Nguồn cội
Từ lâu trong đầu óc của hắn không còn có chút khái niệm
gì về quá khứ, một quá khứ mà những người như hắn xem đó là một ký ức đau buồn
cần phải quên đi. Lúc đầu nó như một màn sương mỏng mà hắn còn cảm nhận lờ mờ sự
việc, nhưng từ từ theo thời gian nó tích tụ ngày càng dày thêm và
cuối cùng thì đặc quánh lại mà hầu như không có vật gì có thể xuyên
qua nổi, cho đến một ngày người cha nuôi Mỹ nhân từ của hắn trước khi qua đời
đã kêu hắn lại nói:
- Con trai à, ta có điều nầy muốn nói với con mà
từ lâu ta giữ mãi trong lòng.Con không phải con ruột của ta, điều này con cũng
đã biết nhưng con chưa bao giờ hỏi ta con là ai, từ đâu đến, và tại sao gia
đình ta lại nhận con là con nuôi? Nhưng ta nghĩ con được quyền biết vì ai cũng
có gốc gác, nguồn cội của mình.
Hắn im lặng không nói, hắn suy nghĩ không biết
người cha nuôi Mỹ muốn nói điều gì với hắn, nguồn cội của hắn ư? từ lâu hắn
không còn nhớ tới.Biết để làm gì? Có ích gì trong cuộc sống hiện tại của hắn?
Người cha Mỹ im lặng hồi lâu, nói tiếp giọng buồn bã:
- Ta nhận con từ hội chữ thập đỏ, họ đưa
con từ Việt Nam trong chiến dịch Babylift, đó là chiến dịch đưa các cô nhi Việt
Nam ra nước ngoài trước khi Sài Gòn thất thủ, lúc đó con 7,8 tuổi gì đó. Ta từng
là một người lính tham chiến ở Việt Nam, ta biết đất nước con là một
đất nước tươi đẹp nhưng bị chiến tranh tàn phá, tan nát, nên ta nhận con về nuôi
là một điều dễ hiểu, ta cảm thấy có lỗi với đất nước con và ta muốn chuộc lại lỗi
lầm đó trong quá khứ.
Sau khi người cha nuôi Mỹ mất, một thời
gian dài tâm trạng hắn không còn được yên ắng như trước, luôn bị giằng co giữa
quá khứ và hiện tại, đôi lúc nó còn len tận vào trong giấc ngủ của hắn. Khi được
đưa về Mỹ hắn đã có một cuộc sống êm ả, được gia đình người cha nuôi Mỹ yêu
thương, chăm sóc, anh em trong gia đình không định kiến. Hắn tốt nghiệp đại học,
vào làm trong một công ty hóa chất lớn, lương bổng ổn định, cuộc sống trôi qua
một cách bình lặng như bao nhiêu người dân Mỹ khác, thì quá khứ lại bị đào xới
lên, những ngày tháng thơ ấu đau khổ, kinh hoàng khi chạy loạn, trong cô nhi viện
dần hiện lên trong trí nhớ của hắn mà hắn tưởng đã quên đi từ lâu, cuối cùng hắn
nghiệm ra rằng phải đối diện với thực tế, không trốn chạy nó nữa thì mới giải
quyết vấn đề một cách rốt ráo được.
Hắn lên mạng tìm hiểu những thông
tin về giai đoạn mà hắn được đưa khỏi Việt Nam. Hắn là một trong khoảng 3.300
trẻ em mồ côi rời khỏi một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh trong một chiến
dịch mà thời sự lúc bấy giờ gọi là chiến dịch Babylift (chiến dịch không vận cô
nhi) được khởi động trong khoảng thời gian từ 3-26 tháng tư năm 1975. Những đứa
trẻ này (trong đó có hắn) được đưa đến Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Canada… và chúng được nhận
nuôi bởi nhiều gia đình trên khắp thế giới. Hắn gởi thư đến hội chữ thập đỏ,
các tổ chức từ thiện, nói chung là tất cả những tổ chức nào có thể tìm được những
thông tin về quá khứ của hắn, sau rốt hắn tìm đến tổ chức Operation Reunite, một
tổ chức phi lợi nhuận Hoa Kỳ, đã và đang giúp đoàn tụ các gia đình bị ly tán
sau chiến tranh, đặc biệt là các trẻ em từng bị đưa ra khỏi Việt Nam trong chiến
dịch “Operation Babylift”. Thư đi thư lại nhiều lần, từ những thông tin mơ hồ,
ít ỏi mà hắn cung cấp cho họ, hắn biết được người đưa hắn vào cô nhi viện
ở Thủ Đức vào những ngày gần kết thúc chiến tranh Việt Nam là một sĩ quan miền
Nam tên Lê Văn Sáu, ông ta nói trên đường di tản khỏi Nha Trang đã gặp hắn trên
đường và đã đem hắn theo. Ông ta hứa có điều kiện sẽ trở lại đón hắn và
điều đó đã không xảy ra, hắn được đưa khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4,
không biết thời gian sau đó ông ta có trở lại tìm hắn không thì hắn không biết. Qua
tổ chức Operation Reunite hắn đã tìm và kết nối lại được rất nhiều người ngày
xưa là những đứa trẻ bị đưa ra khỏi Việt Nam như hắn, họ trao đổi thông tin với
nhau những điều mà họ biết được về hoàn cảnh quá khứ của nhau với hy vọng tìm
được thân nhân bị thất lạc, vô hình chung Operation Reunite trở thành một cộng
đồng kết nối mọi người cùng chia sẻ và giúp đở lẫn nhau tìm kiếm về gia đình của
mình.
Mấy năm trước
tổ chức này đã làm một chuyến đi đưa hắn và các bạn hắn về thăm Việt Nam cũng
vào một ngày cuối tháng tư sau hơn ba mươi mấy năm kết thúc chiến tranh
Việt Nam. Một chuyến đi đã để lại trong tâm trí hắn một ấn tượng vô cùng sâu sắc
khó phai. Những người tham gia chuyến đi tìm về nguồn cội có các buổi học tiếng
mẹ đẻ, viếng thăm viện mồ côi, bảo tàng chứng tích chiến tranh… Hắn cũng có dịp
trở về thăm viện mồ côi nơi mà ba mươi mấy năm về trước người ta đã đưa hắn
đi. Hắn hỏi thăm người quản lý hồ sơ về những đứa trẻ giai đoạn đó nhưng cũng
không có thông tin gì mới hơn mà tổ chức Operation Reunite đã cung cấp cho hắn.
Hắn hỏi thăm họ xem người sĩ quan miền Nam ấy có trở lại tìm hắn không nhưng họ
lắc đầu. Họ lý giải thêm cho hắn hiểu thời cuộc lúc bấy giờ lộn xộn lắm không
biết người lính ấy còn sống hay đã chết rồi không biết chừng. Thôi cũng đành vậy,
sợi chỉ tìm về quá khứ của hắn đến đây bị đứt đoạn.
Về Mỹ hắn trở lại với công việc thường
nhật của mình. Một hôm đi làm về hắn cảm thấy cổ họng mình bị đau rát dữ dội, miệng
khô khốc khó chịu. Hắn đến gặp bác sĩ gia đình, nhờ giới thiệu đến một bệnh viện
chuyên khoa để chữa trị. Ông ta nghe hắn trình bày rồi viết giấy giới thiệu. Hắn
điện đến bệnh viện, người ta cho hắn một cái hẹn. Hắn đến rất đúng giờ, nhưng
cũng phải ngồi chờ gần một tiếng đồng hồ nữa vì bệnh nhân hôm ấy quá đông, sau
cùng hắn cũng được gọi vào. Người bác sĩ khám cho hắn có nét dáng dấp của
người châu Á như Việt Nam hay Trung Quốc gì đó như hắn. Anh ta nói tiếng Mỹ khá
sõi. Sau khi kiểm tra, người bác sĩ nói hắn không sao đâu chỉ bị dị ứng bởi một
hóa chất mới nhập vào kho mà hắn vô tình hít phải, nhưng để chắc ăn hơn phải
làm thêm một vài xét nghiệm nữa. Người bác sĩ nhìn hắn, ánh mắt chợt dừng lại một
vết sẹo kéo dài từ gò má đến xuống tận cổ bên trái, anh ta hỏi hắn:
- Vết sẹo nầy anh bị lâu chưa?
- Lâu rồi, lúc còn rất nhỏ.
- Anh là người Việt Nam?
- Sao bác sĩ biết?
Người bác sĩ nhìn vào hồ sơ bệnh án, cái tên Nguyễn Hiếu
Trung ghi rõ trên đó, anh ta biết mình hỏi hơi thừa.Im lặng một chút, anh ta hỏi
tiếp:
- Anh qua Mỹ lúc nào?
- 1975.
Người bác sĩ đột nhiên nói:
- Trong chiến dịch Babylift ?
Hắn ngạc nhiên, một lần nữa hắn lại hỏi:
- Sao bác sĩ biết?
Người bác sĩ không trả lời mà nói tiếp:
- Anh ở viện mồ côi Thủ Đức khi còn ở Việt Nam phải
không?
Hắn há hốc miệng chưa biết nói gì thì anh ta lại nói:
- Tôi biết anh. Nhờ vào vết sẹo trên cổ của anh, chính
ba tôi đã gởi anh vào đó.
Như có một luồng khí lạnh chạy dọc theo sống lưng, mồ
hôi trong tay hắn rịn ra, thì ra cái người nắm được thông tin về cuộc đời hắn,
về cái quá khứ không lấy gì vui của hắn đang ở đây. Vậy mà hắn phải chạy lòng
vòng tìm kiếm khắp nơi, phải bay nửa vòng trái đất về Việt Nam để tìm kiếm, hắn
nói mà giọng lắp bắp:
- Ba bác sĩ là…
- Ba tôi tên Lê Văn Sáu, một sĩ quan trong chế độ
cũ. Trên đường di tản khỏi Nha Trang, ông ấy đã gặp anh trên đường đi và đưa anh
về Sài Gòn.
- Ông ấy còn sống không? Tôi có thể gặp ông ấy được chứ?
Người bác sĩ lắc đầu:
- Ở đây thì không được. Ba tôi đã hồi hương về Việt Nam
từ hai năm nay rồi. Ông than ở bên đây buồn quá, mà anh cũng biết ở bên này ai
cũng bận bịu cả không có thời gian nhiều để thăm viếng thường xuyên đâu. Ở Việt
Nam còn có người quen qua lại có lẽ làm ông ấy vui hơn. Tôi nghĩ ông ấy có quyết
định đúng.
Hắn có vẻ thất vọng nhưng trong lòng hắn vẫn vui vì biết
được thông tin về người hắn muốn tìm kiếm, biết đâu hắn còn cha mẹ, anh em gì
đó. Hắn hỏi người bác sĩ:
- Bác sĩ có thể cho tôi xin địa chỉ, số điện thoại của
ông ấy ở Việt Nam được không?
- Hẳn nhiên rồi.Tôi cũng mong anh gặp lại ba tôi, có lẽ
ông ấy sẽ rất vui khi gặp lại anh, biết chừng anh sẽ có những thông tin gì đó
mà anh cần biết.
Hắn bắt tay người bác sĩ, nói cám ơn rồi ra về. Hắn còn
đến bệnh viện một vài lần nữa để làm một số xét nghiệm cần thiết nhưng không lần
nào gặp lại người bác sĩ đó một lần nữa và hắn quyết định xin nghỉ phép để về
Việt Nam.
Hắn choàng tỉnh giấc khi cô tiếp viên hàng không một lần
nữa nhắc nhở hành khách trên loa phát thanh máy bay sắp hạ cánh, thắt chặt dây
an toàn, kiểm tra lại hành lý. Hắn nhìn ra khung cửa sổ máy bay. Trời trong xanh
không một chút mây, hắn thầm nhủ thời tiết thật đẹp, nhìn đồng hồ: 4giờ kém 10
phút. Thời gian thật chính xác. Lần nầy hắn về Việt Nam chỉ quá cảnh một lần ở
Nhật Bản mất ba tiếng rồi bay thẳng chẳng bù với lần trước, thời gian quá cảnh
dài lê thê.
Xuống sân bay hắn đón taxi, ban đầu hắn định bảo
người tài xế lái về khách sạn mà hắn đã đặt chỗ trước qua mạng, nhưng nhìn đồng
hồ hắn lại thay đổi ý định. Hắn đưa tờ giấy ghi địa chỉ nhờ người tài xế chạy đến
đó. Xe chạy theo đường Trường Sơn vào thành phố, hắn nhìn dòng người xe
di chuyển trên đường phố một cách hối hả không còn thấy dấu vết của một
thành phố thời chiến tranh, nhiều cao ốc mọc lên trên đường xe chạy làm bộ mặt
thành phố khác hẳn so với ba năm trước trong lần đầu tiên hắn trở lại Việt Nam.
Ngôi nhà người đàn ông mà hắn muốn tìm kiếm nằm trong một ngách nhỏ trên một
con đường lớn ở Bình Thạnh nên tương đối yên tĩnh, có hàng rào phía sau là
một khu đất tương đối rộng trồng bông hoa và một số cây cảnh.Hắn nhìn vào tờ giấy
ghi địa chỉ và số nhà gắn trên cổng rồi tìm chuông để nhấn. Cái chuông nằm khuất
sau cái cột cổng, chắc có lẽ chủ nhân sợ mấy đứa nhỏ hàng xóm quấy phá chăng? Vừa
nghe tiếng chuông reo, trong nhà thấp thoáng có người đi ra phía cổng. Hắn nhìn
người đàn ông từ xa, trong đầu óc ban đầu hắn tưởng tượng đó là một người
đàn ông lớn tuổi, tóc bạc, đi đứng chậm chạp thậm chí khó khăn, nhưng
không người đàn ông dáng đi còn rất nhanh nhẹn, tuy tóc đã bạc nhưng
gương mặt không quá khắc khổ như hắn tưởng. Ông ta mở cổng, nhìn hắn nét mặt lộ
vẻ vui mừng:
- Cháu là Trung phải không? Vào đi cháu.
Hắn bước qua khỏng sân rộng trồng cây cảnh bước lên thềm
vào nhà.
- Cháu uống cà phê nhé.
- Vâng! Chú cho cháu một ly.
Vừa pha cà phê, người đàn ông vừa nói:
- Cháu
cứ gọi chú là chú, chú chưa già lắm để gọi bằng ông hay cụ. Gọi thế cho cho
thân mật cháu ạ.
Đẩy ly cà phê còn bốc khói về phía hắn mời hắn uống,
người đàn ông rút điếu thuốc trong gói thuốc con mèo mồi hút, đưa gói thuốc về
phía hắn như mời hút, hắn khẻ lắc đầu từ chối. Người đàn ông nhìn hắn chậm rải
nói:
- Chú có nghe thằng con điện về
cho chú biết được gặp cháu. Nào, cháu có điều gì hỏi cứ hỏi, chú còn nhớ điều
gì sẽ nói cho cháu biết.
Hắn nhấp một ngụm cà phê, hương thơm của mùi cà
phê đã làm hắn dễ chịu. Hắn kể cho người đàn ông biết về lời dặn dò của người
cha nuôi Mỹ trước khi mất, nổi ám ảnh trong từng giấc mơ, cuộc tìm kiếm thân phận
của mình trong nhiều năm nay. Hắn còn kể cho ông nghe đã trở lại viện mồ côi
nơi hắn từ đó ra đi nhưng dấu vết vẫn mù tịt. Người đàn ông tên Sáu chăm chú lắng
nghe, mặt trầm ngâm, giọng nói như trầm xuống:
- Ngày ấy trên đường di tản khỏi
Nha Trang chú đã gặp cháu đứng khóc trên đường, cổ còn quấn băng thấm máu. Có lẽ
đó là một mảnh đạn pháo mồ côi không biết rơi vào đâu lại nhè ngay
cháu. May mà nó không sâu. Cha mẹ cháu hay người nào đó đã băng vội vết thương
cho cháu. Gởi cháu vào viện mồ côi lúc đó và cho tới bây giờ chú vẫn cho
là hành động đúng đắn để đảm bảo sinh mạng và cuộc sống của cháu.
- Chú có trở lại nơi ấy lần nào không?
- Xin lỗi cháu, chú đã không thực hiện
được lời hứa của mình khi gởi cháu vào đó. Sau giải phóng là những chuổi ngày
dài chú ở trong các trại học tập cải tạo. Ra trại chú tìm cách vượt biên, rồi
những chuổi ngày làm cật lực nơi xứ người để bảo lãnh vợ con sang đây. Nuôi cho
chúng ăn học thành tài thì mình đã già rồi. Chúng mãi mê làm việc quên cả
còn có người cha già này, chúng còn muốn chú vào viện dưỡng lão để ở. Chú xin hồi
hương, dù sao đây cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của mình mà.
- Về đây chú không buồn sao?
- Sao lại buồn? Về đây có
biết bao công việc để làm, chú tham gia vào công tác từ thiện, giúp đỡ bệnh
nhân nghèo… Cần gì thì phôn qua cho bển để bọn chúng tiếp tế, có sao đâu.
Hắn nhìn ra
ngoài sân, trong ánh nắng chập choạng của buổi chiều, vài cánh hoa tím trên cái
cây trong sân rơi xuống đất theo làn gió thoảng. Hắn chỉ cái cây ngoài sân hỏi
người đàn ông:
- Cái cây có
bông hoa tím đó gọi là gì hở chú?
Người đàn ông nhìn
theo hướng tay hắn chỉ:
- À! Cây đó
hả? Bằng lăng đó. Đây là mùa bằng lăng trổ bông đấy cháu à. Người ta thường trồng
bằng lăng ở mấy con lươn, trên lề đường để làm cảnh, tạo bóng râm. Tháng
tư, tháng năm nở tím cả một con đường trông rất đẹp. Cháu có nhìn thấy chùm quả
bằng lăng ở trên cành cao đó không? Khi chín nó rụng xuống. Mưa xuống làm cho
chúng mọc lên thành những cây con, rồi một vòng đời của nó lại tiếp tục, sinh
sôi nẩy nở.
Rồi ông nhìn hắn:
- Cháu cũng vậy, về bển bỏ hết những phiền
muộn chất chứa trong lòng mấy chục năm nay đi. Không ai chọn được cho
mình một hướng để vào đời đâu cháu ạ, Quên hết cái đời mồ côi của cháu mà vui sống,
có thế mình mới thanh thản được.
Hắn nhìn người đàn
ông, những tháng ngày cận kề giữa cái sống và cái chết trong chiến tranh, trong
trại học tập cải tạo, trên đường vượt biển, ở xứ người phải cật lực làm việc để
bảo lãnh con cái rồi khi thành đạt chúng lại muốn đưa ông vào viện dưỡng lão. Hắn
muốn nói một lời nào đó mà không biết mở lời như thế nào. Hắn chợt cảm nhận nguồn
cội mà hắn đang cố công tìm kiếm nào có đâu xa nó ở trong lòng mình mà thôi.
Lòng hắn chợt thấy thanh thản lạ thường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét