một mẩy:
Chữ/ sao/ vô định thành ra chữ ác liệt nhất trong toàn thể tiếng Việt:
Máu rơi thịt nát tan tành
- Mà không có người thương, ở một chữ “sao” ấy.
● Thúy Kiều nói với Thúc sinh cũng biết dỗ dành, van lơn,
nũng nịu:
Thương sao cho vẹn thì thương,
Tính sao cho trọn mọi đường, xin vâng.
và nói khích:
Như chàng có vững tay co,
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
Nhưng việc gì cần và quan trọng, nàng nhấn mạnh:
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng
Đến nhà, TRƯỚC liệu nói sòng cho minh.
Trước là “đầu tiên trước nhất”, lại còn là “cần thiết nhất,
quan trọng nhất”. Kiều, với sự thấu hiểu tâm lý đàn bà, biết rằng sự vụng trộm
là có lỗi, nhưng sự “giấu ngược, giấu xuôi” lại đem thêm sự xấu chồng lên cái lỗi,
nên dặn chồng về nhà phải nói sòng (nói hết sòng phẳng), nói minh (sáng,
rõ), và việc ấy phải làm “trước”. TRƯỚC liệu nói sòng chứ không phải Liệu nói sòng TRƯỚC. Nàng tin rằng nếu như thế thì có thể ổn được phần nào, và tránh được
những “việc tày trời”. Đã bị một trận với cha rồi, nhưng Thúc sinh vẫn chần
chừ e ngại, tự dối mình, và sợ rút dây động rừng, nên việc gì phải đến đã đến,
và đến một cách tàn bạo.
Đầu truyện còn có một chữ TRƯỚC nữa, kinh hồn tán đảm hơn chữ “trước” của Kiều, vì là ở miệng Tú bà. Chữ “trước” này được sửa
soạn có lẽ từ trước chuyện và chỉ được hé lộ ra thầm kín trong cái dã tâm của
Mã giám sinh sau khi nó bỏ tiền ra mua được Kiều với mục đích là “đem về
rước khách kiếm lời” nhưng lại không kìm hãm nổi lòng tham sắc dục. Cả cái đoạn
này là những lý luận quay quắt kinh tởm của một đứa vô lại nhưng về
phương diện văn chương thì là một tuyệt bút về cấu tạo, về ngôn từ, về sự che
đậy cái ô uế dưới những tiếng lóng nghề nghiệp. Tôi chỉ trích bốn câu đầu liên
quan đến tiếng “trước” và những dự phóng bán hàng của cặp Mã Tú.
Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau,
Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
Cũng đà vừa vốn còn sau là lời.
nhưng Mã Giám sinh đã là kẻ bẻ hoa.
Khi Kiều vừa mở miệng ra nói rằng “đã khi chung chạ lại khi đứng
ngồi” (chạ là cái chiếu) thì Tú bà nhảy lên chồm chồm, xỉa xói vào
mặt Mã Giám sinh mà chửi:
Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân,
buồn mình TRƯỚC đã tần mần thử chơi
Đó là cái tội tầy đình: nó đã dám chơi TRƯỚC. Tất cả hy vọng,
dự tính của mụ chủ chứa là ở trong chữ “trước” mà thằng chồng hờ biết rõ.
Không có chuyện ghen tuông, chỉ có sự uất ức vì bị lừa gạt lòng tin:
Màu hồ đã mất đi rồi
Thôi thôi! Vốn liếng đi đời nhà ma!
Tiếng “trước” là từ thâm tâm, nén không được và đã vọt ra, phọt
ra, bất chấp ngữ pháp.
Nguyễn Du có biết gì về Phân tâm học của Sigmund Freud ở
Vienna không? Freud đã viết một quyển sách, là cuốn tinh tế nhất của
ông với đầu đề “Tâm lý bệnh học trong đời sống hằng ngày”, để chứng minh rằng
sự nói nhịu, nói lỡ, nói bật cũng như sự đá thúng đụng nia, giận cá chém
thớt, là những bùng nổ của một uẩn ức bị đè nén trong vô thức. Chữ TRƯỚC mà
Nguyễn Du đã bốc từ cuối câu và tung ra năm tiếng trước là một sáng tạo
thiên tài vượt thời gian, tả sự hoạt động của vô thức trước khi có danh từ
“vô thức” (unconscious).
● Truyện Kiều còn có một chữ rất đẹp mà rất thông thường. Chữ
ấy đẹp như Sao Hôm hay Sao Mai, là hành tinh sáng chói bên cạnh
mặt trăng có tên là Venus, vị thần đẹp nhất trong thần thoại Hellen. Ngôi
sao đẹp là vì nó
đẹp, mà vị trí của nó cũng đẹp: nó ở bên mặt trăng mà vẫn
sáng, tại ánh sáng của nó là ánh nắng đêm của mặt trời phản chiếu lại, cũng mát,
dịu và đều như trăng:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê TRẮNG điểm một vài bông hoa
Đó là cảnh lập xuân, trời đất không những đã sống lại, mà bắt
đầu nở hoa. Nền đất xanh nõn, mướt một màu. Trên vài cành lê khẳng
khiu còn khô nhựa, trắng điểm mấy bông hoa đầu mùa. Một bức tranh với vài
nét đan thanh, mỏng manh, đơn giản. Chỉ có ba mầu thuần trong, trang
nhã. Vài chấm trắng nổi lên trên những nét bút đen của cái cành gầy, nằm
xéo ngang trên giấy. Một chữ TRẮNG được đưa lên trước, bừng lên, đắc địa, ở
một điểm mà không ai dám ngờ. Ngữ pháp bị phá, nhưng nếu không để ý thì
không thấy được, hoặc hiểu lầm một câu thơ đẹp.
NHẠC THƠ:
Trong thơ có họa là điều người ta đã biết từ thời Vương Duy,
là vì thơ của Vương Duy được viết bằng bút lông với bút pháp của nhà
danh họa họ Vương. Còn thơ mà đọc lên như tranh vẽ là thơ của Đoạn Trường Tân
Thanh:
Cành lê TRẮNG điểm một vài bông hoa
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai,
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng
Ở trời Tây, thơ biểu tượng của Verlaine, Rimbaud, Mallarmé,
Valéry
lại đã đòi nhạc về cho thơ, vào đúng lúc mà nhạc của Debussy,
Schönberg, Stravinsky cũng đã đem thơ vào nhạc.
Thế nào là nhạc trong thơ? Và nhạc mới là gì? Tôi không thể
trong một bài (luận bàn) về thơ trong Truyện Kiều nói về những vấn đề lớn
như tương lai ấy, nhất là vì đây còn là lịch sử đang thành; chỉ xin đưa
ra vài nét phác hợp với Nguyễn Du, là một thi sĩ Việt Nam cưỡi đầu ngọn gió.
Thơ lục bát là một thể thơ chẵn, dựa theo những bước chân
nông nghiệp của những thôn nữ đi trên bờ ruộng hay gánh rau ra chợ.
Gốc của lục bát là ở xứ Chàm, nhập tịch vào Việt Nam khi nhà Lý bắt những
người dân Chàm ra định cư ở làng Chèm, làng Vẽ. Tiếng hát bổng trầm của
những người biệt xứ này đã là nguồn gốc của một số bài hát Lý và của điệu
quan họ mà vào ca dao của dân ta. Người Trung Hoa ngồi uống trà, uống rượu
và ngâm thơ, người Ý, người Pháp đứng dưới cửa sổ dạo đàn và hát, thích
thơ lẻ hơn thơ chẵn, và nhanh chóng biệt lập nhạc ra khỏi thơ, còn ở Việt Nam,
nhạc thuần túy không lời vẫn chỉ ở tình trạng phôi thai èo ọt, có lẽ một
phần cũng vì thế.
Thơ Việt Nam, thuần túy Việt Nam, có nhiều nhạc tính hơn thơ
Pháp, thơ Anh, thơ Đức và cả thơ Đường luật của Tàu.
Nhưng thơ chỉ có thể là nhạc nhẹ. Đoạn Trường Tân Thanh là nhạc
cho cây đàn bầu, cây đàn nguyệt, cây nhị, hay thơ của cây guitar
cổ điển.
Một bản nhạc dài như thế, hơn ba ngàn câu tức là hơn một ngàn
năm trăm liên 6-8, đủ cả thất tình, nếu hát lên hay ngâm thì phải
nhiều giọng, nhiều điệu, nhạc hợp tình tiết, lúc ủy mị, lúc hùng tráng, lúc dịu
dàng, lúc thơ mộng, lúc dữ dằn...
Tất cả các nghệ thuật của con người đều giới hạn trong
phương tiện, lại tự đặt ra những khuôn khổ. Với những giới hạn cố định,
trong những khuôn khổ đồng thuận, thiên tài là diễn ra được những gì mà
ngôn ngữ không nói ra được, mà thỏa mãn được những ước vọng thâm sâu của con
người.
Về nhịp (tiết tấu), một khi khuôn 6-8 đã định thì nhịp 2/2/2
- 2/2/2/2
hay 2/2/2/ - 4/4 là điệu tự nhiên:
Từ phen| đá biết| tuổi vàng,
Tình càng| thấm thía|| dạ càng| ngẩn ngơ.
Sông Tương| một dải| nông sờ,
Bên trông| đầu nọ|| bên chờ| cuối kia.
Nhưng bản chất của tạo vật và cõi lòng người là biến chứ
không phải thường, cho nên có khi thơ phải đổi nhịp để diễn tả một sự bất
thường.
Được lời| như cởi| tấm lòng (2/2/2)
Giở kim hoàn| với khăn hồng| trao tay; (3/3/2)
Rằng|| trăm năm| cũng từ đây (1/2/3)
Của tin| gọi một chút này| làm ghi (2/4/2)
Sự thơ mộng mất, nhưng sự nghiêm trọng của sự hứa hôn nặng nề
hơn. Nhịp trong thơ Kiều rất phong phú, diễn tả những tâm trạng
khác nhau:
Có sao| trằn trọc| canh khuya?
Màu hoa lê| hãy đầm đìa giọt mưa.
Tiếc thay| trong giá| trắng ngần
Đến phong trần| cũng phong trần| như ai
Vì lô| san sát hơi may,
Một trời thu|| để riêng ai| một người.
Một mình|| lặng ngắm| bóng nga,
Rộn đường gần|| với nỗi xa| bời bời
Người| mà đến thế| thì thôi
Đời phồn hoa| cũng| là đời bỏ đi!
Dùng dằng| chưa nỡ| rời tay,
Vầng đông| trông|| đã đứng ngay nóc nhà.
Nỗi đau lòng lớn nhất của Kiều không phải là phải bán mình,
mà phải phụ chàng Kim. Khi khổ đau lên đến cực điểm, nàng thét lên một tiếng,
rồi ngã ra, bất tỉnh:
Ôi Kim lang!| Hỡi Kim lang!
Thôi thôi|| thiếp| đã phụ chàng| từ đây.
● Các vần trong thơ Pháp văn chia ra có vần nữ và vần nam,
làm giọng thơ nhẹ hay nặng, thanh thoát hay bế tắc và làm cho tiếng nhạc
hợp với tình tiết. Trong tiếng Việt, thi pháp cổ coi nặng tính bằng trắc
khi là thơ Đường luật, nhưng thơ lục bát của Việt Nam thì uyển chuyển hơn nhiều
và luật bằng trắc không khắt khe lắm. Trong cảm nghĩ riêng của tôi, tôi thấy
sự ngắn dài của âm biểu lộ tình tiết nhiều hơn là độ cao của âm, tuy sự
lên xuống cũng rất quan trọng với nhạc.
Độ ngắn dài được định bởi hai tính: thứ nhất là cấu tạo của vần,
tức là “tiết” theo ngôn từ trong nước. Vần giản dị chỉ có một
nguyên âm, dầu là vần thông như /ở, về, đi/ hay vần bị chặn bởi một phụ âm như /ơn,
gác, trăng, tình/, là âm ngắn. Vần phức tạp có một bán âm đi kèm nguyên âm như/ ưa, hoa, nhiều, lời/ là âm dài. Những tiếng đặc biệt dài là/ khuya,
tuyết, thuyền/. Tôi không nói hết được vì âm vị học Việt Nam tuy giản dị nhưng
cũng không thể nói hết trong một hai trang giấy.
Tính thứ hai ảnh hưởng đến độ ngắn dài là thanh. Tiếng ta có
sáu thanh. Ba thanh ngắn là/ ngang, sắc và huyền/ vì thẳng, như một tiếng
đàn. Ba thanh dài là /hỏi, ngã, nặng/ vì uốn, như ta vuốt từ phím đàn này
sang phím khác hay nhấn dây để đổi độ căng.
Độ ngắn dài phải được phân tích trong từng khúc chọn lọc, với
một tình tiết, một nội dung thuần nhất.
● Vần không chỉ ở cuối câu 6 và eo câu 8. Vì có sự song hành
(parallelism) nên vần ở rải ra trên những tiếng chẵn, tức là thì mạnh của
nhạc:
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai
Ba tiếng đầu đã vần với nhau, lại thêm ba vần nữa ở thì mạnh,
làm cho hai câu trên là nhạc, là thơ, thánh thót, êm ả với một nụ cười
thanh thoát nhẹ nhàng. Không kể những điệp âm/ l - l/ (lơ liễu), /m - m - m/
và /thơ - tơ/ Những điệp-vận nhiều lắm trong Truyện Kiều:
Từ phen đá biết tuổi vàng
Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ,
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia...
Đem người đẩy xuống giếng thơi
Nói rồi rồi lại ăn lời được ngay
Làm cho thơ thêm réo rắt như những chuỗi tiếng nhạc róc rách
theo nhau.
● Điệp âm (alliteration) là một cách đem nhạc vào thơ rất
quan trọng trong thi ca Anh, Đức, Pháp. Phụ âm đầu được lấy lại liền liền hay
cách quãng ở những thời điểm then chốt trong thơ, để tả tình tả cảnh.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, các nhà phê bình xưa thường đã dẫn hai câu nói về
lúc lập hạ, cái nóng nung người đưa con cuốc và bông lựu về trong phong cảnh:
Dưới trăng, quyên đã gọi hè
Đầu tường, lửa lựu lập lòe đâm bông
chẳng những là bốn âm [l] hình dung sự lấp loáng của những
bông hoa lựu đỏ dưới nắng vàng, mà những vần dài/ ưa, ưu, oe/ và tiếng láy
dùng trung tiếp phần/ -âp-/ lại làm cho sự bập bồng của lửa lựu thêm linh hoạt.
Tác dụng miêu tả của những điệp âm được Nguyễn Du sử dụng nhiều có lẽ vì cả tiếng nhạc của sự láy âm:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia;
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya...
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai...
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa...
Hoa hương càng tỏ thức hồng
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời;
Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
SỰ TRÁ DẠNG (NGHĨ THÁI)
● Thi pháp (Poetics) của Aristotle đặt sự trá dạng (mimetism)
là mục tiêu thứ nhất của thơ. Trá dạng là làm giống, là giả cách.
Như con cá sấu nằm phơi mình trên bờ sông, giống như một cái rễ cây; như con
bươm bướm có bốn cái cánh như cánh hoa; như con thằn lằn Mỹ châu cameleon
khi leo lên cây thì da màu lá và khi xuống thân cây thì màu vỏ cây nâu.
Tiếng hài thanh là tiếng bắt chước. Tên của con bò, con hùm, con cú, con gà,
con mèo, con cẩu, con tu hú, con chích chòe, con tắc kè đều là theo tiếng
kêu của mỗi loài.
Tiếng Việt Nam có rất nhiều tiếng tự nhiên, ta nghe được cả
tiếng lòng bâng khuâng hay tiếng bắp chân bủn rủn. Người ta nói ra thơ vì thế,
và Truyện Kiều thực hiện sự trá dạng của Aristotle mà không có lý thuyết:
– Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng
– Mành Tương phân phất gió đàn
– Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu
Đó là nhạc trời. Còn nhạc người thì
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
(Câu 6 có bốn âm vận dài với hai vần thông ở giữa câu.
Câu 8 ở giữa là hai âm vận chặn/ sầm sập/ bắt chước tiếng mưa
rào (s - s) rất nhanh)
Tiếng đàn cuối cùng của Kiều là:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh,
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao! Châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm sao! Hạt ngọc Lam điền mới đông.
Về nhạc thì vần toàn bích: (a - a), (inh - inh), (uyên -
uyên) (điền cũng là [đyền]).
Về nội dung: Không còn tình yêu trai gái, chỉ có một giấc mộng
tiên với lòng yêu quê hương không bao giờ dứt, nhưng trong suốt và đầm
ấm dương hòa.
Tháng 1/2010
Trần Ngọc Ninh - Trần Uyên Thi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét