12. TRƯƠNG TỬU
Mười hai giờ trưa, trên gác trọ của tôi ở đường Général
Bichot, vào khoảng tháng 8-1928, một người bạn quen, anh Trương Lâm, đưa đến
tôi một người bạn không quen tên là Trương Tửu. Chàng mặc áo dài thâm, tóc bàn
chải, đi guốc, cũng trạc tuổi với tôi, và cũng thấp như tôi. Cái tên của chàng
đối với tôi lúc đầu tiên gặp nhau ấy, có lẽ không có nghĩa lí gì. Nhưng nụ cười
của chàng cứng rắn, trung trực, nụ cười của một thanh niên tự tin nơi một sứ mạng
huyền bí nào đó mà tự mình nhận thấy số kiếp đã gán cho đời mình.
Một người bạn khác, đã nói chuyện nhiều về Trương Tửu cho tôi
nghe trước khi tôi quen biết chàng, là anh Nguyễn Ngọc Lễ. Anh này, người Quảng
Nam, là đồng hương và đồng nghiệp với Trương Lâm, lúc bấy giờ hai anh đều làm
lính Thủy trên chiếc tàu S/S Canton chạy đường Hải Phòng - Hong-Kong. Nguyễn Ngọc
Lễ là người đã lén đưa tôi xuống tàu trốn sang Quảng Châu năm 1927-1928 để gặp
vài nhà Cách mạng V.N. ở bên đó. Sau, anh Lễ trở về làm lính Khố đỏ cho Pháp đến
bậc Trung tá, rồi năm 1948 làm Đại tá Chỉ huy trưởng Vệ binh Đoàn cho Bảo Đại,
và sau cùng làm Trung tướng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày đảo chính
đạp đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Ngọc Lễ và Trương Lâm là hai bạn cố cựu nhất
của Trương Tửu, và cũng là hai người đã cho tôi biết Trương Tửu lần đầu tiên,
lúc Tửu hãy còn là một cậu thư sinh xuất sắc, đang nghiên cứu về Học thuật Âu
Tây. Và tôi là một cậu thư sinh miền Trung mới ra ở Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Lễ bảo tôi:
- Trương Tửu là một thiên tài. Tôi có nói về anh cho Trương Tửu
nghe. Tửu muốn làm quen với anh. anh muốn gặp Tửu không?
- Ồ, muốn lắm chứ. Một bạn trẻ có thiên tài mà không gặp thì
uổng biết mấy!
- Nếu anh muốn gặp thì tháng sau, tụi tui đi Hồng Kông về,
Lâm sẽ đưa Trương Tửu đến nhà anh.
Mãi ba tháng sau, Trương Lâm mới đưa Trương Tửu đến gặp tôi.
Quen nhau chưa đầy 15 phút, anh chàng mặc áo dài thâm với
gương mặt gân guốc, cặp mắt sáng quắc đầy vẻ thôi miên, tiếng nói khàn khàn,
nhưng rất lôi cuốn, đã xổ cho tôi nghe một trang triết lí lẫn lộn siêu hình học,
thần kinh học, tâm lí học, sặc một mùi Paul Janel, pha trộnvơ1i Nietzche và
Freud. Tôi mỉm cười ngồi nghe… Tiếng của chàng vang nhịp nhàng trong tai tôi…
“Voir, pour prévoir pour pourvoir…” Chàng chêm thêm câu tiếng Pháp.
Tôi còn giữ trọn vẹn hình ảnh của Trương Tửu như thế, hôm mới
bắt đầu quen nhau, trong tiếng đồng hồ đầu tiên của cuộc thâm giao gắn bó hai
tâm hồn một phần tư Thế kỉ. Gần hai giờ, anh ra về. Tôi đưa anh xuống cầu thang
đến cửa. Hai nắm tay siết chặt nhau, bốn mắt nhìn nhau, hai nụ cười im lặng.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên này đã in ngay trong trí óc của chúng
tôi mối cảm giác rõ rệt là hai người thông cảm nhau bằng hai thái cực. Cảm giác
ấy được xác nhận không sai lầm suốt những năm về sau, trên quan điểm Văn học
cũng như chính trị, tôn giáo, triết học, xã hội. Hai tâm hồn và hai tính chất
khác hẳn nhau, nhưng lại hòa hợp với nhau rất dễ dàng, rất tự nhiên, rất trực
nhiên.
Trương Tửu có khiếu ngôn ngữ và lí luận. Lời nói của anh là một
sản phẩm của máy móc, lí luận của anh là một dây chuyền ngôn ngữ phối trí chặt
chẽ, liên kết mạch lạc, và rèn giũa với một nghệ thuật tinh vi tế nhị. Anh là một
nhà hùng biện bẩm sinh. Không do một học đường nào đào tạo cả.
Với rất ít, anh xây dựng rất nhiều. Với một chấm nhỏ nẩy ra từ
hình thức của sự vật, anh kéo một đường thẳng tới tư tưởng vô cực. Anh là một
nhà toán học chống giáo lí, đi tìm một bài toán cho nhân sinh, với những công
thức do tự anh chế biến ra; không theo công thức điển hình nào cả. Và không bao
giờ anh làm đúng, ít khi anh nói phải, nhưng luôn luôn anh có lí, Trương Tửu
không phải là một hiện tượng. Nhưng anh là một trí óc thông minh đặc biệt. Với anh,
sai lầm chống chân lí, và luôn luôn sai lầm thắng chân lí. Đôi khi tôi có cảm
tưởng như anh đã ngẫu nhiên lạc hướng theo Emmanuel Kant, anh cũng chống lại Lý trí Thuần túy. Anh cũng bình phẩm nghiêm khắc Lý trí thực tế. Anh luôn luôn tự
mâu thuẫn với anh một cách rất là hợp lý. Tôi tiếc quá, giả sử Trương Tửu mơ mộng
một tí, thì những ý tưởng của anh sẽ đượm đôi chút tinh hoa của Lý trí thiêng
liêng. Thì sẽ đẹp biết bao!
Nhưng không! Trương Tửu chống mơ mộng, chống cả Thiêng liêng.
Trương Tửu sinh trưởng trong một gia đình trung lưu ở ngoại ô
Gia Lâm, trong một thôn nằm dài theo con sông Hồng Hà, bên kia Hà Nội. Nhà anh ở
cách phi trường Gia Lâm chừng một kilômet. Tôi có đến đấy bốn năm lần Lê Văn
Trương có khi ở đấy cả tháng để viết tiểu thuyết. Xuất thân từ trường Bách Nghệ
Hải Phòng, - một loại trường Kĩ thuật Cao thắng ở Sài Gòn hiện nay, - và nơi
đây anh học nghề thợ tiện (tourneur), tiện cây sắt. Nhưng anh bỏ học, và không
làm thợ bao giờ.
Trương Tửu thuộc về loại nhà văn tự học, nhờ đọc sách nhiều.
Có lẽ một phần nhờ trường Bách Nghệ huấn luyện mà Trương Tửu có sẵn thiên tài
Văn nghệ lại tự đào tạo được một tinh thần máy móc cứng rắn. Lí luận của anh rất
đanh thép, câu Văn của anh cũng như búa, như kềm. Lời nói của anh vang ra như
tiếng đập sắt trên đe. Lúc nào cũng nẩy lửa, nghe lâu chát cả tai, có khi rùng
rợn như tiếng cười trong địa ngục của Dante, có khi xôn xao kinh khủng như lửa
cháy thành Roma.
Mẹ chết sớm, Trương Tửu còng ông Thân sinh, một nhà Nho thủ cựu.
Tửu không có anh em trai, chỉ có một người chị đã có chồng, làm nghề thợ Bạc.
Ông Thân sinh không hiền lành, nét mặt nghiêm khắc nhưng ông để Trương Tửu muốn
làm gì thì làm, không bó buộc. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi: Ông Cụ có linh tính gì
về nghiệp chướng của con trai mà đặt tên cho chàng như thế? Đã là họ Trương
cùng họ với Trương Phi mà lại tên Tửu, cho nên chàng rất nóng tính và rượu “một
cây”!
Lúc nào cũng như say: cười đỏ mặt, nhiều khi suy nghĩ một việc
gì cũng tự nhiên mặt đỏ bừng bừng. Tửu chơi thân với Lê Văn Siêu ở phố
Tientsin, vì anh này cũng ở trường Bách Nghệ Hải Phòng ra cùng một khóa với Tửu.
Hồi đó, Lê Văn Siêu buôn bán các đồ thêu, dentelles, và không viết văn. Suốt thời
kì tôi ở Hà Nội 1928-1941, tôi không hề thấy Lê Văn Siêu viết văn.
Trương Tửu có thương một cô gái may, con gái ông chủ tiệm may
ở đường Tientsin, gần nhà Lê Văn Siêu và sau Tửu cưới làm vợ. Nhưng Tửu không
có tình yêu tha thiết: ái tình đối với anh cũng là một hình thức của lí luận, một
bài toán mà anh tìm giải đáp, thế thôi. Đến khi cưới vợ rồi, anh không còn biết
yêu là gì nữa. Khi giải đáp đã tìm được, dĩ nhiên là bài toán không còn.
Có lần, nhân lễ Trung Thu, trường Thanh Niên tổ chức tiệc thưởng
Trăng rất thơ mộng trên sân thượng. Trương Tửu cho biết Tửu sẽ đưa vị hôn thê đến
dự tiệc. Nhưng sự thật thì 9 giờ, cặp uyên ương dắt nhau đến ngồi trong lớp học
ở lầu hai để “thảo luận về Lễ cưới sắp cử hành”. Thảo luận xong, Tửu đưa cô ả về
nhà, rồi một lát sau, chàng trở lại dự tiệc một mình. Tôi bảo thật với Tửu rằng
tôi không thể quan niệm tình yêu khô khan như thế được. Tửu cười đỏ mặt:
- Tình yêu là cái quái gì?
Trong suốt thời gian tôi quen thân với Tửu, tôi chưa hề biết
Tửu có một người yêu nào. Chỉ có một lần, xảy ra một “Scandale” làm xôn xao dư
luận trong giới nhà văn Hà Nội.
Chúng tôi quen thân với một chàng làm nghề xem chỉ tay khá nổi
tiếng thời bấy giờ. Tây Đầm đến xem đông. Chàng làm được nhiều tiền. Chàng có một
cô vợ đẹp. Trương Tửu và tôi thường được vợ chồng anh thầy tướng mời đến ăn
cơm. Bỗng dưng một hôm, cô vợ bỏ nhà đi mất. Anh thầy tướng hoảng hốt chạy đi
tìm rối rít khắp nơi. Anh đến nhà tôi, báo tin cho tôi biết và hỏi Trương Tửu.
Tửu cũng đi vắng từ đêm hôm trước, chưa về. Tôi nghĩ rằng Tửu về Gia Lâm thăm
ông Cụ.
Cô vợ anh thầy tướng đi nửa tháng biệt vô âm tín. Tôi cũng
không có tin tức gì của Trương Tửu trong nửa tháng ấy! Bỗng một hôm anh thầy tướng
gặp tôi, bảo: “Anh ơi, có người cho tôi biết vợ tôi với Trương Tửu
đang ở ngoài Đồ Sơn…”
Tôi cười:
- Thật à?
Hôm sau tôi đi xe đò xuống Hải Phòng, tìm đến nhà anh Vi Huyền
Đắc. Tôi nghĩ rằng nếu Trương Tửu đi bãi biển Đồ Sơn thế nào cũng có ghé chơi
nhà Vi Huyền Đắc. Quả nhiên đến đấy, tôi gặp Tửu. Tôi giấu mục đích đi Hải
Phòng của tôi. Sau khi trò chuyện với Vi Huyền Đắc một lúc lâu, tôi rủ Trương Tửu
đi dạo phố chơi. Ra đường tôi hỏi thật, và Tửu cũng nói thật hết cho tôi nghe:
Chính vợ của anh thầy tướng rủ Tửu đi Đồ Sơn, và nàng bỏ tiền ra để
hai người sống một tuần “phiêu lưu tình cảm” trên bãi biển. Tửu bảo tôi:
- Chứ moa làm gì có tiền để đi chơi lang bang như thế? Toa biết
chứ, moa làm gì có tiền?
- Cậu có yêu nó không?
Tửu đỏ mặt, cười:
- Yêu là quái gì?
- Dù sao nó cũng là vợ của thằng bạn, cậu làm thế không thấy
kì sao?
Tửu cười, mặt càng đỏ bừng lên:
- Moa tưởng Y-S. nó biết vợ nó đi Đồ Sơn chứ? Nếu nó không biết
thì nó ngốc!
Chúng tôi ra ga mua vé xe lửa về Hà Nội. Sau một tuần lễ được
thỏa mãn, cô vợ của anh thầy tướng cũng đã trở về căn nhà nhỏ hẹp của anh, ở đường
Văn Thánh, bên cạnh đền thờ Khổng Tử!
Anh thầy tướng “ngốc” thấy vợ về mừng quá, ôm vợ khóc nức nở.
Cô vợ phớt tỉnh hỏi:
- Anh nhớ em lắm hả?
Trương Tửu và tôi vẫn đến chơi nhà anh thầy tướng một đôi lần
nữa. Anh ta vẫn sốt sắng niềm nở mời chúng tôi dùng cơm, như không có chuyện gì
xảy ra. Anh không bao giờ dám nhắc lại chuyện vợ anh với Trương Tửu đi Đồ Sơn,
sợ vợ giận. Nhưng chính Trương Tửu không muốn đến nhà đó nữa, và không muốn gặp
người đàn bà ấy nữa. Tôi bảo với anh thầy tướng:
- Anh nên dẹp cái nghề tướng bói của anh cho rồi?
Y-S. dắt vợ vô Sài Gòn, mở phòng xem chỉ tay ở xóm Nancy.
Một thời gian, Trương Tửu sống với tôi và một người bạn thôi
miên mê thơ Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, tên là Vũ Trang. Thời gian này, Tửu và tôi
cùng dạy học ở trường “Thanh Niên”, bên cạnh nhà tôi ở Ô Chợ Dừa. Vũ Trang thì
đi chữa bịnh các cô gái điên bằng phép thôi miên.
Vũ Trang, con một ông danh y ở đường Alexandre de Rhodes, hiện
nay là đường Lục Tỉnh, Chợ Lớn, gần đồn Cây Mai. Nho học khá, anh nổi tiếng về
khoa thôi miên từ khi anh chữa bịnh cho một cô gái điên, con của một gia đình
giàu sang ở Đà Nẵng. Anh ra Hà Nội ở trên gác trọ Khâm Thiên với Trương Tửu và
tôi. Mỗi sáng về mùa đông, anh thường dậy sớm, đun nước pha trà tàu, rồi gọi
chúng tôi dậy. Ba đứa ngồi trùm ba cái chăn bông, trên ba ghế ở phòng khách, uống
trà, nói chuyện văn chương, Trương Tửu và tôi nghe Vũ Trang ngâm thơ Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị. Anh ngồi rung đùi, ngâm say mê, và tụi tui phê bình mỗi bài, so sánh với
các thơ Đông Tây, Kim Cổ.
Nhiều tháng chúng tôi không có tiền, Vũ Trang đi biểu diễn
thôi miên, ở các tỉnh, đem tiền về tiếp tế cho chúng tôi. Có lần tôi được tiền
nhuật bút 10 đồng, Trương Tửu lấy 4 đồng đi uống rượu đế và ăn thịt chó ở hàng
thịt cầy bên cạnh. Vũ Trang lấy 4 đồng đi Nam Định để biểu diễn thôi miên.
Trương Tửu thôi dạy học và bắt đầu viết bài phê bình Văn nghệ.
Bài đầu tiên phê bình Lan Khai, đăng trên báo Loa. Lan Khai đọc bài này, cảm động
quá, vui sướng quá. Anh không ngờ Trương Tửu khen anh bằng một bài đặc biệt như
thế. Lan Khai bảo tôi giới thiệu anh với Trương Tửu. Hôm ấy Trương Tửu về chơi ở
nhà bà chị làm nghề thợ bạc ở phố Hàng Buồm. Tôi đưa Lan Khai đến đấy. Tửu tiếp
Lan Khai niềm nở, nhưng sau câu chuyện xã giao thân mật nhà Văn đường rừng rủ Tửu
và tôi đi nằm tiệm thuốc phiện. Chúng tôi cười và từ chối, vì chúng tôi không
phải “dân làng Bẹp”. Từ đó về sau, Tửu ít thân thiện với Lan Khai. Tôi hơi ngạc
nhiên vì Tửu không phải là con người câu nệ.
Sau Lan Khai, Trương Tửu phê bình Vũ Trọng Phu5ng, Nguyễn
Công Hoan, Lê Văn Trương… cũng trong tuần báo Loa. Làng Văn bắt đầu chú ý đến
Trương Tửu vì loạt bài phê bình văn nghệ ấy. Lần đầu tiên người ta phục giọng
văn cứng cỏi, khúc chiết, cô đọng, tư tưởng thâm trầm và sáng sủa của một nhà
văn hoàn toàn mới lạ. Sau đó, Trương Tửu cộng tác với tôi trong tờ tuần báo Le
Cygne - Bạch Nga. Để trả lời dư luận chống báng trường thơ Bạch Nga, do Thế Lữ
gây ra trong tuần báo Phong Hóa, một nhóm bạn nhà văn và trí thức Hà Nội đề nghị
chúng tôi lên diễn đàn hội quán Khai trí Tiến Đức (AFIMA) ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm.
Tôi nhường vinh hạnh ấy cho Trương Tửu.
Đề tài diễn thuyết là “Thơ Bạch Nga” thu hút một số rất đông
công chúng trí thức, văn nghệ sĩ và sinh viên học sinh, đến nỗi chật ních cả Hội
quán. Lần đầu tiên một số rất đông phụ nữ và thanh niên đi dự thính tại Hội
quán AFIMA là hội trường cổ kính và phong kiến mà họ ít thích lui tới. Buổi diễn
thuyết của Trương Tửu khởi đầu từ 9 giờ tối kéo dài đến 10 giờ 30, được thính
giả nhiệt liệt hoan nghênh. Trương Tửu càng nổi tiếng về tài hùng biện của anh.
Tôi không đi dự, nằm nhà trùm chăn tán gẫu chuyện Văn Thơ Đường
Tống với Vũ Trang. 11 giờ Trương Tửu về, tường thuật lại cho chúng tôi nghe.
Trương Tửu không làm thơ, không bao giờ làm thử một bài, chỉ
nghiên cứu và nhận xét, phê bình chặt chẽ, và ngâm thơ rất hay. Anh có giọng
ngâm trong trẻo và đầm ấm, khiến nhiều thiếu nữ nghe mê.
Dĩ nhiên là mấy anh bên tuần báo Phong Hóa nhất là Thế Lữ
(Khái Hưng và Tú Mỡ không bao giờ hùa theo) luôn luôn tìm cơ hội để nhạo báng
tôi và Trương Tửu. Nhưng chúng tôi không phản ứng.
Sau đấy, Trương Tửu viết nhiều báo Văn Hóa, Ích Hữu, Tao Đàn…
nhưng anh cũng tránh những cuộc bút chiến với nhóm Phong Hóa.
Trương Tửu không có một thú giải trí nào, không thích đánh cờ,
không thích du lịch, không ưa xem phong cảnh. Anh cũng không uống rượu lu bù,
say túy lúy như kiểu Nguyễn Khắc Hiếu.
Anh chỉ có một dục tính: ham mê đọc sách. Anh sung sướng mỗi
khi đọc được một quyển sách hay, và để hằng giờ nói chuyện về quyển sách ấy.
Anh nghiên cứu rất kỹ về Truyện Thúy Kiều và thi sĩ Nguyễn Du. Anh rất khách
quan, và có nhiều khám phá tài tình về nghệ thuật thơ của các Thi sĩ đời hậu
Lê. Anh nghiền ngẫm các sách văn học, triết học, và lịch sử của Nguyễn Văn Tố,
Đào Duy Anh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh.
1937, Tửu vào Sài Gòn, diễn thuyết ở nhà hội Samipic cũng được
hoan nghênh. Vào đây, anh có tìm gặp Phan Văn Hùm, Năm Châu, và Phùng Há. Về Hà
Nội, nói chuyện lại với tôi, anh tỏ ra không có cảm tình nhiều với giới trí thức
và văn nghệ ở miền Nam.
Ngoài những khảo cứu văn nghệ và triết học, Tửu cũng viết
truyện. Truyện dài đầu tiên của Trương Tửu nhan đề “Thanh niên S.O.S” (1938) là
tiếng kêu cứu của một thế hệ thanh niên đang suy sụp vì phong trào lãng mạn. Kế
tiếp là “Một Chiến Sĩ” và “Khi chiếc yếm rơi xuống” (1939). Cả ba đều do nhà
Minh Phương xuất bản, 15A cư xá Văn Tân, phố hàng Dẫy.
Bắt đầu đệ nhị thế chiến, ba quyển này đều bị nha Thông Tin
và Báo chí Pháp (I.P.P.) cấm, vì đả kích xã hội An Nam thối nát dưới chế độ thực
dân.
Nhờ người vợ có vốn liếng, mở tiệm Tạp hóa ở đầu phố hàng Điếu,
gần tiệm thợ may của cha vợ, Trương Tửu mở nhà xuất bản Hàn Thuyên và suốt ngày
ở trên gác xép viết văn khảo luận về Văn học và triết học. Tửu vẫn say mê triết
lí, chăm chỉ nghiên cứu các học thuyết Hi Lạp, La Mã và Pháp. Từ học thuyết này
qua học thuyết khác, Tửu rơi vào triết lí Mác-xít, nhưng không thiên hẳn về một
chủ nghĩa quốc tế nào vì nguyên tắc của Trương Tửu là chống giáo lí. Tửu không
phải là một người trung kiên với một tín điều. Đúng hơn, anh là một người tự do
tư tưởng, trước hết, là một nhà hùng biện hoàn toàn độc lập.
Một đêm trong kỳ Hội nghị Đông Dương do các nhà Báo ở Hà Nội
và Sài Gòn tổ chức tại câu lạc bộ Thể thao của Pháp ở Hà Nội, dưới thời Mặt trận
Bình dân năm 1936, trong danh sách các diễn giả đêm ấy có ba người kế tiếp
nhau, Tửu, tôi và Amédée Clémenti, người Pháp chống chính sách Thực dân, chủ
báo Argus Indochinois, chủ trương Việt Nam độc lập. Theo thể lệ của Ban Tổ chức,
mỗi diễn giả chỉ được phép nói 15 phút thôi, thời gian quá ít ỏi, nhưng Ban Tổ
chức hạn chế vì diễn giả đông. Trước khi lên diễn đàn, Tửu thông đồng riêng với
tôi.
- Anh cho tôi 15 phút của anh nhé? Tối mai anh nói được không?
Tôi không do dự:
- Ừ!
Khi Trương Tửu nói được 14 phút, chủ tịch ngó đồng hồ rồi ngó
anh:
- Còn một phút thôi nhé!
Tửu giả vờ không nghe, cứ nói mãi, nói mãi. Giọng hùng hồn của
anh làm cho thính giả rạo rực say mê. 15 phút, chủ tịch rung chuông và gọi tôi.
Tôi ngồi dưới ghế, làm thinh không trả lời. Tửu vẫn thao thao
bất tuyệt. Chuông lại rung, lại có tiếng gọi:
- Anh Vỹ đâu? Mời anh Vỹ lên!
Tôi vẫn làm thinh ngồi yên lặng để cho Trương Tửu nói… Anh chủ
tịch níu áo anh, anh vẫn không nhúc nhích cứ nói hoài, nói mãi, càng nói càng
hăng, càng hăng càng nói, mặc kệ người níu áo. Trương Tửu nói hết 30 phút rồi
mà vẫn còn nói nữa…
Nhưng Clémenti sợ mất phần, chạy lên diễn đàn bảo Trương Tửu:
- Et alors?
Tửu mỉm cười quay lại ông:
- Une minute seulement, s’il vous plait! (Xin anh một phút nữa
thôi).
Trương Tửu nói vừa đúng thêm một phút nữa, đi xuống. Cả phòng
vỗ tay như sấm dậy. Anh và tôi cười khúc khích, dắt nhau ra về. Tôi gọi Trương
Tửu là Mirabeau.
1938-1939, Trương Tửu chuyển hướng nhiều về chính trị và xã hội.
Anh có tư tưởng tiến bộ, nhưng không chấp nhận Cộng sản Đệ Tam Quốc Tế.
Từ ngày tôi bị bắt lần thứ hai, vì lập trường chống Phát xít
Nhật và Thực dân Pháp, thì tôi không còn cơ hội gặp lại Trương Tửu. 1954, tôi
ngạc nhiên nghe tin anh dạy ở Đại học Văn Khoa Hà Nội (?), nhưng không ngạc
nhiên sau đó khi nghe anh bị chính quyền Hà Nội khủng bố. Anh không phải là một
con chiên ngoan trong chuồng cừu cộng sản.
13. MỘNG SƠN
Mộng Sơn Vũ Thị Mai (1916-1992)
Nữ văn sĩ, tên thật là Vũ Thị Mai, bút hiệu ban đầu là Sơn
Tiên, sinh ngày 20-12-1916, quê làng Trung Lao, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định
(nay vẫn thuộc tỉnh Nam Định).
Thuở nhỏ học ở Huế, Hà Nội, trưởng thành và cầm bút tại Hà Nội
từ những năm 30 của thế kỉ trước (XX). Từng cộng tác với các báo: Phụ nữ thời
đàm, Văn học, Việt nữ, Đàn bà, Đông Phương. Ở Hà Nội.
Từ khi phong trào thơ mới lớn mạnh, Mộng Sơn tích cực hưởng ứng
thuộc trường phái thơ Bạch Nga của Nguyễn Vỹ (1912-1971) đến năm 1945.
Sau Toàn quốc kháng chiến bà vẫn sống tại Hà Nội. Hòa bình được
vãn hồi (1954) bà công tác tại Nhà xuất bản Văn học, tuần báo Văn nghệ. Năm
1957 bà có chân trong Ban chấp hành Hội nhà Văn Việt Nam.
Bà mất ngày 4 tháng 5 năm 1992 tại Hà Nội, thọ 76 tuổi.
Các tác phẩm chính:
- Văn học và Triết luận (1944)
- Vượt cạn (1952)
- Làm nũng (1952)
- Giận nhau (1957)
- Gỗ mới (1959)
- Một khoảng trời xanh (1960)
Bước chân vào làng văn một lượt với Anh Thơ, nàng lớn hơn tác
giả Bức tranh quê vài ba tuổi.
Con gái thứ hai của một ông quản lí đồn điền ở Chũ (Phủ Lạng
Thương), và có một căn bản học thức tạm đầy đủ, Vũ Thị Mai tuy còn là một cô
gái trẻ trung nhưng thích ở miền rừng núi hoang dã hơn là ở thành thị, thích
văn thơ và tư tưởng triết lí hơn là trang điểm và các thú vui vật chất nơi phồn
hoa. Lúc đầu lấy bút hiệu là Sơn Tiên, Vũ Thị Mai đổi tên lại là Mộng Sơn sau
khi đã đăng vài ba bài thơ khả ái trên báo Đông Phương của Lan Khai.
Nàng có vẻ đẹp rắn rỏi, ưa những cử chỉ và hành dộng tinh nghịch
và cương quyết hơn là điệu bộ tha thướt ẻo lả của phần đông thiếu nữ “lãng mạn”
thời bấy giờ. Nàng rất mê đọc sách, và tuy ở giữa miền rừng núi Phủ Lạng Thương
nhưng sách gì mới xuất bản ở Hà Nội Mộng Sơn đều có nhờ người mua về đọc hết cả.
Rất thông minh, - một thông minh thấu triệt được nhiều trạng
thái thâm thúy của sự vật, - và một khiếu nhận xét tế nhị mọi khía cạnh khúc
chiết của tư tưởng, Mộng Sơn hai chục xuân xanh mà tinh thần đã cứng rắn và bao
quát rộng tầm suy cứu hơn một phụ nữ trên ba mươi tuổi đã đỗ vài ba văn bằng.
Mộng Sơn không lãng mạn phóng túng, không giản dị ngây thơ
như Anh Thơ. Mộng Sơn không đùa cợt với ái tình và không để tình cảm làm chủ lý trí. Lý tưởng của nàng là đem nữ tính đa cảm phụng sự cho tình yêu nhân loại.
Văn chương của nàng cũng thấm nhần tình thương ấy. Mộng Sơn có những sở thích
kỳ lạ hơn các thiếu nữ khác. Nửa đêm, nàng phi ngựa trên các núi đồi, dưới một
trời ngập sương mù rét buốt, cho đến sáng mới về. Tắm biển, nàng bơi ra xa, để
cho sóng đập xuýt chết chìm nếu cậu nàng, một Luật sư ở Pháp về, không bơi ra kịp
để cứu nàng. Gia đình theo Đạo Thiên Chúa, riêng nàng đêm Noel không đi lễ nhà
thờ, ở nhà làm thơ và đọc sách. Nàng biết khiêu vũ, nhưng không ham mê. Mộng
Sơn khác hẳn các thiếu nữ “lãng mạn” của thế hệ Tiền chiến là ở chỗ đó.
Hai bài liên tiếp của Thế Lữ công kích thơ của tôi trong hai
số báo Phong Hóa vừa ra được hai tuần lễ, gây một dư luận xôn xao trong Thi đàn
Bắc Việt, thì Mộng Sơn là cô gái đầu tiên và xa lạ từ trên rừng núi Phủ Lạng
Thương gởi bài về công kích Thế Lữ và binh vực tập thơ của tôi. Từ đó tôi quen
với Mộng Sơn, nhưng chỉ giao thiệp cùng nhau bằng thơ từ gần một năm trời mà
chưa biết mặt. Và cũng từ đấy, người ta trông thấy rải rác trong các tờ báo văn
học ở Hà Nội những bài thơ của Mộng Sơn làm theo lối thơ Bạch Nga. Không cần đếm
xỉa đến những lời công kích và mạt sát, Mộng Sơn ngồi ở trên núi rừng xanh của
Chũ, hăng hái diễn tả những tư tưởng dồi dào của nàng trong các bài thơ Bạch
Nga gởi về đăng trong các báo Hà Thành.
Một năm sau, Mộng Sơn về ở luôn Hà Nội, và làm chủ bút tờ tuần
báo Việt Nữ. Về đây, do sự tiếp xúc với các giới cách mạng, Mộng Sơn dần dần
từ bỏ làng Thơ, bước sang lĩnh vực học thuyết chính trị. Nàng khao khát cách mạng
vô sản và hình như khuynh hướng theo Đệ Tứ Quốc Tế (trotskysme). Vào khoảng
1939-1940, Mộng Sơn không còn là con Bạch Nga duyên dáng kêu vang dưới ánh nắng
hồng trên Hồ Hoàn Kiếm nữa. Nàng đã trở thành một nữ sĩ rất hăng hái của một
nhóm chính trị.
Từ đó, trên đường tranh đấu cách mạng, Mộng Sơn dần dần xa
tôi, vì tôi chủ trương cách mạng Dân tộc, chống Đế quốc và phát xít; đoàn kết tất
cả các lực lượng không chia rẽ giai cấp và không đấu tranh giai cấp, còn Mộng
Sơn thì theo chủ trương tranh đấu giai cấp nhưng lại cũng không theo đúng đường
lối của Đệ tam Quốc tế của nhóm “Staliniens”.
Tuy vậy, mối thông cảm văn nghệ giữa chúng tôi vẫn còn. Khi
được tin của Trương Tửu cho hay rằng tôi bị bắt và bị giam ở Lao, thì Mộng Sơn
đến thăm và đem cho tôi một chiếc bánh mì và một kí chả lụa… Tôi không sao quên
được nét mặt cứng cỏi nhưng buồn bã đau đớn của cô gái 22 tuổi, Nữ sĩ Cách mạng,
đứng yên lặng nhìn tôi.
Rồi tôi bị đi an trí Trà Khê, không được tin Mộng Sơn nữa.
Mãi đến 1952, ở Sài Gòn, tôi đột nhiên vui mừng được đọc một
quyển sách mới xuất bản từ Hà Nội gửi vào tặng tôi. Quyển sách nhan đề là Vượt
cạn với tên tác giả là Bà Mộng Sơn.
Tôi chưa thấy một Nữ sĩ Việt Nam nào viết được một quyển sách
về phụ nữ mà cảm động thấm thía và sâu sắc như quyển Vượt cạn của Mộng
Sơn.
Đây là một tiếng kêu vừa não nuột, vừa mỉa mai chua chát, và
đầy uất hận cho số phận của người đàn bà phải sinh đẻ trong các trường hợp đau
thương. Mộng Sơn diễn tả cũng cảm động không kém Pearl Buck.
Năm 1953, chị Thụy An, tác giả quyển Đôi vợ chồng và Hai
mớ tóc đi Hà Nội về, có cho tôi hay rằng Mộng Sơn viết rất nhiều và sắp xuất
bản mấy quyển sách khảo luận về triết học và văn học sử.
Nhưng, tháng 8-1959, tôi được đọc tạp chí Việt Nam tranh ảnh
Việt Nam xuất bản ở Hà Nội hồi đầu năm 1959, thấy có một bức hình Mộng Sơn đang
làm lao công trong nhà máy sợi Nam Định.
Thế là đời sống Văn nghệ và tư tưởng của một nữ sĩ tài hoa đã
bị nghiến nát trong guồng máy của chế độ.
Tôi ngắm tấm hình của Mộng Sơn, - vẫn diện mạo của Mộng Sơn hồi
nào, mà ngẫm nghĩ buồn bã lan man…
14. NGUYỄN TUÂN
Hồi tôi chưa gặp Nguyễn Tuân, tôi đã biết vài ba người bạn
chơi thân với anh đều có cảm tưởng chung về anh như thế này:
- Nguyễn Tuân gàn lắm!
Cho đến Lưu Trọng Lư, là anh chàng mơ mộng nhất trong làng
thơ làng văn lúc bấy giờ, - mơ mộng cũng gần như là gàn rồi còn gì! - mà cũng
phâ bình Nguyễn Tuân:
- Thằng ấy gàn thật.
Một buổi tối, Lư hỏi tôi:
- Mầy muốn gặp Nguyễn Tuân không? Đi đến nhà nó chơi đi!
Tôi hỏi Lư:
- Có phải nó gần lắm không?
Lư cười ranh mãnh:
- Nó bảo nó không gàn. Nó bảo mầy gàn.
- Nếu thế thì đến xem đứa nào gàn.
Lư đi với tôi. Hai người đi tàu điện từ chợ Hôm lên đến giữa
phố Hàng Bông, xuống ngay đầu phố Nhà Thờ.
Lư bảo:
- Nó ở nhà thằng Nguyễn Đàm là em ruột của nó, ở con đường
này đây.
- Đã bảo Nguyễn Đàm là em ruột của Nguyễn Tuân, mà còn hỏi!
Thế là đích thị mầy gàn rồi.
- Nhưng Nguyễn Đàm làm nghề gì chứ?
- Nó là con rể của Vũ Đình Long, chủ nhiệm Tiểu thuyết thứ bảy.
Nếu không phải là con rể thì là em rể. Nếu không phải em rể là cháu rể… Nếu
không phải cháu rể nữa thì thôi, tao chịu!
- Chính chú mầy mới thật là gàn đấy! Làm rể ông Vũ Đình Long
mà cũng là một cái nghề à?
Lư cười sặc sụa, chỉ ngón tay ốm teo vào mặt tôi:
- Mi gàn mà mi bảo tao gàn! Làm rể ông Vũ Đình Long thì mới
được làm quản lí nhà in và nhà báo của Vũ Đình Long chứ!
Hai đứa tôi vừa đi vừa cãi đùa chưa hết câu chuyện thì đã đến
trước một căn nhà thắp đèn “manchon” chiếu một màu sáng xanh xanh.
Lư vào trước, nắm tay một chàng đang đứng trong nhà và cười
ngó ra tôi. Tôi vừa bước vào. Lư nắm cả tay tôi, bảo chàng kia:
- Nó bảo mầy gàn, mầy bảo nó gàn, thế là đứa nào gàn? Tôi
chưa biết chàng ấy là ai, chỉ nhậnt hấy một điều ngay trước mắt, là chàng có một
đầu tóc bờm xờm kinh khủng. Giống hệt cái đầu của Jean Cocteau, thì si Pháp.
Chàng mập mạp, coi bộ to lớn rềnh rang hơn tôi nhiều, và chắc chắn là nhiều tuổi
hơn tôi. Chàng có một nét cười chúm chím rất hóm hỉnh, và đôi mắt ranh mãnh lạ
thường, nhưng nụ cười và đôi mắt vô cùng khả ái. Tôi có cảm tình ngay khi chàng
nhìn tôi:
- Cho mình biết tên, thì mình sẽ biết ngay là đứa nào gàn!
Tôi cười:
- Tụi mình cứ chơi với nhau mà không cần biết tên có được
không?
- Được lắm. Mình cũng thích như thế đấy.
Lưu Trọng Lư cười ha hả:
- Đích thị hai đứa bây đều gàn bát sách cả hai!
Thế là Nguyễn Tuân và tôi quen nhau và mến nhau từ tối hôm ấy
trong một trận cười rổn rảng, mà chưa đứa nào được giới thiệu cho biết tên đứa
nào.
Nửa giờ sau, Nguyễn Tuân mặc áo đen, đeo càvạt, đi chơi với
chúng tôi, lang thang trên phố hàng Gai rồi rẽ ra hồ Hoàn Kiếm. Chúng tôi ngồi
chung quanh bàn nhỏ ăn kem bên một mành liễu từ trên cung trăng buông xuống.
Chàng kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện kì thú hồi đời xửa đời xưa… Câu chuyện
tình duyên trắc trở giữa một nghệ sĩ mù và một nàng công chúa. Tiếng nói trầm
trầm như mặt nước hồ thu, thỉnh thoảng nổi dậy một đợt cười xao xác như làn
sóng chập chờn khẽ tạt vào bờ.
Khuya rồi, khách thừa lương đã tản mác, ba đứa tôi còn ngồi
dưới gốc liễu, duỗi chân trên cỏ, nhìn xuống mặt hồ. Nguyễn Tuân bảo:
- Tiếc rằng tớ không biết làm thơ như hai cậu. Nhưng cần gì
biết làm thơ nhỉ? Mình cho rằng thưởng thức được trọn vẹn những ý thơ của gió
trăng, hòa mình vào với hồn thơ của cây cỏ, ấy là biết làm thơ rồi… Người đời
xưa, đã mấy ai làm thơ, nhưng họ toàn sống trong cảnh thơ và cảnh mộng. Mình tiếc
không làm được người nghệ sĩ mù. Mình tiếc không gặp được nàng Công chúa, nhưng
mình biết chuyện họ, mình sống lại với họ, thế là mình tạo chàng nghệ sĩ cho
mình và nàng Công chúa cho mình… Hai anh chắc đã có hai nàng công chúa, còn
tôi, tôi chỉ sống trong vang bóng một thời… Tôi chỉ yêu những nàng công chúa ở
tận đời xửa đời xưa…
Lưu Trọng Lư bỗng phá tan giấc mộng của anh chàng có đầu óc bờm
xờm:
- Đi lên Khâm Thiên ăn thịt chó chơi, tụi bây!
Nguyễn Tuân cười chúm chím (Nụ cười quen của chàng):
- Ừ, đi!
Tôi bảo:
- Hai anh đi, tôi về.
- Không ăn được thịt chó à?
- Tớ không có duyên với thịt chó.
Tuân bảo:
- Khỏi lo. Gắp một miếng chả chó bỏ vào miệng, nhai thong thả
để thưởng thức cho hết mùi thơm của nó, rồi hớp một ngụm rượu, nuốt cái ực vào
là có duyên với thịt chó ngay.
- Nhưng tớ cũng không uống rượu.
Lư ngó tôi:
- Cứ đi, rồi mình dạy cho cách uống rượu.
- Thì… đi!
Đêm ấy, ở quán thịt cầy nơi góc Ô Chợ Dừa, Lưu Trọng Lư và
Nguyễn Tuân ra về say khướt. Mặc dầu Nguyễn Tuân bảo “Mùi thịt chó rất nên
thơ”, tôi cũng không làm sao chịu nổi mùi thơ thịt chó.
Sau đó, tôi có gặp Nguyễn Tuân bốn năm lần. Nguyễn Tuân uống
rượu thật nhiều, nhưng tôi chưa thấy Nguyễn Tuân nói bậy bạ như Lưu Trọng Lư
lúc say mèm. Tuân, người Thanh Hóa, tính nết hay nghiêm nghị, và làm gì cũng đắn
đo nhưng rút cuộc không làm được theo ý mình. Chất nghệ sĩ của Nguyễn Tuân là
mơ, nhưng không phải cái mơ huyền ảo bông lông, mà chỉ là cái mơ ước thực tế,
giản dị, gần gũi nhưng vẫn ít khi thực hiện được. Mơ một cuộc du lịch, mà không
có tiền, rồi xách va li ra ga xe lửa để tưởng tượng là đi du lịch. Mơ có một
nàng công chúa để yêu, nhưng không có nàng công chúa, rồi lấy bút vẽ ra một mĩ
nhân để tưởng tượng đó là nàng công chúa. Những quyển tùy bút của Nguyễn Tuân hầu
như là những trang giấy ghi chép các giấc mơ không thành của con người văn nghệ
ưa phiêu lưu ấy. Cần nên nói nhiều một chút về tính ưa phiêu lưu của Nguyễn
Tuân. Anh thường nói câu tiếng Pháp này với bạn bè: “J’aime la vie des
Bohêmiens”, (tôi thích đời sống của những người Bô-hê-miêng). Anh cũng đã viết
trong một tác phẩm của anh, đại khái: “Bàn viết của tôi đặt ở giữa thiên nhiên,
giữa trời mây non nước không nhất định nơi nào cả”. Tôi chỉ nhớ đại ý như vậy,
mà đó là đúng với sở thích của Nguyễn Tuân. Dù anh theo Đàm Quang Thiện sang Hồng
Kông để đóng phim “Cánh Đồng Ma” hay anh xách vali đi nơi này nơi khác, mục
đích vẫn là thỏa mãn óc phiêu lưu của Nguyễn Tuân, chứ không chú trọng đặc biệt
về một công tác nào.
Nguyễn Tuân còn có một tính khác nữa, là bao biếm. Anh ưa
công kích với giọng khôi hài nhưng không có ác ý hiểm độc như Thế Lữ hay Nhất
Linh, mà khôi hài công kích để cười chơi thế thôi. Vì thấy đời không làm anh
thoải mái nên anh thường chán đời. Anh có rất nhiều giờ phút chán nản, muốn
buông trôi hết để đi biến mất một nơi nào vắng vẻ. Anh thích “tu tiên”, và
khoái nghe những chuyện thần tiên. Anh có khá nhiều khuynh hướng về Lão Tử, và
có lần muốn nghiên cứu Kinh Dịch. Trong quyển Chiếc lư đồng mắt cua loại
giấy tốt của anh gởi tặng tôi, anh có đề một câu sau đây, mà tôi vẫn chưa quên
được:
“Chúng ta là những con người ta của người ta
Chỉ có giấc mơ của mình là của mình.
Phải không Nguyễn Vỹ?”
- Phải lắm, Nguyễn Tuân ơi!
Ngày nay, tôi biết anh còn sống ở đất Bắc nhưng tôi biết anh
đã chết rồi. Vì cái “con người” của anh, anh đã biết là không phải của anh,
cũng như “giấc mơ của mình” đâu còn là “của mình” nữa?
Than ôi! Nguyễn Tuân! Tôi thương Lưu Trọng Lư ít, mà tôi
thương anh nhiều. Vì Lư vẫn không bao giờ tin tưởng nơi cái gì cả và cả nơi Lư,
chứ Nguyễn Tuân… Xưa kia… Chàng còn tin tưởng nơi giấc mơ xinh đẹp của con người
Văn nghệ.
Có gì thê thảm bằng sự tan rã của một giấc mơ xinh đẹp?
Tác phẩm của Nguyễn Tuân
Muốn hiểu những đặc tính của văn chương Nguyễn Tuân, nên so
sánh Nguyễn Tuân với Lê Văn Trương, hai người hoàn toàn trái ngược nhau, từ cử
chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ đến lối hành văn và tinh thần văn nghệ.
Lê Văn Trương nói năng thô lỗ, cục mịch, ồn ào nóng nẩy, đôi
lúc nghênh nghênh có vẻ “cao bồi”. Nguyễn Tuân, ngôn ngữ nhỏ nhẻ, đàng hoàng, từ
tốn như một chàng thư sinh Nho giáo, chậm rãi và điềm nhiên.
Lê Văn Trương hay khoác lác, ba hoa thiên địa, biết ít mà làm
như biết nhiều. Ngyuễn Tuân dè dặt đến mức độ ngờ nghệch ngây thơ, biết mà làm
như không biết.
Cho đến cách y phục, đi đưng cũng thế, Lê Văn Trương vội
vàng, cẩu thả bao nhiêu, thì Nguyễn Tuân đủng đỉnh cẩn thận bấy nhiêu. Từ cái lối
thắt cravát, chải mái tóc, mang đôi giày, đến lúc ra đi, bước đi, một mình hay
trong đám đông người, Nguyễn Tuân cũng mực thước.
Trong văn chương cũng thế. Văn Lê Văn Trương có những đoạn dài
như rau muống, những trang rườm rà lẫn lộn triết lí, luân lí, không đầu không
đuôi, đôi khi mâu thuẫn lẫn nhau. Viết một mạch rồi đưa in, không bao giờ sửa lại.
Nhiều khi không coi lại.
Văn Nguyễn Tuân, trái lại, thuần thục, điều hòa, mạch lạc.
Như các nhà văn có ý thức về giá trị văn chương của mình, Nguyễn Tuân sửa bản
thảo thật kĩ, nhiều trang sửa đi sửa lại ba bốn lần.
Nhưng, dù thêm bớt thế nào đi nữa, giọng văn của Nguyễn Tuân
vẫn còn y nguyên đặc chất trầm tĩnh của nó. Cho nên đọc Nguyễn Tuân, người ta bị
lôi cuốn dịu dàng, êm ái, bởi câu chuyện của Tuân kể, nhưng không bị cảm xúc mạnh.
Văn của Nguyễn Tuân y như lời của Nguyễn Tuân trong lúc nói chuyện: người nghe
thích thú nhưng không cảm động.
Vì thế mà Nguyễn Tuân đã đôi ba lần làm thơ, nhưng không đăng
lên báo: thơ Nguyễn Tuân không cảm xúc tâm hồn người đọc, không thấm thía vào
tim gan người ta.
Một hôm, Tuân đọc cho tôi nghe một bài thơ anh mới làm, theo
Đường luật thất ngôn bát cú. Anh hỏi:
- Cậu thấy thế nào, nói thật mình nghe.
Tôi cười:
- Đạo mạo cộng với hài hước, trừ bớt nụ cười, nhân với 7,
chia ra 8.
Nguyễn Tuân cười tủm tỉm:
- Nghĩa là một bài toán thất ngôn bát cú?
- Đúng luật, đúng điệu, thế cũng được.
- Mình đọc cho thằng Lưu Trọng Lư nghe, nó biểu: “Con chim
boon boon nó chạy về hòn núi Thái Sơn”!
- Cậu đọc cho ai nghe nữa?
- Lan Khai.
- Nó bảo sao?
- Nó cười ồ ồ rồi khen mình: “Thơ Nguyễn Tuân hay hơn thơ
Nguyễn Tuân!”.
Đúng ra, Nguyễn Tuân có tâm hồn thơ mộng, có ý thơ, nhưng anh
diễn tả ra thì nó không phải là thơ nữa.
Tại anh lí luận nhiều quá, cái lãng mạn của Tuân chỉ nẩy nở
trong một khuôn khổ công thức nào đó, không vượt ra ngoài, không vút lên cao.
Nhưng Nguyễn Tuân phê bình thơ: anh không ưa thơ Nguyễn Bính,
bảo là “vè học trò”. Anh bảo thơ Thế Lữ là “chỉ có bài Con hổ, nhưng bài đó
hoàn toàn ăn cắp ý thơ trong bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine”, còn mấy bài kia
ăn cắp ý thơ Tàu.
Nguyễn Tuân không tha thiết với tình yêu. Anh cho rằng: “Tình
yêu phải lãng mạn mới đẹp, nhưng lãng mạn thì mất thời giờ, rồi rốt cuộc phải
có một người khóc, một người cười, hay là cả hai người cùng khóc. Chẳng bao giờ
hai người cùng cười”.
Nguyễn Tuân có nhiều nhận xét tế nhị, như trong các tác phẩm
của anh.
15. PHẠM HUY THÔNG (1) VÀ NGUYỄN NHƯỢC PHÁP(2)
Tôi muốn để hai anh Thi sĩ này vào chung một bài, vì họ là một
đôi bạn rất thân mà tôi thường gặp đi chung với nhau luôn hoặc khi vắng mặt người
nọ thì người kia cũng thường nhắc đến tên người này.
Đó là một điều hơi lạ, vì Nhược Pháp và Huy Thông không có những
điểm gì tương đồng với nhau cho lắm: đôi bạn Thi sĩ này có nhiều điểm dị đồng
thì đúng hơn Huy Thông ít nói, có vẻ kiêu kì, mắt đeo đôi kiếng cận thị rất nặng
(3 diopteries), càng tăng vẻ mặt lạnh lùng, như kiêu hãnh. Không hiểu sao, về
sau này cứ mỗi khi tôi tr6ng thấy ảnh của nhà văn Mĩ Arthur Miller, với đôi kiếng
dày mo của chàng, là tôi sực nhớ tới Huy Thông. Hai khuôn mặt cũng dài dài và gầy
ốm như nhau, hai đầu tóc cũng bờm xờm như thế. Chỉ khác Arthur Miller cao, mà
Huy Thông thấp, thế thôi. Lúc bấy giờ, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Trương Tửu
và tôi đều cùng xuýt xoát một lứa cả, đã đo thử đều cùng cao 1m52, không ai hơn
ai kém.
Nhược Pháp không cận thị, và trái với Huy Thông, anh ta hay
nói, hay cười, tuy chỉ cười mỉm, và rất ưa nói khôi hài, giọng nói rủ rỉ dịu
dàng như cô gái bẽn lẽn trên đường đi chùa Hương.
Còn Huy Thông thì tôi chưa thấy anh cười lần nào. Anh nhếch
mép một tí thôi khi mà những người khác cười nổ vang lên.
Nhiều người bảo rằng Huy Thông kiêu căng, vì tự phụ mình là
Thi sĩ, lại là một nhà kim hoàn giàu có nhất ở phố Hàng Bạc lúc bấy giờ. Nhưng
tôi không tin lời phê bình ấy là đúng. Quen với Huy Thông nhiều và hiểu anh nhiều,
tôi chỉ thấy anh ta rất nhã nhặn, lịch sự, và rất tốt đối với bạn. Có điều
không chối cãi được là khi anh khinh một kẻ nào bất tài, hạng thi sĩ ba lăng
nhăng thích làm ra vẻ “ta đây” thì anh ta tỏ vẻ khinh ra mặt, trông thấy không
thèm chào, không thèm hỏi. Nhược Pháp theo pháp xã giao, bề ngoài lịch thiệp
hơn, với tất cả mọi người.
Tôi mến Huy Thông từ khi xảy ra giai thoại sau đây:
Năm 1933, một năm sau khi Bảo Đại vừa ở Pháp về lên ngôi
Hoàng Đế, ông được người pháp đưa ra Hà Nội với mục đích tuyên truyền. Cuộc Bắc
tuần này được chính phủ thuộc địa sắp đặt tỉ mỉ và đã gây ra được một không khí
tưng bừng náo nhiệt vô cùng.
Đám thanh niên học sinh còn ngây thơ và nhất là Nữ sinh lãng
mạn, đại đa số độc giả những tiểu thuyết “ba xu”, đã bị quyến rủ đê mê bởi hình
ảnh “một vị hoàng tử trẻ đẹp trai” chưa có vợ, được người Pháp quàng cho một
bào quang rực rỡ, huyền ảo, uy nghi. Theo chương trình viếng thăm Hà Nội, Hoàng
đế Bảo Đại đi viếng các đường phố giữa một buổi chiều tưng bừng hoa lệ. Lúc ba
giờ, xe Bảo Đại ngừng trước cửa nhà buôn Chấn Hưng là tiệm kim hoàn lớn nhất ở
phố Hàng Bạc, để xem các đồ thủ công nghệ vàng bạc Việt Nam. Gia đình ông Chấn
Hưng, thân sinh của Huy Thông, rất vinh hạnh được “Ngài Ngự” chiếu cố đến tiệm
vàng bạc của mình. Mọi người đều y phục chỉnh tề, cung kính đón vái long nhan.
Riêng Huy Thông ở trên lầu mặc bộ pyjama sọc xanh ngồi bàn làm thơ. Chàng thi
sĩ trẻ tuổi, sinh viên trường Luật, không thèm xuống đón vua Bảo Đại.
Mấy hôm sau, Nhược Pháp và tôi đến chơi trên căn lầu ấy. Huy
Thông không hề đá động đến chuyện Bảo Đại có vào xem các đồ kim hoàn trong tiệm.
Chàng chỉ đọc cho chúng tôi nghe bài thơ dài sáu bảy chục câu mà chàng đã làm
xong hôm ấy.
Tôi siết chặt tay Huy Thông, trong lúc Nhược Pháp cười hóm hỉnh
nói một câu tiếng Pháp khôi hài.
Lúc bấy giờ Nhược Pháp cũng đang học năm thứ Nhất Cử nhân luật,
cùng lớp với Huy Thông.
Hôm Huy Thông sang Pháp để tiếp tục học ở Đại học Luật khoa
Paris, anh có đãi một tiệc trà long trọng ở nhà Thủy tạ Bờ Hồ, mời các bạn
thân. Mặc dầu hôm ấy tôi đang bị bệnh, đã viết giấy đến xin lỗi và chúc Huy
Thông hôm sau thượng lộ bình an, Nhược Pháp cũng đến nhà tôi kéo đi cho được.
Rồi từ đó, chúng tôi biệt tin. Mãi đến 1953, Huy Thông đã đỗ
Thạc sĩ Văn chương ở Pháp bị trục xuất về Sài Gòn với người vợ đầm. Vợ chồng
anh bị chính quyền Pháp ở đây bắt giam lỏng tại một căn nhà ở đường Paul
Blanchy (Bây giờ la đường Hai Bà Trưng). Tôi đang làm chủ nhiệm nhật báo Dân
ta. Một hôm, tôi ngạc nhiên nhận được một bức thư của Huy Thông gởi đến tôi tại
tòa báo, bức thư viết tay, đúng nét chữ của anh. Tôi biết lúc bấy giờ Huy Thông
đã theo Cộng sản và tôi không thể nào tưởng tượng được sự biến đổi ấy.
Bức thư anh nhờ một người cầm tay đem đến tôi, có mấy lời
thăm tôi và nhờ tôi viết bài trên các báo phản đối việc giam lỏng anh ở Sài
Gòn, và yêu cầu Pháp cho anh được tự do về Hà Nội. Tôi rất tiếc chế độ kiểm duyệt
báo chí thời bấy giờ không cho phép tôi làm được công việc mà Huy Thông đã nhờ
tôi.
Huy Thông ngày nay không còn là Thi sĩ Huy Thông nữa. Tôi viết
bài này cũng chỉ là nhắc đến Huy Thông một Thi sĩ rất đáng mến, một người bạn
thơ rất dễ thương của hồi tiền chiến mà thôi.
Tiếc thay! Bao giờ tôi gặp lại được Huy Thông hiền lành, mơ mộng
của thuở xưa, Huy Thông lãng mạn của làng thơ Việt, Huy Thông đáng yêu của Tần
Ngọc say mê?...
Nguyễn Nhược Pháp tính ưa khôi hài, ham mê tự do, độc lập,
cũng như cụ Nguyễn Văn Vĩnh là thân sinh của anh vậy. Tuy tính nết thực thà, và
bặt thiệp, nhưng anh rất trọng những tư tưởng tự do của anh, không chịu để ai nắn
bóp được cả.
Tôi không quên được tập thơ “Ngày xưa” của anh xuất bản trong
trường hợp hơi lí thú. Nhược Pháp không có thi cảm nồng nhiệt và thấm thía như
Huy Thông, cũng không có thi tứ dồi dào bao quát như Huy Thông. Anh chỉ ưa cái
gì phảng phất nhẹ nhàng thôi. Cho nên anh chỉ làm những bài thơ phơn phớt bề
ngoài. Chính anh cũng đã bảo với tôi: Thơ của mõa “superficielle” (1). (1) Có bề
mặt, không có bề sâu.
Bài thơ Chùa Hương là bài khá nhất trong tập thơ Ngày Xưa, có
một lai lịch kì thú không ngờ. Chuyến đi chùa Hương ấy, Nhược Pháp đi với tôi
và hai cô gái nữa, đều là nữ sinh cả. Hai cô có mang theo hai máy chụp hình,
còn Nhược Pháp và tôi đều đi tay không. Trèo lên đến Rừng Mơ bỗng chúng tôi gặp
một bà cụ vừa bước lê đèo, đường đá gồ ghề lởm chởm, vừa niệm: “Nam Mô Cứu Khổ
Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát…”. Cô gái quê có lẽ là con của cụ, cũng đang niệm
câu ấy nhưng nửa chừng trông thấy chúng tôi là hai chàng trai nhìn cô trân trân
thì cô bẽn lẽn làm thinh không niệm Phật nữa. Cô đang đọc: “Nam Mô cứu khổ cứu
nạn…” rồi cô im. Đôi má đỏ bừng, cô cúi mặt xuống. Hai đứa tôi hỏi cô: Tại sao
trông thấy chúng tôi, cô không niệm Phật nữa? Cô gái quê có vẻ đẹp ngây thơ bỗng
tỏ vẻ bối rối muốn khóc.
Không ngờ hai cô bạn nữ sinh lén chụp được tấm hình hai đứa
tôi đang hỏi chuyện cô gái quê, rồi có lẽ không bằng lòng chúng tôi nên hai cô
lén đi trước, và đi lúc nào chúng tôi không hay biết, cũng chẳng nói năng gì với
chúng tôi cả, bỏ chúng tôi ở lại với cô gái quê. Chúng tôi mê nói chuyện với cô
này, một lúc sực nhớ lại hai cô bạn chúng tôi vội vàng đi theo nhưng không kịp.
Hai cô đã lên đến Chùa Ngoài, rồi lên đến Chùa Tiên Sơn, lẫn trong đám đông người,
biến mất dạng. Đêm ấy ngủ trong Chùa Hương, sáng hôm sau ra về, chúng tôi mới gặp
lại hai cô bạn đồng hành. Tôi phải xin lỗi mãi, nhưng Nhược Pháp cứ tủm tỉm cười
không nói. Về Hà Nội, hai hôm sau, Nhược Pháp đem đến tôi bài thơ Chùa Hương,
mà trong bản chép ra đầu tiên Nhược Pháp đề là “Cô gái chùa Hương”. Nhược Pháp
lấy cuộc gặp gỡ lí thú của chúng tôi với cô gái quê để làm đề tài và tưởng tượng
thêm ra, thành bài thơ đẹp, giọng thơ ngây, y như cô gái chùa Hương hôm ấy…
Trong tuần ấy, anh góp nhóp các bài thơ của anh, thành một
quyển. Anh đưa tôi và hỏi:
- Có nên xuất bản không?
- Nên.
- Nhưng tiền đâu? Nhược Pháp cười móm mém.
- Xin ông Cụ.
- Thôi, tôi mà đưa ông Cụ xem cái của nợ này, thì chắc chắn
là ông Cụ sẽ vứt nó vào sọt rác.
- Đưa bà Cụ vậy.
- Ừ, phải đấy!
Một tháng sau, quyển thơ Ngày Xưa ra đời. Sách in xong mà
Nguyễn Nhược Pháp vẫn rụt rè, chưa dám đưa cụ Nguyễn Văn Vĩnh xem vội, chị sợ Cụ
vứt vào sọt rác.
Nguyễn Nhược Pháp và Nàng tiên áo đen
Trên chuyến xe lửa Hà Nội – Yên Bái, Mộng Sơn đưa ra một lời
nhận xét mà nàng tưởng là đúng:
- Bọn mình đi có hai chàng thi sĩ, một chàng thì muốn cười mà
không cười, một chàng thì muốn nói mà không nói. Chỉ có ba đứa mình là cười nói
lung tung thiên!
“Ba đứa mình” của Sơn Tiên là nàng, cô Thanh Tú, và một cô…
gì nữa, tôi quên tên. Cả ba đều ở bộ Biên tập tuần báo Việt Nữ.
Lúc ở ga xe lửa Hà Nội, chúng tôi đã đồng ý lên Yên Bái chơi
ba ngày. Ai có chuyện riêng thì cứ đi riêng. Sơn Tiên nhứt định tận hưởng cuộc
du lịch trong ba ngày, tôi thì muốn tách riêng ra một ngày có chuyện riêng của
tôi. Nguyễn Nhược Pháp thì làm kị mã hầu cạnh cô Thanh Tú và cô gái gì tôi quên
tên. Chương trình đi chơi là trèo lên mấy ngọn núi Yên Bái, bơi thuyền trên bến
Âu Lâu, dạo chơi xem các ngoại ô thành phố, và một vài di tích lịch sử…
Lúc mới ngồi trên xe lửa, đứa nào cũng vui vẻ cả, chuyện trò
ríu rít như một đoàn học sinh được đi nghỉ Pâques ở xa.
Nhưng qua khỏi Việt Trì, nghe Sơn Tiên phê bình, Nguyễn Nhược
Pháp kề tai tôi khẽ hỏi:
- Cậu suy tính gì mà bộ mặt trầm ngâm thế?
- Tôi đang có một ý nghĩ ở trong đầu.
Nhược Pháp mỉm cười:
- Tôi thì đang có một ý nghĩ trong con mắt.
Tôi ngước lên ngó vào mắt hắn. Hắn bảo:
- Cậu ngó ngay nơi dãy ghế đối diện kìa.
Tôi ngó sang dãy ghế đối diện:
- Cô áo xanh?
- Không.
- Cô áo trắng?
- Không.
- Cô áo đen?
Nguyễn Nhược Pháp mím chặt môi… Mặt cậu đỏ bừng. Rõ thật một
chàng trai nhút nhát.
Hai đứa tôi nói rất khẽ, rồi bỗng nhiên im bẵng.
Mộng Sơn vỗ vai tôi:
- Anh với anh Nhược Pháp nói gì mà bí mật thế?
Tôi mỉm cười quay lại nàng:
- Đã biết là chuyện bí mật sao em còn hỏi?
- Em hỏi cho hết bí mật.
- Không có gì bí mật cả.
- Thì em không hỏi gì cả.
Hai đứa nhìn nhau cười. Chiều tối tàu đến Yên Bái, Nguyễn Nhược
Pháp khẽ bấm tay tôi. Tôi ngó cô Áo Đen vừa bước xuống sân ga. Anh
chàng nhìn theo, mím chặt môi.
Cô Áo Đen đã ngồi xe kéo chạy xa, thật xa, biến trong sương
hôm tỏa khắp các nẻo đường.
Chúng tôi đi bộ về nhà thầy me cô Thanh Tú.
Hai đứa tôi nằm riêng một phòng, chắc giấc ngủ sẽ ngon lắm
sau một ngày đi xe lửa. Tôi thì buồn ngủ quá rồi. Vừa đặt lưng xuống nệm nhắm mắt
ngủ liền. Nguyễn Nhược Pháp còn rầm rì bên tai tôi:
- Cậu có thấy Cô Ao Đen đẹp không? Cậu nói thật đi.
Tôi nghe văng vẳng câu hỏi, rán trả lời:
- Đẹp.
- Đẹp lắm chứ?
- Hả?... Ừ… đẹp lắm.
- Đẹp lắm như thế nào? Cậu tả hình dung lại cho
tôi xem có đúng không nào?
- Hả?... Đẹp lắm hả?
- Cậu đã ngủ rồi à?
- Chưa.
- Chưa, thì cậu cho tôi biết cậu thấy cô Áo Đen đẹp như thế
nào?
- Cô… Áo Đen… hả?
- Ừ.
- Ừ… thì… tôi đã bảo là cô ấy đẹp lắm rồi… cậu còn hỏi mãi.
- Đôi mắt nàng như hai ngôi sao ấy nhỉ!... Nước da trắng mịn…
như ngà… Cái mũi Ai Cập như mũi Cléopâtre… Khuôn mặt Tây Thi… Cái thân hình… Ồ,
cái thân hình…. Vỳ à!... Vỹ!... Vỹ ơi!...
- Hả?
- Cậu ngủ rồi ư?
- Hả?
- Có phải không, cậu? Cái thân hình uyển chuyển của nàng… với
những đường cong… diễm tuyệt nhỉ! Còn bộ ngực… Ô… là… là! Moa chưa thấy cô thiếu
nữ nào có bộ ngực đẹp lạ đẹp lùng đến thế:… Vỹ ơi!... Vỹ!... Cậu có thấy cô nào
có bộ ngực đặc biệt như thế không?... Vỹ!... Vỹ ơi!... toa ngủ rồi ư?
- Hả? Cái gì?
- Cái bộ ngực của nàng…
- Bộ ngực của ai?
- Của nàng tiên Áo Đen ấy mà! Toa thấy cô thiếu nữ nào có bộ
ngực… thiêng liêng và… và…
- Coi chừng kẻo bộ ngực giả đấy nhé! Thôi ngủ với chứ!
- Bộ ngực vĩ đại… vĩ đại…
- Hả? Sao cậu cứ gọi tên tôi mãi thế?
- Ồ, cậu cứ lấy cái tên của tôi dán lên bộ ngực của người ta!
Cậu có cho tôi ngủ không thì cậu bảo?
- Ồ, Đức Thượng đế thật là tài tình!... Làm sao mà bàn tay của
ngài nắn được cái bộ ngực… cái bộ ngực vĩ đại đến thế! Vĩ đại kinh khủng!
Tôi biết từ lâu rằng Nguyễn Nhược Pháp không yêu cô Thanh Tú,
Thanh Tú thì yêu Nguyễn Nhược Pháp gần như say mê. Chính Thanh Tú tổ chức cuộc
du hành này để được mời Nhược Pháp lên nhà cô. Vả lại ông cụ của cô với ông
Nguyễn Văn Vĩnh lại là đôi bạn thân, và ông cụ cũng muốn gả Thanh Tú cho con
trai ông Nguyễn Văn Vĩnh. Nhưng Nhược Pháp đã bảo khẽ với tôi nhiều lần:
- Thanh Tú không có ngực, làm sao tôi yêu được, hở giời?
- Thế ra tình yêu ở trên ngực à? Tôi hỏi.
- Nhưng chính ở trên bộ ngực ấy ta mới rờ được tình yêu chứ,
không đúng ư?
Tôi kính trọng quan điểm của Nguyễn Nhược Pháp về ái tình, và
làm thinh, không cãi lại. Hôm nay đi Yên Bái, tôi hiểu rõ vì lẽ gì Nguyễn Nhược
Pháp tình cờ trông thấy cô Áo Đen không quen biết, đã say như điếu đổ.
Đêm nay chàng hùng biện khác thường chung quanh đề tài “Bộ ngực
vĩ đại” của “Nàng Tiên Áo Đen”. Và cả đêm chàng cứ mơ tưởng đến bộ ngực vĩ đại
của Nàng Tiên Áo Đen.
Ba ngày ở Yên Bái, không gặp Nàng Tiên Áo Đen. Nguyễn Nhược
Pháp nhìn thấy mọi vật đều đen tối. Tôi hái một bông chuối đỏ tươi đẹp mọc ở sườn
núi, đưa chàng. Chàng vứt xuống rãnh sâu.
Sơn Tiên kéo tôi đi riêng, khẽ hỏi:
- Sao Nhược Pháp cáu kỉnh thế, anh?
- Tại Thanh Tú sáng nay mặc áo đen quần đen.
- Em không hiểu.
- Nếu được gặp một cô khác mặc áo đen quần đen, hắn sẽ tưng bừng
rực rỡ ngay!
- Ai thế?
- Cái bí mật mà em hỏi anh hôm kia trên tàu lửa.
- Thế mà hôm kia anh bảo không có gì bí mật cả.
- Hôm nay cái bí mật ấy mới thật là bí mật.
- Bí mật gì, hả anh?
- Nàng Tiên Áo Đen.
- Là ai?
- Bí mật.
- Ở đâu?
- Bí mật.
- Mà sao? Có gì lạ?
- Bí mật.
Trên chuyến xe lửa Yên Bái - Hà Nội hôm trở về, Nguyễn Nhược
Pháp mím chặt môi, mặt đỏ hơn bông chuối rừmg. Chàng chợt thấy ở toa bên kia
không ngờ có cô Áo Đen hôm nọ. Cô ngồi với chiếc vali con để bên cạnh, mặc áo
đen quần đen.
Từ Yên Bái đến Hà Nội, cô chỉ liếc ngó Nguyễn Nhược Pháp một
lần. Nhược Pháp đứng đắn và rụt rè, vẫn ngồi yên một chỗ. Chàng chỉ lẩm bẩm bên
tai tôi: - Vỹ đại! Xuống ga Hà Nội, bỗng dưng Nhược Pháp biến đi đàng nào mất.
Một tháng sau, tôi gặp cậu trước cửa trường Cao đẳng. Cậu mím
môi để cười, rồi ấp úng hỏi:
- Toa còn nhớ Nàng Tiên Áo Đen trên chuyến tàu Yên Bái?
- Quên rồi.
- Không thể tưởng tượng được?
- Cái gì không thể tưởng tượng được? Bộ ngực của Nàng Tiên Áo
Đen?
Nhược Pháp mím chặt môi cười, rồi nhảy lên xe máy phóng đi.
Tôi còn nhớ gương mặt của anh chàng rực rỡ, có vẻ yêu đời lắm.
Nguyễn Nhược Pháp đeo đuổi Nàng Tiên Áo Đen hơn một năm. Hắn
thú thật hết với tôi tất cả, những khó nhọc, kiên nhẫn, say sưa, tìm cho được
chỗ ở của nàng và làm quen với nàng, rồi thân với nàng. Con một của một gia
đình trưởng giả, giàu sang ở Hà Nội. Năm ấy nàng 22 tuổi, nét mặt rất hiền
lành, cử chỉ ngôn ngữ rất dịu dàng thùy mị.
Nhưng cũng rất lạnh lùng, nàng cương quyết từ chối tình yêu nồng
nàn của Thi sĩ. Tuy nhiên, nàng vẫn thích thơ và phục tư cách cao thượng của
chàng. Trừ Nguyễn Nhược Pháp ra mà lòng nhẫn nại trung kiên phi thường và tình
yêu chân thật, say mê, đã rung cảm được trái tim của nàng, nàng không còn muốn
quen biết một người đàn ông nào khác nữa. Với tất cả các bạn trai trẻ ngắm nghé
nàng, nàng tỏ vẻ hờ hững kiêu căng. Trên gương mặt kiều diễm vô cùng phúc hậu của
nàng, lạ thay, không bao giờ có một nụ cười đon đả. Gương mặt hoàn toàn bí mật
mà chính Nguyễn Nhược Pháp cũng không khám phá được một phần nào. Tuy là người
duy nhất được quen thân với nàng, nhưng mối tình của chàng cũng gần như tuyệt vọng.
Hai hăm qua, một hôm chàng Thi sĩ mới biết yêu lần
đầu tiên, và yêu say mê đắm đuối làm sao, quì bên chân nàng để van xin một lời
hứa hẹn. Nàng lặng lẽ nhìn chàng, rồi gục đầu xuống vai chàng, thổn thức khóc:
- Anh tha lỗi cho em… Em không thể yêu anh được.
- Tại sao thế? Tôi không xứng đáng với cô ư?
- Không phải thế, anh ạ… Anh tha lỗi cho em…
- Thế thì tại sao?... Tại sao…?
Nàng nấc lên một tiếng, ngã xỉu vào tay chàng, và khóc nức nở…
Chàng rầm rì như người mất trí:
- Tôi sẽ tự tử mất thôi! Tôi không thể sống được trong tình
trạng này.
Cô gái Áo Đen ngẩng mặt nhìn chàng. Cả hai người đều ràn rụa
nước mắt:
- Em van lạy anh!... Chúng ta không nên gặp nhau nữa.
Nàng bỏ chạy vào buồng, đóng cửa lại.
Giao chìa khóa cửa phòng tôi cho Nguyễn Nhược Pháp, tôi bảo:
- Cậu đừng làm chuyện gì dại dột nhé.
Nguyễn Nhược Pháp mím môi, cười:
- Cậu cứ tin tôi.
Tôi hơi ngạc nhiên. Nguyễn Nhược Pháp là người con trai nhút
nhát nhất ở Hà Nội, e lệ như con gái mười tám, nhưng tình yêu đã biến đổi hẳn
con người cô đơn ấy. Anh đã viết thư mời Nàng Tiên Áo Đen đến nơi căn phòng
riêng của tôi mà hôm nay tôi nhường cho anh làm nơi hẹn hò.
Nhà thi sĩ đau khổ quyết định một lần cuối cùng xin cưới mĩ nữ
Áo Đen làm vợ. Trái lại với sự lo ngại ngày trước, nay Nguyễn Nhược Pháp vui mừng
tin tưởng sẽ thành công.
Ngồi ghế, nàng bảo:
- Em nhận lời đến đây, để cảm tạ anh đã yêu em, đã thành thật
yêu em… Anh là tình yêu đầu tiên của em, và tình yêu duy nhứt, vô cùng cảm động…
Nhưng anh ạ, em van anh… em khẩn khoản anh một lần cuối cùng… anh đừng yêu em nữa…
- Tại sao thế?
- Em lạy anh… đừng hỏi em tại sao.
- Anh muốn hiểu lý do…
- Không bao giờ em nói được.
- Em có tâm sự gì khuất khúc… sao không cho anh biết?
- Anh chỉ nên biết rằng chúng ta không thể yêu nhau được. Và
từ nay chúng ta không thể gặp nhau nữa. Em đến đây hôm nay… để vĩnh biệt anh.
Nàng đứng dậy. Nguyễn Nhược Pháp vẫn ngồi lặng lẽ cúi mặt xuống
bàn lẩm bẩm một mình:
- Anh không thể nào sống được nữa… nếu không có em…
- Em cũng thế, anh ạ…
- Nếu thế thì tại sao…
- Tại vì không thể được, anh ạ… Thôi, em chào anh… Vĩnh biệt
anh!
Nàng Áo Đen chạy vụt ra ngoài đường, nước mắt chảy ràn rụa…
Đọc báo thấy một thiếu nữ mặc áo đen quần đen tự tử trên Hồ
Trúc Bạch, xác được vớt chở vào nhà thương Phủ Doãn, Nguyễn Nhược Pháp chạy đến
tôi, mặt mày xanh nhợt. Anh kéo tôi đến bịnh viện, tại đây tôi có quen thân với
một nữ y tá.
Cô bạn đưa Nhược Pháp vào nhà xác để nhận mặt. Lúc ra, chàng
khóc:
- Chính nàng… Nàng đẹp hơn bao giờ… Tội nghiệp nàng tiên Áo
Đen… Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao nàng từ chối hạnh phúc và đời sống…? Tại
sao nàng tự tử?... Tại sao?
- Lúc mới đem vào đây, chúng tôi đã khám nghiệm thi thể.
Chính cô ấy đã nhảy xuống nước tự tử, không bị thương tích gì khả nghi. Nhưng
có điều khác thường… là… cô không phải hoàn toàn một… người phụ nữ.
Nguyễn Nhược Pháp mím chặt môi, trố đôi mắt kinh ngạc ngó nữ
y tá. Chàng càng không hiểu. Cô bạn kéo riêng tôi ra xa, bỏ nhỏ:
- Trường hợp người con gái như thế danh từ thông thường gọi
là ái nam ái nữ… Cái chỗ mà đáng lẽ tự nhiên phải là… cơ quan của giống cái,
thì cô ấy chỉ có… một cái lỗ tròn, to bằng đầu chiếc đũa…
Tôi kéo Nguyễn Nhược Pháp ra về.
Đi đường tôi nói lại cho anh nghe sự khám phá kỳ dị của cô nữ
y tá.
Nguyễn Nhược Pháp mím môi, im lặng. Nét mặt cậu ngơ ngác như
bị tiếng sét đánh bên tai.
Mấy tháng sau, anh chết. Nguyễn Nhược Pháp chết vì bịnh
thương hàn.
Buổi chiều hôm trước, tôi có đến thăm anh trên giường bịnh.
Trong phòng chỉ có anh với tôi. Nhược Pháp nóng nực, đôi mắt đỏ ngầu. Anh nắm
bàn tay tôi, khẽ bảo:
- Vĩnh biệt anh… anh Vỹ… Anh đừng buồn… Tôi vui vẻ… đi về thế
giới bên kia… để gặp… Nàng Tiên… Áo Đen…
Nguyễn Nhược Pháp mím chặt môi lần cuối cùng.
Đám ma Nguyễn Nhược Pháp đi âm thầm, lặng lẽ, một buổi chiều
mưa phùn, lạnh thấu xương. Tôi khóc thật nhiều.
16. ANH THƠ (1921 - 2005)
Nữ thi sĩ, tên thật là Vương Kiều Ân, có nhiều bút danh: Tuyết
Anh, Hồng Minh; sinh ngày 25 tháng giêng năm 1921 tại Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc
Giang - Nguyên quán tỉnh Hải Dương.
Xuất thân trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc, từng
theo gia đình xê dịch nhiều nhiệm sở ở Bắc Kì. Từ năm 1937 Anh Thơ đã có thơ
đăng trên các báo ở Hà Nội.
Sau Cách mạng tháng Tám, Bà tham gia Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh
Bắc Giang và Lạng Sơn. Sau năm 1957 bà là thành viên của Ban chấp hành Hội Nhà
văn Việt Nam, Ủy viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Các tác phẩm đã xuất bản: (đều bằng thơ)
- Bức tranh quê (1941)
- Xưa (1942)
- Răng đen (1944)
- Hương xuân (1944)
- Kể chuyện Vũ Lăng (1957)
- Theo cánh chim câu (1960)
- Đảo ngọc (1964)
- Hoa dứa trắng (1967)
- Mùa xuân màu xanh (1974)
- Quê chồng (1979)
- Từ bến sông Thương (hồi kí, 1986)
- Tiếng chim tu hú (hồi kí, 1995)…
Bà mất tại Hà Nội trong năm 2005, thọ 84 tuổi.
Một cô nữ sinh mới có 15, 16 tuổi, học trường Sơ Đẳng Tiểu học
Pháp Việt Thái Bình gởi cho nhà văn Lan Khai một bài thơ mới tập làm, ký tên là
Tuyết Anh. bài thơ đó Lan Khai sửa chữa vài ba chữ, rồi đăng lên một tờ báo để
khuyến khích “cô em”.
Một thời gian sau, người ta lại đọc trên một vài tờ báo một
vài bài thơ kí tên là Hồng Anh. Thơ còn hơi vụng về, tỏa ra người học thức còn
kém, ý tứ không dồi dào, tình cảm không sâu đậm, nhưng có những nhận xét đặc biệt,
phô diễn một trí óc tưởng tượng tuy giản dị nhưng rất tế nhị và rất dễ thương.
Lan Khai đưa một bài cho tôi coi, và bảo:
- Hồng Anh với Tuyết Anh là một. Con bé mới có mười mấy tuổi.
- Học đến đâu?
- Thi “primaire” (tiểu học) hỏng.
Tôi bảo với Lan Khai:
- Cô bé này có tài, phải không anh?
Rồi tôi quên mất câu chuyện đó, quên mất luôn cả cái tên của
“cô bé có tài”.
Tôi đang ngủ. Trưa mùa Hè nắng gắt, mà cái gác xép của tôi ở
đường Tientsin lại thấp và chật, tôi ở trần nằm lăn trên chiếu trải trên sàn
ván, ngủ như chết. Cửa cầu thang tôi đã khép kín. Có một mình tôi. Không biết mấy
giờ và không biết tại sao, bỗng dưng tôi quẫy cựa vài cái rồi tỉnh giấc, mở mắt
ngó chung quanh. Một tiếng cười rang rảng ngay bên cạnh. Tôi quay lại, thấy một
thiếu nữ lạ. Tôi ngạc nhiên:
- Ủa!
Thiếu nữ cười nghiêng ngả, cô ngồi dựa vào lan can, nét mặt
hóm hỉnh rất tự nhiên. Cô cười ngặt nghẹo, không nói gì cả. Tôi cũng vẫn nằm
yên, vẫn ở trần, nhìn cô, và điềm nhiên hỏi:
- Cô là ai?
Thiếu nữ lại cười, không trả lời. Tôi cũng tức cười, không hỏi
nữa. Tôi ngắm cô: Trạc mười tám tuổi, không đẹp nhưng có duyên, mặt nhiều mụn.
Cô mặc áo màu hồng, mang đôi giày cườm, ngồi cắn hạt dẻ, tự nhiên. Tôi cứ nằm
như thế mà ngó cô. Cô cũng cứ ngồi dựa vào lan can, trong tay cầm một quyển tập.
Cô cười để lộ hai hàm răng trắng nõn:
- Đố anh biết tên tôi?
- Tôi biết.
- Tên gì nào?
- Hồ Xuân Hương.
Thiếu nữ cười hăng hắc:
- Chả phải. Hồ Xuân Hương mặt rỗ cơ mà!
- Mặt Hồ Xuân Hương cũng có mụn.
Cô thò tay vào túi áo trong, hốt ra một nắm hạt dẻ cắn vỏ rồi
ăn. Cô hỏi tôi, vẫn tự nhiên như quen từ lâu:
- Anh cắn hạt dẻ không?
- Cắn.
Cô đứng dậy, đến gần tôi, cúi xuống để nắm hạt dẻ trên chiếu,
trước mặt tôi. Tôi lấy một hột, cắn vỏ, vừa nhai vừa hỏi:
- Cô có lầm nhà không?
Thiếu nữ ngồi xuống chiếu, cạnh tôi:
- Lầm thế nào được.
- Cô muốn gặp ai?
- Gặp anh.
- Ai bảo cô đến đây?
- Tôi bảo.
- Ai chỉ cái gác này cho cô?
- Anh Lan Khai, bạn của anh.
Tôi làm thinh. Tôi đã quên mất cái tên của “cô bé” rồi.
Tay tôi cầm quyển tập, nhưng tôi lăn trên chiếu, cười ha hả:
- Hay tuyệt!
Thiếu nữ vẫn ngồi, hai chân co lại dưới tà áo hồng, hai tay
ôm hai đầu gối:
- Câu nào hay hả anh?
- …
Và lại có cả một đôi đom đóm,
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
Tôi lật sang trang bên kia.
- Câu này cũng hay lắm:
… hai cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Cúi, cuốc, cào, cỏ: parfait!
- Parfait là gì hả anh?
- Là tuyệt! Là hay tuyệt! Khéo tuyệt!
- Anh coi có câu nào chưa được gọn, anh sửa hộ em.
- Chẳng có một câu nào là chưa được gọn. Câu nào cũng đẹp như
bức tranh quê.
- Anh liệu xem em có nên xuất bản nó không?
- Rất nên.
- Cái nhan đề “Bức tranh quê” có được không anh?
- Được lắm.
- “Bức tranh quê” hay “Những bức tranh quê” anh nhỉ?
Tôi đã xem hết tập thơ viết tay của thiếu nữ mà tôi chưa biết
rõ tên, nét chữ cứng rắn, gọn gàng. Tôi rất thỏa mãn, rất thích thú. Nhưng tôi
xem lại ngòai bìa, hỏi:
- Sao không đề tên tác giả?
Thiếu nữ cười:
- Đố anh biết tên em?
- Tên có là Thơ.
Thiếu nữ nhìn tôi chăm chăm, cô ngó vào mắt tôi, cô ngó vào
mũi tôi, cô ngó vào môi tôi. Bỗng cô rú lên một tiếng cười. Rồi cô bảo:
- Em có hai tên: Tuyết Anh và Hồng Anh. em còn do dự, chưa
quyết định để tên nào trên bìa tập thơ. Bây giờ em quyết định rồi. Em sẽ lấy
tên là Anh Thơ.
Anh Thơ rủ tôi ra phố. Tôi ngồi dậy đi rửa mặt:
- Tôi xin lỗi Anh Thơ nhé. Từ nãy giờ tôi rất là vô lễ, tiếp
Anh Thơ mà nằm, và không mặc áo.
- Bây giờ anh mặc áo, thì anh hết vô lễ với em.
Chúng tôi ra đi. Ra đến hàng Ngang, thấy một cụ ngồi bán bắp
nướng, Nữ sĩ dừng bước mua hai trái, đưa tôi một. Tôi không quen ăn quà ngoài
đường phố, nên tôi đút trái bắp còn nóng hổi vào túi quần. Nhưng một lúc thấy
Anh Thơ ăn ngon lành, vừa đi vừa ăn, vừa nói chuyện, tôi cũng thò tay vào túi
quần, lôi trái bắp ra đưa lên mồm, gặp ngon lành.
- Tên thật của em là gì?
- Tên em là Thơ, anh đặt ra, anh còn hỏi?
Thiếu nữ luôn luôn cười nói vui vẻ. Tôi lại hỏi:
- Em học đến đâu?
- Em vừa thi trượt xéc-phi-ca. Em bị thầy em đánh một mẻ vì tội
lười.
“Thầy” tức là ba của cô, làm Thừa lại tỉnh đường Thái Bình.
- Em mấy tuổi?
- Đố anh biết!
- Mười tuổi.
- Em còn bé thế cơ? Thế mà em cứ tưởng em lớn tướng rồi đấy!
- Nhưng thơ em đã lớn rồi.
- Lớn được mấy tuổi hả anh?
- Không có tuổi. Thơ em sẽ sống mãi mãi. Em làm thơ từ hồi
nào?
- Từ hồi em biết làm thơ.
Bức tranh quê ra đời. Các báo đều giới thiệu với rất nhiều cảm
tình. Tất cả làng văn Hà Nội đều khen ngợi. Nhưng chưa mấy ai biết
Anh Thơ là một cô bé 18, thi “trượt xéc phi ca”.
Một buổi chiều Thu, Anh Thơ lại đến thăm tôi. Mặt nàng vẫn đầy
mụn. Nàng lại đưa tôi coi một tập thơ, bản thảo thứ hai, tựa đề là “Mê mải”.
Bài thơ đầu cũng nhan đề là Mê mải, tả một cuộc khiêu vũ mà mỗi câu là một màu
đèn xanh đỏ, mỗi chữ là một tiếng nhạc rung rinh, mỗi dòng là một vòng quay cuồng
nhiệt trên vũ đàn. Cả bài thơ xôn xao rạo rực đê mê.
Nhưng rồi sau đó tôi đi ở tù. Suốt mấy năm mê mải trong nhà
lao, tôi không quên được những dòng thơ khiêu vũ rất tài tình dưới ngòi bút mê
mải của Tuyết Anh, Hồng Anh, Anh Thơ…
Và Anh Thơ hiện nay ở đâu, làm gì tôi không nghe ai nói nữa.
Tôi chỉ còn nghe thơ của nàng thỉnh thoảng réo bên tai:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình hai cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa…
Mấy cánh bướm chập chờn trôi trước gió
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa…
Và lại có cả một đôi đom đóm
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau…
17. VŨ BẰNG
Anh chàng mập tròn quay ấy, nước da ngăm ngăm đen, đôi mắt hí
hì thật ranh mãnh, nụ cười mỉa mai và trào lộng nở trên đôi môi thâm xì, là người
tinh nghịch nhất của làng văn Bắc Hà thời Tiền chiến.
Tôi không hiểu tại sao Vũ Bằng viết thật nhiều mà lại được ít
người nhắc đến? Anh viết truyện ngắn, truyện dài, văn trào phúng, đã xuất bản
ba bốn quyển sách, làm chủ bút Tiểu thuyết Thứ bảy, thư ký tòa soạn Trung Bắc
Chủ nhật, tổng thư ký ở Truyền Bá, chủ nhiệm tờ Vịt Đực, tác giả những phóng sự
rất vui, như Hội Lim, những truyện ngắn rất hấp dẫn, những quyển hồi ký vô cùng
lý thú như Tôi cai thuốc phiện, v.v… Anh có lối văn tả chân đặc biệt và trào
phúng chuyên môn, có khi rất nhẹ nhàng khả ái như Alphonse Daudet, có khi cầu
kỳ lý thú như Courteline.
Tôi không nói Vũ Bằng là một văn hào, nhưng chắc chắn anh là
một nhà văn Việt Nam độc đáo trên lĩnh vực tả chân trào phúng, trước kia và bây
giờ.
Con trai của một nhà xuất bản ở phố Hàng Gai (nhà sách Quảng
Thịnh, chuyên môn ấn hành những quyển truyện cũ về Tú Xuất, Ba Giai, Tấm Cám,
v.v...), Vũ Bằng có học ở Lycée Albert Sarraut, trường Trung học Pháp lớn nhất ở
Hà Nội vào thời ấy và đã xuất bản đầu tiên một tập văn trào phúng nhan đề là Lọ
văn lúc anh chưa được 18 tuổi.
Hơn hai mươi tuổi, Vũ Bằng ghiền thuốc phiện. Ở Hà Nội rét,
anh mặc một lúc hai chiếc áo “ba đờ xuy” dày mo, tay cầm can, khệ nệ như ông cụ,
đi đến tiệm thuốc phiện nằm hút sáng đêm. Đi hát cô đào, anh ở luôn nhà cô đào,
ăn cơm, nghỉ, viết, có khi liền một tháng không về nhà. Chơi thân với Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Ngô Tất Tố, Nguyễn Doãn Vượng, anh vẫn là người bạn
“khó chịu” nhất vì ưa châm biếm và chọc ghẹo các bạn, đến đỗi Ngô Tất Tố đã phải
bảo: “Vũ Bằng là đồ vô lại”, và tuyệt giao với anh một thời gian khá lâu.
Một hôm Nguyễn Tuân hỏi tôi:
- Sao toa có thể chơi với Vũ Bằng được?
Tôi cười đáp:
- Tôi thì chơi với ai chả được!
Tôi không ngạc nhiên nhiều vì câu hỏi của Nguyễn Tuân bởi
Nguyễn Tuân tuy cũng là một cây bút trào lộng, nhưng Nguyễn Tuân châm biếm theo
lối nhà Nho, kín đáo hơn và có vẻ hiền lành hơn, (Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng
Nho học rất nhiều) còn Vũ Bằng thì châm biếm theo lối Tây, khúc khuỷu và tàn nhẫn.
Lưu Trọng Lư cũng không ưa Vũ Bằng, nhưng Vũ Trọng Phụng lại thích người bạn mà
anh thường gọi là “con quỉ” ấy.
Lan Khai cũng gọi Vũ Bằng là đồ “tiểu yêu”. Hễ Vũ Bằng xen
vào đâu, là cãi nhau ở đó. Tính bướng bỉnh, hay châm chọc, anh ta ít khi biểu đồng
tình với ai về một việc gì, và không bao giờ nhượng bộ dù là đuối lý. Sự thực
như tôi đã chứng kiến nhiều cuộc đấu lý của Vũ Bằng với mấy bạn khác trong làng
văn, ít khi Vũ Bằng đuối lý lắm. Vì anh ta có cái lý mạnh nhất, là cái lý trào
lộng của anh. Tôi đã nói: Vũ Bằng là một nhà văn châm biếm (un écrivain
satirique) gần như độc đáo từ Tiền chiến đến nay.
Có lần, Vũ Bằng đến nhà tôi ở Ô Chợ Dừa, rủ tôi đi coi bói.
Lúc bấy giờ tại đây có một ông thầy bói danh tiếng lừng lẫy, trước nhà ông có dựng
một bia đá, cho nên người ta thường gọi là Ông thầy Bia Đá, cách ngã ba Khâm
Thiên - Hàng Bột chừng năm mươi thước.
Vũ Bằng đang hết sức lo lắng về một cuộc tình duyên ngang
trái giữa anh với một thiếu phụ nào đó… Tôi biết rõ chuyện ấy. Cho nên khi Vũ Bằng
rủ tôi đi xem bói, tôi nhận lời ngay. Cũng một dịp để coi ông thầy Bia Đá có quả
thật xứng đáng với uy danh lừng lẫy của ông không?
Ông thầy ngự trên sàn gác cao, như một tiên ông, giữa trầm
hương, hoa lá. Hai đứa tôi bò lên một cầu thang chật hẹp mới đến ông. Sau khi
gieo quẻ và lẩm bẩm một hồi, ông bảo Vũ Bằng:
- Cậu đang vướng một mối tình ngang trái… Gia đình không bằng
lòng, nhưng rồi hai người cũng sẽ lén lút ăn ở với nhau…
Vũ Bằng cố cãi lại nhưng ông thầy Bia Đá quả quyết:
- Tôi bảo thế đấy. Cậu không tin quẻ thánh dạy thì thôi, mặc
cậu.
Nói về tôi, thì ông thầy Bia Đá bảo:
- Nội trong năm nay cậu sẽ bị bắt giam, nhưng không hề gì.
Phần tôi, tôi không biết đâu mà tin vì chuyện chưa xảy ra
nhưng tôi rất khâm phục ông Thầy bói mù lòa, đã thấy rõ nỗi thắc mắc trong lòng
một nhà văn sĩ. Cuộc tình duyên của Vũ Bằng về sau cũng xảy ra đúng ý như lời
Thầy Bia Đá. Còn phần tôi thì quả nhiên gần cuối năm ấy tôi bị bắt, và bị đày
đi Trà Khê.
Ở nhà thầy bói ra, Vũ Bằng bảo tôi:
Chỉ có một lần đó là tôi nghe Vũ Bằng “phục sát đất” một người,
và anh chàng không dám cãi bướng lại.
Hồi mới quen nhau, một buổi tối,Vũ Bằng rủ tôi với nụ cười bí
mật của anh:
- Tớ dắt cậu đến một nơi thần tiên mơ mộng lắm, cậu sẽ say mê
tha hồ làm thơ… Cậu ở đấy với tớ đến sáng nhé!
Tôi thực thà đi theo anh, đến một đường phố chật hẹp, bên cạnh
chợ Hàng Da, hình như phố Bourret. Anh đưa tôi lên lầu, một căn lầu dài và rộng
thênh thang, tối mù tối mịt, chỉ leo lét mấy ngọn đèn dầu lạc, và năm ba bóng
người. Té ra đây là tiệm thuốc phiện, nơi “đi mây về gió” của anh chàng họ Vũ.
Mặc dầu anh cố giữ, tôi cũng nhất định ra về, vì tôi chịu không được mùi thuốc
phiện. Tôi bảo Vũ Bằng: “Toa lại hỏng mất rồi”. Nhưng năm sau tôi rất ngạc
nhiên thấy Vũ Bằng bỏ hẳn thuốc phiện và người béo tốt hẳn ra. Từ 39 ký, anh
cân nặng lên gần 60 ký. Nhiều bạn cho rằng quyển hồi ký Tôi cai thuốc phiện của
Vũ Bằng là bịa đặt, nhưng tôi có thể tin rằng câu chuyện “cai” cai Vũ Bằng chín
phần mười là sự thật hoàn toàn. Quyển sách ấy viết có nhiệt hứng, khiến người đọc
“say mê” và được các báo ở Hà Nội nói đến nhiều nhất.
Vũ Bằng chơi những cái rất lẩm cẩm đối với tuổi trẻ: Chơi đồ
cổ, chơi núi Non Bộ, chơi cây thế (arbres nains), ưa thân với chó, mèo và rùa.
Có một lần anh ta nuôi một con mèo con từ lúc nó mới mở mắt.
Đến khi con mèo lớn lên, nó có mang rồi đẻ khó. Con mèo kêu la thảm thiết và cố
rặn mãi nhưng đứa con không ra. Vũ Bằng chạy cuống lên, mời một ông bác sĩ Việt
đến cứu con mèo. Bác sĩ bảo:
- Tôi khuyên ông về bắt con mèo làm thịt là xong chuyện.
Vũ Bằng tức mình, đi mời một cô đỡ đến đỡ đẻ cho mèo.
Tôi có kể lại cho Mộng Sơn nghe câu chuyện con mèo của Vũ Bằng.
Mộng Sơn cảm động có viết một chuyện ngắn rất hay về đề tài ấy, tôi không nhớ
là đã đăng trong báo Việt Nữ hay báo nào…
Vũ Bằng thích viết văn khôi hài, nhưng về “miếng ăn” anh ta
không khôi hài chút nào cả. Anh thích ăn ngon và rất háu ăn. Vừa rồi, tại Sài
Gòn đây, anh có xuất bản quyển Miếng ngon Hà Nội, được nhiều báo khen ngợi. Có
thể nói rằng cuốn sách ấy là kết quả của mấy chục năm ăn của Vũ Bằng.
Tiện đây, tôi muốn hỏi Vũ Bằng: Cả một đời Văn nghệ của anh,
có lẽ nào sẽ kết cục bằng một quyển sách về “miếng ăn” thôi ư?
Vũ Bằng trong văn học sử Việt Nam
Người ta phải nói đến Vũ Bằng. Trong Văn học sử Việt Nam thế
kỷ XX, Vũ Bằng phải có một địa vị xứng đáng. Cứ đọc hết các tác phẩm của Vũ Bằng,
thì ai cũng phải công nhận rằng Vũ Bằng để lại cả một sự nghiệp văn học nếu
không nói là thật lớn lao, thì cũng là nổi bật thời Tiền chiến.
Tôi hết sức ngạc nhiên: trong “3 chàng họ Vũ” ở Hà Nội thời bấy
giờ, người ta chỉ nhắc mãi đến Vũ Trọng Phụng, người ta còn nói đến Vũ Đình Chí
(tức Tam Lang, tác giả quyển phóng sự Tôi kéo xe), mà ít ai nhớ đến Vũ Bằng. Tại
sao? So về tài thì Vũ Bằng còn hơn Tam Lang Vũ Đình Chí về nhiều phương diện.
So về văn nghiệp thì Vũ Bằng trước tác cũng nhiều hơn. “Tôi kéo xe” của Tam
Lang là một phóng sự giả tạo, không có một căn bản thực tế nào cả. Sáng tác phẩm
của Vũ Bằng, trái lại, rất dồi dào, phong phú, chú trọng rất nhiều đến những
khía cạnh phong hóa xã hội, và đôi khi thuần túy văn nghệ.
Tôi chơi thân với Vũ Bằng cũng như với Tam Lang Vũ Đình Chí,
tôi không có một cảm tình thiên vị nào riêng đối với Vũ Bằng cả. Trái lại,
trong tờ báo Vịt đực, Vũ Bằng thường chế giễu tôi. Nhưng đứng trên lĩnh vực văn
nghệ, tôi rất khó chịu thấy các nhà phê bình cố ý hay vô tình bỏ rơi Vũ Bằng.
Đó là một sự bất công đáng phàn nàn.
Tôi mong rằng sẽ có một nhà văn học sử nào đó ở thế hệ Văn học
Hậu chiến sẽ tìm đọc hết những tác phẩm của Vũ Bằng và nhận xét khách quan về anh.
Đến nay, tôi chưa thấy một nhà văn trào phúng nào có biệt
tài, và phong phú như Vũ Bằng.
18. Từ Bộ Hứa
Tôi nói tới Từ Bộ Hứa, mặc dầu không ai nói tới anh, và chính vì không ai nói tới
anh. Tôi nói tới Từ Bộ Hứa, bởi vì anh là một thiên tài hiếm có. Tôi nói tới
chàng thi sĩ đau khổ ấy bởi vì chàng là một nạn nhân của những kẻ tàn ác đã hãm
hại một cuộc đời tài hoa.
Thế kỷ XVIII, ở Anh Quốc, có một thi sĩ tên là Thomas Chatterton. Chàng mới có 18 tuổi, xuất bản được một tập thơ rồi vì nghèo đói mà uống thuốc độc nằm chết giẫy giụa ở một xó đường trong kinh thành London. Chàng chết, khiến cho cả dân chúng Luân Đôn đều rơi lệ.
Sáu mươi lăm năm sau, thi sĩ Pháp Alfred de Vigny, cảm thương số kiếp thê thảm của chàng, có soạn một vở bi kịch “Chalterton”, lấy tên chàng làm nhan đề, và một quyển tiểu thuyết lãng mạn Stello, để ca ngợi một thiên tài còn son trẻ đã sớm chán cảnh đời bội bạc, lìa cõi phong trần.
Nước Pháp cũng có một thi sĩ, André Chénier, mới 32 tuổi, đã bị chết trên đoạn đầu đài. Chàng cũng là một thiên tài chớm nở, lúc chết có nhiều bài viết chưa xong. Lăn xả vào các cuộc hoạt động cách mạng giữa lúc lịch sử Pháp quốc đang chìm ngập trong máu lửa oán thù, chàng đã bị chết oan, dưới lưỡi đao độc ác của một bọn người khát máu. Tuy nhiên, chàng chưa để lại tác phẩm nào hoàn thành, nhưng Văn học sử Pháp đã ghi tên chàng chói lọi trên Thi Đàn Thế kỉ XIX, và đôi bài thơ còn để dở dang đến ngày nay, như La Jeune Tarentine, L’Aveugle, ta đọc lại càng bùi ngùi xúc động.
Thi sĩ Từ Bộ Hứa của Việt Nam cũng chung số kiếp não nùng bi thương ấy.
Trường Luật khoa Hà Nội, lúc bấy giờ ở trong hệ thống “Trường Cao đẳng Đông Dương”, là một nơi đào tạo nhiều nhân tài, và cũng như trường Đại học Sư phạm, là nơi qui tụ nhiều phần tử trí thức thanh niên lãng mạn nhất, thích đời sống tự do, độc lập, ham mê sách báo, văn chương, và cũng chơi bời phóng túng không ai bằng. Phần đông là những bạn trẻ tài hoa, có tâm hồn nghệ sĩ, gần như lang bạt giang hồ, sẵn sàng tự đeo vào mình chiêu bài “Bohémiens”. Cả giáo sư cũng thế. Giáo sư toàn là người Pháp, các Thạc sĩ và Tiến sĩ lừng danh, nhưng mang nặng tâm hồn của Thế kỉ, triết học theo kiểu Jean Sartre, thi sĩ theo kiểu Paul Eluard[1], vượt ngoài lề lối mô phạm cổ điển, ôm ấp những chân trời phóng đãng, đầy nhựa sống hoan mê và đầy cả nhựa thuốc phiện!
Chính trong thế giới thần ảo say sưa đó mà một chàng thi sĩ hoa niên nẩy nở, âu sầu hiu hắt, như một ánh hào quang nhạt mờ.
Những bạn thân của chàng cũng như các vị giáo sư trường Luật đã thấy nơi chàng một thiên tài, nhưng sẽ chỉ là một thiên tài yểu mệnh.
Tên chàng là Từ Bộ Hứa, con trai của ông Từ Bộ Thực, Bố Chánh ở một tỉnh Bắc Việt. Chàng bị ho lao ngay từ hồi còn đi học ở trường Trung học. Vào Cao đẳng Luật khoa, Từ Bộ Hứa đã mang bịnh rất trầm trọng, nhưng chàng ham sống quá, ham mơ mộng quá, nên chàng đã đem hết hồn thơ mãnh liệt của chàng để chống chọi kiếp đời đen tối.
Mới 21 tuổi, chàng không được hưởng một lạc thú nào của cuộc đời huyên náo, dù là một lạc thú ngây thơ vô tội. Căn bịnh tàn ác, độc địa, hiểm nghèo, không cho phép chàng hái những cảm giác tươi xanh hoặc ửng chín trên cành đời, những cảm giác chứa đựng đầy vị ngọt tê nồng nơi đây đáng lẽ chàng được nếm đầy đủ nguồn sống say sưa của tuổi trẻ.
Rồi những đêm lặng lẽ cô độc, trong một căn phòng lạnh lẽo của một biệt thự tối ngày đóng kín cửa ở đường Général Bicho (phố Cửa Đông), Từ Bộ Hứa ca ngợi cái Buồn và cái Chết! Chàng ca tụng những đôi mắt âm u, những nụ cười ớn lạnh. Chàng ca tụng màu sắc không men, ánh sáng không hồn. Chàng trỗi lên tiếng nhạc thiêng liêng của U sầu, của “Spleen”, để chào những bình minh loang máu, những ngôi sao thất thểu đi lạc hướng trong trời Mơ.
Tập thơ Poésies Grises bằng Pháp văn của Từ Bộ Hứa ra đời, khiến cho cả làng thơ chú ý. Các giáo sư trường Đại học Luật khoa rất ngạc nhiên, không ngờ chàng sinh viên ho lao kia yếu như cây sậy, lại là một thi sĩ tuyệt vời. Chàng viết bằng Pháp văn vì đã tìm thấy trong Pháp ngữ đang thịnh hành lúc ấy những chữ và những ý thích hợp với tâm hồn chàng.
Với tập thơ này, Thi sĩ họ Từ đã hiển hiện ra trên Thi đàn Việt Nam như một lời hứa hẹn cao xa và đột ngột. Chàng còn viết những bài thơ Việt - chưa xuất bản - với nguồn rung cảm cuồn cuộn trong tâm hồn lở lói đau thương nhưng lúc nào cũng mãnh liệt.
Chàng đang say sưa với nàng Thơ thì một hôm chàng đọc được một bài “phê bình” của Thế Lữ trên báo Phong Hóa. Thế Lữ chế nhạo là “Thơ xám xịt” và “phê bình” với một giọng chanh chua ganh ghét. Từ Bộ Hứa không trả lời, nhưng khinh bỉ, chàng không thèm làm thơ nữa.
Mấy tháng sau, bỗng dưng các báo Hà Nội đăng một cái tin mà ai đọc cũng động lòng thương xót: Thi sĩ Từ Bộ Hứa uống 15 viên thuốc ngủ để trút nợ trần.
Người ta liên tưởng ngay đến thi sĩ Chatterton tự tử với 10 viên độc dược.
Nhưng Từ Bộ Hứa chưa kịp chết. Người ta đã đem chàng đi bệnh viện và cứu sống lại.
Phần thì bịnh lao đã ăn sâu vào xương vào tủy, phần thị bị đời đen bạc cướp hết những phấn khởi cuối cùng. Từ Bộ Hứa chỉ còn sống những ngày úa héo, để cho quên lãng được phần nào trong công việc hằng ngày, chàng vào làm sở Thương chánh Hải Phòng. Chàng làm Tham tá và không còn trở lại làng thơ nữa.
Tình cờ tôi gặp Từ Bộ Hứa, một buổi chiều tàn. Hai đứa ngồi dựa vào một bức tường rêu của chùa Láng, giữa cánh đồng tịch mịch. Đàn cò trắng độ năm con bay xa xa về phía sương mù. Chàng ngó tôi với đôi mắt đục ngầu, đọc cho tôi nghe gần chục bài thơ chàng làm ở Hải Phòng mà không gởi đăng báo nào cả. Mấy dòng thơ Việt đau thương lạ lùng, mà chàng làm trong các chuyến đò bơi ngao du trên dòng sông Cấm, những “con thuyền say” của chàng.
Tôi hỏi chàng:
- Chừng nào anh xuất bản mấy bài thơ đó?
Từ Bộ Hứa lắc đầu:
- Không bao giờ, anh ơi!
Chàng thêm bằng tiếng Pháp:
- J’en suis dégouté! (Tôi chán ghét lắm rồi!).
Tôi hỏi:
- Anh chán ghét cái gì?
- Tôi sắp chết anh ạ. Tôi không còn nhiều nhựa sống như anh, như Huy Thông, Nhược Pháp… Con đường của các anh là tương lai, con đường của tôi là Chết. Và tôi muốn chết yên tĩnh, không muốn nghe văng vẳng bên tai tiếng khóc của những người thương xót và tiếng cười ngạo nghễ của những kẻ bất lương. Tôi còn làm Thơ, không phải để tặng cho đời Sống, mà để tặng cho đời Chết. Tôi làm thơ cho mau về với đời Chết, vì tôi cảm thấy chỉ có cái Chết là nên thơ hơn cả.
Trên đường bộ về Hà Nội, màn đêm đã bao phủ. Sao Bắc Đẩu đã lóng lánh trên vòm trời.
Hai bóng người bước âm thầm trong bóng tối. Hai tiếng nói rì rầm trong tiếng gió. Từ Bộ Hứa khẽ cười:
- Bác sĩ đã bảo cho tôi biết chỉ còn sống được hai ba tháng nữa thôi. Lâu quá! Lâu quá!...
Tôi nghĩ đến Ánh sáng của sao Bắc Đẩu để bốn mươi sáu năm rưỡi mới chiếu xuống đến cõi Trần. Đêm nay thi sĩ là một ngôi sao của thiên tài, sắp tắt, nhưng sẽ tắt luôn trong đêm tối âm u mù thẳm của thời gian, ánh sáng của chàng sẽ không bao giờ chiếu về ta nữa…
Đêm ấy, ngẫu nhiên tôi được tiễn Từ Bộ Hứa đi cuộc du lịch cuối cùng trên cõi thế!...
Tôi có giữ nguyên vẹn tập thơ Poésies Grises của Từ Bộ Hứa đã xuất bản. Tôi định sẽ dịch ra thơ Việt. Tập thơ có chữ kí run run của anh trong lúc anh ho khàn vài tiếng, rồi dừng bút. Tôi cố giữ những bài thơ Việt của anh viết trên những mảnh giấy rời rạc.
Nhưng năm 1941 tôi bị Nhật bắt, xét nhà, lấy hết hồ sơ và sách báo của tôi, trong đó có cả những bản thơ của Từ Bộ Hứa. Tôi không làm sao tìm lại được những kho châu báu vô giá ấy, mặc dầu tôi có nhờ nhiều người vận động để lấy lại giữ hồ sơ văn nghệ của tôi bị nằm trong tay Kampétai Nhật.
Nhiều bản thảo thơ và tiểu thuyết, phê bình của tôi cũng mất luôn trong lúc tôi ở tù.
Ghi chú:
Thế kỷ XVIII, ở Anh Quốc, có một thi sĩ tên là Thomas Chatterton. Chàng mới có 18 tuổi, xuất bản được một tập thơ rồi vì nghèo đói mà uống thuốc độc nằm chết giẫy giụa ở một xó đường trong kinh thành London. Chàng chết, khiến cho cả dân chúng Luân Đôn đều rơi lệ.
Sáu mươi lăm năm sau, thi sĩ Pháp Alfred de Vigny, cảm thương số kiếp thê thảm của chàng, có soạn một vở bi kịch “Chalterton”, lấy tên chàng làm nhan đề, và một quyển tiểu thuyết lãng mạn Stello, để ca ngợi một thiên tài còn son trẻ đã sớm chán cảnh đời bội bạc, lìa cõi phong trần.
Nước Pháp cũng có một thi sĩ, André Chénier, mới 32 tuổi, đã bị chết trên đoạn đầu đài. Chàng cũng là một thiên tài chớm nở, lúc chết có nhiều bài viết chưa xong. Lăn xả vào các cuộc hoạt động cách mạng giữa lúc lịch sử Pháp quốc đang chìm ngập trong máu lửa oán thù, chàng đã bị chết oan, dưới lưỡi đao độc ác của một bọn người khát máu. Tuy nhiên, chàng chưa để lại tác phẩm nào hoàn thành, nhưng Văn học sử Pháp đã ghi tên chàng chói lọi trên Thi Đàn Thế kỉ XIX, và đôi bài thơ còn để dở dang đến ngày nay, như La Jeune Tarentine, L’Aveugle, ta đọc lại càng bùi ngùi xúc động.
Thi sĩ Từ Bộ Hứa của Việt Nam cũng chung số kiếp não nùng bi thương ấy.
Trường Luật khoa Hà Nội, lúc bấy giờ ở trong hệ thống “Trường Cao đẳng Đông Dương”, là một nơi đào tạo nhiều nhân tài, và cũng như trường Đại học Sư phạm, là nơi qui tụ nhiều phần tử trí thức thanh niên lãng mạn nhất, thích đời sống tự do, độc lập, ham mê sách báo, văn chương, và cũng chơi bời phóng túng không ai bằng. Phần đông là những bạn trẻ tài hoa, có tâm hồn nghệ sĩ, gần như lang bạt giang hồ, sẵn sàng tự đeo vào mình chiêu bài “Bohémiens”. Cả giáo sư cũng thế. Giáo sư toàn là người Pháp, các Thạc sĩ và Tiến sĩ lừng danh, nhưng mang nặng tâm hồn của Thế kỉ, triết học theo kiểu Jean Sartre, thi sĩ theo kiểu Paul Eluard[1], vượt ngoài lề lối mô phạm cổ điển, ôm ấp những chân trời phóng đãng, đầy nhựa sống hoan mê và đầy cả nhựa thuốc phiện!
Chính trong thế giới thần ảo say sưa đó mà một chàng thi sĩ hoa niên nẩy nở, âu sầu hiu hắt, như một ánh hào quang nhạt mờ.
Những bạn thân của chàng cũng như các vị giáo sư trường Luật đã thấy nơi chàng một thiên tài, nhưng sẽ chỉ là một thiên tài yểu mệnh.
Tên chàng là Từ Bộ Hứa, con trai của ông Từ Bộ Thực, Bố Chánh ở một tỉnh Bắc Việt. Chàng bị ho lao ngay từ hồi còn đi học ở trường Trung học. Vào Cao đẳng Luật khoa, Từ Bộ Hứa đã mang bịnh rất trầm trọng, nhưng chàng ham sống quá, ham mơ mộng quá, nên chàng đã đem hết hồn thơ mãnh liệt của chàng để chống chọi kiếp đời đen tối.
Mới 21 tuổi, chàng không được hưởng một lạc thú nào của cuộc đời huyên náo, dù là một lạc thú ngây thơ vô tội. Căn bịnh tàn ác, độc địa, hiểm nghèo, không cho phép chàng hái những cảm giác tươi xanh hoặc ửng chín trên cành đời, những cảm giác chứa đựng đầy vị ngọt tê nồng nơi đây đáng lẽ chàng được nếm đầy đủ nguồn sống say sưa của tuổi trẻ.
Rồi những đêm lặng lẽ cô độc, trong một căn phòng lạnh lẽo của một biệt thự tối ngày đóng kín cửa ở đường Général Bicho (phố Cửa Đông), Từ Bộ Hứa ca ngợi cái Buồn và cái Chết! Chàng ca tụng những đôi mắt âm u, những nụ cười ớn lạnh. Chàng ca tụng màu sắc không men, ánh sáng không hồn. Chàng trỗi lên tiếng nhạc thiêng liêng của U sầu, của “Spleen”, để chào những bình minh loang máu, những ngôi sao thất thểu đi lạc hướng trong trời Mơ.
Tập thơ Poésies Grises bằng Pháp văn của Từ Bộ Hứa ra đời, khiến cho cả làng thơ chú ý. Các giáo sư trường Đại học Luật khoa rất ngạc nhiên, không ngờ chàng sinh viên ho lao kia yếu như cây sậy, lại là một thi sĩ tuyệt vời. Chàng viết bằng Pháp văn vì đã tìm thấy trong Pháp ngữ đang thịnh hành lúc ấy những chữ và những ý thích hợp với tâm hồn chàng.
Với tập thơ này, Thi sĩ họ Từ đã hiển hiện ra trên Thi đàn Việt Nam như một lời hứa hẹn cao xa và đột ngột. Chàng còn viết những bài thơ Việt - chưa xuất bản - với nguồn rung cảm cuồn cuộn trong tâm hồn lở lói đau thương nhưng lúc nào cũng mãnh liệt.
Chàng đang say sưa với nàng Thơ thì một hôm chàng đọc được một bài “phê bình” của Thế Lữ trên báo Phong Hóa. Thế Lữ chế nhạo là “Thơ xám xịt” và “phê bình” với một giọng chanh chua ganh ghét. Từ Bộ Hứa không trả lời, nhưng khinh bỉ, chàng không thèm làm thơ nữa.
Mấy tháng sau, bỗng dưng các báo Hà Nội đăng một cái tin mà ai đọc cũng động lòng thương xót: Thi sĩ Từ Bộ Hứa uống 15 viên thuốc ngủ để trút nợ trần.
Người ta liên tưởng ngay đến thi sĩ Chatterton tự tử với 10 viên độc dược.
Nhưng Từ Bộ Hứa chưa kịp chết. Người ta đã đem chàng đi bệnh viện và cứu sống lại.
Phần thì bịnh lao đã ăn sâu vào xương vào tủy, phần thị bị đời đen bạc cướp hết những phấn khởi cuối cùng. Từ Bộ Hứa chỉ còn sống những ngày úa héo, để cho quên lãng được phần nào trong công việc hằng ngày, chàng vào làm sở Thương chánh Hải Phòng. Chàng làm Tham tá và không còn trở lại làng thơ nữa.
Tình cờ tôi gặp Từ Bộ Hứa, một buổi chiều tàn. Hai đứa ngồi dựa vào một bức tường rêu của chùa Láng, giữa cánh đồng tịch mịch. Đàn cò trắng độ năm con bay xa xa về phía sương mù. Chàng ngó tôi với đôi mắt đục ngầu, đọc cho tôi nghe gần chục bài thơ chàng làm ở Hải Phòng mà không gởi đăng báo nào cả. Mấy dòng thơ Việt đau thương lạ lùng, mà chàng làm trong các chuyến đò bơi ngao du trên dòng sông Cấm, những “con thuyền say” của chàng.
Tôi hỏi chàng:
- Chừng nào anh xuất bản mấy bài thơ đó?
Từ Bộ Hứa lắc đầu:
- Không bao giờ, anh ơi!
Chàng thêm bằng tiếng Pháp:
- J’en suis dégouté! (Tôi chán ghét lắm rồi!).
Tôi hỏi:
- Anh chán ghét cái gì?
- Tôi sắp chết anh ạ. Tôi không còn nhiều nhựa sống như anh, như Huy Thông, Nhược Pháp… Con đường của các anh là tương lai, con đường của tôi là Chết. Và tôi muốn chết yên tĩnh, không muốn nghe văng vẳng bên tai tiếng khóc của những người thương xót và tiếng cười ngạo nghễ của những kẻ bất lương. Tôi còn làm Thơ, không phải để tặng cho đời Sống, mà để tặng cho đời Chết. Tôi làm thơ cho mau về với đời Chết, vì tôi cảm thấy chỉ có cái Chết là nên thơ hơn cả.
Trên đường bộ về Hà Nội, màn đêm đã bao phủ. Sao Bắc Đẩu đã lóng lánh trên vòm trời.
Hai bóng người bước âm thầm trong bóng tối. Hai tiếng nói rì rầm trong tiếng gió. Từ Bộ Hứa khẽ cười:
- Bác sĩ đã bảo cho tôi biết chỉ còn sống được hai ba tháng nữa thôi. Lâu quá! Lâu quá!...
Tôi nghĩ đến Ánh sáng của sao Bắc Đẩu để bốn mươi sáu năm rưỡi mới chiếu xuống đến cõi Trần. Đêm nay thi sĩ là một ngôi sao của thiên tài, sắp tắt, nhưng sẽ tắt luôn trong đêm tối âm u mù thẳm của thời gian, ánh sáng của chàng sẽ không bao giờ chiếu về ta nữa…
Đêm ấy, ngẫu nhiên tôi được tiễn Từ Bộ Hứa đi cuộc du lịch cuối cùng trên cõi thế!...
Tôi có giữ nguyên vẹn tập thơ Poésies Grises của Từ Bộ Hứa đã xuất bản. Tôi định sẽ dịch ra thơ Việt. Tập thơ có chữ kí run run của anh trong lúc anh ho khàn vài tiếng, rồi dừng bút. Tôi cố giữ những bài thơ Việt của anh viết trên những mảnh giấy rời rạc.
Nhưng năm 1941 tôi bị Nhật bắt, xét nhà, lấy hết hồ sơ và sách báo của tôi, trong đó có cả những bản thơ của Từ Bộ Hứa. Tôi không làm sao tìm lại được những kho châu báu vô giá ấy, mặc dầu tôi có nhờ nhiều người vận động để lấy lại giữ hồ sơ văn nghệ của tôi bị nằm trong tay Kampétai Nhật.
Nhiều bản thảo thơ và tiểu thuyết, phê bình của tôi cũng mất luôn trong lúc tôi ở tù.
Ghi chú:
1. Sinh viên, và thanh niên trí thức Hà Nội đã đọc Paul
Eluard và Jean Paul Sartre từ thời Tiền Chiến.
19. Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH.
Thâm Tâm (1917-1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12-5-1917, quê ở
thị xã Hải Dương.
Nhà nghèo, học hết bậc tiểu học, ông bỏ học đi làm để mưu sinh. Từ năm 1938 ông cùng gia đình sống ở Hà Nội, vẽ tranh và sáng tác văn học. Ông viết nhiều nhất ở các báo Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Phổ thông bán nguyệt san.
Sau CMT8, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc, Toàn quốc kháng chiến ông vào bộ đội, làm thư kí tòa soạn báo Vệ quốc quân.
Năm 1950, ông tham dự chiến dịch Cao Bắc Lạng, trên đường hành quân ông mất ngày 18-8-1950 hưởng dương 33 tuổi.
Thơ ông được tán thưởng nhiều qua các thi đề: Thanh ca, Vọng nhân hành, Tống biệt hành, Chiều mưa đường số 5…
Thuốc mê là truyện dài đầu tay của ông được độc giả toàn quốc hoan nghênh từ trước năm 1945.
Tống biệt hành là một thi đề đầy nữ tính của nghệ thuật thi ca với những câu vượt thời gian:
Đưa người, ta không đưa qua sông.
Sao có tiếng sóng ở trong lòng!
Bóng chiều không sóng, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong!
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.
Năm 1936-1937, có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người khác nữa. Ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ là những người còn quá trẻ: Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi, và mới bắt đầu viết văn, chưa có gì đặc sắc. Lớp văn sĩ đi trước không chú ý đến họ.
Nhưng họ dễ thương, vui vẻ, hồn nhiên, an phận ở một vị trí khiêm tốn, chẳng thân với ai, cũng chẳng làm phiền lòng ai. Họ sống một thế giới riêng của họ, không chung đụng với những nhóm đã nổi tiếng ít nhiều trong làng Văn làng Báo lúc bấy giờ.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm, nơi đây họ làm văn nghệ với nhau, với lối tài tử hơn là chuyên nghiệp. Tờ báo Bắc Hà bán không chạy lắm tuy có vài mục hài hước vui nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình và nhiều cố gắng hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất và đóng vai chủ động trong tuần báo Bắc Hà là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình, vẽ nhiều hơn là viết, thỉnh thoảng đăng một vài bài thơ, vài mẩu chuyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp Nhất, trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Tuy không chơi thân, tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều, vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ cuối đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Thường đi một con đường nên chúng tôi thường gặp nhau và quen nhau. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuật bút. Để tỏ tình thông cảm văn nghệ, tôi có viết một chuyện ngắn khôi hài và chỉ có một lần. Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới:
“Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn”
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sài Gòn có Anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, giống na ná Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bô Na, Sài Gòn, tôi quên lửng, cứ tưởng gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tưởng anh ta đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: “Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà”. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui.
Đêm ấy cao hứng. Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh giám, nơi đền thờ Khổng Tử. Thanh giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ dưới đời nhà Lê, hình chữ nhật, chung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước. Đền thờ ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có dựng nhiều tấm bia ghi tên các Tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh giám, có cổng Tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán: “Hạ mã”, và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là “Pagode des Corbeaux” (chùa Quạ) ngoài danh từ lịch sử “Temple de Confucius”.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô, nhà ở phố chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây và thường trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2, năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình (tên gọi hồi đó) mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi, thi rớt Tiểu học và đã nghỉ học từ mùa Hè năm trước. Tuấn Trình cũng mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất bản.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa Antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu Hè trước sân cô.
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỉ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam, nhiều người gọi là hoa nho. Nó có hai loại, loại hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa Hè, thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều trong chợ Đồng Xuân, cũng như ở chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ đẹp lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa Ti Gôn. Ở phố Sinh Từ, Antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn, thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm Antigone vừa hé nụ, và chết trong những ngày giữa mùa Đông năm đó, trong lúc giàn hoa Ti-gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân.
Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng Hè, sang hết mùa Thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình. Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm và cho cô Khánh biết: “Hình ảnh của em, anh ghi sâu vào thâm tâm anh”. Trong bài “Màu máu ti-gôn”, cũng có câu:
Quên làm sao được thuở ban đầu,
Một cánh ti-gôn Dạ khắc Sâu!
Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh, những bài thơ đầu tiên đăng tuần báo Bắc Hà, đều kí là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn kí Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt theo lễ giáo nghiêm khắc của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm. Đó là điều đau khổ triền miên của chàng nghệ sĩ 19 tuổi. Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô: Hồ Tây Chùa Láng, Bạch Mai, Phúc Trang, Đền Voi Phục… thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: “Thầy mẹ con nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm…”. Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ Nghiêm gia giáo ấy để trả lời kì vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường, vào vườn Thanh giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cô Khánh run cả người (theo lời Tuấn Trình kể lại) cậu cũng lính quýnh, tất cả những câu bay bướm cậu sắp sẵn để nói với nàng, bấy giờ cậu quên mất hết. Một lúc lâu, Tuấn Trình mới nói được mấy lời tình tứ, nhưng lại trách móc, nghi ngờ, nàng không yêu mình. Nàng bảo: “Em không yêu anh sao dám ra đây gặp anh? Nhưng vì Thầy Me em nghiêm lắm, anh ạ”.
Tuấn Trình hỏi chua chát: “Giờ phút này chỉ có thơ và mộng, chỉ có anh với em, ánh trăng đẹp của hai đứa mình có nghiêm không nhỉ?”. Có lẽ vì bất bình câu nói mỉa mai của người yêu, Khánh lặng yên một phút rồi đáp: “Ánh trăng đẹp, nhưng vẫn nghiêm đấy, anh ạ”.
Cuộc gặp gỡ đêm đấy, chỉ lâu không đầy một tiếng đồng hồ, Tuấn Trình đặt một chiếc hôn âu yếm trên bàn tay của Khánh trước lúc nàng vội vã chạy về nhà.
Lần thứ hai, hai cô cậu cũng gặp nhau trong vườn Thanh (nhiều người sau này nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật). Vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng Thu. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Chàng lặng lẽ vuốt mái tóc huyền của Khánh rồi khẽ bảo: “Ước gì anh được yêu em như thế này mãi mãi…”.
Nàng buồn bã hỏi: “Anh định bao giờ đến xin Thầy Me cho chúng mình…”. Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: “Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì…”.
Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây. Khánh không hỏi gì hơn nữa. Chàng nắm tay nàng đi dạo quanh hồ nước xanh rì lăn tăn gợn sóng. Chàng đứng lại, khẽ kéo Khánh vào lòng, nhưng nàng khẽ buông ra. Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng: “Em!” Khánh mỉm cười: “Anh bảo gì?”
- Hình ảnh của em, nụ cười của em, sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh, vào thâm tâm anh.
Trần Thị Khánh bẽn lẽn cười như để tạ ơn và xin từ giã.
Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm. Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng? Tình yêu giữa hai người vẫn nguyên vẹn, thư từ qua lại vẫn âu yếm, nhưng Tuấn Trình bắt đầu thấy lòng buồn bã băn khoăn khi giàn hoa ti-gôn bắt đầu héo rụng trong nắng úa tàn Thu.
Thế rồi một hôm, chàng họa sĩ đa tình nhận được một bức thư của người yêu, - không, của người hết yêu, - báo tin nàng sắp lấy chồng.
Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ). Thư do một cô bạn gái của Khánh đem đến tòa báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình. Cô bạn gái hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm.
Ngoài bao thư cũng đề: Monsieur Tuấn Trình (chữ Mr bằng tiếng Pháp), nét chữ quen thuộc của T.T. Khánh. Đại khái Khánh nhắc lại tình yêu “thơ mộng” của cô với người “nghệ sĩ tài hoa son trẻ” (những chữ cô dùng trong thư), tình yêu rất đẹp, nhưng vì Thầy Me của cô rất “nghiêm”, theo lễ giáo, nên dù người vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi, nhưng cô vẫn có bổn phận “giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời Thầy Me đặt đâu ngồi đấy, v.v…”. Cô nói cô buồn lắm vì tình yêu dang dở, “em vẫn yêu anh mãi mãi! Không bao giờ quên anh, nhưng “van” anh đừng giận em, thương hại em, chứ đừng trách móc em v.v..”. Cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v…
Khánh không nói một câu nào về người vị hôn phu không cho biết ngày cưới, và cuối thư kí tắt: KH.
Bức thư của KH. chấm dứt một cách đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy “thơ mộng” của Họa sĩ Tuấn Trình và cô Trần Thị Khánh.
Sau do sự dọ hỏi vài người quen ở phố Sinh Từ, Tuấn Trình được biết chồng cô Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, góa vợ và không có con. Trong câu thơ “- Bên cạnh chồng Nghiêm luống tuổi rồi” chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng với tuổi hãy còn vị thành niên của cô Khánh. Đó chỉ là nhận xét chủ quan và mỉa mai của Thâm Tâm, so sánh tuổi mình 20 với người đàn ông được diễm phúc làm chồng cô Khánh, nhưng trên thực tế và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh “giàu sang và trẻ đẹp” chứ không phải một ông già. Tuấn Trình cũng nhìn nhận rằng một người nhà giàu 40 tuổi, đẹp trai, không thể là một ông già.
Đám cưới đã nhờ mối lái qua lại từ lâu, và đồ sính lễ có kiềng vàng, xuyến, nhẫn, vòng, kim cương, quần áo hàng lụa quí giá cả. Rước dâu bằng 10 chiếc xe Citroen mới, cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo cưới màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi trong xe hoa như nàng công chúa ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh. Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm có tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai Quế Lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa, ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Người đau khổ trong cuộc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh. Trái lại, cô có đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô. Trần Huyền Trân đã gặp cô đi hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche-Neige (kem Bạch Tuyết), Bờ Hồ, hai lần. Hai ông bà nhìn nhau và cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm. Khánh đã có thai, được chồng săn sóc nâng đỡ lên chiếc xe nhà Citroen, lúc ra về, còn đi một vòng quanh Hồ Hoàn Kiếm. Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe và kết luận: “Con Khánh nó cho cậu leo cây, cậu còn si nó làm gì nữa, thêm tủi nhục”.
Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình Thâm Tâm.
Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người bạn kia, Tuấn Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là “Hai sắc hoa Ti-gôn” kí T.T.KH. với thâm ý để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình dán kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở phố Cửa Nam, mang thư đến tòa báo. Cũng chính cô em họ đã chép giùm bài thơ với nét chữ con gái dịu dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ. Cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình, và lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của KH. báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Cô chưa bao giờ làm thơ cả! Và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy, sau khi nhận được một bức thư của Khánh, bức thư cuối cùng, tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong thư phản đối đó, Khánh xưng Tôi chứ không xưng Em như những thư trước, để chấm dứt trò chơi vô ích ấy. Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra “Bài thơ cuối cùng”.
Trách Ai mang cánh ti-gôn ấy,
Mà viết tình xưa Được Ích Gì?…
Bài Thơ đan áo nay Rao Bán,
Cho Khắp Người đời thóc mách xem.
Là Giết Đời nhau đấy, Biết Không?
Dưới giàn hoa máu, tiếng mưa rung,
Giận anh tôi viết dư giòng lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy Bán Thơ Anh,
Và Để Yên Tôi với một mình.
Những cánh hoa lòng, Hừ Đã Bỏ,
Còn đem mà Đổi Lấy Hư Vinh.
Cô Khánh “Trách” người cũ không những đem chuyện tình xưa ra viết chẳng “Được Ích Gì” lại còn làm Bài Thơ đi “Rao Bán” cho người đời “Thóc Mách’ mua xem. Như thế là Anh “Giết Đời Tôi, anh Có Biết Không?”. Anh đem Bán Thơ để kiếm chút “Hư Vinh”, nhưng chuyện xưa Đã Bỏ rồi, anh hãy Để Tôi Yên!...
Thâm Tâm lấy gần hết chữ và nghĩa trong bức thư đoạn tuyệt tàn nhẫn của Trần Thị Khánh làm bài thơ Cuối cùng đó mà vẫn kí T.T.KH., với lần cuối cùng. Rồi, để đáp lại, chàng làm một bài kí tên Thâm Tâm và cũng là bài cuối cùng, mỉa mai, chua chát:…
Đây bài thơ chót Kính Dâng Tặng Bạn.
Và thành chúc đời em luôn tươi sáng,
Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh,
Như hương trinh bát ngát ý dịu dàng,
Hoa nhạc mới triều dâng tơ Hạnh phúc…
Trên phương diện văn thơ cũng như tình cảm, ta chỉ thương hại Thâm Tâm, nhà thơ trẻ, hãy còn ngây thơ với tuổi 19, đầy thơ mộng, cứ tưởng rằng cô Khánh vẫn thành thật yêu chàng, rằng cô bị cha mẹ ép gả cho một “ông già”, nhưng cô vẫn giữ mối tình thiêng liêng chung thủy với người nghệ sĩ tài hoa. Cho nên tưởng làm vui lòng người yêu, chàng lấy tên nàng để kí dưới bài thơ thương tiếc, với những câu tình tứ như:
Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ,
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?…
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ,
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.…
Nhưng chàng thi sĩ si tình có ngờ đâu không những cô Khánh không hề tỏ chút gì cảm động vì mối tình đau khổ, thủy chung của chàng, hoặc cảm ơn những bài thơ an ủi của chàng, mà trái lại cô còn gởi một bức thư vô cùng tàn nhẫn hằn học, nào là: “Anh giết đời tôi, anh biết không?” nào là anh mang chuyện cũ ra viết “chẳng ích gì”, cô lại còn tỏ ý khinh rẻ: “từ này anh cứ đem thơ anh đi bán rao để kiếm chút hư vinh, nhưng anh hãy để tôi yên”, v.v…
Bấy giờ Thâm Tâm mới thức tỉnh, tìm lời bào chữa cho mình! Nào là:
… Anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn, càng muốn viết thành thơ.
Nhưng thôi,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Thâm Tâm tự hạ mình viết “kính dâng tặng bạn” có ý xin lỗi chua chát người không phải là người yêu của mình nữa, và chàng đã viết:
Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào!
(Nàng đã không muốn yêu nữa, thì giữ làm sao được?)
Và:
Có gì đâu, khi bướm muốn xa cành!
Thâm Tâm không những đã tỉnh ngộ, mà lại còn uất hận vì thái độ khinh bạc của cô Khánh:
Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,
Nhưng lòng Anh đã Bình Thản lại rồi,
Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi,
Niềm Uất Hận của một thời lạc lối.
Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối.
Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền,
Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên.
Thâm Tâm tự thú nhận: Lấy Nghệ thuật Văn Thơ để làm trò hề múa rối, (vì sự thật chẳng có gì cả) trong mấy bài thơ kí tên T.T.KH., với mục đích “Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền, để khẩn cầu xin một nụ cười duyên”.
Để rồi, mỉa mai thay, nhận những lời khinh khi ngạo mạn, và hằn học của nàng. Đó là “Niềm uất hận” của Tuấn Trình trong một thời “lạc lối” (lầm đường lạc lối).
Nhưng:
“Thôi, em nhé, từ đây anh cất bước,
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui…”
Chàng hứa chấm dứt “trò hề múa rối” về văn thơ. Và nàng không mong gì hơn.
Để tôn trọng thực tế của những sự kiện đã qua trong Lịch sử hay trong Văn học, để đừng xuyên tạc những chuyện không có, phải nói ngay rằng tên T.T.KH., không hề gợi một dự luận nào “xôn xao” ở thời Tiền chiến, và cuộc tình duyên của Tuấn Trình (Thâm Tâm) với cô Trần Thị Khánh không hề gây một xúc động nào về tâm lí cũng như về Văn chương trong giới Văn nghệ và giới Trẻ thời bấy giờ.
Tôi chắc rằng những nhà Văn Thơ Tiền chiến ở Hà Nội hiện còn sống tại Sài Gòn, như các anh Vi Huyền Đắc, Lê Tràng Kiều, Tchya, Vũ Bằng, v.v… (cả các anh Nhất Linh và Lê Văn Trương vừa tạ thế mấy năm trước) đều phải hết sức ngạc nhiên thấy một vài người của thế hệ Hậu chiến ở Sài Gòn bỗng dưng tôn sùng ba tên T.T.KH. thành một thần tượng, và biến mối tình rất tầm thường, có thể nói là quá tầm thường, của cô học trò cũ trường Tiểu học Sinh Từ, thành một thảm kịch của tình yêu! Nguyễn Nhược Pháp, nhà ở gần nhà cô Khánh, chỉ cách 5, 6 căn mà cũng không hề nghe nói đến cô này, và cũng không biết một tí gì về mối tình của một Họa sĩ kiêm Thi sĩ, Tuấn Trình hay Thâm Tâm, xảy ra cùng dãy phố với anh.
Cũng như người đàn bà tên Mộng Cầm, hiện là vợ một Giáo chức ở Phan Rang, đã phủ nhận những chuyện người ta thêu dệt về mối tình bạn của Bà, lúc còn là nữ y tá, với Thi sĩ Hàn Mạc Tử (Phổ Thông Tạp chí, số 63, ngày 15-8-1961).
“Tôi không thể yêu được một người bị bịnh cùi!” Bà Mộng Cầm đã thẳng thắn nói thế, không thể trách bà được.
Nhà nghèo, học hết bậc tiểu học, ông bỏ học đi làm để mưu sinh. Từ năm 1938 ông cùng gia đình sống ở Hà Nội, vẽ tranh và sáng tác văn học. Ông viết nhiều nhất ở các báo Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Phổ thông bán nguyệt san.
Sau CMT8, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc, Toàn quốc kháng chiến ông vào bộ đội, làm thư kí tòa soạn báo Vệ quốc quân.
Năm 1950, ông tham dự chiến dịch Cao Bắc Lạng, trên đường hành quân ông mất ngày 18-8-1950 hưởng dương 33 tuổi.
Thơ ông được tán thưởng nhiều qua các thi đề: Thanh ca, Vọng nhân hành, Tống biệt hành, Chiều mưa đường số 5…
Thuốc mê là truyện dài đầu tay của ông được độc giả toàn quốc hoan nghênh từ trước năm 1945.
Tống biệt hành là một thi đề đầy nữ tính của nghệ thuật thi ca với những câu vượt thời gian:
Đưa người, ta không đưa qua sông.
Sao có tiếng sóng ở trong lòng!
Bóng chiều không sóng, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong!
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.
Năm 1936-1937, có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người khác nữa. Ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ là những người còn quá trẻ: Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi, và mới bắt đầu viết văn, chưa có gì đặc sắc. Lớp văn sĩ đi trước không chú ý đến họ.
Nhưng họ dễ thương, vui vẻ, hồn nhiên, an phận ở một vị trí khiêm tốn, chẳng thân với ai, cũng chẳng làm phiền lòng ai. Họ sống một thế giới riêng của họ, không chung đụng với những nhóm đã nổi tiếng ít nhiều trong làng Văn làng Báo lúc bấy giờ.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm, nơi đây họ làm văn nghệ với nhau, với lối tài tử hơn là chuyên nghiệp. Tờ báo Bắc Hà bán không chạy lắm tuy có vài mục hài hước vui nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình và nhiều cố gắng hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất và đóng vai chủ động trong tuần báo Bắc Hà là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình, vẽ nhiều hơn là viết, thỉnh thoảng đăng một vài bài thơ, vài mẩu chuyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp Nhất, trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Tuy không chơi thân, tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều, vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ cuối đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Thường đi một con đường nên chúng tôi thường gặp nhau và quen nhau. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuật bút. Để tỏ tình thông cảm văn nghệ, tôi có viết một chuyện ngắn khôi hài và chỉ có một lần. Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới:
“Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn”
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sài Gòn có Anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, giống na ná Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bô Na, Sài Gòn, tôi quên lửng, cứ tưởng gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tưởng anh ta đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: “Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà”. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui.
Đêm ấy cao hứng. Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh giám, nơi đền thờ Khổng Tử. Thanh giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ dưới đời nhà Lê, hình chữ nhật, chung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước. Đền thờ ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có dựng nhiều tấm bia ghi tên các Tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh giám, có cổng Tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán: “Hạ mã”, và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là “Pagode des Corbeaux” (chùa Quạ) ngoài danh từ lịch sử “Temple de Confucius”.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô, nhà ở phố chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây và thường trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2, năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình (tên gọi hồi đó) mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi, thi rớt Tiểu học và đã nghỉ học từ mùa Hè năm trước. Tuấn Trình cũng mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất bản.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa Antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu Hè trước sân cô.
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỉ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam, nhiều người gọi là hoa nho. Nó có hai loại, loại hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa Hè, thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều trong chợ Đồng Xuân, cũng như ở chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ đẹp lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa Ti Gôn. Ở phố Sinh Từ, Antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn, thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm Antigone vừa hé nụ, và chết trong những ngày giữa mùa Đông năm đó, trong lúc giàn hoa Ti-gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân.
Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng Hè, sang hết mùa Thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình. Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm và cho cô Khánh biết: “Hình ảnh của em, anh ghi sâu vào thâm tâm anh”. Trong bài “Màu máu ti-gôn”, cũng có câu:
Quên làm sao được thuở ban đầu,
Một cánh ti-gôn Dạ khắc Sâu!
Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh, những bài thơ đầu tiên đăng tuần báo Bắc Hà, đều kí là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn kí Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt theo lễ giáo nghiêm khắc của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm. Đó là điều đau khổ triền miên của chàng nghệ sĩ 19 tuổi. Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô: Hồ Tây Chùa Láng, Bạch Mai, Phúc Trang, Đền Voi Phục… thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: “Thầy mẹ con nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm…”. Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ Nghiêm gia giáo ấy để trả lời kì vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường, vào vườn Thanh giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cô Khánh run cả người (theo lời Tuấn Trình kể lại) cậu cũng lính quýnh, tất cả những câu bay bướm cậu sắp sẵn để nói với nàng, bấy giờ cậu quên mất hết. Một lúc lâu, Tuấn Trình mới nói được mấy lời tình tứ, nhưng lại trách móc, nghi ngờ, nàng không yêu mình. Nàng bảo: “Em không yêu anh sao dám ra đây gặp anh? Nhưng vì Thầy Me em nghiêm lắm, anh ạ”.
Tuấn Trình hỏi chua chát: “Giờ phút này chỉ có thơ và mộng, chỉ có anh với em, ánh trăng đẹp của hai đứa mình có nghiêm không nhỉ?”. Có lẽ vì bất bình câu nói mỉa mai của người yêu, Khánh lặng yên một phút rồi đáp: “Ánh trăng đẹp, nhưng vẫn nghiêm đấy, anh ạ”.
Cuộc gặp gỡ đêm đấy, chỉ lâu không đầy một tiếng đồng hồ, Tuấn Trình đặt một chiếc hôn âu yếm trên bàn tay của Khánh trước lúc nàng vội vã chạy về nhà.
Lần thứ hai, hai cô cậu cũng gặp nhau trong vườn Thanh (nhiều người sau này nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật). Vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng Thu. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Chàng lặng lẽ vuốt mái tóc huyền của Khánh rồi khẽ bảo: “Ước gì anh được yêu em như thế này mãi mãi…”.
Nàng buồn bã hỏi: “Anh định bao giờ đến xin Thầy Me cho chúng mình…”. Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: “Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì…”.
Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây. Khánh không hỏi gì hơn nữa. Chàng nắm tay nàng đi dạo quanh hồ nước xanh rì lăn tăn gợn sóng. Chàng đứng lại, khẽ kéo Khánh vào lòng, nhưng nàng khẽ buông ra. Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng: “Em!” Khánh mỉm cười: “Anh bảo gì?”
- Hình ảnh của em, nụ cười của em, sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh, vào thâm tâm anh.
Trần Thị Khánh bẽn lẽn cười như để tạ ơn và xin từ giã.
Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm. Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng? Tình yêu giữa hai người vẫn nguyên vẹn, thư từ qua lại vẫn âu yếm, nhưng Tuấn Trình bắt đầu thấy lòng buồn bã băn khoăn khi giàn hoa ti-gôn bắt đầu héo rụng trong nắng úa tàn Thu.
Thế rồi một hôm, chàng họa sĩ đa tình nhận được một bức thư của người yêu, - không, của người hết yêu, - báo tin nàng sắp lấy chồng.
Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ). Thư do một cô bạn gái của Khánh đem đến tòa báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình. Cô bạn gái hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm.
Ngoài bao thư cũng đề: Monsieur Tuấn Trình (chữ Mr bằng tiếng Pháp), nét chữ quen thuộc của T.T. Khánh. Đại khái Khánh nhắc lại tình yêu “thơ mộng” của cô với người “nghệ sĩ tài hoa son trẻ” (những chữ cô dùng trong thư), tình yêu rất đẹp, nhưng vì Thầy Me của cô rất “nghiêm”, theo lễ giáo, nên dù người vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi, nhưng cô vẫn có bổn phận “giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời Thầy Me đặt đâu ngồi đấy, v.v…”. Cô nói cô buồn lắm vì tình yêu dang dở, “em vẫn yêu anh mãi mãi! Không bao giờ quên anh, nhưng “van” anh đừng giận em, thương hại em, chứ đừng trách móc em v.v..”. Cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v…
Khánh không nói một câu nào về người vị hôn phu không cho biết ngày cưới, và cuối thư kí tắt: KH.
Bức thư của KH. chấm dứt một cách đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy “thơ mộng” của Họa sĩ Tuấn Trình và cô Trần Thị Khánh.
Sau do sự dọ hỏi vài người quen ở phố Sinh Từ, Tuấn Trình được biết chồng cô Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, góa vợ và không có con. Trong câu thơ “- Bên cạnh chồng Nghiêm luống tuổi rồi” chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng với tuổi hãy còn vị thành niên của cô Khánh. Đó chỉ là nhận xét chủ quan và mỉa mai của Thâm Tâm, so sánh tuổi mình 20 với người đàn ông được diễm phúc làm chồng cô Khánh, nhưng trên thực tế và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh “giàu sang và trẻ đẹp” chứ không phải một ông già. Tuấn Trình cũng nhìn nhận rằng một người nhà giàu 40 tuổi, đẹp trai, không thể là một ông già.
Đám cưới đã nhờ mối lái qua lại từ lâu, và đồ sính lễ có kiềng vàng, xuyến, nhẫn, vòng, kim cương, quần áo hàng lụa quí giá cả. Rước dâu bằng 10 chiếc xe Citroen mới, cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo cưới màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi trong xe hoa như nàng công chúa ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh. Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm có tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai Quế Lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa, ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Người đau khổ trong cuộc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh. Trái lại, cô có đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô. Trần Huyền Trân đã gặp cô đi hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche-Neige (kem Bạch Tuyết), Bờ Hồ, hai lần. Hai ông bà nhìn nhau và cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm. Khánh đã có thai, được chồng săn sóc nâng đỡ lên chiếc xe nhà Citroen, lúc ra về, còn đi một vòng quanh Hồ Hoàn Kiếm. Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe và kết luận: “Con Khánh nó cho cậu leo cây, cậu còn si nó làm gì nữa, thêm tủi nhục”.
Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình Thâm Tâm.
Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người bạn kia, Tuấn Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là “Hai sắc hoa Ti-gôn” kí T.T.KH. với thâm ý để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình dán kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở phố Cửa Nam, mang thư đến tòa báo. Cũng chính cô em họ đã chép giùm bài thơ với nét chữ con gái dịu dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ. Cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình, và lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của KH. báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Cô chưa bao giờ làm thơ cả! Và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy, sau khi nhận được một bức thư của Khánh, bức thư cuối cùng, tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong thư phản đối đó, Khánh xưng Tôi chứ không xưng Em như những thư trước, để chấm dứt trò chơi vô ích ấy. Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra “Bài thơ cuối cùng”.
Trách Ai mang cánh ti-gôn ấy,
Mà viết tình xưa Được Ích Gì?…
Bài Thơ đan áo nay Rao Bán,
Cho Khắp Người đời thóc mách xem.
Là Giết Đời nhau đấy, Biết Không?
Dưới giàn hoa máu, tiếng mưa rung,
Giận anh tôi viết dư giòng lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy Bán Thơ Anh,
Và Để Yên Tôi với một mình.
Những cánh hoa lòng, Hừ Đã Bỏ,
Còn đem mà Đổi Lấy Hư Vinh.
Cô Khánh “Trách” người cũ không những đem chuyện tình xưa ra viết chẳng “Được Ích Gì” lại còn làm Bài Thơ đi “Rao Bán” cho người đời “Thóc Mách’ mua xem. Như thế là Anh “Giết Đời Tôi, anh Có Biết Không?”. Anh đem Bán Thơ để kiếm chút “Hư Vinh”, nhưng chuyện xưa Đã Bỏ rồi, anh hãy Để Tôi Yên!...
Thâm Tâm lấy gần hết chữ và nghĩa trong bức thư đoạn tuyệt tàn nhẫn của Trần Thị Khánh làm bài thơ Cuối cùng đó mà vẫn kí T.T.KH., với lần cuối cùng. Rồi, để đáp lại, chàng làm một bài kí tên Thâm Tâm và cũng là bài cuối cùng, mỉa mai, chua chát:…
Đây bài thơ chót Kính Dâng Tặng Bạn.
Và thành chúc đời em luôn tươi sáng,
Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh,
Như hương trinh bát ngát ý dịu dàng,
Hoa nhạc mới triều dâng tơ Hạnh phúc…
Trên phương diện văn thơ cũng như tình cảm, ta chỉ thương hại Thâm Tâm, nhà thơ trẻ, hãy còn ngây thơ với tuổi 19, đầy thơ mộng, cứ tưởng rằng cô Khánh vẫn thành thật yêu chàng, rằng cô bị cha mẹ ép gả cho một “ông già”, nhưng cô vẫn giữ mối tình thiêng liêng chung thủy với người nghệ sĩ tài hoa. Cho nên tưởng làm vui lòng người yêu, chàng lấy tên nàng để kí dưới bài thơ thương tiếc, với những câu tình tứ như:
Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ,
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?…
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ,
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.…
Nhưng chàng thi sĩ si tình có ngờ đâu không những cô Khánh không hề tỏ chút gì cảm động vì mối tình đau khổ, thủy chung của chàng, hoặc cảm ơn những bài thơ an ủi của chàng, mà trái lại cô còn gởi một bức thư vô cùng tàn nhẫn hằn học, nào là: “Anh giết đời tôi, anh biết không?” nào là anh mang chuyện cũ ra viết “chẳng ích gì”, cô lại còn tỏ ý khinh rẻ: “từ này anh cứ đem thơ anh đi bán rao để kiếm chút hư vinh, nhưng anh hãy để tôi yên”, v.v…
Bấy giờ Thâm Tâm mới thức tỉnh, tìm lời bào chữa cho mình! Nào là:
… Anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn, càng muốn viết thành thơ.
Nhưng thôi,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Thâm Tâm tự hạ mình viết “kính dâng tặng bạn” có ý xin lỗi chua chát người không phải là người yêu của mình nữa, và chàng đã viết:
Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào!
(Nàng đã không muốn yêu nữa, thì giữ làm sao được?)
Và:
Có gì đâu, khi bướm muốn xa cành!
Thâm Tâm không những đã tỉnh ngộ, mà lại còn uất hận vì thái độ khinh bạc của cô Khánh:
Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,
Nhưng lòng Anh đã Bình Thản lại rồi,
Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi,
Niềm Uất Hận của một thời lạc lối.
Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối.
Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền,
Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên.
Thâm Tâm tự thú nhận: Lấy Nghệ thuật Văn Thơ để làm trò hề múa rối, (vì sự thật chẳng có gì cả) trong mấy bài thơ kí tên T.T.KH., với mục đích “Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền, để khẩn cầu xin một nụ cười duyên”.
Để rồi, mỉa mai thay, nhận những lời khinh khi ngạo mạn, và hằn học của nàng. Đó là “Niềm uất hận” của Tuấn Trình trong một thời “lạc lối” (lầm đường lạc lối).
Nhưng:
“Thôi, em nhé, từ đây anh cất bước,
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui…”
Chàng hứa chấm dứt “trò hề múa rối” về văn thơ. Và nàng không mong gì hơn.
Để tôn trọng thực tế của những sự kiện đã qua trong Lịch sử hay trong Văn học, để đừng xuyên tạc những chuyện không có, phải nói ngay rằng tên T.T.KH., không hề gợi một dự luận nào “xôn xao” ở thời Tiền chiến, và cuộc tình duyên của Tuấn Trình (Thâm Tâm) với cô Trần Thị Khánh không hề gây một xúc động nào về tâm lí cũng như về Văn chương trong giới Văn nghệ và giới Trẻ thời bấy giờ.
Tôi chắc rằng những nhà Văn Thơ Tiền chiến ở Hà Nội hiện còn sống tại Sài Gòn, như các anh Vi Huyền Đắc, Lê Tràng Kiều, Tchya, Vũ Bằng, v.v… (cả các anh Nhất Linh và Lê Văn Trương vừa tạ thế mấy năm trước) đều phải hết sức ngạc nhiên thấy một vài người của thế hệ Hậu chiến ở Sài Gòn bỗng dưng tôn sùng ba tên T.T.KH. thành một thần tượng, và biến mối tình rất tầm thường, có thể nói là quá tầm thường, của cô học trò cũ trường Tiểu học Sinh Từ, thành một thảm kịch của tình yêu! Nguyễn Nhược Pháp, nhà ở gần nhà cô Khánh, chỉ cách 5, 6 căn mà cũng không hề nghe nói đến cô này, và cũng không biết một tí gì về mối tình của một Họa sĩ kiêm Thi sĩ, Tuấn Trình hay Thâm Tâm, xảy ra cùng dãy phố với anh.
Cũng như người đàn bà tên Mộng Cầm, hiện là vợ một Giáo chức ở Phan Rang, đã phủ nhận những chuyện người ta thêu dệt về mối tình bạn của Bà, lúc còn là nữ y tá, với Thi sĩ Hàn Mạc Tử (Phổ Thông Tạp chí, số 63, ngày 15-8-1961).
“Tôi không thể yêu được một người bị bịnh cùi!” Bà Mộng Cầm đã thẳng thắn nói thế, không thể trách bà được.
Ghi chú:
1. Sinh viên, và thanh niên trí thức Hà Nội đã đọc Paul
Eluard và Jean Paul Sartre từ thời Tiền Chiến.
20. Vũ Ngọc Phan (1902-1987)
Vũ Ngọc Phan thuộc về một nhóm thiểu số mà các giới văn nghệ Tiền chiến thường
gọi là “Nhà văn trưởng giả”, và chính nhóm ấy cũng không phải không hãnh diện tự
nhận mình là “Nhà văn trưởng giả”.
Thi đỗ Tú Tài toàn phần xong, anh cưới con gái ông Lê Dư, ở phố Hàng Bông, Lê Dư là một nhà Nho học Quảng Nam, theo cụ Phan Bội Châu xuất dương sang Tàu để làm cách mạng. Nhưng không bao lâu, Lê Dư phản bội các đồng chí, trở về nước đầu thú với chính phủ thuộc địa, và được cho vào làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Ông Lê Dư có cô con gái lớn, tên là Lê Thị Hằng Phương, được ông dạy chút ít chữ Hán ở nhà, rồi đi học chữ Pháp tới lớp Nhứt, thi Tiểu học rớt ở nhà luôn. Vũ Ngọc Phan quen với cô này hồi còn đi học. Khi cưới xong, hai vợ chồng dọn về ở một biệt thự xinh xắn tại Huyện lỵ Hoàng Long, phía sau dinh Hoàng Cao Khải, gần ấp Thái Hà. Những người quen biết Vũ Ngọc Phan đều không ai ngờ rằng anh trở thành nhà văn, vì ngay từ lúc còn đi học anh không tỏ ra sốt sắng ham chuộng nghề ấy tí nào. Nhưng vì sức khỏe kém lắm, người anh ốm teo, và hình như có triệu chứng ho lao, cho nên thi đỗ Tú Tài xong, anh không vào làm việc các công sở. Ông Lê Dư xin cho anh vào giúp việc trong tạp chí “Revue Franco-Annamite” của ông Ernest Babut “Tạp chí Pháp Việt” mỗi tháng ra một kỳ, ở phố Hàng Bông.
Ông Babut là một người Pháp ở đảng Xã hội, bạn thân với ông Marius Moutet, và cụ Phan Châu Trinh. Chính ông đã vận động cho cụ Phan Châu Trinh khỏi bị tội xử tử theo bản án của triều đình Huế, và sau khi cụ Phan bị đày đi Côn Đảo, chính ông đã vận động cho cụ được trả tự do và sang ở bên Pháp. Ông Babut cũng là bạn của cụ Phan Bội Châu và tất cả các nhà chí sĩ xuất dương sang Tàu và Nhựt. Do đó mà ông cũng chơi thân với ông Lê Dư, mặc dầu ông này đã về quy thuận và hợp tác với chính phủ Bảo hộ.
Nhờ nhạc phụ tiến dẫn, cậu Tú Tài ốm yếu mảnh khảnh Vũ Ngọc Phan được ông Ernest Babut nhận vào làm việc trong tòa soạn của ông. “Revue Franco-Annamite, - Pháp Việt tạp chí” là một nguyệt san chính trị, xã hội, kinh tế và văn học, viết một nửa bằng Pháp ngữ, một nửa bằng Việt ngữ. Vũ Ngọc Phan coi về phần Việt ngữ, dịch bài luận thuyết của ông Babut ra Việt văn, dịch một tiểu thuyết của Tolstoi Anna Karénine, phê bình sách, và viết tin tức trong tháng. Ngoài ra, anh không sáng tác gì nữa.
Ngày hai buổi, anh ngồi trên chiếc xe kéo nhà sơn đen, do một anh phu xe kéo từ huyện Hoàng Long xuống Hà Nội, xa chừng 16 cây số. Anh vào tòa báo ngồi làm việc như một ông Tham, ông Phán. Đến giờ, xe kéo anh về. Do đó, các giới văn nghệ Hà Thành gán cho anh cái chiêu bài “Nhà văn quan liêu”. Trương Tửu phê bình sách Vũ Ngọc Phan một câu lý thú là “Ecrivain malgré lui”, cũng như thời nay gọi là Nhà văn “Nhảy dù”. Tuy vậy, tôi thấy anh “nhảy dù” đúng địa điểm.
Ít nói, tánh tình điềm đạm, tư cách nho nhã, tư tưởng hoàn toàn bảo thủ, anh ít giao thiệp với các bạn làng văn, ít đi chơi bời với họ. Ngoài giờ làm “công chức” ở tòa báo ông Babut, anh về nhà với vợ, sống cuộc đời bình thản, an phận, ít đọc sách, không viết văn. Chị Hằng Phương, vợ anh, hồi còn con gái, có làm vài ba bài thơ tình, tặng Vũ Ngọc Phan. Từ khi thành hôn với “cậu”, - chị không làm thơ nữa và cũng không bao giờ viết văn.
Thỉnh thoảng đến nói chuyện chút ít về chính trị với ông Ernest Babut tại tòa báo, tôi gặp Vũ Ngọc Phan, nói chuyện qua loa thế thôi. Có một lần, anh ở tòa soạn về buổi trưa, đỗ xe kéo trước cổng nhà tôi ở Nam Đồng. Anh ghé vào hỏi tôi quyển tiểu thuyết “Đứa Con Hoang” tôi vừa xuất bản, để anh giới thiệu trong Pháp Việt Tạp chí. Một lần khác, Anh Thơ vừa xuất bản Bức tranh quê, có đưa tôi một quyển để trao tặng Vũ Ngọc Phan và muốn tôi nhờ anh viết bài phê bình hộ. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, tôi rủ Anh Thơ đi với tôi vào nhà anh. Nhưng Anh Thơ nhút nhát, không dám gặp họ Vũ. Chiều mát, tôi một mình vào nhà anh, gặp cả hai vợ chồng. Chị Vũ Ngọc Phan xem vài bài trong tập Bức tranh quê, rồi hỏi tôi:
- Sao không có thơ lục bát nhỉ?
Thấy tôi cười tủm tỉm, Vũ Ngọc Phan bảo vợ:
- Đây là thơ mới.
Tôi có cảm tưởng cặp vợ chồng trẻ này đã già hơn thời đại.
Vũ Ngọc Phan phê bình tập thơ của Anh Thơ như thế nào, tôi không thường xem Pháp Việt Tạp chí, nên không được biết.
Vũ Ngọc Phan càng ngày càng ốm. Ở Hà Nội lúc bấy giờ tôi thấy Nguyễn Tiến Lãng đã ốm teo, mà Vũ Ngọc Phan lại còn ốm hơn tác giả Indochine La Douce. Nhiều bạn bảo rằng Vũ Ngọc Phan đã gầy còm như thế mà còn hút thuốc phiện nữa. Tôi không tin, vì anh ta coi bộ ho lao chắc không dám làm bạn với nàng Tiên Nâu.
Theo tôi, có lẽ chính tại vì anh viết báo, trong Pháp Việt Tạp chí, mỗi kì anh phải dịch một bài luận thuyết về chính trị của ông Babut ra Việt văn, và một hai bài thời sự. Ngoài ra, anh còn phải dịch đăng sáu bảy trang bộ truyện Anna Karénine, rồi còn “phê bình” sách, viết tin tức, v.v… Một mình anh phụ trách cả phần Việt ngữ, chắc là không lợi cho sức khỏe của anh.
Sau này, nghe nói anh có gom góp các bài phê bình đã đăng trong Pháp Việt Tạp chí, xuất bản thành sách. Theo những bài mà tôi đã đọc trong báo thì tôi nhận thấy anh phân tách các Văn phẩm theo phương pháp máy móc quá. Điều đó, không có chi lạ, nếu biết rằng anh đã đỗ Tú Tài Toán. Anh không có tinh thần văn nghệ. Mặc dầu anh có thiện chí và vô tư. Vũ Ngọc Phan có lương tâm nghề nghiệp (Conscience professionnelle) nhưng ông thiếu lương năng nghệ thuật (Conscience artistique).
Về tài năng phê bình, anh thua Trương Tửu rất xa, cho nên anh không muốn nói đến Trương Tửu trong những bài “phê bình” của anh.
Vũ Ngọc Phan dịch bộ truyện Anna Karénine của Léon Tolstoi (anh dịch là Kha Lệ Ninh) hết sức công phu. Nhưng anh làm công việc ấy không có hứng thú, theo như lời anh nói. Vì anh chăm chỉ dịch cho sát nghĩa, nhiều đoạn theo đúng như văn Pháp, chú trọng đến cốt chuyện mà không diễn tả hết tư tưởng sâu đậm của tác giả. Tolstoi viết văn rất duyên dáng, dù là những giải phẫu tâm lí, triết lí, cũng vẫn phơn phớt màu sắc văn hoa, tế nhị, êm đềm. Vũ Ngọc Phan không sao lột hết những màu sắc ấy được.
Cho nên, theo nhận xét riêng của tôi, dù anh có dịch hết bộ truyện Anna Karénine, anh cũng chỉ dịch được một nửa mà thôi.
Cả đến bộ sách “phê bình” của anh cũng thế.
Danh từ tổng quát “Nhà văn hiện đại” anh dùng làm tên sách của anh, đã là một sai lầm quá lớn lao. Sách anh chỉ “phê bình” một số nhà văn Tiền chiến từ 1920 đến 1940 mà thôi. Vả lại, anh chỉ “phê bình” nhà văn theo một vài khía cạnh nào đó, theo nhận xét của anh, mà không nghiên cứu toàn diện.
“Nhà văn hiện đại” phải bao gồm văn học sử của cả Thế kỉ XX, chứ không phải một phần năm Thế kỉ. Cho nên giá trị phê bình của anh cũng chỉ tương xứng với một phần nhỏ trong Văn học Hiện Đại.
Sự nghiệp “phê bình” của Vũ Ngọc Phan giống như một bài luận làm dở dang của một cậu học trò vội nộp cho thầy giáo vì thiếu khả năng và thiếu thì giờ.
Thi đỗ Tú Tài toàn phần xong, anh cưới con gái ông Lê Dư, ở phố Hàng Bông, Lê Dư là một nhà Nho học Quảng Nam, theo cụ Phan Bội Châu xuất dương sang Tàu để làm cách mạng. Nhưng không bao lâu, Lê Dư phản bội các đồng chí, trở về nước đầu thú với chính phủ thuộc địa, và được cho vào làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Ông Lê Dư có cô con gái lớn, tên là Lê Thị Hằng Phương, được ông dạy chút ít chữ Hán ở nhà, rồi đi học chữ Pháp tới lớp Nhứt, thi Tiểu học rớt ở nhà luôn. Vũ Ngọc Phan quen với cô này hồi còn đi học. Khi cưới xong, hai vợ chồng dọn về ở một biệt thự xinh xắn tại Huyện lỵ Hoàng Long, phía sau dinh Hoàng Cao Khải, gần ấp Thái Hà. Những người quen biết Vũ Ngọc Phan đều không ai ngờ rằng anh trở thành nhà văn, vì ngay từ lúc còn đi học anh không tỏ ra sốt sắng ham chuộng nghề ấy tí nào. Nhưng vì sức khỏe kém lắm, người anh ốm teo, và hình như có triệu chứng ho lao, cho nên thi đỗ Tú Tài xong, anh không vào làm việc các công sở. Ông Lê Dư xin cho anh vào giúp việc trong tạp chí “Revue Franco-Annamite” của ông Ernest Babut “Tạp chí Pháp Việt” mỗi tháng ra một kỳ, ở phố Hàng Bông.
Ông Babut là một người Pháp ở đảng Xã hội, bạn thân với ông Marius Moutet, và cụ Phan Châu Trinh. Chính ông đã vận động cho cụ Phan Châu Trinh khỏi bị tội xử tử theo bản án của triều đình Huế, và sau khi cụ Phan bị đày đi Côn Đảo, chính ông đã vận động cho cụ được trả tự do và sang ở bên Pháp. Ông Babut cũng là bạn của cụ Phan Bội Châu và tất cả các nhà chí sĩ xuất dương sang Tàu và Nhựt. Do đó mà ông cũng chơi thân với ông Lê Dư, mặc dầu ông này đã về quy thuận và hợp tác với chính phủ Bảo hộ.
Nhờ nhạc phụ tiến dẫn, cậu Tú Tài ốm yếu mảnh khảnh Vũ Ngọc Phan được ông Ernest Babut nhận vào làm việc trong tòa soạn của ông. “Revue Franco-Annamite, - Pháp Việt tạp chí” là một nguyệt san chính trị, xã hội, kinh tế và văn học, viết một nửa bằng Pháp ngữ, một nửa bằng Việt ngữ. Vũ Ngọc Phan coi về phần Việt ngữ, dịch bài luận thuyết của ông Babut ra Việt văn, dịch một tiểu thuyết của Tolstoi Anna Karénine, phê bình sách, và viết tin tức trong tháng. Ngoài ra, anh không sáng tác gì nữa.
Ngày hai buổi, anh ngồi trên chiếc xe kéo nhà sơn đen, do một anh phu xe kéo từ huyện Hoàng Long xuống Hà Nội, xa chừng 16 cây số. Anh vào tòa báo ngồi làm việc như một ông Tham, ông Phán. Đến giờ, xe kéo anh về. Do đó, các giới văn nghệ Hà Thành gán cho anh cái chiêu bài “Nhà văn quan liêu”. Trương Tửu phê bình sách Vũ Ngọc Phan một câu lý thú là “Ecrivain malgré lui”, cũng như thời nay gọi là Nhà văn “Nhảy dù”. Tuy vậy, tôi thấy anh “nhảy dù” đúng địa điểm.
Ít nói, tánh tình điềm đạm, tư cách nho nhã, tư tưởng hoàn toàn bảo thủ, anh ít giao thiệp với các bạn làng văn, ít đi chơi bời với họ. Ngoài giờ làm “công chức” ở tòa báo ông Babut, anh về nhà với vợ, sống cuộc đời bình thản, an phận, ít đọc sách, không viết văn. Chị Hằng Phương, vợ anh, hồi còn con gái, có làm vài ba bài thơ tình, tặng Vũ Ngọc Phan. Từ khi thành hôn với “cậu”, - chị không làm thơ nữa và cũng không bao giờ viết văn.
Thỉnh thoảng đến nói chuyện chút ít về chính trị với ông Ernest Babut tại tòa báo, tôi gặp Vũ Ngọc Phan, nói chuyện qua loa thế thôi. Có một lần, anh ở tòa soạn về buổi trưa, đỗ xe kéo trước cổng nhà tôi ở Nam Đồng. Anh ghé vào hỏi tôi quyển tiểu thuyết “Đứa Con Hoang” tôi vừa xuất bản, để anh giới thiệu trong Pháp Việt Tạp chí. Một lần khác, Anh Thơ vừa xuất bản Bức tranh quê, có đưa tôi một quyển để trao tặng Vũ Ngọc Phan và muốn tôi nhờ anh viết bài phê bình hộ. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, tôi rủ Anh Thơ đi với tôi vào nhà anh. Nhưng Anh Thơ nhút nhát, không dám gặp họ Vũ. Chiều mát, tôi một mình vào nhà anh, gặp cả hai vợ chồng. Chị Vũ Ngọc Phan xem vài bài trong tập Bức tranh quê, rồi hỏi tôi:
- Sao không có thơ lục bát nhỉ?
Thấy tôi cười tủm tỉm, Vũ Ngọc Phan bảo vợ:
- Đây là thơ mới.
Tôi có cảm tưởng cặp vợ chồng trẻ này đã già hơn thời đại.
Vũ Ngọc Phan phê bình tập thơ của Anh Thơ như thế nào, tôi không thường xem Pháp Việt Tạp chí, nên không được biết.
Vũ Ngọc Phan càng ngày càng ốm. Ở Hà Nội lúc bấy giờ tôi thấy Nguyễn Tiến Lãng đã ốm teo, mà Vũ Ngọc Phan lại còn ốm hơn tác giả Indochine La Douce. Nhiều bạn bảo rằng Vũ Ngọc Phan đã gầy còm như thế mà còn hút thuốc phiện nữa. Tôi không tin, vì anh ta coi bộ ho lao chắc không dám làm bạn với nàng Tiên Nâu.
Theo tôi, có lẽ chính tại vì anh viết báo, trong Pháp Việt Tạp chí, mỗi kì anh phải dịch một bài luận thuyết về chính trị của ông Babut ra Việt văn, và một hai bài thời sự. Ngoài ra, anh còn phải dịch đăng sáu bảy trang bộ truyện Anna Karénine, rồi còn “phê bình” sách, viết tin tức, v.v… Một mình anh phụ trách cả phần Việt ngữ, chắc là không lợi cho sức khỏe của anh.
Sau này, nghe nói anh có gom góp các bài phê bình đã đăng trong Pháp Việt Tạp chí, xuất bản thành sách. Theo những bài mà tôi đã đọc trong báo thì tôi nhận thấy anh phân tách các Văn phẩm theo phương pháp máy móc quá. Điều đó, không có chi lạ, nếu biết rằng anh đã đỗ Tú Tài Toán. Anh không có tinh thần văn nghệ. Mặc dầu anh có thiện chí và vô tư. Vũ Ngọc Phan có lương tâm nghề nghiệp (Conscience professionnelle) nhưng ông thiếu lương năng nghệ thuật (Conscience artistique).
Về tài năng phê bình, anh thua Trương Tửu rất xa, cho nên anh không muốn nói đến Trương Tửu trong những bài “phê bình” của anh.
Vũ Ngọc Phan dịch bộ truyện Anna Karénine của Léon Tolstoi (anh dịch là Kha Lệ Ninh) hết sức công phu. Nhưng anh làm công việc ấy không có hứng thú, theo như lời anh nói. Vì anh chăm chỉ dịch cho sát nghĩa, nhiều đoạn theo đúng như văn Pháp, chú trọng đến cốt chuyện mà không diễn tả hết tư tưởng sâu đậm của tác giả. Tolstoi viết văn rất duyên dáng, dù là những giải phẫu tâm lí, triết lí, cũng vẫn phơn phớt màu sắc văn hoa, tế nhị, êm đềm. Vũ Ngọc Phan không sao lột hết những màu sắc ấy được.
Cho nên, theo nhận xét riêng của tôi, dù anh có dịch hết bộ truyện Anna Karénine, anh cũng chỉ dịch được một nửa mà thôi.
Cả đến bộ sách “phê bình” của anh cũng thế.
Danh từ tổng quát “Nhà văn hiện đại” anh dùng làm tên sách của anh, đã là một sai lầm quá lớn lao. Sách anh chỉ “phê bình” một số nhà văn Tiền chiến từ 1920 đến 1940 mà thôi. Vả lại, anh chỉ “phê bình” nhà văn theo một vài khía cạnh nào đó, theo nhận xét của anh, mà không nghiên cứu toàn diện.
“Nhà văn hiện đại” phải bao gồm văn học sử của cả Thế kỉ XX, chứ không phải một phần năm Thế kỉ. Cho nên giá trị phê bình của anh cũng chỉ tương xứng với một phần nhỏ trong Văn học Hiện Đại.
Sự nghiệp “phê bình” của Vũ Ngọc Phan giống như một bài luận làm dở dang của một cậu học trò vội nộp cho thầy giáo vì thiếu khả năng và thiếu thì giờ.
21. Trần Tuấn Khải (1895-1983)
Tôi đọc “Bút Quan Hoài” của Trần Tuấn Khải từ lúc còn nhỏ, thuộc lòng hai bài:
Hỡi cô bán Nước kia ơi,
Dừng chân đứng lại cho tôi nhủ cùng.
Trời hè đương lúc nấu nung,
Nước đâu cô nỡ dứt lòng bán rao?
Bây giờ thiên hạ khát khao,
Khô gan ráo cổ kêu gào Nước luôn.
Thế mà cô cậy có khôn,
Thừa cơ đem Nước bán buôn kiếm lời.
Nước là của quí, cô ơi,
Xưa nay không Nước, dễ đời còn cô?
Một mai cỏ cháy Nước khô,
Thân cô chết héo thì cô bán gì?…
Và bài:
Em bước chân ra, con đường xa tít,
Con sông mù mịt,
Hai vai kĩu kịt,
Nặng gánh em trở ra về.
Em ngoảnh cổ trông,
Sông rộng trời khuya,
Vì chưng Nước cạn, nặng nề, em có dám kêu ai.
Em nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời,
Con Dã Tràng lấp bể, biết đời nào xong.
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng,
Nước Non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay?
Em trở vai này…
Đầu óc con nít học trò, cảm thấy hai bài thơ chứa đựng tư tưởng thâm trầm và bi thương về Nước, của người dân mất Nước, tự nhiên chiêm ngưỡng tác giả như một thần tượng.
Rồi lớn lên, lúc ở Hà Nội, cứ muốn gặp mặt thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải để tỏ lòng kính phục. Nhưng trong các bạn làng văn lúc bấy giờ ít người giao du với Trần Tuấn Khải. Tôi không bao giờ gặp ông ở nhà một người bạn nào trong làng Văn, hay làng báo, hoặc ở tòa soạn một báo nào. Ông thuộc về thế hệ Đàn Anh, không quen nhiều với bọn nhà văn trẻ mới ra đời từ khoảng 1930. Có thể nói rằng giữa thi sĩ Trần Tuấn Khải với hầu hết anh em văn nhân thi sĩ Hà Thành thời Tiền Chiến, không có một liên lạc nào cả. Ông như ở ẩn một nơi nào đó. Đến đỗi Phong Hóa là tờ báo của Nhất Linh chuyên moi móc các giới văn nghệ và trí thức, chế nhạo Tản Đà luôn, cả đến nhà học giả Nguyễn Văn Tố, nhà khoa học Nguyễn Công Tiễn họ cũng không trừ, thế mà họ không hề đá động đến Thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải.
Riêng tôi, đọc thuộc lòng thơ ông từ lúc bé, nhớ đến ông và kính mến ông vô cùng suốt thời gian ở Hà Nội mà mãi đến năm 1958, nghĩa là trên ba mươi năm sau, tôi mới gặp ông ở Sài Gòn! Tôi không biết ông di cư vào miền Nam năm 1954. Các bạn nhà văn di cư: Vi Huyền Đắc, Tam Lang, Vũ Bằng, Nhất Linh, Lê Văn Trương… không ai nhắc đến Trần Tuấn Khải. Bỗng một hôm, một ông cụ già, tóc bạc lưa thưa, da đồi mồi, thân hình ốm yếu, đến Tòa báo Phổ Thông trao tôi một bài viết về Lương Khải Siêu. Tôi rất vui mừng được ông cụ cho biết ông là Á Nam Trần Tuấn Khải. Từ đó, mỗi ngày tôi mỗi quen thân với cụ. Cụ tặng tôi hai tập thơ “Bút Quan Hoài”, tôi cảm động vô cùng khi thấy lại trong đó hai bài thơ “Cô bán nước” và “Đêm khuya thân gái…” mà tôi đã đọc say mê lúc mới 10 tuổi. Cụ ngồi cười tủm tỉm rất khả ái, nghe tôi ngâm thuộc lòng hai bài thơ ấy mà không xem trong sách.
Khi bộ tiểu thuyết “Hai Thiêng Liêng” của tôi xuất bản gặp lúc ông Tổng thống Ngô Đình Diệm đặt ra Giải thưởng Văn chương Toàn quốc lần đầu tiên, một hôm cụ Trần Tuấn Khải ghé đến tòa soạn bảo tôi:
- Bộ truyện Hai Thiên Liêng của ông, được ban giám khảo đề nghị giải nhất, tặng 60.000$.
Tôi ngạc nhiên vì không hề tự tôi tham gia Giải thưởng Văn chương. Tôi từ chối, mặc dầu đang nghèo, hằng tháng cứ phải đi vay tiền để in báo Phổ Thông.
Cụ Trần Tuấn Khải, nhân viên ban giám khảo, bảo tôi:
- Ông cứ nhận đi, 60.000$ đâu phải ít.
Nhưng tôi từ chối, và gọi điện thoại cho ông chủ tịch ban giám khảo biết tôi không tham gia, và không nhận giải thưởng, của Ông Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Từ đó, cảm tình giữa thi sĩ lão thành và tôi càng khắng khít hơn. Cụ tiếp tục hợp tác với Phổ Thông tạp chí một thời gian rất lâu.
Năm 1960, tôi lại ngẫu nhiên được quen biết con gái của cụ là nữ sĩ Trần Thị Tuệ Mai, tác giả một vài tập thơ. sự giao thiệp giữa Tuệ Mai và tôi cũng tốt đẹp trong phạm vi Văn nghệ. Tuệ Mai cho tôi biết là ông cụ năm nay (1966) đã 75 tuổi và ở Bình Thới với bà thứ nhất, bà này nguyên là một danh ca từng nổi tiếng ở Bắc Hà. Tuệ Mai là con bà cả. Tôi hỏi lúc ở Hà Nội, ông cụ ở đâu, Tuệ Mai cho biết cụ ở Thái Hà ấp. Thì ra cùng một ấp với thi sĩ Tản Đà. Hai nhà thơ, đồng thời, đồng lứa ấy tuy ở gần nhau nhưng không chơi với nhau. Văn thơ và tính tình của hai ông cũng khác nhau xa.
Từ lúc di cư vào Sài Gòn, thi sĩ Á Nam không làm thơ nữa. Đời sống của cụ cũng không lấy gì làm sung túc lắm. Cụ vẫn giữ nền nếp nho phong, và rất được các bạn làng Văn kính phục.
Thằng học trò 15 tuổi ở Qui Nhơn năm 1925 vẫn hãnh diện được trở thành người bạn nhỏ của thi lão “Bút Quan Hoài”.
Hỡi cô bán Nước kia ơi,
Dừng chân đứng lại cho tôi nhủ cùng.
Trời hè đương lúc nấu nung,
Nước đâu cô nỡ dứt lòng bán rao?
Bây giờ thiên hạ khát khao,
Khô gan ráo cổ kêu gào Nước luôn.
Thế mà cô cậy có khôn,
Thừa cơ đem Nước bán buôn kiếm lời.
Nước là của quí, cô ơi,
Xưa nay không Nước, dễ đời còn cô?
Một mai cỏ cháy Nước khô,
Thân cô chết héo thì cô bán gì?…
Và bài:
Em bước chân ra, con đường xa tít,
Con sông mù mịt,
Hai vai kĩu kịt,
Nặng gánh em trở ra về.
Em ngoảnh cổ trông,
Sông rộng trời khuya,
Vì chưng Nước cạn, nặng nề, em có dám kêu ai.
Em nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời,
Con Dã Tràng lấp bể, biết đời nào xong.
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng,
Nước Non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay?
Em trở vai này…
Đầu óc con nít học trò, cảm thấy hai bài thơ chứa đựng tư tưởng thâm trầm và bi thương về Nước, của người dân mất Nước, tự nhiên chiêm ngưỡng tác giả như một thần tượng.
Rồi lớn lên, lúc ở Hà Nội, cứ muốn gặp mặt thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải để tỏ lòng kính phục. Nhưng trong các bạn làng văn lúc bấy giờ ít người giao du với Trần Tuấn Khải. Tôi không bao giờ gặp ông ở nhà một người bạn nào trong làng Văn, hay làng báo, hoặc ở tòa soạn một báo nào. Ông thuộc về thế hệ Đàn Anh, không quen nhiều với bọn nhà văn trẻ mới ra đời từ khoảng 1930. Có thể nói rằng giữa thi sĩ Trần Tuấn Khải với hầu hết anh em văn nhân thi sĩ Hà Thành thời Tiền Chiến, không có một liên lạc nào cả. Ông như ở ẩn một nơi nào đó. Đến đỗi Phong Hóa là tờ báo của Nhất Linh chuyên moi móc các giới văn nghệ và trí thức, chế nhạo Tản Đà luôn, cả đến nhà học giả Nguyễn Văn Tố, nhà khoa học Nguyễn Công Tiễn họ cũng không trừ, thế mà họ không hề đá động đến Thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải.
Riêng tôi, đọc thuộc lòng thơ ông từ lúc bé, nhớ đến ông và kính mến ông vô cùng suốt thời gian ở Hà Nội mà mãi đến năm 1958, nghĩa là trên ba mươi năm sau, tôi mới gặp ông ở Sài Gòn! Tôi không biết ông di cư vào miền Nam năm 1954. Các bạn nhà văn di cư: Vi Huyền Đắc, Tam Lang, Vũ Bằng, Nhất Linh, Lê Văn Trương… không ai nhắc đến Trần Tuấn Khải. Bỗng một hôm, một ông cụ già, tóc bạc lưa thưa, da đồi mồi, thân hình ốm yếu, đến Tòa báo Phổ Thông trao tôi một bài viết về Lương Khải Siêu. Tôi rất vui mừng được ông cụ cho biết ông là Á Nam Trần Tuấn Khải. Từ đó, mỗi ngày tôi mỗi quen thân với cụ. Cụ tặng tôi hai tập thơ “Bút Quan Hoài”, tôi cảm động vô cùng khi thấy lại trong đó hai bài thơ “Cô bán nước” và “Đêm khuya thân gái…” mà tôi đã đọc say mê lúc mới 10 tuổi. Cụ ngồi cười tủm tỉm rất khả ái, nghe tôi ngâm thuộc lòng hai bài thơ ấy mà không xem trong sách.
Khi bộ tiểu thuyết “Hai Thiêng Liêng” của tôi xuất bản gặp lúc ông Tổng thống Ngô Đình Diệm đặt ra Giải thưởng Văn chương Toàn quốc lần đầu tiên, một hôm cụ Trần Tuấn Khải ghé đến tòa soạn bảo tôi:
- Bộ truyện Hai Thiên Liêng của ông, được ban giám khảo đề nghị giải nhất, tặng 60.000$.
Tôi ngạc nhiên vì không hề tự tôi tham gia Giải thưởng Văn chương. Tôi từ chối, mặc dầu đang nghèo, hằng tháng cứ phải đi vay tiền để in báo Phổ Thông.
Cụ Trần Tuấn Khải, nhân viên ban giám khảo, bảo tôi:
- Ông cứ nhận đi, 60.000$ đâu phải ít.
Nhưng tôi từ chối, và gọi điện thoại cho ông chủ tịch ban giám khảo biết tôi không tham gia, và không nhận giải thưởng, của Ông Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Từ đó, cảm tình giữa thi sĩ lão thành và tôi càng khắng khít hơn. Cụ tiếp tục hợp tác với Phổ Thông tạp chí một thời gian rất lâu.
Năm 1960, tôi lại ngẫu nhiên được quen biết con gái của cụ là nữ sĩ Trần Thị Tuệ Mai, tác giả một vài tập thơ. sự giao thiệp giữa Tuệ Mai và tôi cũng tốt đẹp trong phạm vi Văn nghệ. Tuệ Mai cho tôi biết là ông cụ năm nay (1966) đã 75 tuổi và ở Bình Thới với bà thứ nhất, bà này nguyên là một danh ca từng nổi tiếng ở Bắc Hà. Tuệ Mai là con bà cả. Tôi hỏi lúc ở Hà Nội, ông cụ ở đâu, Tuệ Mai cho biết cụ ở Thái Hà ấp. Thì ra cùng một ấp với thi sĩ Tản Đà. Hai nhà thơ, đồng thời, đồng lứa ấy tuy ở gần nhau nhưng không chơi với nhau. Văn thơ và tính tình của hai ông cũng khác nhau xa.
Từ lúc di cư vào Sài Gòn, thi sĩ Á Nam không làm thơ nữa. Đời sống của cụ cũng không lấy gì làm sung túc lắm. Cụ vẫn giữ nền nếp nho phong, và rất được các bạn làng Văn kính phục.
Thằng học trò 15 tuổi ở Qui Nhơn năm 1925 vẫn hãnh diện được trở thành người bạn nhỏ của thi lão “Bút Quan Hoài”.
22. Ưng Bình (1877-1961)
Năm 1958, một hôm hình như khoảng tháng 3 d.l., nhà bác học Bửu Hội ở Paris về,
ngẫu nhiên gặp tôi, có đưa tôi xem một bài thơ nhan đề: “Xuân Mậu Tuất tự thuật”
và tác giả kí tên là Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Bài thơ như sau đây:
Phước của trời cho, lộc của trời,
Lần lên tuổi thọ tám mươi hai,
Coi con bướm liệng từng quen mắt,
Nghe tiếng oanh chào chẳng lạ tai,
Son phấn trò hề, năng kể lại.
Bút nghiên nghề mọn, vẫn khoe chơi.
Cứ ngâm nga mãi quên đầu bạc,
Quên cuộc tang thương trải mấy đời.
Tôi đọc thơ ấy làm thích thú vô cùng. Thơ của một ông cụ già 82 tuổi mà vẫn còn nhẹ nhàng bay bướm, thi tứ sâu đậm, thi cảm dồi dào, thật là hiếm có. Và thật là đẹp.
Tôi đọc thơ của cụ Ưng Bình đã lâu rồi, do một ông bạn người Huế cho coi từ hồi tôi còn học ở Hà Nội. Nhưng tôi không ngờ rằng tác giả là cháu nội của thi sĩ Tuy Lý Vương, và bác của nhà bác học Bửu Hội.
Cụ Sinh ở Vỹ Dạ, Huế, năm 1877, con cụ Hồng Thiết, có cả Tây học (cụ tốt nghiệp trường Quốc Học Huế, đỗ đầu kì thi kí lục năm 1904) và Hán học (cụ đã đỗ Cử nhân Hán học năm 1909).
Làm quan ở Triều Nguyễn, cụ đã trải qua các cấp bực từ Tri huyện lên tri phủ, Viên Ngoại, Thị Lang, Bố Chánh, Tuần Vũ, Phủ Doãn Thừa Thiên, và được thăng Thượng Thư năm 57 tuổi, Hiệp tá Đại học sĩ năm 67 tuổi.
Về hưu, cụ được lòng yêu kính và cảm mến của nhân dân Huế, và được bầu làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung Kỳ, Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ năm 1940.
Nhưng trước hết, cụ Ưng Bình là một thi nhân và một nhạc sĩ tài ba lỗi lạc. Cụ có phong độ thanh cao của một nhà Thơ quí phái, theo nề nếp phong lưu của giòng dõi thi sĩ Nho gia: Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, và chính Tuy Lý Vương, nội tổ của cụ. Yêu cảnh nước biếc non xanh, cụ cũng là một hình bóng những thi sĩ truyền thống của đời Đường, những Lý Bạch, Tô Đông Pha, Đỗ Phủ, hóa mình trong gió mát trăng thanh, thả thuyền theo hồn thơ sóng mộng. Cụ tả cảnh Thu thì tuyệt:
Xa xa bóng nhạn giữa trời thu,
Nước biết non xanh lẫn một màu.
Quốc quốc tìm sâu trên vạc cỏ.
Le le nhỏn sóng cạnh bờ lau.
Lẹ làng nốt ruổi bơi qua đó,
Êm thắm thuyền tình đậu ở đâu?
Lưu thủy, hành vân thành điệu cổ,
Trên sông nghe vắng đã từ lâu!
Nhưng hay hơn hết là những bài thơ tâm sự của cụ, những bài tự thuật, hoặc mượn cảnh mà ám chỉ việc đời, với một nhận xét mỉa mai rất tế nhị:
Cảm thương danh lợi cả hai thằng,
Kẻ chống, người chèo, bộ xí xằng
Ghét cụm bèo trôi che bóng nước,
Giận chòm mây nổi khuất vành trăng.
Chim khôn nhát bẫy nhìn không đậu,
Cá dại ham mồi thấy phải ăn.
Câu hát bên sông thêm chạnh nỗi,
Ông chài lo lửng có nghe chăng?
Cu làm bài thơ này hồi năm 1932, tức là năm Bảo Đại vừa ở Pháp về, lên ngôi Hoàng đế, và chung quanh nhà vua bù nhìn trẻ tuổi ấy, có bao nhiêu kẻ “chầu rìa” hám danh vụ lợi, và cũng có những người chán ghét phường tục tử, lũ nịnh thần.
Phong độ quân tử và thi nhân của cụ Ưng Bình cũng phảng phất dịu dàng trong mấy vần thơ sau đây:
Khuyên học Phật
Đường danh nẻo lợi ngó đông đông,
Chen chúc nhau chỉ đám bụi hồng.
Kìa bóng bạch câu qua chẳng lại,
Nọ tranh thương cẩu có rồi không.
Dở cười dở khóc bao sân khấu,
Khi nở khi tàn mấy cụm bông.
Sao kiếp phù sinh cho khỏi lụy,
Quyển kinh câu kệ chớ nài công!
(1934 - 58 tuổi)
Việc đời
Kể từ năm Dậu đến năm nay,
Xuân lại Xuân qua cũng thế này.
Trắng đỏ cuộc cờ đi đủ nước,
Xanh vàng mối chỉ nhuộm nhiều tay,
Hoa vườn Thượng uyển không ai ngắm.
Rượu chốn sa trường có kẻ say,
Hàng lệ non sông rơi đã khắp,
Tấm lòng trời đất rõ chăng đây!
(Kỷ Sửu 1949 - 73 tuổi)
Thân thế của nhà thi sĩ lão thành chứng kiến bao nhiêu cảnh vật tang thương, nhân tình điên đảo, kể cũng đã chứa chan biết bao rung động, biết bao cảm sầu, cô đọng trong mấy vần thơ!
Chỉ đọc đôi ba bài tuyệt diệu, cũng thông cảm được hết nỗi lòng hồi hộp băn khoăn của thi sĩ, dù là một tiếng thở, một lời than, kí thác trong âm điệu của mỗi dòng, mỗi chữ.
Thơ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị vừa nhẹ nhàng, trang nhã, vừa hàm súc bao ý nghĩa. Cụ kế tiếp được những truyền thống thi cảm Tuy Lý Vương, truyền thống nho phong mà chúng ta cảm thấy như không còn ai tiếp nối nữa.
Một bài thơ như bài sau đây của cụ Ưng Bình viết năm 1946, có thể nói là một kiệt tác:
Bảy mươi tuổi tự thuật
Ngưỡng mong ơn Phật với ơn Trời,
Tuổi thọ nay đà đến bảy mươi.
Rượu có mùi hương nên uống mãi,
Thi là thuốc bổ cứ ngâm chơi.
Thuở ra sân khấu không làm rộn,
Khi hạ vai tuồng ít hổ người.
Giở tấm gương vàng soi tóc bạc,
Sương pha tuyết điểm lại càng tươi.
Thơ Đường luật điêu luyện đến mức nghệ thuật toàn thiện toàn mĩ như thế, xin hỏi cả một thế kỉ có được bao nhiêu bài?
Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một thi nhân cổ điển tóc bạc thơ vàng, khó kiếm được nữa trên mảnh đất Việt Nam ở thời đại này.
Trong mấy năm gần đất xa trời, cụ Ưng Bình thường gửi thơ đăng trong tạp chí Phổ Thông. Đọc thơ cụ và ngắm bức ảnh của cụ gửi biếu, tôi nhớ ngay đến hình ảnh cụ Nguyễn Khuyến, nhà thơ Bắc Hà ở làng Yên Đổ. Lạ thật, hai bức hình giống nhau quá, cũng chòm râu lưa thưa, cũng đôi mắt mơ sầu dĩ vãng, cũng ly rượu kề môi. Và cũng giọng thơ vừa chải chuốt, vừa mai mỉa nhẹ nhàng cuộc thế.
Nhiều lần tôi dự định đi Huế thăm thi sĩ Thúc Giạ, nhưng vì bận rộn nhiêu công việc, chưa đi được, bỗng vào đầu năm 1961, tôi được tin cụ đau nặng rồi cụ mệnh chung vào ngày 4-4-1961, hưởng thọ 85 tuổi.
Năm 1964, nhân dịp đi Huế, tôi có đến viếng nhà cụ ở Vỹ Dạ. Một dinh thự cổ kính của vị quan cựu thần, nhưng vắng bóng thi ông chỉ còn lại cảnh tiêu sơ quạnh quẽ, như một bức tranh hoang dã dưới bóng trời chiều. Thế kỷ đã đi qua trên khu vườn tịch mịch ấy.
Phước của trời cho, lộc của trời,
Lần lên tuổi thọ tám mươi hai,
Coi con bướm liệng từng quen mắt,
Nghe tiếng oanh chào chẳng lạ tai,
Son phấn trò hề, năng kể lại.
Bút nghiên nghề mọn, vẫn khoe chơi.
Cứ ngâm nga mãi quên đầu bạc,
Quên cuộc tang thương trải mấy đời.
Tôi đọc thơ ấy làm thích thú vô cùng. Thơ của một ông cụ già 82 tuổi mà vẫn còn nhẹ nhàng bay bướm, thi tứ sâu đậm, thi cảm dồi dào, thật là hiếm có. Và thật là đẹp.
Tôi đọc thơ của cụ Ưng Bình đã lâu rồi, do một ông bạn người Huế cho coi từ hồi tôi còn học ở Hà Nội. Nhưng tôi không ngờ rằng tác giả là cháu nội của thi sĩ Tuy Lý Vương, và bác của nhà bác học Bửu Hội.
Cụ Sinh ở Vỹ Dạ, Huế, năm 1877, con cụ Hồng Thiết, có cả Tây học (cụ tốt nghiệp trường Quốc Học Huế, đỗ đầu kì thi kí lục năm 1904) và Hán học (cụ đã đỗ Cử nhân Hán học năm 1909).
Làm quan ở Triều Nguyễn, cụ đã trải qua các cấp bực từ Tri huyện lên tri phủ, Viên Ngoại, Thị Lang, Bố Chánh, Tuần Vũ, Phủ Doãn Thừa Thiên, và được thăng Thượng Thư năm 57 tuổi, Hiệp tá Đại học sĩ năm 67 tuổi.
Về hưu, cụ được lòng yêu kính và cảm mến của nhân dân Huế, và được bầu làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung Kỳ, Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ năm 1940.
Nhưng trước hết, cụ Ưng Bình là một thi nhân và một nhạc sĩ tài ba lỗi lạc. Cụ có phong độ thanh cao của một nhà Thơ quí phái, theo nề nếp phong lưu của giòng dõi thi sĩ Nho gia: Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, và chính Tuy Lý Vương, nội tổ của cụ. Yêu cảnh nước biếc non xanh, cụ cũng là một hình bóng những thi sĩ truyền thống của đời Đường, những Lý Bạch, Tô Đông Pha, Đỗ Phủ, hóa mình trong gió mát trăng thanh, thả thuyền theo hồn thơ sóng mộng. Cụ tả cảnh Thu thì tuyệt:
Xa xa bóng nhạn giữa trời thu,
Nước biết non xanh lẫn một màu.
Quốc quốc tìm sâu trên vạc cỏ.
Le le nhỏn sóng cạnh bờ lau.
Lẹ làng nốt ruổi bơi qua đó,
Êm thắm thuyền tình đậu ở đâu?
Lưu thủy, hành vân thành điệu cổ,
Trên sông nghe vắng đã từ lâu!
Nhưng hay hơn hết là những bài thơ tâm sự của cụ, những bài tự thuật, hoặc mượn cảnh mà ám chỉ việc đời, với một nhận xét mỉa mai rất tế nhị:
Cảm thương danh lợi cả hai thằng,
Kẻ chống, người chèo, bộ xí xằng
Ghét cụm bèo trôi che bóng nước,
Giận chòm mây nổi khuất vành trăng.
Chim khôn nhát bẫy nhìn không đậu,
Cá dại ham mồi thấy phải ăn.
Câu hát bên sông thêm chạnh nỗi,
Ông chài lo lửng có nghe chăng?
Cu làm bài thơ này hồi năm 1932, tức là năm Bảo Đại vừa ở Pháp về, lên ngôi Hoàng đế, và chung quanh nhà vua bù nhìn trẻ tuổi ấy, có bao nhiêu kẻ “chầu rìa” hám danh vụ lợi, và cũng có những người chán ghét phường tục tử, lũ nịnh thần.
Phong độ quân tử và thi nhân của cụ Ưng Bình cũng phảng phất dịu dàng trong mấy vần thơ sau đây:
Khuyên học Phật
Đường danh nẻo lợi ngó đông đông,
Chen chúc nhau chỉ đám bụi hồng.
Kìa bóng bạch câu qua chẳng lại,
Nọ tranh thương cẩu có rồi không.
Dở cười dở khóc bao sân khấu,
Khi nở khi tàn mấy cụm bông.
Sao kiếp phù sinh cho khỏi lụy,
Quyển kinh câu kệ chớ nài công!
(1934 - 58 tuổi)
Việc đời
Kể từ năm Dậu đến năm nay,
Xuân lại Xuân qua cũng thế này.
Trắng đỏ cuộc cờ đi đủ nước,
Xanh vàng mối chỉ nhuộm nhiều tay,
Hoa vườn Thượng uyển không ai ngắm.
Rượu chốn sa trường có kẻ say,
Hàng lệ non sông rơi đã khắp,
Tấm lòng trời đất rõ chăng đây!
(Kỷ Sửu 1949 - 73 tuổi)
Thân thế của nhà thi sĩ lão thành chứng kiến bao nhiêu cảnh vật tang thương, nhân tình điên đảo, kể cũng đã chứa chan biết bao rung động, biết bao cảm sầu, cô đọng trong mấy vần thơ!
Chỉ đọc đôi ba bài tuyệt diệu, cũng thông cảm được hết nỗi lòng hồi hộp băn khoăn của thi sĩ, dù là một tiếng thở, một lời than, kí thác trong âm điệu của mỗi dòng, mỗi chữ.
Thơ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị vừa nhẹ nhàng, trang nhã, vừa hàm súc bao ý nghĩa. Cụ kế tiếp được những truyền thống thi cảm Tuy Lý Vương, truyền thống nho phong mà chúng ta cảm thấy như không còn ai tiếp nối nữa.
Một bài thơ như bài sau đây của cụ Ưng Bình viết năm 1946, có thể nói là một kiệt tác:
Bảy mươi tuổi tự thuật
Ngưỡng mong ơn Phật với ơn Trời,
Tuổi thọ nay đà đến bảy mươi.
Rượu có mùi hương nên uống mãi,
Thi là thuốc bổ cứ ngâm chơi.
Thuở ra sân khấu không làm rộn,
Khi hạ vai tuồng ít hổ người.
Giở tấm gương vàng soi tóc bạc,
Sương pha tuyết điểm lại càng tươi.
Thơ Đường luật điêu luyện đến mức nghệ thuật toàn thiện toàn mĩ như thế, xin hỏi cả một thế kỉ có được bao nhiêu bài?
Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một thi nhân cổ điển tóc bạc thơ vàng, khó kiếm được nữa trên mảnh đất Việt Nam ở thời đại này.
Trong mấy năm gần đất xa trời, cụ Ưng Bình thường gửi thơ đăng trong tạp chí Phổ Thông. Đọc thơ cụ và ngắm bức ảnh của cụ gửi biếu, tôi nhớ ngay đến hình ảnh cụ Nguyễn Khuyến, nhà thơ Bắc Hà ở làng Yên Đổ. Lạ thật, hai bức hình giống nhau quá, cũng chòm râu lưa thưa, cũng đôi mắt mơ sầu dĩ vãng, cũng ly rượu kề môi. Và cũng giọng thơ vừa chải chuốt, vừa mai mỉa nhẹ nhàng cuộc thế.
Nhiều lần tôi dự định đi Huế thăm thi sĩ Thúc Giạ, nhưng vì bận rộn nhiêu công việc, chưa đi được, bỗng vào đầu năm 1961, tôi được tin cụ đau nặng rồi cụ mệnh chung vào ngày 4-4-1961, hưởng thọ 85 tuổi.
Năm 1964, nhân dịp đi Huế, tôi có đến viếng nhà cụ ở Vỹ Dạ. Một dinh thự cổ kính của vị quan cựu thần, nhưng vắng bóng thi ông chỉ còn lại cảnh tiêu sơ quạnh quẽ, như một bức tranh hoang dã dưới bóng trời chiều. Thế kỷ đã đi qua trên khu vườn tịch mịch ấy.
27/10/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét