Từ triết lý âm dương, ngũ hành nghĩ về
Nghĩ là chuyện giản đơn, vậy mà xưa nay cũng chưa ai giải thích cho rằng: Người Việt Nam khi giao tiếp, ngoại giao đã có cách chào nào của riêng mình và mang đúng bản sắc văn hóa của dân tộc mình hay chưa? Lúc thì ngã mũ, cúi đầu khoanh hai tay trước bụng chào; lúc thì chỉ cúi đầu chào, lúc lại vẫy tay chào, lúc lại nắm hai tay vào nhau để “huơ” chào... Đội bóng đá Việt Nam và cả các vận động viên thể thao khi nhận Huy chương trong niềm hãnh diện của cả bản thân và niềm tự hào dân tộc, nghe quốc ca cất lên thì lại đưa bàn tay phải áp vào ngực trái (nơi chỗ trái tim) - học theo các đội bóng phương Tây để chào... Vậy thì cách chào nào là đúng, là sai... và Việt Nam có thực sự là đã có một cách “chào” riêng mang bản sắc văn hóa dân tộc mình?
Thời tuổi nhỏ, khi gặp người lớn tuổi, gặp thầy cô giáo,... bọn nhỏ chúng tôi thường lễ phép lấy mũ (nón), vòng tay trước ngực (thật ra là trước bụng), cúi đầu chào... Sau giải phóng (1975), trước khí thế oai hùng của một dân tộc hãnh diện đánh thắng bao kẻ thù lớn, lối chào ấy bị phê bình là: phong kiến quá, đánh mất tư thế quá! Chao ôi! Chào người lớn tuổi là để tỏ lòng tôn kính của mình mà không lễ phép ngã mũ, vòng tay cúi chào thì còn gì là sự thể hiện của lòng tôn kính! Vậy mà rồi, vì “tư thế”, ta đã giáo dục cho các em học sinh không còn được ngã mũ, vòng tay, cúi đầu “nô lệ” nữa... Vậy là một cách chào đã bị bác bỏ hoàn toàn mà thoạt nghe ra cái lý do phủ nhận nó cũng hoàn toàn có lý!
Bây giờ, một số nước Châu Á chúng ta thực sự đã là những cường quốc thế giới về mọi mặt, vậy mà gặp ai, họ cũng cúi gập đầu chào, nhiều dân tộc lân cận với chúng ta có “tư thế” kinh tế hơn hẳn chúng ta vẫn chắp tay lạy chào... Vậy thì, có phải họ là dân “thấp hèn”, “nô lệ”, “thuần phục”...?
Thực ra, vì bị hết phong kiến phương Bắc rồi tư bản phương Tây đô hộ, chúng ta đã tiếp biến nhiều luồng văn hóa khác nhau nên sự chuyển đổi, linh hoạt, tổng hợp trong cách chào âu cũng một nét văn hóa riêng của người Việt, vì văn hóa nông nghiệp luôn mang tính linh hoạt (Gió chiều nào xoay chiều ấy, Ở bầu thì tròn ở ống thì dài...) và lối tư duy tổng hợp (Lạy trời, lạy phật, lạy đất, lạy tiên) với tín ngưỡng đa thần cho nên cách chào nhau trong văn hóa giao tiếp gốc Việt đã biến thể theo nhiều cách… Trong nhiều cách ấy, tôi nghĩ hãy trở về với cách chào truyền thống nhưng cải biên chút ít cho hợp lý hơn, đó là: áp lòng bàn tay trái vào vùng bụng (thay vì khoanh hai tay trước vùng bụng) và cúi đầu chào. Khi chào xong theo cách truyền thống, tay phải ta vẫn có thể đưa ra bắt tay giao tiếp theo kiểu hiện đại và hội nhập vẫn là hợp lý. Tại sao dám khẳng định tư thế chào này là đúng bản sắc văn hóa dân tộc nhất? Chúng tôi xin được lý giải như sau:
Theo triết lý Âm Dương Ngũ hành thì “Vũ trụ vạn vật nhất thể”, con người chính là một “tiểu vũ trụ”, vì thế, vũ trụ có Âm có Dương thì con người cũng có Âm có Dương. Vũ trụ do ngũ hành (Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ) tạo nên thì con người tự nhiên (cơ thể sinh vật) cũng do Ngũ tạng (Thận, Tâm, Can, Phế, Tỳ), Ngũ phủ (Bàn quang, Tiểu tràng, Đởm, Đại tràng, Vị) hợp thành ứng với năm hành của vũ trụ. Người Việt không gọi Lục phủ như Trung Hoa (Trung Hoa thêm Phủ Tam tiêu gồm Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu để chỉ mối liên hệ giữa năm phủ kia, không ứng với hành nào cả). Con người khác với con vật chính là ở chỗ giải phóng được hai chi trước để đứng thẳng lên. Khi đứng thẳng lên (không còn đi 4 chi) thì toàn bộ phần Dương (phần lưng đối mặt với Trời ở loài vật) sẽ biến thành phần Âm (phần sau lưng của con người), toàn bộ phần Âm (vụng ức, bụng đối diện với Đất của loài vật) lập tức trở thành phần Dương (phía trước của con người).
Chính vì đứng thẳng lên nên cái đuôi của loài vật không còn tác dụng dùng để cân bằng khi đi đứng, chạy nhảy, leo trèo; do đó, phần đuôi bị thoái hóa mất đi. Và chính cái đốt sống lưng (đối diện với vụng bụng) trở thành điểm nút quan trọng của con người. Đó là nhìn tổng thể Âm Dương của cơ thể người, riêng phần Dương phía trước con người lại chia thành hai khu vực Âm Dương cụ thể nữa, đó là: từ vùng bụng trở lên đầu là Dương và từ vùng bụng trở xuống chân là Âm. Cho nên vùng bụng trở thành trung tâm của cơ thể con người (đối diện phía sau lưng là cái đốt sống dựng con người đứng dậy giải phóng hai chi trước để thoát khỏi loài vật), chứ không phải lấy trái tim hay khối óc làm trung tâm như các dân tộc khác.
Chính do quan niệm vùng bụng là trung tâm cơ thể con người nên người Việt giao tiếp, đối xử với nhau bằng “tấm lòng” chứ không phải bằng sự rung động của con tim hay sự sáng suốt của trí óc. Khác với phương Tây, lấy trái tim làm trung tâm cơ thể con người, từ đó sinh ra từ yêu (love), người Việt từ trước thời tiếp biến văn hóa phương Tây không có từ “yêu” mà chỉ có cụm từ “phải lòng nhau”, từ “thương”. Tìm trong ca dao cổ, ta dễ dàng nhận ra, cha ông ta chỉ dùng từ “thương” không hề có từ “yêu”: (Thương nhau mấy núi cũng trèo… Đưa tay bứt ngọn bông ngò/ Thương anh đứt ruột giả đò làm ngơ…). Huế là kinh đô cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam trước khi tiếp biến với văn hóa phương Tây nên Huế có ý thức giữ nguyên từ “thương” với nghĩa là “yêu” bền vững nhất. Trong ngôn ngữ Huế rất hiếm xuất hiện từ “yêu”. Thế hệ cha anh chúng ta cũng rất ngại ngùng khi nói từ “yêu”, với họ chỉ là “thương” nhau, “phải lòng” nhau mà thôi. Cái từ “phải lòng” nầy chính là ngôn ngữ tình yêu đích thực của người Việt, vì ta lấy tấm lòng làm trung tâm cơ thể, hễ “phải lòng nhau” là tất cả đã trọn vẹn: “Anh chị lo tính chuyện làm sui gia nhau đi, bọn nó phải lòng nhau rồi”… Chính vì lẽ đó mà người Việt thường gọi là “Lòng yêu nước”, “Lòng yêu quê hương”, “Lòng nhân đạo”, “Lòng thành” chứ không nói “Trái tim yêu nước”, “Trái tim nhân đạo”…
Tương đương với “Lòng” chính là “Bụng”, “Ruột”, “Tử”, “Dạ”. Cách nói này rất phổ biến trong ngôn nhữ bình dân Việt Nam: “Mát lòng mát dạ/ Mát ruột mát gan”, “Vui lòng thỏa dạ”, “Hả lòng hả dạ”, “Bằng lòng đi em”, “Thỏa tấm lòng”, “Mát cái ruột”, “Sướng cái tử”, “Ưng cái bụng”, “Đã cái tử”, “Rung động trong lòng”, … hiếm khi dùng “con tim/ trái tim” hay “bộ óc/ trí óc” thay cho những cụm từ này.
Tương đương với “Lòng” chính là “Bụng”, “Ruột”, “Tử”, “Dạ”. Cách nói này rất phổ biến trong ngôn nhữ bình dân Việt Nam: “Mát lòng mát dạ/ Mát ruột mát gan”, “Vui lòng thỏa dạ”, “Hả lòng hả dạ”, “Bằng lòng đi em”, “Thỏa tấm lòng”, “Mát cái ruột”, “Sướng cái tử”, “Ưng cái bụng”, “Đã cái tử”, “Rung động trong lòng”, … hiếm khi dùng “con tim/ trái tim” hay “bộ óc/ trí óc” thay cho những cụm từ này.
Cũng bởi quan niệm lấy lòng (bụng/ ruột/ tử) là trung tâm cơ thể nên người Việt lấy tấm lòng để xử lý mọi quan hệ trong cuộc sống: “Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình”, “Sống cho vừa lòng nhau”, “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”, “Đối đãi với nhau bằng tấm lòng”… Thậm chí người Việt còn lấy “lòng/ bụng” điều hành luôn cả lý trí và con tim: “Bụng bảo dạ rằng: hình như hắn không yêu mình”, “Suy bụng ta ra bụng người”, “Lòng riêng riêng những kính yêu/ Chồng chung chưa dễ ai chiều lòng ai”… Tất cả những câu này đều thuộc lĩnh vực suy nghĩ, tư duy, xét đoán của lý trí, nhưng với người Việt, bụng, dạ, lòng là trung tâm quyết định cả tư duy và lý trí….
Như vậy, rõ ràng vùng bụng vừa là trung tâm cơ thể con người từ khi thoát khỏi loài vật đứng dậy vừa là trung tâm trong mọi mối quan hệ ứng xử trong cuộc sống: “Trải lòng ra mà sống với nhau”, “Đối xử với nhau bằng tấm chân tình”, “bằng lòng thành”, “bằng tình người”… Hãy đối xử với nhau bằng tấm lòng, phải hiểu lòng nhau để sống và hợp tác, cho nên, tôi nghĩ cách chào đặc trưng Việt Nam chính là áp lòng bàn tay trái vào phần bụng (trung tâm cơ thể, trung tâm của mọi mối quan hệ, trung tâm của sự tỏ bày và hiểu nhau) và cúi đầu chào, chứ không phải áp lòng tay phải lên trái tim để chào theo kiểu phương Tây. Cầu thủ bóng đá Việt Nam và vận động viên các môn thể thao khác cũng nên chào cờ bằng tư thế truyền thống ấy để thể hiện đúng bản sắc văn hóa giao tiếp của dân tộc mình.
Sở dĩ, ta áp lòng bàn tay trái bởi vì, cũng theo triết lý Âm Dương Ngũ Hành, người Việt luôn coi trong bên trái (hướng Đông) hơn bên phải (hướng Tây). Bàn thờ của người gần gũi ta hơn, luôn đặt phía bên trái của ngôi nhà ba gian. Khi làm nhà thì sau lễ động thổ để xây thì lễ gát đòn Dông (đòn Đông) là rất quan trọng (Bây giờ làm nhà hộp theo kiểu kiến trúc phương Tây, thay vì gát đòn Dông, người ta làm lễ khi đổ mê là vậy). Cả cái câu chuyện “Cuội lên trăng” cũng thể hiện rất rõ triết lý sống này của người Việt: “Có đái thì đái bên Tây/ Đừng đái bên Đông cây dông lên trời”…
Riêng đối với quân đôi, công an, để đảm bảo nguyên tắc “quân lệnh như sơn”, “kỷ luật là sức mạnh”, tức ý chí chấp hành quân lệnh là quan trọng ta vẫn giữ nguyên theo cách chào phổ biến chung đó là bắt tay xéo lên trên trán (lý trí) để chào.
Trong thời đại hội nhập này, bản sắc dân tộc dù nhỏ nhặt cho đến cả một cái chào giao tiếp cũng chính là một lẽ trường tồn và là sức mạnh của dân tộc đó.
Tài liệu tham khảo:
1. Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, Trường ĐH Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 1996
2. Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt Nam, Hà Văn Thùy, Nxb Văn học, 2006.
Quảng Ngãi, tháng 6.2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét