Nguyễn Vỹ
Tiểu sử
Tác phẩm:
- Tập thơ đầu - Premières poésies (Thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934
- Đứa con hoang (tiểu thuyết) Nxb Minh Phương, Hà Nội, 1936
- Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Nxb Đông Tây, Hà Nội, 1937
- Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
- Cái họa Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
- Đứng trước thảm kịch Việt Pháp - Devant le drame Franco Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1947
- Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1948
- Chiếc áo cưới mầu hồng (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
- Giây bí rợ (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
- Hai thiêng liêng I
- Hai thiêng liêng II (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
- Hoang vu (thơ) Nxb Phổ Thông, Sàigòn 1962
- Mồ hôi nước mắt (tiểu thuyết), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1965
- Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970.
- Tuấn, chàng trai nước Việt I.
- Tuấn, chàng trai nước Việt II, (chứng tích thời đại), Nxb Triệu Dương, Sàigòn, 1970.
- Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học), Nxb Khai Trí, sàigòn, 1970.
- Buồn muốn khóc lên (thơ) 1970.
- Mình ơi (văn hóa tổng quát) 1970.
- Thơ lên ruột (thơ trào phúng) 1971. - ...
Tựa của tác giảTác phẩm:
- Tập thơ đầu - Premières poésies (Thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934
- Đứa con hoang (tiểu thuyết) Nxb Minh Phương, Hà Nội, 1936
- Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Nxb Đông Tây, Hà Nội, 1937
- Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
- Cái họa Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
- Đứng trước thảm kịch Việt Pháp - Devant le drame Franco Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1947
- Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1948
- Chiếc áo cưới mầu hồng (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
- Giây bí rợ (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
- Hai thiêng liêng I
- Hai thiêng liêng II (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
- Hoang vu (thơ) Nxb Phổ Thông, Sàigòn 1962
- Mồ hôi nước mắt (tiểu thuyết), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1965
- Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970.
- Tuấn, chàng trai nước Việt I.
- Tuấn, chàng trai nước Việt II, (chứng tích thời đại), Nxb Triệu Dương, Sàigòn, 1970.
- Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học), Nxb Khai Trí, sàigòn, 1970.
- Buồn muốn khóc lên (thơ) 1970.
- Mình ơi (văn hóa tổng quát) 1970.
- Thơ lên ruột (thơ trào phúng) 1971. - ...
Trao bạn
Tác phẩm này không phải là một văn học Sử, cũng không phải một
công trình khảo luận.
Đây là chứng dẫn một thời đại, của một người đã bước trong lịch
trình hăng say của Thế hệ Văn học Cận kim, đã lăn lóc hằng ngày với các bạn đồng
hành. Nó đã sống, đã thấy, đã cảm xúc giữa một thế giới mới đột nhiên xuất hiện
từ một thế giới cũ. Nó đã chia xẻ những vinh nhục của số kiếp con nhà văn.
Tiếng súng đại bác lần đầu tiên nổ dưới vòm trời Âu làm rung
chuyển Địa cầu, hai mươi mốt năm sau Đệ nhất Thế chiến, đã làm sụp đổ tất cả kiến
trúc đồ sộ nhưng mong manh của Đô hộ Pháp trên Đất nước thiêng liêng của Tổ quốc,
Chỉ độc nhất còn lại Văn hóa.
Kỷ nguyên mới đang quằn quại trong khói lửa. Cái gì còn lại vẫn
nguyên vẹn, đã trở thành một ký ức vàng son.
Nó chói lọi trong quạnh quẽ huyền mơ của một dĩ vãng luôn
luôn còn hiện tại. Không có người chết. Chỉ có người vắng mặt.
Nhân chứng, vai còn nặng hành trang của cuộc phiêu lưu kỳ thú
ấy, không có một kiêu hãnh nào cả. Không vì khiêm tốn giả dối. Chỉ vì trung trực
truyền thống của Văn nghệ đối với người đương thời với nó trong thế hệ qua, đối
với chính lương tâm của nó trong thế hệ nay.
Vài nét chân phương thân ái trao bạn.
Tác giả
1. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939)
Hồi còn là một học trò. Năm thứ Nhất trường Trung học Quy
Nhơn, 12 tuổi, tôi đã mê văn thơ của Thi sĩ Tản Đà, và đã ao ước được biết ông.
Lúc đó ông là “Thần tượng” của tôi. Nhưng vì còn trẻ con, và mới tấp tểnh làm
Thơ, tôi đã có đôi chút tự ti mặc cảm, và khi học ở Hà Nội năm 1928, tôi không
dám tìm đến nhà Thi sĩ. Tôi vẫn yêu cái hình vẽ “gánh văn lên bán chợ Trời”
trên các bìa sách của “Tản Đà thư cục”, bán rất chạy vào những năm 1925-1930.
Tôi cắt hình đó dán trên bàn học của tôi.
Lòng cứ ước muốn gặp Thi sĩ một lần “để xem mặt mũi ông ra
sao”, nên một hôm, vào khoảng 1930, đi qua phố Hàng Da, xế nhà ông Phạm Quỳnh,
tôi thấy trên tường một căn nhà có treo tấm bảng “An Nam Tạp Chí”, tôi liền
đánh bạo giả vờ vào mua một quyển “Giậc mộng con” để thấy mặt nhà Thi sĩ. Tôi
bước vào không thấy ai. Sẵn tính tò mò, tôi ngó trên một chiếc bàn kê sát vách,
một điếu hút thuốc lào bằng tre, thứ “điếu cày” bình dân, bên ạnh một cái đèn
liu riu, vài que đóm bỏ bừa bãi, với một mảnh giấy trắng. Tôi lén dòm trên giấy
hai câu thơ viết chữ loằng ngoằng, tôi đọc thật lẹ, và còn nhớ mãi đến bây giờ:
Đi ra rồi lại đi vào,
Vẩn vơ chỉ tốn thuốc lào mà thôi
Tôi nhịn cười không được, bật cười to lên. Bỗng từ trong nhà,
bước ra một ông mái tóc lâm râm, cúp rẽ một bên, áo lương thâm dài cũ mèm, quần
trắng hơi bẩn, mang đôi giày mòn mỏi. Đôi mắt ông sáng quắc, nhìn tôi. Tôi lễ
phép chấp hai tay cúi đầu chào, theo lối người Bắc:
- Lạy cụ ạ.
Ông gật đầu:
- Tôi không dám, cậu hỏi gì?
- Thưa cụ, cháu muốn mua quyển… “Giấc mộng lớn”.
- “Giấc mộng lớn” hay “Giấc mộng con”? Cậu lầm đấy, chỉ có
quyển “Giấc mộng con” chứ không có “Giấc mộng lớn”.
- Dạ thưa cụ, “giấc mộng” gì cũng được ạ.
- Giấc mộng gì cũng hết cả!
Tôi bỡ ngỡ hỏi thẳng cụ:
- Thưa cụ, xin lỗi cụ, cụ có phải là Thi sĩ Tản Đà không ạ?
- Phải.
Tôi mừng quá. Nhưng không hiểu sao, đứng trước Nhà Thơ bằng
thịt và bằng da mà tôi hằng kính phục, tôi bối rối không biết nói gì nữa. Tôi
cúi đầu chào từ biệt:
- Lạy cụ ạ!
Tôi đi ra. Ông Nguyễn Khắc Hiếu đứng yên, nhìn tôi. Chắc ông
cũng không hiểu là cậu học trò này muốn gì.
Tôi sung sướng và hãnh diện, đã thấy mặt nhà thi sĩ Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi khoe cùng các bạn học của tôi.
Năm năm qua. Sau khi tuần báo “Phụ nữ” của bà Nguyễn Thị Thảo
đăng bài thơ “Gởi Trương Tửu” của tôi, một buổi chiều, tôi đến chơi ở tòa báo,
ngõ Hội Vũ, đang ngồi trò chuyện với cô thư kí quen thân(1), (1) Cô này hiện ở
Sài Gòn, là vợ ông Hoàng Nguyên, cựu Giám đốc Báo chí Bộ Thông tin dưới thời
Ngô Đình Diệm.> bỗng thi sĩ Tản Đà từ ngoài bước vào. Một chiếc khăn đóng đã
mòn viền, đáng lẽ đội trên đầu ông lại đeo tòn ten trong cánh tay. Vẫn chiếc áo
lương thâm cũ giống chiếc áo mà tôi đã thấy ông mặc năm năm trước. Ông hỏi cô
thư ký:
- Có ông Nguyễn Vỹ ở tòa báo không?
Cô bạn liền cười, chỉ tôi:
- Thưa cụ, Nguyễn Vỹ đây ạ.
Ông ngạc nhiên ngó tôi:
- Thế hả!... Cái ông này, tôi nhớ… quen quen… Tôi có gặp ông ở
đâu nhỉ?
- Dạ thưa cụ, cháu chưa được hân hạnh gặp cụ ạ.
- Ông muốn đi chơi với tôi không? Ông có rảnh không?
- Dạ thưa cụ, cháu rảnh ạ.
- Thế thì chúng ta đi?
Ông đưa tôi lên tàu điện, phố hàng Bông. Nửa giờ sau đến một
gian nhà ở ấp Thái Hà, Nhà của ông. Ông lấy chai rượư ra và hai cái cốc. Tôi
không biết uống rượu, bất cứ là rượu gì, dù là rượu bia. Nhưng vì xã giao tôi
không tiện nói ra, và sợ phật ý nhà Thi sĩ đã có tiếng là Lưu linh Việt Nam.
Tôi cứ để mặc ông rót rượu ra cốc, thầm nghĩ rằng cũng đêm năm ngoái được hân hạnh
ngồi hầu chuyện với cụ Phan Bội Châu trên sông Hương, cụ thì uống liên miên mà
tôi cứ phải giả vờ nâng ly lên môi nhấp một chút xíu cho có lễ phép, suốt đêm
chưa cạn một ly.
Ông Tản Đà bảo một chú bé chạy đi mua nhanh hai gói lạc rang
(đậu phụng rang) để uống rượu.
Ông bắt đầu hỏi tôi:
- Tôi thích bài thơ Gởi Trương Tửu của ông, nên mời ông uống
rượu. Trương Tửu là ai?
- Thưa cụ, bạn của cháu ạ.
- Dạ, tên anh ấy là Trương Tửu, thì cụ khỏi hỏi! Vả lại dòng
dõi Trương Phi đấy ạ.
- Hôm nào ông rủ ông ấy đến uống rượu với tôi.
- Dạ.
- Nhưng tôi giận ông lắm vì một câu trong bài thơ của ông.
Tôi định gặp ông thì tôi bảo.
- Thưa cụ, câu nào ạ?
- Sao ông lại bảo: Nhà văn An Nam khổ như chó?” Ông so
sánh nhà văn chúng ta với kiếp chó, mà ông không hổ thẹn ư?
- Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với chó, thì chó nó thẹn,
chớ sao nhà văn lại thẹn?
Ông Tản Đà làm thinh nốc hết li rượu, rồi rót luôn một li nữa.
Mặt ông vẫn chưa đỏ. Bỗng dưng ông phì cười, tiếng cười nổ
lên đột ngột và kêu to, làm tôi giật mình. Xong, ông nói, không ngó tôi:
- Ông làm tôi bượch cười! Ông Tản Đả hay nói: bượch cười.
Rồi ông rưng rưng nước mắt…
Tự nhiên tôi cũng muốn khóc như ông. Mặt Tản Đà đỏ như quả gấc.
Hôm gặp gỡ đầu tiên ấy, Tản Đà có trao tôi bài thơ “Còn
Chơi”, bảo tôi họa vận:
- Chưa ai họa bài này. Ông họa chơi cho vui, mà phải theo
nguyên vận nhé!
Tôi chưa dám nhận lời, vì chưa đọc bài thơ.
Vài tháng sau, có việc đi Thái Hà Ấp tôi đến thăm Tản Đà và
trao ông bài thơ “Hết Chơi” của tôi họa bài “Còn Chơi” của ông. Tôi bảo:
- Rất hân hạnh, nếu được tiên sinh đáp lại.
Một thời gian, Tản Đà nghèo túng quá, xoay sang nghề thầy tướng.
Thi sĩ thuê một căn nhà rẻ tiền ở Bạch Mai, (Route de Huế) mở phòng xem “Quẻ Dịch”.
Chính nơi đây, nhà thơ Việt dịch một ít thơ Đường bán cho báo Phong Hóa. Tiên
sinh phàn nàn rằng tiền nhuận bút của Phong Hóa không đủ để uống rượu. Nhưng tiền
nhuận bút nào đủ để Tản Đà uống rượu?
Phòng xem tướng Quẻ Dịch của Tản Đà không được đông khách lắm.
Lí do rất dễ hiểu. Nhà thơ say rượu suốt ngày, có thì giờ đâu xem tướng cho
thân chủ? Ngày Chủ nhật nhiều ông Công chức đưa vợ đến xem một quẻ, vì mến tài
Văn chương nhiều hơn là vì tin tưởng tài xem tướng của Thi sĩ. Ông say rượu,
nói tầm bậy tầm bạ, thân chủ cười, gật đầu khen hay, rồi rút lui.
Bốn tháng sau, tôi đi với Lan Khai xuống Bạch Mai để thử tài
bói Quẻ Dịch của Tản Đà như thế nào, hai đứa có đem theo một chai rượu và một
gói đồ nhắm để biếu Thi sĩ. Nhưng phòng xem tướng của Tản Đà đóng cửa im ỉm –
Gõ mãi không có ai mở. Mấy người hàng xóm bảo:
- Ông Cụ ngủ suốt ngày, có khi đến khuya mới thức dậy.
Chúng tôi gởi lại rươu và gói quà, nhờ một bà hàng xóm trao lại
Tiên sinh.
Sau, Tản Đà dọn về lại Ngã Tư Sở, số nhà 71. Thi sĩ ở đây cho
đến ngày tận số.
Cùng với qua quyến ông, chúng tôi, số nhà Văn không quá 10
người, tiễn Thi sĩ về “giấc mộng” cuối cùng và vĩnh viễn, một buổi sáng tháng
5-1939.
Sau khi Tản Đà chết, bà vợ góa của Thi sĩ bị ở trong tình trạng
túng thiếu thật là bi đát. Một số anh em nhà Văn có quyên một món tiền nhỏ, do
Nguyễn Tuân đưa lên biếu bà.
Bà Nguyễn Khắc Hiếu là chị ruột của Nguyễn Tiến Lãng, rể của
Phạm Quỳnh, một nhà Văn chuyên viết Pháp văn, và lúc bấy giờ làm quan Nam Triều.
Nguyễn Tiến Lãng có vận động với nhà cầm quyền Pháp để giúp cho chị của ông một
phương tiện sinh nhau. Bà được lĩnh hai môn bài rượu và thuốc phiện của Nha
Thương Chánh để kiếm lời độ nhật.
Nhiều người cho đó là một chuyện hài hước lí thú, ví nhớ lại
lúc bình sanh, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có làm bài thơ phản đối độc quyền Rượu của
Nha Thương Chánh (rượu Ty của Pháp) và đòi cho dân được nấu rượu tự do:
Yêu cầu cho khắp Nước Nhà,
Rượu Ti bãi hết, rượu ta cất tràn,
Tránh cho dân nỗi lầm than,
Bã chôn, men giấu, nhà Đoan(1) Đoan (tiếng Pháp: Dounae) tiếng
bình dân thông dụng nói về Nha Thương Chánh> nhạt bừa…
Tha hồ rượu sớm trà trưa,
Nghiêng chai dốc chén say sưa tối ngày.
Tuy nhiên, dư luận trong giới Văn học Hà Nội rất thông cảm
cho hoàn cảnh quẫn bách của bà quả phụ Nguyễn Khắc Hiếu. Không ngờ nhờ hai môn
bài đó, mà nếp sống của Bà Hiếu lại khá giả hơn lúc sinh tiền của Thi sĩ.
Nhiều bạn làng Văn biết rằng hồi em vợ của Tản Đà là Nguyễn
Tiến Lãng còn làm Bí thư cho René Robin, và rất được viên Toàn quyền này tín dụng,
Lãng muốn đem ông anh rể vào làm việc trong văn phòng Tu Thư của Phủ Toàn quyền,
để cho ông một chức nghiệp có lương tháng sống đầy đủ đàng hoàng. Nhưng Thi sĩ
Tản Đà từ chối. Theo lời Khái Hưng kể lại với tôi, khi nghe tin này, tác giả “Hồn
bướm mơ tiên”, có tặng nhà Thơ một món tiền khá khá để tỏ lòng mến phục.
Nhưng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cao hứng làm mấy chầu rượu, dốc
túi sạch sành sanh!
Thơ Tản Đà
Tản Đà không phải là một nhà Nho thông thái. Ông cũng không
có Tây học nhiều. Vì ông sinh ra giữa lúc giao thời, Hán học gần suy tàn, Tây học
mới bắt đầu phát triển. Nhưng ông chịu ảnh hưởng của Hán học nhiều hơn về pdi
thi phú, và theo lời ông nói với tôi, ảnh hưởng sâu đậm nhất là của bà thân mẫu,
tên là Nghiêm, một ả đào hát nổi danh một thời về văn chương và sắc đẹp. Thi sĩ
Tản Đà rất có hiếu với bà mẹ nghệ sĩ ấy. Trên chuyến tàu điện về Thái Hà Ấp,
ông “tâm sự” với tôi:
- Mẹ tôi thường dạy tôi: “Mẹ đặt tên con là Hiếu, là mẹ muốn
con giữ mãi mãi chữ “hiếu” đối với mẹ”. Ấy thế, lớn lên tôi nghĩ rằng có lẽ Mẹ
tôi có mặc cảm là một cô đào hát, nên sợ tôi khinh thường. Nhưng tôi luôn luôn
giữ tình mẫu tử chí hiếu với Mẹ tôi vì… ông biết vì sao không?
- Dạ, vì tình mẹ con.
- Đành rằng như thế, nhưng vì tôi cảm thấy rõ ràng tâm hồn
thơ của tôi chính là thừa hưởng tâm hồn nghệ sĩ của mẹ tôi. Không phải mẹ tôi
sinh ra Nguyễn Khắc Hiếu, mà mẹ tôi sinh ra thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu. Ông hiểu
không?
- Dạ, hiểu lắm.
Hầu hết thơ của Nguyễn Khắc Hiếu, nhất là những câu thơ hay
nhất của ông, đều tiết lộ tâm hồn lãng mạn thanh thoát, đặc biệt của miền Bắc hồi
đầu tki 20, còn đượm nhiều hương vị thuần túy nông thôn Miền Bắc, chưa bị xâm
nhập bởi ảnh hưởng của thơ Tây.
“Nước Non nặng một lời thế,
Nước đi mãi mãi, không về cùng non.
Nhớ lời hẹn ước thề non,
Nước đi đi mãi, non còn đứng trông…”…
“… Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, hoa trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời…” v.v…
Đó đúng là chất thơ Nguyễn Khắc Hiếu.
Chất thơ đặc biệt nông thôn miền Bắc đã lộ ra trong những câu
ca dao như:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ”.
Rượu, và Ngông, chỉ là yếu tố phụ thuộc, trang trí, dùng làm
bối cảnh của Thơ văn Tản Đà mà thôi.
Vì tính chất lãng mạn thuần túy đó, mà Phạm Quỳnh đả kích Tản
Đà, trong một bài giới thiệu tàn nhẫn và ngạo mạn đăng trong Nam Phong Tạp Chí.
Phạm Quỳnh, bút hiệu Thượng Chi, lấy văn chương hàn lâm (littérature
académique), nghĩa là văn chương trưởng giả, quí phái, để hạ giá văn chương
lãng mạn của Tản Đà mà ông nhận định là dễ dãi, nông cạn, có vẻ hoa mĩ bề
ngoài, không có bề sâu.
Chúng tôi, đám thanh niên yêu thơ Tản Đà, chính vì khía cạnh
thuần túy thơ mộng của thơ Tản Đà, không chấp nhận lối phê bình lệch lạc và có
tính cách ganh ghét, của ông Chủ Nhiệm Nam Phong Tạp Chí, một nhà văn quá đạo mạo
phong kiến, không có phong độ của con nhà văn nghệ.
Nguyễn Khắc Hiếu rất hận về bài phê bình của ông Thượng Chí,
và ghét Phạm Quỳnh từ đó.
- Tiên sinh có thưởng thức thơ Pháp không?
Ông tỏ vẻ buồn:
- Tôi tiếc không được học tiếng Pháp nhiều như các ông và
không hiểu được thơ Pháp. Nhưng đọc mấy bài dịch của ông Nguyễn Văn Vĩnh, và mấy
bài dịch thơ Le Lac của Lamaritine đăng trong Nam Phong, tôi thấy thơ Pháp cũng
lãng mạn khiếp đi chứ!
Tôi cười vì lối nói chuyện có vẻ ngây ngô của nhà thơ duyên
dáng đáng yêu.
2. Nguyễn Văn Vĩnh
Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi NGUYỄN VĂN
VĨNH như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết
của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc
vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã
không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn
Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại,
thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp
văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là
sinh viên nghèo, chúng tôi cũng rán mua cho được, mỗi tuần hai kì, các số báo
L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước
được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một
buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố
hàng Gai, bỗng người bạn bảo tôi:
- Ông Nguyễn Văn Vĩnh kìa, mày!
- Đâu?
Người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng
bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonmial của Tây hồi đó), ngồi trên
chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng
xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông bay vụt ngang qua chúng
tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi
đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông
Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã
in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài
báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch
và chạy rầm rầm bên tai tôi.
Cho đến bây giờ, tôi ngồi chép lại kí ức này, tôi vẫn còn thấy
bóng dáng ông Nguyễn Văn Vĩnh ngồi trên chiếc xe môtô sơn màu đỏ, chạy vụt qua
trước mắt tôi thật nhanh, và kêu ầm ầm như một chiếc mô tô bay trong Hội chợ.
Trong những câu chuyện giữa sinh viên Cao đẳng Hà Nội, người
ta thường nói đến ông Nguyễn Văn Vĩnh luôn. Một vài anh cho tôi biết rằng ông
có một người vợ bé là cô Đầm lai rất đẹp và còn trẻ tuổi. Bà cả thì là người Bắc,
rất hiền lành. Nhà ông là cái biệt thự có tường cây cao xung quanh phủ đầy hoa
antigone, và có cổng sắt, trên hồ Văn chương cạnh Đền thờ Khổng Tử. Tôi đã đi
ngang qua đó nhiều lần, và hằng ước mong làm sao có cơ hội may mắn được gặp ông
một lần, để xem tường tận gương mặt của ông và nghe ông nói chuyện.
Cơ hội ấy đã đến. Tôi cầm tập thơ mỏng manh vừa mới xuất bản
đến tòa báo L’annam Nouveau ở cạnh Bờ Hồ Hoàn Kiếm, một dãy nhà một tầng, quét
vôi trắng. Buổi sáng, tôi biết ông bận nhiều việc, tôi đợi đến buổi chiều. Tôi
rón rén bước vào phòng thơ kí. Bốn năm ông và cô ngồi làm sổ sách, đánh máy,
không ai để ý đến cậu nhãi con ngơ ngác, như con nai đi lạc bước trong rừng chiều.
Bỗng một chàng con trai dong dỏng cao hơn tôi, nhưng trạc tuổi
với tôi, từ ngoài cửa đi vào. Chàng tủm tỉm cười hỏi rất nhã nhặn:
- “Vu” hỏi gì đấy? (1) Vu (vous) anh theo tiếng Pháp.
Tôi thấy cái miệng chàng như móm, nhưng đôi mắt rất lanh lợi.
Tôi bảo:
- Tôi muốn xin vào yết kiến ông… Directeur.
Chàng nhanh nhảu trả lời:
- “Vu” chờ một tí nhé. Để tôi vào xem Thầy tôi có bận việc lắm
không đã nhé… À… mà, xin lỗi, “Vu” hỏi ông cụ có việc gì?
- Dạ… tôi muốn đem tặng ông cụ tập thơ nho nhỏ đây, mới xuất
bản.
Nói xong, tôi trao “Tập thơ đầu” cho chàng ta. Chàng xem qua
bìa, lật qua mấy trang trong, rồi tủm tỉm cười, cười mím chặt môi, để cái miệng
như móm vậy!
- “Vu” cứ vào với tôi.
Tôi đi theo chàng, trong lòng hồi hộp, không biết chàng này
là ai mà coi bộ đi vào văn phòng riêng của ông Chủ nhiệm có vẻ tự nhiên như thế.
Một căn phòng rộng rãi, mát mẻ, có một dãy cửa kiếng ngó ra
ngoài đường. Ông Nguyễn Văn Vĩnh to như ông Hộ pháp, mặc áo sơ mi thật trắng,
tay dài, đeo cà vạt đen, ngồi chăm chú viết. Nghe tiếng giày chúng tôi vào, ông
ngưng bút, ngoảnh mặt ngó ra. Chàng trẻ tuổi đến gần:
- Thưa thầy, có một chàng thi sĩ…
Ông Nguyễn Văn Vĩnh ngó tôi, thốt ra một tiếng Pháp:
- Ah!
Ông lại cười, tiếng nói rang rảng:
- Vous êtes poètè?
(Anh là thi sĩ hả)
Tôi mỉm cười đáp:
- Non, monsieur le Directeur.
(Dạ, thưa ông chủ nhiệm, không phải.)
Chàng kia bỏ tôi ở lại một mình với ông Nguyễn Văn Vĩnh,
chàng đi ra ngoài.
Ông cầm quyển thơ mong manh, bé nhỏ, lật coi từng tờ. Ông chú
ý đến thơ Pháp nhiều hơn là thơ Việt. Rồi ông vui vẻ nói chuyện.
Tôi cảm thấy vinh hạnh được ông Nguyễn Văn Vĩnh bảo ngồi chiếc
ghế đối diện, và được ông tiếp chuyện độ vài chục phút. Ông chỉ nói tiếng Pháp,
thỉnh thoảng mới châm vào vài câu tiếng Việt thôi.
Ông hứa sẽ viết bài giới thiệu quyển thơ, và khuyến khích vài
lời. Tôi vô cùng cảm động.
Tôi đứng dậy chào cáo biệt. Ra ngoài, tôi lại chạm trán anh
chàng lúc nãy. Anh tự giới thiệu là Nguyễn Nhược Pháp, con trai cụ Nguyễn Văn
Vĩnh. Từ đó, hai đứa chúng tôi quen nhau và dần dần trở nên đôi bạn thân. Do
nơi Nhược Pháp mà sau đó tôi lại quên với Huy Thông.
Hai ba lần, Nguyễn Nhược Pháp đưa tôi đến tòa soạn [L’annam
Nouveau,] tại đây tôi thường được hân hạnh hầu chuyện ông Vĩnh. Ông thích nói về
chính trị vì lúc bấy giờ ông chủ trương chế độ “Administration directe” [(thực
trị)], đối lập với ông [Phạm Quỳnh], lãnh tụ phe [“Bảo Hoàng”], chủ trương củng
cố uy quyền Bảo Đại. Khác hẳn với Phạm Quỳnh mà cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ đều
ra vẻ học giả quí phái, lại kiêu căng, tự đắc, Nguyễn Văn Vĩnh rất là bình dân,
giản dị, không khiêm tốn một cách giả dối mà cũng không kiêu kì trịch thượng.
Nói thẳng thắn điều gì cần phải nói, quan niệm thế nào thì nói ra thế ấy, không
cần văn chương bóng bẩy, không dè dặt, rào trước đón sau, không quanh co khúc
khuỷu, không nham hiểm. Đó là những đức tính của Nguyễn Văn Vĩnh mà người đương
thời đều mến phục. Nguyễn Văn Vĩnh rất trung trực, không nịnh ai mà cũng không
ưa ai nịnh mình, không tùy thời, chỉ tùy mình. Ông chủ trương lẽ phải của ông,
không có lí lẽ nào khác đánh đổ được ông.
Là người rất yêu nước, yêu dân, một nhà ái quốc chân chính,
Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện đời sống dân chủ riêng trong phạm vi của ông giữa
thời kì phong kiến thối nát của chế độ thuộc địa và quân quyền.
Ông chủ trương “trực trị” tức là chống lại quyết liệt chế độ
thuộc địa và bảo hộ của Pháp. Chính sách trực trị của ông gần như chủ trương
Comonwealth của Ấn Độ đối với Anh. Ông đả kích quân chủ, coi Bảo Đại như đứa
con nít khờ khạo để cho Tây vò đầu sai khiến. Hầu hết các lớp sinh viên Cao đẳng
và trí thức giác ngộ ở Bác Hà đều hưởng ứng Nguyễn Văn Vĩnh.
Bọn thanh niên chúng tôi thời bấy giờ - tôi nói đại đa số
sinh viên cao Đẳng và Văn Thi sĩ mới ra đời - đều phục Nguyễn Văn Vĩnh như ông
thầy, hơn nữa, như nhà lãnh tụ. Ông hoạt động công khai, không thích làm “Hội
Kín”. Chúng tôi càng phục ông khi biết ông được chính phủ Pháp tặng Huy chương
[Légion d’Honneur,] một Huy chương vinh dự nhất của Pháp, nhưng ông khước từ.
Có lần, tôi muốn chơi nghịch, chọc ông Vĩnh mà không cho ông
biết. Tôi mượn cái tên Lệ Chi của một người bạn gái thân yêu để kí một loạt bài
về phụ nữ, bằng Pháp văn, trong tờ báo Pháp [L’Ami du Peuple Indochinois] của
Giáo sư Michel. Tôi “công kích” một bài của ông Vĩnh trong [L’annam Nouveau,]
nhan đề là [“Nos enfants chantent, nos enfants jouent”] (Trẻ em hát, trẻ em
chơi), ông giảng nghĩa ra Pháp văn một bài hát:
[“Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa, con ngựa đứt cương,
v.v…”]
Với bút hiệu Lệ Chi, tôi cãi lại, cho rằng ông Nguyễn Văn
Vĩnh giảng sai. Thực tình, tôi nghịch ngợm, giả làm một nữ sinh viên để bắt bẻ
ông chơi, xem ông bảo sao, chứ đâu dám cãi bướng với ông! Vì vậy mà có cuộc
“bút chiến” giữa ông Nguyễn Văn Vĩnh và “Cô Lệ Chi”, khá sôi nổi hồi tháng
7-1935. Độc giả hai tờ báo chắc là tủm tỉm cười, theo dõi cuộc bút chiến lí thú
kéo dài gần một tháng. “Lệ Chi” là cô gái nghịch ngợm, ranh mãnh, nhí nha nhí
nhảnh, còn Nguyễn Văn Vĩnh tuy là già nhưng cái giọng châm biếm vẫn còn hăng,
quyết liệt mà không đổ quạu. Rốt cuộc, ông viết như sau đây:
“Nếu cô Lệ Chi mới đỗ Tiến sĩ Vật lí học ở Pháp về (1), (1)
Lúc bấy giờ ở Hà Nội có một cô sinh viên đỗ bằng Tiến sĩ Vật lý học ở Pháp mới
về. Ông Nguyễn Văn Vĩnh đoán chừng “Lệ Chi” là cô Tiến sĩ ấy. Chắc cô cũng
chưa có chồng và chưa có con. Tôi khuyên cô nên có con đi đã rồi hãy nói chuyện
với tôi về cách trẻ em hát và trẻ em chơi. Tôi thì tôi đã có chút ít kinh nghiệm
về trẻ con bởi tôi là một đứa trẻ con đã già”.
Tôi còn nhớ mãi câu của ông là “je suis un vieil enfant”
[(Tôi là một đứa trẻ con già)!]
Tôi phục câu ấy quá. Sau đó Nguyễn Nhược Pháp cười bảo ông bố:
[“Cô Lệ Chi là N.V. đấy, thầy ạ!”] Ông Vĩnh cười hà hà: [“Thế mà thầy cứ tưởng
là có cô Lệ Chi thật!”.]
Tết năm ấy, tôi đến mừng tuổi ông Nguyễn Văn Vĩnh. Với bàn
tay Hộ pháp, ông tươi cười vỗ mạnh trên vai tôi:
- [Chúc cô Lệ Chi đầu năm đẻ con trai, cuối năm đẻ con gái
nhé!]
Tôi mắc cỡ đỏ mặt, nếu không có Nguyễn Nhược Pháp trong nhà
chạy ra, tay bắt mặt mừng, thì có lẽ tôi đã té xỉu trong hai cánh tay lực lưỡng
của ông già duyên dáng ấy.
Hôm được tin Nguyễn Văn Vĩnh chết ở bên Lào, ngày 2-5-1936,
tôi ngồi nơi bàn viết ở Khâm Thiên nhớ đến cụ, bỗng dưng hai dòng nước mắt trào
ra.
Tội nghiệp cụ Vĩnh! Trong lúc, kẻ biết xu thời đang ngất ngưỡng
cân đai ở Huế, vênh váo bên ngai rồng, thì một bác văn hào lỗi lạc, một nhà ái
quốc trung trực và liêm khiết, bị quẫn bách về tài chánh, đã vỡ nợ, theo ông
Ameédèe Clémenti (1) (1) Người Pháp, chủ nhiệm báo [L’Argus Indochinois,] thân
Việt, chống Pháp, kẻ thù của chính phủ thuộc địa, bạn thân của ô. Vĩnh sang xứ Lào để tìm vàng, đi phiêu lưu mạo hiểm trong rừng thiêng nước độc, rồi
chết trên một giường bệnh, vì bệnh sốt rét rừng, xa vợ, xa con, xa quê hương xứ
sở, trong túi không có một đồng xu!
Quan tài của cụ Nguyễn Văn Vĩnh được đưa xe lửa từ Lào về đến
ga Thường Tín, ở phía Nam Hà Nội, cách thủ đô khá xa. Tất cả các giới sĩ, nông,
công, thương ở Hà Nội và các tỉnh lân cận đều tự động kéo nhau đi, sắp hàng tư,
hàng năm, có đến mấy chục ngàn người, đi bộ gần cây số, để đón rước linh cữu của
bậc Văn hào.
Linh cữu đến ga làng Cỏ Hà Nội giữa một biển người im lặng,
ai nấy đều cúi đầu, rưng rưng nước mắt. Linh cữu được đưa vào đặt tại Hội quán
[Hội Tam Điển] (Loge de Franmaconerie), đường Gambetta, nơi đây có ông Lê
Thăng, Tiến sĩ Luật khoa, cộng sự viên Báo [L’annam Nouveau] ông Phạm Huy Lực,
Viện trưởng Viện Dân biểu Bắc Kì, và hai người Pháp hội Viên Hội Tam Điển, đứng
túc trực đêm ngày.
Hôm đám tang Nguyễn Văn Vĩnh, một số anh em làng Văn nhóm tại
Tòa sọan báo [Phương Đông] của Lan Khai, thảo luận về việc đưa đám. Có mặt
trong buổi họp: Trương Tửu, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Bằng,
Nguyễn Tuân, tôi và TchyA. Anh em muốn tôi làm bài điếu văn vì tôi chơi thân với
Nguyễn Nhược Pháp, con của ông. Tôi từ chối:
- Các anh muốn làm điếu văn thì làm. Các anh muốn đọc mấy bài
điếu văn để ca ngợi ông Vĩnh cũng được. Riêng tôi, tôi chỉ mong được vinh dự
khiêng quan tài của Nguyễn Văn Vĩnh.
Sau cùng, chúng tôi đồng ý theo đề nghị của Lan Khai giao việc
soạn bài điếu văn cho Trương Tửu. Rất tiếc, bài của Tửu thật cảm động nhưng lúc
đọc xong anh bỏ vào túi áo rồi sau thất lạc đâu mất, tìm mãi không ra. Tôi nghi
rằng đi đám ma về, Tửu vứt áo cho tiệm thợ giặt và bài văn điếu Nguyễn Văn Vĩnh
đã tiêu tan trong bọt xà bông.
@tua=Sách dịch của Nguyễn Văn Vĩnh
Trước hết, tôi muốn nói đến sáng kiến “cải cách chữ quốc ngữ”
của Nguyễn Văn Vĩnh. Ông là người đầu tiên đề xướng một cải cách hợp lí hơn cả,
như chữ F thay cho dấu huyền, chữ W thay sấu sắc, v.v… Sự cải cách của ông rất
tiện lợi trong thời kì mà máy đánh chữ sản xuất ở Pháp và thông dụng ở Việt Nam
chưa có clavier Quốc ngữ.
Nhưng sau xem chừng ít có người hưởng ứng nên Nguyễn Văn Vĩnh
bỏ trôi luôn… Ông đâu có ngờ rằng vài chục năm sau khi ông chết, Bưu điện Việt
Nam áp dụng hệ thống “Quốc ngữ cải cách của Nguyễn Văn Vĩnh” trong các điện
tín.
Sau ông Vĩnh, còn nhiều người khác cũng đề xướng những phương
pháp cải cách chữ Quốc ngữ, khác hơn của ông, như Vi huyền Đắc và Edmond
Chodzko. Ông sau này là người Tiệp Khắc nhập tịch dân Pháp, làm thông ngôn có tuyên
thệ tại Tòa án Pháp ở Hải Phòng, và rất thông thạo tiếng Việt, viết cả văn Việt.
Tuy nhiên, chỉ có “Quốc ngữ cải cách” của Nguyễn Văn Vĩnh là
giản dị hơn. Nhưng sở dĩ dư luận chung của quảng đại quần chúng không sẵn sàng
chấp nhận và không sốt sắng hưởng ứng, là vì người ta cho rằng 5 dấu … và những
âm như Ke, Kê, Ki, Qu, Ph v.v… là những đặc điểm của vần quốc ngữ, đã có từ lâu
và không trở ngại gì cho việc học và viết tiếng Việt Nam.
Sau cùng, Nguyễn Văn Vĩnh cũng nhận thấy rằng mỗi ngôn ngữ và
ký âm của mỗi giống dân đều có những đặc tính riêng biệt, tiêu biểu cho sắc
thái ngôn ngữ của giống dân ấy, và sự sửa đổi sẽ làm cho xáo tr65n vô ích, nên
ông không tha thiết tuyên truyền cho “Quốc ngữ cải cách” của ông nữa. Tất cả
các tác phẩm của ông đều viết theo quốc ngữ chính thức.
Nguyễn Văn Vĩnh viết rất nhiều trong mục xã thuyết bằng Việt
văn và Pháp văn trong Đông Dương tạp chí, Trung Bắc Tân văn, L’annam Nouveau, về
đủ các đề tài, chính trị, văn hóa, học thuật, kinh tế, xã hội.
Ngoài ra, ông dịch nhiều hơn là sáng tác. Sự nghiệp lớn lao
nhất của ông là dịch truyện Kiều của Nguyễn Du ra Pháp văn (dịch và chú giải),
và dịch bộ truyện Les Misérables của Victor Hugo ra Việt văn.
Ảnh hưởng và uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh mạnh mẽ nhất trong giới
trí thức Việt và Pháp thời bấy giờ, là do hai bộ sách dịch này. Người Pháp hiểu
được truyện Kiều là nhờ bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh. Sau Nguyễn Văn Vĩnh, mới
có René Crayssac, Công Sứ Pháp ở Vĩnh Yên, dịch quyển Kiều ra bằng thơ Pháp,
thơ Alexadrins, 12 chữ, dựa theo bản dịch bằng văn xuôi của Nguyễn Văn Vĩnh.
Điều đó, tôi thấy ít nhà văn học sử đều để ý đến.
Bản dịch bộ truyện Les Misérables rất công phu. Nguyễn Văn
Vĩnh hãnh diện với công trình này nhiều hơn với bản dịch truyện Kiều. Ông có
giãi bày “tâm sự” với chúng tôi: “Dịch quốc ngữ ra tiếng Pháp dễ hơn dịch tiếng
Pháp ra Quốc ngữ”. Nhiều khi ông mất hằng nửa tiếng đồng hồ để tìm ra một câu
Việt diễn tả đúng với câu Pháp văn của Victor Hugo. Có những lúc dịch được, ông
khoái lắm. Có những lúc ông không thỏa mãn, đành dịch gượng bằng một câu dài
thòng, hoặc một câu ngắn ngủ.
Một hôm, ông ngồi uống trà với hai thằng trẻ: Nguyễn Nhược
Pháp, con ông, và tôi. Trong câu chuyện về sánh dịch, tôi nửa muốn học hỏi, nửa
muốn bắt bí ông chơi, tôi bảo:
- Thưa cụ, nếu bây giờ phải tái bản bộ sách dịch [Les
Misérables,] cụ có sửa lại cái tên sách không?
- Sao lại phải sửa?
- Thưa cụ, tên sách [Những kẻ khốn nạn,] sợ có nhiều độc giả
hiểu lầm.
Nguyễn Nhược Pháp mím môi cười, và gật đầu đồng ý với tôi. Cụ
Vĩnh cũng cười, khôi hài:
- Le misérable, c’est Victor Hugo! [(Kẻ khốn nạn, chính
là Victor Hugo!)].
Cụ cười hà hà, rồi nói tiếp, cũng bằng tiếng Pháp:
- Il a inventé ce mot misérable, qui m’a donné de bien gros
fils à retordre… Oui…! J’ai été très embêté en cherchant un mot annamite
éqnivalent pour le traduire. Enfin, j’ai adopté [“Những Kẻ Khốn Nạn”], faute de
mieux.
[(Ông ta đặt ra chữ khốn nạn ấy, làm cho tôi bối rối như tơ
vò… Thật thế! Tôi rất bực mình khi tìm một tiếng Việt tương đương để dịch chữ
Misérables. Sau cùng tôi đành dùng chữ [“Những Kẻ Khốn Nạn”], không tìm được chữ
nào hay hơn).]
Nguyễn Nhược Pháp mím môi bảo:
- Giá thầy(1) Nguyễn Nhược Pháp gọi ông Vĩnh bằng “thầy”.>
[“Những Kẻ Khốn Khổ”] thì thầy đỡ bực mình.
Cụ Vĩnh lại cười, ngó đứa con trai:
- Ah, maintenant, le misérable, c’est toi! Tu ne m’as dit ca
avant!
[(À, bây giờ Kẻ Khốn Nạn là mày! Sao trước kia mày không nói
cái đó với tao?)]
Pháp thớt tỉnh trả lời:
- Con được đọc bộ dịch [Les Misérables] của thầy 3 ngày sau
khi xuất bản!
Sau cùng, ông Nguyễn Văn Vĩnh nhìn nhận rằng: nên để: [“Những
Kẻ Khốn Khổ”] hay là [“Những Kẻ Khốn Cùng”] thì đúng hơn. Cụ cũng không hiểu tại
sao cụ không dùng chữ [“khốn khổ”.]
Cụ muốn lấy rượu đãi cho hai thằng bé con ranh mãnh nhưng
chúng tôi không biết uống rượư. Nguyễn Nhược Pháp chìa tay xin “thầy” tiền đủ
mua hai vé xi nê. Cụ Vĩnh móc túi quần, không có tiền, chạy vào nhà trong, hỏi
bà cụ và đem ra cho chúng tôi 20 đồng (2). (2). Theo thời giá bây giờ là 2.000 đồng.
3. Phạm Quỳnh
Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là
chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnhi sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng,
chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí [Nam Phong] sẽ diễn thuyết bằng tiếng
Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn:
[Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire.]
[(Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).]
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí [Nam Phong] đã lâu lắm rồi. Riêng
tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về,
vì thời bấy giờ tạp chí [Nam Phong] ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả
[Nam Phong] là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu”
mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về pdi văn học mà
thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài
cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất
bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện
theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi
bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số
nhà Nho, như ông Cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi
quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện”
như người Pháp nói.
Không thế nào không nhìn thận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của
Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc
bộ trên vỉa hè phố hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo
nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc
phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin, - Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục,
- chân luôn luôn mang giày escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả
thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ
vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu
là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, [kính] tức là [kiếng] trong tiếng Nam.
Phạm Quỳnh rất là tự cao tự đắc. Tôi có thể nói vô tư rằng
ông là nhà văn sĩ kiêu ngạo nhất thời Tiền chiến, nhưng bề ngoài ông lại làm ra
vẻ rất khiêm tốn, - cái khiêm tốn giả dối, tính toán, của những người thiếu
thành thật tự nhiên, của những kẻ dùng nó làm mách lời khôn khéo để tự tăng cao
địa vị của mình.
Kẻ chép hồi ức này đã có dịp ngồi nói chuyện trong nửa giờ đồng
hồ với ông Phạm Quỳnh, tại nơi bàn giấy của ông ở Huế, lúc ông làm Thượng Thơ bộ
Học, năm 1936, dưới thời Bảo Đại. Cái làm cho nó chú ý nhất trên gương mặt của
nhà học giả quan liêu ấy là cặp mắt của ông. Nó nhận thấy dưới đôi kính trắng gọng
vàng kia một cặp mắt rất là ranh mãnh, quỉ quái. Tất cả cá tính của Phạm Quỳnh
đều ánh ngời trong cặp mắt tinh ranh xảo quyệt ấy. Ông ít khi tự nhận là Nhà
văn, mà chỉ thích người ta gọi là nhà Học giả, - chính ông tự gán cho ông cái
danh hiệu là Clerc. - Tuy ông vẫn có nụ cười và giọng nói khiêm tốn, nhưng cái
vẻ khiêm tốn giả tạo không sao che lấp được tư cách chân chính của ông, là [tư
cách của một kẻ giả dối và rất kiêu căng, muốn chưng bày cái phong độ của người
“quân tử” theo “triết học Khổng giáo”].
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng
Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến
nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ
tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm.
Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, - theo tiếng
thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). - tôi
đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có
một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm
Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh,
thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có Micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ
ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy
lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ
gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp
kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn
giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số
diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết
trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất
lưu loát, văn hoa. Chúng tôi đứng trên chuồng gà im phăng phắc, nghe mê. Trừ cô
bạn cứ ho sù sụ, làm át cả tiếng nói của diễn giả. Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh
có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng
tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt
Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu thoát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm
Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ
sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông
đều là những bài ông đã viết đăng trong [Nam Phong,] và gom góp in ra thành
sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng rán để dành tiền mua sách của Phạm
Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi
cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc
văn sĩ tài hoa ấy.
Bởi sách học trong nhà trường không dạy cho chúng tôi hiểu biết
thêm mấy tí về các môn học thuật cao siêu của Đông Tây, nên chúng tôi đã noi
theo gương của ông Phạm Quỳnh mà tìm cách tự học thêm với các sách cổ kim Âu Á.
Nhận thấy ông Phạm Quỳnh đã trở nên nhà học giả hiểu rộng biết nhiều, tư tưởng
và học thuật uyên thâm, nên bọn trẻ sinh viên của thế hệ chúng tôi đã say mê
văn hóa, và theo vết chân của bậc tiền bối mà lo tự học, để làm giàu cho trí
óc.
Về phương diện thuần túy học thuật và Văn hóa, chúng tôi đều
biết ơn ông Phạm Quỳnh, cũng như ông Nguyễn Văn Vĩnh vậy.
Năm 1936, có dịp đi Huế, kẻ tiện sĩ này có đến thăm ông Phạm
Quỳnh, Thượng Thư Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Nói đến yết kiến ông, nhưng sự thực là
có mục đích hỏi ông tại sao ông lại sửa đổi chương trình giáo dục ở các lớp sơ
học, làm đình trệ bước tiến của thế hệ thiếu niên mới.
Tôi đi lang thang vô thành nội, tìm đến cửa Hòa Bình. Tôi ái
ngại bước vô cửa, gặp một người lính lệ, liền đưa danh thiếp. Chỉ e ông Thượng
Thư kiêu hãnh không tiếp mình.
Nhưng ông cho mời vô. Ông mặc xa tanh đen, đeo thẻ ngà tòn
ten trên ngực, chân vẫn mang đôi giày escarpin đen, mắt vẫn đeo đôi kính trắng
gọng vàng. Và ông vẫn nói tiếng Pháp.
Nghe ông thuyết một hồi hâu, tôi có cảm tưởng rằng vị Học giả
này làm Đại thần bên cạnh nhà Vua, hình như không muốn cho thanh niên Việt Nam
học giỏi như ông. Ông công kích những người học giỏi, du học ở ngoại quốc về,
như Nguyễn Mạnh Tường, Lê Văn Kim. Ông muốn có một nền Quốc học thu hẹp trong
phạm vi Annam mà thôi. Ông muốn đem cái học Tống Nho, với mớ đạo lý Khổng Tử, Mạnh
Tử, mà áp dụng theo môn học thuật đời nhà Tống, để đào tạo một lớp Tống Nho Việt
Nam, dung hòa với một ít học thuyết Descartes… Ông muốn kéo thanh niên trí thức
Việt Nam giật lùi lại vài ba thế kỷ, không cần tiến lên theo trào lưu Văn hóa
Âu châu. Tôi hoàn toàn không đồng ý với ông về chủ trương phản tiến bộ ấy.
Tuy vậy, khi tôi nghe Phạm Quỳnh bị giết ở Huế,
tôi thật bùi ngùi cho số phận của con người tài ba lỗi lạc. Tôi quen nhiều với
người rể của ông là Tôn Thất Bình, chủ bút báo [La Patrie Annamite] và giáo sư
trường Thăng Long. Tôi quen biết con trai của ông là Phạm Bích, cử nhân luật,
năm 1948 khi ông làm Bí thư của Bảo Đại, ở Đà Lạt. Hai người này đáng mến, mặc
dầu không biết tí gì về Văn học cả, nhưng người con trai khác của ông là Phạm
Giao thì chỉ là một tay ăn chơi không được tích sự gì.
Phạm Quỳnh chính là đúng vao câu châm ngôn “Cha làm thầy mà
con bán sách”.
Nếu ông Phạm Quỳnh đừng xen vào chính trị, đừng hãnh diện làm
kẻ tôi tớ của chính sách thuộc địa Pháp, nếu Phạm Quỳnh đem hết trí thông minh
lớn lao và tài văn nghệ rất hoạt bát của ông để phụng sự hoàn toàn cho Văn học
Việt Nam, thì chắc là ông đã để lại một sự nghiệp Văn Hóa vĩ đại vô kể, và
thanh danh của ông đâu còn bị một vết nhơ?
Thật đáng tiếc thay!
@tua=So sánh Nguyễn Văn Vĩnh với Phạm Quỳnh
Giới trí thức Hà Nội Tiền Chiến thường so sánh hai nhân vật
này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh
chủ trương [Bảo Hoàng,] yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước
Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kì,
theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi
là “Constituion PhamQuynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kì một
chính sách mà ông gọi là [Administration Directe] (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ
ngôi Vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của
nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của Nhân dân bầu cử.
Dĩ nhiên, người Pháp theo Phạm Quỳnh.
Cuộc “Bắc tuần” ra Hà Nội của Bảo Đại và, kế sau đó vài năm,
của Nam Phương Hoàng hậu, đồng thời sự ban chức rất lố bịch cho viên Thống Sứ
Pháp làm [“Khâm sai Đại thần”,] đại diện uy quyền Bảo Đại ở Bắc Kì, chính là để
khởi điểm cho chính sách Bảo hoàng của Phạm Quỳnh.
Chủ trương “Trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả
kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp
[France-Indochine] ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút
báo [L’annam Nouveau,] Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion
D’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không
hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự
khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion D’Honneur” của
Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên nhiệt liệt hoan
nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy Văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh
cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
[Nam Phong Tạp chí,] nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ
thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền
Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn
hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt, khác hẳn
lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp
cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm [L’annam Nouveau] và cựu Chủ bút [Trung Bắc
Tân văn, Đông Dương Tạp chí,] thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với
truyền thống hài hước, của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít
điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm
và văn chương hao mĩ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông,
cũng như họ thích những kinh nghiệm về Văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở,
bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh.
Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng
cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà
quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng
lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là [“Kính trắng Tiên
sinh”] và [“Học phiệt”.]
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi
xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và
có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải
lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn
túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng
lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt,
đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực:
Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền
cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị thủ tiêu vô cùng thê thảm, như một
tên Việt gian khốn nạn.
Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp Văn chương rủ một
người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ
vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa Quê hương, gia đình, bạn
hữu, như một “bô hê miên” bất cần định mạng.
4. VŨ TRỌNG PHỤNG
1937. Đọc được 7 trang trong quyển “Lục Xì”, tôi vứt sách xuống
đất, bảo anh Minh Phụng, nhà xuất bản, ở ngõ Văn Tân, phố Hàng Đẫy:
- Sao lại có cái thứ văn bẩn thỉu thế này?
Minh Phụng cười:
- Anh đã đọc hết quyển sách chưa?
- Đọc bảy trang cũng như đọc hết rồi.
- Thế là anh lầm! Sách khác đọc 7 trang có thể nói là học hết;
chứ sách của Vũ Trọng Phụng, đọc hết quyển sách chưa chắc là đã đọc được trang
nào! Huống chi anh mới đọc có 7 trang!
Minh Phụng vừa pha xong trà “Chính thái” vào chén nhỏ, mời
tôi. Hơi bay lên, mùi trà thơm phức. Hôm ấy là ngày giỗ Bà Cụ thân mẫu của anh
Minh Phụng. Cúng xong, anh bưng đỉnh trầm để trên bàn khách. Tôi ngạc nhiên sao
khách không có ai nữa mà chỉ có một mình tôi. Nhà xuất bản rung đùi, cất tiếng ồ
ồ ngâm Kiều:
- “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình!...”
Tôi cắt ngang:
- Giờ phút này, ngồi với anh, tôi khẳng nhớ và cũng chẳng có
tình tự với ma nào cả!
Sự thật thì hôm ấy tôi có nhiều chuyện buồn, cực chẳng đã anh
Minh Phụng từ chiều hôm trước, đã bảo tôi sáng nay đến dùng cơm với anh thì tôi
mới đi.
Tôi lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển [Lục Xì] vào trong xó
tường. Quyển sách mới xuất bản, hãy còn mới tinh nằm xác xơ bên chân tủ.
Nhà xuất bản Minh Phụng là một nạn nhân. Anh cười:
- Hôm nay, tôi chỉ mời có hai người bạn tôi quý nhất, nhưng
có lẽ hai anh chưa quen với nhau.
- Ai thế anh?
- Vũ Trọng Phụng, tác giả quyển sách vừa được hân hạnh nếm
cái mùi đôi giày há mồm của anh đó. Hình như anh chưa gặp Phụng lần nào, phải
không?
- Chưa.
- Tôi biết thế nên muốn nhân dịp hôm nay có kị cơm bà Cụ tôi,
và quyển [Lục Xì] của anh Phụng ra đời, tôi giới thiệu anh và Vũ Trọng Phụng để
xem hai người bạn khó tính nhất trong làng Văn, và lại là hai người bạn quí mến
nhất của Minh Phụng, sẽ đón tiếp nhau như thế nào.
Tôi biết Minh Phụng thích khôi hài. Người anh cao ngòng, như
chàng Double-Patte trong màn ảnh. Hai con mắt ốc bươu. Mỗi lần anh ngó tôi là
tôi có cảm tưởng như anh sắp nuốt sống tôi trong hai con ốc bươu ấy vậy. Anh ngồi
nhìn quyển sách của Vũ Trọng Phụng, do anh xuất bản, vừa mới in xong, và anh lấy
về quyển đầu tiên, không dè bị tôi đá lăn cù vô xó nhà. Anh tủm tỉm cười:
- Tôi sẽ ghi trong quyển nhật kí của tôi câu chuyện xảy ra
hôm nay về quyển [Lục Xì] để sau làm giai thoại.
Rồi anh ngó đồng hồ:
- Phụng cứ hay đến trễ, mỗi khi tôi mời ăn cơm. Tôi mời đúng
11 giờ, thì 11 giờ 30 hắn mới đến. Còn hễ khi nào hắn đòi tiền bản quyền sách,
tôi hẹn đúng 11 giờ thì chín giờ hắn đã lót tót đến rồi.
Minh Phụng cười ngó tôi:
- Anh cũng thế chứ gì! Hôm nọ về tiền bản quyền [Đứa con
hoang,] tôi hẹn anh 6 giờ chiều, 2 giờ anh đã dời gót ngọc đến gõ cửa tệ xá.
Làm tôi đang ngủ trưa, phải bò dậy để đi chạy tiền trả cho anh!
- Đồng hồ của tôi lúc ấy là 6 giờ!... Tôi cười bảo:
- Thôi đi bố ơi! Đồng hồ của các bố nhà văn sao mà khôn thế?
Của người ta 2 giờ, mà đồng hồ nào của các bố cũng là 6 giờ tất. Bố, hay Bố Phụng,
Bố Trương Tửu, đều thế cả!
Chúng tôi cười hà hà. Ngoài sân, một chàng xô cổng sắt đi
vào. Chàng mặc áo quần cũ mèm cũng như tôi, tóc chải rẽ một bên, người dong dỏng
cao và gầy, mặt hình chữ nhật, hốc hác, trông tiều tụy.
- Bác định cho tôi ăn cơm trưa nay phải không?
- Vâng, hôm qua con đã mời bố ạ!
- Bác bảo với tôi là mấy giờ?
- 11 giờ. Bây giờ là 12 giờ.
- Mình đã lỡ hẹn với Lê Cường là 11 giờ mình đến lấy món tiền…
- Đã lấy chưa?
- “Moa” đến từ 9 giờ, hắn đi vắng thế nào mà mãi đến 11 giờ
chưa về!
- Thì chiều hãy đến Lê Cường vậy! Thôi, mời bố ngồi đây… Bố
có biết ai đây không?
Tôi đứng dậy bắt tay chàng và tự giới thiệu. Chàng nhã nhặn
xưng tên:
- Thằng Vũ Trọng Phụng đây!
Chàng nói mà không cười, Vũ Trọng Phụng nghèo thì ai cũng biết,
nhưng có ai biết là anh nghèo cả nụ cười không?
Minh Phượng bảo:
- Quyển [Lục Xì] đã in xong. “Moa” có lấy vế một quyển để
“toa” xem,
- Đâu?
Minh Phượng quay ngó xó tường tít đằng xa:
- Đấy!
- Sao nó nằm đấy?
- Vỹ vừa mới bảo Văn chương Lục Xì bẩn hơn cái mũi giày há mồm
của hắn. Hắn cho sách câu vào nằm đấy đấy.
Vũ Trọng Phụng điềm nhiên ngó tôi:
- Anh Vỹ nói thế thì tôi phục. Hôm nọ, tôi đưa bản thảo cho
Lan Khai đọc, nó chỉ biết khen nịnh tôi, là hay, là kiệt tác. Tôi bảo với Lan
Khai là hắn không biết thưởng thức [Lục Xì.] Bảo như Nguyễn Vỹ, là văn chương Lục
Xì bẩn, thế mới là biết thưởng thức Lục Xì. Thằng Phụng viết Lục Xì để tả cái bẩn,
mà đứa nào bảo Lục Xì thơm thì đứa ấy ngốc. Thế là nó chửi ngòi bút của tôi đấy.
Tôi tả cái bẩn mà anh ghê tởm được cái bẩn ấy, thế mới là anh nhận chân được
cái giá trị văn chương của [Lục Xì.]
- Tôi mới đọc có 7 trang…
- Cái xã hội này bẩn quá, Vỹ ơi! Tôi biết đem những cái bẩn
đó mà dồn vào một trăm trang sách thì chưa hết được cái bẩn của xã hội hiện giờ.
Nhưng với tụi mình, 7 trang như thế cũng đủ chán. Anh không cần đọc thêm nữa.
Vũ Trọng Phụng đứng dậy đi lượm quyển sách trong xó nhà. Anh
hỏi Minh Phượng:
- Quyển này là quyển đầu tiên trong nhà in bác lấy ra đấy chứ?
- Vâng.
- Để tôi biên mấy chữ tặng anh Nguyễn Vỹ hôm nay. Anh cho tôi
quyển khác.
Hai giờ chiều ra về, Phụng bảo tôi:
- Hôm nào rỗi, anh đến nhà tôi chơi.
Gần hai tháng sau, tôi mới có dịp đến thăm anh. Một căn nhà
chật hẹp ở phố Hàng Bạc. Anh ở trên gác, gác còn thật hẹp hơn. Tôi leo lên cầu
thang gỗ, một cửa sổ vuông có dựng song, để lọt vào một vài thước khối ánh sáng
vàng khè. Phụng đang ngồi viết nơi chiếc bàn con, trên bàn để các thứ đồ dùng:
một cây đèn với một cái bóng đầy khói chụp lên một đốm lửa xanh gần như hấp hối,
bát, đũa, vài ba lọ thuốc Tây, thuốc Tàu, bình mực, giấy, bút, hộp đồ may, cái
áo trẻ con, một trái bưởi…
Tôi ngồi trên ghế dài, mở nắp bình tích tự rót nước vối ra li
để uống, khỏi làm rộn đến chị Phụng. Chị sắp sửa đi đâu với đứa con nhỏ. Phụng
hỏi tôi:
- Anh có con chưa, anh Vỹ?
- Tôi là con của tôi rồi, còn có con làm gì nữa?
- Thế thì anh sướng. Tết Trung Thu sắp đến đây, anh khỏi phải
sắm cái đèn con cá cho anh.
- Con của anh chưa có đèn Trung Thu à?
Phụng chỉ đưa tờ giấy đang viết dở trên bàn:
- Tôi viết bài này định đem cho [Tiểu thuyết thứ bảy] để lấy
tiền mua đèn con cá cho con tôi. Có con phải nuôi con, thế là thường, nhưng có
con lại còn phải sắm đèn con cá cho nó chơi, nếu không, Tết Trung Thu này tôi
không phải là cha của nó nữa! Anh nghĩ thế có buồn không?
- Nó đòi cái đèn con cá hả?
- Nó không đòi. Con tôi chẳng bao giờ biết đòi tôi cái gì cả.
Ấy thế mình mới đau lòng! Anh nghĩ xem. Chung quanh hàng phố, tất cả con nít
nhà người ta đều đã có đèn chơi Trung Thu. Duy chỉ con mình là không có. Cả
ngày nó cứ ngắm nghía thèm thuồng các thứ đèn giấy của lũ con trong hàng phố được
cha mẹ của chúng mua sắm cho. Nó mơ ước được một cái đèn như thế, để chơi như
con người ta. Nó muốn quá cho đến đỗi nó buồn bã không chịu ăn cơm. Mẹ nó hỏi
nó: “Con thích chơi cái đèn gì?”. Nó vui mừng trả lời ngay: “Con thích cái đèn
con cá”. Tội nghiệp cho nó, nó tưởng nó thích thế thì mẹ nó đi mua cho nó chơi.
Nhưng mẹ nó làm gí có tiền! Không có tiền mua một con cá thật để ăn thì nó ăn
rau với đậu phụ được, chứ một con cá bằng giấy mà cũng không có tiền để mua cho
nó chơi, thì nó biết chơi cái gì trong ngày Tết Trung Thu với trẻ con hàng phố?
Anh xem, có tội nghiệp cho nó không!
- Hôm nay chị Phụng dắt cháu đi mua đèn con cá phải không?
- Nếu thế thì tội gì tôi phải ngồi viết mấy trang giấy này!
Tôi ốm mấy hôm nay, anh Vỹ à. Nếu anh đến lúc nãy thì anh đã thấy tôi sốt rét nằm
li bì trên ván ngựa, chắc là không thể ngồi dậy để tiếp anh. nhưng chỉ còn hai
ngày nữa là Tết Trung Thu, tôi thấy con tôi muốn cái đèn con cá chơi đáng giá
năm hào chỉ, chứ có nhiều nhõi gì mà chúng tôi không có tiền để mua cho con chơi.
Trông thấy nó buồn bã, thèm muốn cái đồ chơi ấy quá mà không dám đòi, tôi phải
gượng ngồi dậy viết một bài này để lấy tiền mua cho con cái đèn con cá.
- Anh viết xong chưa?
- Vợ tôi không cho tôi viết. Nó dắt thằng nhỏ đến nhà bà chị
họ ở phố hàng Cau để vay tiền… Nhưng tôi biết là không vay được, vì gia đình
nhà ấy không ưa tôi.
- Thôi anh nằm nghỉ. Khỏe rồi hãy viết.
- Anh nằm xuống, đọc tôi viết cho. Anh đã viết được mấy
trang? Còn mấy trang nữa?
- Cảm ơn anh. Nhưng tôi không thể đọc được.
Tôi rờ tay Vũ Trọng Phụng. Nóng như lửa. Nhưng anh can đảm đứng
dậy, lấy hai viên prémaline uống một lúc. Tôi ra về để cho anh viết.
Đêm Trung Thu tôi trở lại thăm Vũ Trọng Phụng. Trước cửa nhà
anh, một đoàn nhi đồng vui vẻ kéo đi diễu chơi qua phố, mỗi em cầm một cái đèn
giấy. Thằng con của Vũ Trọng Phụng cầm cái đèn con cá, đi hàng đầu. Nó giơ cái
đèn lên thật cao, miệng cười hí hớn. Bên cạnh nó có hai đứa bé vừa đi vừa đánh
trống theo sau con lân nho nhỏ, múa qua múa lại thật là cuộc vui náo nức của
các em.
Tôi lên trên gác. Vũ Trọng Phụng đang nằm trùm mền, người anh
nóng ran, có đến 39 độ. Chị Phụng đã chạy đi mua thuốc chưa về.
1938. Nhờ một người bà con giúp vốn, chị Phụng mở một cửa hàng
nho nhỏ, bán sách báo ở đầu phố hàng Nón. Tôi không gặp Vũ Trọng Phụng lúc này,
nhưng có lẽ dạo ấy anh đỡ khổ.
Phụng ít có bạn bè. Anh thường chơi với Nguyễn Triệu Luật, Vũ
Bằng, Lan Khai, nhất là Lan Khai. Thỉnh thoảng tôi gặp anh với Lê Tràng Kiều, Lưu
Trọng Lư. Anh không ưa các nhà văn nhóm [Phong Hóa.] Anh ghét nhất Thế Lữ và
Nguyễn Tường Tam, nhưng có cảm tình với Khái Hưng.
Anh nói chuyện khẳng khái, lại ưa mỉa mai chua chát. Thỉnh
thoảng, anh thích nói khôi hài, nhưng tôi chưa thấy Phụng cười lần nào. Một hôm
10 giờ sáng, anh đến nhà Minh Phượng đòi tiền bản quyền sách mà nhà xuất bản
còn thiếu anh. Minh Phượng đã khất với anh ba bốn lần rồi. Lần sau cùng, anh đến
gặp bà vợ Minh Phượng, Minh Phượng đi vắng, bà bảo anh đi chơi một lúc rồi độ
11 giờ trở lại. Anh tức mình viết mấy chữ trên miếng giấy để lại cho Minh Phượng:
[“Tôi đến mấy lần, vợ anh đều cho tôi đi chơi”.]
“Vợ anh cho tôi đi chơi”, là Phụng nói theo tiếng Pháp
[“Votre femme m’envoie prommener”] nhưng theo lối nói mánh lới của tiếng Việt
thì chữ “chơi” có nghĩa tục.
Minh Phượng đưa giấy ấy cho tôi xem, mặt anh đỏ gay, anh bảo:
- Vũ Trọng Phụng đểu giả thật!
Tôi cười:
- Tại vợ anh… cho hắn đi chơi, chứ đâu phải tại hắn.
Đám ma Vũ Trọng Phụng
1939. - Tôi đi lang thang dọc theo bờ Hồ Hoàn Kiếm. Bóng tối
phớt qua chầm chậm dưới bóng rặng dương liễu buông rũ mành tơ trên mặt nước.
Tâm hồn tôi cũng chầm chậm phớt qua như con chim xanh kia, trên mấy ngọn lá
vương mây. Nhưng con chim đã hót lên một bài thơ ấm áp mà tâm hồn tôi sáng hôm
nay không hát được một bài thơ.
Trời vẫn đẹp. Hà Nội buổi mai khoác một chiếc áo nắng màu hồng,
như chiếc áo cưới Sớm mai nào tôi cũng yêu Hà Nội duyên dáng khoác chiếc áo cưới
hoa lệ của nàng. Tôi yêu Hà Nội, nàng thơ lãnh đạm kiêu căng của tuổi niên hoa.
Nhưng sáng nay tôi ghét Hà Nội vô cùng. Tôi lánh xa trong bóng liễu, vì tôi
không muốn nàng khoác chiếc áo tơ hồng trơ trẽn trên tôi. Tâm hồn tôi u ám lạ!
Tôi ngồi xuống gốc liễu.
- Kìa! Đứa nào ngồi kia phải hắn không?
Tôi nghe tiếng Lưu Trọng Lư rủ rỉ như tiếng gió:
- Vỹ ơi!
Chuyến tàu điện ở Cầu Gỗ hình như sắp chạy. Nguyễn Nhược Pháp
trên tàu nhảy vọt xuống, băng qua đường ra đến cây liễu, nắm tay tôi, kéo tôi đứng
dậy. Tôi không sao quên được nụ cười ảm đạm trên môi anh. Không nói năng một tiếng,
tác giả bài thơ [“Đi Chùa Hương”] đưa tôi lên tàu điện. Đi đâu? Bốn người đã ngồi
trên ghế, riêng một bên, có lẽ đã hẹn nhau từ hôm qua, như một âm mưu của im lặng.
Lưu Trọng Lư, nét mặt xương xương, đôi mắt đục ngầu, áo quần màu xám không ủi.
Lan Khai ủ rũ với cặp kiếng cận thị, hai má trắng bệch như vôi. Trương Tửu mắt
đỏ, tai đỏ, tóc như chiếc bàn chải muốn quét một bóng mây đen trên vòm trán của
chàng. Mộng Sơn với một con mắt có vảy, môi không son, má không phấn, mặc áo
đen quần đen. Nàng đưa nét mặt buồn tuyệt đẹp, ngó tôi, nói rất nhỏ:
- Anh đã hay tin… Vũ Trọng Phụng chưa?
Tôi không muốn trả lời, ngồi xuống cạnh nàng. Nhược Pháp ngồi
cạnh Lan Khai.
Từ một tuần lễ, tôi đã biết Vũ Trọng Phụng đau nặng, chỉ chờ
chết. Tôi không muốn đến thăm, vì tính tôi như thế. Trông thấy cảnh tượng đau đớn,
tôi chịu không được. Tôi nhìn những đau khổ riêng của tôi, rất bình tĩnh, lạnh
lùng, nhưng tôi không có can đảm chứng kiến đau khổ của một người khác. Trông
thấy bộ mặt âm thầm lặng lẽ của bốn người bạn này, tôi không cần trả lời câu hỏi
bùi ngùi của Mộng Sơn. Tôi cúi mặt xuống, châm điếu thuốc hút. Hai dòng nước mắt
tự nhiên chảy xuống đôi má tôi, rớt xuống hai giọt làm tắt điếu thuốc tôi đang
cầm nơi tay. Cả năm người đều không nói.
Một chuyến tàu tên là Im lặng…
Tàu điện chạy qua hàng Gai… Hàng Bông. Đến vườn hoa Cửa Nam,
nó đỗ một phút. Nguyễn Tuân bước lên với một nụ cười. Chỉ có một Nguyễn Tuân cười
mà thôi, nhưng nụ cười [“vang bóng một thời”,] xa xăm từ vạn cổ. Tuân ngồi cạnh
Nguyễn Nhược Pháp, với vẻ trịnh trọng, không cười nữa.
Tôi không nhớ ai hỏi:
- Ai làm bài điếu văn bây giờ nhỉ?
Tôi cũng không nhớ ai trả lời. Một người trả lời, và tất cả đều
gật đầu đồng ý. Tôi vẫn làm thinh.
Sáng nay, đi lang thang dưới bóng liễu, tôi có cái buồn
riêng, chứ chưa biết là Vụ Trọng Phụng đã chết ngày hôm qua. Bây giờ anh em rủ
nhau đi chuyến tàu điện buổi sáng sớm này, tôi mới biết là chúng tôi đi đưa đám
ma. Nhưng ngồi trên tàu điện mà bảo tôi làm bài điếu văn, thay mặt mấy anh em bạn
thân của Vũ Trọng Phụng, để chốc nữa, 8 giờ, đọc cho Phụng nghe dưới huyệt mả,
thì thật là…
Tôi bảo:
- Đến giờ phút này, các cậu mới sai tôi viết bài điếu văn
khóc Vũ Trọng Phụng?
Nguyễn Tuân còn trào phúng lố lăng:
- Tàu đến croisement Thái Hà ấp, cho thằng Vỹ xuống để nó lên
Gò Đống Đa ngồi viết, cho kịp chuyến tàu sau nó lên, thì quan tai của thằng Phụng
cũng vừa đến nghĩa địa, không trễ đâu, tụi bây.
Lan Khai bảo:
- Ngồi ngay trên tàu này viết không được sao?
Nguyễn Nhược Pháp cười tủm tỉm, nụ cười mím môi bất hủ của
chàng. Anh móc cây bút máy trên túi áo đưa tôi:
- Đây viết đi, cậu.
Lưu Trọng Lư hỏi:
- Đứa nào có miếng giấy lộn nào đó không, đưa cho nó, chứ nó
viết bằng gì?
Lan Khai thò tay vào túi áo, móc ra bốn tấm giấy nhầu nát
trao tôi: đây là hai mảnh giấy của một bà nào đó gởi đòi nợ anh, một mảnh thứ
ba không biết anh làm bài toán gì mà viết dày đặc những bài toán cộng, toán trừ,
có lẽ là tính tiền nhà, tiền cơm, còn mảnh giấy thứ tư là bức thư của một cô
tình nhân gửi cho chàng hôm chủ nhật trước.
Tôi khẽ đập đầu cán bút vào hai răng cửa của tôi, kêu “cóc,
cóc, cóc”… Mộng Sơn mỉm cười quay lưng lại tôi.
- Để tôi cho mượn cái lưng làm mặt bàn.
Tôi đặt tờ giấy trên lưng nàng, nguệch ngoạc mấy câu trong
lúc tàu đang chạy rầm rầm:
[“Vũ Trọng Phụng ơi!”]
Tàu chạy đảo qua đảo lại nghiến trên đường rầy.
Cái lưng mặc áo hàng đen của Mộng Sơn lắc lại lắc qua. Nàng thơ cố gắng
ngồi thẳng lưng, tôi bảo:
- Khòm xuống một tí…
Cái lưng khòm xuống một tí. Tôi viết tiếp:
[“Chúng tôi, những nhà văn đứng xúm quanh huyệt mả của anh đây,
- chúng tôi thề rằng linh hồn của anh…”]
Đám ma của Vũ Trọng Phụng lặng lẽ đi vào nghĩa địa, ở giữa
quãng đường tàu điện Hà Nội - Hà Đông. Vài hạt sương còn long lanh trong lòng cỏ
hai bên vỉa đường. Tàu điện vừa đỗ, Lưu Trọng Lư muốn giựt bốn tờ giấy trong
tay tôi vừa viết xong.
Cả nhóm đều dừng bước, để xem bài văn tế…
Nguyễn Tuân hỏi:
- Cậu viết xong chưa?
Tôi nhét bốn tờ giấy vào túi:
- Tao không cho đứa nào coi cả. Tao viết cho Vũ Trọng Phụng,
một mình Vũ Trọng Phụng sẽ nghe trước mà thôi.
Lưu Trọng Lư bảo:
- Mày xoàng lắm, tàu chạy gần 10 cây số, mà mày mới viết được
bốn trang?
Chúng tôi im lặng, không đùa được nữa. Sắp hàng hai, chúng
tôi bước chậm chạp theo sau đám ma vào nghĩa địa. Đi sát cạnh quan tài, chị Phụng
khóc nức nở. Mấy đứa con của Phụng, còn nhỏ quá, mặc đồ tang đi theo sau, khóc
sướt mướt. Tim tôi rỉ rả, âm thầm, chậm chạp, như đám ma đi trong ấy.
Quan tài hạ huyệt, Nguyễn Tuân khẽ đẩy tôi ra để thay mặt anh
em làng Văn, đọc bài vĩnh biệt.
Lần đầu tiên tôi nghe Nguyễn Tuân khóc. Anh khóc như người ta
hút thuốc phiện, từng cơn, chậm rãi, đều đều…
Lưu Trọng Lư cũng thút thít bên cạnh tôi, làm tôi đọc không
được. Tôi quay lại khẽ bảo:
- Yên, cho tôi đọc chứ!
Tôi chỉ nói ấm ức mấy tiếng nữa rồi nghẹn ngào. Nước mắt trào
ra. Ông Vũ Đình Long, chủ nhiệm [“Tiểu thuyết thứ bảy”] lấy xấp giấy của tôi, đọc
tiếp ba trang chót…
Vũ Trọng Phụng chết đêm thứ sau 13-10-1939.
Trang đầu bài điếu văn:
[“Vũ Trọng Phụng ơi!]
[Chúng tôi, tất cả những nhà văn đứng xúm quanh mả anh đây,
chúng tôi thề rằng Linh hồn của Vũ Trọng Phụng và Linh hồn của các bạn đã qua đời,
Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Văn Vĩnh… sẽ được tôn sùng xứng đáng.]
[Thế hệ các Văn nhân còn sống sót lại đây sẽ tạc cho các anh
một pho tượng.]
[Chúng tôi sẽ lập tên, để thờ các anh, một ngôi đền.]
[Chúng tôi sẽ gây lên một phong trào cho Quốc dân được biết,
và yêu, và kính trọng tất cả những người thợ có chân tài đã đắp một viên gạch
xây nền Văn học Quốc gia…]…
Nguyên văn bài này. Ông Vũ Đình Long có đăng lại đầy đủ trong
Tạp chí [Tao Đàn] của ông, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, số 14 trang 11, 1939.
Câu đối của Tchya khóc Vũ Trọng Phụng:
[“Trời hỡi! Ông sao ác quá chi, nặng nghiệp văn nhân, chết vẫn
ngậm hờn chưa đạt chí,]
[Phụng ơi! Anh nỡ lòng bay vội mấy, đau lòng mặc hữu, sống còn
sợ nỗi khó an thân”.]
Câu đối của Lan Khai chép trong nhật ký:
“Thằng Phụng chết rồi, đau nhé Lan Khai, ngồi nhớ bạn, xem
hình, lòng mủi lệ!
Bọn mình sống sót, nói như Nguyễn Vỹ, muốn lập đền, xây tượng,
túi không xu!”
Tác phẩm Vũ Trọng Phụng
Văn chương của Vũ Trọng Phụng phản ánh đặc biệt nếp sống và
ngôn ngữ bình dân miền Bắc, lối ngôn ngữ trào lộng, mỉa mai, lúc tế nhị thì thật
tế nhị, nhưng khi chát chúa thì không gì chát chúa bằng.
Con người Vũ Trọng Phụng không thể viết lối văn nào khác được.
Nét mặt xương xương, đôi mắt sáng quắc, nhưng đôi môi khô khan ít khi nở được một
nụ cười vui tươi chân thật. Có cười chăng, cũng chỉ là một nét cười mỉa mai
chua chát.
Đôi khi cũng là một nụ cười cay cú. Cả trong những buổi tiệc
mà ai nấy đều vui vẻ, Vũ Trọng Phụng vẫn trầm ngâm, ít thông cảm, không cởi mở.
Cho nên anh ít chơi thân với ai, trừ Nguyễn Triệu Luật (anh này từ điệu bộ đến
ngôn ngữ, giống na ná anh Lê Ngọc Trụ ở Sài Gòn) và Lan Khai, Vũ Bằng. Hôm Phụng
chết, Lan Khai xúc động, sẵn bút máy, đứng vẽ chân dung tác giả “Số đỏ” nằm
trên giường chết. Nét vẽ đó rất giống Vũ Trọng Phụng.
Nhà văn của giới dân nghèo, dân thợ, Phụng lại không ưa làm
chính trị và không thích giao thiệp với nhóm nhà báo Cộng sản, như Chất, Kính,
Trần Huy Liệu. Anh phê bình mấy người đó là “đầu cơ dân nghèo”. Một hôm trong
tòa soạn báo [Tương lai] của Nguyễn Triệu Luật, Chất đi đâu ghé vào chơi, và
trong một câu chuyện về thời sự, anh nhà báo Cộng sản này phê bình [Phan] Bội
Châu là [Phản] Bội Châu, và chưởi cụ Phan thậm tệ. Vũ Trọng Phụng ngồi im, chỉ
hút thuốc lào. Một lúc, anh đứng dậy ra đi, bắt tay mọi người, không thèm bắt
tay Chất. Cậu này mắc cỡ, gọi Phụng lại và đưa tay ra, nhưng Phụng bảo:
- Cậu đưa tay lên tát cái mồm cậu ba tát, rồi thằng Phụng sẽ
bắt tay cậu.
Nói xong, Vũ Trọng Phụng điềm nhiên bước ra cửa.
Vũ Trọng Phụng kể lại cho tôi nghe vụ đó một hôm ăn tiệc tại
Nhà Xuất bản Minh Phượng.
Văn của Vũ Trọng Phụng không màu mè, hoa mĩ như văn của Lan
Khai. Phụng viết rất giản dị, rất bình dân nhưng vô cùng thấm thía. Đọc nhiều
trang tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, tôi có cảm tưởng như đọc Jack London.
Trong lúc nói chuyện, Lan Khai thường nhắc lại một vài đoạn văn của “thằng Vũ
Trọng Phụng”, và cười ồ ồ lên, để tỏ ý phục cái giọng văn bao biếm thấm thía của
tác giả “Lục Xì”.
Vũ Trọng Phụng chết, chúng tôi thấy một trống rỗng lớn trong
làng văn Việt Nam ở những ngày tàn của thời đại Tiền Chiến… Không khí chiến
tranh đã bao trùm đất Thăng Long, “nghìn năm văn vật”…
5. LÊ VĂN TRƯƠNG
Mười một giờ đêm. Cả dãy phố cuối đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ
Dừa, đã đóng cửa hết. Trên gác trọ tiệm buôn nước mắm cạnh tiệm giặt ủi và trường
học [Thanh Niên,] tôi cũng vừa tắt đèn, lên giường nằm. Bỗng có tiếng từ dưới
đường gọi vọng lên, rất to:
- Vỹ ơi! Vỹ!
Tôi làm thinh, lắng nghe xem tiếng của ai. Gọi như thế, hẳn
là người bạn thân lắm, mà trong đám bạn thân có ai kém lịch sự đến thế?
- Vỹ ơi! Vỹ!
Rồi lại liên tiếp:
- Vỹ!... Vỹ ơi!... Vỹ!
Tiếng gọi thật to, vang động cả dãy phố. Tôi đã ngồi dậy định
ra mở cửa ngó xuống đường xem ai, thì kế tiếp vang lên một loạt văn chương chửi
thề:
- D… mẹ mày, sao hôm nay mày ngủ sớm thế, hả Vỹ?... Vỹ!... Vỹ
ơi! Dậy đi hát ả đào với tụi tao mày!
Thôi, đích thị là Lê Văn Trương rồi! Cái giọng chửi thề oang
oác lên như thế, chẳng sợ ai cười, bất chấp cả phép lịch sự đối với bạn bè, và
đối với người thiên hạ, không đếm xỉa đến hàng xóm láng giềng đang ngủ, chỉ có
Lê Văn Trương mà thôi.
Đáng lẽ tôi tức giận lắm. Nhưng nhờ tập được tính bình tĩnh,
tôi thong thả dậy đi mở cửa, ngó xuống đường. Vừa trông thấy tôi thò đầu ra,
anh chàng lại reo lên:
- Nó kia rồi ! Gớm, ngủ gì mà giờ này đã đi ngủ hả cậu? Vào mặc
quần nhanh lên đi Ngã tư sở hát ả đào chơi! Nhanh lên, tụi tao đợi xe đây!
Tôi đang mặc pi-gia-ma, sao Lê Văn Trương bảo tôi vào mặc quần?
Tôi xấu hổ quá. Ai lại nói đùa gì mà tục tỉu thế bao giờ, mà
lại la to tên cho cả dãy phố đều nghe? Nhưng tôi vẫn điềm tĩnh, đứng trên bao
lơn, ngó xuống. Hai chiếc xe kéo Omic (loại xe kéo tân thời nhất ở Hà Nội lúc bấy
giờ) chở ba người, đang đứng chờ. Tôi hỏi khẽ:
- Lê Văn Trương đấy à?
Lê Văn Trương vẫn rống to lên, chẳng kiêng nể ai:
- Ừ, tớ đây! Có cả thằng Lan Khai, thằng Nguyễn Tuân nữa.
Chúng nó đang chờ mày cả đây.
Tôi vẫn khẽ giọng:
- Xin lỗi các anh, tôi ốm không đi được. Cho phép tôi ở nhà.
Lan Khai cười khàn, nhưng không la to như chàng Trương.
- Om thì xuống Ngã tư sở có các em thoa bóp cho.
Tuân nói:
- Thôi tụi mình đi. Đừng phá nó.
Tôi đưa tay lên vẫy chào:
- Cảm ơn. Xin lỗi các anh nhé! Mình đi ngủ đây.
Tôi vào phòng đóng cửa mà cũng còn nghe tiếng Lê Văn Trương
nói oang oang trên xe, khi xe đã chạy:
- Đ… mẹ cái thằng, sao hôm nay nó ngủ sớm thế?
Lê Văn Trương như thế đấy. Rất vui tính, rất tốt, ăn to, nói
lớn, mà nói luôn mồm, chuyên môn nói phét, nói tục, nhưng thành thật, ngay thẳng,
không làm hại ai cả.
Chơi với bạn, phải hiểu tánh nết của bạn, luôn luôn tha thứ
những nhược điểm của bạn, lúc nào cũng mến bạn, đó là phương châm xử thế của
chúng tôi. Có lẽ nhờ sự thông cảm lẫn nhau, đó mà một số nhà văn chơi được lâu
với Lê Văn Trương, con người rất ồn ào, “ba hoa thiên địa”. Những người điềm đạm
như Họa sĩ Nguyệt Hồ lại thường phê bình Lê Văn Truơng bằng một câu: Mửng ấy
“nan du” lắm! (1) (1) Khó chơi (tiếng nói đùa).>
Lê Văn Trương nói chuyện thế nào, thì viết tiểu thuyết cũng y
như thế. Có thể nhận xét rằng: Lê Văn Trương là một cái máy nói ra một cái máy
viết. Anh sang Gia Lâm ở nhà Trương Tửu, trong một tháng viết liên tiếp 3 quyển
tiểu thuyết, không ngưng tay. Đó là Trương Tửu nói lại với tôi, và tôi cũng tin
là đúng. Có lần tôi ngồi với Lê Văn Trương, suốt trong hai tiếng đồng hồ chỉ
nói được một câu, còn thì Lê Văn Trương nói cả. Nói liên miên, và liên miên…
Anh ta ưa dẫn chứng những câu triết lí của vài danh nhân xưa
mà anh ta đã học. Câu chuyện của anh thường được tô điểm với các tư tưởng xô bồ,
các danh ngôn lẫn lộn của Platon, Socrate, Vương Dương Minh, Nguyễn Du, Musset,
Goethe, Byron, Hồ Thích, Đỗ Phủ, Tolstoi, v.v… gặp đâu nói đấy, nhớ gì nói nấy,
nhiều khi chẳng ăn khớp vào đâu với đâu cả.
Người ít học ngồi nghe Lê Văn Trương, chẳng biết đâu mà rờ.
Người có học ngồi nghe anh, cũng… chẳng biết đâu mà rờ! Vì anh nói lung tung,
loạn xị xà bần, đến nỗi nhiều khi anh tự mâu thuẫn với anh mà anh không biết.
Tuy vậy, Lê Văn Trương vẫn là một “người của nguyên tắc”, ngồi
vững trên nguyên tắc như ngồi trên yên ngựa, chứ không chịu phóng túng, không
ưa lãng mạn, không vượt qua các thành kiến sẵn có của tập quán. Anh hào hoa,
cương trực, có vẻ anh hùng mã thượng lắm, nhưng tính lại nhát như thỏ, mềm như
sứa.
Hồi làm báo [Ích Hữu] của Vũ Đình Long, Lê Văn Trương hay phô
trương [“triết lý sức mạnh”.]
Hồi đó [Ích Hữu] và [Phong Hóa] đang bút chiến với nhau kịch
liệt. Lê Văn Trương định dùng “triết lý sức mạnh” để thanh toán bọn Nhất Linh.
Anh muốn đấu gươm nữa kìa. Nhưng anh nói mà không làm.
1937, một buổi tối Lê Văn Trương có tiền xốc xếch trong túi,
rủ Trương Tửu và tôi đi “nhà hàng Mỹ Kinh”, một tiệm ăn sang nhất Hà Nội, phố
Hàng Buồm. Trong khi chờ dọn các món ăn, chúng tôi uống chút ít apéritif, và
nói chuyện phiếm. Tôi để ý ngay trước mắt tôi bốn thanh niên, có vẻ sinh viên
trường Cao đẳng, ngồi quanh một bàn nơi góc phòng, đang ăn và cười đùa vui vẻ,
bỗng im lặng nhìn chúng tôi và nói xầm xì. Tôi có cảm tưởng là họ biết chúng
tôi.
Bỗng một chàng đứng dậy, tiến đến chúng tôi và đứng ngay cạnh
Lê Văn Trương, hất hàm hỏi:
- Ông là Ông Lê Văn Trương có phải không?
Tác giả “Ngựa đã thuần rồi…” đáp:
- Phải.
- Tôi yêu cầu ông, chàng trai nói tiếp, nhường chỗ này cho
tôi.
- Vì lẽ gì?
- Vì lẽ tôi muốn ngồi đây.
- Không được. Bởi vì tôi đã ngồi đây rồi.
Chàng thanh niên liền đưa tay đánh Lê Văn Trương một tát nảy
đom đóm.
Trương Tửu đứng dậy toan nắm lấy chàng thanh niên vũ phu,
nhưng hắn lễ phép bảo:
- Xin lỗi ông, tôi chỉ áp dụng Triết lí sức mạnh của ông Lê
Văn Trương. Tôi thực hiện triết lí ấy trong nhiều trường hợp ở đời, và nay rất
hân hạnh được dịp áp dụng nó ngay với Lê Văn Trương tiên sinh.
Lê Văn Trương đang ngồi yên, không nói, một tay ôm cái má bị
đánh đau, bỗng nổi giận la lên oang oác:
- Thế thì con đ… hiểu cái triết lí sức mạnh của bố rồi! (Lê
Văn Trương rất hay dùng tiếng tục tỉu trong lúc nói chuyện). Này, bố bảo cho
con nghe: triết lí sức mạnh không phải là tự nhiên đánh bố một tát tai đau thấy
ông thấy cha như thế đâu, con nhé! Triết lí sức mạnh là khi con đánh bố một tát
tai hỗn xược như thế, mà bố không đánh lại con. Đấy là triết lí sức mạnh. Triết
lí sức mạnh không phải là thằng nhãi con tự nhiên vô sự dùng sức mạnh đánh người
lớn tuổi đáng bố nó, triết lí sức mạnh không phải là người lớn tuổi ỷ mạnh đánh
đứa trẻ con Triết lí sức mạnh không phải như thế. Hiểu như thế là đ… hiểu triết
lí sức mạnh của Lê Văn Trương…
Trương Tửu ngồi ngả lưng ra ghế, cười ồ ồ như Trương Phi. Tôi
thì điềm nhiên xem chàng thanh niên phản ứng thế nào. Chàng cười hăng hắc, trả
lời ngay:
- À ra triết lí sức mạnh của Lê Văn Trương là thế đấy! Thế
thì xin lỗi ông Lê Văn Trương, vì tôi đã ghi bốn chữ triết lí sức mạnh trên má
của ông… Thực ra tôi chỉ thử xem chính ông có hiểu triết lí sức mạnh của ông là
cái quái gì không, thế thôi. Và tôi thỏa mãn thấy ông đã hiểu sâu xa lắm. Xin
chào ông.
Chàng thanh niên trở về bàn của hắn. Hôm ấy tôi thầy Lê Văn
Trương nói gượng, và ăn cũng gượng. Anh chỉ uống rượư nhiều hơn mọi khi, nhiều
hơn cả Trương Tửu…
Nghe tôi sắp cho ra tờ tuần báo Pháp văn Le Cygne, Lê Văn
Trương đi xe “Omic” đến nhà tôi, trong tay cầm một quyển truyện. Anh vứt quyển
sách xuống bàn hỏi tôi:
- Vỹ, cậu xem quyển này của tớ chưa?
Tôi cầm sách lên xem: “Trước cảnh điêu tàn Đế Thiên Đế Thích”.
Lật trang trong có mấy dòng tác giả đề tặng bằng Pháp văn “À mon ami, le poète
Nguyễn Vỹ, Hommage cordial de l’auteur”. Tôi cảm ơn anh và hứa sẽ xem.
Lê Văn Trương bảo:
- Tôi cho cậu dịch ra Pháp văn để đăng làm feuilleton trong
Le Cygne đấy.
Tôi do dự vì chưa đọc sách, nên chưa biết thế nào mà dịch, Lê
Văn Trương nói tiếp:
- Cậu cứ dịch đi, tôi cam đoan với cậu là truyện này hay lắm.
Đây là bộ truyện mà tôi ưa nhất đấy. Cậu cứ dịch, tôi không bắt cậu phải trả tiền
bản quyền tác giả đâu mà sợ. Hơn nữa, này… tôi cho cậu xem…
Lê Văn Trương thò tay vào túi quần, móc ra một gói lạc, vừa bảo:
- … Hôm nay thằng Vũ Đình Long vừa trả tao 300 đồng, tao cho
mày 50 đồng để mày lấy tinh thần, dịch quyển Đế Thiên Đế Thích ra Pháp văn để
đăng trong Le Cygne của mầy. Cậu dịch đêm nay độ vai ba trang đủ làm feuilleton
số 1. Số 1, hôm nào ra?
- Thứ năm.
- Ừ, thế còn kịp thì giờ chán! Cậu dịch đêm nay hai trang đầu,
cậu nhớ viết vài dòng giới thiệu tác giả và tác phẩm nhé. Sáng mai cậu đưa thợ
sắp là vừa.
Tuần báo Le Cygne số 1 ra đời, có tiểu thuyết Devant les
ruines d’Angkor của Lê Văn Trương, do N.V. dịch ra Pháp văn. Có hình của tác giả
do tác giả đưa cho để làm bản kẽm, và mười dòng giới thiệu đàng hoàng.
Một tháng sau, Le Cygne mới ra được số 4. chín giờ đêm thứ bảy,
tôi đang ngồi viết bài, bỗng giật mình vì tiếng la lối om xòm của Lê Văn Trương
từ ngoài cửa phóng vào:
- Le Cygne của mầy bán chạy lắm. Mầy phải trả tiền bản quyền
Đế Thiên Đế Thích cho tao. Hôm nay tao hết tiền rồi. Nhanh lên, đưa đây 200 đi
hát Ả Đào!
- Tớ chưa thu được đồng nào của Le Cygne cả, - tôi bảo - cậu
hỏi Trương Tửu thì biết. Chiều nay tụi này nhịn đói. Tửu phải về Gia Lâm ăn nhờ
ông bố.
- Còn mầy?
- Cậu có tiền thì đưa đây cho mình 6 xu ăn phở?
- Thôi, tôi đ… chơi với cậu. Hôm nay tao đã cạn túi, đến mầy,
mầy lại “pô xu” nữa thì còn làm cái con khỉ gì được. Thôi, vứt mẹ bút đi! Mặc
áo quần vào, đi Khâm Thiêm hát một chầu rồi muốn ra sao thì ra! Nhanh lên đi, mầy!
Tôi không muốn đi, vì một lẽ là không có tiền, hai nữa là phải
viêt một bài để sáng mai đưa cho thợ sắp. Nhưng Lê Văn Trương bảo:
- Ông nói đùa, chớ ông có khối tiền đây. Đi đập trống cho
khoái cái rồi sáng về mặc sức viết.
Lê Văn Trương nhất định lôi tôi đi. Dọc đường anh còn rủ thêm
hai người bạn nữa.
Đêm ấy hát nhà cô Đào Phúc ở Ngã tư sở. Phúc có tiếng là hát
hay nhất ở đây. Phúc tiêm thuốc phiện cho Lê Văn Trương hút với hai người bạn
kia. Tôi thì nằm nghe Đào Loan kể cuộc đời phiêu bạt của nàng từ một nữ sinh
trường Tiểu học Nam Định đến một cô đào hát.
Sáng tôi thức dậy đã 8 giờ. Các cô ả đào đã dậy trước, đang
ngồi chải tóc, hoặc ra vào uể oải. Lê Văn Trương và hai người bạn đã lẻn về từ
lúc nào rồi, để tôi làm “valise” ở lại. (Có những người không có tiền mà vẫn đi
hát, xong cuộc tím cách trốn, để lại đó một người làm “con tin” - otage - để chịu
đựng. Thường gọi người đó là làm “valise”). Bây giờ tôi mới biết rằng Lê Văn
Trương muốn “chơi khăm” tôi một keo, nhưng ác nghiệc thay, tôi đâu có xu nào để
“thanh toán” chầu hát cho cô Phúc? Tôi đành nói thật cho Phúc và Loan nghe, nhưng
Phúc “nhã nhặn” yêu cầu tôi cho Loan đi với tôi về nhà tôi cho biết chỗ tôi ở.
Rồi từ đó, cứ cách vài ba hôm là cô Loan đến “thăm” tôi để đòi nợ chầu hát của
Lê Văn Trương đêm ấy.
Hôm sau tôi kể lại chuyện đó cho Trương Tửu nghe. Tửu tức giận
bảo Trương: “Sao cậu đùa dai thế?”. Trương la lên oang oang:
- Mầy bảo với N. V. là nó xoàng lắm! Nó không tán được con
đào Loan để Loan trả hộ cái món ấy cho nó được sao?
1958. - Sài Gòn 21 năm sau. Một buổi chiều gặp Lê Văn Trương
đi lang thang trên đường Bonard, tôi rủ anh vào Kim Sơn ngồi. Nói chuyện phiếm
một lúc, bỗng Lê Văn Trương hỏi tôi với vẻ mặt rất là nghiêm trọng:
- À này, V., dạo ấy cậu đã trả cái món nợ chầu hát nhà con
Phúc chưa nhỉ?
Tôi phì cười, làm văng xa điếu thuốc đang ngậm trong môi.
- Mình tưởng thê1 nào Phúc hay Loan cũng di cư vào Sài Gòn,
nên cố ý tìm để trả món nợ một đêm, nhưng không gặp.
Tôi mến Lê Văn Trương lắm. Anh là một người bạn rất tốt và rất
hiền lành. Có lần, trong một đám ma, tôi không nhớ rõ là đám ma của Nguyễn Nhược
Pháp, Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Khắc Hiếu, tôi thấy trên nét mặt đau đớn thật sự
của Lê Văn Trương hai dòng nước mắt từ từ chảy xuống. Tôi cảm động quá. Tôi nhớ
lại như tôi đã cảm động khóc ròng rã khi đi coi chớp phim Bạch Tuyết, thấy bảy
anh Lùn khóc nàng Công chúa. Không hiểu sao Lưu Trọng Lư khóc trong hoàn cảnh ấy,
hay Trương Tửu, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Mộng Sơn khóc tôi không cảm động, mà thấy
Lê Văn Truơng khóc, tôi đau xót vô cùng. Có lẽ tại vì con người hay la to hét lớn,
nói cười ầm ĩ không bao giờ buồn rầu chuyện chim đến khi đứng trước một cái
tang bi ai não nuột, bỗng dưng, hai dòng lệ âm thầm tuôn ra trên mí mắt, để cho
ta thấy phản ảnh lòng đau thương thấm thía của anh, mà xúc động lòng ta chăng?
Năm 1936, Lê Văn Trương ở đường hẻm Jacquin, phố Chợ Hôm, với
2 bà vợ. Cả hai bà ở chung một nhà và cùng cưng yêu anh. Cứ tối, hai vợ vào buồng
ngủ, thì Lê Văn Trương thức ngồi viết tiểu thuyết một mình ở nhà ngoài cho đến
10 giờ đêm. Đến đây, anh gác bút, vào buồng gọi vợ lớn dậy:
- Mình ra bàn, viết tiếp cái tiểu thuyết cho anh, 12 giờ vào
gọi anh dậy nhé.
Thế là anh nằm ngủ với bà vợ hai. Đến 12 giờ khuya, vợ lớn viết
tiếp được 4 trang rồi vào ngủ lại. Lê Văn Trương dậy ra bàn viết tiếp theo đoạn
văn của vợ lớn. Đến 4 giờ sáng, anh lại vào buồng ngủ, gọi bà hai:
- Em ra viết nốt cái tiểu thuyết cho anh chút nhé!
Lê Văn Trương ngủ với vợ 1 trong lúc vợ 2 thay phiên viết tiếp
đoạn văn của chồng.
Câu chuyện này được loan truyền trong anh em làng văn Bắc Hà
thời bấy giờ, làm câu giai thoạa để cười chơi.
Năm 1955, tôi có gặp Lê Văn Trương ở Sài Gòn. Anh ở Hà Nội di
cư vào. Vẫn Lê Văn Trương thao thao bất tuyệt của thời đại hoàng kim ở Hà Nội
tiền chiến. Anh có cho tôi biết rằng một nhà xuất bản Anh hay Mỹ gì đó có mua bản
quyền một quyển tiểu thuyết của anh để dịch ra Anh văn. Tôi niềm nở mừng cho
anh được dịp phát tài to. Nhưng tôi chờ mãi không thấy quyển tiểu thuyết ấy ra
đời!...
Có điều khiến tôi ngạc nhiên, là ở Hà Nội tôi không thấy Lê
Văn Trương hút thuốc phiện, nếu có thì thỉnh thoảng một vài điều xã giao với bạn
bè mà thôi, nhưng ở Sài Gòn Trương lại nhập tịch vào “làng bẹn”. Không biết anh
nghiện từ bao giờ, nhưng lần nào gặp anh ngoài phố, hay anh đến thăm tôi ở tòa
soạn Phổ Thông, tôi cũng thấy anh diện mạo bơ phờ, áo quần xốc xếch, có lúc đôi
mắt như lim dim mệt mỏi. Anh thú thật với tôi là anh đang cơn ghiền. Ở Hà Nội
tiền chiến, Lê Văn Trương là một tay phong lưu hào hiệp, áo quần bảnh bao, ăn
tiêu rỗng rãi. Từ di cư vào Sài Gòn, anh nghèo túng, lại mang thêm bệnh ghiền.
Anh không viết được một tiểu thuyết nào nữa, và cũng không cộng tác với một tờ
báo hay một cơ quan văn nghệ nào được lâu. Khả năng sáng tác của anh đã hoàn
toàn kiệt quệ.
Thuốc phiện và hoàn cảnh gia đình túng thiếu đã làm khô cạn
nguồn cảm hứng văn nghệ của Lê Văn Trương chăng?
Lê Văn Truơng chết trong một căn nhà hẹp ở Hẻm Bùi Viện, Sài
Gòn, ngày 25-2-1964, thọ 59 tuổi. Tôi có đến viếng anh lần cuối cùng vào buổi
sáng ngay sau khi được ai tín. Xác anh còn nằm ngay đơ và lạnh ngắt trên giường,
chưa liệm. Tôi giở tờ giấy đỏ đắp mặt anh, và đặt bàn tay trên trán anh, tôi thật
bùi ngùi cảm xúc. Vợ anh, ôm lấy xác anh, khóc òa lên.
Khi Lê Văn Truơng viết tiểu thuyết
Lê Văn Truơng là một nhà văn sáng tác rất dồi dào. Anh viết rất
nhanh. Đó là điều thú nhất mà tất cả những bạn quen thân với anh đều nhận thấy.
Chính Trương cũng hãnh diện về điều đó. Quyển “Một người cha”, anh viết tại nhà
Trương Tửu ở Gia Lâm, trong 10 ngày. Anh sáng tác tiểu thuyết hàng loạt, chú trọng
về lượng hơn là về phẩm. Vì thế, anh không có thì giờ săn sóc câu văn, anh
không có kiên nhẫn ngồi sửa bản thảo.
Anh viết nhiều cũng như anh nói nhiều, cho nên văn của anh bị
ảnh hưởng vì cái tật đa ngôn đó: rườm rà, luộm thuộm, xô bồ. Nhiều lúc, anh bốc
đồng, viết lung tung, không kiểm soát lại tư tưởng của mình, cho nên phân tích
được các tiểu thuyết của anh là một việc rất khó.
Chính Lê Văn Truơng cũng tự nhận như thế trong những câu chuyện
thân mật về văn nghệ.
Vài ngày sau cái chết của Nguyễn Tường Tam, Lê Văn Truơng đến
thăm tôi tại tòa soạn Phổ Thông. Anh buồn bã gục đầu xuống. Tôi làm thinh, chờ
xem anh muốn nói gì. Một lúc khá lâu, có vẻ trịnh trọng, Lê Văn Truơng cất tiếng:
- Thằng Nhất Linh đi rồi, bọn cũ tụi mình ở đây chỉ còn mầy,
với một vài thằng nữa thôi. Tao cũng sắp đi. Nhưng tao buồn là không để lại một
tác phẩm nào xứng đáng với cuộc đời của tao.
Im lặng một lúc, Lê Văn Truơng nói tiếp:
- Tớ muốn cậu tự ý chọn một quyển truyện nào của tớ mà cậu
ưng ý nhất, cậu viết một bài phê bình thật đầy đủ, cho tớ xem trước khi tớ làm
cuộc du lịch cuối cùng và vĩnh viễn.
Tôi hỏi:
- Trong tất cả các truyện cậu đã viết, cậu thích quyển nào nhất?
Lê Văn Truơng trả lời không do dự:
- Tớ đ… thích quyển nào.
- Ít nhất cũng có một vài quyển hay hơn các quyển khác chứ?
- Tớ viết quyển nào cũng hay cả, mà chẳng có quyển đ… nào hay
cả! Thế mới chó!
Câu nói mâu thuẫn đó tiết lộ tính chất sáng tác đặc biệt của
Lê Văn Truơng. Tác phẩm nào cũng hấp dẫn, nhưng không có một kiệt tác.
Tôi bảo:
- Cậu chọn một vài quyển tương đối nổi bật hơn hết, đưa đây
tôi. Tôi sẽ viết một bài dài và thật khách quan.
Nhưng tôi đã chờ mãi Lê Văn Truơng cho đến ngày anh chết.
6. LAN KHAI
“Nhà văn đường rừng” là biệt hiệu của anh em làng văn Bắc
Hà đã tặng cho Lan Khai, vì anh chuyên viết các truyện về Mạn Ngược, nghĩa là về
các vùng Thượng Du Bắc Việt.
Sinh trưởng ở Tuyên Quang, là một tỉnh ở miền ấy, học ở Tuyên
Quang, sau khi đỗ bằng Cao Đẳng Tiểu học cũng về dạy học ở đấy, Lan Khai đã là
một người con yêu dấu của lâm tuyền. Anh bỏ nghề giáo viên, cũng chỉ vì anh mải
nghe tiếng gọi của Rừng thẳm, tiếng gọi mà anh ghi chép say sưa thành bóng vang
huyền bí trong các tác phẩm văn chương và trong các nét họa của anh.
Vì Lan Khai vừa là văn sĩ, thi sĩ, và họa sĩ. Văn sĩ hay họa
sĩ anh cũng đều là cái “tài tử” theo nghĩa của anh em nhà văn chúng tôi đã cho
nó hồi tiền chiến, là “không cầu lợi”. Anh làm thơ, viết truyện dài, truyện ngắn,
tùy bút, hồi ký, và vẽ những phong cảnh rừng núi thâm u, huyền ảo của các vùng
Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, những cô Thái Trắng, Thái Đen, cô Mường,
cô Thổ, với nét đẹp diễm lệ mơ hồ, như hình bóng một thế giới mộng huyền trong
tưởng tượng, trong tranh, trong thơ… Nhưng Lan Khai vẽ, hay viết, chính là để
thỏa mãn một say mê gần như là một ám ảnh huyền diệu, hơn là nghĩa đến việc đem
bày bán những nét vẽ và câu văn của anh.
Nói đúng ra, thì một số văn sĩ, thi sĩ thời bấy giờ cũng đều
bị lôi cuốn ít nhiều trong không khí say sưa Văn nghệ đang bồng bột, thịnh
hành, nhưng tôi nhận thấy Lan Khai là một trong số văn nhận chịu hi sinh cho lí
tưởng nhiều hơn, và thích sống đời thanh cao nho nhã hơn.
Tại vậy mà anh thay đổi chỗ luôn. Thuê một căn nhà nào để ở,
chừng năm ba tháng không vừa ý là dọn đi chỗ khác. Ở đường Đỗ Hữu vị, rồi dọn đến
chợ hàng Da, rồi dọn xuống ngọai ô Chợ Hôm, dọn về Bờ Hồ, ở trên một căn lầu rộng
lớn, rồi dọn lên Hồ Trúc Bạch, làng Ngũ Xã… Tiền không có mà cứ dọn nhà hoài,
và mỗi lần đổi chỗ là chở hằng năm sáu rương sách và một rương quần áo. Ngoài
ra, không có gì nữa cả. Tôi đi tìm địa chỉ mới của anh có khi mất cả buổi. Và
nhất là tốn tiền xe.
Có điều buồn cười nhất, và bí mật nhất mà lúc bấy giờ chỉ một
số bạn rất thân với Lan Khai biết được mà thôi, là tác giả những
truyện đường rừng lại thích đánh phấn thoa son như đàn bà. Vì Lan Khai hút thuốc
phiện nặng, nên anh đánh phấn và bôi son để cho nét mặt có đôi chút hồng hào,
che lấp những tàn phá của Phù dung tiên nữ. Nhưng anh điểm trang khéo tuyệt,
còn khéo hơn chị Lan Khai nữa. Người ngoài nhìn vào mặt anh, không hề thấy có
vét phấn son. Vì vậy nên nhiều bạn làng văn cứ bảo nhau: “Quái thật nhỉ! Lan
Khai hút thuốc phiện thế mà guong mặt của nó không mốc meo chút nào!”. Anh rất
diện, lúc nào cũng đẹp đẽ bảnh bao, ai mới trông thấy anh cũng tưởng đâu là một
chàng nho sĩ phong lưu, một loại Kim Trọng tân thời nhưng không có Thúy Kiều,
và trong túi thường không có một xu nhỏ.
Lan Khai có một người bạn tâm phúc cũng lạ thường, là Đỗ Thúc
Trâm. Đỗ Thúc Trâm người thấp nhưng mập, đỗ Tú Tài rồi ở nhà đọc sách, viết
văn, chứ không thèm tiếp tục học trường Cao Đẳng. Trâm viết Pháp văn thật hay.
Có tư tưởng chống Pháp và kiêu căng, tự phụ, anh thường viết bài cho báo
[“L’annam Nouveau”] của Nguyễn Văn Vĩnh. Cụ Vĩnh quí mến Trâm lắm.
Lan Khai đi đâu là Đỗ Thúc Trâm đi theo, như hình với bóng. Mỗi
lần dọn nhà, là cả hai đều đồng ý dọn, và cả hai cùng lặng lẽ đi theo sau cỗ xe
chở mấy hòm sách, nặng nề, chậm rãi, y như đi đưa một đám ma. Tôi có theo một lần
đám dọn nhà kì quặc ấy, ôm giùm cho Lan Khai cái bình tích đựng nước trà.
Lan Khai và Đỗ Thúc Trâm đều diện, và thích ở riêng biệt,
không muốn có đàn bà bên cạnh. Đỗ Thúc Trâm không có vợ và rất đố kị phụ nữ.
Anh không có một người tình nhân nào cả. Còn Lan Khai có hai vợ, nhưng anh cũng
không thích ở với gia đình. Thỉnh thoảng chị Lan Khai ở Tuyên Quang xuống, với
anh một vài tháng rồi lại về Tuyên Quang. Chị này là vợ hai, hiền lành lắm, và
đẹp, rất yêu mến Lan Khai và cũng bằng lòng để anh ở riêng tùy ý theo ý thích.
Chị chiều anh lắm. Tôi sẽ kể các bạn nghe câu chuyện [Hột mận của Lan Khai.]
Chuyện này đã xảy ra lúc Lan Khai ở căn nhà Ngũ Xã, với chị Lan Khai số 2. Anh
là người rất đa tình, lại được rất đông độc giả bạn gái mến phục. Nhưng có lẽ
anh không có duyên với phụ nữ nên đời anh không có cuộc tình duyên nào lâu dài
và tha thiết, nên thơ, nên mộng. Cũng có lẽ tại anh thích sống cuộc đời lí tưởng
quá, nên đa số bạn gái không ưa. (tôi nói: thiếu nữ lãng mạn hồi đó). Một đêm,
tôi đang ngủ, Lan Khai đến đập cửa. Tôi chưa kịp mở, chỉ nghe tiếng anh:
- Vỹ ơi, Đỗ Thúc Trâm chết rồi nhé!
Tôi mở cửa ra, thì Lan Khai đã đi rồi. Tôi vội vàng mặc đồ đi
đến nhà anh, người ta cho biết là Đỗ Thúc Trâm chết trong nhà thương, vì bệnh
thương hàn.
Đám ma của Đỗ Thúc Trâm đi trong một buổi chiều rét buốt của
mùa Đông, rất đìu hiu thê thảm. Hân hạnh cho Trâm, là có ông Nguyễn Văn Vĩnh đi
theo sau quan tài. Ông Vĩnh bảo tôi: “Trâm, nó có tài lắm, nhưng đáng tiếc, nó
không để lại được một tác phẩm nào cả vì chính nó lại coi rẻ cái tài của nó”.
Ông Vĩnh nói rất đúng. Đỗ Thúc Trâm có thể là một nhà triết học,
hay là một nhà phê bình rất có giá trị. Học thức uyên thâm, văn bài rất điêu
luyện, Trâm bị cái chứng bịnh lười biếng, chán nản, khinh đời, khinh cả mình. Hồi
đó anh 25 tuổi, lớn hơn tôi vài tuổi.
Hôm nay, tôi nhắc đến Đỗ Thúc Trâm mà lòng tôi rất bùi ngùi
nhớ tiếc. Từ ngày anh chết, không có một bài báo nào, hay một chương sách nào,
nhắc đến tên người tài hoa bạc phận ấy. Kể ra, những bài Pháp văn anh đã viết
trong [L’annam Nouveau] của Nguyễn Văn Vĩnh, và bằng Việt văn trong tuần báo
[Đông Phương] của Lan Khai, có thể gom góp in lại thành một quyển sách rất có
giá trị về tư tưởng. Nhưng tiếc thay, không ai làm việc đó. Lan Khai và tôi muốn
làm, lại không có tiền.
Đỗ Thúc Trâm đã thành một kẻ lạc loài trong truyền tích, như
Chatterton, một thi sĩ Anh xấu số. Lan Khai rất buồn chán sau khi Đỗ Thúc Trâm
chết.
Tác giả những truện đường rừng cũng là bạn thân của Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Lưu Trọng Lư. Anh không chơi với Thế Lữ, Nhất Linh,
Đoán Phú Tứ, nhưng thỉnh thoảng đến với Khái Hưng. Anh thích Nguyễn Công Hoan,
Vũ Bằng, Tchya, Nguyễn Tuân.
Một hôm được tin bằng dây thép cho hay bà vợ cả ở Tuyên Quang
đau nặng gần chết, (chị này bị tật què chân). Anh đến nhà xuất bản hỏi mượn trước
một món tiền để về tỉnh nhà lo thuốc men cho vợ. Anh trao điện tín cho nhà xuất
bản thấy sự thật đau đớn như thế. Nhưng nhà xuất bản, chủ một nhà in lớn ở Hà Nội,
trả lời không có sẵn tiền. Anh hết sức năn nỉ nhưng ông chủ nhà in, đã xuất bản
ba bốn bộ sách của anh, quyển nào bán cũng rất chạy, vẫn một mực than thở:
“không có sẵn tiền”.
Lan Khai rưng rưng nước mắt, ngó nhà xuất bản:
- Ông tàn nhẫn đến thế ư?
- Không phải tôi tàn nhẫn với ông, nhưng thật là vì tôi không
có sẵn tiền.
Lan Khai rút trong túi ra một xấp bản thảo viết chưa xong,
đưa cho nhà xuất bản:
- Tôi đang viết quyển này cho ông, ông không thể cho tôi mượn
tạm trước vài ba chục đồng ư? Vợ tôi đang hấp hối chờ tôi ở Tuyên Quang, sao
ông nhẫn tâm đến thế được?
- Tôi chia buồn với ông, nhưng còn việc mượn tiền thì…
- Tôi chỉ mượn vài chục đồng đủ tiền xe thôi, ông ạ.
Do dự một lúc, nhà xuất bản vào nhà lấy ra đưa cho Lan Khai
hai chục đồng:
- Ông viết quyển sách ấy nhanh nhanh lên nhé. Và xin chúc ông
về Tuyên Quang lo lắng cho bà nhà ta chóng bình phục.
Lan Khai về nhà, gặp tôi vừa đến hỏi thăm tin tức của chị,
anh đưa dây thép cho tôi xem và vứt xuống giường mấy tờ giấy bạc, nước mắt anh
chảy tràn trề trên đôi má:
- “Toa” thấy không, Vỹ? Mẹ cha cái kiếp chúng mình…!
Hôm tôi bị người Pháp bắt và bị còng tay đưa lên ga xe lửa Hà
Nội, trong đám bạn bè quen thuộc hình như biết tin trước nên có lên chực sẵn ở
cửa ga để tiễn tôi, tôi thấy có mặt anh Lan Khai. Hôm ấy anh ốm quá, mặt xanh
xao gầy còm, không có đánh phấn như mọi khi. Tôi mỉm cười ngó anh. Anh đáp lại
bằng một cái nhìn đăm chiêu tịch mịch.
Sau này, trong thời kì đồng bào Bắc di cư, tôi có tìm kiếm
các bạn cũ Hà Thành. Một đôi bạn cho tôi biết là Lan Khai đã bị Việt Minh thủ
tiêu ở Tuyên Quang. Tôi nghẹn ngào, không nói được. Tôi biết anh là người của
Việt Nam Quốc Dân Đảng, bạn đồng chí rất thân của Nhượng Tống. Đó là nguyên do
Việt Minh thù ghét anh. tôi không muốn tìm biết anh bị giết chết cách nào.
Tiểu thuyết Lan Khai
Lan Khai có giọng nói khàn khàn hấp dẫn đáo để. Một hôm anh hỏi
tôi:
- Vỹ, hôm nọ [toi] (1) (1) Lan Khai chuyên môn nói [toi, moi]
trong câu chuyện thân mật với anh em.] nói [toi] chưa đọc quyển “Ai lên phố
cát” của [moi, toi] nói thật hay nói bỡn đấy?
- Nói thật. Nhưng “chưa đọc” không có nghĩa là “không đọc”.
- Thôi, cậu lười đọc bỏ mẹ! Để mình kể chuyện “Ai lên phố
cát” cho cậu nghe đêm nay. Như thế cậu khỏi làm cái corvée đó nữa nhé!
- Cậu kể cho tớ nghe, thì có phải cái corvée cho cậu không?
- Ô, trái lại. Chỉ sợ cậu không khoái nghe thôi.
- Khoái hay không, là do cái lối kể chuyện của cậu chứ.
- Cố nhiên là chuyện kể lại đâu bằng chuyện đã viết.
- Cậu cứ kể đi.
Thế là suốt đêm hôm đó, tôi nằm bàn đèn thuốc phiện với Lan
Khai, nghe tác giả “Ai lên phố cát” kể chuyện “Ai lên phố cát”. Lan Khai vừa tự
tiêm thuốc hút vừa kể chuyện. Tôi, không biết hút thuốc phiện, không hút được một
điếu, nhưng nằm được bên cạnh bàn đèn, cũng như Vũ Trọng Phụng, để trò chuyện
vui chơi với anh em, có khi suốt đến sáng.
Đêm ấy, có cả Đội Tứ, một cựu Đội Nhất Linh Khố Đỏ của Tây, bạn
thân của Lan Khai và chuyên viết chuyện nhà binh cho các báo hằng ngày, để kiếm
tiền nuôi vợ. Đội Tứ cũng không hút nha phiến, nhưng đã đọc truyện Ai lên phố cát
rồi.
Lan Khai bắt đầu kể, tôi bắt đầu nghe, nhưng dần dần tôi bị
anh ta thu hút với giọng kể chuyện hăng say, bay bướm, lúc thì trầm trầm, lúc lại
sôi nổi, làm tôi rạo rực như chính mình đang say thuốc phiện vậy. Anh kể đến 5
giờ sáng thì hết chuyện, nhưng cuộc thưởng thức nhận xét của tôi và Đội Tứ,
trao đổi với tác giả, kéo dài mãi đến 7 giờ sáng. Chúng tôi kéo nhau ra phố
Hàng Buồm, ăn điểm tâm, uống một li cà phê đậm rồi mới bắt tay từ giã.
Về nhà, một tuần lễ sau, tôi đọc Ai lên phố cát. Cảm tưởng của
tôi là Lan Khai kể chuyện còn hay hơn là anh viết – hay hơn nhiều. Trái lại với
lời anh đã nói là viết thành văn hay hơn là kể bằng miệng.
Tôi có nói lại cuộc thí nghiệm đó cho Lan Khai nghe, anh cười
bảo:
- Tại anh đã nghe tôi kể hết rồi, anh đọc lại còn gì là thích
thú nữa?
- Không phải. Văn anh viết không tự nhiên bằng lời anh kể. Đọc
văn, tôi không còn thấy cái nhiệt hứng dào dạt, làm tôi hồi hộp, xúc động, kích
thích, như lúc tôi nghe anh nói. Anh sửa câu văn, anh gò ép, anh chải chuốt, mất
cả tính chất man rợ, rừng rú trong tiếng nói trực nhiên, từ trong tim, trong
máu, trong óc anh phát động ra.
- Anh nói cũng có lí. Có lẽ tại tôi viết Ai lên phố cát không
hăng say bằng mấy quyển sau này…
Nhưng đó chỉ là nhận xét chủ quan của tôi, có lẽ hoàn cảnh
nghe chuyện ban đêm, trong không khí khói thuốc phiện mờ ảo lẫn lộn với sương
khói ảo huyền của truyện Ai lên phố cát của Lan Khai.
Thực ra, Lan Khai kể chuyện rất hấp dẫn, nhất là truyện đường
rừng, nơi cương thổ riêng biệt của Lan Khai. Không nhà văn nào viết truyện đường
rừng kích thích bằng Lan Khai, kể cả TchyA. Điều đó không có gì lạ, vì Lan Khai
sinh trưởng ở Mạn Ngược, quê hương của các giống dân Thổ, Mường, Mán, Thái, đầy
dẫy huyền bí, li kì, rùng rợn…
Nhỏ, Lan Khai là con đẻ của Rừng Rú Linh Thiêng. Trai tráng,
Lan Khai là bạn của nguồn xanh hoa dại, của gió núi mây ngàn. Lớn lên, Lan Khai
là văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ của lâm tuyền thơ mộng, đầy huyền ảo, thâm u, phảng
phất truyền tích xa mờ như những kho tàng bí ẩn.
Lan Khai có làm khá nhiều thơ, hầu hết là Thơ Rừng Núi, vang
bóng của đồi sim quạnh quẽ, của dòng suối réo rắt bên nhóm nhà sàn, của tiếng
cười trong veo trên đôi môi cô gái Mán… Thơ Lan Khai nhẹ nhàng, êm ái, huyền mơ
như mây gió biên thùy. Nhưng rất tiếc, anh chúi trọng về tiểu thuyết nhiều hơn,
làm thơ chỉ để bạn làng thơ ngâm chơi, kí tên là “Lâm Tuyền Khách” và không bao
giờ in trên sách báo.
Anh vẽ đẹp, nét bút tế nhị tinh vi, cũng toàn những cảnh núi
rừng thơ mộng, nhưng không bao giờ triển lãm. Tôi thành thật vô tư nhận xét rằng
những tranh thủy mạc ngày nay thua những bức họa của Lan Khai nhiều lắm.
Phong trào cách mạng ngấm ngầm ở Bắc Kì từ khởi điểm chiến
tranh Nhật Hoa, rồi Tây Âu, làm nổi dậy dòng máu cách mạng của Lan Khai, một đồng
chí của V.N. Quốc Dân Đảng. Lan Khai viết tiểu thuyết cách mạng, rồi nhè nhẹ bước
sang tình cảm, một địa hạt mà anh không bỏ rơi được. Lan Khai là một tâm hồn
thuần túy thơ mộng, rất đa cảm, đa tình, nhưng luôn luôn có ý thức về số kiếp
văn chương. Trên báo Đông Phương của anh, anh viết bài đăng đầy cả 8 cột trang
đầu: “Tài hoa cái lụy nghìn đời”.
Tôi nhớ mãi hôm tôi và Trương Tửu đến khen anh về bài ấy, tôi
không ngờ gặp Vũ Trọng Phụng cũng đến bắt tay anh: “Lan Khai, mày viết bài ấy,
tao phục mày. Tao đọc thích thú lắm”.
Lan Khai rất cảm động. Anh gọi người ở pha trà tàu, mời chúng
tôi.
Trong lúc uống trà, Lan Khai chỉ vào tôi, và nói với Vũ Trọng
Phụng:
- Cu Vỹ vừa bảo tao: đọc bài đó, nó khóc!
Nói xong Lan Khai cười ồ ồ lên, Phụng không cười, khẽ giọng:
- Tao cũng muốn ứa nước mắt. Chú mày viết bài đó, cảm động lắm.
Văn của Lan Khai hấp dẫn như thế đó. Trương Tửu viết trong
báo LOA một bài khen Lan Khai thật là xứng đáng. Đọc bài phê bình của Trương Tửu,
Thế Lữ nói với Vũ Đình Liên:
- Văn Lan Khai có ra cái đếch gì mà Trương Tửu tâng bốc.
Chỉ có Thế Lữ mạt sát Lan Khai như thế thôi.
Có điều lạ, là Lan Khai rất thích độc các tiểu thuyết của
Paul Bourget. Anh ta ca ngợi quyển Le Disciple lắm. Nhưng P. Bourget khô khan,
quá nặng về tâm lí, không hiểu sao lại thích hợp với tâm hồn của Lan Khai được?
Lan Khai có một quyển Album mà anh để trang đầu là “Sổ Vàng”,
trong đó anh lấy chữ kí của nhiều nhà văn mà anh mến, và yêu cầu mỗi người viết
vài dòng thủ bút trên trang chữ kí. Tôi thấy trong đó có: Vũ Trọng Phụng,
TchyA, Nguyễn Triệu Luật, Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Anh Thơ và
vài người nữa. Tôi không nhớ mấy anh kia viết gì, vì chỉ xem sơ qua.
Lan Khai đưa bút máy cho tôi. Tôi viết:
Người ta ghét mình là ganh mình,
Chửi mình là đề cao mình,
Nói xấu mình là sợ mình,
Nhưng phớt tỉnh, là trả lời tất cả.
Anh Thơ sửa lại câu thơ trong “Bức tranh quê” của nàng, viết
vào “Sổ Vàng” của Lan Khai:
Và đây đã có một đôi bươm bướm
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
Dưới kí: Tuyết Anh Anh Thơ.
Lan Khai khoái hai câu đó, vì Anh Thơ là người yêu cũ của anh,
thường đăng thơ trong báo Đông Phương kí bút hiệu là Tuyết Anh…
Hột mận của Lan Khai
Chị Lan Khai (thứ hai) bảo tôi:
- Cái ông Lan Khai nhà tôi, anh phải biết!
- Biết thế nào? Lan Khai cười hỏi lại vợ.
- Thế nào, thì cậu biết chứ!(1), (2) Vợ chồng Lan Khai gọi
nhau bằng cậu mợ.
Chị Lan Khai cầm quyển sách lên xem lại. Rồi chị lại bỏ sách
xuống, ngó tôi và tủm tỉm cười:
- Nhà tôi thì khoái các cô ấy lắm, anh à.
Lan Khai cười rú lên. Tiếng anh ấy cười khàn khàn mà rất lẳng.
Đôi mắt anh lại còn cười nhiều hơn cái miệng nữa. Cười ra tận hai đuôi mắt, cười
dài đến hai mang tai. Anh bảo tôi:
- Này, anh Vỳ à, tôi hỏi anh nhá: Mình viết truyện đường rừng
cho Nữ độc giả xem. Họ xem rồi họ viết thư về khen mình, thì mình làm thế nào?
Tôi cười:
- Thì mình khen lại họ.
- Còn như họ yêu mình?
- Thì mình yêu lại họ.
Lan Khai cười ha hả, đứng dậy nghiêng mình chồm qua bàn, chìa
bàn tay xương đến tôi:
- Tôi bắt tay anh một cái. Bravo!
Quay sang chị Lan Khai ngồi trên bục gỗ, nhà văn đường rừng đắc
chí, bảo vợ:
- Đấy mợ nghe không? Anh Vỹ bảo thế đấy(2).
Tôi phải đính chánh ngay:
- Tôi bảo cho anh, chứ không phải cho tôi. Tôi thì chẳng yêu
ai cả.
Chị Lan Khai cãi lại rất duyên dáng:
- Anh Vỹ thì chắc có nhiều người yêu, chứ cậu thì có ma nó
yêu cậu!
Lan Khan cười rũ rượi:
- Phải đấy, trước nhất đã có [ma… femme] yêu tớ, rồi đến [ma
chère X… ma chère Y…] một tá [“ma”], chỉ vì họ mê tiểu thuyết đường rừng của tớ,
nhất là quyển “Hột mận”.
Quay lại tôi, Lan Khai ngó tôi với đôi mắt cười ranh mãnh dưới
cặp kiếng cận thị:
- Vỹ, [toa] đọc quyển [“Hột mận”] của [moa] chưa?
- Chưa!
- Sao [toa] không đọc?
- [Moa] đợi cho tất cả các cô nữ độc giả thân yêu của [toa] đọc
hết, xong rồi [moa] mới đọc.
- Gớm! Anh nịnh đầm vừa vừa chứ! Anh lười đọc rồi anh khéo
bào chữa lắm. Tôi bảo anh hôm nay hãy đọc quyển ấy nhé. Đọc xong chính anh cũng
sẽ mê tôi, chứ đừng nói là các cô ấy.
- Sao anh đặt tên sách là “Hột mận?”
- Ấy thế mới hay! Thế mới có khối các cô mê Hột mận của tớ đấy,
cậu à. Hôm nay về cậu phải xem nhé?
Tôi cười, không hứa.
Mãi đến nay, nằm trên giường viết bài hồi kí này, tôi vẫn
chưa đọc quyển [“Hột mận”] của anh bạn “Đường rừng”.
Ba hôm sau, Lan Khai gặp tôi. Anh không bắt tay tôi như mọi lần.
Anh cười, thò tay vào túi áo, lấy ra một bao thư, đưa tôi:
- [Toa] đọc đi!
- Thư của anh mà…
- [Toa] cứ đọc đi. [Moa] chỉ xin [toa] một điều là giữ kín hộ
[moa] nhé. Đừng bảo cho [ma femme] biết.
Tôi xem qua nét chữ ngoài phong bì: nét chữ của một cô gái.
Bao thư xanh, đóng dấu dây thép Hà Nội.
[Thưa ông Lan Khai.]
[Tác giả quyển “Hột mận”]
[Em xin gửi lời thành thật hoan nghênh tất cả các quyển truyện
đường rừng của ông. Riêng quyển Hột mận, ông vừa xuất bản, thật là một kiệt
tác. Em ao ước được hân hạnh gặp ông để tò lòng ái mộ của em. Vậy, nếu ông
không bận gì, thì 8 giờ tối thứ bảy tuần này, xin ông vui lòng quá bộ đến Hồ
Trúc Bạch, khỏi chùa Trấn Quốc một tí. Em sẽ chờ ông tại đấy.]
[Thưa ông, ông sẽ trông thấy một thiếu nữ 18 tuổi, đang chờ
ông bên gốc cây, mặc áo màu bordeaux, tay cầm quyển Hột mận. Em đấy ông ạ. Em sẽ
đến đấy đúng 8 giờ, là lúc vắng người. Nếu quá 8 giờ 30 ông không lại, thì chắc
là ông bận việc, em sẽ đi về.]
[Trời! Em ước mong sao được gặp nhà văn tài hoa mà em thường
mơ tưởng!]
[Em xin dừng bút nơi đây với tất cả hi vọng tốt đẹp ngập tràn
trề lòng em. - Bella Nhung.]
Tôi trao thư lại Lan Khai. Anh ta cười khoái trá:
- Nàng có chữ kí đẹp quá nhỉ. [Toa] xem chữ kí giỏi lắm và
xem tướng số được, [toa] hãy xem hộ [moa] chữ kí ấy đi. Rồi hôm nào [moa] giới
thiệu nàng cho [toa] để nhờ [toa] xem tướng hộ nhé.
- Chữ ký cô này… lãng mạn.
- Thế thôi à?
- Cô này 18 tuổi.
- Trong thư nàng có nói.
- Thế thôi, hết.
- Người tính tình thế nào chứ?
- Vui vẻ, trẻ trung. Người mập chứ không gầy, (nét chữ cũng mập),
đẹp chứ không xấu, nét chữ bay bướm.
- Cậu thật là…!
- Thật đấy mà. Nếu tối thứ bảy anh gặp cô mà xấu chứ không đẹp,
thì chắc là không phải cô Bella Nhung. Hoặc cô nào gầy chứ không mập, cũng
không phải… Gặp gỡ như thế nào, rồi nói chuyện lại cho tôi nghe với nhé.
- [Toa] đừng cho [ma femme] biết, nghe chưa?
- Khỏi dặn.
Lan Khai chải tóc láng mướt. Chàng đã thắt cra-vát màu đỏ, mới
tinh, vừa mua lúc chiều. Quen lệ, chải tóc xong là chàng đánh phấn. Chàng có tật
đánh phấn như đàn bà, vì da mặt hơi ngăm ngăm đen, và đã có vết nhăn. Tôi nhớ
năm ấy chàng đã lớn tuổi hơn tôi nhiều lắm, vả lại chàng bị bịnh ghiền thuốc
phiện, cho nên mau già. Người gầy còm, lại dong dỏng cao, môi thâm. Nói thật,
người không đẹp. Chàng đánh phấn phớt qua một lớp mỏng thôi mà chỉ đánh ban
đêm. Chàng rưới nước hoa, diện quần áo tây mới may, đi giày tây đen, bóng lộn.
Xong, ngó đồng hồ 8 giờ kém 5, chàng ra gọi xe kéo.
Chàng khấp khởi mừng vì chị Lan Khai đi vắng, chàng khỏi phải
nói dối vợ.
Đến trước cổng chùa Trấn Quốc, Lan Khai trả tiền xe, rồi đi bộ
một quãng đường trên đê hồ Trúc Bạch. Chàng hồi hộp mừng thầm, xa xa, dưới bóng
cây chàng đã thấy bóng “nàng”.
Chàng nghĩ thầm: “Ta sẽ nắm tay nàng, và nhoẻn một nụ cười
duyên…”. Nàng chưa thấy chàng, vì nàng quay lưng ra đường đê, đang đứng mơ màng
ngó mặt nước hồ phẳng lặng, phản chiếu một vòm trời lóng lánh muôn sao. Gió mát
lạ!
Chàng cố ý đi mạnh, cho nàng nghe tiếng giày để nàng quay mặt
ra. Chàng đã biết đích là nàng, vì dưới ánh đện lờ mờ Chàng đi nhè nhẹ đến gần
chàng đã phân biệt màu áo bordeaux và tay nàng đang cầm quyển “Hột mận”, như đã
dặn kỹ trong thư.
Chàng đi nhè nhẹ đến gần… Tuy chàng chưa thấy mặt, nhưng dưới
ánh đèn điện lờ mờ, bóng nàng uyển chuyển thướt tha tuyệt đẹp.
Chàng đến sát bên cạnh, nghĩ rằng nàng mắc cỡ, nên chàng đánh
bạo đặt bàn tay dịu dàng trên vai nàng, và giọng nói run run cảm động:
- Em Bella Nhung?
Nàng quay lại.
Lan Khai hoảng hốt, biến sắc mặt ngay, bỗng giận dữ hét lên:
- Mợ đứng chờ ai đây?
Nàng, chính là… vợ Lan Khai, mỉm cười ngạo nghễ:
- Thưa ông, em chờ ông Lan Khai, tác giả Hột mận ạ.
- Mợ đánh lừa tôi hả?
Lan Khai giận run cả người lên, nghẹn miệng nói không được nữa.
Chàng bỏ vợ đấy, đi thật nhanh ra đường Quan Thánh gọi xe về nhà. Chị Lan Khai
mỉm cười đắc chí, đủng đỉnh theo sau.
- Ai viết hộ thư cho mợ? Chứ nét chữ đâu phải của mợ?
- Nét chữ của con Mão đấy.
- Con Mão nào?
- Cháu của cậu, con gái của chị Phán, cậu không biết à? Tôi đọc
cho nó viết đấy. Tôi phải năn nỉ mãi nó mới chịu viết đấy.
- Mợ mặc áo màu bordeaux của ai?
- Áo cũng của con Mão chớ còn của ai nữa.
- Mợ chơi xỏ tôi làm gì thế?
- Để cho cậu một bài học về Hột mận đấy, cậu à! Quả mận chua
lắm phải không cậu?
Lan Khai làm thinh, mãi ba tháng không nói với vợ một tiếng.
7. LƯU TRỌNG LƯ
Tôi không thấy một người nào có chất thi sĩ đầy đặc trong tâm
hồn và trên thể xác như Lưu Trọng Lư. Mỗi lần gặp, tôi có cảm tưởng như Lư là một
vong hồn vất vưởng, nay đây mai đó, như mây như gió, phiêu bạt giữa trần gian.
Một buổi sáng, tôi đến rủ Lưu Trọng Lư mặc áo quần vào. Chúng
tôi đi bộ, và dọc theo đường Đồng Khánh chúng tôi thấy hình như khách qua lại đều
ngó hai đứa tôi và cười khúc khích. Lư quay lại hỏi tôi:
- Tụi họ cười mi hay cười tao?
- Chắc tụi nó cười tao vì tóc tao dài quá, hai tháng nay chưa
hớt. Mầy vô tiệm với tao, chờ tao hai chục phút?
Tôi hớt tóc xong, cùng Lư đi ra. Nhưng vẫn thấy bị kẻ đi đường
ngó trân trân và cười khúc khích mãi. Lưu Trọng Lư lại hỏi tôi:
- Đố mi biết lần ni tụi họ cười tao hay cười mi?
Tôi ngó Lư từ đầu đến chân, rồi bảo:
- Chắc tụi nó cười mầy. Mầy mặc dư một cái quần.
Lư ngó xuống chân, mắc cỡ mặt đỏ bừng, rồi vội vàng lôi tôi
lên tàu điện về nhà. Tôi cũng không ngờ rằng lúc ở nhà ra đi Lưu Trọng Lư đã mặc
cái quần đen lại lơ đễnh mặc thêm chiếc quần trắng ra ngoài, quần trắng hơi
cụt nên để lòi hai ống quần đen dưới chân.
Lưu Trọng Lư bước vào làng Thơ Việt Nam, gót chân lơ đễnh, cặp
mắt ngơ ngác, nụ cười xa vắng, tay cầm một cuốn truyện mỏng của anh vừa in
xong, nhan đề Người Sơn Nhân. Một quyển truyện? Thật ra, không hẳn là một quyển
truyện. Nhan đề Người Sơn Nhân cũng không hẳn là người Sơn nhân. Có thể gọi đó
là một bài thơ cũng được, và có thể đổi nhan đề là Người thi nhân cũng được.
Lưu Trọng Lư đâu có biết Lưu Trọng Lư là thi sĩ. Lưu Trọng Lư
cũng không biết Lưu Trọng Lư là Lưu Trọng Lư. Anh mở quyển truyện Người sơn
nhân kể cho tôi nghe. Anh kể một câu chuyện vẩn vơ, đượm màu triết lí vơ vẩn. Dễ
thương làm sao! Tôi bắt đầu mến Lưu Trọng Lư từ hôm anh kể cho tôi nghe chuyện
Người sơn nhân, chuyện người Thi nhân.
Nhà trọ của Lư ở Phố Hàm Long, ở chung với Lê Tràng Kiều và
Nguyễn Xuân Huy. Một căn phòng hẹp, riêng biệt, bên cạnh, là của chàng họa sĩ.
Trước sân là một giàn hoa ăng-ti-gôn trắng và đỏ, thật thơ mộng. Tôi thường đến
đây chơi, nhiều khi ăn ngủ luôn ở đây. Một hôm Lư cao hứng ngâm lên:
Xin rước cô em bước xuống thuyền
Thuyền tôi sắp chẩy chốn thần tiên…
Tôi hỏi Lư:
- Cô em nào đấy?
Lư kéo tôi lại giường, nằm kể cho tôi nghe một chuyện tình vẩn
vơ, đượm màu triết lí vơ vẩn. Chuyện tình không có, triết lí không có, mà Lưu
Trọng Lư cũng không có nốt. Tất cả đều thế giới. Lưu Trọng Lư tưởng tượng ra
Lưu Trọng Lư.
Người gầy, hai má cóp. Tóc không bao giờ chải. Không biết diện,
và không biết yêu. Anh có người vợ bán nước mắm Đồng Hới, nhưng không sống
chung. Có lẽ tại Lưu Trọng Lư không ở gần được đàn bà. Trong thời gian biết Lư,
tôi không hề thấy Lư bên cạnh một thiếu nữ, hay một thiếu phụ, đẹp hay xấu, Lưu
Trọng Lư chỉ có Lưu Trọng Lư một mình.
Tôi nghe người ta thường nói: Thi sĩ là giống đa tình. Có thật
thế không? Sao mà Lưu Trọng Lư không có đa tình? Hà Nội hồi đó tha thướt biết
bao cô gái đẹp, thi sĩ họ Lưu sao chẳng có yêu ai? Tôi hơi ngạc nhiên. Trong Tạp
chí Phổ Thông số 17 ra ngày 15-8-1959, ông Nguyễn Hữu Thứ, dự thẩm Tòa sơ thẩm
Huế, có kể rõ chuyện năm 1945 Lưu Trọng Lư ở Huế có yêu và lấy một cô gái Huế
đã có chồng. Chồng cô, một công chức, đưa cô ra Tòa xin li dị. Ông Nguyễn Hữu
Thứ có chứng kiến phiên tòa này, Lưu Trọng Lư đi qua đi lại trước sân Tòa án,
chờ kết quả. Tòa xử xong, thiếu phụ bị li dị tên là Lê Mừng, ra đi với Lưu Trọng
Lư. Đây là người đàn bà thứ hai trong đời Lưu Trọng Lư. Tôi không tin rằng họ ở
với nhau lâu.
Lưu Trọng Lư là một ảnh tượng lơ lửng trong thời gian. Mảnh
tim của anh bay vời vợi trên khung trời xanh như con diều giấy, dính vào trần
gian bằng một sợi tơ mong manh, chập chờn trong gió, vi vu trong mây.
Cho nên thơ của Lưu Trọng Lư cũng phảng phất một hơi Thu, một
nắng Hè dịu mát, một khói lam chiều, một thuyền mơ phiêu dạt, một hơi tiêu man
mác, một tiếng bước của con nai vàng xào xạc trên lá vàng khô…
Lưu Trọng Lư không thích chơi với Thế Lữ, mà lại ưa ông Phan
Khôi, và các anh Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng, Lê Tràng Kiều. Với
giọng nói trọ trẹ đặc biệt giọng Quảng Bình, và nụ cười đôi khi khinh miệt, đầy
nét trào phúng, Lư ngạo Nguyễn Công Hoan là “văn chương gõ đầu trẻ”, cười bọn
“thi sĩ” hay tâng hót Thế Lữ là lũ “chạy hiệu” và gặp giữa đường không bao giờ
anh bắt tay họ.
Anh có kể cho tôi nghe anh gặp ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu một
lần, ông ta đang say túy lúy. Anh không chịu được cái say của Tản Đà nhưng rất
yêu thơ của Tản Đà.
Một đêm, vào cuối năm 1939, bắt đầu chiến tranh, tôi đang ngủ
trên một gác trọ của một người bạn ở phố Quan Thánh. Lúc này tôi đang trốn
tránh vì nghe tin mật thám Pháp muốn kiếm bắt tôi. Bỗng dưng, gần 2 giờ sáng,
có tiếng gõ cửa ầm ầm. Bạn tôi ra bao lơn ngó xuống đường cái, thấy một bóng
người ngồi trên xe kéo, gục đầu vào thành xe. Bạn tôi lên tiếng hỏi:
- Ai hỏi gì đấy?
Anh phu xe ngước mặt lên đáp:
- Có một ông say rượu, bạn ông muốn vào ngủ nhờ.
Anh xe không biết tên. Người ngồi gục đầu trên xe cũng không
trả lời. Bạn tôi hỏi ý kiến tôi, tôi bảo anh ấy cứ xuống mở cửa xem ai. Tôi đã
đề phòng mọi bất trắc, thì một lúc lâu bạn tôi dìu lên cầu thang một xác người
bèo nhèo, không cử động. Tôi đến gần xem: Lưu Trọng Lư.
Chúng tôi đỡ Lư nằm trên bục gỗ. Người anh lạnh như đá. Chúng
tôi lấy chăn đắp cho anh, lấy dầu nóng xoa khắp thân thể anh. Một lúc tôi khẽ gọi:
- Lư! Cậu làm sao thế?
Lư uể oải, cố gượng trả lời từng tiếng, với giọng Quảng Bình
trọ trẹ:
- Tao ăn… thịt… chó… tao hút… thuốc phiện… nhiều quá… cho tao
cái chậu… để tao nôn… tao nôn… tao nôn…
Bạn tôi lật đật ra sân sau đem một cái chậu vào. Lưu Trọng Lư
cố níu lấy vai tôi để ráng ngồi dậy…
Bấy giờ tôi mới ngử thấy mùi thuốc phiện. Tôi biết Lưu Trọng
Lư hút thuốc phiện nhưng tôi không ngờ anh ghiền nặng thế. Một bạn làng văn thường
nằm hút với Lư ở trên gác một tiệm hút ở Chợ Hôm, cho tôi biết rằng có đêm Lưu
Trọng Lư hút đến 100 điếu. Tôi không biết đúng hay không, nhưng tôi tưởng tượng
100 cuộn khói phù dung mỗi đêm thấm vào tim phổi, thảo nào Lư không mỗi ngày mỗi
gầy đét đi.
Tôi đã nói Lưu Trọng Lư không có hiện hữu. Chỉ thấy cái bóng
của Lưu Trọng Lư trong gió bụi mà thôi. Chàng có lẽ là hiện thân của một Lý
Thái Bạch, một Đào Tiềm, lạc loài xuống đất Việt chăng?
Cho nên văn thơ của Lưu Trọng Lư không có gì là thực tế cả.
Lư chỉ mượn những cảnh vật trên trần ai mà chàng thấy có đượm đôi nét u hoài của
Tiên giới, để làm khung cảnh cho những giấc mơ của chàng. Ngoài ra, với Lư mọi
vật đều hư vô.
Lần đầu tiên tôi biết Lư là do bài thơ “Qua đèo ngang” của bà
Huyện Thanh Quan.
Năm 1932, một tờ báo tên là Phụ nữ Thời Đàm mới mở ở
đường Sông Tô Lịch. Tôi hãy còn là sinh viên, viết gởi đến báo ấy một bài phê
bình Văn nghệ, phủ nhận hoàn toàn giá trị bài thơ “Qua đèo ngang”. Hôm sau, một
người lạ, hình dáng ốm teo và nét mặt xương xương, tóc không chải, đến gác trọ
tôi, đưa cho tôi xem bài báo đã đăng, và hỏi có phải tôi là tác giả bài báo đó
không? Tôi xác nhận. Chàng xưng tên là Lưu Trọng Lư, phụ bút, đến biếu tôi tờ
báo và ngỏ ý hoàn toàn tán thành những nhận xét của tôi về giá trị của bài thơ,
Lưu Trọng Lư cười “như con nắc nẻ”(1) -Câu Lư thường dùng- nói giọng Quảng
Bình:
- Bài thơ dở như cứt thế này mà Dương Quảng Hàm nó khen! Thật
là lọ!
Nhưng rồi chúng tôi ít gặp nhau. Tôi còn học thi, thỉnh thoảng
viết văn, viết báo chơi cho vui thôi, và chưa quen với các nhà Văn.
1934, Lưu Trọng Lư đã nổi tiếng. Tiểu thuyết thứ bảy đăng
thường xuyên thơ và truyện dài, truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Nhân vụ “Tập Thơ
Đầu” của tôi ra đời, do Lưu Trọng Lư giới thiệu in ở nhà in “Tân Dân”, tôi mới
rủ Trương Tửu, giáo viên trường Tiểu Học Tư thục “Thanh Niên”, (lúc bấy giờ Tửu
chưa viết văn), đến thăm Lưu Trọng Lư tại một ngôi chùa ở Trại Hàng Hoa.
Vừa đến, chúng tôi thấy vợ chồng ông Vũ Đình Long, chủ nhiệm Tiểu
thuyết thứ bảy và chủ nhà in Tân Dân, đi xe hơi nhà đến thăm Lư và biếu
Thi sĩ hai hộp trái vải “conserve”.
Lưu Trọng Lư đang đánh cờ tướng với một ông Sư tại sân chùa,
mê cờ đến nỗi không đứng dậy tiếp vợ chồng ông Chủ nhiệm.
Vũ Đình Long không muốn quấy rầy nhà thơ, mở bóp lấy tấm danh
thiếp, viết mấy chữ “Kính biếu Lưu Trọng Lư Tiên sinh”, rồi hai vợ chồng rón
rén trở ra xe.
Trương Tửu và tôi ngồi xem đánh cờ. Lưu Trọng Lư không biết
Trương Tửu, tôi giới thiệu. Lư cười, gọi một chú tiểu trong Chùa:
- Mang cây đờn nguyệt ra đây, chú Huy, cho có đủ cầm, kỳ, thi
tửu!
1940, Tôi bị bắt vào nhà lao Mật thám Hà Nội, thì Lưu Trọng
Lư và Khái Hưng cũng đã bị bắt trước tôi. Khái Hưng bị đưa đi an trí tại Vũ Bản.
Khái Hưng bị bắt thì tôi có thể tin được, vì anh ấy đã lập ra
Đảng Dân Chính, một đảng thân Nhật. Còn Lưu Trọng Lư? Nghe nói Lưu Trọng Lư được
đưa về Huế, và sống tự do ở đây.
Năm 1947, một cô bạn gái tên là Thu, ngẫu nhiên gặp tôi ở Sài
Gòn. Trước cô làm giáo viên tại Đồng Hới và có quen thân với Lưu Trọng Lư, và
Võ Nguyên Giáp. Cô kể cho tôi nghe những ngày đau khổ của Thi sĩ họ Lưu ở Huế
vào khoảng 1943-1944.
Theo cô bạn ấy thuật lại, thì Lưu Trọng Lư ở trong một túp
nhà lá lụp xụp ở ngoại ô Huế. Tình cảnh của anh đói rách thật đáng thương. Mấy
người bạn nào đó có cho anh một ít áo quần và tiền bạc. Nhưng anh bị đau ốm
liên miên, chính cô bạn ấy phải lo săn sóc giùm. Nhưng sự giúp đỡ của người ta
có hạn, dần dần Lưu Trọng Lư bị bỏ nằm chèo queo trong cảnh bần hàn bịnh hoạn.
Anh không có con? (ở Hà Nội tôi không thấy có). Còn chị vợ buôn nước mắm, không
nghe ai nhắc đến.
Thời kỳ Việt Minh lên nắm chính quyền, cũng theo lời cô bạn
thuật lại, Lưu Trọng Lư làm cán bộ Công an đi bắt thuốc phiện lậu ở Huế! Nếu thật
đúng như vậy thì đáng tức cười quá!
1949, tôi có đọc mấy bài thơ kí tên Lưu Trọng Lư trong vài tờ
báo xuất bản trong chiến khu Miền Trung, tôi không tin của Lư. Mãi về sau này,
tôi lại được đọc một bài thơ của anh trong một tập sách của một cơ quan Văn hóa
Việt Cộng, xuất bản tại Hà Nội. Tôi không ngạc nhiên nữa nhưng hết sức buồn.
Trong bài thơ ấy, Thi sĩ mơ mộng của Mùa Thu dịu lành lại ca
ngợi sự chém giết và say sưa hô hào máu, máu, máu.
Ngòi bút của anh trước kia chép vần thơ Tiên trong mây trong
gió, bây giờ lại chấm vào máu viết trên đầu lâu, sọ dừa!
Than ôi! Thế cuộc đảo điên! Cho đến nỗi Lưu Trọng Lư hiền
lành thân quen của tôi cũng không còn gì là Lưu Trọng Lư nữa.
Thơ Lưu Trọng Lư
Lư thích làm thơ hơn là viết truyện. Lúc viết một tiểu thuyết,
Lư không hăng say như Lan Khai, không chăm chú như Vũ Trọng Phụng, không cặm cụi
như Nguyễn Tuân.
Những truyện dài, truyện ngắn của Lư đều giống như những bài
thơ gượng ép, phải kéo dài thành nhiều chương, phải bố trí các bối cảnh, tạo ra
các nhân vật, phải sắp xếp các hành động, và tất cả các nhân vật, bối cảnh,
hành động đều thêu dệt bằng thơ mộng. Nếu tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư hấp dẫn
một phần nào chính là vì mầu sắc thơ mộng bề ngoài của nó hơn là vì những tình
tiết, bố cục ở nội dung.
Lưu Trọng Lư lười biếng viết Tiểu thuyết, tự bắt buộc viết để
có tiền, phải viết truyện mới có tiền ăn tiêu hằng tháng. Chứ tiểu thuyết không
phải là sở thích của Lưu Trọng Lư.
Chơi với Lư lâu ngày tôi biết, nếu Lư giàu có, hoặc vợ có vốn
liếng buôn bán khá giả có thể lo đầy đủ cho đời sống phong lưu của anh, thì Lư
không thèm viết tiểu thuyết đâu. Lư chỉ làm thơ, và lúc nào hứng mới làm. Không
phải như Lan Khai, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân chẳng hạn, viết tiểu thuyết vì sở
trường, vì thích thú, chứ không hẳn riêng vì sinh kế.
Lưu Trọng Lư thuộc về hạng Thi sĩ bẩm sinh, một giống người đặc
biệt sống bằng mơ mộng hơn là thực tế, nhiều khi quên cả thực tế.
Cho lên Lư khổ tâm lắm, và ghét lắm, mỗi khi phải viết bài
đưa cho tòa soạn”. Và luôn luôn ông Chủ nhiệm Vũ Đình Long, Tiểu thuyết thứ bảy,
hay ông Chủ nhiệm Lê Cường, Tiểu thuyết thứ năm, chỉ giục thi sĩ viết tiểu thuyết
chứ không bao giờ giục thi sĩ làm thơ đâu! Thơ là món hàng trang trí, không bắt
buộc, và không có tiền “nhuận bút”. Ông Chủ nhiệm cũng ít khi hăng hái bỏ tiền
ra xuất bản một tập thơ của thi sĩ.
Thơ của Lưu Trọng Lư đăng rải rác trên các tuần báo, các tạp
chí văn nghệ khá nhiều từ 1932, mãi đến 1939 mới được nhà sách Tô Văn Đức, ở phố
Cầu Gỗ, xuất bản, dưới nhan đề Tiếng Thu.
Hôm Lư đem cho tôi một bản đặc biệt, anh nói riêng cho tôi biết
rằng Tô Văn Đức xuất bản tập thơ này là để trừ những món nợ lặt vặt mà Lư đã hỏi
mượn trước, chứ Lư không nhận được tiền “bản quyền” bao nhiêu.
Có một lần ở tại nhà trọ của Lư phố Hàm Long tôi cười hỏi Lưu
Trọng Lư:
- Lư ơi, bài thơ Tiếng Thu có phải thật của cậu
không?
Có Nguyễn Xuân Huy ngồi đấy, Lư “cười như nắc nẻ”:
- Thằng này mơ mộng thật! Mi tưởng bài đó của Thế Lữ à?
- Thế Lữ làm gì nổi một bài thơ như thế. Nhưng tao có đọc một
bài thơ của một thi sĩ Nhật Bản, giống hệt bài thơ của mày, và bài thơ Nhật
cũng tựa đề là Tiếng Thu.
Lưu Trọng Lư ngó Xuân Huy:
- Huy, mầy thấy thằng Vỹ nó điên không?
Huy bảo tôi:
- Bài thơ Nhật như thế nào?
- Mày muốn chép, tao đọc cho chép. Đây là một bài Tanka nổi
tiếng:
Oku yama ni
Momoji fumi wake
Naku shika no
Koe kiku toki zo
Aki wa kanashiki
Tác giả là Sarumaru, thế kỉ VIII.
Bài thơ này, Michel Revon có dịch ra Pháp văn trong quyển
“Anthologie des poètes japonais” - (Ed. Hachette):
Combien triste est l’automne
Quand j’entends la voix
Du cerf qui brame
En foulant et dispersant les feuuilles des érables
Dans les profondeurs de la Montagne.
- Karl Petit, trong quyển “La poésie japonaise
(Ed. Seghers) lại dịch đảo ngược lại, nhưng đúng theo nguyên
văn bài thơ Nhật:
Aux profondeurs de la Montagne
Ecartant et foulant les feuilles d’érable
Le cerf brame
Et à l’entendre ainsi,
Ah! que l’automne m’est lourdement triste!
Dịch đúng nghĩa ra Việt văn:
Trong núi rừng sâu
Ta nghe tiếng xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Ôi buồn làm sao!
Bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư!…
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Lưu Trọng Lư cãi liền:
- Bài của tao còn đọan trên:…
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
- Cậu làm bài thơ này hồi năm nào?
- Mới đây.
- Mới đây, và mấy năm nay trong nước mình làm gì có chiến
tranh, có “kẻ chinh phu” có “người cô phụ”? Tôi cho rằng cậu ghép thêm ba bốn
câu đó vào bài thơ của Saramaru để tương đối đôi chút, nhưng cậu lấy trọn vẹn bản
chính của Saramaru.
Lưu Trọng Lư không cãi nữa, nhưng Nguyễn Xuân Huy cười:
- Kết luận: les grands esprits se rencontrent! (1) (1) Những
trí óc vĩ đại thường gặp nhau!
Lưu Trọng Lư cũng biết rằng Lư nổi tiếng là nhờ bài này, nên
anh lấy tựa đề bài thơ Tiếng Thu làm nhan đề cho quyển thơ của anh.
Nhân vụ này, tôi cũng cho Lưu Trọng Lư và Nguyễn Xuân Huy biết
là câu thơ:
Yêu là chết trong lòng một tí
Của Xuân Diệu, là lấy nguyên vẹn câu của nhà văn Pháp Roland
Dorgelès đề trên trang đầu quyển phóng sự hồi kí “Sur la route mandarine”:
Partir c’est mourir un peu
(đi, là chết trong lòng một tí).
Chỉ đổi động từ Partir thành Yêu mà thôi.
Cũng như tất cả những truyện ngắn của Đoàn Phú Tứ trong tập
truyện “Những bức thư tình, đều dịch ra từ các truyện của các nhà văn Pháp:
Jules Renard, Courteline, P. Benoit, Secha Guitry.
Đoàn Phú Tứ dịch hẳn ra Việt văn, chứ không phải phóng tác,
hay “phỏng dịch”, mà anh ta lờ luôn “xuất xứ”, tự đề tên tác giả là Đoàn Phú Tứ?
Cũng hôm ấy, Nguyễn Xuân Huy và Lưu Trọng Lư bảo tôi viết một
bài trong Hà Nội Báo, phê bình tập truyện của Đoàn Phú Tứ, với câu kết luận là
“trả lại César cái gì của César”. Bài đó có đăng hai trang Hà Nội Báo của
Lê Tràng Kiều.
8. VI HUYỀN ĐẮC
Trống trường tiểu học Thanh Niên vừa đánh ba tiếng cho
học trò ra chơi, thì thầy giáo Trương Tửu đi giày lốp bốp sang nhà tôi ở ngay
bên cạnh. Tửu tươi cười nhanh nhẩu:
- Có một ông thầu khoán sẽ đến chơi.
Tưởng Trương Tửu nói đùa, tôi phì cười:
- Ông thầu khoán? Họ muốn bán xi măng cốt sắt cho tụi mình hả?
Trương Tửu cười sặc sụa, mặt đỏ như quả gấc:
- Một ông thầu khoán ở Hải Phòng, xây dựng nhà cửa và có dư
thì giờ xây dựng những vở kịch. Kể ra, hắn cũng là một tay độc đáo đấy nhé.
- Tên là gì?
- Vi Huyền Đắc.
- Cái tên có mùi sân khấu…
- Cậu phải đọc những vở kịch của anh ta. Ở Việt Nam không có
một người thứ hai như Vi Huyền Đắc đâu.
- Hắn ta đã viết những vở kịch gì?
- Nhiều lắm. Cả kịch bằng Việt văn, cả bằng Pháp văn, đến năm
sáu cuốn. Cậu phải bảo nhà sách Nam Kỳ gởi cho cậu xe.
- Một Cornelle? Một Racine? Một Voltaire?
- Không, một Vi Huyền Đắc.
- Tôi không quan niệm được một ông thầu khoán mà lại là kịch
sĩ. Một người cả ngày chỉ có việc làm những bài toán với mấy bao xi măng, mấy đống
gạch, mấy cái bù lon, bao nhiêu thước đá và thước cây, thì làm sao có được tinh
thần nghệ sĩ để viết những vở kịch nhỉ?
- Vi Huyền Đắc không phải là một nhà thầu khoán làm kịch sĩ,
mà là một kịch sĩ làm thầu khoán. Anh vừa xuất bản vở kịch bằng Pháp văn
“Eternels Regrets” đem lên Hà Nội biếu các bạn trong làng Văn, sáng nay có gặp
tớ và có nhờ tớ cho cậu biết trước rằng trưa nay hắn sẽ đến thăm cậu và biếu cậu
một quyển.
Trống trường Thanh Niên lại đánh ba tiếng, hết giờ chơi.
Nhưng Trương Tửu không trở lại lớp học nữa. Anh đã nhờ một người bạn dạy thế.
Chúng tôi uống trà, nói chuyện về môn kịch sứ ta, và ở Pháp,
Anh, Nhật. Ở mấy nước kia cũng như ở nhiều nước khác, môn kịch rất thịnh hành.
Không những người soạn kịch mà cả đến những người đóng kịch có tài cũng đều được
công chúng nhiệt liệt hoan nghênh, chính phủ trọng vọng. Còn ở xứ ta, những nhà
Đại kịch sĩ của mấy thế kỉ trước đã soạn ra các tuồng hát bội danh tiếng thì ít
ai biết đến tên. Văn học sử cũng không hề nói tới họ. Các người đóng kịch, thì
bị mang tiếng là “xướng ca vô loại”!
Hồi đầu thế kỉ XX này, do ảnh hưởng của kịch Pháp nước ta có
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, và một đôi người nữa dịch vài ba vở bi kịch và hài
kịch của Corneille và Molière, nhưng thiên về văn chương hơn là phương diện
trình diễn… Tôi nhắc đến một kịch sĩ Pháp ở Sài Gòn là Claude Bourrin có thí
nghiệm một bản kịch Việt Nam chuyên diễn xuất những vở kịch ngắn (seynètes)
theo loại Vaudevilles, trong những năm 1935-36-37, nhưng cũng thất bại, vì số
khán giả Việt Nam không có bao nhiêu người. Ban kịch này có ra Hà Nội nhưng
cũng không thành công. Vả lại các kịch ngắn của Claude Bourrin tuy diễn bằng tiếng
Việt, nhưng cũng chỉ mới là những hài kịch ngắn soạn bằng tiếng Pháp dịch ra tiếng
Việt chưa được hay lắm. Kể về kịch chân chính, đại quy mô, thì chưa có mấy ai
chuyên môn. Họa chăng bây giờ mới có Vi Huyền Đắc.
Nhưng Vi Huyền Đắc có phải thật là môt kịch sĩ tiền phong mà
chúng ta mong đợi hay không? Ông có tài nghệ dồi dào về môn kịch không?
Chính với hy vọng thiết tha đó mà buổi trưa hôm ấy tôi vui mừng
chờ đón Vi Huyền Đắc, tuy chưa hân hạnh biết anh.
Giữ Trương Tửu ở lại ăn cơm với tôi nhưng Tửu phải về Gia Lâm
thăm ông cụ, tôi ngồi một mình nơi phòng khách hồi một giờ, đang xem một quyển
sách, thì một người vóc cao từ ngoài sân gác bước vào, mắt to mũi lớn, miệng rộng,
nở một nụ cười mênh mông, và tiếng nói rang rảng:
- Có chủ nhân ở nhà không?
Tôi cười đứng dậy:
- Thưa có.
Tôi đưa tay ra bắt tay anh. Anh vẫn nói cười tự nhiên:
- Vi Huyền Đắc đây.
- Rất hân hạnh.
Coi bộ anh đã lớn hơn tôi mười hay mười lăm tuổi là ít, và
trông có vẻ nghệ sĩ nhiều hơn là thầu khoán lục lộ. Anh lấy một quyển Eternels
Regrets đã viết sẵn mấy dòng chữ tặng tôi. Tôi bối rối không biết nói câu gì để
cảm ơn anh, vì mới lần đầu tiên quen nhau anh đã có hảo ý biếu tôi một quyển
thuộc về loại sách đẹp, in trên giấy bouffant đắt tiền và ấn loạt rất có mỹ thuật.
Chúng tôi nói chuyện rất lâu về môn kịch, và tôi cảm thấy rõ
rệt là anh Vi Huyền Đắc có rất nhiều triển vọng về môn sở trường của anh.
Vở kịch Eternels Regrets đã chiếm được giải thưởng danh dự của
Hàn Lâm Viện Nice, một giải thưởng xứng đáng vì với quyển ấy Vi Huyền Đắc đã tỏ
ra một nhà kịch sĩ có thiên tài. Kịch này sắp trình diễn ở Paris năm 1939 thì
chiến tranh bùng nổ. Đề tài là cuộc tình duyên của An Lộc Sơn với nàng Dương
Quí Phi.
Sau đó, tôi có xem ba vở kịch khác của anh: Cô giáo Minh,
Uyên ương, Thành Cát Tư Hãn, mà giá trị về văn chương cũng như nghệ thuật đã đạt
đến một mức tinh vi hoàn hảo. Theo thiển ý của tôi, những vở kịch của Vi Huyền
Đắc đều có thể dịch ra ngoại ngữ và trình diễn trên sấu khấu ngoại quốc.
Buổi gặp gỡ anh Vi Huyền Đắc gây cho tôi được rất nhiều cảm
cách mến. Sau đó tôi có viết hai bài bằng Pháp văn trong báo La Patrie Annamite
và Le Cygne để giới thiệu anh và quyển Eternels Regrets. Một người Tiệp Khắc có
Pháp tịch và rất thông thạo Việt ngữ, - làm cả thơ chữ Việt nữa – lúc bấy giờ
làm Chánh lục sự ở tòa án Hải Phòng, tên là Edmond Chodzko, quen với tôi từ ba
bốn năm về trước có tỏ ý với tôi là ông muốn gặp anh Vi Huyền Đắc. Tôi có cho địa
chỉ của anh, nhưng không biết về sau hai người có gặp nhau không. Ông Edmond
Chodzko muốn đem các vở kịch của Vi Huyền Đắc qua trình diễn ở Paris và Prague.
Rất tiếc vì bận công việc riêng của mỗi người, và ở hai thành
phố cách xa 100 kilômet, chúng tôi không có nhiều dịp gặp nhau. Chỉ có một lần
Trương Tửu và tôi đi Hải Phòng, đến thăm anh Vi Huyền Đắc tại biệt thự của anh ở
bến Hạ Lý. Anh đang bận công việc thầu khoán ở đâu gần đó, chúng tôi ngồi phòng
khách chờ một lúc, người nhà đi mời anh về.
Cuộc hội kiến này rất là vui vẻ thân mật, anh Vi Huyền Đắc giữ
ở lại chơi khá lâu, nhưng tiếc thay, từ đó chúng tôi lại không có cơ hội tiếp
xúc với nhau nữa.
Mãi sau đình chiến và thỏa hiệp Genève, tôi mới được biết anh
Vi Huyền Đắc di cư vào Sài Gòn, cuối năm 1954. Tôi chạy đi kiếm anh. Gần 20 năm
xa cách, được gặp lại anh, tôi hồi hộp sung sướng muốn khóc lên. Vẫn với cặp mắt
thông minh to lớn ấy, hai lỗ mũi bự ấy, cái miệng rộng ấy, anh mừng rỡ đón tôi
với một tiếng cười nổ như sấm.
Anh ở một căn nhà tĩnh mịch, mà anh đặt tên là Hoàng Mai
Hiên, giữa một cảnh trí nên thơ ở miệt Ngã Năm Bình Hòa, ngoại ô Gia Định, có
hai vợ chồng, với một u già. Bao nhiêu cơ đồ sự nghiệp ở Hải Phòng đều bỏ lại rất
Bắc hết. Anh chị vào đây với hai bàn tay trắng. Bao nhiêu sách quý của anh, và
các bản thảo, cả những tác phẩm của anh đã xuất bản hồi tiền chiến, đều bị mất
sạch. Bấy giờ chị đi dạy học ở trường Tiểu học Đakao, và chị là một cô giáo rất
được học trò quí mến (1), (1) Chị Vi Huyền Đắc đã từ trần năm 1966 tại Hoàng Mai
Hiên còn anh thì ở nhà dịch tiểu thuyết Tàu cho vài tờ báo, sống cuộc đời
nhà văn thanh cao yên tịnh.
Viết đến đây, tôi không khỏi bùi ngùi về thân thế và sự nghiệp
văn chương của một nhà kịch sĩ có thiên tài.
Trong lúc ở ngoại quốc, nhất là ở các nước mà trình độ văn
hóa của công chúng đi theo kịp lịch sử tiến triển mãnh liệt của văn học, các
nhà kịch sĩ đang đưa lên sân khấu những sáng tác phẩm vô cùng sôi nổi, ảnh hưởng
lớn lao trong quần chúng, thì ở nước Việt Nam một nhà kịch sĩ có rất nhiều khả
năng, nghệ thuật điêu luyện tinh vi, đành xếp các vở kịch một bên, để dịch các
tiểu thuyết Tàu bán cho vài tờ báo, cho qua ngày qua tháng.
Sản phẩm thì để dành cho một số tuồng đề tài nhảm nhí, ý tưởng
nghèo nàn, nghệ thuật hổ lốn, văn chương sơ đẳng. Một Năm Châu, một Kim Cương,
một Út Trà On dù có đầy đủ khả năng và thiện chí, cũng đành phải chạy theo sau
lớp tuồng Vọng cổ.
Một Vi Huyền Đắc có thiên tài nhưng không có phương tiện,
không có hoàn cảnh, làm sao xây dựng được một kịch trường xứng đáng với dân tộc
nghìn năm văn hiến, để hãnh diện với kịch trường quốc tế?
Tôi đã nhiều lần trình bày riêng một vài đề nghị với anh Vi
Huyền Đắc và anh Đinh Xuân Hòa, nay tôi xin phép nhắc lại: Các anh có thể nào
công tác với nhau để gây ra một phong trào Kịch trường mới mẻ, tiến bộ, phấn khởi,
để xúc tiến mãnh liệt và rộng lớn nghệ thuật Kịch trường Việt Nam không? Vì giá
trị và danh dự của Văn hóa Việt Nam trước Văn hóa ngoại quốc, tôi thiết tha
mong mỏi có sự cộng tác ấy.
Tôi chỉ gặp Khái Hưng vài lần. Một buổi sáng cùng đi với Từ Bộ Hứa, nhà Thi sĩ ho lao, tác giả tập thơ bằng Pháp văn “Poésies Grises” mà báo Phong Hóa ngạo là “Thơ xám xịt”.
Tôi muốn đến thăm Khái Hưng để nói chuyện chơi và cảm ơn anh đã gởi cho mấy quyển tiểu thuyết “Lá mạ” của anh vừa xuất bản. Trong nhóm văn sĩ của Phong Hóa, thành thật tôi chỉ có cảm tình với Khái Hưng mà thôi, mặc dù trước đó chưa gặp anh lần nào.
Tòa báo Phong Hóa ở góc đường Quang Thánh và đường hàng Bún, một biệt thự thì đúng hơn, và có vẻ sang trọng.
Qua một sân trồng các thứ hoa, chúng tôi vào phòng khách. Nơi đây cách bài trí cũng có vẻ trưởng giả. Giữa salon, có đặt một cái kệ thấp, trên để một chiếc mâm đồng lớn, chạm trổ theo lối mỹ thuật Bắc. Chúng tôi đưa danh thiếp cho một người Tùy phái, thì vài phút sau, một người đã lớn tuổi ra niềm nở bắt tay chúng tôi. Đó là Khái Hưng.
Người gầy ốm, đôi má hơi cóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi. Nụ cười ngụ nét hóm hỉnh, nhưng hiền lành khả ái, chứ không hời hợt đãi bôi như Thế Lữ và không trào lộng như Nguyễn Trường Tam.
Khái Hưng cũng không tự kiêu tự đắc, tính điềm và tao nhã, câu chuyện có vẻ thành thật và lịch sự. Tôi không đồng ý về một vài quan niệm của anh đối với tiểu thuyết, nhưng cuộc thảo luận vẫn thân thiện, vui vẻ. Có điều tôi phục anh, là anh thẳng thắn nhìn nhận rằng anh viết tiểu thuyết tùy theo nhu cầu và điều kiện văn nghệ của một thời đại mà thôi. Anh bảo:
- Những Romans à thèse Tiểu thuyết có chứa đựng một luận đề của tôi (câu này, anh dùng tiếng Pháp) chỉ có mục đích cải cách một vài tập tục trong xã hội Việt Nam hiện nay, những tập tục mà ta thấy rõ ảnh hưởng không tốt cho xã hội. Một ngày sau những tập tục đó sẽ không còn trong một xã hội tiến bộ hơn thì tiểu thuyết của tôi sẽ mất giá trị của nó.
Tôi bảo:
- Có lẽ vì anh chủ trương cải tạo xã hội nhất thời nên tôi có cảm tưởng hình như anh không đi sâu vào tâm lý các nhân vật trong truyện. Tôi nghĩ rằng tâm lý không bao giờ thay đổi.
- Tôi không có ý định viết một quyển “Le Disciple” như P. Bourget. Trái lại, tôi thấy trong quyển “Đứa Con Hoang” của anh, anh muốn phân tách tâm lý của người trong truyện, cho nên anh gạt bỏ ra nhiều thực tế quá.
- Quyển Đứa Con Hoang của tôi chỉ là một thí nghiệm sơ khởi. Dù sao, tôi rất thích quyển Hồn bướm mơ tiên của anh hơn cả các quyển khác.
Khái Hưng lấy hai quyển Hồn bướm mơ tiên tặng Từ Bộ Hứa và tôi, để làm kỉ niệm buổi gặp gỡ lần đầu. Anh viết lời tặng bằng Pháp văn.
Au Poète N.V.
Hommage Cordial de l;auteur.
Tên ký của anh giản dị rõ ràng, gần như tên viết thường.
Tôi có hỏi tại sao anh lấy bút hiệu Khái Hưng, anh bảo:
- Tên thật của tôi là Trần Khánh Giư, hai chữ Khánh Giư, sắp xếp theo lối anagramme thành ra Khái Hưng, chứ không có gì lạ. Còn bút hiệu của anh là Lệ Chi, có nghĩa gì?
Anh hỏi lại tôi. Tôi cười không đáp, Khái Hưng nói tiếp:
- Lê Tràng Kiều bảo Lệ Chi là Chị Lê, nhưng không nói rõ chị Lê là ai.
- Kiều nói đùa đấy. Không đúng… À, có người bảo anh có đi dạy học, phải không anh?
- Vâng, trước tôi có làm instituteur. Hồn bướm mơ tiên, chính tôi đã viết bản thảo từ hồi còn dạy học. Sau này tôi mới sửa chữa lại để đăng báo Phong Hóa.
- Văn anh gọn lắm, dễ thương lắm.
- Có lẽ ảnh hưởng lối văn Thầy giáo cho học trò. Vì tôi dạy về luận văn, thường bảo học trò viết câu văn xuôi cho gọn gàng giản dị. Tôi viết lối văn bay bươm và mơ mộng như các anh không được. Tôi thích loại văn của Alphonse Daudet, hoặc Guy de Maupassant.
- Tôi lại thấy văn anh sung túc như tác phẩm của Emile Zola.
Tuy ở chung một tòa soạn, nhưng Khái Hưng không thích chơi với Thế Lữ. Trái lại, Khái Hưng thân với Nguyễn Tường Tam và Tú Mỡ. Anh ít nói, tính điềm đạm, nhưng thỉnh thoảng khôi hài đôi chút, và không làm mích lòng ai. Trong nhóm Phong Hóa anh là người được đa số anh em nhà văn mến nhất.
Thi sĩ Từ Bộ Hứa, tác giả tập thơ Pháp văn “Poésies Grises”, ho lao nặng, hài hước một câu:
- Tôi thú thật không đọc tiểu thuyết của anh, cũng như của những nhà văn khác. Tôi chỉ thích thơ, anh lại ít làm thơ. Nhưng tôi quí mến anh vì anh cũng một kẻ ho lao khốn nạn như tôi!
Khái Hưng cười:
- Anh lầm rồi đấy. Ho lao không phải là một tội lỗi. Có lẽ hơn nữa, đó là một triệu chứng tài hoa đặc biệt của Thượng đế ban cho, tôi muốn nói: la marque d’un génie. Tôi rất tiếc không được hân hạnh là người ho lao.
Sự thật, Khái Hưng không bị ho lao. Anh gầy có lẽ tại anh hút thuốc phiện nhiều và thức đêm nhiều. Theo lời anh cho chúng tôi biết, hầu hết các truyện dài của anh phải viết bên bàn đèn thuốc phiện. Mặc dù anh tốn rất nhiều tiền để tầm bổ, nhưng bẩm chất của anh không được mạnh, lại bị làm việc quá sức. Anh thú thật hồi anh đi dạy học, sức khỏe của anh dồi dào hơn nhiều.
Năm 1940, Khái Hưng và Nguyễn Tường Tam lập ra một đảng chính trị, tên là “Dân Chính Đảng” mà Khái Hưng là đảng trưởng. Một đảng có khuynh hướng thân Nhật Bổn, nhưng hoạt động bí mật. 1942, anh bị Mật thám Pháp bắt, đưa đi an trí ở Vũ Bản, bị bắt trước tôi mấy ngày.
1955, tôi được gặp nhiều anh em nhà văn Hà Nội di cư vào Sài Gòn, trong số có Vũ Bằng, Tam Lang, Thượng Sỹ, Vi Huyền Đắc v.v…
Hỏi về tin tức Khái Hưng, có mấy anh cho tôi biết Khai Hưng bị Việt Minh “quản thúc” ở ngay làng anh. Nhân một buổi hội họp tại trụ sở ủy ban Xã, Khái Hưng có làm một bài thơ tán dương Hồ Chí Minh, nhưng ngụ ý châm biếm. Sau đó, anh bị một cán bộ Xã thủ tiêu trên một đường làng gần nhà anh, vào khoảng nửa đêm.
Tin đó đúng hay không, tôi chưa được biết đích xác. Tôi có hỏi Nguyễn Tường Tam khi tôi gặp lại anh lần đầu tiên tại Sài Gòn, năm 1952, ở nhà ông Nguyễn Tường Phượng, anh của ông, là Công chức Sở Bưu điện Sài Gòn. Rất tiếc, anh Nhất Linh cũng không hiểu rõ về những giờ phút cuối cùng của Khái Hưng. Theo lời anh, cũng chỉ nghe người ta nói lại rằng Khái Hưng bị Việt Minh thủ tiêu, thế thôi. Tôi hơi ngạc nhiên, vì đáng lẽ Nhất Linh phải điều tra đích xác về cái chết của người bạn thân nhất của anh trong làng văn Việt Nam. Dù sao Khái Hưng cũng đã lìa đời một cách đau đớn và đột ngột, vào khoảng năm 1946, hay 1947…
Tôi buồn bã nhớ lại khuôn mặt xanh xao và khả ái của tác giả “Hồn bướm mơ tiên”.
10. NHẤT LINH NGUYỄN TƯỜNG TAMTôi muốn đến thăm Khái Hưng để nói chuyện chơi và cảm ơn anh đã gởi cho mấy quyển tiểu thuyết “Lá mạ” của anh vừa xuất bản. Trong nhóm văn sĩ của Phong Hóa, thành thật tôi chỉ có cảm tình với Khái Hưng mà thôi, mặc dù trước đó chưa gặp anh lần nào.
Tòa báo Phong Hóa ở góc đường Quang Thánh và đường hàng Bún, một biệt thự thì đúng hơn, và có vẻ sang trọng.
Qua một sân trồng các thứ hoa, chúng tôi vào phòng khách. Nơi đây cách bài trí cũng có vẻ trưởng giả. Giữa salon, có đặt một cái kệ thấp, trên để một chiếc mâm đồng lớn, chạm trổ theo lối mỹ thuật Bắc. Chúng tôi đưa danh thiếp cho một người Tùy phái, thì vài phút sau, một người đã lớn tuổi ra niềm nở bắt tay chúng tôi. Đó là Khái Hưng.
Người gầy ốm, đôi má hơi cóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi. Nụ cười ngụ nét hóm hỉnh, nhưng hiền lành khả ái, chứ không hời hợt đãi bôi như Thế Lữ và không trào lộng như Nguyễn Trường Tam.
Khái Hưng cũng không tự kiêu tự đắc, tính điềm và tao nhã, câu chuyện có vẻ thành thật và lịch sự. Tôi không đồng ý về một vài quan niệm của anh đối với tiểu thuyết, nhưng cuộc thảo luận vẫn thân thiện, vui vẻ. Có điều tôi phục anh, là anh thẳng thắn nhìn nhận rằng anh viết tiểu thuyết tùy theo nhu cầu và điều kiện văn nghệ của một thời đại mà thôi. Anh bảo:
- Những Romans à thèse Tiểu thuyết có chứa đựng một luận đề của tôi (câu này, anh dùng tiếng Pháp) chỉ có mục đích cải cách một vài tập tục trong xã hội Việt Nam hiện nay, những tập tục mà ta thấy rõ ảnh hưởng không tốt cho xã hội. Một ngày sau những tập tục đó sẽ không còn trong một xã hội tiến bộ hơn thì tiểu thuyết của tôi sẽ mất giá trị của nó.
Tôi bảo:
- Có lẽ vì anh chủ trương cải tạo xã hội nhất thời nên tôi có cảm tưởng hình như anh không đi sâu vào tâm lý các nhân vật trong truyện. Tôi nghĩ rằng tâm lý không bao giờ thay đổi.
- Tôi không có ý định viết một quyển “Le Disciple” như P. Bourget. Trái lại, tôi thấy trong quyển “Đứa Con Hoang” của anh, anh muốn phân tách tâm lý của người trong truyện, cho nên anh gạt bỏ ra nhiều thực tế quá.
- Quyển Đứa Con Hoang của tôi chỉ là một thí nghiệm sơ khởi. Dù sao, tôi rất thích quyển Hồn bướm mơ tiên của anh hơn cả các quyển khác.
Khái Hưng lấy hai quyển Hồn bướm mơ tiên tặng Từ Bộ Hứa và tôi, để làm kỉ niệm buổi gặp gỡ lần đầu. Anh viết lời tặng bằng Pháp văn.
Au Poète N.V.
Hommage Cordial de l;auteur.
Tên ký của anh giản dị rõ ràng, gần như tên viết thường.
Tôi có hỏi tại sao anh lấy bút hiệu Khái Hưng, anh bảo:
- Tên thật của tôi là Trần Khánh Giư, hai chữ Khánh Giư, sắp xếp theo lối anagramme thành ra Khái Hưng, chứ không có gì lạ. Còn bút hiệu của anh là Lệ Chi, có nghĩa gì?
Anh hỏi lại tôi. Tôi cười không đáp, Khái Hưng nói tiếp:
- Lê Tràng Kiều bảo Lệ Chi là Chị Lê, nhưng không nói rõ chị Lê là ai.
- Kiều nói đùa đấy. Không đúng… À, có người bảo anh có đi dạy học, phải không anh?
- Vâng, trước tôi có làm instituteur. Hồn bướm mơ tiên, chính tôi đã viết bản thảo từ hồi còn dạy học. Sau này tôi mới sửa chữa lại để đăng báo Phong Hóa.
- Văn anh gọn lắm, dễ thương lắm.
- Có lẽ ảnh hưởng lối văn Thầy giáo cho học trò. Vì tôi dạy về luận văn, thường bảo học trò viết câu văn xuôi cho gọn gàng giản dị. Tôi viết lối văn bay bươm và mơ mộng như các anh không được. Tôi thích loại văn của Alphonse Daudet, hoặc Guy de Maupassant.
- Tôi lại thấy văn anh sung túc như tác phẩm của Emile Zola.
Tuy ở chung một tòa soạn, nhưng Khái Hưng không thích chơi với Thế Lữ. Trái lại, Khái Hưng thân với Nguyễn Tường Tam và Tú Mỡ. Anh ít nói, tính điềm đạm, nhưng thỉnh thoảng khôi hài đôi chút, và không làm mích lòng ai. Trong nhóm Phong Hóa anh là người được đa số anh em nhà văn mến nhất.
Thi sĩ Từ Bộ Hứa, tác giả tập thơ Pháp văn “Poésies Grises”, ho lao nặng, hài hước một câu:
- Tôi thú thật không đọc tiểu thuyết của anh, cũng như của những nhà văn khác. Tôi chỉ thích thơ, anh lại ít làm thơ. Nhưng tôi quí mến anh vì anh cũng một kẻ ho lao khốn nạn như tôi!
Khái Hưng cười:
- Anh lầm rồi đấy. Ho lao không phải là một tội lỗi. Có lẽ hơn nữa, đó là một triệu chứng tài hoa đặc biệt của Thượng đế ban cho, tôi muốn nói: la marque d’un génie. Tôi rất tiếc không được hân hạnh là người ho lao.
Sự thật, Khái Hưng không bị ho lao. Anh gầy có lẽ tại anh hút thuốc phiện nhiều và thức đêm nhiều. Theo lời anh cho chúng tôi biết, hầu hết các truyện dài của anh phải viết bên bàn đèn thuốc phiện. Mặc dù anh tốn rất nhiều tiền để tầm bổ, nhưng bẩm chất của anh không được mạnh, lại bị làm việc quá sức. Anh thú thật hồi anh đi dạy học, sức khỏe của anh dồi dào hơn nhiều.
Năm 1940, Khái Hưng và Nguyễn Tường Tam lập ra một đảng chính trị, tên là “Dân Chính Đảng” mà Khái Hưng là đảng trưởng. Một đảng có khuynh hướng thân Nhật Bổn, nhưng hoạt động bí mật. 1942, anh bị Mật thám Pháp bắt, đưa đi an trí ở Vũ Bản, bị bắt trước tôi mấy ngày.
1955, tôi được gặp nhiều anh em nhà văn Hà Nội di cư vào Sài Gòn, trong số có Vũ Bằng, Tam Lang, Thượng Sỹ, Vi Huyền Đắc v.v…
Hỏi về tin tức Khái Hưng, có mấy anh cho tôi biết Khai Hưng bị Việt Minh “quản thúc” ở ngay làng anh. Nhân một buổi hội họp tại trụ sở ủy ban Xã, Khái Hưng có làm một bài thơ tán dương Hồ Chí Minh, nhưng ngụ ý châm biếm. Sau đó, anh bị một cán bộ Xã thủ tiêu trên một đường làng gần nhà anh, vào khoảng nửa đêm.
Tin đó đúng hay không, tôi chưa được biết đích xác. Tôi có hỏi Nguyễn Tường Tam khi tôi gặp lại anh lần đầu tiên tại Sài Gòn, năm 1952, ở nhà ông Nguyễn Tường Phượng, anh của ông, là Công chức Sở Bưu điện Sài Gòn. Rất tiếc, anh Nhất Linh cũng không hiểu rõ về những giờ phút cuối cùng của Khái Hưng. Theo lời anh, cũng chỉ nghe người ta nói lại rằng Khái Hưng bị Việt Minh thủ tiêu, thế thôi. Tôi hơi ngạc nhiên, vì đáng lẽ Nhất Linh phải điều tra đích xác về cái chết của người bạn thân nhất của anh trong làng văn Việt Nam. Dù sao Khái Hưng cũng đã lìa đời một cách đau đớn và đột ngột, vào khoảng năm 1946, hay 1947…
Tôi buồn bã nhớ lại khuôn mặt xanh xao và khả ái của tác giả “Hồn bướm mơ tiên”.
Trường Thăng Long và Báo Phong Hóa
Anh Phan Thanh, cựu trợ giáo người Quảng Nam, nhân viên “Đại Hội Đồng Kinh tế và Tài chánh Đông Dương”; và Giáo sư Trung học Tư thục Nguyễn Văn Tòng, giới thiệu tôi vào dạy Pháp văn và Sử ký ở trường ấy.
Nhưng mới dạy được hai tháng thì tôi nghỉ, anh Phan Thanh cũng thôi dạy. Ông Hiệu trưởng Nguyễn Văn Tòng vừa bán lại trường cho ông Nguyễn Tường Tam, Cử nhân Khoa học, ở Pháp mới về.
Đó là năm 1930. Hầu hết những giáo sư cũ đều nghỉ hoặc đi dạy các trường khác. Ông Nguyễn Tường Tam, tân Hiệu trưởng, dùng những Giáo sư mới của ông, trong số đó có thầy Trần Khánh Giư.
Trường cũng đổi tên là “Ecole Thăng Long”, ở góc đường Hàng Cót (rue de Takou), và đường Cửa Bắc (Bd Carnot), ngó ngang bót Cảnh sát Hàng Đậu (rue des Graines), tức là con đường chạy ra Cầu Sông Cái (Bờ Sông).
Một năm sau, người ta thấy rải rác trên các vách tường trong thành phố dán một tờ quảng cáo lớn loan tin một tờ Báo hài hước sắp ra đời, tên là “Phong Hóa tuần báo”, Chủ nhiệm: Nguyễn Tường Tam, Tòa soạn và ban trị sự đặt tại trường Thăng Long, phố Hàng Cót.
Quảng cáo nhấn mạnh là tuần báo hài hước chuyên môn cười và làm cho độc giả cuời. Lần đầu tiên ở Hà Nội, một nhóm người làm Báo Phong Hóa, chế giễu “những cái tệ đoan của phong hóa An Nam”.
Tuần báo Phong Hóa số 1, trẻ con ôm đi bán rong, vừa chạy vừa la inh ỏi, khắp các phố phường Hà Nội. Thiên hạ tò mò mua xem, báo “bán chạy như tôm tươi”. Lý do: báo Phong Hóa đăng đầy những bức vẽ, những mục khôi hài, chế giễu tập tục “phong hóa An Nam”.
Công chúng bình dân, từ cô sen, cậu bồi, đến các lớp học sinh thanh niên nam nữ, và công tư chức đều cười rũ rượi khi đọc những mẩu chuyện hóm hỉnh và nhìn những bức vẽ rất tức cười, chế nhạo nào ông Lý Toét Đình Dù, “ở nhà quê ra tỉnh” ngớ ngẩn trước các sự kiện “văn minh”, tân tiến của thời đại, nào các chuyến xe đò chở đầy nghẹt dân quê lẫn lộn với heo gà, nào người mù đi không thấy đường, ngã tòm xuống lỗ cống trên bờ lề đường phố v.v… Nhiều bức vẽ do nét bút khôi hài của Nguyễn Tường Tam. Mấy số đầu, được đàn bà và trẻ em thích đọc nhiều nhất. Dần dần bảo Phong Hóa vẽ và chế giễu các nhân vật trí thức, trung lưu và thượng lưu có đôi chút tiếng tăm trong xã hội đương thời, khiến các giới ấy cũng phải mua Phong Hóa để xem. Nào là ông Giáo sư Lê Công Đắc bị báo Phong Hóa đặt cho biệt danh là “Con gà ba chân” (1), (1) Bà Bé Tý, quả phụ của một ông Tây Chánh chủ Sở Bưu điện Hà Nội, ở phố Hàng Bạc, đã nổi tiếng nhờ chuồng thú của bà có nuôi nhiều con vật lạ, trong số có một Con Gà Ba Chân. Phong Hóa cho rằng Lê Công Đắc là một con quái vật như con gà ấy.> nào ông Luật sư Lê Thăng là “Con đĩ đánh bồng”, nào Thi sĩ Nguễn Khắc Hiếu, say rượu túy lúy, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Công Tiễn, chữa bịnh toi gà, ông Nguyễn Văn Vĩnh, bụng bự, ông Nguyễn Văn Tố, gọi là ông “Bùi Tó”, Nguyễn Tiến Lãng, con ve sầu v.v…
Ai đọc báo Phong Hóa cũng không thể nhịn cười, và mỗi tuần ai cũng chờ đến ngày báo Phong Hóa phát hành để mua một tờ đọc cười chơi. Tuần báo Phong Hóa thật đã đem một không khí “Cười nhộn” khắp thành phố Hà Nội, một cố đô cổ kính nghiêm nghị của “nghìn năm văn vật”.
Một số dư luận trong giới trí thức và cách mạng Hà Nội phê bình Phong Hóa do một người Việt Nam du học ở Pháp mới về, nêu lên tính chất hài hước đả phá, có ác ý hoặc vô ý thức, không có gì xây dựng “phong hóa” cho nước nhà. Vô ý thức nhất là nhân vật Lý Toét, tượng trưng người “An Nam” quê mùa, ngớ ngẩn, trước văn minh Âu Tây đang thịnh hành. Báo Thực dân Pháp ở Hà Nội thường trích đăng những bức vẽ khôi hài của Phong Hóa để chế nhạo người “An-na-mít” mà họ gọi bằng một danh từ khinh bỉ là “nhaque” (đọc là nhấc cờ) theo chữ “nhà quê” bỏ dấu.
Nguyễn Trường Tam đã thành công với tiếng cười kích động của ông. Báo Phong Hóa vượt lên một số lượng phát hành vô địch. Và ông cũng nổi tiếng từ đó.
Vài năm sau, ông bán trường Thăng Long cho một nhóm Giáo sư hùn hợp, ma trong đó ông cũng có cổ phần: Ecole Thăng Long đổi thành Lycéum Thăng Long, và dời qua một đường hẻm gần Chợ Hàng Đa. Trong ban quản trị mới của trường Thăng Long có Hoàng Minh Giám làm Directeur (Hiệu trưởng), Nguyễn Tường Tam, Tôn Thất Bình (Chủ bút báo La Patrie Annamite, và con rể của Phạm Quỳnh, Lại Bộ Thượng Thơ Huế). Hoàng Minh Giám có giới thiệu Võ Nguyên Giáp (Chứng chỉ năm thứ hai Cử nhân Luật, 1939) vào dạy Sử kí ở trường này, và Đặng Thái Mai, dạy Pháp văn.
Thầy giáo Trần Khánh Giư, viết tiểu thuyết cho báo Phong Hóa, dưới bút hiệu Khái Hưng, đã nghỉ dạy từ lâu.
Trong thời gian này, Nguyễn Tường Tam cũng có viết tiểu thuyết trong Phong Hóa với bút hiệu Nhất Linh, nhưng phải nhờ Khái Hưng sửa chữa nhiều. Những tác phẩm song hành ấy đều kí cả hai tên: Khái Hưng và Nhất Linh, theo lời Nguyễn Tường Tam nói với tôi.
Cũng một đôi quyển truyện của Nguyễn Tường Tam đã được Khái Hưng sửa lại, nhưng Khái Hưng không để tên mình, Nguyễn Tường Tam, Cử nhân Khoa học bắt đầu viết tiểu thuyết dưới sự hướng dẫn hướng dẫn của nhà văn Khái Hưng.
Là một trong số độc giả trung thành của báo Phong Hóa, tôi rất thích đọc những vui cười và xem những tranh vẽ hài hước. Tôi không đọc tiểu thuyết. Vô tư mà xét, thì ngoài những tranh vẽ và những bài đả kích có ác ý hiển nhiên, báo Phong Hóa có nhiều câu chuyện khôi hài và tranh vẽ trào phúng thật vui, lôi cuốn số đông độc giả.
Mặc dù chính tôi cũng đã là nạn nhân của Phong Hóa, bị họ vẽ khôi hài, hoặc bị chế giễu cách này hay cách khác, tôi vẫn cho đấy là những trò đùa bâng quơ vô hại.
Trương Tửu thì hoàn toàn không ưa Phong Hóa, và nhóm nhà Văn của báo ấy. Tháng 10-1939, một tháng sau ngày Đệ nhị Thế chiến bùng nổ, có một cuộc hội họp của một “Nhóm Nhà Văn chống Phát xít”. Tôi hơi ngạc nhiên gặp ông Nguyễn Tường Tam. Ngạc nhiên vì lúc bấy giờ ai cũng biết ông Tam có khuynh hướng thân Nhật, và chúng tôi thì chống Nhật hoàn toàn.
9 giờ đêm ra về, ông và tôi lại gặp nhau trên Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau vài câu chuyện về thời cuộc, ông hỏi tôi với giọng hài hước bất hủ của ông:
- Sao anh chống Nhật? Nhật có làm gì hại anh mà anh chống họ?
Tôi cuời:
- Thế tại sao anh thân Nhật? Nhật làm gì lợi cho anh mà anh thân nó?
Hai câu hỏi làm quà trao đổi cho nhau biến thành một cuộc “đấu khẩu” mà cả hai đều cố giữ phong độ trào phúng trong giới hạn vui đùa.
Sau buổi làm quen đầu tiên ấy, tôi không gặp Nguyễn Tường Tam nữa.
Tôi bị Nhật bắt rồi Tây bắt… Mãi đến năm 1948… tôi gặp lại Nguyễn Tường Tam ở Sài Gòn.
Nửa giờ với Nguyễn Tường Tam về văn nghệ
(Trích Phổ thông Tạp chí, số 1, Bộ cũ, ngày 1 tháng 1 năm 1952)
Sau ngày 19-12-1946 chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, ông Nguyễn Tường Tam lánh sang Tàu, mãi đến năm 1950, người Pháp đặt lại chủ quyền ở Bắc Việt ông mới về Hà Nội. Tháng 12-1952 tôi ở Đà Lạt xuống Sài Gòn gặp một ông bạn cho biết hiện giờ Nguyễn Tường Tam ở nhà ông Nguyễn Tường Phượng, anh của ông, công chức sở Bưu điện Sài Gòn. Tôi đến thăm lấy tình bạn cũ trong làng Văn Bắc Việt. Tuy ở Hà Nội không quen nhau nhiều nhưng vẫn biết nhau lắm, sau mười mấy năm trời xa cách nhau vì thời cuộc nay gặp lại cả hai đều niềm nở vui mừng.
Phút đầu trông thấy nhau, chúng tôi còn ngờ ngợ bởi lâu ngày ở trên rừng núi chung với đồng bào thiểu số Radhés da mặt tôi cũng nhuộm một màu nam nám, ông Tam trố mắt ngó rồi bắt tay cười:
- Sao bây giờ anh đen dữ vậy?
Tôi hỏi lại ông:
- Anh để râu mép hồi nào?
- Tôi để râu từ hồi làm Cách mạng.
Ông Tam lúc này chắc cũng trạc độ 45 hay 50 tuổi, nhưng nụ cười hài hước của ông vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Tôi thấy ông có vẻ buồn nản, mặc dầu ông cố giấu, nó vẫn lộ ra khi ông hết cười. Đưa gói thuốc mời tôi, tay ông run run như muốn rụng, cái đầu ông hơi lắc qua lắc lại như không vững, đôi mắt nháy lia nháy lịa như thầy bói, mà ông lại hay cười. Nét cười tang thương lạ!
Sau những biến cố mà Tổ quốc đã trải qua từ 1945, tôi không muốn nói chính trị với ông. Ông cười:
- Chúng ta nói chuyện văn chương thích hơn nhiều chứ?
Vả lại ông Tam đã tuyên bố từ ngày hồi cư rằng ông về đây để viết sách mà thôi. Từ nay ông nhất định từ giã chính trị, để chuyên về nghệ thuật văn chương. Ông cho tôi biết ông đang viết một quyển tâm lí tiểu thuyết phải ba năm mới rồi.
- Anh định viết một bộ truyện dài lắm hả?
- Vâng, tôi định viết một bộ tâm lí tiểu thuyết trường giang đại hải mà tôi chưa biết nó sẽ đi tới đâu và sẽ kết thúc ra sao. Các nhân vật trong truyện, tôi để cho họ tự ý hành động theo tâm lí, rồi kết cấu về sau thế nào tự nó sẽ hiện ra, tôi không sắp đặt trước. Bởi kết cấu của truyện sẽ do kế tiếp tự nhiên của sự vật tạo thành.
- Anh coi chừng kẻo anh sẽ tạo ra một chàng Frankeinstein!
Nhưng ông Nhất Linh quả quyết rằng nghệ thuật thuần túy chính là sự phác họa trung thành các thực tế linh hoạt và vĩnh viễn của cuộc đời, chớ không phải do một man hứng viển vông nhất thời của nhà văn. Nghệ thuật, theo ông, phải gồm cả thời gian và không gian. Nó phải chi phối các chân tướng của vũ trụ, và như thế, nó mới bền bỉ lâu dài. Vì vậy, ông Nguyễn Tường Tam cho rằng những quyển truyện mà chính ông đã viết hồi trước kia, đều dở lắm. “Tồi nhứt là quyển Đoạn tuyệt và quyển Lạnh lùng”. Chỉ trừ cuốn Bướm Trắng sau mười năm ông đọc lại còn thấy giá trị mà thôi.
Cả quan niệm của Nguyễn Tường Tam về Nghệ thuật Văn chương đều tóm lại thành một nguyên tắc: Nghệ thuật phải đi sát với thực tế. Tất cả cái gì ra ngoài chân lí căn bản của nhân sinh, - và chỉ có chân lí là tồn tại trong thời gian và không gian, - tất cả các cái ấy đều phản nghệ thuật.
- Anh muốn trở lại cuộc tranh luận cũ kỹ giữa hai phái “Nghệ thuật vì Nghệ thuật”, “Nghệ thuật vì Nhân sinh”? Vậy đâu là nghệ thuật thuần túy?
Nhưng ông Tam cho rằng nghệ thuật thuần túy không phân biệt gì cả: nó bao quát tất cả thực tế đang tồn tại trên đời…
Riêng tôi, tôi không đồng quan niệm ấy. Nếu nghệ thuật là sự biểu diễn của thực tế, dù là một nghệ thuật tế nhị đến đâu đi nữa, nó cũng chỉ là khô khan mà thôi. Phác họa đúng màu sắc của sự vật cũng chưa đủ là nghệ thuật. Bởi vì nhà nghệ sĩ chân chính không quên được màu sắc của tưởng tượng, những màu sắc ấy ở ngoài không gian và thời gian, và nó đẹp hơn nhiều.
Ai chối cãi rằng Jules Verne đã không phải là nghệ sĩ? Rằng Peter Cheney hay Walt Disney, không phải là nghệ sĩ? Nghệ thuật của Camille Flammarion cũng làm danh dự cho một khoa học cao siêu và Thiên văn học, cũng như P. Bourget đã làm vinh dự cho một khoa học thâm thúy khác là khoa Tâm lý vậy…
Nhưng, đây mới đến chỗ thực tế khôi hài của cuộc gặp gỡ chúng tôi.
Chúng tôi đang nói chuyện về văn chương, thì một dáng người từ ngoài cửa bước vào, đầu chải bóng mướt, mặt trắng nõn, quần áo âu phục nghi lễ, bảnh bao, cầm một bó hoa sen trắng, cặp mắt lim dim. À, cái anh thi sĩ Đông Hồ đi đâu đây mà long trọng thế? Anh mỉm cười chào tôi, rồi quay lại Nguyễn Tường Tam:
- Tôi đem hoa đến để mừng cháu.
Cái gì vậy? Tôi hỏi ra mới biết buổi sáng ấy ông Nguyễn Tường Tam gả con gái lấy chồng. Hình như họ nhà trai sắp đến. Tôi tới chơi, thật là đột ngột quá, và không… hợp thời!
Mặc áo sơ mi cụt tay, đầu tóc không chải, đôi giày cùn, tôi vội vàng đứng dậy, xin lỗi ông bạn, thế là chuồn; mặc dầu Nguyễn Tường Tam muốn giữ tôi lại.
Nguyễn Tường Tam đứng trên cầu thang, còn gọi lại tôi, nhưng tôi đã cút thẳng ra đường cái lớn… Câu chuyện văn chương và nghệ thuật chúng tôi đã hẹn nhau sẽ thảo luận một khi khác.
Ở Hà Nội không quen nhau nhiều, nhưng ở Sài Gòn tôi thường gặp ông, và hai người thân với nhau hơn. Đi qua đường Phạm Ngũ Lão, Nhất Linh hay ghé vào tòa soạn Phổ Thông, ngồi trò chuyện một lúc về Văn chương và thời cuộc.
Ông cũng thường ở chung với ông Gioãng ở Đà Lạt bạn thân của ông. Ông có một trại riêng ở Finnom, cách quan lộ chừng 100 thước, trên đường đi Đà Lạt, và cách Đà Lạt 15 cây số. Ông có rủ tôi đến chơi đây một lần để xem các giò hoa Phong lan của ông. Tôi thấy ông đã có triệu chứng đau thần kinh, ngay hôm đầu tiên gặp ở nhà ông Nguyễn Tường Phượng. Ông hay run trong cử chỉ cũng như trong giọng nói. Ông đã bỏ hút thuốc phiện, nhưng lại phải uống rượu nhiều, toàn là Martell.
Ở Sài Gòn, Nhất Linh không sáng tác được mấy. Và quyển truyện dài “tràng giang đại hải” (roman-fleuve), như ông đã nói với tôi tại nhà ông Phượng, mà ông đã bắt đầu viết, định trong ba năm thì xong, tôi chờ mãi không thấy ra đời. Một hôm ông đến chơi ở tòa soạn Phổ Thông, tôi hỏi ông vế quyển truyện ấy, ông cười bảo:
Tôi đã bỏ công việc đó.
Một vài tiểu thuyết ông khởi đăng trong tạp chí “Văn hóa Ngày nay” của ông, không được độc giả hoan nghênh. “Văn hóa Ngày nay” phải tự đình bản.
Tinh thần và thể xác của Nhất Linh bị suy sút rất nhiều. Mấy năm sau cùng của đời ông hoàn toàn kém vui. Với một giọng thiểu não, ông nói với tôi rằng ông “không tin tưởng nơi đời sống nữa”.
Cũng như nhiều bạn khác, tôi kinh ngạc nghe tin ông uống thuốc độc tự tử. Bằng cái chết, ông phản đối vụ Tòa án của Ngô Đình Diệm sắp xử ông. Tôi rất xúc động trước linh cữu của ông, quàn trong nhà xác bịnh viện Grall. Cũng nơi đây, tôi đã chứng kiến trước đó vài tháng cái chết buồn thảm, cô đơn của một người bạn khác, Bác sĩ Diên Hương, một Thi sĩ Miền Nam, người sáng lập Diên Trì Thị xã.
Một số rất đông người đi theo sau linh cữu của Nguyễn Tường Tam đến Chùa Xá Lợi. Nhưng người ta không hiểu và bàn tán rất nhiều về một tấm biểu ngữ tuyên dương rằng Nguyễn Tường Tam xứng đáng với Nguyễn Thái Học.
Nguyễn Thái Học đã can đảm lên máy chém để chết vì Tổ quốc, chứ đâu có uống thuốc ngủ tự tử để tránh xiềng xích của kẻ độc tài.
Giới Cách mạng ở Sài Gòn đều chê cái biểu ngữ đó, muốn tâng bốc ông một cách quá lố, và xuyên tạc Lịch sử.
Tôi còn nợ Nhất Linh 5$
Tôi ngồi với Trương Tửu, Lê Văn Siêu và Vũ Trang, trên gác trọ một nhà buôn nước mắm ở Khâm Thiên, số 352, gần ô Chợ Dừa. Vũ Trang rung đùi ngâm thơ Đỗ Phủ, hết Đỗ Phủ đến Bạch Cư Dị, hết Bạch Cư Dị đến Tô Đông Pha. Bốn tách nước trà đã nguội. Câu chuyện đã gần tàn.
Lê Văn Siêu chỉ cười, tiếng cười vạn cổ độ bốn vách tường lạnh. Trương Tửu nhếch mép một tí, mặt cứ đỏ bừng. Anh hất hàm, đôi mắt sáng quắc nhìn tôi:
- Nghĩ gì thế, chàng?
Một tiếng nói không thành tiếng, đáp lại một nụ cười không thành nụ cười, uể oải:
- Lasciate ogni speranza!
Không hiểu tại sao tôi nhắc lại cho Trương Tửu câu của Dante thấy trên cửa Địa ngục? Tôi đang nghĩ gì, mà “gạt bỏ hết hi vọng” như ý nghĩa câu thơ?
Hôm nay là ngày cuối cùng của một năm.
Nhà thơ La Tinh đã vô tình hiện trong trí óc tôi rồi biến mất, bóng phớt trên mặt tường.
Trương Tửu làm thinh, các Thi sĩ đời Đường của Vũ Trang cũng im lặng. Lê Văn Siêu vẫn giữ nụ cười dĩ vãng. Tôi ngả lưng trên ghế, nhắm mắt. Điếu thuốc nằn trong hai ngón tay của tôi thở ra một làn khói mỏng, gần vô hình giống như một tư tưởng âm thầm muốn thoát ngục.
Một bóng người từ dưới cầu thang ngoài sân hẹp, rảo bước lên thềm. Một người bạn quen mà không quen. Anh phát thơ của Bưu điện. Mỗi ngày, gần đúng giờ này, anh đã đem đến tôi vài cái vui, vài cái buồn, từ xa xăm, từ các nẻo trời. Những cái vui và cái buồn quen và không quen như anh phát thơ. Sáng nay, buổi sáng cuối cùng của tháng Chạp, anh đem đến tôi cái gì đây? Anh mỉm cười, nụ cười thông cảm im lặng. Anh chỉ trao vào tay tôi một lá thư duy nhất. Một lá thư? Không phải. Một cánh hoa xanh phảng phất một mùi thơm êm dịu. Và một mảnh giấy xanh gấp lại kín đáo, mà tôi phải kí vào sổ anh để nhận lãnh. Tại sao hai cái đều xanh xanh, cùng một màu mơ?
Trương Tửu lại đỏ mặt, tia mắt sáng ngời, và nụ cười không phải một nụ cười.
- Nàng thơ Phủ Lạng Thương?
Tôi đã mở mảnh giấy xanh của nhà dây thép. Ba cặp mắt nhìn nó, và nhìn tôi. Nhưng tôi ngó mấy dòng chữ đánh máy trên rẻo giấy trắng dán lên tờ điện tín, rồi thong thả gấp lại, để trên bàn. Trương Tửu đã nhìn thấy nụ cười của nàng Thơ Phủ Lạng Thương:
“Chiều nay em đến”
Nàng chưa hề gặp tôi, và tôi cũng chưa được gặp nàng. Điện tín nàng gửi cho tôi sáng ngày Ba mươi Tết này sẽ chấm dứt cuộc cách biệt thích thú tuyệt vời của hai người yêu nhau mà chưa hề biết mặt nhau.
Tôi có cảm giác luyến tiếc trong giây phút, không biết rồi đây tờ giấy xanh hôm nay sẽ là trang đầu của một quyển sách hình ảnh màu tuyệt đẹp, hay là câu thơ đầu của một trường hận ca?
Trước mắt tôi và chung quanh tôi vẫn im lặng. Vũ Trang ngồi rung đùi, khẽ cúi xuống bình tích, lấy ấm trà châm vào bốn tách không. Lần lượt bốn làn khói uyển chuyển và dịu hiền, vươn lên như lời ca ấm áp của các truyền tích xa xăm. Lê Văn Siêu giữ luôn trên môi và trên mắt nụ cười vô tận. Trương Tửu cầm bức thư xanh xanh và thơm ngát, trao tôi:
- Này đọc bản nhạc này đi. Có lẽ nó đem đến cậu mùi hương của một nghìn một đêm lẻ.
- Cậu cứ mở mó ra xem. Với tôi, chỉ một điện tín hứa hẹn một đêm cũng đủ rồi. Không cần một nghìn một đêm lẻ.
Trương Tửu chưa mở. Cậu lấy mấy ngón tay rờ rẫm bao thư, mặt cứ đỏ bừng:
- Cái gì trong này mà cứng cứng…? Một thiệp mừng năm mới?... hay một tấm ảnh…? Trong này có một nụ cười đang nở hoa?
Trương Tửu trịnh trọng xé dọc theo rìa bao thư, và khẽ rút ra… một tấm ảnh in trên carte postale. Mùi thơm của hoa tương tư tràn khắp gian phòng, Trương Tửu đọc ngay mấy dòng chữ Pháp viết sau lưng tấm ảnh:
“Hommage d’une admiratrice”
Rồi cậu lật qua xem hình, bỗng nổ lên một tiếng cười rộ. Vũ Trang cười rúc rích, Lê Văn Siêu cười ào ào. Tôi ngạc nhiên lắm. Tấm hình nằm trên mặt bàn giữa một bản nhạc cười hòa tấu xôn xao náo động. Tấm hình cũng cười hãnh diện, như muốn bảo:
- Không phải cho các anh. Nàng gởi tặng tôi… cho chàng.
Tấm hình một cô đầm ở Paris hoàn toàn lõa thể, tuyệt đẹp, in màu. Người đẹp nằm trên nệm hoa, đang đọc một quyển thơ. Bên góc có in mấy câu thơ của Verlaie:
Les sanglots longs
des violons
de l’Automne…
Nàng tinh nghịch gởi tặng tôi không phải tấm ảnh của Nàng, mà đây là hình ảnh tượng trung của Sắc Đẹp tinh khiết, huyền mơ, của Thơ huyền diệu. Nhưng tại sao nàng gởi đến tôi câu thơ Verlaine:
Khúc đờn vi vu
âm u
của mùa Thu…?
Phải mùa Thu đã qua rồi, là hết mùa Li biệt. Từ giã ánh tà dương từ Phủ Lạng Thương, đêm nay Nàng đến. Nàng muốn đêm nay Nàng đem đến tôi một mùa Xuân, trước khi mùa Xuân đến.
Nàng gởi đến trước tặng tôi trong buổi sáng tinh khiết cuối năm, hình ảnh lõa thể của một cô đầm trẻ đẹp, vì nàng muốn tinh nghịch với tôi và nàng đã biết tôi hiểu nàng nhiều lắm. Đây không phải da thịt hồng hào xao xuyến, không phải cái mồi của dục tình và trụy lạc. Nàng chỉ muốn nói khẽ với tôi: “Em yêu anh. Em tặng anh tình Thơ trong sạch của mười tám xuân xanh”.
Lê Văn Siêu đã ra về. Vũ Trang cũng đi dạo phố. Trong thâm tâm tôi cảm ơn hai người bạn đã muốn để tôi một mình trong giấc mơ say. Nhưng tôi quay lại nói với Trương Tửu:
- Cậu ở lại với tôi chốc nữa nhé?
Trương Tửu cười:
- Phải. Hôm nay tôi không có một đồng xu trong túi. Tôi sẽ đón Sơn Tiên bằng cách nào đây? Tôi không có được một cành hoa để tặng Nàng.
- Sơn Tiên cũng biết cậu nghèo. Nhưng ít nhất cậu cũng phải có tiền để đi xe ra bến xe Bắc Giang đón nàng, và mua vài gói mứt, vài gói hạt dưa, một gói trà… một lọ hoa… Và cậu cũng phải có một gói thuốc thơm chứ chẳng lẽ đêm giao thừa ngồi ngâm thơ với người yêu mà cậu cứ hút mãi mấy điếu thuốc đắng chằng này ư? Và ba ngày Tết cậu ăn gì? Cậu không có được một củ dưa hành trong nhà. Tôi sướng hơn cậu vì tôi không có một người yêu.
- Còn cậu lấy tiền đâu tiêu Tết?
- Tôi cũng chẳng có xu nào tiêu Tết cả. Nhưng đã có ông Cụ. Nhà xuất bản chưa trả tiền bản quyền cho cậu ư?
- Chiều hôm qua mình đến Nam Kí thì hắn đã về quê ăn Tết rồi.
- Sao cậu không đến sớm để lấy tiền?
- Nó hẹn mình chiều hôm qua, chứ có hẹn sớm hơn đâu.
- Chó thật nhỉ!
Trương Tửu đứng dậy, đưa tay bắt tay tôi.
Mặt cậu vẫn đỏ bừng. Cậu nhìn thẳng vào mắt tôi.
- Nhưng đêm nay cậu sẽ là người sung sướng nhất trên quả Địa cầu, cậu có biết không?
- Cậu khỏi phải hỏi. Sáng mai, Mồng một tết, tôi cấm cậu đến phá rầy tôi nhé. Tôi sẽ không tiếp một thằng bạn nào cả. Cậu có gặp Lưu Trọng Lư, hay Lê Văn Trương, bảo chúng nó đừng đến xông đất nhà tôi.
- Cậu khỏi phải cấm. Cậu cứ nhịn đói với người yêu của cậu cho đến chiều ngày Mồng một, rồi tôi sẽ đem đến cho hai người cái bánh chưng ăn Tết.
Tôi nắm tay Trương Tửu. Hai đứa cao hứng cùng nhau nhảy cà tửng, và cười như hai đứa điên.
Tôi bảo:
- Nghèo hay giàu, mùa Xuân vẫn là một ân huệ thiêng liêng của Thượng đế. Chúng ta không có quyền từ chối nó, phải không Trương Tửu?
- Nhất là 18 cái Xuân!
Trương Tửu cười ha hả, từ giã tôi.
30 Tết, 1936.
Kính gởi ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Thưa ông,
Tuy tôi chưa được hân hạnh quen ông, nhưng chắc ông vui lòng cho tôi vay 5 đồng để tiêu Tết? Tôi túng quá. Sang năm mới tôi sẽ trả lại ông. Xin ông trao tiền cho em bé cầm thư này. Mong ông miễn thứ, và thành thật cảm ơn ông.
Nguyễn Vỹ
Tôi gấp thư lại, rồi mở ra bảy lần. Bảy lần tôi đọc lại những câu tôi vừa viết và bảy lần toan xé, không muốn gởi, nhưng rồi lại đút nó trở vào phong bì. Sau cùng, tôi dán thư và nhờ một em bé mười tuổi tên là Thi, con ông hàng xóm, cầm đến Tòa báo Phong Hóa đưa ông Nhất Linh. Tôi dặn nó chờ trả lời, hứa có tiền sẽ cho nó 5 xu.
Nguyễn Tường Tam là người duy nhất tôi viết thư vay tiền ngày cuối năm. Tôi hỏi ai nữa bây giờ? Tất cả các bạn của tôi trong làng văn đều không có tiền. Họ đã xuất bản sách, thơ, tiểu thuyết, những sáng tác về tư tưởng triết học, lịch sử, kinh tế, khoa học, văn chương, tình cảm, nhưng họ đã tiêu xài sạch ráo các món tiền của mồ hôi trán. Đôi ba người còn chút ít, may mắn là vừa đủ huyênh hoang gọi là trong mấy ngày Xuân. Làm gì có dư cho tôi mượn?
Tôi có gặp Vũ Trọng Phụng trước đó ba hôm. Anh ta đang chạy tiền để mua áo cho đứa con bốn tuổi. Tôi có gặp Lan Khai đi đâu vội vàng trên phố Hàng Bông mà diện rất bảnh. Anh nhe răng cười rất khả ái, giọng nói thanh thanh như cô Thái trắng:
- Ê, Vỹ, “toa” có tiền tiêu Tết chưa, cho “moa” vay?
Tôi đáp:
- Cậu có, cho tớ mượn?
Hai đứa ngó nhau cười. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ. Ông bạn Lan Khai quên rằng mình vừa bị tòa kêu án phạt về vụ Báo Bạch Nga, ba ngàn quan, và chạy không ra tiền nộp cho tòa.
Tôi viết thư vay tiền ông Nhất Linh, mà lúc đó tôi chưa quen biết, là sự vạn bất đắc dĩ, vì trong làng văn hôm nay chỉ có ông có tiền.
Em nhỏ cầm thư đi hồi ba giờ. Tôi bình tĩnh chờ nó về, nghĩ rằng nếu ông Nhất Linh cho mượn tiền, dù 5 đồng hoặc 3 đồng, thì tôi sẽ đi chợ mua một lọ hoa glaieul, một lọ hoa hồng, một gói hạt dưa, một gói mứt hạt sen, một gói trà tàu, để tối nay tôi cùng Sơn Tiên ngồi trò chuyện say mê trên gác trọ. Tôi sẽ hút thuốc thơm, như lời Trương Tửu bảo. Tôi sẽ đốt một phong pháo để mừng năm mới Sơn Tiên. Sáng mai, Mồng một, tôi sẽ thuê xe Omic đưa Sơn Tiên đi Hồ Tây, đi Chùa Láng, Bạch Mai, Tràng Võ… Tôi sẽ… tôi sẽ…
Còn nếu Nhất Linh không cho mượn tiền, thì năm giờ tôi sẽ cuốc bộ từ Khâm Thiên lên bến xe ở đầu cầu Sông Cái để đón Sơn Tiên và tôi sẽ cuốc bộ lên vườn Bách Thú ngồi chơi hết đêm giao thừa. Sáng mồng một, nàng và tôi sẽ cuốc bộ đi Tây Hồ, đi Chùa Láng, Bạch Mai…
Sơn Tiên là một Nữ Thi sĩ mà văn thơ đã được đăng trên các tờ báo văn học có danh tiếng. Nàng đã được công chúng phục tài và các bạn làng văn cảm mến. Tuy Nàng ở trên Núi rừng Phủ Lạng Thương, nhưng nàng vẫn ham học hỏi, đọc sách rất nhiều, có tư tưởng độc lập tự do, không nô lệ thành kiến, và có chí hướng cách mạng xã hội.
Nàng và tôi đã trao đổi với nhau trên hai chục lá thư.
Nàng và tôi đã yêu nhau từ hai chục kiếp trước.
Bốn giờ em bé Thi về, cầm một phong bì. Tôi mở ra xem: có tờ giấy bạc 5 đồng.
Tôi không biết cách nào trả ơn ông Nhất Linh: Tôi đưa tấm giấy bạc rách lên môi, hôn nó.
Tôi cũng cúi xuống hôn em bé Thi để cám ơn nó, và hứa chốc nữa sẽ cho nó 5 xu.
Tôi vội vàng mặc đồ ra đi. Chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa Sơn Tiên sẽ đến Hà Nội. Chiều 30 Tết nhiều dãy phố đã đóng cửa sớm hơn ngày thường. Tôi chạy hết đường Khâm Thiên rẽ ra đường hàng Lọng, qua trước ga xe lửa, chạy thẳng hàng Lọng rẽ ra chợ Cửa Nam. Tôi vừa chạy vừa thở hổn hển. Tôi định vào chợ mua một gói thuốc thơm, thì gặp Lưu Trọng Lư.
Lư đi đâu đây? Đầu tóc bơ phờ, mặt mày xanh xao gầy còm, áo quần xốc xếch, nhà thi sĩ của mùa Thu và của con Nai Vàng, đi rạo rực dưới nắng chiều tà như còn tìm mùa Thu đã mất, giữa một thành phố đang rộn rịp đón Xuân. Lưu Trọng Lư đon đả hỏi tôi:
- Mày có tiền không?
Tôi cười vui vẻ:
- Có. Của Nhất Linh vừa cho tao vay.
- Bao nhiêu?
- Năm đồng.
- Mầy đưa tao tiêu với.
- Mầy tiêu cái gì?
- Tao cần đi hút đi điếu thuốc phiện, để quên hôm nay là ngày 30 Tết.
Tôi cười xòa:
- Tết nó đâu có nhớ mầy! Không có Lưu Trọng Lư, ba mươi Tết vẫn là ba mươi Tết. Đưa tiền cho mầy vô ích.
- Mày để tiền làm gì nhiều thế? Ồ, cái thằng này rõ thật ngu! Ba mươi Tết mà còn để tiền trong túi? Ha! Ha! Ha!
Lưu Trọng Lư cười “như con nắc nẻ”, rồi nói:
- Đưa đây tao nướng giùm cho!
- Thôi Lư, đừng níu áo tao. Để tao đi kẻo trễ.
- Mầy đi đâu bây giờ?
- Tao đi đón Sơn Tiên. 5 giờ Sơn Tiên ở Phủ Lạng Thương tới bến xe…
Lưu Trọng Lư lại cười, giọng cười trọ trẹ, cũng như giọng nói:
- Sao mi ngốc thế? Sơn Tiên ở Phủ Lạng Thương, nó xuống Hà Nội làm chi?
- Sáng nay tao có nhận được điện tín của nàng.
- Mầy thật thà thế à? Con nhỏ, nó đánh lừa mấy đấy! Cuối năm nàng định cho mầy lên mây theo chân ông Táo, để nàng cười chơi, mà mầy cũng tin à! Thôi, đưa tao vay 5$ của mầy đi! Nếu mầy không muốn cho tao vay, thì mầy đưa tao 5$ ấy của Nguyễn Tường Tam, rồi sang năm tao sẽ trả lại 5$ ấy cho Nguyễn Tường Tam. Mầy khỏi mắc nợ!
- Mầy phải biết chiều nay tao không có tiền hút thuốc phiện. Mầy không biết hút thuốc phiện, thằng ngốc! Mầy không biết hút thuốc phiện thì mầy giữ tiền trong túi để làm gì chứ?
- Nếu mầy không có tiền tiêu Tết, thì tao đưa mầy 5$ để tao 3$.
- Mầy phải đưa tao 3$, mầy giữ 2$.
- Tao thương hại mầy, mầy cũng phải thương hại tao! Mỗi đứa lấy một nửa vậy. Đây, 5$, tao vô chợ đổi tiền ra đưa mầy 2$50, tao 2$50.
- Đi nhanh lên nhé! Tao chờ.
- Nhưng bây giờ là mấy giờ rồi? Mầy có đồng hồ không?
Lưu Trọng Lư lại cười ha hả:
- Đồng hồ là cái quái gì? Thằng này mơ mộng quá. Đồng hồ là cái chi chi, hả mi?
Vừa gặp một người đi qua. Người ấy móc một đồng hồ trái quít trong túi áo ra, coi:
- 5 giờ 40, ông ạ.
- Ôi thôi chết tao rồi. Lư ơi! Này, 5$ đây, mầy làm sao đổi đưa lại tao 2$50, nhanh lên!
- Mầy chờ tao.
- Nhanh lên! Nhanh lên, Lưu ơi!
Lưu Trọng Lư cầm tấm giấy 5$ đi vào chợ. Cậu đi đủng đỉnh, làm tôi bực mình. Tôi thấy cậu đến một bà bán hàng, bà ấy không đổi bạc. Lư đến bà thứ hai, bà này cũng không đổi. Lư đến bà thứ ba… Lư vào trong xa nữa.
Tôi sốt ruột nghĩ rằng Sơn Tiên cũng đang sốt ruột chờ tôi ngoài bến xe.
Xe đò Phủ Lạng Thương về đến bến đúng 5 giờ. Bây giờ đã 5 giờ 40. Tôi bỏ Lưu Trọng Lư, tôi bỏ cả tấm giấy 5$ của ông Nhất Linh ở lại chợ Cửa Nam. Tôi chạy tìm Sơn Tiên của tôi… Vâng, Lưu Trọng Lư không phải của tôi. Tấm giấy 5$, không phải của tôi. Chợ Cửa Nam không phải của tôi. Chỉ có Sơn Tiên là của tôi mà thôi. Tôi không thể mất Sơn Tiên được.
Tôi chạy qua trước tượng “Bà đầm xòe”, đứng giữa vườn hoa Cửa Nam. Bà nhắm đôi mắt cẩm thạch ngó tôi. Tôi chạy xuống phố hàng Bông, tôi chạy ra đường Henri d’Orléans, dọc theo đường xe lửa… Tôi chui dưới gầm cầu, tôi chạy riết ra phố Cửa Bắc, tôi băng qua bót hàng đậu, tôi chạy thẳng ra đầu cầu Sông Cái… Tôi chạy… Tôi chạy… Bến xe Bắc Giang đã vắng tanh. Tất cả các xe đò đã về từ lâu rồi. Hành khách ai đã về nhà nấy. Tôi đứng tựa lưng vào gốc cây bàng, nhắm mắt không muốn nhìn thấy gì nữa cả.
Tôi không mỏi chân. Tôi không mệt. Tôi đã tê lạnh khắp người. Tôi đã tan nát tất cả trong trái tim và trong đầu óc.
Tôi chỉ còn những mảnh vụn tàn niên.
8 giờ tối. Hà Nội 36 phố phường hoang vắng. Các dãy nhà đã đóng cửa hết. Hình như có những tiếng vui cười nô nức ở bên trong nhưng tôi không nghe. Ngoài phố hình như cũng có các bóng đèn, nhưng tôi không trông thấy. Sương mù, và gió rít lên, âm u trong rừng cây. Tôi lê đôi giày da cũ, đã há miệng, kêu kịt kịt trên lề đường Quan Thánh. Mọi vật đều đen tối… Trong đầu óc tôi không còn một tia sáng nào cả.
Dòng máu của tôi không còn một hơi nóng. Tất cả đều hoang vu băng giá. Không một ngôi sao nhỏ trên vòm trời. Và trên vòm trán của tôi, không một tư tưởng.
“Lasciate ogni speranza!”
Trước cửa đền Trấn Quốc, nơi thờ Ông Thánh Đồng Đen, một thiếu nữ đứng một mình ngó ra Hồ Tây. Thoáng thấy, nàng rất đẹp. Tôi không muốn đến gần, vì tôi không quen nàng. Nàng nhìn tôi và cũng không biết tôi.
Nhưng tim tôi hồi hộp lạ thường.
Bóng nàng thiếu nữ kia, nếu không phải là Sơn Tiên, thì không có thiếu nữ nào làm rung động được tim tôi lúc đó. Hay có lẽ là Sơn Tiên? Tôi có một tấm ảnh của Nàng gởi tặng. Nhưng người này không thấy giống mà sao thấy giống? Tôi bước đến gần. Tôi thấy nàng đẹp hơn người đẹp trong ảnh. Nàng đẹp hơn Sơn Tiên của tôi. Nhưng đôi mắt nàng đang ngập lệ. Tôi không quen nàng nhưng hình như tôi quen nàng đã lâu Nàng có lẽ không phải là Sơn Tiên, chắc nàng không biết tôi, nhưng tại sao nàng đăm đăm ngó tôi từ lâu? Nếu không phải Sơn Tiên thì là ai đứng đây đêm 30 Tết? Tôi đánh bạo hỏi:
- Cô chờ ai? Có phải Sơn Tiên không?
- Sao ông biết tôi?
- Ồ! Đúng Sơn Tiên rồi! Anh đây.
- Anh?
- Sơn Tiên? Vâng, anh đây!
Nàng ôm chầm lấy tôi, không nói. Tôi gục đầu vào vai nàng. Một phút sau, nàng và tôi không còn nàng, và tôi. Hai chiếc bóng đã dính sát vào nhau trong rừng cổ thụ.
Tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ, vang rền cả thành phố. Trên vòm trời nở một hoa trắng: sao Vệ Nữ.
Đêm nay, Nàng và tôi ngồi trên ghế đá trong vườn Bách Thú Hà Nội. Đêm nay, có ai ngồi như tôi với nàng trên một ghế đá, dưới ánh sao Vệ Nữ? Chúng tôi quên tất cả thế giới hiện tại, quên thành phố Hà Nội, quên đêm giao thừa. Chỉ thấy ngôi sao Vệ Nữ lóng lánh trên vòm trời.
Pháo tiếp tục nổ liên miên, vang dậy. Đêm giao duên của một mùa xuân thơ mộng.
Bạn ơi, bạn đừng nghĩ điều gì oan cho tôi và oan cả cho nàng. Đêm giao duyên của chúng tôi trong trắng như ngôi sao Vệ Nữ trên vòm trời. Đêm giao duyên của chúng tôi chỉ là một đêm giao hoan của hai tâm hồn lí tưởng. Sơn Tiên vẫn nguyên vẹn là nàng thơ trinh bạch của Phủ Lạng Thương.
Sáng sớm Mồng một Tết, khi mặt trời đầu tiên của mùa Xuân mới, đậu trên ngọn cây bàng, tỏa ánh sáng trong sạch và dịu hiền xuống cỏ hoa, nàng và tôi nắm chạy tay nhau, má kề má, nhìn mặt trời mà lòng không chút thẹn.
Nhưng nàng khẽ bảo tôi, giọng còn nhiều luyến tiếc:
- Anh ạ, em phải về nhà Cô em, để chốc nữa em đi Nam Định.
- Em đi ư?
- Em đã hứa với gia đình.
- Rồi chừng nào anh với em lại gặp nhau?
- Đêm giao thừa sang năm nhé?
Hai đứa tôi nhìn nhau cười.
Đưa Sơn Tiên đi bộ về nhà bà Cô ở ngay đường Quan Thánh, rồi tôi đi bộ về Khâm Thiên. Tôi đóng cửa gian phòng của tôi, mặc nguyên bộ đồ tây, với chiếc cravate cũ, và đôi giày há miệng, tôi nằm lên giường, nhắm mắt, mỉm cười sung sướng.
Tôi gặp Sơn Tiên trong giấc ngủ mê say: Nàng và tôi ngồi dựa lưng ghế đá, và trên đầu chúng tôi lấp lánh ngôi sao Vệ Nữ.
Tôi thức dậy, vừa vặn nghe đồng hồ treo trên vách tường nhà bên cạnh đánh 5 tiếng.
5 giờ sáng hay 5 giờ chiều? Tôi tự hỏi và không thể trả lời. Tôi vừa ở một thế giới khác không có thời gian, trở về thế giới này như kẻ lạc loài, mọi sự vật đều lạ cả.
Một lúc thật lâu tôi mới tỉnh hẳn. Tôi đói bụng quá. Trí nhớ của tôi dần dần đưa tôi trở về hiện tại. Nhưng tôi còn thấy thoáng qua trước mắt tôi: Dante, thi sĩ La Mã… Đỗ Phũ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha... Lưu Trọng Lư.
Tôi đứng dậy, không rửa mặt, áo quần, cravate và đôi giày tây há miệng vẫn còn nguyên trong người. Tôi mở cửa ra đi tìm Lưu Trọng Lư. Tôi cuốc bộ lên mãi trên đường Hàm Long, vào nhà trọ của Lưu. Chàng đi đâu?
Chàng biến đâu mất, hai tháng sau tôi mới gặp lại!
Tôi đủng đỉnh cuốc bộ lên vườn Bách thú, trời đã tối. Tôi ngồi trên chiếc ghế đá, một mình.
12 giờ khuya, lạnh quá, tôi trở về Khâm Thiên. Mở cửa sổ tôi nhìn lên Trời, cám ơn ngôi sao Vệ Nữ đã tiễn tôi về đến nhà. Một tràng pháo nổ vang trong im lặng. Tôi từ từ đóng cửa. Chiều Mồng hai Tết có tiếng giày bước mạnh lên hè. Truơng Tửu mang đến cho tôi hai chiếc bánh chưng.
Đêm nay tôi chép lại kí ức này thì Sơn Tiên không còn, Trương Tửu không còn, Lưu Trọng Lư không còn, Hà Nội cũng không còn. Một thế giới mới, hoàn toàn khác lạ.
Tôi mở cửa sổ ngó lên trời, vẫn còn ngôi sao Vệ Nữ xưa. Nàng Thơ Kim tinh mỉm cười nhắc tôi:
- Chàng còn nợ Nhất Linh 5 đồng, có nhớ không?
- Ờ nhỉ!
30 Tết năm nay, tôi phải đem 5 đồng đến trả Nguyễn Tường Tam…
Hai mươi năm sau…
Bài hồi kí trên đây đăng trong tạp chí Phổ Thông Xuân. Số 6, ngày 1-2-1959. Một tháng sau, đi ngang qua nhà Tổng phát hành Sách báo Nam Cường, đại lộ Nguyễn Thái Học, tôi nghe tiếng gọi tôi. Nguyễn Tường Tam đứng ngay nơi cửa, cạnh quầy hàng của ông chủ nhà sách. Với nụ cười hóm hỉnh bất hủ, và đôi mắt nhấp nháy, Nhất Linh hỏi tôi:
- Hôm nay anh trả tôi món nợ 5 đồng ấy chứ?
- Có đây, tôi cười đáp. Tôi định trả nợ anh chiều 30 Tết, nhưng mắc đi Huế.
Tôi móc túi lấy ra tờ giấy bạc 5 đồng trao Nhất Linh. Anh không nhận:
- Tiền vay 5 đồng hồi đó, nay anh phải trả 5000 đồng mới được chứ.
- Tôi vay 5 đồng, nay trả lại 5 đồng là sòng phẳng lắm rồi.
- Không được. Giá trị đồng bạc hồi đó gấm 1000 lần hồi này.
Ông Nam Cường cười xen vào:
- Thôi, tôi đứng giữa xin tính công bằng để dung hòa hai ông. Anh Vỹ phải trả anh Nhất Linh 500 đồng.
- Ừ, ít nhất cũng 500, chứ 5 đồng đâu được.
- Nhưng, thật ra thì tiền của anh, Lưu Trọng Lư xài hết. Nó có để cho tôi được đồng nào đâu. Lư bây giờ nó ở Hà Nội, anh ra ngoài đó mà đòi nó.
- Anh định quịt tôi hẳn? Tôi cho anh vay chứ tôi cho Lưu Trọng Lưu vay hồi nào?
Ông Nam Cường lại giàn xếp:
- Thôi, anh Vỹ phải trả anh Tam 500 đồng, đừng có lí luận nữa.
- Tôi vay 5 đồng sao lại phải trả 500? Ờ mà quên, giấy nợ đâu? Anh phải trả lại giấy nợ, tôi mới trả tiền.
- Anh đã đăng nguyên văn cái thư vay nợ, trên Phổ Thông, còn hỏi giấy nợ nào nữa?
Tôi cười, đưa ra giấy bạc 5 đồng:
- Anh cho tôi vay 5 đồng rách, nay tôi trả tờ 5 đồng mới tinh đây nè. Tiền anh là của Thực dân Pháp phát hành, tiền tôi là của Việt Nam Cộng hòa Tự do Độc lập, giá trị khác nhau một trời một vực, anh còn đòi tiền lãi gì nữa?
Nhất Linh lấy 5 đồng bỏ túi:
- Thế này là tôi bị lỗ à?
Ông Nam Cường cười:
- Nhà Văn cho Nhà Văn vay tiền, lỗ cũng ráng chịu chớ sao giờ?
Hai ba hôm sau, tôi gặp ông Gioãng, chủ ga ra đường Phạm Ngũ Lão, là bạn thân của Nguyễn Tường Tam. Anh Gioãng cười bảo:
- Anh Tam có cho tôi biết anh đã trả cho anh ấy cái nợ 5 đồng từ thời Tiền Chiến. Anh ấy mua 5 đồng rượu đế uống để kỉ niệm một giai thoại. 5 đồng bạc mà có cả một giai thoại, cũng thích thú đấy!
Anh Gioãng cười buồn, trước khi bắt tay từ giã:
- Vườn thú Hà Nội bây giờ không còn như hồi anh và Sơn Tiên ngồi đêm Giao thừa đó nữa đâu! Tàn phá hết!
Nguyễn Tường Tam trong Tự Lực Văn Đoàn
Nguyễn Tường Tam là nhà văn mà tôi ít quen biết nhất ở Hà Nội, lại là người mà tôi gặp nhiều nhất ở Sài Gòn. Tôi chưa có dịp nào đến nhà anh ở An Đông, Chợ Lớn, nhưng chúng tôi thường gặp nhau ở tòa soạn Tạp chí Phổ Thông vì anh thường đi đường Phạm Ngũ Lão.
Một lần, một đồng nghiệp kí bút hiệu Phong Cầm (1) Tô Nguyệt Đình có viết một bài trong Phổ Thông, công kích Nguyễn Tường Tam là “viết văn khiêu dâm”. Anh dẫn chứng những đoạn văn trong truyện Cô Mùi đăng trong tạp chí Văn Hóa Ngày Nay.
Báo phát hành ra hôm trước thì hôm sau Nguyễn Tường Tam đến truớc cửa Tòa soạn Phổ Thông, không vào. Nét mặt anh hầm hầm có vẻ tức giận lắm. Ngồi nơi bàn viết, trông ra thấy anh tôi thản nhiên vui mừng:
- Anh Tam, mời anh vào chơi.
Đứng nơi cửa, anh sừng sộ to tiếng:
- Chơi gì với anh? Tôi không chơi với anh nữa…
Tôi hiểu ngay, nhưng tính tôi lúc nào cũng điềm nhiên, tôi vui vẻ mời anh:
Anh hãy vào đây, nói chuyện gì thì nói.
Nguyễn Tường Tam vào, Thu Minh, thư ký Tòa Soạn, vội kéo ghế:
- Dạ, mời bác.
Anh giận dữ:
- Sao anh đăng bài nói tôi viết văn khiêu dâm? Thế, truyện con Loan trong “Dây bí rợ” của anh không khiêu dâm à?
Nguyễn Tường Tam vừa nói vừa run. Tôi nhã nhặn bảo:
- Bài công kích anh viết văn khiêu dâm, là của ông Phong Cầm. Tôi đăng với tính cách vô tư. Tôi không thể từ chối một bài phê bình khách quan được. Anh có tờ Văn Hóa Ngày Nay. Nếu anh không đồng ý với quan điểm của Phong Cầm, anh cứ viết bài phản đối. Hoặc anh muốn bài của anh đăng trong Phổ Thông tôi cũng xin sẵn sàng dành anh quyền trả lời.
- Tôi không cần trả lời… Vì phê bình văn tôi khiêu dâm là xuyên tạc, phê bình láo…
- Anh cứ trả lời trưc tiếp ông Phong Cầm đi.
Nguyễn Tường Tam lại nhìn tôi bằng đôi mắt trách móc, giọng anh càng run, tay anh cũng run. Nhưng anh đã bằng lòng ngồi:
- Anh đăng làm gì những loại bài phê bình bậy bạ như thế? Tờ Phổ Thông còn giá trị gì nữa?
Tôi không muốn kéo dài cuộc gây lộn. Tôi tủm tỉm cười:
- Tôi xin lỗi anh vì đã làm anh phiền lòng do một bài báo. Nhưng tôi xin nhắc lại anh là cửa Phổ Thông mở rộng đón nhận tất cả những ý kiến, nhận xét, phê bình, miễn là khách quan và xây dựng Phổ Thông không bao giờ có ác ý với ai cả, huống hồ với anh.
Nguyễn Tường Tam dịu giọng:
- Phong Cầm là ai?
Tôi cười:
- Nói để anh đi uýnh người ta à? Thôi bồ ơi, về viết bài trong Văn Hóa Ngày Nay chửi hắn đi, để chứng minh rằng cô Mùi của anh không khiêu dâm. Rồi hắn sẽ trả lời anh.
- Tôi thấy trong “Dây bí rợ” của anh cả một chương về Cô Loan, hoàn toàn khiêu dâm.
Tôi không cãi lại, vì không muốn gây một trận khẩu chiến với Nguyễn Tường Tam. Thu Minh đem về hai li xá xị, theo thường lệ. Tôi mời ông khách của tôi và câu chuyện chấm dứt, xoay qua chuyện khác.
Tôi tưởng Nguyễn Tường Tam giận tôi lắm. Nhưng những lần sau gặp tôi anh vẫn tươi cười thân mật trò chuyện vui vẻ.
Lúc anh đi rồi, có một người bạn Văn nghệ chứng kiến cái “pha” cụp lạc vừa rồi, liền bảo tôi:
- Sao bác không nhắc lại chuyện Thế Lữ đăng bài công kích bác thậm tệ trong báo “Phong Hóa thời Tiền Chiến?
Tôi trả lời anh bạn:
- Cho qua thì hơn. Tôi không muốn khiêu khích Nhất Linh. Tôi muốn giữ hòa khí.
Sau đó có người bạn Sinh viên Văn Khoa gởi đến một bài dài công kích Nguyễn Tường Tam, tôi cũng không đăng vì không muốn làm phật lòng tác giả truyện “Cô Mùi” nữa.
Tôi nhớ lại có lần chính Nguyễn Tường Tam nhắc lại để cười chơi những cái gì Phong Hóa đã chế nhạo tôi. Một bức tranh số Đặc biệt Trung thu, vẽ chế giễu vài chục người nhà văn và nhà chính trị, trong đó vẽ tôi phân nửa người là đàn ông, một nửa là thiếu nữ, dưới chua: “Nguyễn Vỹ - Lệ Chi”. Trong truyện hài hước số Xuân nhan đề “Quần Tiên tụ hội” ngạo các nhân vật Hà Thành, tác giả là Khái Hưng cho tôi làm một bài thơ “Một chân” để giễu thơ Bạch Nga. Bài thơ đọc thật tức cười nhưng không có ác ý. Nhất Linh có vẽ tôi nghiêng một bình tưới nước trên một cành hoa, dưới chua: N.V. gieo những “hột nước mắt”. v.v…
- Ở Sài Gòn bây giờ có khối chuyện tức cười nếu anh tái bản tờ “Phong Hóa” chắc hốt bạc cắc!
- Dân Sài Gòn không biết cười như dân Hà Nội. Ngày nay người ta lại không biết cười như ngày Tiền chiến. Ra báo Phong Hóa ở đây phí đi!
Tôi không đồng ý với anh, nhưng không muốn cãi.
Trong thời gian ở Sài Gòn - Đà Lạt, Nguyễn Tường Tam đã mất nhiều nhuệ khí và phong độ thời tiền chiến. Hết thuốc phiện rồi đến rượu, đã làm hại sức khỏe của anh cũng nhiều. Tôi có hỏi tại sao tay anh hay run, anh bảo anh đau gan. Tôi không hiểu, có lẽ anh không muốn nói anh bị đau thần kinh.
Anh mở nhà xuất bản “Phượng Giang” để in lại các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn chỉ vì mục đích thương mãi. Vì chính anh đã nói với tôi rằng anh phủ nhận giá trị tất cả các tiểu thuyết của anh thời tiền chiến, trừ một quyển “Bướm Trắng” là tác phẩm duy nhất mà anh ưng ý. Anh không sửa lại những tiểu thuyết của anh. Nhưng những gì anh viết sau này chắc anh cũng không thỏa mãn.
Tôi có hỏi về ý nghĩa của bốn chữ “Tự lực văn đoàn” anh giảng giải:
- Thời tiền chiến hầu hết các nhà văn như anh Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Vũ Trọng Phụng… đều bán bản quyền tác phẩm cho các nhà xuất bản. Riêng chúng tôi tự bỏ tiền ra in, tự xuất bản lấy, tự phát hành lấy, cho nên gọi là “Tự lực” thế thôi. Chả có nghĩa gì khác.
- Hồi đó, anh là nhà Tư bản, tụi tui là Văn sĩ nghèo, dĩ nhiên là có các nhà xuất bản như Minh Phương, Tân Dân, Lê Cường ủng hộ tụi tui.
- Họ bóc lột các anh, chứ ủng hộ gì!
- Cũng chả bóc lột mấy. Tính kỹ ra thì tụi tui cũng được hưởng 40% tiền lời của nhà xuất bản hồi đó, trừ bọn xuất bản bóc lột thật sự thì không kể. Nhưng bọn này tụi tui không chơi với họ. Như Nam Kí chẳng hạn.
Tự Lực Văn Đoàn, nói đúng ra thì vốn liếng bỏ ra là của anh. Tụi tui cũng biết Khái Hưng được hưởng đầy đủ quyền lợi vật chất của Tự Lực Văn Đoàn. Còn như tụi Thế Lữ, Tú Mỡ, thì khác nào anh mua bản quyền những tác phẩm của họ. Tôi nghe nhiều anh em nói Thế Lữ nó vẫn thana phiền rằng anh coi nó như “Parent pauvre” (1) (Người bà con nghèo) anh và Khái Hưng hất hủi nó phải không?
- Láo! Thế Lữ nó hưởng đầy đủ mọi thứ quyền lợi cũng như tôi và Khái Hưng. Nhưng tính nết của Thế Lữ không thích hợp lắm với tôi. Khái Hưng thường cãi nhau với hắn. Ngoài ra, chẳng có gì Thế Lữ hay Tú Mỡ phàn nàn bọn này cả. Sau Thế Lữ tách ra làm ban kịch với Đoàn Phú Tứ, Tự Lực Văn Đoàn vẫn ủng hộ về tinh thần. Nhưng không phải của Tự Lực Văn Đoàn vì Khái Hưng không đồng ý kiến.
- Còn anh?
- Tôi cũng không thích ban kịch của Thế Lữ.
- Tại sao Thế Lữ nó đả kích tôi trong Phong Hóa?
- Thế Lữ đâu có ưa anh. Anh nên nhớ rằng trong Phong Hóa, Khái Hưng và tôi không có đả kích anh bao giờ nhé. Trừ những mẩu chuyện khôi hài và những trang vẽ đùa cho vui thôi.
- Ai cũng biết.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Tường Tam rất kiêu căng và tự phụ. Tôi không thấy thế. Trái lại, có lần dưới thời Ông Diệm, bảy tám tháng gì đó trước khi anh chết, anh gặp tôi trước cửa nhà Tổng Phát hành Nam Cường. Chúng tôi cuốc bộ ra Phạm Ngũ Lão. Anh bảo tôi:
- Bọn nhà văn tiền chiến tụi mình, bây giờ chỉ còn anh.
- Ý, anh quên, còn nhiều.
- Ở Sài Gòn này còn có anh là sáng tác được khỏe, tôi vẫn theo dõi công việc của anh làm. Tôi thì hết tin tưởng vào đời sống và thế hệ ngày nay.
- Anh bi quan.
- Không bi quan. Tôi thấy văn học nước mình, bây giờ như một buổi chợ chiều. Mạnh ai nấy bán, bán đổ bán tháo để bưng thúng về. Tôi thấy thế, nên bỏ về trước. Anh ráng ở lại, phục vụ cho văn hóa dân tộc. Đừng theo họ.
- Tôi chả theo ai. Tôi cứ mặc kệ, ai làm, gì thì làm. Tôi chỉ theo lí tưởng của tôi. Cũng như anh.
- Thế hệ trẻ ngày nay, họ không hiểu được tụi mình. Họ bảo tôi là kiêu ngạo, là tự cao tự đại, anh xem có vô lí không? Tôi không chịu được họ, không có nghĩa là tôi tự cao, tự đại. Tôi nói thế, có phải không?
- Tôi, thì tôi nghĩ rằng văn hóa là trường cửu, phi thời gian không gian. Những người văn hóa chân chính bất cứ ai ở thời đại nào, và ở dưới kinh tuyến nào đều hiểu nhau.
- Chính thế, nên ở trên mảnh đất đoạn ly, thời văn hóa xuống dốc, những phần tử mạo danh văn hóa, không hiểu được mình, lại còn quay lại chửi mình. Anh thấy không? Tôi chán văn hóa đời nay là vì thế. Bây giờ tôi muốn buông trôi, không muốn sáng tác nữa, sáng tác làm chi!…
Hôm Nguyễn Tường Tam chết, tôi cầm một thẻ nhang đến thắp trước linh cữu anh trong nhà xác bệnh viện. Tôi không hay, chỉ vái anh ba vái, nhưng đứng im lặng gần mười phút, nhớ lại những lời anh nói. Tôi bị cảm xúc mạnh hơn và thấm thía hơn là trước quan tài của Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Nhược Pháp, Đỗ Thúc Trâm, Từ Bộ Hứa… Những lời Nhất Linh nói trên lề đường Sài Gòn bây giờ còn văng vẳng như là lời trối của một bạn đồng hành còn sống sót, lưu lạc ở miền Nam…
Tôi chỉ tiễn quan tài Nhất Linh đến trước cổng chùa Xá Lợi. Nhiều bạn văn nghệ và trong giới cách mạng muốn tôi đọc một bài điếu văn, với tư cách một bạn làng văn thời tiền chiến ở Hà Nội. Tôi từ chối. Tôi muốn im lặng. Như Tacite: Sài Gòn Vasta silentio!
11. THẾ LỮ
Tôi không quen biết Thế Lữ, không gặp chàng lần nào, mãi đến hôm chàng đến thăm thôi, với một máy hình xách tay.
Một thời gian trước đó khá lâu, Thế Lữ đã viết hai bài trong báo Phong Hóa, kích bác tôi hết sức tàn nhẫn. Trong tuần báo Đông Phương của Lan Khai, tôi có đáp lại về quan điểm Thơ, còn những lời Thế Lữ mạt sát, thì tôi gác ra một bên, không đề cập. Tôi không muốn gây với Thế Lữ một cuộc bút chiến, vì trong các bài đả kích tôi Thế Lữ có chủ tâm rõ rệt là “đập cho chết không cho ngóc đầu dậy được nữa”, chứ không cố tình trao đổi quan điểm văn chương.
Vi Huyền Đắc, một nhà soạn kịch ở Hải Phòng, hiện nay ở Sài Gòn, và quen thân với Thế Lữ, có kể chuyện cho tôi nghe rằng một hôm Thế Lữ xuống Hải Phòng thăm anh, anh hỏi chàng: “Vì sao công kích Nguyễn Vỹ như thế?” thì đại khái Thế Lữ trả lời “Đập cho nó chết”. Vi Huyền Đắc liền bảo: “Trong vườn Văn học nước ta hiện đang khô khan nghèo nàn, Nguyễn Vỹ cũng là kẻ đã gieo hạt giống mới như các anh, sao anh không để cho hạt giống ấy mọc lên mà lại muốn nó chết đi?”
Vi Huyền Đắc lúc bấy giờ chưa quen biết tôi, tôi càng cảm động khi nghe anh kể lại câu chuyện ấy. Nhưng nói với Thế Lữ về triết lí xã hội, hay lý tưởng văn học, thật chẳng ích lợi gì.
Tôi vẫn chưa hiểu với mục đích gì bữa trưa hôm ấy Thế Lữ đến thăm tôi.
Bấy giờ gần 3 giờ, một buổi chiều Chủ nhật nắng gắt. Tôi ở một mình trên gác trọ một nhà buôn nước mắm ở Khâm Thiên gần Ô Chợ Dừa. Cửa phòng tôi vẫn mở toang ra, nắng và gió lùa vào ngập cả căn phòng quạnh quẽ. Tôi đang ở trần, ngồi xem sách.
Bỗng một chàng từ dưới cầu thang bước lên, tiến vô cửa. Đi với chàng có một cậu, trán dồ. Chàng là ai, tôi chưa quen: mặt lưỡi cày, màu da bềnh bệch, vai hơi gù, người gầy, không cao không thấp, đôi mắt ranh mãnh. Tôi thấy khách lạ, vội vàng chạy vào sau màn, bức màn ngăn phòng khách và bàn viết của tôi, mặc áo ra tiếp. Chưa kịp hỏi, chàng đã cười, tự giới thiệu:
- Thế Lữ.
Tôi mỉm cười, đưa tay bắt tay chàng:
- Hân hạnh.
Chàng quay lại giới thiệu chú trán dồ:
- Anh Vũ Đình Liên, Cao đẳng Luật.
Câu chuyện hàn huyên về gia đình, đời sống, rồi nói chuyện văn nghệ, kéo dài độ một tiếng đồng hồ. Thế Lữ cho tôi biết anh là cựu học sinh trường Bách Nghệ Hải Phòng (như trường Kĩ Thuật Cao Thắng ở Sài Gòn hiện giờ). Tên anh là Nguyễn Thứ Lễ, nói lái thành ra Thế Lữ. Chữ “Lễ” là Lê ngã, thành ra “Lê Ta”. Trước, anh có đăng thơ rải rác trên vài tờ báo nhưng ít ai để ý. Anh nổi tiếng nhờ báo Phong Hóa “lancer”, do một bài của Nhất Linh giới thiệu. Lúc gặp Thế Lữ, tôi mới 23 hay 24 tuổi gì đó. Thế Lữ lớn hơn tôi 4, 5 tuổi, theo lời anh nói.
Ngồi ghế đối diện với tôi, chính là kẻ đã nói xấu tôi va chửi thơ tôi tơi bời trên báo Phong Hóa, nhưng tôi muốn quên chuyện khó chịu đã qua, để tiếp một người khách có nhã ý đến gặp mình và hôm nay nói với mình toàn những lời vui vẻ, bông đùa, lịch sự. Thế Lữ không ngần ngại khen vài ba bài thơ của tôi vừa đăng trên hai tờ báo Văn Học tạp chí và Phụ Nữ…
Tôi cảm kích đáp lại:
- Cảm ơn anh quá khen. Tôi làm thơ giải trí, đâu hay bằng thơ anh được.
- Thơ Pháp văn của anh, các bạn tôi và tôi cũng công nhận có mấy bài hay.
- Tôi chỉ làm bậy bạ chơi chớ người mình làm sao làm thơ Tây! Vả lại dạo này tôi hết làm thơ Tây rồi.
Trương Tửu tới. Cậu cũng tình cờ lần đầu tiên gặp Thế Lữ. Tôi vừa giới thiệu xong, mặt Trương Tửu bỗng đỏ bừng lên như người vừa uống một hũ rượu. Nhưng chàng cũng ngồi ghế, vui vẻ chuyện trò.
Không được một tách trà đãi khách, Trương Tửu khát nước, ra chum đựng nước mưa ngoài sân, múc vào một bình đầy, rót ra bốn tách, ai nấy uống ngon lành.
Tôi không đá động đến hai bài của Thế Lữ chửi tôi trên Báo Phong Hóa. Nhưng Trương Tửu cười khàn khàn, với giọng hơi khiêu khích, bảo Thế Lữ rằng tên tôi không phải Vĩ là đuôi, mà Vĩ có bộ nhân đứng một bên, có nghĩa khác. Phong Hóa xuyên tạc cả cái tên của người để mà cười thi có ý nghĩa gì?
Thế Lữ bào chữa:
- Trong Phong Hóa vẽ khôi hài cũng như chế giễu để đùa chơi cho vui thế thôi, không có ác ý. Đối với nhân vật nào cũng thế. Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Tiến Lãng, Cụ Nguyễn Văn Tố, cũng bị Phong Hóa chế nhạo, các ông ấy có giận chúng tôi đâu.
Trước khi ra về, Thế Lữ tỏ ý muốn chụp vài tấm hình Trương Tửu và tôi để dán album của chàng, nhưng Vũ Đình Liên xem máy ảnh thấy hết phim.
Tuần lễ sau, nhân buổi sáng đến nhà trọ của Lưu Trọng Lư chơi, ở một ngôi Chùa trên trại Hàng Hoa, lúc về, Tửu rủ tôi ghé thăm Thế Lữ, để trả lễ xã giao. Tôi đồng ý. Vì không có đồng hồ và đi chơi lang thang không biết giờ khắc gì cả, nên hai đứa tôi đến nhà Thế Lữ, thấy cả nhà đang ngủ trưa. Có lẽ đã một giờ, hay một giờ rưỡi. Chúng tôi cũng quên rằng chúng tôi chưa ăn cơm trưa. Theo lời Thế Lữ đã chỉ nhà, ở gần Sở Thú, nơi góc đường Sơn Tây, ngó qua Kho Đạn của Nhà Binh. Thế Lữ ở trên gác. Hai đứa tôi leo cầu thang vừa lên đến gác, ngó phía tay phải, thấy ba bốn chàng nằm dài trên bục gỗ, ngủ ngáy khó khò. Tôi biết mặt trong đám có một cậu học trường Cao đẳng Luật Khoa, tên là Vũ Đình Liên, trước đó là bạn học Anh ngữ, cùng lớp với tôi, ở nhà một bà người Anh, Bà Guezennei.
Thế Lữ nằm lim lim trên bục, nghe tiếng giày Tây cồm cộp của tụi tui (Trương Tửu đi mạnh lắm), anh ngồi dậy, vồn vã ra đón tiếp. Salon kê nơi góc phòng, ngay chỗ cầu thang bước lên. Nhưng bây giờ mình đến chơi giữa giấc ngủ trưa của người ta, bất tiện quá, tụi tôi nói chuyện qua loa rồi cáo từ. Thế Lữ cố giữ lại, để lấy máy hình chụp chúng tôi ba tấm, và chụp riêng cho tôi một tấm.
Tấm hình này, Thế Lữ có gởi biếu tôi một, chính là tấm hình mang kính đen, mà Hoài Thanh in trong quyển Thi nhân Việt Nam. Tôi ngạc nhiên khi thấy bức ảnh đó trong sách của Hoài Thanh.
Có điều mâu thuẫn buồn cười, là trong sách, ông Hoài Thanh chê tôi “y phục lố lăng” mà chính tấm hình in trong sách ông thì đầu mới hớt tóc, chải Brilantine láng bóng, áo quần bằng nỉ serge màu nước biển (do một ông bạn ở Khâm Thiên may cho) và cravate mới, không có gì lố lăng.
Không hiểu sao Hoài Thanh thấy “lố lăng”? Trong tấm hình đó, tôi mang kính đen, vì hôm đi với Trương Tửu ghé nhà Thế Lữ, trời nắng chói chang, chúng tôi đứa nào cũng có mang kính đen.
Thế Lữ và tôi gặp nhau lần ấy là lần thứ hai và cũng là lần chót.
Phong Hóa không viết bài mạt sát tôi nữa, tuy thỉnh thoảng vài trang, vài số đặc biệt Xuân, báo ấy vẫn vẽ tôi, bằng nét hài hước để độc giả Phong Hóa cười chơi.
Đến khi tôi xuất bản quyển sách Pháp văn “Grandeurs et Servitudes…” (1937), các báo Việt và Pháp ở Hà Nội đều có lời giới thiệu rất tử tế, riêng trên báo Phong Hóa tuyệt nhiên không có một dòng giới thiệu.
Tôi có gởi hai quyển tặng riêng Thế Lữ và Khái Hưng để tỏ lòng cám ơn Thế Lữ và Khái Hưng đã đề tặng tôi các quyển thơ và tiểu thuyết của hai ông. Nhưng Thế Lữ không hề có một lời, một chữ, dù là giới thiệu qua loa sách tôi trên báo Phong Hóa. Chỉ có Khái Hưng viết thơ riêng cảm ơn và khen tặng.
Ngồi ăn chả cá với tôi ở Phố Hàng Cân, Trương Tửu đỏ mặt, nốc hai li rượu đế, rồi hét lên như Trương Phi:
- Bọn “Văn Phiệt” ấy thật là tồi!
Bài phê bình của Lê-Ta (1)
Lê Ta là bút hiệu của Thế Lữ, mà trong bài thơ này Thế Lữ không dám công khai nhìn nhận.
(Bài này, nhiều người nói đến lắm, nhưng ít ai được đọc vì đã lâu quá. Nay tôi xin rút nguyên văn trong Phong Hóa số 127 ngày 7.12.1934).
“Nhà thi sĩ Nguyễn Vỹ, tác giả Tập thơ đầu là một nhà thơ có nhiều tài, nhiều tình cảm, mà lòng tự ái lại nhiều hơn. Cho nên, khi ông ra mắt quốc dân, mắt đầy lệ, cây bút cầm tay, ông không muốn ai khinh ông cả. Ấy thế mà Nhất Linh lại bảo Tập thơ đầu của người tên là “đuôi” kia không có ruột!
Muốn khỏi mất lòng thi sĩ, tôi phải nói chữa hộ Nhất Linh, thơ ông Nguyễn Vỹ có ruột đấy chứ, chả tin cứ giở quyển sách của ông ra mà xem. Chỉ tiếc cái ruột ấy đặc quá, mà khốn một nỗi là người ta lại không biết nó đựng những gì.
Về phần thơ Pháp thì tôi thấy Nàng Thơ của ông là một chị chàng sướt mướt, ẻo lả, khóc khóc, mếu mếu như con mẹ điên, mà lại nói ngọng nữa. Bởi thế khi nàng ấy ca, người Nam không ai chịu được, còn người Tây thì… tôi khuyên cả nàng lẫn ông đừng có cho họ nghe.
Đến phần thơ ta, nàng thơ của ông Vỹ khi nói tiếng ta thì ngô nghê, ngơ ngẩn, mà lải nhải nhiều lời… chẳng khác gì một cô “đầm” lắp bắp nói tiếng dân bản xứ:
Các người đã biết cái hôn yêu đầu tiên chưa?
Cái hôn dịu dàng vô hạn, mà nơi vắng vẻ,
Cặp môi âu yếm hãy còn rụt rè e lệ,
In lên trên mắt các người?
(Những đêm trằn trọc).
Tôi chưa thấy vị thánh thần nào to lớn như ngài!
Ngài ngồi giữa gian chùa chật, cao nghiêm, chễm chệ trên ngai!
Trong cung vắng mờ tối ấy, không ẩn mình một con muỗi!
Da thịt ngài đều bằng đồng, Ngài trạc năm sáu mươi tuổi.…
Mũi ngài lớn, miệng ngài to, đầu bóng nhoáng và đen mun,
Răng đỏ san sát dưới nửa làn môi, thêm vẻ hãi hùng.
(Đức Thánh Đồng Đen)
Cả một vần thơ của ông Nguyễn Vỹ đều một giọng như thế hết. Không biết nhà thi sĩ của tôi định chế ai? Nếu đem chắp những tiếng kì quặc như thế mà thành nhà thơ được, từ năm xưa tôi cũng là “thi sĩ” đứt đi rồi. Vì năm xưa tôi ngứa làm thơ cũng có bài thơ nghe tương tự như thế. Bài thơ ấy đây này:
Cái đồng hồ
Một tháng về trước, tôi có một cái đồng hồ
Cái đồng hồ ấy là của người anh mua cho
Tôi xem ra nó là vật tốt lắm,
Và nó cũng không nhanh, và nó cũng không chậm.
Nhưng tôi không dám đem xuất bản, và khi đọc nó cho người bạn nghe, thì anh ta bò ra cười, rồi ghé tai tôi nói thầm, bảo tôi rằng: “Anh nên tìm chỗ nào rất kín mà chôn nó đi, không thiên hạ hóa điên mất”.
Phong Hóa số 129
“Ông Nguyễn Vỹ là một nhà học rộng. Bàn về thi ca, ông đã cho chúng ta biết nhiều điều mới lạ. Ông hiểu rõ được hết các âm điệu thơ, khuôn phép thơ, mĩ thuật của thơ, tuy ông không hiểu thơ là cái gì, và tuy ông thấy mình là thi sĩ.
Ông lại khéo nói nữa. Khéo nói lắm, khéo nói quá! Ông bênh vực ông một cách rất có duyên, rất chu đáo, mà không phản đối ông lại còn chu đáo gấp đôi, Tập thơ đầu của ông là một tập thơ có khuynh hướng cải cách bằng lối riêng của ông. Ông bỏ cái gông cùm biền ngẫu với phép hạn chế phá, thừa, trạng, luận, kết, của bài thơ Tàu, để mang cái gông cùm mới của luật thơ Tây.
Thơ của ông Nguyễn Vỹ thiếu cái gì kia, chứ “chân thơ” (pieds) thì đủ lắm. Xin đọc ít câu sau này:
Những cặp môi xinh đẹp, mà ta thấy thoáng qua
Ban ngày, lúc ta thủng thỉnh đi trên đường phố,
Bây giờ một mình ta trằn trọc trong đêm tối,
Lại hiện ra, yêu kiều, duyên dáng, trước mắt ra…
(Lối thơ mười chân)…
Hai bàn chân linh thiêng ấy! Những ngày rằm và ngày hội,
Tôi được nhìn rất cảm động, những trẻ mồ côi vô tội,
Những bà già, và những cô thiếu nữ xinh đẹp ngây thơ
Hôn hít hai bàn chân Thạch, hoặc lấy tay vuốt ve sờ,
Hay với chiếc khăn mùi soa, vạt áo, miếng nhung, miếng vóc,
Mà họ áp hôn vào môi hoặc họ xoa lên đầu tóc…
(Lối thơ 12 chân)
Soi đến kính hiển vi cũng không thiếu một chân nào. Thơ ông quả thật không phải thơ quê. Nhưng quả thật là ngô nghê.
Đeo so sánh thơ ông Vỹ với bài thơ Đồng Hồ của tôi ông không bằng lòng là phải, vì nó không đủ chân.
Tôi lấy hết can đảm để đọc đi đọc lại, lúc thì lẩm nhẩm, lúc thì cất giọng ngâm nga, mà buồn thay cho tôi, tôi nghe nó vẫn làm sao ấy. Nhưng đối với tác giả thì nhiều thi vị lắm. Nó có một thú thi vị ngầm, cũng như người đàn bà xấu số ở trong phong dao có duyên thầm được chồng yêu quý:
Lỗ mũi em tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o…
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Ông Vỹ có quyền yêu thơ của ông lắm.
Am hiểu âm luật, biết nói đến những chữ trật tự, qui tắc, biết chế sự hỗn độn, hồ đồ, tại biết ghét những cái ngớ ngẩn, ngây ngô, mà viết ra những thơ như trên kia thì viết làm gì.
Tôi là người bạn ham đọc thơ, mà chỉ mong đợi được đọc thơ hay. Không hay lắm thì vừa vừa cũng được. Lúc trông thấy tập sách xinh xinh, bìa in sạch sẽ của ông Vỹ tôi có bụng mừng rằng sẽ được hoan nghênh một tác phẩm có giá trị. Vì xin thú thực, ngòi bút bông đùa của tôi cũng đã chán ngấy sự châm chích những văn chương không ra gì rồi. Có phải lỗi ở tôi đâu.
Ông bảo tôi có ý mạt sát ông. Ông lại bảo Thế Lữ muốn dìm ông. Tôi cũng như Thế Lữ, không bao giờ mạt sát riêng ai. Giá người ta cứ làm văn hay đi. Thơ văn người ta viết không lúng túng ở trong cái thể văn chật hẹp, buồn cười, thì tôi là người đầu tiên hết lòng ca tụng. Còn như ý muốn dìm ông, trời ơi! Đời nào chúng tôi lại đang tâm thế. Vả lại còn dìm ông thế nào được nữa. Văn thơ kia chưa đủ nói xấu ông rồi ư?”
Lê Ta
Hai bài trích trên đây được đăng trên báo Phong Hóa liên tiếp hai kì. Mục đích, như chính Thế Lữ đã nói với Vi Huyền Đắc, là “đánh cho chết Nguyễn Vỹ”.
Nhưng Thế Lữ không ngờ phản ứng của hai bài đó rất mạnh trong giới văn nghệ Hà Thành và giới Sinh viên Cao đẳng. Dư luận xôn xao, chờ bài trả lời của tôi. Tôi viết trong tuần báo Đông Phương của Lan Khai một “lời phi lộ”, trong đó tôi chỉ trình bày quan điểm của tôi về Thơ, - ngoài ra không đá động tới những lời kích bác và mạt sát của Thế Lữ. Đồng thời, trong l’Annam Nouveau của Nguyễn Văn Vĩnh, trong Văn học Tạp chí 1935 của Dương Tụ Quán, Hà Nội báo của Lê Tràng Kiều, cũng có những bài đả kích lại luận điệu “phê bình” của Thế Lữ. Sau đó, Thế Lữ im luôn.
Tôi xin trích một bài của Lê Trang Kiều trả lời Thế Lữ, trong Hà Nội báo.
Bài của Lê Tràng Kiều đáp lại Thế Lữ
Kể bây giờ mà nói đến Nguyễn Vỹ đã là chậm lắm rồi, người ta nói đến Nguyễn Vỹ nhiều lắm, nhiều quá…
Chỉ một cái được người ta nói tới nhiều, cũng đủ vinh dự cho nhà thi sĩ, vì vô duyên nhất, đau đớn nhất cho kẻ hao tổn không biết bao nhiêu tâm trí, biết bao ngày giờ để làm nên một bài thơ, in nên một cuốn sách mà không ai nói tới. Đã đành rằng những lời nói tới đó chẳng đẹp lòng ông Nguyễn Vỹ, nhưng… “Người ta công kích ta, chỉ chứng rằng ta sống”.
Thơ ông Nguyễn Vỹ đã là một cái đần để cho người ta viết, một câu chuyện cho người ta bàn, thơ Nguyễn Vỹ đã sống một cách đầy đủ ở trên mặt các tờ báo…
Quyển Tập thơ đầu, mới ló đầu ra đã bị ông Lê Ta ở Báo Phong Hóa, công kích một cách tàn tệ… Cũng lại chỉ vì ông Lê Ta Thế Lữ cũng làm thơ mà ông Nguyễn Vỹ cũng làm thơ đó thôi! Chứ công kích như cái kiểu ông Lê Ta, trong cái thời kì văn học đang phôi thai này, có nhà văn nào, có tác phẩm nào là không đáng công kích? Cứ theo cái phương pháp phê bình của ông Lê Ta Thế Lữ, thì ông Thái Can, ông Lưu Trọng Lư, ông Huy Thông, cả ông Thế Lữ, trong những văn thơ của các ông ấy, ta cũng thấy nhan nhản những điều đáng công kích, nếu người ta muốn công kích. Phê bình mà chỉ tìm một vài cái kém, cái dở chưa hẳn là phê bình. Một nhà phê bình có tiếng đã nói: “Cố yêu để mà hiểu lấy tác giả…” Vì lẽ rằng không có cái gì hoàn toàn ở đời này ta hãy tìm lấy trong cái thiếu kém một viên gạch, một miếng vôi để mà góp vào sự xây đắp cái tòa lầu Nghệ thuật, cái tòa lầu ấy không thể do độc một người mà xây nổi, vì nó phải dầu dãi nhiều mưa gió, chịu sự vùi dập bao thế kỉ. Cái tòa lầu ấy phải là công xây dựng của quá khứ, của hiện tại, của tương lai.
Ông Nguyễn Vỹ đưa lại cho sự xây đắp ấy, một mảnh vôi nhỏ, cũng đã là nhiều lắm rồi.
Thật là không biết người biết của vậy! Giá như tôi đưa cả quyển Mấy vần thơ của ông Thế Lữ, tôi bỏ ra ngoài vài ba bài thơ “được”, rồi tôi lại cứ đưa những bài “lủng ca lủng củng” đầy dẫy ở trong sách ra mà bắt, mà bẻ (điều ấy khó mà làm được), thì chừng ấy, ông Thế Lữ còn gì mà lên mặt “thi sĩ” với đời?
Ai đã thấy Nguyễn Vỹ một lần rồi, đã có gặp ông ấy một lần nào ở trong cái nhà ấy, thì sẽ không ngạc nhiên chút nào, khi thấy văn thơ của ông ấy nhiễm đầy một vẻ buồn não nùng! Cái cuộc đời buồn thảm của ông đi qua, để lại trên cái mặt ông cũng như ở trong văn thơ của ông, những vết sầu, những nếp răn đã đánh dấu hiệu cho ông ở trong đám người chen chúc ở chợ trần, đám người mà ông mang một lòng khinh thị không bờ bến…
Cứ mỗi hôm, lối 9, 10 giờ đi qua xóm Khâm Thiên, vừa khỏi những phố cô đầu rực rỡ ánh điện, và lộng lẫy những cô tiên, gần đến Ô Chợ Dừa, ta ngẩng lên sẽ thấy một cái gác nhỏ… mù mờ dưới một ngọn đèn liu hiu. Trong cái gác ấy có một bóng đen đi đi lại lại, cầm một cái que gõ vào tường như muốn làm nẩy ở trong cái vật vô tri, một cái tư tưởng linh động, mấy câu thơ, một cái linh hồn.
Cái bóng ấy là cái bóng của một thi sĩ.
Cái que ấy là cái quản bút thân yêu của thi sĩ.
Cái gác nửa sáng nửa tối ấy là cái tâm hồn của thi sĩ.
Cái tâm hồn ấy là một bể sầu não.
Những “giọt thơ” từ đấy rơi ra là những giọt sầu não, những tư tưởng ở đấy bay ra đều có đôi cánh đen, đen một màu đen thảm đạm, như đôi cánh quạ.
Con quạ đen ấy đã hơn một lần, đưa lại sự buồn não cho thi sĩ đương triền miên trong giấc mộng ái tình:
Lần đầu hai ta hôn nhau,
Đứng so đôi trên cành dâu,
Một cặp bồ câu trắng gáy,
Em buồn… và em ngẩn ngơ.
Hỏi anh: “Mình yêu em ơi,
Ngày ta yêu nhau được mấy?”
Lần đầu hai ta hôn nhau,
Một cặp bồ câu trắng gáy,
Ái tình ru bên tai ta,
Ta sẽ yêu nhau đến già,
Như cặp bồ câu trắng ấy.
(Nguyễn Vỹ - Tiếng quạ kêu)
Đương vui, đương say sưa trong cái lạc thú êm ái của ái tình, cặp tình nhân ấy bỗng giật mình và nghĩ đến chuyện đâu đâu, cõi lòng đương sáng bỗng tối lại:
Nhưng em vẫn cứ không vui,
Em bảo anh: “Mình yêu ơi,
Ái tình sẽ tang thương lắm.
Em không muốn cặp bồ câu
Cùng nhau gáy trên cành dâu,
Lúc hai ta yêu đằm thắm!”
Rồi khi hai ta biệt li,
Ôm vào nhau và lâm li
Em khóc, mà anh cũng khóc,
Dầu non nước cách nghìn trùng,
Hai tâm hồn vẫn ở chung
Khăng khít một lời tơ tóc.
Vì đâu mà mộng tình vơ vẩn. Phải chăng là vì chợt thấy cái bóng quạ đen vừa liệng trong trí… Cái bóng ấy đã ấn mạnh vào tâm linh một vết đen không còn nhìn được nữa.
… Từ hôm ấy đến hôm nay,
Cặp bồ câu trắng đã bay.
Anh chờ mà chim không lại,
Hôm qua, tự nhiên anh buồn.
Thầm thì suốt lệ ứa tuôn
Như tràn cả ra sơn hải!
Bây giờ anh đã hiểu rồi,
Ôi vong hồn Lang em ôi!
Lời em thiêng chi lắm nhé!
Anh không ngờ cuộc tình duyên
Rất khắng khít của chúng mình,
Cũng đảo điên như dâu bể!
(Nguyễn Vỹ – Tiếng quạ kêu)
Rồi từ đó cái bóng đen ấy không còn rời nhà thi sĩ ra nữa, nhà thi sĩ đi đâu nó cũng đi theo, làm gì nó cũng làm với. Sự lãng mạn của Nguyễn Vỹ có lẽ quá đáng, nhưng biết làm thế nào được? Ta có quyền gì cấm một người khác đừng buồn, đừng khóc, nhất là khi người ấy là một nhà thi sĩ? Nhà thi sĩ ngồi trước mắt ta, đương cười cười, nói nói vui vẻ, hai giọt nước mắt, lẻn tuôn ra trên đôi má, mà nhà thi sĩ cũng như ta có hay những giọt nước mắt ấy đã ứa ra tự hồi nào!
Sự buồn thảm ấy không phải là vô lí mà cũng không phải là vô cớ. Cái cớ làm cho Nguyễn Vỹ phải buồn thảm vẫn là cái cớ đã làm bận lòng biết bao thi sĩ.
Đấy là một sự vô lí đã làm cho nhà thi sĩ lẩn quẩn mãi với những cái lẩn quẩn. Mặc dầu nhà thi sĩ đặt tay lên trán, gõ quản bút vào vách, cái vô lí ấy vẫn là một sự “vô lí”, nhà thì sĩ vẫn thấy mình sống ở đời như một đứa trẻ con, khóc những cái biết rằng sẽ tan như bột xà phòng, mà vẫn cứ yêu, cứ khóc!...
Trong cái khoảng trời đất bao la, thi sĩ không muốn đi vẫn cứ đi. Giờ nào, phút nào, cũng như có vẻ trầm tư mặc tưởng, muốn tìm một cái gì… Cái gì đó, hoặc là một mảnh tro tàn, hoặc là một cái hương thừa, hoặc một chút ái ân đã nguội, hoặc một quãng đời quá khứ vừa qua… Nhưng là một huyễn tượng! Nhà thi sĩ bao giờ có tìm thấy một cái gì đâu.
- Hỡi thi sĩ! Đêm khuya mưa gió,
Ta tìm ta trong đám cỏ xanh.
Mỗi chiều tan cuộc ái ân,
Chút xuân ta cũng tan dần mất thôi.
Cùng người yêu ta vui chốc lát,
Mãn cơn vui xờ xạc cơn buồn!
Còn gì trên cỏ xanh um
Mà ta chẳng để lệ tuôn luôn dòng?
Vừa lúc chiều ta cùng tri kỉ
Trên cỏ xanh rủ rỉ gần đêm
Những lời tình tự êm đềm,
Bây giờ phút ấy còn tìm thấy đâu?
Bàn tay yên, nưng niu ve vuốt,
Nụ hôn yêu dính ướt trên môi,
Lả lơi bộ đứng dáng ngồi,
Lúc chiều gần đấy mà giờ đâu xa?
Một ngày xuân của ta rơi rụng.
Bao lệ xuân ứa đượm trên cành.
Ngó qua đã thấy khó tàn,
Nhìn đến chỉ thấy mơ màng tình duyên.
Sáng ngày mai xuân còn tươi lại,
Nhưng xuân nay tê tái cả rồi!
Mấy lần xuân nữa thì thôi!
Thì tan tác nốt cái đời xuân ta?
(Nguyễn Vỹ - Tìm gì)
Nếu chỉ có thế thì sự buồn não của thi sĩ nó thanh thú biết bao! Khốn nỗi, nhà thi sĩ ngày ngày còn phải chung đụng với người thế, sống giữa một chốn đông đúc mà bao giờ cũng hiu quạnh, lạnh lẽo như kẻ bị đày, bao giờ cũng tưởng như mình lạc loài vào một chốn hang hùm nọc rắn. Đời không bạc bẽo mà nhà thi sĩ cứ nhất định tưởng đời là bạc bẽo. Đời không xấu xa, nhà thi sĩ vẫn tưởng nó xấu xa!
Thật là một cảnh thương tâm, đau đớn. Nhưng biết thế nào mà lột hết cả những cái thành kiến ấy cho nhà thi sĩ?
Làm thế nào được?…
“Ta không mong ai thương ta, vì ta buồn bã khốn cùng
Lê la trong sương, trong gió, trong bóng lạc mịch mông lung,
một tâm hồn vô thừa nhận…
(Nguyễn Vỹ - Hỏi người yêu không quen biết)
Biết mình khổ cho nên nhà thi sĩ mang một lòng khinh dể vô hạn đối với những cảnh yên ấm giàu sang bên mình, những cảnh đang mai mỉa nhà thi sĩ một cách cay độc.
Cảnh khốn cùng hay tìm đến cảnh khốn cùng.
Cảnh buồn não hay tìm đến cảnh buồn não:
Thương thay! Bây giờ đêm đã khuya vắng,
Mà tiếng ăn mày còn kêu văng vẳng!
Bây giờ mà còn lê la ngoài đường,
Bây giờ còn ai thừa chút lòng thương!
… Nín im đi thôi, hỡi người cơ khổ!
Ta đã nghe thấy tiếng người nức nở,
Bi đát, não nùng, vụt lên một hơi,
Chạm phải cái vòm u khí của trời,
Rồi vỡ nát tan, tả tơi, từng mảnh,
Và rơi trong im, và trong đêm lạnh!
Trên đầu nhà nguơi, một vùng sương mù
Trong lòng nhà ngươi, một hố thâm u,
Tiếng kêu của ngươi xé tim bay bổng.
Để trong lòng người vết thương trống rỗng.
Rồi ngươi, than ôi! Ngã lăn trên đường
Mà tiếng của ngươi cũng tắt trong sương!…
(Nguyễn Vỹ - Người ăn mày trong sương lạnh)
Cái buồn não của những kẻ bất hạnh, của kẻ nghèo khổ ở đời này thật là vô cùng, đến nỗi khi ta thấy một kẻ ăn sung mặc sướng trước mắt ta, kẻ ấy biến thành một tội nhân.
Không những Nguyễn Vỹ và tri kỷ của nghèo đói lang thang ở dọc đường xó chợ, cái nghèo đói mỏi miệng kêu gào mà chẳng kẻ đoái hoài. Nguyễn Vỹ còn là thi sĩ của cái nghèo đói lê la ở cái thế giới những người chết: thân xác chết mà cái nghèo đói vẫn theo bên u hồn.
Nguyễn Vỹ là thi sĩ của những vong hồn cơ khổ dắt nhau từng đàn, từng lũ, thất thểu trong đêm tối, trong các miếu đền, trong gò cây, bên lạch nước… để kiếm miếng ăn:
Đến ngày nay cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mù,
Mà còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng!
Ta hãy bước vào khe khẽ trong cái im lặng nặng nề,
Của nấm mả, của gò cây, của đền đài lăng miếu cũ,
Ta sẽ gõ đầu quản bút trên miếng gạch, trên cành tre,
Gọi nỗi bi tình mênh mông của những linh hồn vô chủ.
Ta hãy ngồi ven lạch nước dò nghe những tiếng véo von,
Của lòng đá, của bọng cây, của những khe mồ, kẻ núi,
Mà một hơi gió thoáng qua làm gãy nát bao điệu đờn,
Và động lớp sóng âm ba đang gợn đùa trong nắng bụi…
(Nguyễn Vỹ - Gửi một thi sĩ của nước tôi)
Một người như thế, bảo họ không buồn não thì họ còn biết làm gì được? Ta có trách người ấy làm gì, vì trời sinh hắn ra như vậy. Để cho hắn khóc, thì thuận lẽ Trời. Buộc hắn phải cười thì hắn sẽ điên mất.
Đêm đã về khuya. Vài hạt sương gieo nặng ở trên cành… theo điệu sương những cái mảnh lòng của nhà thi sĩ cũng rơi vào trong cái rỗng không vô đề…
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu…
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương!...
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng,
Tả tơi
Em ơi!
Từng giọt
Thánh thót,
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang!...
Rồi sương
Cành dương
Liễu ngả
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Tơi bời
Mưa rơi
Gió rơi
Lá rơi,
Em ơi.
(Nguyễn Vỹ - Sương rơi)
Đó là những hạt sương ư?
Những mảnh lòng tan vỡ ư?
Những hạt lệ rơi thánh thót ư?
Không, đó là tất cả!
Đó là cái nhạc điệu thiên nhiên của những vật vô hình và hữu hình ở trong vũ trụ lúc đêm khuya, những vật ấy, nối tiếp nhau mà tan vỡ thành từng giọt.
“Từng giọt thánh thót
từng giọt điêu tàn”…
Một người đã tìm được một cái nhạc điệu mới như thế, há chỉ “xứng” để cho người ta dìm xuống? Làm ra được một bài như bài Sương rơi cũng đã nhiều lắm rồi, cũng đủ cho ta quên hết những cái sơ xuất của nhà thi sĩ trong lúc mới ra đời.
Lê Tràng Kiều
(Hà Nội - Báo số 26, ngày 1.7.1936).
27/10/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét