Trong khi đó lãnh sự quán Mỹ vội vàng chuẩn bị cho di tản
nhân viên người Mỹ và nhiều nhà kinh doanh Pháp, một nhóm thầy thuốc New
Zealand và khoảng năm trăm người Việt Nam làm việc trực tiếp với người Mỹ. Tổng
lãnh sự Spear đồng ý lấy máy bay chở thư hàng ngày để chở người tản cư.
Ờ Sài Gòn, tướng Homer Smith, tùy viên quân sự, như thường lệ,
chiều thứ sáu đến thăm tướng Viên vừa từ Cam Ranh về. Viên, tươi cười và lạc
quan, không hề nói gì về quyết định mới này.
Buổi tối, tướng Phú trở lại Pleiku, họp ngay với các chỉ huy
đơn vị, phổ biến nhiệm vụ mới. ông ta xúc động và chỉ nói những nét lớn. Việc
duy nhất ông ta quyết định là giao cho thiếu tướng Phạm Duy Tất điều khiển cuộc
rút lui. Ông ta bảo Tất ra lệnh cho tất cả các đơn vị chính qui (chứ không phản
là lực lượng không chính qui) và dân vệ chuẩn bị rút ngay lập tức. Nhưng ông ta
cho hoãn về sau việc đốt những kho nhiên liệu sợ gây hoang mang trong nhân dân
địa phương. Ông nói rõ rằng: "Ngay người Mỹ cũng không được biết tin
này". Sau đó, ông về nhà, chuẩn bị hành lý.
Hôm sau, sáng thứ bảy, một buổi sáng như thường lệ ở sứ quán,
chúng tôi đến làm việc sớm chỉ vì làm nửa ngày, chúng tôi mong trời đủ nắng để
có thể ở bên bể bơi cả buổi chiều. Đại diện lâm thời Lehmann, thay Martin đi gặp
Thiệu ở dinh tổng thống một buổi sáng. Họ trao đổi với nhau những chuyện không
đáng kể. Trong lúc ấy, Polgar gặp tướng Quang một lúc ở phủ đầu rồng. Một buổi
gặp bình thường. Quang nói về sự lo lắng của mình đối với trận Buôn Mê Thuột,
nhưng không hề nhắc đến kế hoạch của chính phủ về lãnh thổ còn lại ở Tây
Nguyên. Polgar không có cớ gì để nghĩ rằng viên tướng này giấu ông một điểm gì
đó. Ông trở về sứ quán khoảng chín giờ rưỡi, chắc chắn rằng đã hoàn thành nhiệm
vụ trong ngày.
Tại sở chỉ huy của Phú Ở Pleiku, cuộc trao đổi buổi sáng diễn
ra như thường lệ. Cũng như mọi khi, một nhân viên tình báo CIA dự buổi trao đổi.
Anh ghi những lời phát biểu ý kiến. Không có lúc nào, người phát ngôn Việt Nam
nêu một điểm gì để làm cho người nghe có thể nghĩ đến cuộc rút lui hoàn toàn
quân đội sẽ diễn ra trong mấy giờ tới.
Một lúc sau, Thieme đến sở chỉ huy của Phú, báo cho ông ta biết
những người Mỹ mà sự có mặt ở đây không có ích, sắp ra đi. Bực mình, tức giận,
Phú không phản đối và cũng không nói gì về kế hoạch rút lui của ông ta. Gần một
giờ sau, tư lệnh Quân khu II dừng chân trước trụ sở Chỉ huy nằm giữa thị xã
Pleiku, để lấy vali. Rồi cùng với một số cộng tác viên lân cận, ông ta bay đi
Nha Trang, không nói rõ cho ai biết. Ông chỉ bảo một người tiễn rằng ông ta ra
bờ biển để chuẩn bị tốt cho việc tản cư.
Những người dưới quyền ông ta, còn ở lại, khi biết ông đã đi
rồi, đều quyết định không tuân lệnh ông ta nữa, ai cũng chỉ lo lấy thân mình.
Trong lúc đó, sự thật đáng buồn là những quyết định ở Cam Ranh hôm trước bắt đầu
lộ ra ngoài. Sau cuộc họp buổi sáng, một nhân viên của chúng tôi nằm ở bộ phận
tham mưu của Phú báo cho sĩ quan chúng tôi ở địa phương biết cuộc rút bỏ hoàn
toàn Tây Nguyên. Anh này ngạc nhiên quá, đến mức quên cả báo cáo lại với Thieme
hay một đồng nghiệp khác của ông. Đáng lẽ làm như thế, anh lại báo cáo cho
Archer ở Nha Trang. Trong điện, anh kể rõ mọi chi tiết và đề nghị giải thích.
Đến mười giờ sáng, tôi đến gặp Polgar ở phòng làm việc. Ông
đang nói chuyện với một quan chức bộ ngoại giao mới đến Sài Gòn. Tôi ở đây được
mười phút thì một nữ thư ký của chúng tôi bước vào phòng, để một bản tin trước
mặt Polgar. Đó là một bản sao bức điện của nhân viên CIA ở Pleiku. Chỉ mới đọc
qua đoạn đầu, mặt Polgar vốn nâu hồng đã tái lại. Tất cả lực lượng Nam Việt Nam
trên phía Bắc Tây Nguyên, có khoảng hai sư đoàn, chuẩn bị rút lui hoàn toàn.
Polgar nhảy lên. Ông vội chạy lên phòng đại sứ, ở gác ba, để
báo cho Lehmann. Nhưng đại sứ đi đến phủ tổng thống chưa về. Polgar gọi Nha
Trang hỏi lại. Archer không có gì để nói thêm. Polgar đối nói chuyện với Tổng
lãnh sự. Khi Spear đến nghe dây nói, Polgar bảo đảm với ông rằng nhân viên tình
báo ở Pleiku rất đáng tin cậy, ông nên cho tản cư ngay những người Mỹ. Spear
khôn khéo hỏi lại: Đây có phải là mệnh lệnh không? Spear biết rằng chỉ có
Lehmann có quyền cho phép tản cư tất cả nhân viên ở một tỉnh. Polgar vội dịu giọng
trả lời: "Không, chắc chắn không phải là mệnh lệnh, tôi chỉ muốn làm cho
anh hiểu là nếu không sớm đưa nhân viên tản cư thì sẽ mất họ. Trong trường hợp
gay go thì chỉ mấy giờ nữa, đường bay không còn dùng được".
Một lúc sau Lehmann trở về sứ quán. Nhưng cũng như Spear, ông
không muốn ra lệnh rút hoàn toàn. Ông còn nghi ngờ tin mới nhận được nhất là
Thiệu mà ông vừa từ biệt, không nói gì với ông. Cuối cùng, đến trưa, Polgar mất
hết kiên nhẫn. Ông lấy một máy bay của hãng Hàng không Mỹ và ra lệnh cho Archer
cho rút tất cả nhân viên CIA ở Pleiku, và một lần nữa ông đề nghị Lehmann cho tản
cư tất cả người Mỹ. Viện đại diện còn trù trừ nhưng cuối cùng chấp nhận ý kiến
của Polgar. Ông gọi người thư ký, đọc cho anh này một bức điện gửi Spear, trong
đó, ông đòi chấm dứt ngay hoạt động trên Tây Nguyên.
Lúc tin rút chạy của Phú tới Hoa Thịnh Đốn, những người chịu
trách nhiệm ở Lầu Năm Góc và bộ ngoại giao gọi dây nói khắp thủ đô để tìm đại sứ
Martin. Họ hy vọng ông sẽ cho họ biết cụ thể về sự kiện quan trọng này. Nhưng
Martin không có ở máy nói nào cả. ông vừa chữa răng và về nghỉ tại nhà ở thành
phố Bắc Carolina. Sau cùng, bộ trưởng bộ quốc phòng Schlesinger, gọi dây nói được
cho Martin. Sau khi Schlesinger cho Martin biết mọi chi tiết, đại sứ trả lời:
"Chắc chắn, tôi biết rõ những việc ấy. Từ lâu rồi, Phú định rút một bộ phận
tham mưu khỏi Tây Nguyên. Ngoài ra, không có gì khác". Mặc dù đã hết sức cố
gắng, Schlesinger cũng không thuyết phục được Martin để đại sứ tin rằng tình
hình nghiêm trọng hơn nhiều. Bộ trưởng quốc phòng cũng không buộc được Martin về
ngay Hoa Thịnh Đốn để theo dõi một vấn đề “không nghĩa lý gì" ấy.
Quá trưa ngày 15 tháng 3, tình hình Pleiku nguy ngập. Quân
trinh sát Bắc Việt Nam đã chặn đường đi lại ở các ngã tư phía Bắc và phía Tây
thị xã. Đạn rốc kết rơi gần sân bay. Quân của Phú chuẩn bị rút. Nhân dân địa
phương cũng làm như vậy. Buổi trưa, Thieme từ sở chỉ huy của Phú, quay về phòng
làm việc ông cho gọi ba đại diện của phái bộ quân sự công tác dưới quyền ông -
Mike Chilton, John Good và Nelson Kief - vào phòng. Vì ba người đã từng chiến đấu,
chắc chắn họ có thể giữ bình tĩnh và sáng suốt trong những giờ khó khăn đang đợi
họ. Ông đặt một trạm chỉ huy tạm thời trong phòng tiếp khách gồm có máy radio
và dây nói đặc biệt và bắt đầu gọi các nhân viên người Việt Nam, bảo họ chuẩn bị
rút đi ngay. Ông đọc đến tên người thứ ba, thứ tư gì đó thì ba đại diện nói
trên đến. Họ tổ chức nhiều đoàn xe Jeep và xe tải, cho đi khắp thị xã để nhặt
người tản cư.
Đã có lệnh cấm dân Việt Nam không được vào sân bay. Thieme hoặc
ba đại diện phái bộ quân sự phải đi kèm đưa từng xe đến một cổng vào và cho tiền
người lính gác, xe mới được qua. Cũng như tất cả các viên chức Mỹ ở Pleiku, ba
nhân viên trẻ của chi nhánh CIA địa phương (người thứ tư ở Nha Trang với
Archer) phụ thuộc vào Thieme, đại diện cao nhất của người Mỹ ở đây. Nhưng, lúc
bắt đầu tản cư, Archer ra lệnh cho họ bằng radio phải đi ngay Sài Gòn theo chỉ
thị cấp bách của Polgar. Archer nói: Họ là những nhân viên tình báo chứ không
phải là viên chức lãnh sự. Họ không phải giúp đỡ Thieme cho tản cư người Việt
Nam làm việc với USAID hay giúp bất cứ ai.
Mấy phút sau, nhân viên CIA tìm Thieme và nói cho ông biết sự
thể. Họ rất bực mình và hết sức mệt nên quên không báo cáo với Thieme về tin mới
nhận dược của một nhân viên tình báo cho hay quân của Phú đã rút chạy rồi.
Thieme chỉ biết tin này khi đến Nha Trang vào buổi xế chiều.
Ở phòng làm việc của Thieme ra, mấy nhân viên CIA đi xe hơi về
bàn giấy của mình. Họ báo cho cộng tác viên người Việt Nam biết họ rút đi và giục
họ cũng rời ngay thị xã đi ra bờ biển bằng bất cứ phương tiện nào họ có, bằng bất
cứ đường nào có thể đi được. Rồi họ vội vàng ra sân bay, xách theo thiết bị
radio cực kỳ mật. Họ đi được chuyến ban đầu tiên của hãng Hàng không Mỹ.
Khổ sở thay, trong lúc vội vàng để tự cứu, ba người đã mắc một
sai lầm có thể làm hại bất cứ nhân viên tình báo nào. Không những họ bỏ rơi các
bạn đồng nghiệp Mỹ, nhiều nhân viên người Việt Nam, mà họ quên cả việc bảo vệ
tính mạng cho nhân viên CIA kỳ cựu nằm trong những người thân cận của Phú. Hơn
nữa, họ quên hủy hồ sơ. Đến phút cuối, thật ra, họ có nhờ một cộng tác viên địa
phương kiểm tra lại bàn giấy nhưng không chắc nhân viên này tìm thấy hồ sơ và hủy
bỏ đi. Suốt buổi chiều, làn sóng máy bay vận tải hai động cơ C.46 và C.47 của
hãng Hàng không Mỹ liên tiếp đỗ xuống sân bay Pleiku, bốc đi mỗi chuyến tới
sáu, bảy mươi người. Đạt được kết quả này là nhờ “công sức” không mệt mỏi của
Thieme và ba viên chức phái bộ quân sự. Trong khi đó, một máy bay lên thẳng của
hãng Hàng không Mỹ bay đi Kontum để đón một nhóm người Mỹ và mấy người nước
ngoài.
Bốn giờ rưỡi chiều, Spear hết sức bực mình, từ Nha Trang gửi
một thông điệp radio cho Thieme, ra lệnh ngừng ngay cầu hàng không. Ông nói:
“Đây là chuyến bay cuối cùng mà trong chuyến này phải có cả Thieme”. Ông này
nhìn lại danh sách người Việt Nam đang chờ tản cư. Một máy bay không đủ khả
năng chở. Ông ta trả lời Spear: ông không thể đi trước khi có ít nhất là hai
máy bay. Spear, tuy bực mình về điều kiện ấy, cũng phái cố gắng thu xếp.
Một giờ sau, khi Thieme lên máy bay, cổng sắt của sân bay bị
gãy vì đám đông ở ngoài trèo qua. Bên đường bay, lính đánh nhau. Nhưng trong
lúc máy bay cất cánh, và lượn trên đầu đám lộn xộn ấy, Thieme và các bạn đồng
nghiệp trong phái bộ quân sự có đủ lý do để bằng lòng với mình. Trong bốn giờ
rưỡi, họ đã cứu được hơn 450 người, trong đó có nhiều nhân viên người Việt Nam
làm việc cho USAID và đưa họ đi Nha Trang.
Suốt buổi chiều dài vô tận, quân của Phú rút chạy khỏi Pleiku
và Kontum hết sức lộn xộn. Bản thân cuộc rút chạy như một trò trẻ con. Các đơn
vị phải đi theo quốc lộ số 14, phía Nam Thành An, Ở đấy, rẽ về phía Đông, đi
theo đường về 7B đến Phú Bổn và ra bờ biển. Nhưng tướng Tất, người điều khiển
cuộc rút chạy, gây rối ren thêm cho một việc đơn giản. Ông quên cả việc chuẩn bị
sơ đẳng nhất. Không ai có thể đi điều tra tình hình đường 7B. Không có phương
tiện gì để chuyên chở hàng nghìn người dân chắc chắn sẽ kéo theo quân đội. Do
đó, lính và dân chen chúc, trộn lẫn với nhau, còn xe tăng và xe bọc thép chở nặng
thì lại dẫn đầu. Không chịu nổi sức nặng, đường bộ lún, bị phá. Một đoàn gồm
hai nghìn xe hơi, xe Jeep, xe vận tải nhanh chóng ngập trong một con sông bùn.
Về phía sĩ quan cao cấp thì chỉ nghĩ đến vị trí độc lập của mình, từ chối không
đáp ứng những lời kêu gọi khẩn cấp của y tế hay không trả lời những tiếng kêu
xin yểm trợ của các đại úy hay trung úy lục quân.
Về phần chúng tôi, suốt buổi chiều, chúng tôi ở trong phòng
Polgar theo dõi cuộc rút quân. Chúng tôi được chứng kiến cuộc chạy trốn lộn xộn
qua những tin tức radio và báo cáo của máy bay trinh sát. Polgar kêu lên:
"Đây là cuộc diễu hành của một đám xiếc phát điên! Voi đi trước, những người
khác mặc sức lội trong bùn". Hình ảnh đúng. Tối đến, Thiệu mệt mỏi và chán
nản, nghĩ đến việc tìm những con vật hy sinh. Phú không hiểu ông ta. Những người
Thượng Ở Buôn Mê Thuột phản lại ông ta. Thiệu làm bản báo cáo thực trạng dựa
vào một bản báo cáo vừa nhận được nói rằng quân địa phương (người Thượng) đã bỏ
vị trí ngay từ đầu cuộc tiến công Buôn Mê Thuột để bảo vệ nhà riêng chống lại
lính Nam Việt Nam đào ngũ đi cướp bóc. Thiệu khẳng định đó là nguyên nhân chính
gây nên tình hình bi đát ở Tây Nguyên. Tối đến, khi rời Dinh Độc Lập, Thiệu ra
lệnh cho thuộc hạ tìm mọi cách làm rõ chuyện phản bội của người Thượng. Một lúc
sau, cảnh sát bắt một nhà báo Pháp tên là Paul Leandri vì anh đã viết trong một
bài rằng: “Thực tế, người Thượng tham gia tiến công Buôn Mê Thuột. Leandri, một
người Corse , từ chối không trả lời các câu hỏi, ngay cả khi anh được dẫn đi sở
chỉ huy cảnh sát quốc gia, ở giữa thành phố. Trái lại, anh còn chửi mắng cảnh
sát.
Tiếp đó, anh phạm một sai lầm nghiêm trọng là chạy ra cửa
ngôi nhà. Khi anh sắp mở cửa xe thì một cảnh sát đã hạ anh bằng một phát đạn
vào đầu.
Đại sứ Pháp nổi giận lôi đình khi được tin sự việc này và
chính Polgar nửa đêm về sáng được gọi đến sứ quán để hòa giải giữa người Pháp
và cảnh sát.
Sáng hôm sau, Thiệu còn nhiều việc để làm hơn là nghĩ đến cái
chết của Leandri hay sự phản đối của sứ quán Pháp. Dòng người đi tản cư ở
Pleiku và Kontum bị chặn lại phía Tây Phú Bổn. Tình hình cũng tồi tệ ở những
vùng khác. Phía Tây tỉnh Bình Định, ở giữa ven biển, quân địch liên tiếp đánh thắng
quân chính phủ . Trong đêm, chiến tranh lan tới tỉnh Tây Ninh, phía Tây Bắc Sài
Gòn, và nhiều đơn vị khác của quân đội Bắc Việt Nam uy hiếp mạnh con đường nối
Sài Gòn với Đà Lạt, phía Nam Quân khu II.
Đế bảo vệ miền phụ cận Sài Gòn, Thiệu ra lệnh cho không dân
ném bom những nơi tập trung quân và thiết bị của Bắc Việt Nam ở biên giới
Campuchia, phía Bắc Sài Gòn. Ông cũng điện cho tướng Trưởng, tư lệnh Quân khu
I, bắt đầu chuyển sư đoàn dù về, đưa ngay cả sư đoàn tới Sài Gòn.
Sớm ngày 16 tháng 3, Earl Thieme uống tách cà phê thứ hai ,
và xin một máy bay lên thắng đi Pleiku, ông ngủ đêm tại sân bay của hãng hàng
không Mỹ ở Nha Trang, để gọi dây nói cho những người còn ở lại Pleiku.
Ở Pleiku, cảnh tượng không ngờ diễn ra trước mắt Thieme và
phi công. Đường phố chính là một dòng sông đầy người sợ hãi và khi bay trên thị
xã, họ có cảm giác là hàng nghìn con mắt chăm chú theo dõi chiếc máy bay nhỏ bé
UH-I của hãng Hàng không Mỹ.
Hơn hai trăm người Việt Nam đứng chung quanh bàn giấy của
Thieme sau khi máy bay lên thẳng hạ xuống sân. Thieme nhanh chóng lọc những
nhân viên của mình ra, giơ súng tự động lên để đuổi những người còn lại. Ông gọi
radio về Nha Trang xin máy bay, cho nhân viên lên xe vận tải và cố mở một đường
qua thị xã đầy người chạy trốn về phía sân bay. Một máy bay vận tải C 46 của
hãng hàng không Mỹ vừa hạ cánh một cách nặng nề. Nó đang lướt trên đường băng đầy
lính và dân. Cho rằng đây là chiếc máy bay của ông vừa xin, Thieme vội nhảy ra
và nắm lấy nắm đấm cửa máy bay. Người phi công giảm tốc độ, lợi dụng đường
băng, đổ xuống sân bay quân sự. Thieme tức giận gọi radio cho Nha Trang đòi giải
thích. Họ trả lời ông: Chiếc máy bay C.46 này đặc biệt dành riêng để chở một sĩ
quan cao cấp Nam Việt Nam. Đó là nhân viên tình báo CIA nằm ở bộ tham mưu của
Phú mà hôm trước đã bỏ quên lại.
Một lúc lâu sau, một máy bay vận tải khác của hãng Hàng không
Mỹ tới để chở Thieme và những người giúp việc ông. Ông vừa chạy đến thì lính Việt
Nam vũ trang đã bao vây ông. Viên phi công gọi về Nha Trang, báo tin phải chở
nhiều người vì lính giơ súng ra dọa. Thieme hiểu ngay rằng không thể lên máy
bay này được Liền vội chạy đến một máy bay lên thẳng của hãng Hàng không Mỹ đậu
ở xa. Được viên phi công giúp, ông kéo được mấy nhân viên thân cận lên máy bay
trước khi đám người đến uy hiếp.
Bình thường chủ nhật là ngày nghỉ. Nhưng vì tình hình phát
triển nghiêm trọng khắp cả nước nên Polgar ra lệnh tất cả nhân viên đều phái đến
làm việc, ít nhất là buổi sáng. Khi soạn những tin nhận ban đêm, ông đọc được một
bản làm ông buồn cười hết sức. Báo chí Hoa Thịnh Đốn viết rằng bộ trưởng bộ quốc
phòng Schlesinger công khai tuyên bố không có khủng hoảng ở Việt Nam. Polgar chế
giễu cái mà bộ trưởng quốc phòng gọi là khủng hoảng bằng những lời không thể viết
ra được.
Những tin tức đáng chú ý nhất không phải từ Hoa Thịnh Đơn hay
Nam Việt Nam mà từ Campuchia, bên kia biên giới theo một tin tức của sứ quán
Phnôm Pênh, đại sứ Dean vừa quyết định tản cư nhân viên không cần thiết. Tin
này nói rõ hơn bất cứ tin nào khác, sự yếu kém của chúng ta và của chính sách đối
ngoại Mỹ.
Buổi chiều, tôi dự thảo cho Polgar một bản tường trình về hậu
quả của việc rút bỏ Tây Nguyên. Về mặt lịch sử, cuộc rút chạy này không để lại
một điều gì tốt. Nó làm nhớ lại cuộc rút lui của quân Pháp khỏi Kontum năm 1954
đánh dấu bước đầu việc chấm dứt chế độ thực dân Pháp. Ở phía Nam nước Việt Nam,
cũng như chiến thắng của cộng sản ở Điện Biên Phủ, mấy tháng sau, mở đầu cho sự
cáo chung này ở phía Bắc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà chiến lược bậc thầy của
Việt Minh, trước đây đã viết rằng: “Người nào kiểm soát được Tây Nguyên thì nắm
được chìa khóa của Đông Dương”. Ý kiến này được thực hiện. Thật vậy, hệ thống
đường sá ở vùng này là những con đường lý tưởng cho việc đi lại giữa miền Bắc
và miền Nam Việt Nam, đồng thời vùng này cũng là một bậc nhảy hoàn hảo cho một
cuộc chiến tranh chớp nhoáng tiến ra bờ biển.
Tuy nhiên, như mọi người ở sứ quán, tôi muốn tỏ ra là vẫn còn
một hy vọng. Trong bản tường trình tôi viết rằng nếu một trong sáu sư đoàn chạy
từ Kontum và Pleiku tới được bờ biển mà không gặp một tai nạn nào, thì Sà Gòn
có thể biến cuộc rút lui này thành một chiến thắng có thể so sánh với chiến thắng
Dunkerque.
Polgar lắc đầu khi đọc đến đoạn này: "Anh cố pha
li-mô-nát với chanh. Để chờ xem những đội quân ấy ra sao đã trước khi đi đến chỗ
lạc quan". Sự khôn ngoan của ông đúng.
● Hộp đen
Al Francis, người con đỡ đầu của Martin được bổ nhiệm làm Tổng
lãnh sự ở Đà Nẵng từ mùa Thu năm 1974. Đầu tiên ông ra lệnh xem lại kế hoạch tản
cư của lãnh sự quán. Viên chức chịu trách nhiệm việc này đưa ra một bản thuyết
trình 30 trang. Trong những giải pháp dự kiến, giải pháp cao nhất là xin một cầu
hàng không bằng máy bay lên thẳng, xuất phát từ sân bay, có lính Mỹ bảo vệ. Giải
pháp này Al Francis không thể thực hiện được. Ông nói với tôi sau khi Sài Gòn
thất thủ: ông tường rằng người Mỹ có thể nhờ các nhà chức trách địa phương giúp
đỡ, ngay cả khi phải tản cư triệt để!
Kế hoạch như thế phải xét lại hai lần trong những tháng sau.
Francis vẫn chưa bằng lòng - không thể dự kiến nhiều điều được - nhưng ông cho
là xét đi, xét lại sẽ làm cho nhân viên quan tâm đến vấn đề tản cư hơn. Tháng
1, lúc ông về nghỉ ở Hoa Thịnh Đốn ông không hề nghĩ rằng phải sớm duyệt lại một
lần nữa. Như ông tuyên bố với người nào muốn nghe ông, ông chắc là chính phủ
Sài Gòn vẫn còn có thể sống sót được mặc dù viện trợ của Hoa Kỳ đã giảm đi.
Trong thời gian nghỉ, mỗi tuần, ông đến bộ ngoại giao hai, ba
lần, đọc tin điện gửi về để nắm tình hình. Đầu tháng Hai, lúc ông trở lại Sài
Gòn, ông có vẻ biết rõ vấn đề và tỏ ra sốt ruột trước không khí làm việc uể oải.
Nhưng hôm sau, ông mắc bệnh nặng phải đưa ngay về Hoa Thịnh Đốn bằng máy bay y
tế. Một tháng sau, ông bình phục thì Tây Nguyên đã mất, những đơn vị dù rút khỏi
Quân khu I, và quân bảo vệ Huế bị đánh tan tác.
Giữa lúc ấy, bà Terry Tull, người phó của Francis ở Đà Nẵng,
nữ viên chức cao cấp duy nhất của bộ ngoại giao ở nước này, đã bắt đầu cho rút
nhiều nhân viên lãnh sự quán ở quân khu I. Quân đội Bắc Việt Nam tiến từng bước
một đến các thị xã, bà chú ý tìm mọi cách để bảo vệ tính mạng cho người Mỹ hay
người Việt Nam do bà phụ trách.
Nhưng phải đối phó với một vấn đề chính trị quan trọng:
Lehmann tiếp tục thay Martin ở Sài Gòn, chỉ thị cho bà không được làm gì có thể
gây cảm tưởng rằng sự cam kết của người Mỹ đối với người Nam Việt Nam đã yếu
đi. Nhận thấy một cuộc tản cư triệt để ở các tỉnh này sẽ gây cảm tưởng đó, bà
đưa ra một quyết định nửa vời. Đáng lẽ đóng cửa hoàn toàn những lãnh sự quán ở
sát mặt trận thì bà ra lệnh chỉ rút phần lớn nhân viên ở những nơi này; khi xảy
ra cuộc tiến công, một, hai máy bay lên thẳng có thể hoàn thành cuộc tản cư. Giữa
tháng 3, bà khuyên các nhân viên CIA và bộ ngoại giao còn lại tại Huế đêm về ngủ
tại Đà Nẵng, cách Huế 80 kilômét về phía Nam.
Nhiều đồng nghiệp của bà cũng vịn vào đó mà phê phán. Nhân
viên CIA ở địa phương, một Hoa kiều đứng tuổi, tôi tạm gọi là Phillip Custer,
lên án bà là đi quá trớn!
Mùa hè trước khi ông đến đây, Custer tỏ ra là một người hăng
hái bảo vệ quân đội Nam Việt Nam - hăng đến mức ông ta tưởng bây giờ là người của
quân đội. Khi Tull nêu ra việc giảm bớt nhân viên lãnh sự quán, Custer tỏ ra
không đồng ý. Ông nói với các người giúp việc: Tướng Trưởng sẽ giữ được vùng
này rất vững.
Công bằng với Custer thì phải nói rằng, những tin tức ông ta
dựa vào để nhận định còn xa mới hoàn chỉnh. Không một ai trong chúng tôi biết
rõ những lệnh khác nhau và mâu thuẫn nhau do tướng Trưởng nhận được từ Sà Gòn,
và ngay những kẻ bi quan nhất cũng gặp khó khăn để dự đoán rằnglực lượng quân
khu I sẽ tan tác trong hai tuần tới. Đối với người lạc quan như Custer, việc đó
chỉ đơn giản là không thể tưởng tượng được.
Tuần thứ ba tháng ba, khi Fancis trở lại Đà Nẵng, ông triệu tập
sáu viên chức, ra lệnh cho họ, một lần nữa xem lại kế hoạch tản cư của lãnh sự
quán. Ông gọi nhóm sáu người này là cái “hộp đen" nhỏ của ông (đen thay
cho mật) và giao cho một nhân viên mới của CIA chịu trách nhiệm điều chỉnh lại
kế hoạch cho hợp lý.
Nhân viên CIA này đủ sức làm việc đó. Ngoài 50 người Mỹ làm
việc ở lãnh sự quán - một nửa là của CIA - còn hàng trăm người Mỹ ở Đà Nẵng, từ
những người làm việc có hợp đồng đến những lính Mỹ đào ngũ, phải đưa đi tản cư.
Hơn một nghìn nhân viên người địa phương cũng được ghi vào danh sách nhân viên
lãnh sự quán, cộng với gia đình, bạn bè thân thiết và bố mẹ họ, như thế là đưa
tổng số người phải tản cư đến ít nhất mười nghìn người. Mặc dù vấn đề lớn như vậy,
chỉ một buổi chiều nhân viên CIA đã làm được một kế hoạch tản cư dài có hai
trang rưỡi. Ông dự kiến tản cư làm nhiều giai đoạn, vừa bằng đường không, vừa bằng
đường thủy. Thuyền máy và tàu nhỏ ngược sông Hàn đón những người tản cư ở những
nơi đã qui định, còn tàu lớn đón ở ven đê, ngoài thành phố, một số người khác sẽ
đi bằng máy bay của hãng Hàng không Mỹ hoặc máy bay thuê, đổ xuống những bãi ở
phía Tây thành phố hay sân bay quân sự gần núi Ngũ Hành. Cuộc tản cư phải tiến
hành từ từ và yên lặng trong khoảng ít nhất một tuần để người Việt Nam khỏi hoảng
sợ.
Ý nghĩa thành lập “hộp đen", cử những chuyên gia rỗi rãi
nghiên cứu một vấn đề cực kỳ phức tạp, có vẻ là một sáng kiến bậc thầy. Nhưng
giữa thời chiến, việc tản cư cả một lãnh sự quán gặp nhiều khó khăn, không thể
thực hiện được theo một giải pháp bàn giấy quan liêu, dù giải pháp ấy có tốt đến
mấy. Do đó, dù Francis có cẩn thận đến đâu thì những biện pháp ông đưa ra đều
nhanh chóng thất bại.
Đầu tiên là người lính già nào trong số nhân viên của ông
cũng muốn tham gia nhóm "hộp đen". Chỉ một đêm, nhóm "hộp
đen" chỉ có mấy người, trở thành một trung đội cồng kềnh gồm 25 người. Bản
thân việc phân tích tình hình của Frạncis cũng là một trở ngại. Từ ngày ốm, ông
biết rất ít tin tức, ông định hỏi ý kiến đại sứ về những vấn đề quan trọng. Dù
Martin có khẳng định là người Nam Việt Nam vẫn có hy vọng thì Francis cũng chỉ
sẽ là người cuối cùng nói ngược lại.
Ngoài ra, cũng còn một vấn đề chiến thuật nữa. Mấy ngày trước
Lehmann khuyên ông: "Đừng làm gì để người Việt Nam phải tức giận: Sự bền bỉ
của người Mỹ phải là tấm gương cho họ". Francis lấy đó làm châm ngôn và
ông quyết định hành động theo yêu cầu của cấp trên.
Sau khi thành lập nhóm “hộp đen", ông ngả theo chiều hướng
để cho sự việc xảy ra. Ông không phải là người duy nhất như thế. Custer không
bao giờ hoàn thành được việc làm kế hoạch tản cư nhân viên Việt Nam dưới quyền
ông và cũng tỏ ra chậm chạp trong việc chuẩn bị cho nhân viên người Mỹ ra đi.
Chỉ đến lúc đối phương đã ở bên hàng rào lãnh sự quán rồi, người ta mới đốt hồ
sơ mật!
Ngoài tinh thần thiếu trách nhiệm của những người phụ trách
coi ý kiến của mình là thực tế, còn một trở ngại nữa: sự tin cậy quá đáng vào
quân đội Hoa Kỳ. Trước đó, một ê kíp của hạm đội 7 đã đến Đà Nẵng để nghiên cứu
kế hoạch tản cư. Hải quân Mỹ hứa sẽ cho một đoàn máy bay lên thẳng đến khi cần
thiết. Nhưng mấy ngày sau, sau khi trao đổi điện với hải quân, Francis mới biết
là không có chuyện ấy nữa. ông phải giải quyết một mình.
Người Bắc Việt Nam cũng có sự chậm chạp như người Mỹ, nhưng họ
giải quyết nhanh. Mấy ngày trước khi nhân viên tình báo nằm trong giới thân cận
trực tiếp với Thiệu gửi cho họ bản tin mới giật gân: toàn văn biên bản hội nghị
về chiến lược mới "cố thủ” của chính phủ Nam Việt Nam. Họ phải thảo luận
ngay những việc cần làm. Ngày 20 tháng 3, Bộ Chính trị gửi cho tướng Dũng bản
nhận định tình hình như ông viết trong hồi ký: "Thắng lợi to lớn của ta vừa
qua có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu một bước ngoặt mới trong cuộc chiến tranh ở
miền Nam, đánh dấu sự phát triển rất mới trong cục diện chung, một bước suy sụp
mới của Mỹ - ngụy. Địch đang có ý đồ thực hiện chiến lược co cụm qui mô lớn nhằm
tập trung lực lượng ở vùng Sài Gòn và một phần đồng bằng sông Cửu Long, có thể ở
Đà Nẵng và Cam Ranh nữa, hòng tạo một thế tương đối vững để đi đến một giải
pháp chính trị hoặc liên hiệp, hoặc chia cắt miền Nam. Vì vậy ta cần tranh thủ
thời gian cao độ, hành động khẩn trương, hết sức bất ngờ về thời gian, phương
hướng, lực lượng và táo bạo, đồng thời bảo đảm chắc thắng. Theo tinh thần đó, Bộ
Chính trị cân nhắc mọi mặt và thực hiện phương án giải phóng Sài Gòn sớm hơn dự
kiến.
Polgar thấy sự lộn xộn ở Quân khu I, quyết định tự mình đề ra
những giải pháp để bảo đảm an ninh. Sáng ngày 22 tháng 3, ông cho một máy bay đặc
biệt của hãng Hàng không Mỹ ra Đà Nẵng, chở nhiều hòm và vật liệu đóng gói để
Custer cho chuyển một phần hồ sơ của các nhân viên đi. Francis, tiếp tục trấn
an người Việt Nam, nói với những nhân vật chính trị địa phương và binh lính rằng:
quân đội có thể cầm cự được. Ông cũng cố làm cho giới báo chí hiểu như thế. Chiều
22, ông thân hành dẫn một đoàn gồm 12 nhà báo họp ở Đà Nẵng ra Huế. Ông nói: Huế
vẫn là một nơi chắc chắn và cố thủ được, mặc dù có nhiều tin đồn ngược lại. Ở
phía Nam Huế, gần Phú Lộc. Chỉ một trận, họ đạt được mục tiêu: chặn sư đoàn 1
quân Nam Việt Nam không còn đường về Đà Nẵng. Trận đánh càng lớn càng gieo rắc
thêm sự sợ hãi trong những làn sóng người tị nạn rải khắp dọc đường. Trong vài
giờ, hàng nghìn người đổ ra cảng nhỏ Tân Mỹ, nơi Trưởng định dùng để tản cư sư
đoàn 1. Mọi con đường đi ra bến này đầy người đi lại. Tàu Việt Nam chờ dưới biển
để chở quân đội và súng ống, bắt đầu chở dân đang hoảng sợ, thay cho thiết bị
quân sự. Đường chính bị cắt, bến không ra được. Máy bay lên thẳng Nam Việt Nam
định hạ cánh xuống cứu lính nhưng pháo binh Bắc Việt Nam rót xuống sân bay.
Gần một giờ sau, nổ ra sự rối loạn ở chợ Đông Ba giữa thành
phố. Nhân dân quá sợ hãi tranh nhau giành xe tắc xi và xe lam để chạy ra bờ biển.
Quân Bắc Việt Nam cũng tiến công phía Nam Đà Nẵng, tiến gần đến Quảng Ngãi và
căn cứ không quân Chu Lai. Họ bắn hàng loạt đạn rốc két và đại bác. Nhân dân ở
các nơi này cũng chạy như nhân dân thành phố Huế ra cảng Tân Mỹ, tranh nhau tiến
ra bờ biển.
Trong vài giờ, cả sư đoàn 2 quân Nam Việt Nam biến thành một
dòng lộn xộn, vô kỷ luật gồm mười nghìn người, sĩ quan cũng như binh lính chỉ
có một ý nghĩ trong đầu : cùng gia đình chạy trốn .
Suốt buổi sáng, tướng Trưởng nói chuyện bằng radio với Thiệu
báo tin thảm hại: Huế bị bao vây, sư đoàn 1 đang nguy khốn cực kỳ. Ông không
còn lực lượng để mở đường trên quốc lộ số 1, phía Nam Huế, ở đây quân Bắc Việt
Nam chắc chắn có hai sư đoàn. Ông phải bắt đầu cho tản cư ra bờ biển những người
còn lại của sư đoàn 1. Còn có thể giữ Huế một lúc nữa, nhưng với giá thật đắt.
Phải hy sinh một phần sư đoàn 1, chỉ là để tranh thủ thời gian.
Thiệu không phản đối gì. Ông chỉ còn một biện pháp: cho sư
đoàn dù ra tiếp viện nhưng con an ninh của Sài Gòn nên ông ta để mặc Trưởng
hành động. Giữa lúc Trưởng nói với Thiệu thì lực lượng của ông ta dùng để thực
hiện kế hoạch đang tan rã. Giữa chiều, chỉ còn một đơn vị duy nhất, lữ đoàn 147
lính thủy đánh bộ, đóng tại một vị trí ở phía Bắc Huế. Trường không muốn hy
sinh đơn vị này vì đó là một đơn vị thiện chiến! Ông ta ra lệnh cho rút tất cả
các đơn vị còn ở chung quanh Huế, lính thủy cũng như lính của sư đoàn đang chạy
rải rác.
Vì bến Tân Mỹ đã đầy ứ người. Trưởng quyết định cho lính thủy
và những lính chậm chạp khác chạy về phía Nam, dọc bán đảo Vĩnh Lộc, một dải
cát song song với đất liền. Chạy lối này có thể vượt qua nơi quân Bắc Việt Nam
đang chốt và tiến ra quốc lộ 1 bên trong đèo Hải Vân, rồi từ đó chạy thẳng về Đà
Nẵng. Cản trở thiên nhiên duy nhất là một khoảng sông rộng, từ đầu bán đảo vào
đất liền. Công binh hải quân đang làm cầu bắc qua. Nhưng Ở Đà Nẵng, tình hình
căng thẳng mỗi lúc một tăng, đã có hàng nghìn người tị nạn khắp thành phố.
Hãng Hàng không Việt Nam của chính phủ cho bay thêm nhiều
chuyến để chở những. người mới đến ra khỏi thành phố, trong khi đó, sứ quán Mỹ
thuê máy bay tư của hãng Hàng không thế giới để làm việc này. Đúng trưa ngày 23
tháng 3, Francis tuyên bố trước lãnh sự quán phải sẵn sàng trở thành một vị trí
chiến đấu: ông muốn đề phòng cẩn thận trong trường hợp Đà Nẵng bị bao vây. Viên
chức được ông giao cho sắp xếp kế hoạch là một thanh niên khỏe mạnh của CIA,
tôi đặt tên là “Ron Howard". Anh là nhân viên chuyên môn về nhận định tin
đầu tiên công tác ở nước ngoài. Anh muốn được lòng cấp trên nên vui vẻ nhận nhiệm
vụ này, chạy khắp lãnh sự quán, cất giấu những khẩu phần thức ăn loại C vào những
xó xỉnh không thể ngờ tới. Thí dụ trong đống lốp xe chất ngoài hành lang. Anh
tìm thấy một lô đồ hộp cũ, đã gỉ, liền phân phát cho các nhân viên người Việt
Nam trong lãnh sự quán. Anh nghĩ rằng có thêm thức ăn họ sẽ bớt tức giận hơn
khi biết tin thành phố bị bao vây. Các phòng làm việc trở thành chỗ tạm trú của
nhân viên người Việt Nam mới từ Huế và những vùng lân cận chạy đến, anh cố thu
xếp cho họ có thêm tiện nghi. Anh biết rằng sự an toàn của bản thân anh phụ thuộc
vào họ.
Sớm hôm sau, tướng Viên đến gặp Thiệu ở dinh tổng thống, báo
cho Thiệu biết những tin cuối cùng về Huế. Sư đoàn 1 đã hoàn toàn tan rã, hàng
nghìn binh lính vứt vũ khí đi để chạy thoát thân ra bờ biển cùng với gia đình.
Một giờ sau, Trưởng công nhận sự thật ấy bằng radio. Ông nói thêm Huế không thể
chống đỡ được quá một ngày. Để giảm bớt sự đổ máu, ông ta xin phép bỏ ngay
thành phố. Khi Thiệu nghe tin ấy, ông ta nổi giận lôi đình hơn bao giờ hết. Đi
lại trong phòng làm việc, giữa các cố vấn, ông lên án tư lệnh Quân khu I là
mang tư tưởng thất bại chủ nghĩa, phải chịu trách nhiệm về sự tan rã của sư
đoàn 1, sẽ bị nghiêm phạt. Nhưng tất cả chuyện đó chỉ là đóng kịch. Thiệu biết
rõ rằng mặc dù ông ta hy vọng không xảy ra, phải bỏ Huế ngay tức khắc.
Sáng 24, pháo binh Bắc Việt Nam không ngừng tiến công vào ngoại
ô Huế. Thoạt đầu, lữ đoàn lính thủy đánh bộ số 147 và những lính sống sót của
sư đoàn 1 chạy ra bán đảo Vĩnh Lộc. Đi từ sớm nên họ tránh được hàng nghìn người
tị nạn ở phía Đông Huế. Một số lính bỏ giầy, lội xuống nước, ven bờ biển như
người đi tắm chiều thứ bảy. Nhưng gần một giờ sau, tin họ chạy trốn truyền khắp
thành phố. Nhiều người dân đánh họ. Trong khi đó, lực lượng Bắc Việt Nam kéo đến
chặn đường. Khi quân thủy bộ và một số binh lính sống sót của sư đoàn 1 tới cảng
Tân An, gần mỏm bán đảo thì pháo binh Bắc Việt Nam bắn trúng chiếc cầu đang làm
dở. Cầu tan tành thành từng mảnh. Bị bao vây, tiến thoái lưỡng nan, quân của
Trưởng trở thành mục tiêu của pháo binh Bắc Việt Nam.
Nhận được lời kêu cứu đầu tiên: tướng Trưởng vội lệnh cho các
tàu còn rỗi chạy tới bãi biển đón binh lính thất trận. Trong khi những tàu nhỏ
chở họ qua sông nước thì những người còn lại trên bãi, mặt cắt không còn giọt
máu. Binh lính đánh lẫn nhau, binh lính vật lộn với dân thường để tranh xuống
tàu trước. Mạnh ai nấy chạy.
Ở phía Nam, tình hình trên bãi biển Quảng Ngãi và Chu Lai
cũng thế. Binh lính sư đoàn 2 vật lộn với dân thường để tranh một chỗ hiếm hoi
trên một vài tàu đánh cá chưa ra khơi. Quá trưa, thị xã Quảng Ngãi và căn cứ
không quân Chu Lai không còn gì để bảo vệ.
Tin thảm họa trên càng lan rộng ra Đà Nẵng thì lòng tự tin của
Francis càng xẹp. Tinh thần dân chúng căng thẳng một cách đáng sợ. Phải làm gì
đây để trấn an. Đừng để cho sự căng thẳng này lan sang đám binh lính của Trưởng.
Giữa buổi sáng, Francis gửi một điện về Sài Gòn đề nghị mở một cầu hàng không
có thể chuyên chở 40.000 người tị nạn.
Gần một giờ sau, chuyến máy bay đầu tiên của hãng Hàng không
thế giới hạ cánh xuống sân bay chính. Hơn một trăm người tị nạn được chất lên
và chở đi Cam Ranh, nơi được chọn làm nơi tập kết của họ. Cùng lúc ấy, ở Sài
Gòn, tướng Smith và các sĩ quan của ông cho tập trung những tàu kéo, ca nô để
chở quân lính Nam Việc Nam và thiết bị quân sự ở Quân khu I. Ở sứ quán và ở Hoa
Thịnh Đốn đến lúc bấy giờ còn cãi nhau xem phái bộ quân sự có quyền hợp pháp
tham gia việc cứu nguy cho quân đội Huế không. Sợ rằng hành động như thế sẽ vi
phạm luật của quốc hội cấm quân đội Mỹ không được dính líu một lần nào nữa vào
cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Để tránh khó khăn, họ quyết định chỉ sử đụng tàu
nhỏ và máy bay dân sự.
Người Bắc Việt Nam cũng thảo luận nhưng họ nhất trí nhanh và
đi đúng hướng. Như tướng Dũng viết trong hồi ký: "Ngày 25 tháng 3, Bộ
Chính trị lại họp. Phiên họp lịch sử ấy khẳng định: cuộc tổng tiến công chiến
lược của ta đã bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã đến,
ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam, Bộ Chính trị chủ
trương tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng
Sài Gòn trước mùa mưa. Nắm thời cơ địch đang rút lui chiến lược, tiêu diệt và
làm tan rã Quân đoàn I địch và đại bộ phận Quân đoàn II, không cho chúng rút về
cụm lại chung quanh Sài Gòn".
Nghị quyết tuyệt mật này đã được điện cho tướng Dũng, lúc bấy
giờ sở chỉ huy vẫn còn ở gần Buôn Mê Thuột. Ban lãnh đạo Hà Nội vừa thông qua
nghị quyết quan trọng nhất trong thời kỳ chiến tranh. Nghị quyết này - chiến thắng
hoàn toàn ngay năm 1975 - chưa hề được thảo luận trong các buổi họp tháng 12
năm 1974 và tháng 1 năm 1975 của Bộ Chính trị, nay có một mục tiêu cụ thể. Nghị
quyết này cũng gây ra nhiều chuyện phức tạp và quan trọng. Phải tiêu diệt Quân
đoàn I, lại phải giải phóng ngay Đà Nẵng và Huế.
Ngày 21 tháng 3, khi Kissinger trở lại Hoa Thịnh Đốn, ông tỏ
ra hết sức lạnh lùng. Chính sách của ông ở Trung Đông sa lầy, cuộc khủng hoảng ở
Đông Dương ngày càng nghiêm trọng và Graham Martin, người được ông chọn để theo
dõi sát tình hình lại không có ở nơi cần có mặt, mà lại đang ở Mỹ để chữa răng!
Nguy hơn nữa là Martin có vẻ không hiểu rõ những vấn đề xảy
ra ở Việt Nam trong lúc ông vắng mặt. Ông chỉ đồng ý rời nhà ở Bắc Carolina, đến
Hoa Thịnh Đốn sớm trước vài ngày, mà ông đến đây chỉ là để bác bỏ những tin bi
đát ớ mặt trận. Ông tỏ vẻ không còn tin tưởng gì Francis, người con đỡ đầu nữa.
Sau khi đọc một bức điện đặc biệt buồn thảm từ Đà Nẵng gởi tới,
Martin nói không thương tiếc: "Bệnh của Francis lại tái phát và gây cho nó
nhiều mắc mớ đấy!”
Lòng tin của Martin đối với sự nghiệp của Mỹ ở Việt Nam, chỉ
do sự không hiểu biết của ông về những sự kiện đang xảy ra. Như ông vẫn nhắc lại
với những người bi quan ở Hoa Thịnh Đốn, việc mất phần Bắc của Nam Việt Nam là
một ơn của các đấng thiên thần. Về mặt kinh tế, phần đất ấy chưa bao giờ phát
triển, trái lại đã ngấu bao nhiêu của cải của chính phủ. Phần đất còn lại giàu
có hơn rất nhiều, về mặt chính trị sống động hơn và cũng vững chắc hơn. Bảo vệ
phần đất này sẽ dễ dàng hơn. Một số người thấy luận điểm của Martin rất chướng
tai nhưng ông này cũng có nhiều đồng minh. Những người nhận định tình hình của
CIA và Lầu Năm Góc vừa hoàn thành một bản báo cáo về tình hình Việt Nam mà ông
có thể trở thành tác giả. Tuy chấp nhận việc mất vĩnh viễn những vùng quan trọng
ở Quân khu I Quân khu II, nhưng họ lại viết rằng: Quân đội chính phủ ở những
vùng khác của nước này đủ mạnh để lập một phòng tuyến bảo vệ phía Bắc Sài Gòn
cho đến tháng 5, bắt đầu mùa mưa, một việc mà bộ tổng tư lệnh Nam Việt Nam chắc
sẽ ngừng lại vì thời tiết xấu và lúc bấy giờ chính phủ có thể đủ thời gian
trang bị lại, tập trung quân đội, thậm chí nối lại cuộc đàm phán với tương quan
lực lượng ngang nhau.
Trong số những người nhận định trẻ của CIA, có nhiều người muốn
nhấn mạnh phía bi quan của bản báo cáo nhưng Polgar bác bỏ, gạch đít bằng bút
chì những đoạn cuối.
Về phần bộ trưởng quốc phòng Schlesinger, ông đi đến kết luận
rằng: một sự lạc quan như thế, dù có chừng mực đến mấy , cũng có một sự lố bịch.
Đó là điều ông nói không úp mở với các đồng nghiệp. Việc ông muốn làm là chuẩn
bị ngay để cho tản cư tập thể người Mỹ ở Việt Nam cũng như đang làm việc ở
Campuchia. Nhưng trước đây, vì ông thường phản đối Kissinger nên nay ít có hy vọng
gây ảnh hưởng với Nhà Trắng để có quyết định trên.
Trong giới quân sự, một số người tỏ ra bi quan hơn. Phần đông
quan chức cao cấp cơ quan tình báo quân đội đồng ý với Martin về sự sống động của
phần Việt Nam còn lại. Trong khi đó, bên kia bờ sông Potomac, tệ quan liêu bàn
giấy của bộ ngoại giao đã chơi cho Martin một vố. Vì không có ai được phép hành
động thay Kissinger trong thời gian ông đi Trung Đông, nên những cơ quan phụ
trách vấn đề Việt Nam đều không làm gì được. Tại Phnôm Pênh, đại sứ Dear tiếp tục
gửi về Hoa Thịnh Đơn cơ man nào tin tức khủng khiếp, so với những tin này thì bản
báo cáo về Việt Nam quá tẻ nhạt. Trên chương trình nói chuyện hàng ngày của bộ
phận Viễn Đông, tin tức của Sài Gòn thường xếp ở hàng thứ hai hoặc thứ ba. Có một
số chuyên gia ở bộ ngoại giao cho là người ta đã cố thu nhỏ vấn đề Việt Nam lại
một cách nguy hiểm, nhưng họ chỉ là cán bộ cấp thấp trong bậc thang hành chính
nên không ai nghe họ. Hoặc là họ giải thích, trình bày chưa rõ ràng nên chưa
thuyết phục được người nghe thấy nguy cơ đến nơi.
Một nhiệm vụ nặng nề chờ Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn. Mấy giờ
sau khi ông về, ông tỏ rõ ngay thế lực của mình. Lầu Năm Góc báo tin, một tàu
bay nữa sẽ đi theo chiếc Okinawa đang ở ngoài khơi biển Đông để tản cư người Mỹ
đang làm việc ở những vùng có chiến sự.
Sáng ngày 25, chính phủ Nam Việt Nam báo tin Huế thất thủ.
Quân cộng sản kéo cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời lên đỉnh Ngọ Môn hoàng thành
cũ. Mấy giờ trước khi thành phố thuộc về quân Bắc Việt Nam, hàng nghìn người
dân chạy ra bờ biển cách đó 16 km. Một số đông hơn ra biển định lên tàu đang
đón người tị nạn. Nhiều người bị sóng đánh chìm hoặc sóng ngầm cuốn đi. Sư đoàn
1 không còn nữa.
Dưới phía Nam, Chu Lai và Quảng Ngãi cũng thất thủ ngay buổi
sáng. Sáu nghìn lính sư đoàn 2 đào ngũ. Không còn kỷ luật, tinh thần gì nữa. Sư
đoàn không còn có thề coi là một đơn vị chiến đấu.
Khi tướng Dũng được tin ấy, ông không nén được xúc động, ông
viết trong hồi ký: "Tôi châm lửa vào điếu thuốc. Tôi đã "cai"
thuốc từ lâu, nhưng mỗi lần giải quyết được một vấn đề gì gai góc, giành được một
thắng lợi gì lớn, được tin một chiến thắng xuất sắc thì hút một điếu cho
vui". Sự vui mừng của ông không ngăn cản ông chuẩn bị cho cuộc tiến công mới:
trận đánh Đà Nẵng. Ông ở quá xa mặt trận Quân khu I để có thể trực tiếp chỉ
huy, nhưng ông có những ý kiến rõ ràng về cách điều khiển chiến dịch. Ông thiết
tha đề nghị với Hà Nội để tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu phó quân đội Bắc Việt
Nam làm tư lệnh mặt trận Đà Nẵng. Bộ Chính trị chấp nhận và trong vài ngày đã
thành lập xong bộ chỉ huy mới cho Quân khu I. Tướng Tấn rời Hà Nội bằng máy bay
lên thẳng, đặt trụ sở chỉ huy ở phía Tây Đà Nẵng.
Quân bảo vệ của chính phủ Thiệu tiếp tục tan rã. Chỉ mấy giờ
sau khi Huế thất thủ, bạn tôi Joe Kingsley thảo một bức điện nói về việc tiến
quân của lực lượng Bắc Việt Nam ở phía Tây Nha Trang, trong Quân khu II. Anh khẳng
định rằng nơi đây đã bị uy hiếp nặng. Cách Sài Gòn 56 kilômét về phía Tây Bắc,
quân Nam Việt Nam đã bỏ một huyện trong khu đô thị ở tỉnh Bình Long, xe tăng Bắc
Việt Nam đã tiến đến Chơn Thành, vị trí của chính phủ ở phía Bắc Quân khu III.
Mấy giờ sau, Thiệu báo tin thay đổi nội các để - như ông ta
nói - có thể nắm toàn quyền cai trị. Thực ra, không có gì thay đổi. Phần lớn những
cánh hẩu của Thiệu, kể cả thủ tướng Khiêm, tướng Viên đều giữ chức vụ cũ, giữ
nguyên quyền hạn. Trong lúc đó, ở sân bay Tân Sơn Nhất, người Bắc Việt Nam, đại
diện Chính phủ Cách mạng lâm thời trong ủy ban hỗn hợp quân sự phải trả giá đắt
cho chiến thắng của họ. Buổi tối, đi tắm không có nước chảy. Thiệu đã ra lệnh cắt
nước của ho để báo thù!
Chỉ những người Mỹ thôi!
Đà Nẵng, thành phố thứ hai của Nam Việt Nam, cách Sài Gòn sáu
trăm kilômét về phía Đông Bắc, đang bị bao vậy và bị bắn phá. Cuộc pháo kích bắt
đầu sáng ngày 25 tháng 3. Mười bốn quả đạn rốc két 122 milimét, rơi đúng trung
tâm thành phố. Dòng người tị nạn dài từ Huế, Quảng Ngãi kéo đến càng thêm hoảng
sợ.
Sư đoàn 1 bị tiêu diệt, Trưởng không còn quân dự bị, chỉ còn
25.000 binh lính để bảo vệ Đà Nẵng. Làm sao mà ông ta có thể chống cự lại được
quân Bắc Việt Nam gồm hai sư đoàn, nhiều trung đoàn độc lập sẵn sàng tiến công.
Lại còn hai sư đoàn nữa sắp rời Huế tiến vào trận đánh.
Ở phía Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Chu Lai thất thủ làm cho
nhiều đơn vị Bắc Việt Nam rảnh tay, Trưởng chỉ còn một sư đoàn tồi nhất là sư
đoàn thứ ba để ngăn chặn họ. Trong 12 ngày qua, hơn 500.000 lính dào ngũ và người
chạy trốn theo mọi con đường, tràn vào Đà Nẵng. Thành phố hiện có tới hai triệu
dân. Lúc nào kỷ luật bị phá vỡ? Gánh nặng gia đình đối với sĩ quan và binh lính
ra sao? Trưởng không có cách gì biết được Nhưng lần này, hắn hy vọng có thể
tránh được thảm họa. Dù sao, Đà Nẵng không phải là Huế: Bến Cảng rất gần, hải
quân có thể tản cư một phần nhân dân trước khỉ cuộc tiến công bắt đầu. Đó chỉ
còn là vấn đề thời gian. Quân Bắc Việt Nam chắc không để cho Trưởng có thì giờ.
Lúc này, thuyền tàu trên sông Hàn đầy người qua sông. Nhiều người phải trả một
số tiền bằng 1.200 đôla cho những kẻ đục nước béo cò để được đi về phía Nam. Nếu
quân Bắc Việt Nam bắt đầu tiến công từ ngoài biển vào thì lối ra sẽ bị chặn và
thành phố chắc chắn hoàn toàn bị bao vây.
Thời gian là yếu tố quan trọng nhất. Ở Sài Gòn, một số người
trong chúng tôi thấy rõ điều đó. Sáng 25, tướng Smith cho 5 tàu kéo rơ-moóc,
sáu tàu chở khách và ba tàu chở hàng ra Đà Nẵng để giúp vào việc tản cư người tị
nạn và vận chuyển thiết bị. Trong cuộc họp buổi sáng, Al Francis ra lệnh cho mọi
người chờ đợi: gia đình các nhân viên lãnh sự quán được tản cư ngay về Sài Gòn
bằng máy bay, tiếp theo là người Mỹ làm theo hợp đồng. Còn những người Mỹ ở rải
rác trong thành phố, phải khuyên họ đi ngay lập tức.
Ai hỏi về kế hoạch tản cư, Francis đều trả lời bằng một từ:
Xong, kế hoạch do nhân viên CIA thảo ra không thể thực hiện được, vì thiếu máy
bay. Chỉ trông chờ được vào hãng Hàng không Mỹ, hãng Hàng không thế giới và một
phần vào hãng Hàng không Việt Nam và không quân Việt Nam có thể có.
Sau này, Francis thổ lộ: Tôi dùng hết cách để cho sự tản cư bằng
máy bay càng được nhiều người càng tốt. Nếu có thể, tôi cho tản cư cả thành phố,
nhưng việc đó không thể thực hiện được. Tôi quyết định khi thấy hàng nghìn người
tị nạn kéo tới làm mất tinh thần quân đội. Francis nói: Tôi biết từ ngày 25 rằng:
sắp hết rồi. Thấy sự lộn xộn trong thành phố, tôi hiểu là nguy cơ xấu đây - và
đó là ngày 29 tháng 3.
Các đồng nghiệp của ông không tán thành ý kiến của ông. Đại
diện lâm thời Lchmann từ Sài Gòn, gọi ra trách ông đã gieo rắc hoang mang trong
những bức điện radio gửi cho tàu sân bay Okinawa và những căn cứ quân sự Mỹ
khác. Nhưng Francis tiếp tục giữ sự bi quan của mình và trả lời: tôi ở tại chỗ,
tôi biết không còn thời gian nữa. ông lấy tin ở đâu? Lần đầu tiên Lchmann không
đáp lại. Sau buổi họp, Custer gọi chi nhánh CIA ở Sài Gòn xin thêm máy bay của
hãng Hàng không Mỹ để chở người Mỹ và gia đình họ. Nhiều viên chức CIA khác,
ngay sau buổi chiều, đã chuẩn bị vé máy bay thường lệ của hãng hàng không Mỹ
cho bạn bè người Việt Nam và những người giúp việc. Họ gọi chuyến bay ấy là
chuyến tàu tự do.
Phần lớn những người Việt Nam chờ ở sân bay chính ở Đà Nẵng đều
kiên trì giữ kỷ luật. Họ hiểu rằng đời của họ phụ thuộc vào những đức tính này.
Nhưng cảnh đó làm thất vọng một số nhà báo nước ngoài đến Đà Nẵng với mục đích
tìm những cảnh thương tâm hoặc những trận đánh đẫm máu. Một nhóm phóng viên vô
tuyến truyền hình Anh cố ý gây ra những cảnh mà thời sự không có. Trước hàng
rào sân bay, một nhân viên CIA đầm đìa mồ hôi, cố ngăn cản mươi, mười hai người
Việt Nam. Những nhà báo nói trên liền đẩy họ, chen lấn họ để họ tức giận, xô tới
người Mỹ. Thật là những cảnh đẹp của vô tuyến truyền hình Anh quốc: Người xem sẽ
thấy người Mỹ đang đánh những người Việt Nam khốn khổ muốn lên máy bay tản cư.
Xế chiều, gia đình trưởng ban tác chiến của tướng Trưởng được
tản cư bằng máy bay đặc biệt của phái bộ quân sự cùng với vợ Custer và bà Terry
Tull, phó lãnh sự mà mới hôm qua đây còn bị coi là người quá bi quan. Brinson
Mc Kinley, nhân viên mới đến của lãnh sự quán, ở lại làm phó cho Francis. Tối
hôm đó, bà Custer, nóng giận và bơ phờ, đến sứ quán gặp Polgar. Bà bảo Polgar:
"Để đồ đạc lại, chở người từ Đà Nẵng về ngay.
Polgar gật đầu và hứa sẽ làm. Nhưng thực tế, ông không có ý định
gì cả. Sau này ông giải thích: "Tôi không muốn thay những người có trách
nhiệm tại chỗ. Những viên chức ở Đà Nẵng có quyền quết định những việc cần làm
vì họ là những người duy nhất đứng trước tình hình đang diễn biến".
Ngày 25 tháng 3 tôi làm cho Polgar một bản báo cáo, trong đó
tôi cố gắng tả cuộc rút lui chiến lược hỗn loạn bằng những từ dễ hiểu. Tôi viết:
Tám tỉnh đã mất trong ba tuần qua, bốn tỉnh khác đang bị uy hiếp. Hơn một triệu
người không có nhà ở. Họ trở thành một gánh nặng không tính nổi cho nền kinh tế.
Những cuộc rút chạy chiến lược ở Tây Nguyên và phía Bắc Quân khu I quá hấp tấp
và lộn xộn không hy vọng còn lại gì. Bỏ lại cơ man nào kho vũ khí, đạn dược. Những
người Kontum và Pleiku sống sót còn lại bị mắc nghẽn bên bờ một con sông cách bờ
biển 32 kilômét. Họ ít hy vọng tới được đây. Sư đoàn dù được đưa từ Quân khu I
về để bảo vệ Sài Gòn, bị xé lẻ giữa Quân khu II và Quân khu III, một lữ đoàn phải
di phòng thủ Nha Trang. Ở phía Bắc, lõm cuối cùng của chính phủ là Đà Nẵng. Ở
Quân khu II, bốn hay năm sư đoàn quân Bắc Việt Nam hành quân cấp tốc ra bờ biển
chiếm vị trí then chốt ở Qui Nhơn, Tuy Hòa và Nha Trang. Chỉ có một lữ đoàn dù
và hai trung đoàn thuộc sư đoàn 22 Nam Việt Nam trên đường hành quân.
Ở Quân khu III, ba hay bốn sư đoàn Bắc Việt Nam nhanh chóng
bao vây Tây Ninh và vùng phụ cận. Hai sư đoàn khác định kéo xuống khu tam giác
sắt ở phía Bắc và phía Đông Sà Gòn. Hai sư đoàn khác, sau khi tiêu diệt tất cả
các vị trí của quân chính phủ - trừ Xuân Lộc - hành quân qua tỉnh Long Khánh. Từ
nay, Xuân Lộc là nơi trở ngại duy nhất đối với cộng sản trên con đường tiến về
Biên Hòa, trung tâm quân sự của Sài Gòn. Ở vùng đồng bằng, quân cộng sản buộc
ba sư đoàn quân chính phủ ở vào thế phòng thủ và họ uy hiếp nặng Cần Thơ và Mỹ
Tho.
Vì quân chính phủ gần như bị sụp đổ hoàn toàn ở nửa phía Bắc
nước này nên quân Bắc Việt Nam mạnh hơn bao giờ hết. Họ kiểm soát hầu hết những
con đường chính ở Quân khu I và Quân khu II, nay có thể gửi thêm quân tiếp viện
cho vùng Sài Gòn và vùng đồng bằng rất nhanh chóng và có hiệu lực chưa lúc nào
bằng. "Căn cứ vào sự thiệt hại mới đây về thiết bị và sự uy hiếp thường
xuyên của quân Bắc Việt Nam trên khắp các mặt trận thì quân chính phủ trong thời
gian trước mắt, không thể nào phục hồi lại được.
Thật vậy, những gì gây ra cuộc khủng hoảng này không hề thay
đổi dù ở Sài Gòn, Hà Nội hay Hoa Thịnh Đốn. Chiến tranh Việt Nam đã hoàn đảo
ngược trong mấy tuần lễ. Một thảm họa quân sự là chắc chắn". Đó là những
nhận định của chi nhánh CIA ở Sài Gòn gửi về cho Hoa Thịnh Đốn. Ở Hoa Thịnh Đốn
người ta đau lòng chấp nhận sự nghiêm trọng của tình hình. Nhưng làm gì đây?
Các giới chính trị tự do, mỗi giới thận trọng đưa ra một giải pháp. Trong một
cuộc họp báo, Kissinger nói những lời hoa mỹ: hòa bình không thể chia cắt. Hoa
Kỳ không thể có một chính sách không nhất quán. Chúng ta không thể bỏ những người
bạn của chúng ta ở vùng này của thế giới mà không làm cho nền an ninh của những
người bạn khác bị uy hiếp". Có nghĩa là không có vấn đề bỏ rơi Sài Gòn nếu
chúng ta muốn tiếp tục chơi trò cân bằng giữa Ixraen và các nước A rập.
Kissinger ra sức đòi không được giảm viện trợ tài chính cho Việt Nam. Trái lại
phải chi thêm ba trăm triệu đôla nữa. Nhưng người đối thủ cứng đầu của ông
trong chính phủ là bộ trưởng quốc phòng Schlesinger, đã bí mật báo cho giới báo
chí biết là số tiền Mỹ cấp cho Sài Gòn - bảy trăm triệu dôla - hoặc chưa dùng đến
hoặc đã tiêu phí hết rồi. Trong khi đó, ở Đà Năng, trên bờ biển phía Đông Việt
Nam, quân đội Nam Việt Nam đi chân đất, không vũ khí, gào khóc hò hét giữa phố,
bất chấp người đi lại. Chúng tập họp thành từng nhóm trên vỉa hè, cầm tay nhau.
Nhân dân Đà Nẵng rất lo sợ nhìn những kẻ thất trận mất tinh thần ấy. Chúng sẽ
làm gì đây? Hãm hiếp, đốt, cướp, phá phách.
Ngày 26, hàng trăm sĩ quan Nam Việt Nam xông vào những sứ
quán, đòi giúp đỡ gia đình họ tản cư. Nhiều người Mỹ buộc phải đẩy vợ con họ
trà trộn với những người giúp việc sắp đi Cam Ranh hay Sài Gòn. Francis cũng phải
nhận cho tản cư gia đình nhiều sĩ quan cao cấp của không quân quân đội với điều
kiện những sĩ quan này bảo đảm sự an toàn của hai sân bay ở Đà Nẵng. Thoạt đầu,
cầu hàng không hoạt động bình thường. Máy bay 727 của hãng Hàng không thế giới,
máy bay lên thẳng và máy bay vận tải C.47 của hãng Hàng không Mỹ bay đi, bay về
cả ngày. Mỗi lần cầu thang hạ xuống, hàng trăm người Việt Nam xô tới, một tay cầm
tấm vé quý giá, tay kia dắt con, bế lợn, ôm gà...
Giữa trưa, đại tá Garwin Mc Curdy từ Sài Gòn đáp máy bay tới
giúp Francis tổ chức cầu hàng không. Vừa bước xuống đất, theo yêu cầu của
Francis, ông phải trở lại Sài Gòn để xin thêm máy bay lên thẳng của không quân
Mỹ. Xế chiều, Mc Curdy về tới Sài Gòn. Khi ông gọi tới bộ tổng tư lệnh nhóm cố
vấn Mỹ đặc biệt ở phía Bắc Thái Lan, hỏi xin hai máy bay lên thẳng để tản cư những
người ở Đà Nẵng thì được người chỉ huy trả lời là không thể được. Toàn bộ máy
bay lên thẳng ở đây đang chờ bay đi Phnôm Pênh để tản cư những người Mỹ ở đấy.
Không có Hoa Thịnh Đốn duyệt thì không thể cho máy bay đi đâu cả. Xin duyệt lại
mất rất nhiều thì giờ.
Trong lúc cuộc tản cư ở Đà Nẵng tiếp diễn thì các vị trí của
quân chính phủ ở Quân khu II bị tiêu diệt trong chớp mắt. Sáng 26, một thị trấn
nhỏ ở tỉnh Bình Định, bên bờ biển, rơi vào tay địch. Sư đoàn 3 quân Bắc Việt
Nam tiến thẳng về Qui Nhơn, thành phố quan trọng thứ ba của Nam Việt Nam. Nhiều
đơn vị quân đội cộng sản khác chặn đánh tàu chở quân của sư đoàn 22 quân đội
Nam Việt Nam chạy tan tác ở phía Tây thành phố. Cùng lúc đó hàng nghìn người
dân ở Quy Nhơn và Tuy Hòa bỏ nhà cửa chạy trốn dọc theo bờ biển về Nha Trang.
Nhiều người đi chân đất theo đường số 1, nhiều người đi bằng thuyền đánh cá, chạy
qua nhiều vùng nguy hiểm.
Khoảng 12 viên chức bộ ngoại giao, cơ quan thông tin và Chi
nhánh CIA làm việc trong lãnh sự quán Mỹ ở Tuy Hòa cũng đi ngay. Sáng 26, họ được
CIA báo cho biết quân đặc công cộng sản chuẩn bị đánh phá trụ sở của họ. Họ thu
xếp hành lý trong vài giờ và bay đi Nha Trang. Trong Quân khu II, người Mỹ chỉ
còn có tổng lãnh sự và mấy lãnh sự quán nhỏ ở Phan Thiết và Đà Lạt. Tất cả phần
phía Bắc nước này nhanh chóng rơi vào tay kẻ địch. Nhưng tai họa của Thiệu
không dừng ở đấy. Ngày 26, đối thủ lớn của Thiệu, cựu phó tổng thống Nguyễn Cao
Kỳ mời nhiều bạn thân cũ có cảm tình đến ăn cơm ở Tân Sơn Nhất. Sau một bài nói
chuyện dài và uống cạn nhiều chai sâm banh, Kỳ thuyết phục bạn bè cùng ông đòi
lập một chế độ giao thời để tập hợp được quân đội và đàm phán trên thế mạnh.
Đúng lúc ấy, làn sóng nhân viên lãnh sự quán Mỹ ở Quân khu I
về tới Sài Gòn, làm tăng thêm số dân Mỹ và sự lo sợ của họ. Đáng lẽ nghỉ ngơi
thì họ lại tới các bar, các tiệm ăn ưa thích, hết đêm này sang đêm khác, kể những
chuyện kinh khủng ngoài chiến trường và đoán chắc rằng thảm họa đến nơi rồi. Lo
rằng sự hoang mang lây sang người khác, các quan chức cao cấp sứ quán nhanh
chóng đề ra biện pháp đối phó. Họ buộc thủ trưởng và phó thủ trương các cơ quan
phái giữ bí mật, không nói rõ sự thật cho giới thân cận, vợ con, thư ký hay cộng
tác viên. Ngoài ra, Lehmann vẫn đứng đầu sứ quán vì Martin còn vắng mặt, chặn tất
cả những nguồn tín xấu nhất là của đài tiếng nói Hoa Kỳ, đài phát thanh nói tiếng
Anh do phái bộ chỉ huy đài thọ. Một cộng tác viên của ông, hàng giờ, kiểm duyệt
những điện tử Mỹ đánh sang và xóa bỏ tất cả nhưng gì có thể làm rối ruột các vị
"phu nhân" nằm dài bên bờ bể tắm, nghe đài bán dẫn. Báo Bưu điện Sài
Gòn, tờ báo hàng ngày duy nhất của thủ đô, bằng tiếng Anh, do CIA kiểm soát,
cũng bắt đầu thu nhỏ những thất bại gần đây của chính phủ.
Ở Đà Nẵng, sự mất ổn định và căng thẳng nay diễn ra suốt ngày
nên một phần nhân dân quen đi, đâm ra coi thường. Trưa 27, nhiều chợ và cửa
hàng thực phẩm tại chỗ, giá cả không thay đổi. Trong các phòng làm việc của
CIA, gần lãnh sự quán, đông người Việt Nam chờ tản cư tăng lên tăng lên hoặc giảm
theo từng giờ, giống như một máy tăng điện tự động. Mỗi máy bay có thể chở ba
trăm người nhưng cùng lúc ấy thì ba trăm người khác đã vượt rào vào, chờ đến lượt
mình. Họ cố đem theo số của cải ít ỏi mong mỏi người Mỹ cứu họ. Ron Howard, phụ
trách hậu cần của CIA, từ cửa sổ phòng làm việc, nhìn xuống triều người dâng
lên, rút đi rồi lại dâng lên: Có đến ba nghìn người Việt Nam giúp việc cho lãnh
sự quán và người Mỹ, lại còn những người quen của họ. Họ đến ngày càng đông, giận
dữ như anh.
Khi thấy một đoàn xe Jeep và xe tải chạy vào cửa chính.
Howard len lỏi ra sân, xem xem có thể giúp một tay vào việc bốc hàng lên không.
Anh không bằng lòng về cách chọn người đi đang được thực hiện. Nhân viên CIA phụ
trách việc này cũng là một người tị nạn. ông ta có xu hướng dành ưu tiên cho những
người bạn Việt Nam và đồng nghiệp cùng ông ta vừa chạy tới Đà Nẵng. ông ta bỏ
rơi những nhân viên cửa Howard. Trong buổi sáng, hai lần, Howard phải gọi radio
cho nhân viên thường trực của CIA ở lãnh sự quán, đề nghị lựa chọn người tản cư
một cách công bằng, nhưng viên chức này chỉ trả lời rất đơn giản: "Chúng
tôi cố gắng làm hết sức mình.
Đoàn xe đi, Howard ngồi một mình trong phòng. Không xa lắm,
dưới mắt anh, người Việt Nam phá cửa một nhà kho, đập nát hàng hóa, đồ đạc
trong đó. Họ uất ức quá như anh! Quá trưa, nhiều tin mới lan truyền trong thành
phố: quân Bắc Việt Nam tiến công đến nơi rồi. Nhân dân lại hoảng sợ. Hàng trăm
người mặt tái mét, vội vàng chạy vào sân bay. Họ chen chúc, xô đẩy nhau mỗi khi
có một máy bay tới.
Khoảng hơn 2 giờ chiều, Francis đi xe Jeep tới sân bay. Ông vừa
mệt, vì nhức đầu vì thiếu ngủ trong những đêm vừa qua: ông không thể chịu nổi
cái cảnh hai nhân viên CIA điều khiển người Việt Nam tản cư. ông vội vàng đảm
nhiệm việc ấy. Nhưng mấy phút sau, một máy bay hạ cánh, dòng người xô ra đường
băng, đẩy ngã Francis, dẫm cả lên người ông. Ông vội đứng dậy, lấy dùi cui đánh
người Việt Nam và kêu lên: “Gọi thị trưởng cho tôi! Gọi thị trưởng cho
tôi!". Thị trưởng Đà Nẵng ở cuối dòng người.
Ông ta có vẻ không muốn ra mặt. Một nhân viên CIA nắm lấy ông ta, kéo đến chỗ Francis, Francis cố gắng mang hết sức lực yếu ớt còn lại thét lên: "Trời ơi, giúp chúng tôi một tay chứ. Những người này là những người của các ông!". Vừa thét xong, tổng lãnh sự Hoa Kỳ ngã vật xuống đất, không còn biết gì nữa. Mỗi giờ qua đi thì sự hoảng loạn càng tăng, tăng nhanh hơn là dự kiến. Trong khi những người tị nạn chạy đi, chạy lại trên sân bay thì những máy bay lên thẳng của hãng Hàng không Mỹ bắt đầu đỗ xuống một bãi nhỏ hơn, gân núi Ngũ Hành ở phía Đông thành phố, để đón những người chạy trốn khác. Những máy bay tham gia cầu hàng không cũng đỗ xuống sân này.
Ông ta có vẻ không muốn ra mặt. Một nhân viên CIA nắm lấy ông ta, kéo đến chỗ Francis, Francis cố gắng mang hết sức lực yếu ớt còn lại thét lên: "Trời ơi, giúp chúng tôi một tay chứ. Những người này là những người của các ông!". Vừa thét xong, tổng lãnh sự Hoa Kỳ ngã vật xuống đất, không còn biết gì nữa. Mỗi giờ qua đi thì sự hoảng loạn càng tăng, tăng nhanh hơn là dự kiến. Trong khi những người tị nạn chạy đi, chạy lại trên sân bay thì những máy bay lên thẳng của hãng Hàng không Mỹ bắt đầu đỗ xuống một bãi nhỏ hơn, gân núi Ngũ Hành ở phía Đông thành phố, để đón những người chạy trốn khác. Những máy bay tham gia cầu hàng không cũng đỗ xuống sân này.
Tám giờ tối, Francis đã tỉnh, ra lệnh tạm thời ngưng những
chuyến bay của hãng Hàng không Mỹ ở sân bay chính vì quá lộn xộn và ồn ào.
Trong số người Mỹ còn lại, mấy người được chở bằng máy bay lên thẳng đến sân
bay ở gần núi Ngũ Hành, còn số đông trở lại thành phố, tạm trú rất kịp thời ở một
ngôi nhà gọi là "Alamô”.
Đêm xuống. Hơn ba mươi nhân viên lãnh sự quán còn kẹt lại
trong thành phố, cũng như mấy nghìn người Việt Nam giúp việc. Nhiều người tụ tập
chung quanh trụ sở của CIA. Tin tức radio từ Sài Gòn đánh ra, được nhận ở phòng
radio cấp cứu đặt ngoài hành lang, gần phòng làm việc của Custer, John Pittman,
phó của Polgar, luôn luôn đòi hỏi Custer và nhân viên của anh rời Đà Nẵng ngay.
Polgar không muốn một ai hy sinh vô ích tính mạng mình. Custer cố làm ông yên
lòng, nói rằng anh cũng thấy rõ sự nguy hiểm và đã có đủ sự đề phòng cần thiết.
Khi bức điện được đánh đi, anh yên trí Pittman vào Sài Gòn sẽ để anh yên. Khoảng
10 giờ đêm, một phó của Francis đến gặp những người Mỹ tạm trú ở Alamô. Anh
bình tĩnh bảo họ thu xếp hành lý đi ngay đến nhà Francis ở gần đấy. Anh nhấn mạnh:
chỉ những người Mỹ thôi. Không nói gì với nhân viên người Việt Nam. Ron Howard
lại cầu cứu Custer bằng radio: Người Việt Nam tụ tập ở ngoài sân bắt đầu chửi
anh, kết tội người Mỹ đã phản bội họ. "Phải giúp tôi ngay, giúp ngay, giúp
nhiều nếu không họ sẽ đánh tôi và đập phá hết", điều mà suốt ngày đó, anh
từng lo sợ.
Nhưng, radio câm như hến. Cũng buổi tối hôm đó, tổng thống
Thiệu xuất hiện trên vô tuyến truyền hình. Ông đọc một bài diễn văn trong năm
phút. Ông hô hào "Đồng bào chặn đứng cuộc tiến công của quân thù”. Việc
Thiệu lại ra mắt trước công chúng có ý nghĩa như lời kêu gào của ông, vì hai tuần
nay, ông biệt tăm. Sau bài nói chuyện một lúc, Thiệu rời dinh Độc Lập, đi xe
hòm bọc thép đến một nơi ở bí mật, gần khách sạn Majestic, trông ra bờ sông.
Thiệu hội đàm tới khuya với "cận thần". Thiệu ít lo ngại về những tin
xấu từ mặt trận gửi về mà sợ những tin đồn loan truyền rằng cuộc cuộc đảo chính
của Kỳ sắp sửa nổ ra.
Buổi sáng hôm ấy, Kỳ lại ra một lời kêu gọi nữa, đòi Thiệu phải
từ chức. Nhưng Thiệu đã chuẩn bị đối phó. Một giờ sau, cảnh sát an ninh quốc
gia, vũ trang đầy đủ đến bắt nhiều người đáng nghi, ba nhà báo và bốn
"chính trị gia" hạng nhì, vì tội định làm đảo chính lật đổ chính phủ.
Không có một nhân vật tai to mặt lớn nào trong giới thân cận Kỳ bị động đến. Ít
nhất là lúc này.
Gần nửa đêm, George Jacobson, cố vấn đặc biệt của đại sứ, gọi
đại tá Mc Curdy ở tổng hành dinh yêu cầu xin ngay một số máy bay lên thẳng của
lực lượng đặc biệt đóng ở Thái Lan. Khi đại tá nói chuyện được với tư lệnh
không quân thứ bảy bằng dây nói an ninh thì cũng được trả lời như lần trước:
"Không còn máy bay rồi, cần cấp trên chuẩn y, tất cả dành cho chiến dịch
"Phượng hoàng ra đi ở Campuchia".
Màn đêm trùm lên Đà Nẵng, tiếng vang của trận đánh bất ngờ im
ắng. Chỉ còn lời nhắc nhở khó nghe, qua loa phóng thanh của chính quyền: Chiến
tranh đang tiếp diễn, ngoài kia trong bóng tối đêm cuối cùng này! Nhưng sự yên
tĩnh chỉ là ảo tưởng. Ba mươi lăm nghìn binh lính Bắc Việt Nam đã ở ngoại ô Đà
Nẵng, vừa quyết định tạm dừng lại, để gây hoang mang. Sau này, chung quanh Sài
Gòn, họ cũng dùng chiến thuật ấy, để tiến đánh trận cuối cùng. Khoảng một giờ
rưỡi sáng ngày 28 tháng 3, Ron Howard cuối cùng đã nói chuyện được bằng radio với
Custer. Howard cố giữ bình tĩnh để trình bày rõ tình hình: Người Việt Nam phá
xe, cướp của cái, đốt kho v v... Anh nghe thấy tiếng nói của Custer giật giọng
như tiếng gươm: nên bình tĩnh. Rời trụ sở, ra bờ biền, cho ca nô xuống nước.
Chúng ta đi tất cả Howard vừa khóc vừa cố làm cho Custer hiểu anh không ra được,
đang bị bao vây. Custer nhắc lại lệnh và cắt đặt cuộc nói chuyện.
Howard ngồi trong phòng làm việc, đầu rối tinh. Lãnh sự quán
có năm chiếc xuồng máy. Đó là những phương tiện duy nhất có thể cứu anh. Nhưng
giữa xuồng máy và anh, còn có ba nghìn nhân viên người Việt Nam và cơ man nào
nhân dân thành phố đang coi anh như một "con tin" để được tản cư
theo. Họ không để cho anh ra, nếu anh không thu xếp hoặc không giả vờ thu xếp một
cái gì đó cho họ đi. Anh nghĩ phải một mưu mẹo mới được. Ở sở chỉ huy, trên đường
ra biển, tướng Trưởng lần cuối cùng, tập họp được bộ tham mưu. Với giọng buồn
thiu, ông ta giải thích: ít nhất phải mất 45 ngày mới thu thập được binh lính, ổn
định tình hình nhân dân và đưa họ đi tản cư. Nhưng, ông ta kết luận, may ra,
chúng ta chỉ còn một hay hai ngày thôi.
Thoát khỏi địa ngục
Ngày 28 tháng 3, mới trước bình minh nhưng ở Đà Nẵng, ngoài bến
tàu, dòng người sợ hãi đã đông nghịt. Những tấm gỗ xám, lâu đời kêu răng rắc dưới
sức nặng của hàng nghìn người Việt Nam. Họ chen lấn, xô đẩy nhau. Đây là chuyến
đi cuối cùng. Chung quanh mỗi cột cầu tàu, thuyền và tàu kéo đậu thành ba hàng,
chở người tị nạn đứng ngồi như nhét khoai tây. Trong lúc đó, ở phía Tây thành
phố, dưới tầm súng của lính bắn tỉa Bắc Việt Nam, nhiều người tị nạn thất vọng,
chiếm vọng kiểm soát của sân bay chính, ngăn cản mọi chuyến bay.
Một lúc sau, khoáng 4 giờ sáng, Francis sau khi đi thăm thành
phố trở về nhà, người mệt lã, ông báo cho nhóm 30 người Mỹ, những người Việt
Nam và người nước ngoài khác đang chờ ông biết rằng tình hình rất xấu, buộc ông
phải ra lệnh cho tản cư ngay lập tức toàn bộ những người ông chịu trách nhiệm.
Một số người trong nhóm đi lẫn lộn vào đám đông, tới sân bay nhỏ ở bên kia đường
dành cho máy bay lên thẳng của ủy ban quốc tế kiểm soát. Lúc đó những máy bay đầu
tiên của hãng Hàng không Mỹ bay tới. Những người còn lại của nhóm tiến ra bến ở
bên kia lãnh sự quán, ở đấy có một xuồng máy vừa từ cảng chạy tới. Họ vừa tới
xuồng thì hàng trăm người Việt Nam đã xô ra cầu tàu. Trong không đầy 20 phút,
hơn bốn nghìn người đứng trên đó, nặng gấp hai lần sức chở bình thường. Custer,
từ kho nhìn ra, nhận thấy mình bất lực, không thể nào cho tản cư được nhân viên
của anh. Giữa lúc rối ren ấy, Francis gọi một sĩ quan của phái bộ quân sự và
hai nhân viên CIA theo ông. Ông vất cho một người khẩu súng M.16 và nói:
"Có khi phải sử dụng đến. Đừng chần chừ gì mà không sử dụng". Ông vội
đi đến lãnh sự quán, ở bên đường. Một nhóm người đi xe Hon da bắt đầu bao vây
ông. Sau khi nhanh chóng trở vào trụ sở, lấy máy radio cực mật của CIA, ông lên
một xe vận tải nhỏ, đi ra bến. Giữa sự chen lấn của những người tị nạn, ông đưa
được máy radio xuống một xuồng máy. Trong khi đó, lính Nùng của Thiệu, xông vào
trụ sở, tìm kiếm vơ vét những gì CIA để lại. Khi họ hiểu rằng người chủ Mỹ đã bỏ
rơi họ, họ lập tức phá và đốt những ngôi nhà. Hai nhân viên CIA xuất hiện, họ
lia súng buộc hai người phải chạy trốn qua cửa ra vào.
Còn Ron Howard, anh không tự hào chút nào về mưu mẹo của
mình. Anh gọi riêng một nhân viên người Việt Nam, nhanh chóng cho ý kiến, đánh
xe vận tải lại, cho ba nghìn người tị nạn nhanh chóng lên xe, chở ra trung tâm
thành phố, ở đây sẽ có máy bay lên thẳng xuống đón. Lệnh của anh được chấp hành
ngay. Howard cũng giúp phụ nữ và trẻ em trèo lên xe. Rồi từng chiếc một, những
xe vận tải chở 2,5 tấn nặng nề chạy qua cửa sắt, đi về phía địa điềm tập kết
ma. Rõ ràng mưu mẹo này không cao. Việc ngần ấy người lên xe phải mất hơn một
giờ đồng hồ. Khi chiếc xe cuối cùng đi được đi được thì những chiếc xe đầu tiên
đã quay về, người trên xe giận dữ tưởng phát điên. Họ sẵn sàng giết người. Họ
đã chờ đợi và nhìn về phía chân trời hết sức thất vọng. Đúng thế, chưa có một
máy bay lên thẳng nào đến cả mặc dù người ta đã hứa hẹn!
Howard đóng và khóa được cửa sắt, nhưng hàng trăm người tị nạn
nổi giận đã tập hợp ngoài đường phố và xô tới cửa. Chợt Howard nghe thấy tiếng
nói Custer ở radio để trong túi, giục anh mau mau ra cảng: mọi người đều đi!
Run vì sợ, Howard nghe lõm bõm lời giục giã. Trong bóng tối, anh nhìn đồng hồ:
năm giờ rưỡi rồi. Lần này tính mạng anh có thể nguy hiểm. Anh không thể đi bằng
xe con được. Anh không có quyền lựa chọn. Anh bám lấy cổ áo một người Việt Nam,
một người thợ có khi rất quen. Anh thề với người này sẽ bảo đảm mọi thứ quý giá
nhất cho anh ta và gia đình, chỗ trên máy bay hoặc trên tàu nếu anh này nhận
giúp anh trốn thoát. Người Việt Nam có vẻ không tin nhưng anh cũng chẳng còn
cách nào khác. Anh nhận lời. Trong khi hơn một chục người tị nạn đột nhập được
trụ sở, đốt vòi bơm dầu xăng, cướp phá tự đo thì Howard và người thợ cùng gia
đình lặng lẽ vòng ra đằng sau nhà, lên một xe vận tải bỏ không. Người Việt Nam
cầm lái (Howard ngồi xổm bên cạnh) cho xe đâm vào đám người tụ tập, những người
này tản ra; mấy phút sau, xe đi được tới cảng.
Cầu hàng không lại có, đúng lúc bình minh ở sân bay chính.
Lúc những máy bay 727 đầu tiên của hãng Hàng không thế giới hạ cánh, một đoàn
xe quân sự chở gia đình, binh lính Việt Nam đến đỗ ở đường băng và bắt đầu cho
người xuống. Tức thì, năm nghìn người Việt Nam khác, kiên nhẫn chờ ngoài cửa,
chạy ập tới máy bay, dẫm lên cả đàn bà, trẻ con. Lính gác Mỹ ra oai. Nhưng
không có kết quả. Người lái máy bay khởi động, bắt đầu cho máy bay lăn bánh. Rất
nhiều tay người còn bám lấy cửa máy bay chưa đóng. Hàng chục người còn bị treo
lơ lửng khi máy bay rời đường băng. Ron Howard lái mò trong sương mù dày đặc.
Trong ánh sáng mờ, tiếng kêu cầu cứu của người Việt Nam át cả tiếng sóng vỗ.
Howard tìm thấy Custer và 16 người Mỹ khác đang chờ anh bên bờ biển. Máy ca nô
đã khởi động, không ngoái cổ lại một lần, họ ra khơi. Howard ngồi đằng trước,
lái ca nô. Bên anh là Custer, Brunsom Mc Kinley và ba người Mỹ khác. Người thợ
cơ khí Việt Nam và gia đình bị nhét ở phía sau. Bên phải, hai chiếc xuồng máy
khác của lãnh sự quán vừa kêu vừa chạy qua những con sóng lớn. Howard chưa hiểu
sẽ đi đâu. Anh cũng không quan tâm đến việc ấy nữa. Cái chính là thoát khỏi Đà
Nẵng, được sống bình yên sau nhiều ngày khốn khổ. Lấy cái com pa bỏ túi, anh
lái ca nô đi phía Đông Nam, tới một đảo nhỏ của những người đánh cá.
Custer, mệt mỏi, ngồi khuỵu bên anh. Sau cùng, mới ấp úng:
"Một tàu I.Z đón chúng ta". Thật vậy chẳng mấy chốc, một ống khói đỏ,
trắng, xanh lơ và bóng xám một tàu chở hàng Mỹ xuất hiện giữa sương mù. Đó là
tàu Pionneer Contender.
Ở Đà Nẵng, lúc Francis nghe nói có biểu tình ở sân bay chính,
ông quyết định tất cả các máy bay của hãng Hàng không Mỹ đều đỗ xuống sân bay
Ngũ Hành Sơn, để lại hơn mười nghìn người Việt Nam ở sân bay chính. Trong những
người này có nhân viên lãnh sự quán với gia đình họ. Francis đề nghị cho hai
máy bay Huey đến chở “hành khách hợp pháp" này về sân bay "Ngũ tranh
Sơn”. Nhưng hai máy bay vừa đỗ xuống thì đám đòng đã xô tới một lần nữa, lại
đánh nhau để lên. Trên biển, những xuồng máy nhỏ đỗ dọc chiếc tàu Pioneer
Contender. Dưới tiếng kêu thét vui vẻ của Ron Howard và các bạn đồng nghiệp. Một
người Việt Nam níu chặt lấy cây thập tự nhỏ. Howard đứng dậy, lấy một thang dây
trên tàu, quăng xuống cho anh ta và gọi Custer để cùng giúp người tị nạn lên
tàu. Nhưng Custer vừa lắc đầu vừa xua tay và nói: Tôi không muốn ở trên tàu,
tôi còn phái lo nhiều việc ở Đà Nẵng. Tìm nhân viên quan trọng người Việt Nam bị
bó sót lại. Có ai giúp tôi không?
Howard không tin ở tai mình nữa. Anh nhìn những người khác ngồi
trong tàu, không ai động đậy. Brunson Mc Kinley cuối cùng gật đầu và nói: Tôi
đi. Anh là người duy nhất xung phong. Custer chào vĩnh biệt những người trèo
lên thang sau cùng. Gặp may mắn, giữ gìn sức khỏe. Chiếc xuồng máy quay lại, biến
trong sương mù. Howard trông thấy anh lần cuối cùng trong lúc leo lên cầu thang
giữa. Anh nói với người bạn Việt Nam leo trước anh: "Trời chứng giám, tôi
không có tính can đảm!". Howard tự an ủi mình quá sớm. Tình hình trên tàu
Contender cũng như giấc mộng khủng khiếp anh đã thấy ở Đà Nẵng: 15.000 lính Nam
Việt Nam chen chúc trên boong, một số đánh nhau, một số bắn những người dân đứng
lẫn với họ. Cách đó mười milimét, một tên hiếp phụ nữ trong khi đó một tên khác
gí súng vào người chồng chị ta. 35 người tị nạn Mỹ thì họp thành một nhóm nhỏ gần
buồng lái. Một người Mỹ nói to với Howard, tay chỉ một binh lính Nam Việt Nam cầm
súng, đứng trên boong tầng trên: chúng muốn đi Philippin, và đã nhốt thuyền trưởng
rồi. Howard không cần phải suy nghĩ lâu mới biết nên làm gì. Anh ra hiệu cho mấy
lính Mỹ cùng đi từ Đà Nẵng, trình bày nhanh với họ kế hoạch của anh. Sau khi
xem lại vũ khí, lính Mỹ bèn đi lên boong trên. Bốn lính Nam Việt Nam đứng dựa
vào thành tàu mải nói chuyện với nhau không hề biết gì. Howard và lính Mỹ đánh
ngã ngay, chúng không kịp kêu. Họ phá khóa. Người thuyền trưởng, choáng váng,
đi từ ca bin ra, theo sau là mấy thủy thủ. Khi đã hoàn hồn, ông mới ồm ồm nói:
các bạn biết không, chúng bảo với tôi từ Sài Gòn, chúng đến đây để lấy xe của Mỹ
còn để lại. Tôi không ngờ lại xảy ra chuyện này. Ở Sài Gòn, không một ai trong
chúng tôi có ý niệm gì về sự khổ cực của các bạn đồng nghiệp ở Quân khu I.
Tin tức sơ sài chúng tôi nhận được buổi sáng là một mớ phóng
sự của các nhà báo và báo cáo của lái máy bay kèm theo ảnh chụp từ trên không.
Kèm theo nữa là việc Custer tỏ ý với Polgar chưa vội về Sài Gòn, làm cho chúng
tôi yên tâm. Chúng tôi lại nói với nhau để tự an ủi: người chịu trách nhiệm ở
ngoài đấy nắm vững tình hình. Thế rồi chúng tôi bình tĩnh đi làm việc. "Việc”
này không chán như trước vì ngày 28 Martin và người thân cận của Weyang đã đến
Sài Gòn. Ngay lúc Ron Howard và các bạn anh ở lãnh sự quán ngoài Quân khu I vật
lộn để sống, thì Pat, Joe và cả tôi nữa đang hối hả chuẩn bị những bản báo cáo
để trình bày với những nhân vật quan trọng về những sự kiện mà ngay bản thân
chúng tôi cũng khó hiểu. Mc Kinley ngồi bên cạnh Custer, trên xuồng máy vượt
sóng chạy vào bờ kinh đầy nước. Giữa đường, họ trông thấy một tàu kéo, chiếc
Oseola (Mc Kinley nghĩ: đúng là một từ Mỹ), họ cho xuồng chạy đến. Custer nói:
có thể tàu có nhiều sà lan. Họ đang cần để chở người tị nạn. Thực tế, không còn
sà lan nào trống cả, chỉ có thể đứng được thôi. Hai người quyết định lấy hẳn
chiếc Oseola làm căn cứ. Họ trông thấy Al Francis trên bến, mắt trũng, vẻ mệt mỏi.
Nhưng Francis từ chối không chịu tản cư. Ông nói: Tôi còn phải ở lại một lúc nữa
để giữ để giữ tinh thần người Việt Nam. Mc Kinley nói đùa một cách buồn bã: thế
thì ở lại nhé rồi đi với Custer. Đấy là lần cuối cùng họ trông thấy Francis ở
Đà Nẵng. Mc Kinley từ biệt Custer ở bến bên kia lãnh sự quán. Anh đi ngược phố
đến biệt thự của Francis, liếc nhìn đám đông xem có mặt nào quen không.
Bọn kẻ cướp đã phá cửa nhiều nhà, nhiều cửa hàng vắng chủ.
Chúng gói của cải vào vải bạt, vác lên vai chạy vượt lên Kinley. Lửa cháy ở những
thành phố gần đấy. Trên tàu Pioneer Contender, Howard và các bạn Mỹ quan sát một
cách bực mình hàng nghìn lính Việt Nam cũng đứng trên boong. Họ đã lên tàu gần
một giờ, đã giải phóng thuyền trưởng và ổn định tư tưởng của thủy thủ bất bình
thường chung quanh, họ vẫn là hỗn độn và bạo lực. Lính Nam Việt Nam giết những
người nghi là Việt cộng! Thực tế đó là lính và dân đánh nhau đến chết để tranh
một chỗ ở boong dưới.
Thế rồi có tin loan truyền người nhái cộng sản sắp đánh đắm
tàu. Một lính Mỹ nêu ý kiến đuổi những người Việt Nam ở boong trên xuống, lấy
dây bao quanh họ, phòng khi họ quay lại tiến công người Mỹ thì dễ bảo vệ hơn.
Đuổi họ khỏi boong trên không phải là chuyện dễ: có đến gần một nghìn lính Nam
Việt Nam phần lớn có vũ khí. Đuổi họ đi sẽ gây chuyện đánh nhau ngay. Nhưng nên
chọn cách nào? Howard và mấy người nữa hỏi thuyền trường. Ông chấp nhận. Công
việc được tiến hành ngay. Howard cầm súng, tiến đến nhóm lính gần nhất, yêu cầu
gọi sĩ quan đến nói chuyện. Anh chững chạc bảo họ: Tàu không thể chạy được nếu
trên boong còn cảnh hỗn loạn. Suốt buổi sáng và cả trưa nữa, Howard và bạn anh
lần lượt đi nói với các nhóm lính như thế. Đồng thời họ tước vũ khí của lính và
đẩy họ dần dần về phía sau, nhất là đối với những tên cứng cổ. Ở trên bờ, Mc
Kinley len lỏi mới ra được bến cùng với mấy người cộng sự Việt Nam. Được Custer
giúp đỡ, anh đẩy những người bạn này lên một xuồng máy. Mất 45 phút mới ra tới
tàu Oseola và 5 phút mới lên được tàu. Custer quay mũi xuồng vào bờ. Trong khi
đó, tàu Oseola kéo theo nhiều sà lan tiến về nơi hẹn trước bằng radio với tàu
Pioneer Contender sẵn sàng chở người tị nạn.
Suốt buổi sáng, hai máy bay lên thẳng của hãng Hàng không Mỹ
bay qua bay lại giữa sân bay nhỏ của ủy ban quốc tế kiểm soát ở gần nhà Francis
và đường băng ở núi Ngũ Hành Sơn. Đến trưa, cả hai máy bay đều sắp cạn dầu. Phi
công báo cho Francis, họ phải đến một đảo nhỏ cách bờ khoảng một trăm kilômét để
lấy nhiên liệu. Không để mất một phút, Francis gọi đến sở chỉ huy của Trưởng
yêu cầu cho một máy bay lên thẳng đến chở người tị nạn từ sân bay nọ cho đến
sân bay kia. Trưởng nhận lời, cho hẳn máy bay lên thẳng và phi công riêng của
ông đến. Có thêm máy bay, Francis cho chở được hết khách ở sân bay người tị nạn
của ủy ban quốc tế kiểm soát trước ba giờ chiều.
Khi người tị nạn cuối cùng lên máy bay, Francis ra lệnh cho
người lái bay đi, không chờ ông. Francis muốn quay lại lãnh sự quán xem còn ai
không. Mười phút sau, người lái máy bay của Trường đỗ xuống phía Đông sân bay
núi Ngũ Hành Sơn và cho người xuống. Nhưng anh ta không biết rằng những người
kiểm soát của hãng Hàng không Mỹ vừa chọn một nơi khác để máy bay đỗ nên nhóm
người tị nạn này bị bỏ lại. Xế chiều, Francis đến núi Ngũ Hành Sơn kiểm tra lần
cuối, ông thấy những người tị nạn rét run, ôm lấy nhau như đám gà con sợ hãi,
ông gọi radio cho nhóm Hàng không Mỹ xin một chuyến bay nữa nhưng binh lính Nam
Việt Nam đã đặt pháo binh sẵn sàng nhả đạn vào đường băng. Francis đến thảo luận
với họ, họ đồng ý hoãn việc phá đường băng để máy bay đỗ với điều kiện chở một
số sĩ quan và binh lính đi tản cư. Do đó trong số 93 người đi trên chiếc C.47
cuối cùng, một nửa là binh lính Nam Việt Nam.
Nhưng cả sự nhượng bộ ấy cũng không có ích gì. Máy bay vừa
lăn bánh trên đường băng, hàng trăm binh lính khác đổ xô đến bám lấy cánh, lấy
càng như họ muốn giữ máy bay lại để báo thù? Francis chạy đến, thét mắng, chửi
bới, thậm chí đánh những người lính. Sự khiêu khích có hiệu quả ngay: lính quay
lại đánh ông, máy bay cất cánh ngay. Francis có thể bị giết nhưng ông nhanh
trí, giả vờ chết. Bọn lính sợ hãi, lùi lại, rồi trở về với đại bác của họ.
Một người Đức, hai người Anh giúp việc cho một tổ chức từ thiện,
đứng xa chứng kiến cảnh này. Họ vội vàng chạy đến nâng ông tổng lãnh sự dậy.
Tuy bị đánh và ngất đi nhưng ông không đau lắm, chỉ bị thương ở cổ. Tuy vậy,
Sài Gòn khi thất thủ hai năm rồi, ông vẫn còn khó chịu.
Quá trưa ngày 28 tháng 3, sư đoàn 3 Nam Việt Nam đóng ở phía
Tây Nam Đà Nẵng không còn nữa: Vừa bị pháo binh cộng sản bắn, vừa bị gánh nặng
gia đình thôi thúc, sư đoàn tan rã nhanh. Một số lính thủy ở phía Bắc thành phố
lui ra bờ biển vì trước chúng, lực lượng Bắc Việt Nam rất đông sắp đè bẹp
chúng. Tin thất trận bay về bộ tư lệnh tướng Trưởng. Trưởng gọi Thiệu ở Sài Gòn
đề nghị dành cho ông ta một sự "linh động" nào đó. Thiệu không thèm hỏi
gì vì biết rằng linh động có nghĩa là tản cư ngay và triệt để bằng đường biển!
Còn Francis và trưởng chi nhánh CIA ở Đà Nẵng có vẻ tranh
nhau tỏ rõ cho đồng nghiệp đã xuống tàu, mình có vinh dự là người Mỹ cuối cùng
rời thành phố! Tổng lãnh sự vừa thoát chết ở sân bay Ngũ Hành Sơn. Cùng với mấy
người Anh, đi máy bay lên thẳng đến sở chỉ huy của Trưởng nói là để giúp ông
ta. Custer dành cả buổi chiều để đi đi lại lại giữa tàu Oseola và bến sông Hàn.
Trước tối, xuồng máy anh ta hết dầu, cách lãnh sự quán không xa lắm. Anh cùng với
người lái dùng một xuồng khác đi ra tàu kéo.
Chiều xuống, sương mù tỏa ra. Nhìn xa được đến đâu thì thấy mặt
nước biển ở đấy đầy những thứ thành phố vứt đi. Tàu, thuyền bè đánh cá, phà nhấp
nhô trên sóng. Trên tàu Pionneer Contender, Ron Howard và các bạn đã đuổi được
phần lớn binh lính Việt Nam xuống dưới. Nhưng ở giữa tàu chật như nêm cối. Những
người Mỹ thấy rằng họ không thể giữ riêng cho họ boong trên. Suốt buổi chiều,
Contender vẫn tiếp nhận người tản cư. Những thuyền, xuồng áp mạn tàu đến đâu
thì trên tàu lại thả thang và cho cầu xuống đến đấy. Những người tị nạn mạo hiểm
trèo lên boong. Nhiều người, nhất là người già và trẻ em, trượt chân ngã xuống
biển, bị thuyền buồm nhận chìm hoặc sóng cuốn đi. Thuyền, xuồng cũng bị sóng vỗ
va vào tàu.
Đến tối, Ron Howard thôi không đếm số người chết nữa. Anh đã
trông thấy hơn một nghìn người rơi xuống nước rồi. Ở sở chỉ huy của Trưởng,
Francis và hai người Anh trông thấy ông ta đang hủy hồ sơ và bản đồ. Phần lớn bộ
tham mưu của Trưởng đã đào ngũ. Ba người phương Tây giúp ông ta đốt tài liệu rồi
cùng lên máy bay lên thẳng của Trưởng bay về bộ tư lệnh hải quân Việt Nam, đặt
trên một bán đảo ở gần bến lớn cảng Đà Nẵng. Đêm xuống, khi ho hạ cánh trước trụ
sở có ánh đèn mờ. Dọc bến có nhiều xuồng chở đầy binh lính. Những người lính
khác ngồi trên bến, chân thò xuống nước, Francis hỏi một sĩ quan mượn một chiếc
xuồng để ngược sông đến lãnh sự quán, anh này nhún vai. Trong đêm, Ron Howard
xem đồng hồ bỏ túi. Sắp mười giờ. Trong tám giờ trước tàu Pioneer Contender chở
được bảy nghìn người tị nạn. Tiếp tục nghe thấy tiếng súng nổ ở boong dưới. Bọn
lính Nam Việt Nam vẫn giết dân để chiếm chỗ, mỗi lúc một nhiều hơn. Mấy người Mỹ
định can thiệp nhưng nhiều người khác không muốn có một cuộc đụng độ với lính.
Cuối cùng, quyết định không chờ thêm người nào nữa.
Giữa lúc đó ba sà lan lớn đến gần tàu Contender, chở khoảng
ba ngàn người. Một trọng lượng quá sức chứa của tàu. Sà lan thứ nhất cho người
lên. Những người Mỹ đứng trên boong trên bắn một tràng đạn trước mũi sà lan thứ
hai để cánh cáo. Một tàu kéo chạy sau sà lan lập tức quay mũi. Trên tàu lấp
lánh, dưới ánh sáng một đèn chiếu: Oseola, chiếc tàu Mỹ khác.
Khuya rồi mà máy bay từ Đà Nẵng vẫn tiếp tục hạ cánh xuống
sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Người Việt Nam và người Mỹ bước xuống đường
băng, đầy nước mắt. Nhiều viên chức của chi nhánh quốc tế “cho sự phát triển"
và của cơ quan hành chính sứ quán tổ chức một cuộc phân loại. Người Mỹ được
phân loại nhanh chóng đi khách sạn hay những biệt thự của sứ quán. Nhưng không
ai sắp xếp chỗ ăn, ở cho người Việt Nam, phần đông chưa ra khỏi Đà Nẵng bao giờ.
Những cơ sở tiếp nhận họ ở Cam Ranh và vùng đồng bằng chưa chuẩn bị xong.
Đêm ấy, tôi đi lang thang giữa những người Việt Nam. Họ im tiếng,
ngồi yên trên nền xi măng, khuỷu tay đặt trên va li, nhìn đăm đăm, khó chịu. Nhân
viên sứ quán và bộ ngoại giao phân phát cho họ nước chè và bánh săng-uých. Một
số nhân viên CIA vừa đi máy bay từ Đà Nẵng đến, cố lấy lại tinh thần bằng cách
đến bar ở khách sạn Duc. Nhưng chỉ được một lúc, phần đông đi nằm. Một viên chức
già khuỵu xuống, khóc trước mặt vợ. Mặc dù không muốn, ông thuật lại quá trình
ông đưa bạn bè và cộng tác viên người Việt Nam vượt qua bao nhiêu chuồng sắt đặt
ở núi Ngũ Hành Sơn để bao vây họ. Đó là kỷ niệm đau buồn nhất của ông trong những
ngày cuối cùng ở Việc Nam: sau những chuồng ấy là những khuôn mặt điên dại, những
cặp mắt hoảng sợ và những trẻ con khóc hết hơi.
Đến 12 giờ, Custer ở trên tàu Oseola, bình yên, cùng với nhiều
đồng nghiệp CIA. Anh đã từ bỏ ý định một mình cứu Đà Nẵng. Anh nằm đài trên
boong, nghỉ ngơi. Trong đêm, tiếng đại bác nổ, những tiếng kêu của người hấp hối
làm anh không thể nào ngủ được. Từ buồng lái, thuyền trưởng có thể trông rõ ở
xa xa, ánh sáng tàu Pioneer Contender. Nhưng nay, ông quyết định không cho tàu
mình tới gần nó, nhất là vừa rồi lại có những viên đạn nhằm vào tàu Oseola. Chắc
là tàu Contender không muốn cho thêm người lên nữa, nay ông phải tìm cách xa
lìa hàng nghìn người tị nạn chất trên xà lan do tàu ông kéo.
Một nhân viên CIA, đánh radio cầu cứu (SOS) tất cả các tàu ở
phía Nam biển Đông. Quá nửa đêm, một quả đạn đại bác nổ sau sở chỉ huy. Quả thứ
hai nổ đằng trước mặt. Quả thứ ba, trúng giữa, quả thứ tư, trúng một sà lan giết
khoảng một trăm người. Những cơ sở của hải quân đặt trên một bán đảo nhỏ, bên
ngoài Đà Nẵng, căn cứ cuối cùng của tướng Trưởng, đang bị pháo binh cộng sản bắn
phá dữ dội.
Lúc trận pháo kích bắt đầu, Francis đang đi dọc bến, tìm một
sà lan máy để ngược dòng sông: Trong lúc hoảng sợ, ông tưởng những tiếng nổ đầu
tiên do đạn rốc két 122 milimét, và ông rất yên trí vì súng rốc két này bắn thiếu
chính xác. Chắc cộng sản gặp may nếu họ trúng mục tiêu! Nhưng họ bắn mỗi lúc
thêm chính xác, ông hiểu rằng có người chỉ mục tiêu ở gần đâu đây và không phải
đạn rốc két mà là đạn đại bác 105 milimét họ chiếm được của quân Nam Việt Nam.
Cùng với hai bạn người Anh, Francis vắt chân lên cổ chạy xuống bãi biển và những
xuồng nước. Bơi khỏi tầm súng, họ nghe thấy tiếng máy nổ của một tàu tuần tra
ven sông đang từ từ quay lại. Họ bơi đến và lên tàu. Ba người ở cách bờ biển
khoảng hơn một nghìn mét. Họ được chuyển sang một tàu HQ5, tàu tuần tra ven biển.
Francis rất bằng lòng thấy binh lính trên tàu có kỷ luật, vì có sĩ quan chỉ huy
cùng đi với họ. Thuyền trưởng báo cho Francis biết ông phải ở trên tàu cho đến
khi xong việc tản cư. Nhờ vậy, thuyền trưởng chắc chắn được người Mỹ giúp đỡ.
Đài radio tàu HQ5 không thể liên lạc trên sóng với các tàu
dân sự chạy chung quanh khu vực ấy. Francis buộc phải đánh một điện về bộ tư lệnh
Hải quân Việt Nam ở Sài Gòn đề nghị chuyển cho những tàu đang tuần tra gần tàu
HQ5 biết tin ông. Nhờ đó Custer và các bạn anh mới rõ Francis đã thoát được.
Suốt đêm ấy, những người Mỹ trên tàu Oseola thay nhau gác. Thỉnh
thoảng họ phải bắn chỉ thiên để đuổi những tàu đánh cá và xuồng chở đầy người
chạy đến gần. Radio của sứ quán Sài Gòn đều đều ra chỉ thị và động viên họ. Quá
nửa đêm, người trên tàu Oseola thấy ánh đèn tàu Pioneer Contender xa dần. Tàu
này chạy đi Cam Ranh. Phải mất 15 phút mới tới. Có đủ thức ăn trong bếp cho thủy
thủ, 40 người Mỹ và khoảng một trăm người phương Tây khác nhưng không có gì cho
đám đông người Việt Nam đang ở trên boong chính. Ron Howard và các bạn anh dùng
một vòi chữa cháy, cố phân phối nước cho họ. Nhưng mỗi lần anh cầm lấy vòi thì
đằng sau, binh lính Việt Nam lại cắt vòi. Người thầy thuốc duy nhất trên tàu là
một ông già di cư, ông đặt trạm xá trong bếp. Trên tàu, Howard giúp ông đỡ đẻ
cho một phụ nữ Việt Nam sinh con trai.
Sáng 20, trời mưa và rất lạnh. Biển động hơn hôm trước. Lúc
trời rạng đông, một nhân viên CIA ở tàu Oseola trèo lên đài quan sát. Anh nhìn
thấy nhiều sà lan đang đang rập rình chung quanh, chở hàng nghìn người, trong
đó có nhiều người chết. Xác để lẫn giữa người sống, không thể vất được xuống biển.
Mấy sà lan bị bỏ lại, đang trôi, người đi trên những sà lan này, đã được chuyển
lên tàu Pioneer Contender đêm trước. Trên sà lan, đầy rác rưởi. Khi sương tan,
nhân viên CIA nhận ra giữa những đống quần áo, hành lý, đồ đạc, không phải là
những mẩu gỗ mà là chân, tay con người.
Sáng 29 tháng 3, không rõ giờ nào, tướng Ngô Quang Trưởng, từng
được coi là sĩ quan ưu tú nhất của quân đội Nam Việt Nam đang bơi và trôi giữa
những con sóng nguy hiềm ở ngoài khơi Đà Nẵng. Ông không phải là người bơi giỏi,
người ta phải vớt ông ta lên đưa lên tàu tuần tra Việt Nam đang đón. Trưởng ở
trên tàu trong những ngày sau đó. Đằng xa, lính còn lại của những sư đoàn mà
ông từng tự hào, đang cướp phá, đốt thành phố thứ hai của Nam Việt Nam. Trong số
hai triệu người còn lại ở Đà Nẵng, một trăm nghìn người là binh lính đào ngũ
thuộc các sư đoàn thứ nhất, thứ nhì và thứ ba và sư đoàn lính thủy đánh bộ, tất
cả đều bị bao vây như đàn chuột. Chúng sẵn sàng phản bội, ăn cướp, giết người để
khỏi sa vào vực thẳm và để cứu gia đình. Ở Sài Gòn, Polgar đọc những bản báo
cáo "hoạt động” ở Quân khu I, với sự lo lắng mỗi lúc một tăng. Đúng ngày
lãnh sự quán Đà Nẵng đóng cửa, ngày hôm trước, ông đã ra lệnh một lần cho
Custer rời ngay Đà Nẵng về Sài Gòn. Nhưng trưởng chi nhánh Đà Nẵng, quyết chơi
trò anh hùng cho đến chót, đã làm như không biết có lệnh ấy.
Do đó, lúc này anh đang ngồi ở cảng Đà Nẵng, từ chối không chịu
kéo neo. Sau này, anh nói rằng anh ở lại để góp sức vào việc tản cư những người
khác, nhận thêm tin mới và bảo vệ an ninh cho Francis. Nhưng Polgar cho là
Custer quá mạo hiểm vô ích và khi ông gọi radio được cho Custer đang ở trên tàu
Oseola, ông báo thẳng anh như thế. Ngày 29 tháng 3, tổng thống Ford chuẩn bị rời
Hoa Thịnh Đốn để nghỉ lễ Phục sinh ở Palm Springs, California. Ông báo cho Quốc
hội biết bốn tàu vận tải của hải quân Mỹ và nhiều tàu đi thuê khác đang tiến về
vùng biển Nam Việt Nam để tham gia vào việc tản cư nhân dân những cảng bị bao
vây. Daniet Parker, giám đốc chi nhánh quốc tế phát triển chịu trách nhiệm điều
hòa công việc đón nhận những người tị nạn, do chi nhánh quốc tế phát triển chịu
trách nhiệm điều hòa công việc đón những ngươi tị nạn do chi nhánh của ông đài
thọ. Bộ Hải quân cũng chi tiền cho việc tản cư.
Ford coi công việc này hoàn toàn “có tính nhân dạo". Tàu
đậu bên ngoài khu vực có những trận đánh. Ở Sài Gòn, sứ quán cũng đồng thời báo
tin tổ chức một cầu hàng không cấp tốc, bằng những máy bay mới chở dụng cụ y tế
và thiết bị quân sự từ Mỹ sang.
Không để phí thì giờ, Bắc Việt Nam công khai tố cáo ngay những
biện pháp do tổng thống Ford đưa ra, coi đó là một sự vi phạm nghiêm trọng hiệp
định Paris. Và họ tăng thêm cường độ bắn phá Đà Nẵng. Suốt buổi sáng 29, radio
Sài Gòn cố gắng làm yên lòng những người trên tàu Oseola. Tàu của hải quân Nam
Việt Nam đến cứu họ. Qua màn mưa, chỉ thấy người tị nạn ở Đà Nẵng xỉu đi. Nóng
ruột, Mel Chatman nói: Tôi phải trở lại đề tìm một vài người của tôi. Bạn anh cố
khuyên anh đừng đi nhưng Chatman, một nhân viên người da đen của chi nhánh quốc
tế phát triển không nghe. Anh bước xuống một xuồng máy đi vào bờ. Mấy giờ sau
anh trở lại thất vọng, không đón được ai. Anh nói: "Thành phố rất lộn xộn,
tôi không dám bước lên bờ. Mel Chatman không phải là người Mỹ duy nhất định trở
lại Đà Nẵng buổi sáng ấy. Edward Daly, giám đốc của hãng Hàng không thế giới
cũng đến xem xét tại chỗ. Sứ quán Mỹ suốt đêm trước, đã cố khuyên ông không nên
đi, nhưng ông không nghe, nhắc lại rằng: những máy bay của ông là hy vọng cuối
cùng của hàng nghìn người tị nạn bị nghẽn lại trong thành phố. Ông bay từ Tân
Sơn Nhất lúc bình minh với hai phi cơ 727, ông ngồi trong phi cơ đi trước. Lúc
chiếc máy bay này hạ cánh, trên đường băng này đã có hàng nghìn lính vũ trang
và dân thường. Khi thang máy bay hạ xuống, những kẻ khỏe và nhanh nhẹn nhất ập
tới leo lên máy bay Daly bắn chỉ thiên mấy phát súng để mong chúng ngừng lại
nhưng vô ích. Một nhóm vô tuyến truyền hình người Anh, vừa đến quay phim, bị
chúng xô ngã, dẫm lên. Phải cho một máy bay lên thẳng của hãng Hàng không Mỹ đến
cứu họ.
Không đầy mười phút, hơn 270 người, hầu hết là lính (vì chỉ
có hai phụ nữ và một trẻ em) đã ngồi đứng chật cả máy bay của Daly. Lúc chiếc
máy bay phản lực lớn lăn bánh, một binh sĩ vì không được đi, chạy theo máy bay,
ném một quả lựu đạn làm hỏng sân bay. Quân Bắc Việt Nam nã đạn rốc két vào đầu
đường băng. Chiếc máy bay 727 thứ hai không dám đỗ xuống nữa. Một nhà báo Mỹ ngồi
trên chiếc 727 thứ nhất gọi chuyến bay này là "Thoát khỏi địa ngục".
Hàng chục người còn bám vào cánh máy bay hoặc ở trên đường băng lúc máy bay lăn
bánh, do đó nhiều người bị chết hoặc rơi xuống đất khi máy bay cất cánh. Người
ta còn tìm thấy nhiều xác chết trong hộp cánh máy bay. Lối đi giữa ca bin đầy
máu. Chiếc máy bay Mỹ cuối cùng rời Đà Nẵng trong tình thế đó.
Gần trưa, mười máy bay lên thẳng nhỏ Nam Việt Nam bay từ sân
bay chính. Trên mỗi chiếc có 20 người lính, tăng gấp đôi sức chở bình thường.
Vì sân ở núi Ngũ Hành bị uy hiếp nặng, những máy bay này không thể đỗ xuống được.
Một người lái không biết Chu Lai đã thất thủ, cho máy bay hạ cánh xuống đấy,
anh bị bắt làm tù binh. Trong số chín máy bay còn lại, bốn chiếc bị bắn rơi, một
chiếc bay ra một đảo ở phía Đông Nam Đà Nẵng, những chiếc kia mất tích, không
còn một đấu vết. Trên cầu tàu Oseola, Brunsun Mc Kinley quan sát những sà lan
và tàu đánh cá đậu chung quanh. Anh ước tính số người đi lên tới mười nghìn, mười
nghìn người Việt Nam đủ lứa tuổi, thuộc mọi tầng lớp. Những người khỏe và những
người ốm.
Thì giờ trôi qua, số lượng giảm dần, người già và người tàn tật
gục xuống vì phải nhịn ăn, vì mưa lạnh trút xuống không thương tiếc. Suốt buổi
sáng, những người Mỹ gọi Sài Gòn thả dù nước uống xuống. Họ đã phân phát một lần
nước uống cho những người trên sà lan đậu gần bằng vòi chữa cháy, nhưng họ vần
còn cần nước uống nữa.
Sứ quán Sài Gòn ở trong tình trạng bối rối. Martin đã ngồi ở
phòng làm việc, bảo những nhân viên của chi nhánh quốc tế phát triển (USAID)
tìm thực phẩm, nhất là nước uống đem cho người tị nạn trên tàu. Người phụ trách
USAID ở địa phương trả lời ông: mọi việc sẽ làm xong trong bốn hay năm ngày.
Martin phản ứng: không phải như thế. Rồi ông quay lại nói chuyện với Polgar. Mấy
giờ sau, máy bay của hãng Hàng không Mỹ do CIA thuê từ Nha Trang, bay lên phía
Bắc, chở dầu, thực phẩm và nước uống. Tất nhiên, thực phẩm ấy chỉ dành cho binh
lính Nam Việt Nam và những người cộng sự của sứ quán hoặc của CIA.
Buổi tối ngớt mưa. Mc Kinley lên cầu tàu Oseola nhìn về Đà Nẵng
lần cuối cùng. Nghe thấy tiếng đạn rốc két và đạn đại bác nổ. Những ánh lửa đạn
xé những đám mây dày đang từ núi bay xuống thành phố. Bỗng chốc, anh chú ý đến
một tiếng nổ giống như tiếng súng. Hai tàu nhỏ vừa đâm vào nhau. Một tàu đang bị
nguy. Lính trên tàu này định cướp tàu kia nhưng Ở đấy cũng có lính. Thế là hai
bên bắn nhau. Mc Kinley chứng kiến đầy đủ. Anh có cảm tưởng đứng trước một cuộc
chiến đấu giữa những người săn bò tót nhưng anh không thể can thiệp được. Người
trên tàu Oseola không dám xem, ngồi nấp sau be tàu. Tàu nhỏ thứ nhất đắm, một
người ở trên đó ném một quả lựu đạn sang tàu thứ hai.
Không đầy năm phút, người trên hai tàu nhỏ đều rơi xuống nước.
Nhiều người chết, nhiều người vật lộn với sóng. Trên cầu tàu kéo, những người Mỹ
đang nhìn, sợ hãi và bất lực.
Những sư đoàn quân Bắc Việt Nam của tướng Lê Trọng Tấn lúc
này ở cách Đà Nẵng 3 kilômet. Thành phố đã bị bắn phá dữ dội. Mấy giờ trước họ
đã chiếm Hội An, cách bờ biển 24 kilômet. Đó là thị xã thứ 13 quân cộng sản chiếm
được từ ngào họ mở chiến dịch Đông – Xuân.
Buổi tối hôm ấy, tàu Pioneer Contender bỏ neo ở Cam Ranh. Một
máy bay của hãng Hàng không Mỹ đến đón Ron Howard và những nhân viên CIA khác
trở về Sài Gòn. Một giờ sau lúc họ tới Tân Sơn Nhất, những người lính gác CIA bắt
họ đeo súng. Howard tỏ vẻ sung sướng về sự cẩn thận này. Anh nói: Tôi sẽ có cái
để trị những viên chức tồi tàn của sứ quán.
Một máy bay của hãng Hàng không Mỹ bay thấp trong bóng tối. Một
nhân viên radio của CIA trên tàu Oseola, hướng dẫn người lái thả hàng xuống.
Thùng nước đầu tiên nặng 25 kilôgam vỡ tung đầy mũi tàu. Nhân viên radio điều
chỉnh lại điểm thả. Thùng thứ hai rơi như một hòn đá xuống vọng kiểm soát. Những
mảnh plastique vỡ tung, làm bị thương một người Việt Nam và làm gãy cần ăng ten
radio. Người Việt Nam bị thủng hai mắt, còn nhân viên radio của CIA phải mất ba
giờ mới làm được ăng ten mới. Trong lúc ấy, Custer và những người khác đẩy những
thùng nước xuống biển cho những sà lan và tàu nhỏ đậu đằng sau. Tối muộn hôm ấy,
điện radio của Francis gửi cho họ do Sài Gòn chuyển, báo tin ông đã thoát nạn.
Hôm sau, ngày 30 tháng 3 là ngày chủ nhật, lễ phục sinh. Ở
Sài Gòn, Phan Quang Đán, phó thủ tướng, chính thức báo tin: quân cộng sản đã
chiếm Đà Nẵng. Ở Palm Springs, California, tổng thống Ford tuyên bố: "Việc
mất thành phố này là một thảm kịch lớn". Trưa ngày 30 tháng 3, nhiều tàu lớn
chạy ra vùng biển Quân khu I; tàu Nhật Bản, tàu Việt Nam, tàu Mỹ và nhiều tàu
kéo khác, tất cả 20 chiếc. Trong mấy giờ, những tàu này chở hết những thuyền,
sà lan, xuồng đậu gần đấy. Một buổi chiều những tàu tuần tra nhỏ của Nam Việt
Nam chạy dưới làn đạn pháo binh cộng sản để cứu nhưng người tị nạn còn chờ trên
bãi biển. Quân Bắc Việt Nam tiếp tục nã pháo vào thành phố nhưng không bắn vào
những người tị nạn và những tàu tuần tra này. Nhờ đó, khi họ nắm quyền, họ dễ
được lòng tin.
Trong khi đó, những người ở trên tàu Oseola được chuyền sang
những tàu Mỹ và buổi chiều thì rời cảng Đà Nẵng. Đến đêm, nhiều tàu, sà lan,
tàu kéo hợp thành một đội tàu chở tới 50 nghìn người tị nạn, vượt quá sức chở rất
nhiều. Do đó đã ngừng việc cho người lên tàu. Mười hai giờ sau, những tàu chưa
chạy đi Cam Ranh chỉ còn có tàu của hải quân Nam Việt Nam. Giữa sự lộn xộn ấy,
đô đốc Cang đang ở Sài Gòn quên không ra lệnh cho họ rút đi. Cuối cùng là
Francis lúc ấy ở trên tàu HQ-5 phải đề nghị bằng rađio với tướng Smith ở Sài
Gòn nhắc Cang đã đến lúc phải cho hạm đội nhổ neo.
Có rất ít nước và thực phẩm cho các tàu chở người tị nạn.
Càng không có trạm cứu thương trong trạm xá. Tất cả những khách trên tàu, dù Mỹ
hay Việt Nam đều phải tự xoay sở trong chuyến đi về phía Nam. Một thầy thuốc Việt
Nam đỡ bốn em bé vừa ra đời dưới một lều vải trên boong tàu USS Miller. Bốn
công dân Mỹ mới. Vì các em sinh trên một tàu Mỹ chạy ở hải phận quốc tế .
Chiều ngày 31, sáu tàu Việt Nam và Mỹ lại quay lại Đà Nẵng để
đón người tị nạn. Hôm sau, nhà chức trách Sài Gòn đề nghị Liên Hiệp quốc can
thiệp với Bắc Việt Nam cho những người tị nạn còn ở lại trong vùng họ kiểm
soát, nhận thực phẩm và viện trợ. Nhưng tại Hà Nội, ngày 24 đã báo tin, chính
quyền liên hợp đã được thành lập ở Đà Nẵng. Thật ra, tướng Tấn làm chủ tịch và
chịu trách nhiệm ổn định lại trật tự. Nhiều viên chức cao cấp của các ngành cảnh
sát và hành chính bị bắt. Thông điệp cuối cùng thật ngộ nghĩnh của tổng thống
Thiệu trong thảm kịch này là: ông ra lệnh cho tướng Trưởng chiếm một đầu cầu
trên một đảo gần bờ biển Quân khu I, để chuẩn bị phản công lấy lại cả quân khu
! Trưởng được bữa cười mũi vỡ bụng. Thất bại ở Quân khu I làm chính phủ thiệt hại
rất nặng. Trong số 3 triệu dân, không đầy 60 nghìn người chạy thoát, phần lớn bằng
đường biển, 16 nghìn lính trốn được nhưng bốn sư đoàn trong đó có sư đoàn lính
thủy đánh bộ, sư đoàn thiện chiến nhất của Trưởng, không còn là đơn vị chiến đấu
nữa.
Lãnh sự quán không có thể làm gì hơn. Mấy tháng sau Francis
phải nhận là trong số năm trăm người Việt Nam giúp việc không biết có bao nhiêu
người tản cư được. Còn Custer công nhận là chỉ có một nửa số năm trăm nhân viên
tình báo có tên trong danh sách CIA là chạy thoát với người phụ hoặc không có
người phụ việc. Chính quyền Ford đổ trách nhiệm về thảm hại này là do thiếu
ngân sách tài chính cho Việt Nam. Nhưng những kẻ lỗi lầm chính là những viên tướng
bất lực, nhất là những tướng của Sài Gòn. Sau khi hứa với Trưởng là không rút
nhanh sư đoàn dù, Thiệu đã thay đổi như chong chóng trong một đêm. Không dành
cho tướng của ông ta thì giờ để tổ chức lại việc phòng thủ: ít nhất hai lần.
Thiệu đã thay đổi ý kiến về việc bảo vệ Huế. Ngoài ra, ông còn từ chối không
cho nhiều tư lệnh và bạn đồng minh biết dự định của mình, tình hình này không
cho phép giải quyết tốt những sự kiện xảy ra. Thiệu không phải là người duy nhất
tỏ ra bất lực trước cuộc khủng hoảng.
Ngay sau khi Huế thất thủ, sứ quán Mỹ cũng bất lực trong việc
điều khiển các nhân viên ở vùng có chiến sự. Francis tỏ ra hết sức chậm chạp, cứ
đinh ninh như đã hứa rằng: quân đội Mỹ sẽ cho máy bay lên thẳng để cứu người tị
nạn. Nhất là ông ta quá tin vào sức mạnh hão huyền của quân đội Nam Việt Nam và
uy tín mơ hồ của chính quyền Thiệu, những đức tính mà Martin cẩn thận giữ gìn
nhằm mục đích ủng hộ chính sách Nam Việt Nam của Kissinger và bảo vệ danh dự nước
Mỹ trên phần còn lại của thế giới.
Việc thất thủ Đà Nẵng khẳng định Bắc Việt Nam đã có ý chí
giành thắng lợi cuối cùng trước tháng tư. Tướng Dũng nhận được lệnh mở ngay cuộc
tiến công vào Sài Gòn. Một ủy viên quan trọng của Bộ Chính trị vào chiến trường
để duyệt kế hoạch quân sự. Đó là ông Lê Đức Thọ, người đã ký năm 1973 với
Kissinger hiệp định Paris. Lúc chúng tôi viết những trang phóng sự, những chuyện
chi tiết về cuộc tản cư ở Đà Nẵng thì quân Bắc Việt Nam tiến trên khắp các mặt
trận, vượt qua những vùng đang tập trung người tị nạn. Các nhà chức trách Mỹ đắn
đo, tránh né, cuối cùng bỏ rơi một số quan trọng những người Việt Nam giúp việc,
mặc cho số phận.
Quân đội Nam Việt Nam tan rã. Số phận bị tiêu diệt trong giai
đoạn này của cuộc chiến tranh lên tới 150.000 người. Phương tiện chiến tranh bị
phá hủy hay bị quân đối phương thu đáng giá một tỉ đô la. Đầu tháng 4, lúc trận
cuối cùng sắp diễn ra, trong một báo cáo gửi Hoa Thịnh Đốn, tôi ước tính quân
Nam Việt Nam phải đánh một chọi ba hoặc bốn. Ngày 2 tháng 4, Colby, tổng giám đốc
CIA, phải tự viết trong một báo cáo dành cho giới cao cấp nhất ở Hoa Thịnh Đốn:
"Cán cân lực lượng ở Nam Việt Nam nghiêng rõ về phía cộng sản. Bạc nhược,
thất bại chủ nghĩa đã hoành hành trong quân đội của Thiệu". Ngày 3 tháng 4
trong một báo cáo mới: "Chúng tôi nghĩ rằng trong mấy tháng nữa, nếu không
là mấy tuần nữa, Sài Gòn sẽ sụp đổ về mặt quân sự hay là một chính phủ mới sẽ
được thành lập, chính phủ này sẽ chấp nhận giải pháp theo điều kiện của cộng sản".
Phần Ba: SỤP ĐỔ
TRÁCH NHIỆM ĐẦU TIÊN
Trong khi Nam Việt Nam tơi tả như áo rách thì Campuchia đi
vào sụp đổ. Ngày Đà Nẵng thất thủ, sứ quán Phôm Pênh báo tin tổng thống Lon Nol
sắp đi "thăm hữu nghị" Indonesia và Hoa Kỳ. Bốn ngày sau, tổng thống
Campuchia rũ rượi và nửa tê liệt lên một máy bay vận tải Mỹ và bay đi Thái Lan,
chặng đầu của chuyến đi. Ông ta không bao giờ trở về nhà. Giờ sau đó, pháo binh
cộng sản điều khiển súng, bắn vào trung tâm Phnôm Pênh, như họ muốn báo cho người
Mỹ và người nước ngoài ở khu vực các sứ quán biết rằng đã đến lúc phải rút đi.
Chập tối, vị trí tiền tiêu cuối cùng của chính phủ trên sông Cửu Long phía Đông
Nam thủ đô, bị tiêu diệt và mười nghìn quân Khmer đỏ tiến về phía Bắc, tiếp cận
với 30 nghìn đồng đội đã tỏa ra chung quanh Phnôm Pênh có quân chính phủ số lượng
chỉ bằng một nửa, bảo vệ. Sau hơn một năm phản đối, cuối cùng Kissinger đã đồng
ý với thỏa hiệp chính trị do Martin, đại sứ Dean và người Pháp dự tính từ lâu.
Hoa Kỳ đồng ý cho Norodom Sihanouk trở về để bắc một cái cầu giữa những người
quốc gia ở Phnôm Pênh và quân Khmer đỏ trong rừng.
Trong khi đó, một bi kịch diễn ra ở Sài Gòn. Cuối tháng 3 tướng
Weyand và Graham Martin nghĩ nát óc để cố cứu Nam Việt Nam. Số phận mỉa mai,
lúc họ trở lại Sài Gòn thì cũng là lúc Quân khu I và Quân khu II sụp đổ. Họ có
biết bao nhiêu việc phải tìm hiểu mà thì giờ chỉ có hạn, họ không thấy rằng giờ
cáo chung đã đến gần.
Ở sứ quán, hai phái đối lập nhau. Một bên là CIA và phái bộ
quân sự, lần đầu tiên, thống nhất nhận định rằng tình hình quân sự đã bi đát. Một
bên, đại diện là Lehmann và nhiều quan chức cao cấp bộ ngoại giao to tiếng bác
bỏ tư tưởng thất bại chủ nghĩa ấy. Họ ủng hộ nhận định: có thêm một ít vũ khí,
đạn dược, quân Nam Việt Nam có thể bảo vệ được nữa phía Nam của nước này và đi
đến cuộc đàm phán "công bằng" với Hà Nội. Đúng là âm vang luận thuyết
thất vọng của Martin.
Đúng lúc ông rời Hoa Thịnh Đốn, Weyand đã biết rằng Nam Việt
Nam đang nguy to. Nhưng tính chất nhiệm vụ của ông không cho phép ông có sự bi
quan đến thế. Ông được cử đến Sài Gòn đề tìm giải pháp không phải là không thực
hiện được. Ông cũng không phải là một nhà quan sát hoàn toàn khách quan. Chẳng
phải ông là vị tổng tư lệnh cuối cùng ở Nam Việt Nam cho đến ngày thực hiện
chính sách Việt Nam hóa và ngày ngừng bắn đó sao ? Cũng như Kissinger, ông nghĩ
rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ tinh thần giúp Nam Việt Nam đứng được cho đến phút
chót, vũ khí trong tay.
Giới thân cận Weyand bị lệ thuộc vào những cam kết trước kia.
Erich Von Marbod, người chịu trách nhiệm về chính sách tài chính của Lầu Năm
Góc đối với Nam Việt Nam từ ngày ngừng bắn, muốn chính sách ấy được thực hiện.
George Carver, nhân viên CIA được Kissinger coi là chuyên gia chính về Việt
Nam, không được chuẩn bị tư tưởng để chấp nhận rằng những chương trình của Mỹ
như "xây dựng đất nước hay “bình định nông thôn", lại không đi đến
đâu. Đồng nghiệp của ông, Ted Shackley có những lý lẽ riêng để mong muốn sự sống
còn của Thiệu. Là giám đốc chi nhánh CIA ở Sài Gòn cuối những năm 60 và đầu những
năm 70, và từ một năm nay là giám đốc CIA ở cả khu vực Viễn Đông, ông đã bỏ nhiều
công sức để làm cho chế độ Thiệu được như ngày nay.
Đi vắng nhiều tuần qua, Martin đã lạc hậu với những sự việc vừa
xảy ra và dù sao ông cũng không sẵn sàng chấp nhận những điều dự tính buồn thảm
của CIA và phái bộ quân sự ở Sài Gòn. Không nên quên, ông đã mất một người con ở
Việt Nam và từ 18 tháng nay, ông bỏ tất cả uy tín của mình ra đề phục vụ chế độ
Thiệu. Ngoài ra, quyết định của Kissinger cử tướng Weyand đến điều tra tại chỗ
là một thách thức đối với năng lực và quyền hạn của đại sứ. Martin phải tỏ rõ
ông có lý để tin vào việc đứng lên được của chế độ Sài Gòn. Dù chỉ là để ngăn
cán ông tướng dẫm chân lên địa hạt của ông.
Những cuộc đấu tranh kiên trì bắt đầu từ lúc máy bay chở
Weyand hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất. Lúc ông tướng và những người thân cận
chuẩn bị xuống máy bay, Martin đòi xuống đầu tiên để những quan chức Việt Nam
ra đón ông ở chân cầu thang. Điều đó làm cho họ không nghi ngờ gì về vai trò của
ông, vẫn là người đại diện tổng thống Hoa Kỳ ở đây. Khi Martin về tới sứ quán,
theo lệnh của Polgar, tôi đến báo cáo tóm tắt tình hình cho ông ta nghe. Tôi
vào phòng ông làm việc, đem theo sơ đồ và bản đồ hành quân, nói với ông:
”Thưa ông, ông Polgar bảo tôi đến trình bày tình hình với ông”.
Martin khẽ gật đầu, gọi George Carver đang ngồi ở phòng bên sang cùng nghe.
Martin có nghệ thuật làm điên đầu mọi nhân viên dưới quyền đến
báo cáo. Lúc nào cũng sẵn sàng cắt ngang, chữa lại và thậm chí làm nhục nếu cần.
Do đó, ông không chuẩn bị chấp nhận bản báo cáo xám xịt của tôi, nhất là lại có
George Carver ngồi cạnh. Bản báo cáo làm ngày nào? Nguồn tin ở đâu? Ông luôn
luôn hỏi như vậy. Làm sao anh chắc được rằng tướng này, tướng nọ không nắm được
quân?
Sau một giờ, tôi mệt lả, chịu thua. Carver sau này an ủi tôi
rằng tôi đã thuyết phục được Martin. Anh đã lầm. Cho đến giữa tháng tư, Martin
vẫn tin rằng các lõm ở Sài Gòn có thể bảo vệ được. Không riêng gì Polgar và tôi
thấy Martin xa lạ với tình hình. Bấy giờ sau khi rời tàu HQ-5, Al Francis, mặt
gầy, mắt dại, râu đen kịt, đến sứ quán đề tường trình với đại sứ cuộc rút lui
thảm bại ở Đà Nẵng. Ông vừa ngồi xuống ghế dài kê ở góc phòng Martin, vừa nói:
"Thưa đại sứ, Đà Nẵng đã mất rồi. Đạo quân của tướng Trưởng không còn nữa
. Martin tủm tỉm cười và lắc đầu. Chả là ông vừa được biết kế hoạch của Thiệu định
đánh chiếm lại Quân khu I. Ông chưa sẵn sàng chịu tang cái chết của Đà Nẵng.
Ông nói trầm rất khó nghe: "Không, Quân khu I sẽ không mất. Những nguồn
tin của tôi khẳng định như vậy.
Thái độ dịu dàng và nhã nhặn, tự tin ấy làm cho Francis thoát
khỏi sự dè dặt hàng ngày. Ông kêu lên: "Nhưng, thưa đại sứ, tôi vừa ở trên
tàu hàng ngày trời với bọn tàn quân của Trưởng. Quân khu I đã thất thủ, tôi cam
đoan với ngài như thế”. Martin ngồi yên một lúc, không nói gì. Ông đổi hướng
nói chuyện, hỏi thăm sức khỏe của Francis trước khi tiễn Francis ra cửa phòng
làm việc.
Từ đó, Francis không còn là đứa con cưng nữa. Tỏ sự bất đồng
của mình với người đỡ đầu, trong lúc bối rối này, Francis đã mất quyền được ưu
tiên cộng tác với đại sứ. Sau đó, Francis phải ngồi làm việc ở một phòng nhỏ gần
cửa ra vào, không được phép vào phòng Martin nữa.
Trong tám ngày bận rộn túi bụi làm việc với Weyand, nhiều
chuyên gia của Hoa Thịnh Đốn ngồi lý ở sứ quán, kiểm tra lại những tin tức mà
ông tướng nhận được. Trong số các chuyên gia này có hai người là bạn thân lâu
ngày của tôi: Dick Moose và Chuck Miessner, là đại diện ủy ban đối ngoại thượng
nghị viện. Đó là những con người liêm khiết, có học. Tôi quyết định làm mọi việc
để giúp họ. Tôi có may mắn gặp ngay họ lúc mới đến. Câu nói mở đầu làm họ chú
ý. Tôi nói: "Tình hình quân sự không thể đảo ngược được. Quân Nam Việt Nam
sẽ thua trận quyết định trong những tuần tới, nếu quân Mỹ không nhảy vào ! Phần
còn lại sẽ nói sau”. Miessner cảm ơn về sự thành thật của tôi và cho tôi biết
anh và Moose sẽ gặp tôi trước khi trở về Hoa Thịnh Đốn. Đó là mở đầu sự cộng
tác của chúng tôi, sự cộng tác mà một tuần rưỡi sau, có những ảnh hưởng đến
thái độ của quốc hội về cuộc khủng hoảng ở Việt Nam, đến kết luận của cuộc điều
tra của Weyand. Từ lúc đặt chân lên đất Sài Gòn, Weyand dành tất cả nghị lực ra
để tìm một chiến thuật mới để có thể cứu Nam Việt Nam.
Một thay đổi về "chiến lược cố thủ” của Thiệu. Thoạt đầu,
Thiệu định đặt phòng tuyến bảo vệ Sài Gòn từ Tây Ninh ở phía Tây đến Nha Trang ở
bờ biển. Nhưng nay, do quân thù đã thâm nhập quá sâu vào phía Nam Quân khu II,
nhất thiết phải thay đổi phòng tuyến ấy. Weyand đề nghị phòng tuyến mới chạy từ
thị xã Phan Rang, bên bờ biển, đến Xuân Lộc. Vì không còn giải pháp nào nên Thiệu
chấp nhận ngay ý kiến ấy. Ông ta chỉ yêu cầu Mỹ một việc: cho máy bay B-52 đến
tham gia việc bảo vệ Sài Gòn. Lấy làm lạ về việc Thiệu còn ảo tưởng có thể nhờ
vào những trận ném bom của Mỹ, Von Marbod giải thích cho ông ta rõ không thể được.
Nhưng để an ủi Thiệu, Marbod sẽ gửi cho quân Nam Việt Nam một số phương tiện,
vũ khí có hiệu lực cho không quân.
Biện pháp đầu tiên của Thiệu là đặt Phan Rang dưới quyền kiểm
soát của tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III. Toàn lại ra lệnh cho người bạn cũ là
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên tư lệnh Quân khu IV (bị thải hồi mùa Thu trước
vì tham nhũng) thiết lập ở Phan Rang một sở chỉ huy tiền phương với một phần sư
đoàn dù. Tiếp đó phải thu thập tàn quân những sư đoàn đã bị đánh tơi bời ở Quân
khu I và Quân khu II. Tổ chức này rất ô hợp không thể chống lại đối phương. Việc
chuyên chở thiết bị quân sự gặp nhiều khó khăn. Phải nhờ phái bộ quân sự Mỹ mới
thực hiện được. Nhưng việc đó sẽ bị Bắc Việt Nam tô cáo là Mỹ lại vi phạm lệnh
ngừng bắn vì đã cho cố vấn quân sự đến giúp quân Nam Việt Nam.
Tướng Weyand cũng đòi phải thay đổi chính phủ. Không phải là
bỏ Thiệu (như cộng sản đòi) nhưng phải mở rộng nội các để có thể đại điện cho
nhiều xu hướng chính trị trong trường hợp có đàm phán với cộng sản. Sau đó, vào
ngày thứ hai hay thứ ba, họ ở Sài Gòn. Shackley và Carver đến dinh tổng thống để
thăm dò phản ứng của thủ tướng Khiêm về ý kiến trên. Cũng như mọi lần, Khiêm
hoan nghênh những đề nghị của Hoa Kỳ. Ông ta nhận sẽ gây ảnh hướng với Thiệu. Nếu
tổng thống phản đối, Khiêm sẽ dọa từ chức để buộc Thiệu phải chấp nhận. Trong
lúc đó, phong trào đối lập ở trong nước phát triển. Một ngày sau cuộc tản cư ở
Nha Trang, thượng nghị viện Nam Việt Nam nhất trí thông qua một kiến nghị đòi
thay đổi thủ tướng chính phủ. Nguyễn Cao Kỳ, nói đến cuộc đảo chính và mong giới
quân sự ủng hộ.
Trưa ngày 2 tháng 4, Kỳ gặp Viên, tổng tham mưu trưởng, Viên
xin nghĩ hai ngày, sẽ trả lời. Ngay chiều hôm ấy, Viên báo cho thủ tướng Khiêm
và đề nghị Khiêm thăm dò người Mỹ xem có phải Hoa Thịnh Đốn đứng đằng sau âm
mưu của Kỳ không. Trong giờ sau Khiêm hỏi Polgar. Polgar trả lời không úp mở.
Người Mỹ không ủng hộ một cuộc đảo chính do Kỳ và bạn bè ông ta tiến hành vì
không có ai trong bọn họ có đủ tính ôn hòa hay trung lập để có thể thương lượng
với cộng sản.
Trong lúc này, Thiệu nghe nói âm mưu của Kỳ. Để đề phòng, ông
ta quyết định thay đổi chính phủ. Thiệu rất giận Khiêm, nghĩ Khiêm biết nhiều về
âm mưu đảo chính mà không cho Thiệu biết. Do đó, chiều ngày 3 tháng 4, khi
Khiêm xin từ chức Thiệu chấp nhận ngay. Hôm sau Thiệu báo tin trên đài vô tuyến
truyền hình việc thay đổi chính phủ. Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch quốc hội kiêm thủ
tướng chính phủ "chiến đấu và đoàn kết dân tộc".
Các giới chính trị ở Sài Gòn thờ ơ với những thay đổi ấy vì
Thiệu tiếp tục cầm quyền. Đại sứ Martin thì bằng lòng, tin rằng chính phủ mới sẽ
giúp Thiệu tập hợp được chung quanh ông ta toàn thể nước này. Còn Polgar không
phải là không đồng ý vì một trong những bộ trưởng quan trọng nhất, từ lâu, là
nhân viên CIA.
Phần lớn đồng nghiệp của tôi tưởng rằng những sự thay đổi ấy
sẽ có thể cứu được Nam Việt Nam và thuận lợi cho cuộc đàm phán công bằng với cộng
sản. Ngày 1 tháng 4, tôi quyết định kiểm tra lại luận điểm ấy qua một thông tín
viên rất tin cậy. Theo anh ta, không có gì ngăn cản Hà Nội tìm cách giành thắng
lợi hoàn toàn.
Buổi trưa, Shackel, Polgar và phó của ông, John Pittman cùng
chúng tôi ăn cơm. Trước những con tôm hùm và rau xà lách, tôi nhắc lại ý kiến của
thông tín viên. Shackley bực mình bảo tôi thảo ngay một bản tường trình cuộc
nói chuyện để ông đưa đến cho Weyand. Polgar tỏ vẻ nghi ngờ hơn. Ông không tin
rằng cộng sản lại muốn phá hủy tất cả trong khi đó họ có thể thương lượng giành
thắng lợi mà không đổ máu. Luận điểm của Polgar gây ảnh hưởng sâu sắc đến chính
sách của Hoa Kỳ trong những tuần sau. Lạ lùng là luận điểm ấy không phải xuất
phát từ hy vọng hão huyền của Nam Việt Nam, mà trái lại. Việc rút chạy khỏi Nha
Trang sẽ làm cho Polgar khẳng định rằng không còn cách nào để khôi phục lại
tình hình quân sự. Như thế phải cố gắng ngay để đi đến một sự thỏa thuận với cộng
sản với bất cứ điều kiện nào. Ông quá tin vào giải pháp này và không hề nghĩ rằng
ngay cả giải pháp ấy cũng không thể thực hiện được.
Ngoài tình hình quân sự, một yếu tố khách quan làm cho Polgar
càng tin rằng thương lượng là con đường duy nhất. Đó là sự lo sợ gần như chắc
chắn về một cuộc trả thù của dân chúng đối với kiều dân Mỹ ở Sài Gòn. Nếu cuộc
tản cư những người Mỹ trở nên cần thiết thì quân dội và dân chúng Nam Việt Nam
có đứng dậy chống lại họ không.
Ngày 3 tháng 4 Polgar nhận được câu trả lời đáng
lo ngại câu hỏi của ông. Sĩ quan Nam Việt Nam định bắt người Mỹ ở Sài Gòn làm
con tin, để bảo đảm sự an ninh của họ trong trường hợp quân cộng sản chiếm
thành phố. Cho rằng Thiệu không phải là người có thể tiến hành tốt cuộc đàm
phán với cộng sản. Polgar quyết định đặt Hoa Thịnh Đốn trước trách nhiệm của mình
và không hỏi ý kiến đại sứ, Polgar bảo tôi giúp ông làm một bản báo cáo theo hướng
đó. Trong hai giờ, chúng tôi soạn xong mọt tài liệu, chưa bao giờ lọt ra ngoài
sứ quán kể từ ngày ngừng bắn và có lẽ mãi mãi cũng không như thế. Chúng tôi viết:
"Sự tồn tại của Thiệu được tính từng ngày. Thiệu mất lòng tin của phần lớn
sĩ quan. Rất có thể có cuộc đảo chính chống lại ông ta sắp xảy ra, chưa biết chừng".
Chúng tôi không xin phép thay Thiệu. Chúng tôi chỉ phát hiện có những lực lượng
thuận lợi cho cuộc thương lượng và sẵn sàng chống lại Thiệu. Tiếp theo là
"việc phân tích ý đồ quân sự của Hà Nội để củng cố cho lý lẽ đòi Thiệu phải
rút lui. "Chúng tôi nghĩ rằng quân Bắc Việt Nam không định giành thắng lợi
quân sự hoàn toàn. Họ bao vây Sài Gòn. Họ phá hủy tiềm năng quân sự của Nam Việt
Nam rồi đàm phán. Điều kiện của họ ? Đó là việc đi đến một chính phủ liên hiệp
nghiêng về phía cộng sản - cái cầu bật lý tưởng nhảy đến thống nhất, theo con mắt
của Hà Nội".
Tóm lại, Polgar và tôi đưa ra nhận định rằng Hà Nội chú trọng
giành thắng lợi qua đàm phán chứ không phải giành thắng lợi hoàn toàn bằng quân
sự. Đó rõ ràng là một nhận đinh đầu cơ, ngược hẳn lại với tin tức tôi nhận được
hôm trước của thông tín viên. Nhưng Polgar quyết định đi đến cùng. Ông cho là nếu
chính phủ biết rõ ý đồ thực sự muốn thương lượng của Hà Nội thì chính phủ sẽ
cho phép thay Thiệu, cho phép mở cuộc đàm phán với cộng sản và có nhiều biện
pháp triệt để khác để tránh cho Sài Gòn mọi sự uy hiếp đang đè lên thành phố
này. Tôi nhắc cho Polgar biết là những kết luận của ông trái với tin tức của
thông tín viên gửi cho tôi là Hà Nội muốn đổ máu !
Nhưng Polgar vẫn giữ ý kiến: Bắc Việt Nam nghiêng về đàm
phán. Một thắng lợi do đàm phán có lợi nhiều cho họ hơn. Sau khi đọc lại lần cuối
cùng bản báo cáo, Polgar viết thêm một câu ngắn bằng bút chì: Những khía cạnh
tích cực của một giải pháp chính trị không cho phép chúng ta được quên một
trong những trách nhiệm chính của chính phủ Hoa Kỳ. Đó là việc tản cư trong trật
tự kiều dân Mỹ và hằng nghìn người Việt Nam đã sẵn sàng hy sinh tính mạng bên cạnh
chúng ta, đã tin tưởng vào những lời hứa hẹn của chúng ta và chữ ký của chúng
ta dưới hiệp định Paris. Tiếp đó, ông ký vào bức điện và gửi thẳng đi Hoa Thịnh
Đốn. Bức điện có hiệu lực.
Ngày 4 tháng 4, CIA và các bộ ngoại giao, quốc phòng tuyên bố
chung trong một thông báo. Trong khi một cuộc tiến công quân sự nhanh chóng và
quyết định có lẽ đang diễn ra, chúng tôi lại nghĩ rằng Hà Nội có thể chọn một
con đường đỡ tốn kém hơn và cao giá hơn về mặt chính trị, hơn là tính đến sự sụp
đổ sắp tới của Nam Việt Nam. Nhưng vấn đề quan trọng nhất - việc Thiệu ra đi mà
Polgar cố làm cho đồng nghiệp hiểu, bị rơi tõm như câu chuyện nói với người điếc.
Hai ngày Sau, Colby, giám đốc CIA gửi cho chúng tôi một điện tối mật. Ông nói
rõ rằng chi nhánh Sài Gòn không được làm gì để gây cho Thiệu đổ. Những chỉ thị ấy
không nói gì đến cuộc đảo chính vì Colby không bình luận gì về vấn đề này,
nhưng đề cập đến những xáo trộn chính trị ở Hoa Kỳ và ở nước ngoài, nếu một lần
nữa, người ta lại khám phá ra việc CIA, nhúng tay vào việc lật đố chính phủ.
Colby viết: đó sẽ là một thảm họa đối với Hiến pháp và Nhà nước nếu chúng ta nhận
được một bản báo cáo nào đó về sự kiện ấy". Ông nói rõ: "Đối với con
mắt các nhà chính trị Sài Gòn, chi nhánh phải tỏ rõ là cơ quan bảo vệ đời sống
và giữ gìn hiện trạng". Ông kết luận: “Nếu sự việc rắc rối, công việc của
các anh là làm cố vấn. Còn tôi, tôi sẽ thu xếp mọi mặt để Thiệu và gia đình ông
ta có thể yên ổn thoát khỏi và đến nơi mới tốt đẹp”.
Huấn thị của Colby làm cho Polgar hết sức thất vọng. Những điều
căn dặn ấy có nghĩa là nếu chính phủ Sài Gòn thay đổi theo con đường hợp pháp
như hiến pháp Nam Việt Nam quy định. Từ nay đến ngày ấy, giải pháp thương lượng
hay cuộc đàm phán cũng không thể có được.
THẢM KỊCH GIỮA TRỜI
Tháng 4 năm 1975. Tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Ở sứ quán Sài Gòn, chưa có một kế hoạch tản cư đầy đủ sát thực tế, mà là một kế
hoạch tản cư làm sẵn hàng loạt từ trước đã phân phát cho tất cả các cơ quan ngoại
giao Mỹ trên thế giới. Đại sứ Martin không muốn làm một kế hoạch riêng cho Sài
Gòn và Việt Nam, sợ việc đó sẽ bị coi là thiếu lòng tin vào tương lai và làm giảm
sút tinh thần người Việt Nam. Trong các cơ quan của sứ quán, mỗi bộ phận chuẩn
bị riêng, bí mật được đến đâu hay đến đó. Một kế hoạch tản cư cho mình. Người
ta giấu nhẹm, ngay cả đồng nghiệp và người quen biết, cả với Hoa Thịnh Đốn,
Honolulu, Bangkok và Manila. Nhưng không ai chấp nhận hoàn toàn thảm họa cuối
cùng sắp tới. Những bài học rút ra từ những sự kiện bi thảm khi thất thủ Đà Nẵng
và Nha Trang, không được ai nhớ cả.
Nhưng những con số còn kia. Tổng số người Mỹ, cả quân nhân và
dân thường còn sáu nghìn người. Nhân viên người Việt Nam làm việc trong các cơ
quan khác nhau do sứ quán chịu trách nhiệm lên đến 17.000 người. Cộng với gia
đình họ (mỗi gia đình mười người) là 170.000 người. Còn phải cộng thêm 93.000
người Việt Nam cộng tác lúc trước với người Mỹ và gia đình họ, như vậy là 930.000
người. Tổng cộng hơn một triệu người tị nạn phải đưa đi Một nhiệm vụ hết sức nặng
nề nếu so sánh với cuộc di tản năm 1954 sau chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất:
Phải hơn ba tháng mới chớ hết 80 vạn người. Ở Chi nhánh CIA, bắt đầu nghiên cứu
khả năng sử dụng người tị nạn sắp rời Việt Nam để làm tình báo sau này. Những
người này sẽ hợp thành những mạng lưới tình báo sống trà trộn với nhân dân sau
khi Việt Nam bị cộng sản chiếm đóng. Một tổ chức người tị nạn sẽ được thành lập
ở Bangkok nhằm mục đích đó, theo mẫu tổ chức của CIA đã thành lập cho những người
di cư ở Đông Âu.
Ngay ở Việt Nam, một quan chức CIA phụ trách phản gián cho rằng
phải xây dựng tức thì một mạng lưới tại chỗ để cung cấp cho CIA tin tức về hoạt
động của chế độ cộng sản. Ở Sài Gòn, tình cảnh bi đát của những người tị nạn sống
chen chúc trong trại đón tiếp hay trong những nhà ổ chuột ở ngoại ô bắt đầu làm
cho Martin suy nghĩ. Thảm kịch này có thể làm nổ ra những hoạt động chính trị
sôi nổi.
Trước đây, Graham Martin là đại diện bộ ngoại giao bên cạnh ủy
ban tị nạn của Liên Hiệp Quốc. Ông biết rõ sự thất vọng của những kẻ phải lìa bỏ
quê hương. Giám đốc hãng Hàng không thế giới Ed Daly khuyên ông nên làm một việc
gì đó đối với người tị nạn. Daly, đã không tiếc tiền để tản cư những người tị nạn
ở Đà Nẵng.
Nhiều ngày qua, xúc động trước những đau khổ diễn ra trước mắt,
ông đang tìm cách tổ chức một cầu hàng không để chở những đứa trẻ mồ côi Việt
Nam sang Hoa Kỳ. Được tin ấy, Martin xin phép ngay Nhà Trắng tổ chức những chuyến
bay như thế. Như trong thư gửi cho bộ trưởng Nam Việt Nam phụ trách vấn đề tị nạn,
ông mong rằng cái cảnh hàng trăm em bé Việt Nam được người Mỹ nhận nuôi sẽ gây
được cảm tình của toàn thế giới đối với người Nam Việt Nam.
Nhà Trắng bật đèn xanh. Và ngày 2 tháng 4, những viên chức
chi nhánh cơ quan CIA báo tin mở cầu hàng không trẻ em, một công việc "cứu
giúp từ thiện" để hai nghìn em bé Việt Nam trở thành con nuôi ở Hoa Kỳ. Việc
này đã được một luật mới về nhập cư cho phép. Về mặt nào đó, cầu hàng không Trẻ
em là một mưu đồ. Trong số những em được hưởng, rất ít em là người tị nạn. Phần
lớn là những trẻ em sống buồn tủi hàng năm nay trong trại mồ côi ở Sài Gòn và
chưa hề bị cuộc tiến công của cộng sản đe dọa. Nhưng sứ quán không đếm xỉa gì đến
chi tiết nhỏ nhặt ấy. Công việc này tốt, nó được tiến hành đúng hướng.
Tướng Smith, tùy viên quân sự tỏ ra đặc biệt vui. Vì ông hiểu
nhanh rằng ông sẽ có lợi như thế nào trong việc tản cư trẻ em mồ côi. Đó là một
dịp rất tốt để cho về Hoa Kỳ một số đông nhân viên của phái bộ quân sự sẽ cải
trang đóng giả làm nữ y tá, người giặt giũ. Chỉ sau mấy giờ Hoa Thịnh Đốn chấp
nhận, ông đã ra lệnh cho các bà vợ, các nữ thư ký chuẩn bị lên đường.
Trong khi đó, chiến tranh đến cửa ngõ Sài Gòn như một
làn sóng. Trong những ngày đầu tháng tư, ba sư đoàn Bắc Việt Nam đã
thâm nhập sâu vào tỉnh Tây Ninh, giữ đường tiến về thủ đô ở phía Nam. Ngày 3
tháng 4, sư đoàn 341 Bắc Việt Nam, đánh chiếm Chơn Thành, cách Sài Gòn 70
kilômet về phía Bắc. Vị trí tiền tiêu cuối cùng của quân đội Sài Gòn ở vùng
này. Khi tin ấy về tới thủ đô, kiều dân phương Tây nóng lòng muốn đi du lịch
ngay. Chỉ một đêm, số người giữ chỗ trên chuyến máy bay quốc tế, một tuần hai kỳ,
của hãng Pan Am tăng gấp hai lần. Hãng hàng không China Airline không còn chỗ
cho đến ngày 9 tháng 4. Phần lớn sáu trăm người trong ủy ban kiểm soát, giám
sát quốc tế chuẩn bị hành lý.
Ảnh: Trụ sở MACV năm 1969 trong sân bay Tân Sơn Nhất, vẫn gọi
là "Lầu Năm Góc Phương Đông", sau 28-1-1973 là trụ sở DAO
Đại sứ Martin tìm cách ổn định tình hình này. Ông nói với một
nhà báo ngày 3 tháng 4: "Sài Gòn không có gì nguy hiểm". Nhưng nhận định
của ông đã làm nhiều người Sài Gòn và nhiều người Mỹ tức giận. Các cơ quan tình
báo của bộ tổng tư lệnh của đô đốc Gayler ở Honolulu, cùng ngày ấy đã gửi điện
cho Lầu Năm góc, phủ nhận những ý kiến của Martin cho rằng Sài Gòn và vùng phụ
cận có thể bảo vệ được. Ở Hoa Thịnh Đốn, các viên chức bộ ngoại giao tuy nhiên,
cũng đã đòi có một chương trình rộng lớn tản cư để cứu ít nhất khoảng hai trăm
nghìn người Việt Nam. Sau khi Nha Trang thất thủ, họ đạt được nhượng bộ đầu
tiên: thành lập một lực lượng “can thiệp" để điều hòa các kế hoạch tản cư
những cơ quan thuộc bộ. Về phía mình, Nhà Trắng tránh bất cứ bình luận trực tiếp
nào về cuộc khủng hoảng Đông Dương. Nhưng những trận tiến công mở rộng.
Ngày 3 tháng 4, tổng thống Ford đang nghỉ hè ở Palm Springs.
Không im tiếng nữa, ông tuyên bố với các nhà báo: Thiệu vội vàng rút lui khỏi
Tây Nguyên nên việc tản cư sáu nghìn người Mỹ ở Việt Nam đã được đề ra. Nói đến
một trong những vấn đề hắc búa, ông cũng giải thích rằng, theo sự hiểu biết của
ông về đạo luật qui định quyền hạn của tổng thống trong chiến tranh,
ông được phép dùng lực lượng vữ trang để giúp vào việc tản cư công dân Mỹ ở bất
cứ vùng nào trên thế giới. Những ý kiến của ông về điểm này không có cơ sở. Thật
vậy, ngoài tình hình bi đát ở vùng phụ cận Sài Gòn, chính phủ còn phải lo đối
phó với thảm họa sắp xảy ra ở Campuchia.
Tình hình quân sự ở Phnôm Pênh tồi tệ hết mức trong những
ngày qua. Nhà Trắng cuối cùng đã phải quyết định bắt đầu tản cư kiều dân Mỹ ở
đây. Sáng ngày 4 tháng 4, đại sứ Dean họp tất cá các nhân viên thông báo quyết
định này. Ông nói: cuộc tản cư tất cả những người Mỹ ở Campuchia hai ngày nữa bắt
đầu. Quyết định ấy, đối với Dean, là một thắng lợi riêng của ông. Bởi vì đã nhiều
ngày qua, ông đề nghị Hoa Thịnh Đốn không được hy sinh tính mạng người Mỹ,
trong khi đó những cuộc bàn cãi về một thỏa hiệp chính trị vẩn tiếp diễn. Nhưng
ông không nhận được ngay sự thỏa thuận. Mấy giờ sau, Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cho
ông hoãn cuộc tản cư cuối cùng. Đến phút chót, Kissinger mới quyết định sự có mặt
của người Mỹ ở Phnôm Pênh là cần thiết. Nó giữ vai trò thăng bằng trong khi
Kissinger cố thương lượng một thỏa hiệp với Sihanouk và những kẻ bảo trợ ông ta
là người Trung Quốc.
Trưa ngày 4 tháng 4, chung quanh những ngôi nhà của phái bộ
quân sự Mỹ ở Sài Gòn, có một sự náo nhiệt đặc biệt. Nhiều thợ mộc và thợ khác
đã hạ cánh cửa, để chuẩn bị cho một trung tâm tiếp đón người tị nạn. Buổi sáng
hôm ấy, một chiếc Galaxy C-5A của không quân, máy bay vận tải lớn nhất thế giới
hạ cánh. Đó là máy bay chở vật liệu chiến tranh cho quân đội Sài Gòn. Trong khi
người ta chở hàng, nhân viên phái bộ quân sự tập hợp 243 trẻ mồ côi. Các em được
máy bay này chở ngay đi Philippines cùng với 44 nhân viên phái bộ quân sự và một
số người Mỹ khác. Đó là chuyến bay đầu tiên của cầu hàng không Trẻ
em. Việc xảy ra mấy giờ sau đó, in sâu mãi mãi vào trí nhớ những người được chứng
kiến chuyến bay này. Chiếc phi cơ vận tải khổng lồ C-5A chở 243 trẻ em và một số
người lớn, rời Sài Gòn, đang bay ra bờ biển, chợt người lái trông thấy ánh sáng
đỏ nhấp nháy trên bảng, báo hiệu một cửa bị hỏng. Anh báo tin cho trạm kiểm
soát sân bay, máy bay sẽ quay lại. Nó đang hạ xuống cánh đường băng, một tiếng
nổ vang dội. Một phần máy bay bị phá hủy, làm cho ca bin bên trong thiếu không
khí. Phần lớn 50 trẻ em và người lớn ngồi trong đó chết ngay vì ngạt thở, một số
bị bật tung ra ngoài, qua cửa không đóng được.
Máy bay bị nạn rơi xuống và trượt xa tám trăm mét đến một
phía thửa ruộng phía Nam Tân Sơn Nhất. Cần dưới bị gẫy, nước tràn vào. Phần lớn
những người thoát chết lúc máy bay nổ và rơi nay lại bị chết đuối. Máy bay lên
thẳng của hãng Hàng không Mỹ đến ngay, chở những người sống sót và hấp hối về
trạm cứu thương đặt trên đường băng. Một nữ nhân viên CIA ra tiễn các em tả lại:
không thể biết chắc được những em đưa từ máy bay lên thẳng sang trạm cứu thương
còn sống hay chết. Hầu hết đều phủ đầy bùn từ đầu tới chân. Mãi đến lúc đưa các
em từ trạm cứu thương đến bệnh viện mới phân biệt được đứa sống, đứa chết. Các
nữ y tá đặt các em dưới vòi nước hoa sen, rửa người các em rồi nói: "em
này còn sống, em này đã chết. Một lát sau được mấy người Mỹ giúp đỡ, tôi xếp
các em còn sống lên xe gíp và xe hơi đem trả các em về các trại mồ côi. Nhiều em
sợ quá không còn khóc được nữa; nhiều em khác giống như những giẻ rách trong
tay chúng tôi.
Tai nạn làm mọi người xúc động. Những người trong chúng tôi ở
lại phòng làm việc của CIA buổi chiều và buổi tối hôm ấy, đều buồn rầu, lặng lặng
ngồi nghe đọc tên theo thứ tự A, B, C những người Mỹ chết từ sân bay Tân Sơn Nhất
gọi về. Con số người chết lên đến mức làm cho tai nạn này trở thành tai nạn máy
bay lớn thứ hai trong lịch sử ngành hàng không. Hơn hai trăm trẻ em
qua đời .Sống sót có một người, còn tất cá nữ nhân viên của phái bộ quân sự đều
bỏ mạng. Và những cái chết ấy là do một cái cửa không được đóng kín. Nếu một
chuyến bay tổ chức vội vàng gây ra tai nạn tày đình như thế này thì một cầu
hàng không không lồ, tổ chức trong thời chiến sẽ nguy hiểm biết chừng nào !
Tướng Smith rất đau buồn về thảm kịch này. Chính ông là người
thiết tha yêu cầu cho nữ nhân viên người Mỹ đi với các em. Nhưng ông từ chối
không chịu bỏ nhiệm vụ đã ấn định. Hôm sau, trong lúc những kíp của phái bộ
quân sự bới tìm xác chết giữa những đống sắt thép của máy bay, ông lại cho hàng
trăm trẻ mồ côi và những nhân viên không cần thiết lắm lên những máy bay vận tải
khác để tiếp tục di tản.
Đại sứ Martin không còn biết làm gì để có thể ổn định được
tinh thần của nhân viên sứ quán về tai nạn xảy ra. Alan Carter, phụ trách cơ
quan thông tin Mỹ, là người được ông giao việc đầu tiên. Hôm sau ngày xảy ra
tai nạn, Carter viết một điện gửi Hoa Thịnh Đốn để báo tin: lộn xộn ngày càng lớn
ở Sài Gòn sắp dần tới hoảng loạn. Đọc bản sao bức điện ấy, Martin nổi giận, ông
hét vào mặt Carter: "Ở đây không có hoảng loạn ! Chúng ta phải làm mọi cái
để không gây hoảng sợ cho Hoa Thịnh Đốn. Ông nói thêm: "Nếu Hoa Thịnh Đốn
hỏi tôi trước khi cho sử dụng chiếc máy bay C-5A này, thì tôi không cho phép.
Và những trẻ em đó sẽ vẫn còn sống".
Carter muốn nôn mửa khi đi từ phòng Martin ra. Đầu ông ta bối
rối. Sao đại sứ lại khốn nạn thế, không những để trút trách nhiệm của mình về
tai nạn này mà còn làm cho mọi người hiểu rằng chính những người như Carter, vội
vàng, hấp tấp, cho là tình trạng đã khẩn cấp, phải chịu trách nhiệm về cái chết
của các em . Từ đó, giám đốc cơ quan thông tin chỉ gọi dây nói thẳng cho Hoa Thịnh
Đốn để trao đổi tình hình. Anh không đếm xỉa đến phép tắc của đại sứ.
NÉM BOM
Sau ngày máy bay C-5A bị tai nạn, tướng Weyand và ê kíp của
ông đến Palm Springs, bang California để tường trình với tổng thống Ford và
Henry Kissinger về cuộc khủng hoảng ở Đông Dương. Bản báo cáo của ông bao gồm một
phần trích những nhận định của tôi về tình hình quân sự. Phần này nêu rõ sự
chênh lệch ghê gớm giữa hai lực lượng và khả năng một cuộc thất bại quân sự của
Sài Gòn. Ngoài ra, bản báo cáo tập hợp những điều bình thường và chung chung.
Các tác giả công nhận những cuộc thất trận mới đây đã làm suy yếu cơ cấu xã hội
và chính trị của nước này và viết thêm: rất khó đánh giá suy yếu đến mức nào. Họ
cũng không vạch rõ ý đồ của Bắc Việt Nam. Họ viết: quân cộng sản có hai khả
năng: chinh phục bằng quân sự hoặc củng cố thành quả mới đạt rồi thương lượng
thỏa hiệp nửa vời. Họ cũng không muốn dự đoán Hà Nội sẽ chọn khả năng nào, mà
cho rằng bản thân Bộ Chính trị Bắc Việt Nam cũng có thì giờ để tiêu hóa những sự
kiện xảy ra trong những tuần trước, cả những thắng lợi trong mấy ngày tới đây.
Tránh né những vẩn đề quan trọng này, Weyand và đồng nghiệp
ông được tự do bảo vệ chính sách của chính phủ. Họ hiểu rằng ngay cả bản thân
Kissinger cũng muốn viện trợ ồ ạt thêm cho Nam Việt Nam để Hoa Kỳ khỏi bị buộc
phải chịu trách nhiệm về sự thất thủ Sài Gòn, nếu chuyện ấy xảy ra. Thật vậy, Weyand
đã xin viện trợ quân sự khẩn cấp bảy trăm hai mươi hai triệu đô la. Họ cố bảo vệ
cho sự rộng rãi ấy bằng những luận điểm của Kissinger. Họ viết: "Các chính
phủ trên toàn thế giới đều nhớ đến quá khứ, nhưng chắc chắn họ sẽ đánh giá việc
Hoa Kỳ không giúp đỡ Việt Nam lúc này là sự phá sản của ý chí và tính quyết định
của người Mỹ. Việc duy trì uy tín của Hoa Kỳ trên thế giới phụ thuộc
vào những nỗ lực của chúng ta chứ không phải vào một thắng lợi hay thất bại
nào.
Họ còn cho rằng tiền sẽ nâng cao tinh thần Nam Việt Nam, nên
sau khi trình bày những ý kiến nói trên, họ nói thêm: Tiền sẽ khôi phục được hiệu
lực của quân đội, tiền ấy cần có ngay để đáp ứng những nhu cầu quân sự cơ bản,
để Việt Nam Cộng Hòa có thể chiến đấu ngang sức cho sự sống còn của mình. Trong
một bản tường trình, Weyand và đồng nghiệp ông có nêu lên vấn đề tế nhị là vấn
đề di tản. Họ viết: "Một sự can thiệp ồ ạt của lực lượng Hoa Kỳ có không
quân chiến thuật yểm hộ, rất cần để bảo đảm cho việc tản cư sáu nghìn người Mỹ,
hàng chục nghìn người Việt Nam và dân nước Việt Nam thứ ba, đối với những người
này, chúng ta có một cái nợ phải trả. Tuy nhiên, họ không đi đến mức yêu cầu một
cuộc tản cư khẩn cấp cũng như không nói rằng việc giảm bớt sự có mặt của người
Mỹ ở Sài Gòn sẽ được thực hiện song song với việc giúp đỡ tài chính. Họ chỉ nói
đến việc tản cư như là một dự kiến, chỉ được tổ chức trong trường hợp quốc hội
không cung cấp 722 triệu đô la.
Chính phủ chấp nhận ý kiến của họ, chỉ bàn vấn đề di tản khi
cuộc thảo luận về vấn đề viện trợ cho Việt Nam ngã ngũ. Có nghĩa là, những người
Mỹ ở Việt Nam gần như trở thành những con tin chỉ được thả ra khi có đủ 722 triệu
đô la, số tiền như Weyand nói, may ra chỉ có thể giúp Sài Gòn tồn tại mà thôi.
Cuộc gặp mặt giữa Weyand và tổng thống Ford kéo dài 90 phút. Kissinger đã đọc bản
báo cáo khi ông ngồi bên cạnh Shackley, Carver, Von Marbod và tổng thống.
Vì quan điểm của họ giống như quan điểm của ông ta, nên
Kissinger không gặp khó khăn gì để ủng hộ. Cũng như họ, ông nghĩ rằng tình hình
quân sự có thể cứu vãn được, cứu vãn một cách chắc chắn. Muốn thế, viện trợ cho
Nam Việt Nam phải rõ ràng, dù chỉ là để bảo vệ uy tín của người Mỹ ở
nước ngoài Kissinger tuyên bố với các nhà báo sau buổi gặp Weyand : Hoa Kỳ đứng
trước một vấn đề đạo lý. Việc cần biết là một đồng minh, đã hợp tác với chúng
ta mười năm, nay muốn tự bảo vệ một mình, thì Hoa Kỳ có quyết định đình chỉ việc
cung cấp phương tiện chiến tranh hay không ?"
Trong khi có những cuộc thảo luận ấy, thì người duy nhất
trong chính phủ có thể phản đối có hiệu quả những luận điểm của Kissinger và những
ý kiến của Weyand, lại ở Hoa Thịnh Đốn đề chữa những vết thương của lòng tự ái.
Đó là bộ trưởng quốc phòng Schlesinger. Một lần nữa, ông bị loại ra khỏi hàng
ngũ cố vấn thân cận của tổng thống. Chủ nghĩa tiêu cực của Schlesinger là một
trong những nguyên nhân khiến Kissinger đẩy ông ra. Một mặt, bộ trưởng quốc phòng
nghi ngờ sự lạc quan của Weyand, mặt khác, ông phản đối kịch liệt mọi viện trợ
mới cho Sài Gòn. Ông cho rằng uy tín của người Mỹ cũng như nhu cầu của Sài Gòn
đã được viện trợ bổ sung 322 triệu đô la cung cấp hai tháng trước đây, bảo vệ
và thỏa mãn. Mọi sự giúp đỡ quan trọng khác đều là lãng phí và không đi đến đâu
cả. Nhất là ông nghĩ rằng Nam Việt Nam không thể nào có hy vọng thoát khỏi tình
trạng hiện nay.
Kissinger chống lại dữ dội quan điềm của Schlesinger. Ông cho
rằng không thể coi thường sự sống còn của Sài Gòn, vì đó là hình ảnh cao quý của
người Mỹ trên thế giới. Kissinger tin rằng viện trợ tối thiểu 722 triệu đô la
là đủ để Nam Việt Nam chấp nhận việc tản cư người Mỹ, nên việc đó cần làm. Sau
này, ông giải thích với quốc hội: "Mục tiêu của chúng tôi là thiết lập một
thế quân sự ngang bằng, nếu việc đó thất bại và đi đến chỗ bi đát thì viện trợ
722 triệu đô la sẽ là phương tiện có hiệu quả làm cho Nam Việt Nam bằng lòng
cho di tản người Mỹ và người Việt Nam mà chúng ta chịu trách nhiệm về tinh thần.
Nói khác đi, Kissinger cho là nếu cần phải trả tiền chuộc để đối lấy
tính mạng những người Mỹ ở Sài Gòn thì “số tiền ấy phải khá".
Ở Sài Gòn, chúng tôi đang đứng trước cảnh hấp hối của Nam Việt
Nam. Trong ba tuần qua, từ ngày bỏ Pleiku, hơn sáu trăm bản báo cáo gửi tới
CIA. Lúc ấy cứ hai ngày tôi làm một bản tường trình công việc, một kỷ lục chưa
từng có. Mười người trong ê kíp phân tích tin của phái bộ quân sự và hầu hết bạn
đồng nghiệp của tôi ở bộ ngoại giao đều làm việc với nhịp độ ấy. Không còn giải
trí ở tất cả các cơ quan của sứ quán. Không còn ai ngoài bể bơi. Sau này, nhiều
vợ viên chức ở sứ quán nói với tôi: họ biết ngày kết thúc sắp đến, ngày có một
biển ghi: Mike, huấn luyện viên bơi lội, đã bị thai hồi vì không còn người học
bơi nữa !
Chúng tôi cũng khám phá ra rằng chúng tôi có nhiều bạn Việt
Nam hơn là chúng tôi tưởng. Họ đến hỏi vào bất cứ giờ nào. Họ đứng ngay ngưỡng
cửa, trong đêm, để không bỏ lỡ một chỗ trống trong những chuyến máy bay lên thẳng
đến bất ngờ. Tôi có trên lưng một việc riêng. Tư Hà, là một nữ chiêu đãi viên
"được cải tạo" ở bar Mini. Hai mươi mốt tuổi, chân ngắn. Hợp tác lâu
ngày với người Mỹ, cô sợ bị đứng đầu trong danh sách những người phải hạ sát của
cộng sản. Ngớ ngẩn! Anh cho là như thế ư? Thật ra: lúc ấy, không ai phân biệt
được cái gì ngớ ngẩn, cái gì không. Người giúp việc tôi đi từ sáng sớm, tôi để
Tư Hà trong nhà làm những việc lặt vặt và thổi cơm chiều. Thêm một gánh nặng phải
mang. Ngày 7 tháng 4, tôi ghi trong sổ tay: mọi người đều thiếu ngủ, buồn man
mác. Thức dậy bất thình lình vào ba giờ sáng vì tiếng đại bác nổ đằng xa. Tiếp
đó là tiếng xích sắt chiến xa chạy ngoài đường báo hiệu dinh Độc lập bị chiếm,
một cuộc đảo chính chăng?
Pat Johnson hôm qua nêu ra ý kiến có thể chúng tôi không thể
vượt qua thử thách này và lần đầu tiên, tôi thông cảm với người Việt Nam. Pat
và Bill, chồng bà đã ký giao kèo với nhau: Nếu quân Bắc Việt Nam chiếm
thành phố mà họ không chạy trốn được thì chồng sẽ bắn một phát đạn 38 vào gáy vợ
rồi quay súng lại bắn vào mình.
Mỗi ngày, người xếp hàng trước lãnh sự quán cũng dài thêm.
Nhưng ở sứ quán, tiếp tục coi là không có chuyện gì thay đổi cả. Hình như, tiếng
súng gầm ở ngoại ô chỉ là báo hiệu cơn giông. Mặc dù có truyền thống bình tĩnh,
hầu hết các nhân viên hai giới ở CIA đều lo ngại. Nữ thư ký có vẻ bình tĩnh hơn
đồng nghiệp nam giới. Họ nói ít về sự nguy hiểm, công nhận sẽ có nhiều tai biến
nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Nam giới tỏ ra quyết tâm đối phó với thử thách. Họ
nói năng với một vẻ quan trọng, trao đổi vũ khí, vừa kể cho nhau nghe những
chuyện chiến tranh, vừa vỗ vào lưng nhau đồm độp, vừa ngậm những viên valium và
uống cốc tai ngay từ trưa.
Cuối tuần thứ nhất tháng tư, một số bạn đồng nghiệp tôi phản
kháng: có hai sự thật, một cái họ thấy và một cái do đại sứ và quan chức cao cấp
tìm cách bắt họ phải chấp nhận qua những tin tức có vẻ tốt lành. Ngay cả sau
tai họa của máy bay C-5A, đại biểu lâm thời Lehmann còn cố tình tuyên bố trước
một nhóm nhà kinh doanh Mỹ rằng không có gì phải sợ cho Sài Gòn. Ông nói
"Thành phố cũng vững chắc như đồng đô la Mỹ. Các ông cứ đầu tư vào !"
Ngay Polgar cũng giúp vào việc củng cố ảo tưởng ấy, mặc dù lý
lẽ ông đưa ra khác lý lẽ của Lehmann. Ít lâu sau tai họa máy bay C-5A, ông yêu
cầu những người giúp việc không nói trước vợ, con hay thư ký tình hình quân sự
bi đát. Ông ra lệnh cho Pat và Joe bắt đầu chuẩn bị bản tường trình tình hình
hàng ngày, trong đó đương nhiên là đánh giá thấp sự uy hiếp của cộng sản và đề
cao lực lượng của chính phủ. Những tin tức ấy sau khi được sửa đi sửa lại, được
điện cho tất cá các sứ quán trên thế giới với hy vọng khơi lên những
bài bình luận ủng hộ sự sống còn của Sài Gòn trong giới báo chí quốc tế và ở quốc
hội.
Nhưng những nỗ lực ấy không được trả giá, nhất là ở cơ quan
CIA, ở đây, nhận được quá nhiều tin tức bi quan, Polgar không thể giấu giếm được.
Thêm nữa, người ta lại biết, ngày 7 hay 8 tháng 4, ông đã gửi về Mỹ không những
hành lý riêng và cả hành lý của vợ nữa. Người ta nói: Polgar làm như thế có
nghĩa là tình hình nghiêm trọng hơn điều ông nói. Những ngày sau,
Pat, Joe và tôi làm mọi cái để các bạn và người thân của chúng tôi có thề hiểu
rõ cái gì sẽ xảy ra. Thính thoảng, một trong ba chúng tôi lại tạt vào một phòng
giấy trống rỗng để báo cho một anh bạn sự phát triển của tình hình quân sự. Tôi
phân phát cho đồng nghiệp tôi bản sao bản báo cáo mới nhất. Chúng rất được hoan
nghênh mặc dù không được phép luân chuyển chúng.
Trước bình minh ngày 8 tháng 4, chiến tranh nổ ra bất ngờ
chung quanh Sài Gòn. Lực lượng cộng sản bắn phá một huyện lỵ phía Nam Biên Hòa,
đặc công tiến công trường sĩ quan phía Đông. Liên tiếp ba ngày liền, ở phía Bắc
đồng bằng nhiều đơn vị thuộc ba sư đoàn Bắc Việt Nam đánh phá quốc lộ số 4 và cắt
đường này một thời gian, ở cách Sài Gòn 25 kilômet về phía Nam.
Tôi đến sứ quán lúc 6 giờ sáng, như mọi ngày. Tôi liếc đọc những
bản tường trình đầu tiên và tự hỏi thủ đô còn đứng được bao lâu nữa. Gần hai giờ
sau, câu trả lời đã đến. Tôi đang gọi một người bạn ở cơ quan USAID để nói về
những dự kiến tản cư. Tôi vừa nói hết một câu thì tiếng động cơ phản lực ầm
vang xé tường của sứ quán như một cơn sóng dữ. Một tiếng nổ dữ dội làm rung cửa
kính gắn plastique. Anh bạn tôi hét lên hỏi ở đầu dây nói: Trời ơi, cái gì thế? Tôi bỏ rời ông nghe không trả lời. Tôi cắm cúi sau bàn tìm khẩu súng 45 trong
cặp. Một lúc sau, cầm vũ khí trong tay, tôi chạy qua hành lang đến phòng
Polgar. Tôi thấy ông đứng trước cửa sổ, cố nhìn xem cái gì đã xảy ra qua những
ô cửa nhỏ của phòng bảo vệ bằng bê tông. Ông nói nhỏ, giọng đanh: "Hình
như có người ném bom dinh tổng thống, anh thử trèo lên nóc nhà xem thiệt hại thế
nào". Dinh tổng thống ở đầu đường Thống Nhất, ở sứ quán dễ trông thấy. Thật
ra, mái nhà trụ sở chúng tôi là nơi cuối cùng tôi muốn lên lúc bây giờ, nhưng lệnh
là lệnh, là người dưới phải tuân lệnh, tôi đi ngay đến cầu thang trong nhà để
làm cái việc mà Polgar bảo tôi làm.
Khi đặt chân lên mái nhà, tôi trông thấy một cột khói bốc cao
ở một góc dinh Độc Lập, cách chỗ tôi 1500 mét. Nhiều người trèo lên theo tôi.
Thư ký và các nhân viên trong sứ quán đều nhanh nhẹn muốn chứng kiến cảnh vừa xảy
ra. Một người kêu lên: "Một máy bay phản lực A-37 bay lượn ba lần và ném
trúng dinh trong lần bay cuối cùng". Tôi nghe lõm bõm rồi căng mắt nhìn
lên bầu trời buổi sáng, về phía Đông, nơi máy bay đến. Tôi tìm một chấm đen
trong ánh nắng, lắng nghe tiếng kêu báo hiệu máy bay trở lại. Không có gì. Chấm
đen biến mất. Yên lặng tràn ngập cả phố. Tiếp đó là tiếng kêu ồ ồ, tiếng còi rối
rít. Mọi người đã đứng dậy, ra khỏi nơi trú ẩn.
Khi tôi trở lại phòng làm việc của Polgar, ông đang ngồi trước
máy chữ, làm một bản báo cáo gửi về Hoa Thịnh Đốn, ông ngừng lại, nghe dây nói.
Một thông tín viên gọi ông từ dinh Độc Lập. Một người không quan trọng lắm bị
thương. Thiệu không việc gì. Một lúc sau, một nữ thư ký chạy tới, đem đến một
báo cáo của một nhân viên tình báo, từ hôm qua đã nằm trong hòm tin. Báo cáo
cho biết chiều hôm ấy, người chỉ huy phi đội thứ 23 ở Tân Sơn Nhất nói chuyện với
hạ sĩ quan vụ họ ném bom dinh Độc Lập. Nhân viên tình báo cho là người chỉ huy
này hành động theo lệnh của tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ.
Tướng Timmes được cử ngay đi gặp Kỳ ở Tân Sơn Nhất để kiếm
tra lại, Tướng Kỳ nói không biết gì về việc ném bom cả. Buổi chiều, đài phát
thanh giải phóng, đài bí mật của cộng sản tuyên bố một sĩ quan không quân Nam
Việt Nam, tên là Nguyễn Thành Trung là người ném bom. Theo đài này, đã từ lâu,
Trung là một cán bộ cộng sản và chuẩn bị việc này mấy tháng nay. Nhưng những
thông tín viên của CIA lại giải thích một cách khác. Theo họ, Trung chỉ là một
phi công đang say rượu muốn làm vừa lòng Kỳ. Kỳ không biết gì cả và không tán
thành việc này. Sự thật thế nào không biết nhưng có một điểm tôi thấy rõ là Sài
Gòn có thể bị ném bom. Mặc dù có nhiều súng phòng không, nhiều hệ thống báo động
do người Mỹ sắp đặt ở khắp nơi, chính phủ cũng bất lực không thể ngăn cản được
phi công bay vào không phận thành phố và hoàn thành nhiệm vụ.
Lòng kiêu hãnh của sứ quán bị động chạm. Rõ ràng là ít người
trong chúng ta biết cách đối xử trước một trận tiến công trực tiếp như thế. Alan
Carter, phụ trách cơ quan thông tin, cho là tai họa này đặc biệt khiếp đảm.
Ngay sau khi máy bay bay đi, ông đề nghị tất cả các cơ quan hành chính trong sứ
quán cho biết kế hoạch đối phó. Các phòng làm việc của cơ quan thông tin nằm gần
dinh Độc Lập, ông có lý do chính đáng để lo ngại. Một nhân viên sơ cấp vội vàng
trả lời Carter: "ông hãy dùng trí tuệ của ông.” Carter nổi giận thét lên:
"Đồ khốn khiếp, tôi dùng trí tuệ của tôi thế nào được nếu tôi không biết
cái gì đang xảy ra ! Ở đây chúng tôi cần những lời khuyên . Hôm sau, đặt một
đài radio mới trong phòng làm việc của cơ quan thông tin để Carter có thể nói
chuyện với sứ quán trong những trường hợp khẩn cấp. Đó là câu trả lời duy nhất
cho yêu cầu của Carter. Ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, Carter và các nhân
viên của ông lại bị bỏ rơi một lần nữa. Người ta đã quên họ!
Trong khi Sài Gòn đang phục hồi sau trận đánh đâu tiền ấy,
các bạn đồng nghiệp của chúng tôi ở Phnôm Pênh, cách Sài Gòn một giờ bay, đang
chờ đòn cuối cùng. Ngày 8 tháng 4, chỉ còn 58 nhân viên người Mỹ ở thủ đô
Campuchia và 35 nhà ngoại giao nước ngoài. Phần lớn đã chuẩn bị. Hôm trước, đại
sứ Dean yêu câu ba trăm nhân viên giúp việc tản cư, nhưng rất ít người chấp nhận.
Người theo đạo Phật tiểu thừa (đạo thịnh hành ở Campuchia) rất sợ chết tha
hương. Trong khi đó, quân Khmer đỏ ngày càng tiến gần đến thành phố!
Chiều ngày 8 tháng 4, họ chiếm vị trí tiền tiêu của
chính phủ cách sân bay 6 kilômet. Họ liên tục bắn phá sân bay. Nhưng trung tâm
thủ đô chưa việc gì.
RỌI ĐÈN CHIẾU
Trận ném bom dinh Độc Lập sáng ngày 8 tháng 4 buộc tôi phải bỏ
buổi nói chuyện về tình hình quân sự thường được tổ chức hàng tuần cho đoàn ngoại
giao và nhân viên cao cấp của Martin nghe. Sau này, tôi cũng không phải nói nữa.
Một phần do Polgar sợ làm cho cấp trên lo ngại, nhưng cái chính là Martin và
Polgar quá tin rằng đàm phán là chìa khóa của tương lai. Do đó cần gì phải nói
đến hoạt động quân sự .
Hai người đều đi đến kết luận ấy nhưng xuất phát từ quan điểm
khác nhau. Sự bi quan về tình hình quân sự làm cho Polgar nghĩ đến giải pháp
chính trị là giải pháp duy nhất có thể cứu Sài Gòn. Còn Martin nghiêng về phía
thương lượng vì ông tin rằng chính phủ Thiệu ở thế mạnh. Polgar sẵn sàng gạt Thiệu
để có đàm phán. Martin cho rằng chính phủ phải được bảo vệ, củng cố để
bước vào thao luận chính trị. Hai quan điểm khác nhau ấy chẳng mấy chốc gây nên
sự bất hòa giữa hai người. Hy vọng chung của họ về một giải pháp
chính trị dựa trên cơ sở mỏng manh. Ngày 2 tháng 4, có tin bộ trưởng ngoại giao
chính phủ Cách mạng lâm thời nói: chính phủ cách mạng sẵn sàng nói chuyện với
Sài Gòn với điều kiện Thiệu rút lui. Nhiều người phát ngôn của chính phủ ở
Stockholm và nhiều nơi khác ở châu Âu cũng nhắc lại đề nghị ấy. Nhưng những tin
tức trên chỉ được tung ra và chưa được kiểm tra kỹ.
Ngày 7 tháng 4, Khiêm, thủ tướng vừa từ chức, gặp thủ tướng
Trần Văn Đôn mới thay ông ta, nói về việc buộc Thiệu từ chức để cứu nước. Không
cần phải thuyết phục Đôn. Bản chất Đôn là một tên đầu cơ, thói quen của ông ta
là lật đổ. Đôn đã chuẩn bị lật Thiệu nếu có sự can thiệp của bên ngoài. Ngày 1
tháng 4, Đôn đừng chân ở Paris sau khi nghỉ hè ở nước ngoài. Ông gặp đại diện của
thủ tướng Pháp, Jacque Chirac, xin tiếp kiến. Như Đôn thuật lại, trong cuộc gặp
mặt này, Chirac bảo ông ta: Nam Việt Nam không còn nữa. "Ba cường quốc” đã
thỏa thuận là Sài Gòn trở về với Hà Nội. Bắc Việt Nam sẵn lòng chấp nhận giải
pháp ấy, với điều kiện là mọi việc được giải quyết xong trong tám ngày qua sự trung
gian của người Pháp. Trước khi rời Paris, Đôn, lấy danh nghĩa cá nhân, gặp đoàn
đại biểu chính phủ Cách mạng lâm thời và hoàng đế Bảo Đại đang sống lưu vong mà
nhiều người muốn sử dụng làm môi giới giữa hai kẻ thù. Một vài ngày sau khi trở
về Sài Gòn, Đôn đề nghị với một người bạn cũ cho tiếp xúc bí mật với đại diện cộng
sản ở địa phương. Sau đó, thuật lại với Thiệu những điều Chirac nói với ông ta.
Lẽ dĩ nhiên, Thiệu phớt lờ và cho rằng người Pháp nói dối.
Sau đó, chiều ngày 5 tháng 4, Đôn nhận được điện thoại từ phòng làm việc của
Chirac ở Paris, nhắc cho ông ta biết chỉ còn ba ngày nữa để thảo luận
dứt khoát với cộng sản.
Bất lực, không thu ẹt phục được Thiệu. Đôn không dám bảo
đảm thời hạn ấy. Đó là tình hình đưa đến cuộc gặp mặt giữa Đôn và Khiêm ngày 7
tháng 4. Vì Đôn không tìm được con đường nào khác để đem lại hòa bình, ông dễ
dàng ngả theo quan điểm của Khiêm: Thiệu phải ra đi.
Hai người cho rằng người thay Thiệu không ai bằng người chiến
hữu già là tướng Dương Văn minh. Năm 1963, họ đã thành lập nhóm ba người để lật
đổ Diệm. Họ chắc rằng sự liên minh cũ có thể nối lại để giải phóng đất nước khỏi
một tên độc tài không còn tác dụng gì nữa.
Từ nhiều năm nay, ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, người ta
coi Minh như một Hamlet già cỗi của nền chính trị Việt Nam, một người do dự đến
mức tê liệt. Sau cuộc đảo chính năm 1963. Minh bị các tướng trẻ loại bỏ một
cách tàn nhẫn. Người Mỹ cũng đi tìm một đồng minh khác. Chỉ có tướng Timmes ở
cơ quan CIA là còn tiếp xúc với Minh. Họ thường đánh quần vợt với nhau ở câu lạc
bộ thề thao.
Nhưng sự sụp đổ của Quân khu I và Quân khu II lại nâng hình ảnh
của Minh lên. Trong một đêm, ông được nhiều người đánh giá là người của tình
hình có thể đứng ra thương lượng. Minh có vẻ là nhân vật chính trị duy nhất
không đứng về phía Sài Gòn mà cộng sản có phần chú ý đến. Về phần Minh, ông
nghĩ rằng sinh ra là để giữ vai trò người ta yêu cầu. Minh coi mình là người
trung lập, hy vọng được nhiều nhân vật chính trị không còn nắm chính quyền ủng
hộ nếu ông nhận trách nhiệm điều khiển quốc gia. Minh cũng cho rằng Chính phủ
cách mạng lâm thời và những người đứng đầu chính phủ này là những người miền
Nam hơn là cộng sản. Giữa một nước Việt Nam thống nhất do Hà Nội chỉ huy và một
liên minh với phái trung lập ở Sài Gòn thì họ sẽ chọn giải pháp thứ
hai. Cuối tháng 3, ít lâu sau ngày Huế thất thủ, Minh bắt đầu chơi
bài. Ông tiếp xúc với Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng và Thủ tướng chính
phủ cách mạng lâm thời. Em của Minh là một nhân vật cao cấp của chính phủ này.
Những cuộc gặp mặt không chính thức, không cam kết, rất dễ dàng.
Khi Minh biết có cuộc hội kiến giữa Đôn và Chirac, ông cố gắng
công khai làm cho người Pháp chú ý đến ván bài của mình; Minh tuyên bố rõ với mọi
người là người Pháp có một vai trò quan trọng trong việc tiếp xúc tìm kiếm hòa
bình. Người Pháp cắn câu ngay. Ngày Khiêm và Đôn quyết định thuyết phục Thiệu từ
chức cũng là ngày đại sứ Pháp ở Sài Gòn bí mật đến nói chuyện với Minh. Hai
ngày sau, Minh mời Khiêm đến nói chuyện ở nhà riêng. Minh công nhận đã có những
cuộc thảo luận bí mật với chính phủ cách mạng lâm thời và nói với Khiêm rằng
người Pháp coi ông là một người thay Thiệu rất tốt để đi đến thỏa hiệp với cộng
sản. Cuối buổi nói chuyện, Khiêm bảo đảm với Minh ông ta hoàn toàn ủng hộ Minh.
Nhân viên CIA báo cho sứ quán diễn biến của những hoạt động ấy,
việc đó càng làm cho Polgar và Martin tin rằng sẽ có thương lượng.
Tuy nhiên, người nuôi nhiều hy vọng nhất vào đàm phán không
phải là Khiêm hay Minh mà là người Pháp. Ngay sau khi Chirac gặp Đôn, người
Pháp đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tìm kiếm một thỏa hiệp chính
trị; cho đến phút cuối cùng, mặc dù không muốn, họ đã góp phần đưa Sài Gòn đến
ven bờ sự hủy diệt.
Tại sao họ tham gia sâu đến thế vào trò chơi hòa bình, tham
gia một cách đáng xấu hổ ? Người ta chỉ có thể đặt ra những giả thiết. Có thể
chỉ là phản ứng của việc báo thù. Những người gô-lít già (Những cán bộ kỳ cựu của
Đảng tướng De Gaulle, Nxb) trong bộ ngoại giao không bao giờ quên, không bao giờ
tha thứ việc Hoa Thịnh Đốn, trong giữa những năm 60 đã từ chối không cho họ can
thiệp để chấm dứt chiến tranh. Thất bại của việc ngừng bắn được nhiều người
trong bọn họ coi đúng là đòn đánh trả lại. Đối với họ đó là một dịp có một
không hai để nước Pháp dành lại một phần ảnh hưởng đã mất ở Đông Dương. Có lẽ họ
cũng chẳng hiểu gì về người cộng sản Việt Nam. Những chuyên gia về Đông Dương ở
bộ ngoại giao Pháp từ lâu cho rằng phong trào cách mạng ở Việt Nam chia rẽ nhiều
hơn là người Mỹ đánh giá. Cũng như Minh, họ nhận định là nửa phía Nam của bộ
máy cộng sản đội lốt chính phủ cách mạng lâm thời, không phải là một trá hình của
Hà Nội mà là một lực lượng tự thân, có thể có hành động độc lập. Dựa vào kinh
nghiệm lịch sử, họ cũng nghĩ rằng Hà Nội không bao giờ định công khai nắm chính
quyền, mà là giấu ý đồ của mình dưới một thỏa hiệp liên hợp.
Cuối tháng ba, đầu tháng tư, làn sóng tuyên bố úp mở về triển
vọng hòa bình, càng làm cho người Pháp củng cố thêm luận điểm can thiệp của họ.
Cuối cùng họ tưởng rằng những sự tranh chấp cũ giữa những người cách mạng ở miền
Nam và ở miền Bắc sẽ công khai nổ ra. Nếu nền ngoại giao Pháp nhanh chóng xen
được vào cuộc tranh chấp ấy thì có khả năng kết thúc chiến tranh với nhiều lợi
ích cho Pháp. Mục tiêu người Pháp đặt ra là trở lại quá khứ, sự hồi sinh của Việt
Nam như ba xứ đã tồn tại trong thời kỳ đô hộ của Pháp ở đây. Bên cạnh Bắc Kỳ cổ
xưa (nay là miền Bắc do cộng sản điều khiển), sẽ thiết lập một chế độ liên hợp ở
miền Trung (Quân khu I và Quân khu II). Ở đây, trước kia người Pháp cai trị qua
bàn tay trung gian của Bảo Đại. Còn phía Nam, trong xứ Nam Kỳ lục tỉnh ( Quân
khu III và Quân khu IV), chế độ Thiệu nhường chỗ cho một chính phủ mở rộng có
thể thương lượng với Hà Nội và nhà cầm quyền mới ở phía Bắc. Để đề ra nước Việt
Nam ban-căng hóa này, người Pháp định ra một chiến lược gồm bốn điểm:
Hà Nội thấy rõ lợi ích của họ là đàm phán. Thiệu có lợi trong chịu đựng. Tướng
Minh chuẩn bị thay Thiệu. Còn đối với người Mỹ, phải làm cho họ tin rằng họ
không có gì lựa chọn tốt hơn là chính sách do người Pháp đề ra cho họ.
Khi Đà Nẵng thất thủ, người Pháp đã bắt đầu hoạt động. Có những
cuộc trao đổi bí mật với Bắc Việt Nam ở cấp cao, với đại diện chính phủ cách mạng
ở Paris. Nhiều sĩ quan đã nghỉ hưu, trước kia phục vụ ở Đông Dương, trở lại Sài
Gòn. Họ được giao nhiệm vụ thuyết phục các chiến hữu cũ tin rằng những cuộc
thương lượng do Paris tiến hành là cần thiết. Những cuộc tiếp xúc với Trần Văn
Đôn ngày 1 tháng 4 được diễn ra với tinh thần ấy. Không nói ra nhưng những cuộc
trao đổi được tiến hành với ý thức tốt. Trong những cuộc thảo luận mới nhất với
Bắc Việt Nam và đại diện chính phủ cách mạng lâm thời, người Pháp nhận được bảo
đảm rằng việc thay đổi chính quyền có thể thương lượng ở Sài Gòn trong vòng tám
ngày nếu nước Pháp đóng tốt vai trò của mình. Nhưng bộ ngoại giao Pháp cần kiểm
tra ngay giá trị của Chirac - Trần Văn Đôn, các nhà ngoại giao Pháp ở Hà Nội điện
khẩn về Paris rằng triển vọng một thỏa hiệp là không có, Bắc Việt Nam có vẻ quyết
tâm giành ngay thắng lợi hoàn toàn. Như là để khẳng định điều đó, phái đoàn Bắc
Việt Nam ở Paris nói với các nhà chức trách chính thức của Pháp rằng, trong bất
cứ trường hợp nào, điều kiện đầu tiên cũng là Thiệu từ chức, quan hệ giữa Sài
Gòn và Hoa Kỳ phải chấm dứt. Không có tình hình đó sẽ hạn chế rất nhiều những
cuộc thương lượng. Ngày 5 tháng 4, người Pháp chuyển những yêu cầu ấy cho Hoa
Thịnh Đốn, tưởng rằng người Mỹ sẽ mất lòng tự trọng và chấp nhận.
Nhưng Kissinger không tỏ ra dễ bảo. Theo nhận xét của
ông, giải pháp ba Việt Nam do người Pháp đưa ra, chỉ là một mánh khóe chính trị
để nước Pháp lấy lại vai trò điều khiển của mình ở Đông Dương. Hơn
thế, đó là một hoạt động không hợp pháp. Để giành chính quyền, tướng Minh sẽ phải
vi phạm hiến pháp Nam Việt Nam. Kissinger lo có sự lộn xộn sau đó và tính mạng
người Mỹ sẽ bị uy hiếp. Ngày 7 tháng 4, ông báo cho Paris biết rằng những đòi hỏi
của Hà Nội không thể chấp nhận được. Nhưng hoạt động đó một lần nữa lại chuyển
về Sài Gòn.
Jean Marie Mérillon, viên đại sứ nhỏ bé của Pháp ở Nam Việt
Nam có hai ham thích lớn: công việc và săn bắn thú rừng. Từ ngày ông đến đây, gần
một năm về trước, ông tỏ ra thành thạo ở cả hai mặt. Tôi đã trông thấy bức ảnh
ông đi săn ở Buôn Mê Thuột. Ông đứng cạnh một con hươu bắn được đêm trước. Hình
như ông rọi đèn chiếu làm cho nó lóa mắt rồi bắn trúng mắt nó. Rọi đèn chiếu là
một mánh khóe riêng của đại sứ trong ngoại giao cũng như trong săn bắn. Ông
cũng dùng kỹ thuật ấy ở Sài Gòn trong những tuần cuối của cuộc chiến tranh, làm
bừng sáng những cuộc tiếp xúc chính trị với những lời hứa hẹn và hy vọng quá độ
cho đến lúc chúng rơi vào lưới. Và mỉa mai thay, lại vào lưới Hà Nội. Trong tuần
đầu tháng tư, Mérillon áp dụng chiến thuật ấy với em họ Thiệu là Hoàng Đức Nhã.
Ông cho Nhã biết mấy nét về giải pháp ba Việt Nam và vận động Nhã tham gia thực
hiện. Không có ý chế giễu nào, ông kể lại thí dụ quân đội Pháp năm 1940 nhắc lại
sự dàn xếp được đề ra đúng lúc với bọn nadi nhờ đó đã cứu được nước Pháp khỏi
tan vỡ.
Câu trả lời của Nhã thật đau và nặng nề. Ông ta nói với
Mérillon: Ông điên rồi, kế hoạch ấy thật buồn cười !". Đại sứ
Pháp không nản lòng. Những ngày sau, ông rọi đèn vào một con mồi lớn hơn nhiều,
Graham Martin. Nhà riêng của Mérillon và sứ quán Pháp ở ngay cạnh sứ quán Mỹ.
Mérillon đến thăm kín đáo Martin rất dễ dàng vào bất cứ giờ nào để
nói chuyện chung quanh tách cà phê. Mỗi lần đến thăm đại sứ Mỹ, ông lại nói
thêm về cái lợi của cuộc đàm phán. Ông nói: Không, chắc chắn là chưa có gì chứng
tỏ Bắc Việt Nam chấp nhận những điều kiện đặt ra. Nhưng ta cứ thử xem, có mất
gì đâu.
Phản ứng đầu tiên của Nam Việt Nam là tiêu cực: Cũng
như Kissinger, ông cho rằng nếu có chuyện thay đổi chính phủ ở Sài Gòn thì việc
đó phải thực hiện đúng hiến pháp để làm cho chế độ thêm vững và tăng thêm triển
vọng thương lượng một cách công bằng giữa những người kế tiếp Thiệu và cộng sản.
Khó cho Martin chấp nhận nhận định của Mérillon cho rằng hiện nay Sài Gòn yếu đến
mức không còn con đường nào khác là con đường hòa bình.
Nhưng Martin chưa sẵn sàng bác bỏ lúc này những ý kiến của
người Pháp. Ông là đấu thủ đánh cờ chứ không phải đấu thủ đánh bài. Do đó, đáng
lẽ xả láng cho cái ông cho là tốt nhất, ông lại quyết định tiếp tục tiếp xúc với
Mérillon như là người ta giữ hai miếng thép trong lửa. Martin cho đục một cái cửa
giữa sứ quán Mỹ và sứ quán Pháp, đặt giữa hai sứ quán một con đường dây nói trực
tiếp cho chắc chắn. Cho chắc chắn hơn, đường dây chạy mãi vào trong
buồng tắm của Mérillon đặt bên phòng làm việc của ông. Những ngày sau đó, thư
ký và nhân viên sứ quán Pháp bắt đầu lo ngại về sức khỏe của ông vì thấy ông
liên tục vào buồng tắm. Vừa tìm kiếm sự ủng hộ của người Mỹ, Mérillon vừa nhằm
một mục tiêu khác.
Từ nhiều tháng nay, sứ quán Pháp giao thiệp kín đáo với tướng
Minh qua nhiều trung gian. Đầu tháng tư, tướng Minh còn công khai tỏ ý hoan
nghênh những nỗ lực của Paris để tìm kiếm hòa bình. Mérillon lợi dụng lời tuyên
bố ấy để nhảy vào. Trong cuộc gặp đầu tiên ngày 7 tháng 4 với Minh, Mérillon kể
lại những cuộc tiếp xúc giữa chính phủ Pháp với Bắc Việt Nam, nói thêm rằng,
theo ông, Minh giữ một vai trò quan trọng trong vấn đề này. Tuy
không nói ra. hay là nói quá rõ rồi điều đó có nghĩa là Paris đã chọn Minh làm
người thay Thiệu.
Mấy ngày sau, tổng thống Pháp Valery Giscard d' Estaing, đích
thân kêu gọi Thiệu tỏ rõ thiện chí cho một sự hòa hợp. Phình ứng của Thiệu khác
hẳn điều Paris mong muốn hay chờ đợi. Không chút sợ hãi những lời đe dọa, tống
thống Nam Việt Nam ra lệnh cắt ngay mọi quan hệ với sứ quán Pháp cho đến lúc
Giscard rút lui ý kiến của ông. Do đó, Mérillon không được đến dinh Độc Lập
ngay cả lúc ông hy vọng được tiếp kiến Thiếu để thuyết phục ông ta từ chức vì lợi
ích của một xứ Nam Kỳ không cộng sản.
Để giành lại quyền chủ động, Mérillon dùng một chiến thuật
nguy hiểm. Nhờ những cuộc tiếp xúc với người Việt Nam, ông cho loan truyền
trong thành phố tin quân cộng sản sắp tiến công ngay Sài Gòn. Những lời dự đoán
kinh hãi ấy có tác dụng làm cho sứ quán Mỹ hoảng sợ và trong một lúc, không chú
ý đến ý đồ thật sự của Hà Nội. Sau cùng, Mérillon thú nhận đã phao tin. Mưu mẹo
của ông dù sao cũng tiếp tục gây ra những hậu qua tai hại. Sau đó, mỗi lần có một
bản báo cáo nói về cuộc tiến công của cộng sản, những người lạc quan nhất trong
chúng tôi đều lắc đầu và nói: lại người Pháp định làm cho Thiệu sợ để ông ta từ
chức Ngày càng bị ám ảnh về “một cuộc thương lượng”, Polgar mất dần khả năng
xét đoán. Quyết tâm thuyết phục đại sứ Martin về triển vọng cuộc đình chiến,
Polgar không còn biết đến bất cứ tin tức nào nói ngược lại.
Nhưng những bản tin tới tấp được gởi về CIA đều nói về việc
chuẩn bị quân sự của Bắc Việt Nam đang khẩn trương. Quân đội của họ đã huy hiếp
chung quanh Sài Gòn, nhất là ở Xuân Lộc, phía Đông thủ đô. Polgar và đại sứ tiếp
tục cho là những tin tức ấy quá bi quan. Khi những sự kiện nổ ra chứng tỏ những
người bi quan đúng, người ta mới thấy rõ ràng tất cả những gì quay chung quanh
giải pháp thương lượng đều là để che mắt. Bắc Việt Nam lợi dụng tình
hình này để chuẩn bị về mặt quân sự. Trong đêm 8 tháng 4: CIA nhận được tin của
một nhân viên là: "Bộ tư lệnh tối cao Bắc Việt Nam vừa quyết định giải
phóng toàn bộ vùng phía Bắc Sài Gòn trong tháng tư. Tiếp đó họ tiến thẳng vào
Sài Gòn, không có một tí gì là giải pháp thương lượng. Hôm sau, một điện khác
báo tin cộng sản sẽ tiến công vào Sài Gòn muộn nhất là ngày 15 tháng 4. Trong
điện của tôi viết gởi Hoa Thịnh Đốn, Polgar tẩy chữ vào thay “vào“ bằng chữ
“chung quanh”.
CHIẾN DỊCH PHƯỢNG HOÀNG BAY
Ngày 9 tháng 4, những người phân tích tin của phái bộ quân sự
Mỹ đi đến kết luận là chiến tranh sẽ kết thúc vào tháng 6, bằng chiến thắng của
cộng sản. Martin chối tai về những dự đoán đó. Khi có người hỏi: vì sao, đại sứ
trả lời đơn giản: "Những yếu tố chính trị". Người ta không đành cho
chúng đủ sức nặng. "Chính sách rọi đèn chiếu” của Mérillon đạt hiệu quả.
Tôi chưa kịp gửi bản báo cáo cuối cùng của tôi đi thì Martin đã điện cho Nhà Trắng
một tài liệu do cố vấn kinh tế của ông là Dan Ellerman nghiên cứu và soạn thảo.
Ý ông muốn chứng tỏ cho Hoa Thịnh Đốn biết nửa phía Nam nước này có thể tự bảo
vệ lấy mình.
Tiếp đó, ông định chỉ huy chặt chẽ Alan Carter, người phụ
trách cơ quan thông tin. Carter đề nghị với đại sứ mọi cuộc tiếp xúc với giới
báo chí đều do cơ quan thông tin đảm nhận làm trung gian. Martin không muốn như
thế vì ông biết nếu Carter làm việc này sẽ gây bi quan cho giới báo chí đã quá
sốt ruột. Ngày 9 tháng 4, ông gọi Carter vào phòng làm việc. Ông
nói: "Tất cả các cơ quan ở sứ quán đều dưới quyền điều khiển của tôi, do
tôi quyết định cần phải làm gì". Carter trả lời: "Thưa
ông, tôi nghĩ đơn giản là nên điều hòa quan hệ giữa chúng ta với giới báo chí
thì hơn
- Làm cho tôi một kê hoạch về vấn đề này.
-Thưa ông đại sứ, chúng ta đã cùng đường rồi. Làm gì còn thì
giờ để làm những việc quan liêu không thiết thực ấy.
Thấy thế, Martin thay đổi chiến thuật. Ông nói: "Này anh
bạn Alan ạ, anh biết không, các đồng nghiệp cho là anh đã xa rời hàng ngũ rồi đấy.
Anh không đi kịp cùng đoàn". Carter hỏi ông tên những người lên án anh,
Martin chỉ nhún vai và tiếp tục: ”Tôi không nói là anh hành động một mình. Tôi
chỉ nhắc lại những điều một số đồng nghiệp nói". Ông ra lệnh cho Carter
làm một dự thảo tổ chức lại bộ thông tin Việt Nam. Carter kêu lên: "Trời
ơi ! việc đó không thể thực hiện được. Chúng ta không còn thì giờ để làm việc
đó” .
Martin thở dài: "Thế thì tôi cho là các đồng nghiệp đã
có lý. Khi tôi bảo anh làm việc gì dù là hết sức quan trọng, anh đều xử sự như
có một mình anh".
Sau cuộc nói chuyện một lúc, Martin ra lệnh cho Carter nhân
danh sứ quán, nói trên vô tuyến truyền hình rằng Sài Gòn không có nguy cơ bị cộng
sản làm đảo chính, người Mỹ vẫn ở lại. Carter bất đắc dĩ phải thực hiện việc
đó. Bài nói của anh được ghi trên vidéo, kèm theo bản dịch ra tiếng Việt Nam được
phân phát mấy ngày sau đó cho hệ thống truyền hình của chính phủ. Những người
Việt Nam xem vô tuyến đều nhìn rõ hình ảnh Carter trẻ khỏe báo tin mọi sự đều tốt
đẹp, trong khi đó lực lượng Bắc Việt Nam chỉ cách Sài Gòn hai kilômet!
Lúc ấy, ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ đã có bản báo cáo của phái
đoàn tướng Weyand. Ủy ban an ninh quốc gia phải họp kín 48 giờ để nghiên cứu những
kết luận và đề nghị của phái đoàn. Cùng lúc ấy, nhiều nhân vật chính
thức bắt đầu đòi phải chú ý đến vấn đề tản cư. Giám đốc CIA, Colby, mỗi lúc
càng thêm nghi ngờ về sự sống còn của Sài Gòn. Ông đề nghị tản cư nhanh người Mỹ
và người Việt Nam mà tính mạng đang bị uy hiếp. Ông phản đối Martin đã cho rằng
một quyết định như thế sẽ gây hoang mang trong kiều dân Mỹ. Schlesinger và chủ
tịch hội đồng tham mưu liên quân, tướng George Brown, tán thành việc tản cư
nhanh.
Nhưng khác với Colby, các ông muốn tản cư người Mỹ và phương
tiện chiến tranh hơn là cứu người Việt Nam: Phải phớt tỉnh trước những thực tế
đau buồn ấy ! Kissinger phản đối cả hai thái cực. Ông ủng hộ lòng tin vào tương
lai của Martin và cho là chưa cần thiết phải tổ chức ngay cuộc tản cư. Nó chỉ
làm yếu thêm vị trí của Thiệu, giữa lúc có thêm viện trợ tài chính của Hoa Kỳ để
cứu ông ta. Quan điềm của Kissinger cuối cùng đã thắng. Tuy nhiên. phải chuẩn bị
một cuộc tản cư toàn bộ, nhưng cần chờ giải quyết tối hậu. Đô đốc Gayler và đại
sứ Martin sẽ làm xong kế hoạch tản cư ngày 19 tháng 4, ngày mà quốc hội (người
ta hy vọng) sẽ quyết định về viện trợ tài chính và về sử dụng lực lượng quân đội
để bảo vệ cuộc tản cư theo đề nghị của tướng Weyand. Trong khi chờ đợi, Martin
phải giảm nhanh số nhân viên để số kiều dân Mỹ chỉ còn 1.100 người. Con số này
chỉ cần một phi đội nhỏ máy bay lên thẳng là có thể tản cư được nếu việc đó xảy
ra. Chính quyền cũng cần giảm nhẹ điều kiện nhập cư để người Mỹ có thể đem theo
vợ, con và cha mẹ là người liệt Nam. Trái với Schlesinger, Kissinger cho là nhất
thiết phải cứu càng được nhiều người Việt Nam càng tốt, đó là danh dự và uy tín
của Hoa Kỳ.
Trước sự ngạc nhiên của đồng nghiệp và người Pháp, Kissinger
tiếp tục bỏ ngỏ cửa chính trị về phía Bắc Việt Nam. Ông cho rằng họ đã nắm mọi
chủ bài. Nhưng ông cũng chấp nhận những sáng kiến gián tiếp nhất là một thông
điệp ngoại giao gửi Cho Liên Xô và Trung Quốc mời họ dự một hội nghị
ở Genèvre như hiệp định Paris qui định. Ông cũng tán thành việc nhờ Pháp làm
trung gian để khôi phục hòa bình ở Campuchia. Nhưng ông từ chối không ra lệnh tản
cư tất cả người Mỹ ở Phnôm Pênh.
Chưa bao giờ Kissinger tỏ ra không khoan nhượng, bảo thủ như
thế trong các cuộc thảo luận. Không còn chú ý gì đến phép lịch sự, ông tỏ ra
thô lỗ đối với Colby và Schlesinger, hai đối thủ chủ yếu của ông. Ông lên án họ:
liên tục báo động và xin tản cư với mục đích duy nhất chỉ là để bảo vệ
"cái quần" của họ.
Ở Sài Gòn, tướng Smith, tùy viên quân sự, được giao trách nhiệm
xúc tiến việc chuẩn bị di tản cho sứ quán. Việc này được thực hiện không phải
là êm đẹp ngay, mà gây ra xung đột giữa các bộ phận. Một cuộc chiến tranh nhỏ bằng
điện tín giữa Hoa Thịnh Đốn và nhiều nhân vật có trách nhiệm. Người Mỹ biến nóc
nhà thành sân cho máy bay lên thẳng đỗ. Một đội tàu sẵn sàng đậu trong sân. Và
Martin tiếp tục lo ngại rằng những công việc ấy làm cho người Việt Nam hoảng sợ
và làm mờ hình ảnh Hoa Kỳ. Trong khi đó ở Manila (Philippine), đại sứ than phiền
về số người di tản không hợp pháp quá đông đến căn cứ không quân Clark.
Trong khi ở sứ quán Sài Gòn, người ta đấu tranh chống những hạn
chế do Martin đề ra, ba sư đoàn Bắc Việt Nam tiếp tục tấn công Xuân Lộc, cách
Sài Gòn 60 kilomet về phía Đông Bắc. Trong hai ngày đánh nhau, ngày 9 và 10
tháng 4, hơn một nghìn quả đạn rốc két và đại bác bắn xuống đây và một trung
đoàn Bắc Việt Nam đã vượt qua được hàng rào vào thị xã. Đêm sau, lực lượng
chính phủ gồm 25.000 người, gần một phần ba quân đội Nam Việt Nam, phản công,
đuổi quân Bắc Việt Nam ra ngoài. Nhưng họ bắn phá liên tục. Không quân Nam Việt
Nam, ném bom từ trên cao, vu vơ giết hại thêm nhiều người. Đó là một thói quen.
Trước tình hình ấy. Polgar quyết định một lần nữa đề nghị Hoa
Thịnh Đốn mở một cuộc vận động chính trị. Sáng ngày 10 tháng 4, John
Pittman, ngươi phó của Polgar, gọi tôi đến phòng làm việc, nói với tôi những
nét đại cương kế hoạch của ông: lần này, tôi phải làm một bản đề nghị trong đó
ghi rõ vời tất cả các phương tiện có thể sử dụng được, cũng không thể nào tản
cư hết người. Pittman nói khi thấy tôi hết sức ngạc nhiên: "Polgar muốn
thuyết phục Hoa Thịnh Đốn là không có con “đường nào khác là sự can thiệp chính
trị". Tôi trở về phòng làm việc, bối rối và nản chí. Hoạt động quân sự chắc
chắn sẽ gây ảnh hường ngược hẳn lại với ý Polgar. Đáng lẽ phái chú trọng đến việc
xin tản cư gấp, ông lại muốn có một sự dàn xếp. Trách nhiệm của tôi là trình
bày là không còn giải pháp nào khác.
Không cần phải suy nghĩ nhiều để tìm ra lý lẽ hùng hồn ủng hộ
quan điểm của Polgar. Trong tình thế hiện nay, không thể nào tản cư được mười vạn
người dù bằng đường biển hay bằng máy bay. Bản đề nghị của tôi được gửi về Hoa
Thịnh Đốn không qua phòng đánh tin của sứ quán. Nhưng Martin cũng đọc được. Ông
bảo tôi, ông không hoàn toàn tán thành kết luận của tôi. Ông công nhận có những
khó khăn trong việc tản cư, nhất là đối với số đông người Việt Nam, nhưng việc
đó không phải là không thực hiện được.
Khi bản đề nghị của tôi tới trụ sở CIA, tôi gần như thất vọng.
Suy nghĩ về sự rộng lớn của vấn đề tản cư, tôi lo ngại cho sự thiếu chuẩn bị của
chúng tôi và tôi muốn báo cho đồng nghiệp ở Mỹ biết. May quá, tôi không phải
tìm xa mới thấy phương tiện. Chiều ngày 10 tháng 4, hai anh bạn Moose và
Miessner gọi dây nói cho tôi. Họ còn ở lại Sài Gòn điều tra cho ủy ban đối ngoại
thượng nghị viện. Họ yêu cầu tôi cung cấp thêm tin tức để làm bản báo cáo cuối
cùng trình quốc hội.
Tối hôm ấy, ba chúng tôi gặp nhau ở quán cà phê khách sạn
Majestic, gần cảng. Uống xong cốc rượu, tôi trình bày với các bạn những nét lớn
của tình hình. Quân Bắc Việt Nam tiến công Xuân Lộc. Tin tức mới nhất
cho biết cuộc tiến công vào Sài Gòn sẽ nổ ra vào ngày gần nhất là giữa tháng
tư. Kế hoạch tản cư của sứ quán, không kể phần của phái bộ quân sự, khá vu vơ,
viển vông. Moose vừa lắng nghe vừa vuốt râu mép. Hai lần Miessner suýt nghẹn vì
miếng thịt trâu. Họ vừa ở Phnôm Pênh hai ngày. Do đó họ chưa biết rõ sự suy sụp
của tình hình Nam Việt Nam.
Sau cuộc nói chuyện, họ đến sứ quán, gửi một điện cho cấp
trên của họ ở thượng nghị viện, báo tin họ sẽ trở về ngay với nhiều tin xấu. Họ
cũng thảo một báo cáo sơ lược về những điều tồi tệ mà nhiều người khác nói với
họ. Họ sắp gửi đi qua phòng truyền tin của sứ quán thì Moose, sau khi suy nghĩ,
thay đổi ý kiến, anh muốn gửi bản báo cáo vào hôm sau, qua sứ quán Manila để
Martin không kiểm duyệt được.
Mấy giờ sau khi tôi gặp hai anh bạn, tống thống Ford nói trước
quốc hội phải giảm nhanh số dân Mỹ ở Sài Gòn và đề nghị được quyền sử dụng lực
lượng vũ trang trong trường hợp tản cư ồ ạt. Ông cũng đề nghị viện trợ tài
chính thêm 722 triệu đô la cho Nam Việt Nam. Ông giải thích: số tiền này cho
Sài Gòn một dịp may để tự cứu và cho phép có thì giờ để đi đến một thỏa hiệp
chính trị.
Phản ứng của quốc hội rất nhanh và nói chung là không tán
thành. Những đề nghị của tổng thống được sử dụng lực lượng vũ trang làm bùng ngọn
lửa tranh luận. Nhiều đại biểu quốc hội phản đối về nguyên tắc đề nghị của ông.
Nhiều người khác đồng ý dùng lực lượng vũ trang để bảo vệ người Mỹ nhưng họ phản
đối nếu lực lượng ấy tham gia vào việc tản cư người Việt Nam. Những điều không
rõ của chính phủ là nguyên nhân đẻ ra những ý kiến trái ngược ấy. Bản tường
trình của tổng thống Ford đưa qua quốc hội cũng mơ hồ như nghị quyết giả tạo về
sự kiện vịnh Bắc bộ năm 1964 đã làm cho Hoa Kỳ mắc nghẽn vào cuộc chiến tranh
Việt Nam mà quốc hội không thể làm gì được.
Quốc hội sợ bị bó tay, nhưng những sự kiện diễn ra ở
Campuchia sau đó làm cho những điều lo ngại ấy không đáng kể nữa. Sau ngày 11
tháng 4, quân Khmer đỏ chiếm ba làng phía Bắc Phnôm Pênh và tăng cường bắn phá
sân bay. Trước đó, đại sứ Dean điện cho Kissinger một lần nữa, xin phép được tản
cư số nhân viên còn lại: Kissinger lại không đồng ý, cho rằng cuộc tản cư ấy
chưa cần thiết. Một đại diện Hoa Thịnh Đốn lúc ấy đang ở Bắc Kinh để chiều hôm ấy,
thảo luận với một nhân vật của chính phủ lưu vong Sihanouk.
Cuộc gặp ấy diễn ra lúc 17 giờ, giờ Bắc Kinh. Người phát ngôn
Mỹ, một quan chức bộ ngoại giao, John Holdridge báo cho đại diện Sihanouk biết
Hoa Kỳ nay sẵn sàng ủng hộ những nỗ lực của thủ tướng lưu vong để đi đến một cuộc
dàn xếp. Vì mục đích đó, sự có mặt của người Mỹ ở Phnôm Pênh vẫn được duy trì.
Người Campuchia trả lời Sihanouk sẽ bay đi Phnôm Pênh ngay. Nhưng trong những
giờ sau, những cuộc bắn phá của cộng sản đã đóng cửa sân bay Phnôm Pênh. Một lần
nữa, đại sứ Dean lại van nài Kissinger cho tản cư triệt để. Thấy không còn lối
thoát nào khác, Kissinger chấp nhận.
Cũng đúng lúc bình minh ngày 12 tháng 4, Sihanouk được tin
tình hình quân sự chung quanh Phnôm Pênh rất bi đát, sứ quán phải đóng cửa. Ở
Hoa Thịnh Dồn, chính phủ nhanh chóng báo tin cho các vị thủ lãnh ở quốc hội biết:
tổng thống, với tư cách là tổng tư lệnh tối cao quân đội, đã cho phép sử dụng
máy bay lên thẳng và lực lượng an ninh thủy quân để tản cư những người Mỹ còn lại
ở Phnôm Pênh. Chiến dịch "Phượng hoàng bay”, tên mật mã cuộc tản cư ở
Campuchia trở thành sự thật. Phòng lãnh sự quán Phnôm Pênh giữ nhiều
chỗ hơn thực tế, dự tính đến hơn ba trăm người đi, kể cả người Mỹ và người nước
thứ ba. Những ngày trước chưa báo kịp có thể đến phút chót sẽ đến. Như thế có đủ
chỗ để tản cư tất cả.
Máy bay Phantom đầu tiên bảo vệ chuyến đi, bay vào bầu trời
Campuchia lúc 8 giờ 34 phút. Một giờ rưỡi sau, những máy bay lên thẳng cỡ lớn
CH-53, bắt đầu đến từng đợt, ba chiếc một. Mỗi chiếc đều chở đơn vị an ninh thủy
quân. Khoảng trăm người Campuchia đến tập hợp trước cửa sắt chính của sứ quán
và trên sân bay gần đấy. Họ không hề sợ hãi. Ở ngoài phố cũng vậy. Phần lớn cho
là những máy bay lên thẳng chở quân lính Mỹ đến để bảo vệ thành phố. Họ giúp cảnh
binh Khmer điều khiển xe cộ đi lại và kiểm soát đám đông ở gần nơi máy bay đỗ.
Đúng trước 12 giờ, đại sứ Dean cuốn tấm cờ Mỹ, cắp dưới nách lên chiếc máy bay
lên thẳng cuối cùng. Tướng Saukham Khoy, tổng thống lâm thời Campuchia theo sát
gót đại sứ. Ngược lại, nhiều nhân vật Campuchia từ chối không đi. Một người là
Sirak Matak nguyên thủ tướng của chính phủ Lon Nol, gửi cho Dean một bức thư giải
thích việc từ chối của ông ta: "Thưa đại nhân và thân hữu, tôi cảm ơn về bức
thư và về việc ngài dành cho tôi chỗ để đến nơi tự do. Tôi rất tiếc không đi được
trong những điều kiện hèn nhát như vậy. Còn về ngài và đại cứu quốc, tôi không
bao giờ nghĩ rằng các ngài lại có ý định bỏ lại những người đã chọn tự do. Các
ngài đã từ chối không bảo vệ chúng tôi nữa. Chúng tôi không có thể làm gì được.
Các ngài lên đường, tôi chúc ngài và quý quốc tìm thấy hạnh phúc dưới bầu trời...
Tôi đã mắc một sai lầm duy nhất là đã tin vào những người Mỹ !"
Khi máy bay lên thắng chở đại sứ bay lên, lính thủy bắt đầu
siết chặt hàng ngũ chung quanh nơi cất cánh. Cũng ngay lúc ấy, pháo binh Khmer
đỏ nổ súng vào những ngôi nhà của sứ quán. Họ bắn nhiều đạn rốc két, đại bác,
súng cối hơn hai tuần qua. Lính thủy vội vàng trèo lên máy bay lên thẳng còn
đám đông thì tản ra.
Trong những ngày sau, máy bay vận tải Mỹ thả dù thực phẩm xuống
thành phố bị bao vây. Cuối cùng ngày 17 tháng 4, quân cộng sản đã đánh dọc sông
Cửu Long vào chiếm ngoại ô phía Nam thành phố: Ủy ban tướng tá được thành lập để
chiến đấu trong những phút cuối, xin ngừng bắn. Đề nghị cua họ bị
bác. Đài phát thanh bí mật của Khmer đỏ tuyên bố: "Chúng ta là những người
chiến thắng vào Phnôm Pênh. Chúng ta đòi tất cả sĩ quan và nhân vật của chế độ
bù nhìn Phnôm Pênh mang cờ trắng ra hàng . Hôm sau, ở Phnôm Pênh và những tỉnh
khác, hằng trăm nghìn người dân nhận được lệnh phải đi ngay và sống ở nông
thôn.
Cuộc di cư bắt buộc này được tiến hành theo kế hoạch làm từ
lâu của Khmer đỏ, đã phá vỡ màng lưới tình báo của Mỹ đặt khắp nước này. Mặc dù
đã có dự tính đến sự tan rã của xã hội, nhưng cơ quan CIA ở Phnôm Pênh chỉ lấy
thành phố, thị xã làm địa bàn hoạt động sau khi người Mỹ ra đi, đặt ở đấy những
đài phát thanh thông tin bí mật và tổ chức ở đây những nhóm tình báo nhỏ. Khi
các thành phố và thị xã bị càn quét, mạng lưới bị hoàn toàn phá vỡ, CIA không
còn nhận được tin gì ở Campuchia sau chiến tranh.
Sau khi cộng sản nắm chính quyền, một số người nước ngoài kể
cả nhà báo, đều vào sứ quán Pháp trú ẩn. Họ ở đây mấy tuần, giành nhau từng khẩu
phần, còn cửa sứ quán Mỹ thì đóng kín không cho người Campuchia vào. Khi Sirak
Matak và nguyên thủ tướng Long Boret đến xin cư trú, họ bị từ chối không được
vào. Sau này, cả hai đều bị cộng sản hành hình.
Tháng 5 năm 1975, những người ở trong sứ quán Pháp mới đi được
Thái Lan. Những nhà báo đi theo họ đã kể lại những chuyện tàn sát và chết đói
đã man, rùng rợn.
Bức ảnh đăng trên trang đầu tờ Pacific Stars and Stripes mấy
ngày sau chiến dịch "Phượng hoàng bay" là ảnh đại sứ Gunther Dean,
nét mặt đăm đăm, lá cờ dưới nách, chuẩn bị bước lên máy bay lên thẳng sắp rời
Phnôm Pênh. Tôi nhìn bức ánh một lúc, tự hỏi xem nét mặt ông biểu hiện cái gì:
nhục nhã, tức giận hay an ủi. Nếu không có ảnh một lính thủy đứng đàng sau thì
có thể sẽ là bức ảnh một tư bản ngân hàng giàu có hoặc một kỹ nghệ gia Mỹ, nét
mặt nghiêm trang với bộ quần áo xám, sắp lên máy bay riêng để đi dự một buổi họp
của những nhà kinh doanh.
Bức ảnh không có vẻ gì bi thảm, không có gì báo nước một nguy
cơ sắp xảy ra. Vì cuộc ra đi ấy quá đơn giản nên chúng tôi ở Sài Gòn, thấy
không có gì đáng ngại nữa. Nhưng tình hình hai nơi khác nhau, không thể so sánh
được. 1.200 người Campuchia rời nước họ trong ba tuần trước khi có chiến dịch
"Phượng Hoàng bay”. Còn ở Sài Gòn, số người Việt Nam cần ưu tiên di tản
lên tới hàng chục nghìn.
LỊCH SỰ VÔ ÍCH
Hôm sau ngày Phnôm Pênh thất thủ, nhiều đội đặc công Bắc
Việt Nam đi lên phía Bắc, vòng qua Xuân Lộc, theo đường phía Tây, tiến về Biên Hòa
và Sài Gòn. Ỡ đồng bằng, lực lượng cộng sản chọc thủng nhanh chóng tuyến phòng
thủ của chính phủ ở phía Bắc và Tây Bắc Cần Thơ, nơi đóng trụ sở lãnh sự quán Mỹ
ở Quân khu IV. Song song với chiến thắng ất, cộng sản đưa ra một lời cảnh cáo cứng
rắng. Một người phát ngôn Chính phủ Cách mạng ở Tân Sơn Nhất tuyên bố sẽ có tổng
khởi nghĩa ở Sài Gòn nếu Thiệu không từ chức và những cố vấn quán sự Mỹ đóng giả
làm dân thường không rút đi ngay.
Khi nghe tin ấy, tôi nói với Polgar: "Có thể Hà Nội muốn
ra một tối hậu thư cho bản thân sứ quán. Vì từ lâu, cộng sản đã cho chúng ta là
cố vấn quân sự, cho nên có thể lúc này họ muốn bảo chúng ta, không úp mở
"Đi đi nếu không... "' Polgar không hiểu như tôi. Mấy giờ
sau, Hà Nội có vvẻ muốn giải thích cho chúng tôi biết. Trong một thông báo, bộ
trưởng ngoại giao Bắc Việt Nam nói rõ: người Mỹ có thể tản cư không cần đến
lính thủy và máy bay lên thẳng nếu họ đi ngay. Rõ ràng Bộ Chính trị lo ngại về
sự có mặt ngày càng nhiều của hạm đội Mỹ ở biển Đông và họ muốn chúng tôi đi càng
nhanh càng tốt.
Không đếm xỉa đến những trò ấy, tướng Dũng và Bộ tham mưu của
ông, trong một buổi họp vào ngày 14 tháng 4 tại Sở chỉ huy ở Lộc Ninh, đã đề ra
nhiều quyết định chính trị quan trọng. Đó là việc nghiên cứu hàng loạt phương
hướng mới của Hà Nội, mà cái quan trọng nhất là thay đổi thời gian chiến địch để
đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ít lâu sau, cuộc tiến công đầu tiên vào Xuân Lộc,
tướng Dũng đề nghị Bộ Chính trị dành cho ông nhiều thì giờ để chuẩn bị tiến
công Sài Gòn. Theo hồi ký của ông, lý do hoàn toàn thuộc về chiến thuật. Sư
đoàn 18 Nam Việt Nam ở Xuân Lộc đã chống cự mãnh liệt hơn dự kiến, việc chuyển
quân từ Quân khu II vào miền Nam đang bị quân của tướng Nghi chặn lại ở Phan
Rang. Mặt khác, việc vận chuyển vũ khí, đạn dược vào chưa được nhanh như tướng
Dũng mong đợi, và những đơn vị cuối cùng của quân đoàn Bắc Việt Nam chỉ có thể
đứng vào vị trí ở Quân khu III sau hơn một tuần nữa, nghĩa là không thể đến trước
ngày 25-4.
Đứng trước những khó khăn ấy - có lẽ cũng vì lực lượng Mỹ nữa
- Bộ Chính trị chấp nhận đề nghị của tướng Dũng. Ông được phép hoãn mấy ngày cuộc
tiến công cuối cùng. Theo nguồn tin của chúng tôi, dự kiến là từ ngày 15 đến 19
tháng 4. Ông Lê Đức Thọ trong buổi họp ngày 14 tháng 4 nhắc cho đồng nghiệp biết
mùa mưa sắp đến: Chúng ta phải hành động nhanh để hoàn thành nhiệm vụ. Một vài
ngày sau, ông Phạm Hùng đề nghị một ngày cuối cùng để giành thắng lợi hoàn
toàn: “Chúng ta phải tiến đánh để giải phóng Sài Gòn đúng ngày kỷ niệm sinh nhật
Hồ Chủ tịch, ngày 19 tháng 5”. Tướng Dũng không để mất thì giờ
vào trận Xuân Lộc, mà đánh vòng thị trấn này. Ông cũng đề nghị Hà Nội dành cho
trận đánh Sài Gòn một cái tên lịch sử. Ông Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Trung ương
Đảng ký vào bức điện gửi cho tướng Dũng: "Đồng ý, chiến dịch giải phóng
Sài Gòn mang tên chiến dịch “Hồ Chí Minh”.
Sáng ngày 15 tháng 4, pháo binh Bắc Việt Nam bắn phá sân bay
Biên Hòa, lần đầu tiên trong chiến tranh, bằng súng tầm xa. Ở phía Đông, sư
đoàn thứ tư, tức sư đoàn 325 ở Huế, tham gia mặt trận Xuân Lộc, trong lúc những
đơn vị khác bắt đầu tràn qua phòng tuyến bảo vệ của quân chính phủ, ở phía Bắc
và phía Nam thị trấn.
Trong khi chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra thì ở Sài Gòn, những
người muốn giải quyết bằng thương lượng ra sức hoạt động. Bộ trưởng quốc phòng
mới, Trần Văn Đôn, bí mật gặp bạn đồng nghiệp trong chính phủ Cẩn sắp ra đời và
thuyết phục họ phải ngừng bắn với bất cứ giá nào. Trong lúc ấy, người Pháp lại
thăm dò người Mỹ. Lần này, Mérillon nói chuyện với Polgar chứ không nói với
Martin vì ông ta biết trùm CIA ở Sài Gòn rất muốn đi đến một cuộc dàn xếp.
Cuộc thảo luận được tiến hành ngay bên bể bơi câu lạc bộ thể
thao, chiều ngày 13 tháng 4, Polgar, mặc áo tắm màu xanh lơ nhạt, đang ngắm
nhìn những phụ nữ bơi mặc bikini qua tờ báo Sài Gòn Post thì Pierre Rochand,
quan chức ở sứ quán Pháp, lên tới. Ngồi trên một ghế đẩu, Brochand trình bày rõ
ràng bằng những nét lớn, quan điểm của chính phủ ông: Người Pháp không cho rằng
những phòng tuyến của Sài Gòn sụp đổ trong những tuần tới nhưng họ thấy tình
hình quân sự chắc chắn là mất. Cần làm ngay một việc gì để đảm bảo cho một xứ
Nam kỳ độc lập sống lại ít nhất trong một thời gian. Người Pháp có những lý lẽ
để tin rằng Bắc Việt Nam "không vội vàng" và sẽ chấp nhận việc thành
lập một chính phủ hòa bình hoàn toàn trung lập. Một loại cầu bắc tới trật tự cộng
sản. Có vẻ họ chấp nhận Minh lớn làm tổng thống. Brochand còn hứa
là sứ quán Pháp sẽ bảo đảm tản cư năm vạn người Việt Nam, nếu việc
đó cần. Một lời hứa chưa bao giờ thực hiện.
Những lời nói đó lại gây cho Polgar thêm hy vọng. Ông hứa sẽ
làm hết sức mình để người Pháp đạt được mục tiêu. Ông và Brochand đều hiểu là
phải thuyết phục Martin để đại sứ tin rằng Thiệu là cản trở lớn cho hòa bình và
phải thay ngay chính phủ. Một giờ sau cuộc nói chuyện bên bể bơi, Polgar trở về
sứ quán. Ông gọi tôi vào phòng làm việc và bảo tôi làm một bản tường trình, lần
này để vạch rõ Thiệu là một trở ngại không thể cho qua được. Đó không khác nào
lời đề trên tấm bia mộ chính trị của Thiệu. Tôi viết: "Những trận thất bại
kinh khủng bắt đầu ở Quân khu I và Quân khu II đã chứng tỏ cho hầu hết người
Nam Việt Nam, dân cũng như lính, rằng tổng thống nước cộng hòa này không còn được
trời phù hộ nữa. Nhiều sĩ quan cao cấp và nhân vật chính trị mong tổng thống từ
chức nếu muốn tránh một thất bại quân sự hoàn toàn. Phần lớn họ đứng về phía
người ủng hộ một sự thay đổi quyền lực theo hiến pháp. Tuy nhiên, một số người
sẵn sàng tìm bất cứ con đường nào khác có thể đạt được mục đích ấy. Nếu có một
cuộc đảo chính thì chính phủ mới sẽ không thể kiểm soát được quân đội và sẽ
không có phương tiện để duy trì luật pháp và trật tự".
Sáng hôm sau, ngày 14 tháng 4, Trần Văn Đôn nói cho những người
lạc quan biết thêm những lý lẽ bổ sung để họ hy vọng. Trong một buổi viếng thăm
sứ quán, với tư cách cá nhân, ông báo cho Martin biết ông ta vừa gặp đại diện của
chính phủ cách mạng lâm thời, người này khẳng định rằng một sự dàn xếp thương
lượng có thể được thực hiện. Người này nói ba vấn đề: 1. Đôn thay Thiệu rất tốt.
2. Cộng sản không phản đối việc tản cư người Việt Nam. 3. Hoa Kỳ có thể duy trì
một sứ quán nhỏ ở Sài Gòn với điều kiện tất cả những nhân viên không chính thức
khác phải ra đi. Những lời ấy làm tôi thắc mắc. Chúng được tung ra
quá đúng lúc và phục vụ quyền lợi của Đôn quá nhiều. Chúng làm cho tôi nhớ lại
những điều người Pháp muốn làm cho chúng tôi tin. Tôi nghĩ Mérillon chứ không
nghi cộng sản đã mớm những lời ấy.
Polgar không tán thành ý kiến tôi. Martin cũng thế. Tuy
nhiên, những tin tức của Đôn, cộng với những lời nói của Brochand và những vấn
đề tôi nêu trong báo cáo đã làm cho đại sứ rất chú ý. Chiều 14 tháng 4, đại sứ
quyết định đề nghị với Hoa Thịnh Đốn cái việc mà cho đến nay, tưởng như không
thể nào có thể được: Thiệu phải ra đi, đó là bước đầu đi đến ngừng bắn.
Nhưng sáng hôm sau, ông lại gởi cho Nhà Trắng một bức điện,
trong đó ông trình bày một ý rất lạ. Nhắc lại nhiều đoạn trong bản báo cáo của
tôi, ông nhấn mạnh sự yếu kém của Thiệu và báo trước rằng sự phản đối có thể
nhanh chóng nổ ra chống lại ông nếu viện trợ tài chính bổ sung không đến ngay.
Rõ ràng ông không đòi Thiệu phải đi ngay, nhưng ông muốn làm cho người ta hiểu
rằng Thiệu không còn ích gì cho chính sách của Hoa Kỳ. Trong phần cuối bức điện,
Martin cố gắng làm yên lòng Hoa Thịnh Đốn về tiến triển của kế hoạch tản cư.
Ông khẳng định đã sẵn sàng tản cư hai trăm nghìn người bằng tàu biển, máy bay
và đường bộ và ông giảm bớt những khó khăn của tình hình chung. Một lần nữa, đề
cập đến tiềm lực kinh tế của Quân khu III và Quân khu IV, ông quên không viết về
sự sụp đổ hoàn toàn của quân đội, tuy nhiên, ông công nhận người Mỹ sẽ có những
ngày khó khăn trong một thời gian. Điều đó không ngăn cản ông đề nghị chính phủ
Hoa Kỳ cấp cho Nam Việt Nam một viện trợ năm năm, làm như nước này còn có thể sống
được nhiều năm nữa ! Mặc dù có những điểm ngoắt ngoéo ấy, bức điện cũng thể hiện
một bước ngoặt đáng kể của Martin và vị trí tương lai của Mỹ ở Việt Nam. Nhưng
bức điện không gây cho Hoa Thịnh Đốn phản ứng mà Martin và Polgar mong muốn. Vì
dự thảo luật viện trợ 722 triệu đô la vẫn còn đang được bàn cãi ở quốc
hội, chính phú hoãn một, hai ngày nữa mới có quyết định về số phận Thiệu.
Tuy có những bảo đảm của Martin đối với Nhà Trắng, sự chuẩn bị
của chúng tôi cho một cuộc tản cư triệt để tiếp tục kéo dài lê thê. Đến ngày 15
tháng 4 mới có 1.500 người Mỹ đến được căn cứ không quân Clark nhờ quân đội
chuyên chở từ Sài Gòn đến Philippine. Họ rất ít đi máy bay dân dụng. Những thể
lệ hành chính kéo dài việc tản cư nhất là những điều hạn chế người Việt Nam nhập
cư vào Hoa Kỳ. Người Mỹ đã lập nghiệp lâu ở Việt Nam không muốn đi nếu họ không
được phép đưa vợ, những cô bạn nhỏ và con bất hợp pháp của họ về.
Chính phủ đang tìm một giải pháp. Chiều 14 tháng 4, sứ quán
được báo tin, cơ quan nhập cư Hoa Kỳ đã cho phép mọi người Việt Nam vào Mỹ nếu
người ấy uy danh dự thề rằng có một người thân là người Mỹ ở Việt Nam. Trong mấy
giờ, Al Francis, làm việc kín đáo một mình đã thuyết phục được bộ trưởng nội vụ
Sài Gòn, giảm nhẹ điều kiện để di cư. Đáng lẽ phải có dấu xuất cảnh hay hộ chiếu,
người Việt Nam chỉ cần chứng minh có một người Mỹ đỡ đầu là nhận được giấy phép
ra đi.
Khi tướng Smith biết tin này, ông triệu tập ngay những nhân
viên giúp việc không cần thiết và làm hợp đồng, khuyên họ nên lợi dụng thời cơ
ra đi ngay. Đáng tiếc không ai nghe ông cả. Phần lớn nhân viên của ông cho là một
khi thể lệ được giảm nhẹ thì rồi sẽ có những quyết định quan trọng hơn. Họ ở lại
định chờ cho đến khi việc tản cư ồ ạt người Việt Nam không còn gặp trở ngại gì
mới ra đi. Điều bất hạnh đã xảy ra. Lời thề đanh dự do cơ quan nhập cư yêu cầu
cấm người Mỹ ở ngoài Việt Nam không được đứng ra bảo lãnh người Việt Nam. Hạn
chế ấy gây một làn sóng giận dữ. Chỉ một, hai ngày, hàng trăm công dân Mỹ sống ở
Hồng Kông. Bangkok, Singapour kéo đến Sài Gòn để kết hôn hay sống hợp pháp với
những cô bạn nhỏ hoặc nhận nuôi những trẻ em Việt Nam. Bên cạnh những
người tốt bụng, có khá nhiều kẻ lợi dụng việc nhận “nuôi" người Việt Nam để
làm tiền, lấy vàng. Phải mất hàng nghìn đô la, mươi lạng vàng mới được họ bảo
lãnh như thế. Lại còn nhiều binh lính trong quân đội Mỹ, đào ngũ nhiều năm qua,
nay bất ngờ xuất hiện trước sứ quán với những người phải nuôi, xin ghi tên tản cư.
Kết qua chỉ trong một, hai ngày, danh sách người Mỹ xin ra đi lên tới hơn một
nghìn người. Để mong chấm dứt tình hình trên, tướng Smith đề nghị với Martin
nói vời chính quyền Thiệu ra tuyên bố: tất cả những người Mỹ không nỗ lực tham
gia vào chiến tranh đều không đủ tư cách "nhận nuôi" người Việt Nam,
nhưng Martin bác đi, sợ quốc hội hiểu lầm.
Ít lâu sau chiến dịch “Phượng Hoàng bay" Ở Campuchia,
Martin nói với một nhà báo: không khi nào ông để cho người Mỹ tản cư nếu những
người Việt Nam giúp việc ở sứ quán chưa được đi. Nhưng lúc bấy giờ, kế hoạch tản
cư người Việt Nam do chúng tôi thảo chưa làm xong. Họ quá đông, Martin cho rằng
một cầu hàng không xuất phát từ Tân Sơn Nhất không thể nào chở hết. Do đó, ông
dự kiến đến ngày E. sẽ cho những người Việt Nam đi Vũng Tàu, một thành phố bên
bờ biển, ở đó, tàu và máy bay lên thẳng của Hoa Kỳ sẽ đón họ. Nhưng giải pháp ấy
cũng không chắc chắn. Như tôi đã nhấn mạnh trong bản nghiên cứu mới đây của tôi
về triển vọng cuộc tản cư, không có nhiều hy vọng đi được con đường ấy vì khi
tiến đánh Sài Gòn, cộng sản hay quân đội họ sẽ chặn quốc lộ Sài Gòn - Vũng Tàu.
Trong những ngày qua, tướng Smith và nhân viên của ông bắt đầu
cho tản cư không ồn ào những người Việt Nam mà tính mạng dễ bị uy hiếp nhất.
Chiều 15 tháng 4, tùy viên không quân, đại tá Mc. Cardy, đã làm một lịch tối mật
những "chuyến bay đen", nghĩa là ông thương lượng được với nhân viên
an ninh Việt Nam ở Tân Sơn Nhất để cho người Việt Nam bí mật lén vào
đường băng càng nhiều càng tốt. Để trả công, ông sẽ dành cho gia đình các sĩ
quan những chỗ trên máy bay.
Giữa lúc đó, hai nhân viên sứ quán Bob Lanigan và Mel
Chatman, lúc trước làm việc ở Nha Trang và Đà Nẵng, đưa một đoàn sà lan cũ đến
đậu ở cảng mới, bên ngoài Sài Gòn đề phòng khi tới ngày E. lại thiếu những
phương tiện vận tải khác. Smith và cộng tác viên của ông chế nhạo họ, cho rằng
sà lan và tàu kéo không thể nào chạy được trên sông khi cuộc tản cư diễn ra lộn xộn
và ồ ạt.
Lanigan và Chatman không phải là những người duy nhất
trong sứ quán tìm cách cải thiện kế hoạch tản cư. Marvin Garrett, sĩ quan an
ninh và nhiều đồng nghiệp của anh cùng tham gia việc này, một việc mà giới quân
sự không biết: thu xếp, dọn dẹp những ngôi nhà trong sứ quán để đón được nhiều
người tản cư trong ngày E. Họ dựng một hàng rào sát trên đường từ sứ quán đến
sân chơi và mắc dây thép gai lên tường chung quanh sứ quán.
Rồi Garrett và đồng nghiệp anh duyệt lại kế hoạch tản cư
không cho phái bộ quân sự biết. Công việc ấy đáng tiếc không có kết quả. Sáng
15, tôi nhận được nhiều tờ giấy stencils đánh máy kế hoạch của họ đặt trong
phòng họp. Tôi nhặt một tờ, đọc kỹ thì thấy hỏng. Garrett đã sửa đổi kế hoạch đến
mức nếu sáng đó là ngày E. thì hàng trăm người Mỹ bị bỏ lại. Tôi chạy lên phòng
làm việc của đại sứ và quăng bản kế hoạch cho Brunson Mc. Kinley, một viên chức
trẻ của bộ ngoại giao từ Quân khu I về, nay được làm thư ký riêng cho Martin.
Tôi nói nghẹn ngào: Ai cho phép phân phát cái này ? Tái mặt, Kinley trả lời anh
không biết gì cả. Một lúc sau, Garrett được gọi lên phòng làm việc của Martin.
Không biết họ nói với nhau những gì. Một giờ sau, lò sưởi đặt trên mái nhà đốt
cháy hàng trăm bức điện.
Giữa mớ bòng bong ấy, Polgar tỏ ra dè dặt một cách lạ lùng.
Càng ngày càng bị những hứa hẹn về một giải pháp chính trị ám ảnh, ông không thiết
gì đến kế hoạch tản cư của cơ quan ông. Ông biết rằng nhiều người trong chúng
tôi muốn cho người Việt Nam di tản nên đã cung cấp cho họ nhiều giấy tờ giả mạo,
nhưng ông không khuyến khích cũng không chê trách gì.
Trong khi người Mỹ chật vật với những vấn đề tản cư thì người
Nam Việt Nam mất dần hy vọng và ảo tưởng. Chính phủ mới, chính phủ Cẩn được
thành lập ngày 14 tháng 4, nhanh chóng trở thành một trò cười. Người ta nhạo
báng. Rượu cũ, bình mới. Còn bản thân Thiệu, ông ta có vẻ xa dần thực tế. ông chỉ
có một quyết định quan trọng từ ngày cộng sản tiến công Xuân Lộc: Ra lệnh đóng
cửa - tạm thời - những bar và phòng xoa bóp ở Sài Gòn để dành tiền mua vũ khí.
Sự hoang mang của giới chính trị cao cấp dẫn theo ngay chủ nghĩa thất bại ngày
càng lớn trong mọi tầng lớp xã hội. Có người nói: "Chiến tranh và thất bại.
Mất hết. Kể cả tôn giáo. Cộng sản sẽ nắm chính quyền”.
Chiều 15 tháng 4, tôi viết trong sổ tay: khá bận. Luôn
luôn căng thẳng. Ngày dài. Sáng sáng, vào sáu giờ, tôi thấy trên bàn làm việc
những bản báo cáo ma đưa đến ban đêm. Lạ lùng vì ảnh hưởng của sự căng thẳng.
Tôi thấy có thói quen xấu là thích dùng vũ khí. Mỗi buổi chiều, tôi dành mấy
phút để kiểm tra lại súng và xếp lựu đạn ở khắp phòng. Thích điệu rock, thích
Joe Cocker, Neil Diamond và nhất là thích điệu nhạc buồn của phim Jonathan
Livingston Seagull. Chập tối, tôi mở nhạc thật to để mong đỡ căng thẳng. Vô
ích, mọi cái đều báo hiệu: đã hết.
Hôm qua, tôi đi qua bể bơi của sứ quán, mặt nước đầy tro giấy
tờ bí mật đốt ở lò sưởi. Những đồng nghiệp của tôi đã chứng kiến Đà Năng hay
Phnôm Pênh trong những giờ chót thấy xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của sự
bao vây mà họ quá biết. Ngoài phố những đám ăn xin ngày càng tỏ ra hung dữ.
Chúng bám lấy những khách bộ hành. Bám vào cửa xe hơi. Có cảm tưởng người ta
tìm bán đến chiếc áo sơ mi cuối cùng. Dọc đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi đầy hàng
xa xỉ bán giá rẻ. Tủ lạnh, máy điều hòa không khí, máy thu thanh, truyền hình.
Hàng hóa lớn không thể cho vào một chiếc va ly cũng có thể mua được ở đây, bằng
một phần ba hoặc một phần tư giá bình thường. Hơi xa một chút, trên đường
Pasteur hay Tú Xương những biệt thụ cũ, đẹp theo kiểu Fháp, không còn ai ở. Chủ
nhà đã vội vàng đi rồi.
Đối với những người Việt Nam không có bạn bè, người bảo lãnh
và người Mỹ, thì giá chuyến đi đắt kinh khủng. Trong hai tuần, tiền đút lót để
có một dấu xuất cảnh hay một hộ chiếu tăng từ năm trăm lên ba nghìn đô la. Giá
vàng nhảy vọt 725 đô la một lạng. Nhưng rất ít người buôn Trung Quốc ở Chợ Lớn
nhận bán vàng, phần lớn họ giữ vàng lại, cho rằng vàng cũng có giá trị hợp pháp
trong xã hội cộng sản. Ít người còn tin tưởng vào đồng đô la Mỹ. Mặc dù lúc
này, nó vẫn giá trị hơn đồng bạc. Chỉ trong năm ngày, trên chợ đen, giá một đô
la đã tăng từ 1200 lên 2000 đồng.
Thiết quân luật từ 21 giờ. Bạn bè và đồng nghiệp người Việt
Nam đến làm việc từ sáng. Bữa ăn lót dạ là lúc chào nhau và trao đổi công việc
ngoài giờ hành chính. Quan hệ cá nhân trở nên khó khăn. Phải cẩn thận, không được
gây cho cô bạn nhỏ hoặc người quen biết sự lo lắng, không được nói rõ sự thật
trần truồng cho họ biết, bất cứ ở đâu. Người ta nói xa xôi, bóng gió, úp mở,
dùng những ẩn dụ liên tưởng đến những thời kỳ khó khăn sau này, nói về sự cần
thiết phải nhờ đến người Mỹ, đề phòng cái gì sẽ xảy ra v.v...
Người Việt Nam đều khôn ngoan, không ai đề nghị công khai hãy
giúp đỡ để di tản mà họ tỏ ra khéo léo hơn. Thoạt đầu họ nói: ông
làm ơn đổi cho tôi mấy đồng bạc, giá cả lên nên ngân hàng giữ tiền lại. Tôi
mong có mấy đô la bỏ túi đề phòng khi cơ nhỡ. Thế là anh sa vào việc buôn đô
la, đổi đồng bạc lúc nào không biết. Anh đã giúp người này, người khác có một số
vốn nhỏ có thể cứu người ấy. Không phải có luật lệ bị vi phạm. Người Việt Nam
lúc nào cũng dè chừng, nay bắt đầu tin anh. Họ nói chuyện gia đình, làm ăn,
tình yêu và nhất là xu hướng chính trị của họ mà trước đây họ thường giữ kín cẩn
thận. Họ nói họ không ghét cộng sản nhưng họ sợ! Họ đã ở lâu với người Pháp,
người Mỹ và sống quen với chính quyền Thiệu, họ thấy khó chịu khi phải sống dưới
một chế độ khác. Có thể sự thay đổi mang lại hạnh phúc cho nông dân nhưng còn họ,
thì sẽ ra sao đây?
Dù nghi ngờ hay cứng rắn đến mấy, cũng không thể không nghĩ rằng,
họ có lý. Thật vậy, ngày càng dễ có một nhận định xấu đối với người chiến thắng
trước những lời phản tuyên truyền của chính phủ. Nhiều nét tỏ rõ khả năng của kẻ
thù, tính tự chủ của họ trước khi lựa chọn một công việc. Nhưng người tị nạn từ
Quân khu I và Quân khu II đến kể lại rằng Bắc Việt Nam đã thành lập ủy ban Quân
quản ở những thành phố chiếm đóng.
Những chuyện khủng bố dã man được trí tưởng tượng của đài
phát thanh Sài Gòn báo chí địa phương và sứ quán Mỹ thối phồng lên. Theo lệnh của
đại sứ, cố vấn chính trị Joe Bennett đã làm một báo cáo giả nói là của một nhà
sư ở Buôn Mê Thuột gửi về để vu khống cộng sản. Bản báo cáo viết: "ở đây
chúng lột móng tay phụ nữ, chặt ủy viên hội đồng thị xã ra từng mảnh..."
Một cộng tác viên trẻ của Bennett sau này kể lại với tôi như
thế trong một buổi chiều. Tin ấy sẽ làm cho nhiều đại biểu quốc hội suy nghĩ.
Nhiều người Việt Nam cho những chuyện ấy là đúng, nhất là từ ngày phải chạy trốn
khỏi Campuchia. Một buổi chiều, Tư Hà hỏi tôi: có thật cộng sản hành hạ phụ nữ
đã đi lại với người Mỹ không? Tôi trả lời không và nói chuyện khác. Sau này
tôi trông thấy cô ta, đứng ở cửa sổ, khoái trá nhìn những ánh lửa
pháo binh cộng sản bắn vào sân bay Biên Hòa. Từ đó tôi đâm nghi ngờ. Trừ những
viên chức trẻ ở văn phòng Bennett bị nhồi sọ quá nhiều, không ai tin rằng sẽ có
một cuộc thanh trừng lớn khi cộng sản nắm chính quyền. Cộng sản cũng nói rõ chính
sách của mình. Từ đầu tháng tư, đài phát thanh Giải phóng tuyên bố sẽ khoan hồng
đối với những người hối cải về hoạt động của họ chống chính phủ cách mạng và sẽ
nghiêm trị những kẻ chống lại cách mạng.
Tôi không muốn đem tính mạng mình ra chơi với những trò mập mờ
ấy. Tôi có quyền chơi bằng tính mạng người khác không ? Bạn bè và hàng xóm ở
cùng ngôi nhà với tôi đã trang bị vũ khí để chiến đấu tới cùng. Mấy ngày trước,
tôi nhận cùng với Joe Kingsley bảo đảm an ninh cho ngôi nhà và đến ngày E. bảo
vệ mái nhà làm nơi dành cho máy bay lên thẳng hạ cánh. Nhưng ngay từ bây giờ buổi
tối trở về, chúng tôi đã lên mái nhà để chỉnh lại đường ngắm của súng M-16 và
chuẩn bị những nơi trú ẩn đề phòng những kẻ bắn lén. Ngôi nhà được dành làm nơi
tập hợp của phái bộ quân sự. Do đó sự kiện đến ngày E. sẽ có hàng trăm người Việt
Nam tức giận đến bám vào cửa sắt ra vào.
Trong khi đó, ở sứ quán, mọi người sống như nhà có đám tang.
Người nghiện rượu uống từ lúc bình minh. Những người khác nhai thuốc an thần
như nhai kẹo. Riêng tôi, tôi cố không uống nhiều chất cay và không dùng thuốc
an thần. Tôi không muốn bối rối hơn những ngày thường. Joe và tôi, hai đứa cố gắng,
nhưng vô ích, tỏ ra bình tĩnh trước mặt đồng nghiệp. Pat đã quá bi quan. Nhưng
mỗi lần Joe đến, hai tay ôm đầy vũ khí, đạn dược, bà không thể không chế nhạo
anh ta: “Păng Phrăng, Păng. Chiến sĩ chúng ta đã trở lại”. Thường Joe trả lời
bà bằng một nụ cười hay đưa cho bà một mũ sắt hay một trái lựu đạn. Sáng nay,
bà đáp lại: "Không, cảm ơn", trong khi đó Joe đặt một khẩu
súng liên thanh Thompson lên bàn. Tôi giảng hòa: “Sân bay có thể đóng cửa bất cứ
lúc nào. Vũ khí của anh chàng dùng làm gì cả".
Chiều 15 tháng 4, lúc tôi ghi những giống chữ cuối cùng thì
tình hình càng tồi tệ. Chập tối, nhiều trận đánh lớn, ác liệt diễn ra trên đường
số 14, cách Sài Gòn 38 kilômet về phía Đông Nam. Ở phía Đông, máy bay lên thẳng
đang chờ quân chinh phủ rút khỏi Xuân Lộc đã trở thành cái lỗ cho đạn đại bác.
Một sư đoàn xe bọc thép đang phòng thủ ở phía Bắc thủ đô, được chuyển đi để giải
tỏa con đường nối Xuân Lộc với Biên Hòa và Sài Gòn. Việc pháo kích sân bay Biên
Hòa đã ngăn chặn máy bay còn lại ở đấy không cất cánh được.
Sáng hôm sau, lực lượng Bắc Việt Nam chuẩn bị một trận đánh mới.
Quân của tướng Dũng, sau khi chiếm Nha Trang, Cam Ranh, trên bờ biển đang bao
vây sở chỉ huy của tướng Nghi ở Phan Rang, phía Nam Quân khu II. Mấy ngày trước
CIA điện cho một nhân viên ở Phan Rang bắt liên lạc với bộ tham mưu của Nghi.
Anh ta đang ở trên đường hành quân của 25.000 quân Bắc Việt Nam. Lew James con
người không gặp may ấy là một tình báo trẻ, 15 ngày trước đã từ chối không rời
Nha Trang trước khi làm hết sức mình để cứu nhân viên CIA người Việt Nam ở địa
phương. Polgar quyết định một lần nữa sử dụng lòng dũng cảm của anh và đổi đi
công tác ở bộ tham mưu tướng Nghi. Mọi việc diễn ra nhanh hơn dự kiến. Sáng 16
tháng 4, tôi vừa đọc xong tin tức nhận được ban đêm thì có một tin radio do
James điện về. Tôi vội cùng Joe Kingsley chạy đến phòng nhận tin. Liên lạc rất
xấu, nhưng James chỉ biết anh đang trú trong mọt bunker với Nghi và tướng Phạm
Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn không quân thứ sáu. Anh cho biết: mọi việc tốt đẹp,
xe tăng Bắc Việt Nam đang tiến công vùng ngoại ô. Joe trả lời sẽ cho máy bay
lên thẳng đến cứu. James nói: Không cần thiết, chưa đến lúc phái làm
thế. Quân Nam Việt Nam còn cầm cự được. Và Nghi có máy bay lên thẳng riêng. Lúc
đó, Howard Archer, nguyên trưởng chi nhánh CIA ở Nha Trang đến. Anh dằng micro
và đòi James cho biết rõ tình hình. Anh ra một quyết định làm tôi và Kingsley
ngạc nhiên: James phải ở lại, ít nhất trong lúc này. Nhưng cứ nửa giờ James phải
cho chúng tôi biết tình hình. Đó là chuyến liên lạc bằng radio cuối cùng Lew
James.
Mấy giờ sau, khi quân cộng sản chiếm được Phan Rang, họ bắt
James, Nghi và Sang. Đài phát thanh giải phóng báo tin rất nhanh bắt được hai
tướng Việt Nam nhưng không nói gì về người Mỹ. Việc đó có nghĩa là có thể James
đã trốn thoát, có thể anh đã bị giết. Thật ra Bắc Việt Nam muốn giữ yên lặng
cho đến khi biết rõ căn cước của anh ta. Điều đó đối với họ tương đối dễ. Như
phần đông chúng tôi, James được cử sang biệt Nam dưới một danh nghĩa khác. Trên
thẻ căn cước chính thức của anh có ghi: quan chức bộ ngoại giao bổ sung làm
nhân viên sứ quán Mỹ. Danh nghĩa ấy rõ nhất. Các nhà báo, nhà chức trách Việt
Nam và những người muốn biết tông tích nhân viên CIA làm việc ở sứ quán từ lâu
đã biết rõ bí mật này.
Hôm sau, ngày James bị bắt, sĩ quan Bắc Việt Nam bắt đầu hỏi
cung anh, James không khai gì cả, chỉ trả lời: Không biết tí gì về tình hình
chung. Một tuần sau, James và hai tướng Nam Việt Nam được chuyển ra Hà Nội giam
ở Sơn Tây cùng với nhiều phi công Mỹ đã bị giam ở đây hàng năm nay. Bắc Việt
Nam tiếp tục hỏi cung James. Họ có cả một hồ sơ lớn về anh, gửi từ Lào sang,
nơi trước kia James công tác. Hồ sơ ghi rõ anh là nhân viên tình báo CIA. Từ
đó, James không thể trả lời là không biết gì về CIA, về các nhàn viên và hoạt động
của cục tình báo trung ương Mỹ. Sáu tháng sau khi Nam Việt Nam thất
thủ, Hà Nội thả James cùng với mấy người phương Tây bị bắt ở Buôn Mê Thuột nhờ
một cuộc "dàn xếp về nghề nghiệp” do CIA phôi hợp với một tổ chức tình báo
khác ở phương Tây tiến hành. James thật sự là nhân viên tình báo CIA cuối cùng ở
Việt Nam
TRONG TRƯỞNG HỢP BI ĐÁT NHẤT
Khi tin James mất tích loan ra khắp cơ quan CIA ở Sài Gòn,
nhiều bạn anh vội vàng lên máy bay lên thẳng, đi tìm anh dọc bờ biển từ Vũng
Tàu đến Phan Rang suốt 48 giờ sau. Cuộc tìm kiếm vừa vô ích vừa nguy hiểm. Lực
lượng Bắc Việt Nam lúc này hành quân suốt ngày dọc bờ biển, đặc biệt không
thích tiếng gầm rú của máy bay không quân Mỹ. Có một lúc, một máy bay hai động
cơ Volgar bay quá thấp nên đầu họ, dọc con đường phía Bắc Phan Thiết, đã bị
súng AK.47 của họ bắn thủng. Viên phi công bất chấp nguy hiểm, vội nhảy dù xuống
một bãi biển cách đó mấy kilômét. Một máy bay Huey của không quân Mỹ vội đi cứu,
cứu được cả nhân viên CIA cùng đi với người lái. Một tiếng nói trên hệ thống
radio Diamani báo tin: Không ai việc gì. Từ đó, Polgar từ chối không dám mạnh dạn
cho người đi tìm kiếm nữa.
Trong khi đó, ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ gặp thêm nhiều khó
khăn. Cuộc vận động hòa bình gián tiếp của Kissinger không có kết quả. Liên Xô
và Trung Quốc đều từ chối không triệu tập một hội nghị quốc tế mới bàn vấn đề
hòa bình ở Đông Dương như Nhà Trắng yêu cầu. Chủ nghĩa bi quan, ngay cả chủ
nghĩa thất bại nữa đã tràn vào bộ máy cai trị. Habbile và Ingersoll, cố vấn
chính của Kissinger đều rất bối rối về sự đánh giá của Martin, hay đúng hơn là
về việc đại sứ thiếu sự đánh giá. Bill Hyland, trưởng ban tin tức bộ ngoại
giao vừa tuyên bố rằng Nam Việt Nam chỉ còn giữ được một, hai ngày nữa.
Những cán bộ nhận định tình hình ở bộ quốc phòng nói riêng với các nhà báo: Bộ tổng
tư lệnh Sài Gòn chắc chắn không thể thu thập được tàn quân chạy từ Quân khu I
và Quân khu II về để ngăn chặn cộng sản, giành chiến thắng cuối cùng.
CIA và những người nhận định tin của bộ quốc phòng đặc biệt
lo ngại về tin báo tên lửa Sam-2 đã xuất hiện trong Quân khu III. Nếu Bắc Việt
Nam đặt xong tên lửa ở vùng phụ cận Sài Gòn, thì mọi cuộc tản cư bằng máy bay ở
đây không thể nào thực hiện được. Nhiều ngày qua, các hệ thống vô tuyến truyền
hình, báo chí đều đòi Nhà Trắng xúc tiến việc tản cư nhân viên người Việt Nam ở
Sài Gòn. Các cơ quan thông tin đều nhất trí cho rằng một mình Martin không thể
điều khiển được việc này. Quốc hội cũng bắt đầu lo ngại. Rõ ràng là chính phủ
muốn giữ kiều dân Mỹ ở lại Sài Gòn để buộc quốc hội phải thông qua luật bổ sung
viện trợ cho Việt Nam và hợp pháp hóa sự can thiệp của quân đội Mỹ. Bản tường
trình do các bạn tôi: Dick Moose và Chuck Miessner, làm theo lệnh của ủy ban đối
ngoại Thượng nghị viện, giữ một vai trò quan trọng hàng đầuu.
Ngày thứ hai, 14 tháng 4, chỉ mấy giờ sau khi họ trở về Hoa
Thịnh Đốn, họ đã báo cáo cho ủy ban kết quả cuộc điều tra, khám phá của họ. Dựa
vào những tài liệu của tôi và nhiều người khác cung cấp ở Sài Gòn từ nay đến
ngày 1 tháng 5. Vạch rõ sự phản đối chống Thiệu ngày càng tăng và sự căm ghét mỗi
lúc một lớn đối với kiều dân Mỹ, họ nói rằng ngay ở sứ quán cũng có một nhóm
người tán thành tản cư cấp tốc. Tuy nhiên đại sứ Martin và quan chức cao cấp của
ông không đồng ý với tính chất cấp tốc ấy. Họ đề nghị với quốc hội can thiệp với
chính phủ bỏ ngay những hạn chế về việc nhập cư trước khi bỏ phiếu về
viện trợ tài chính cho Việt Nam. Điều đó trái với chính sách của Kissinger. Hai
anh bạn tôi cũng đề nghị hoãn cuộc tranh luận về việc sử dụng lực lượng vũ
trang cho đến khi hầu hết người Mỹ đã rời Sài Gòn vì rằng: "Nhiều phần tử
trong nhân dân Việt Nam đã quá tức giận, có thể rất khó chịu về cuộc tranh luận
ấy". Còn về viện trợ tài chính thì không có ai, kể cả giới quân sự Việt
Nam nghĩ rằng, viện trợ bổ sung có thể đảo lộn được tình hình đang diễn ra!
Hai người cũng không lạc quan về triển vọng của một cuộc đàm
phán. Họ trình bày rằng: "Cuộc đàm phán chỉ dẫn đến việc thảo luận những
điều kiện đầu hàng, việc thành lập một đầu cầu chống lại chính phủ hiện
nay". Nhưng họ nói vẫn có thể thử xem.
Sau khi họ đọc xong tham luận, thượng nghị sĩ Cliford Case gọi
Nhà Trắng, đề nghị tổng thống tiếp xúc ngay với ủy ban đối ngoại thượng nghị viện.
Sau đó, tất cả các ủy viên họp ở phòng bầu dục. Trong buổi họp, họ đề nghị bỏ
phiếu chuẩn y một số tiền nhỏ làm viện trợ nhân đạo và cho phép sử dụng quân đội
để bảo vệ người Mỹ tản cư, với điều kiện việc tản cư được tổ chức trong những
thời hạn nhanh nhất. Ford tránh né. Ông từ chối không cam kết tôn trọng ngày giới
hạn và không đồng ý buộc viện trợ bổ sung, việc sử dụng quân đội phải phụ thuộc
vào việc tản cư hoàn toàn người Mỹ. Ông cũng không muốn nghe thấy từ nghĩa vụ đối
với người Việt Nam muốn di tản. Kissinger và các đồng nghiệp ông trong chính phủ
tìm hết cách để làm yên lòng quốc hội vẫn mong số tiền 722 triệu đôla được chuẩn
y, họ không muốn bỏ Thiệu như giải pháp của Martin.
Sáng 15 tháng 4, chỉ mấy ngày sau khi Martin điện cho Nhà Trắng,
Kissinger và nhiều nhân viên chính phủ mở cuộc tiến công cuối cùng vào quốc hội.
Kissinger cũng làm việc gần cả ngày với ủy ban đối ngoại thượng nghị viện. Ông
tìm ra một lý lẽ mới: số tiền chúng tôi yêu cầu sẽ giúp chính phủ
Nam Việt Nam thương lượng với những điều kiện gần như tự trị Có người hỏi: Như
thế nghĩa là thế nào. Ông giải thích: "Tôi đặt giả thuyết (người Nam Việt
Nam) mong thực hiện những điều khoản của Hiệp định Paris qui định sẽ thành lập
quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc". Điều đó không phải giải thích dài.
Không ai, kể cả người Pháp dám nghĩ rằng cộng sản nay sẵn sàng liên hiệp tay
ba. Bản tường trình của chúng tôi về ý đồ cụ thể của Hà Nội, ngày 8 tháng 4, đã
loại trừ hẳn trường hợp này. Kissinger đã lấy nguyện vọng của mình làm sự thật.
Trình bày trước ủy ban, tướng Weyand nói: Nếu không có viện
trợ bổ sung, Sài Gòn sẽ sụp đổ trong một tháng. Bộ trưởng quốc phòng
Schlesinger lấy đanh nghĩa cá nhân, còn đưa ra một giả thuyết đen tối hơn. Theo
ông, nếu cộng sản nắm chính quyền thì có thể hai trăm nghìn người Việt Nam sẽ bị
giết. Sáng hôm sau, tờ báo Pacific Starsand Stripes (tờ báo của quân đội Mỹ),
xuất bản ở Sài Gòn, đăng lại lời tuyên bố ấy bằng chữ đậm, làm cho người Việt
Nam càng thêm hoảng sợ. Ở Hà Nội, ban lãnh đạo Đảng khai thác tình hình ấy khá
mềm dẻo làm cho Hoa Thịnh Đốn càng thêm bối rối. Có vẻ họ muốn đẩy quốc hội
nhanh chóng có quyết định về cuộc tản cư nên bộ trưởng ngoại giao Bắc Việt Nam
ngày 10 tháng 4 tuyên bố: quân giải phóng lúc nào cũng sẵn sàng tạo điều kiện
cho cố vấn Mỹ rút về nước bình yên vô sự.
Đại sứ Martin theo dõi diễn biến ở quốc hội với tâm trạng đau
khổ. Ông cho rằng nếu chính phủ Hoa Kỳ xúc tiến việc tản cư thì lâu đài bằng
bìa giấy Sài Gòn sẽ sụp đổ. Đối với ông, không có lựa chọn nào khác là tranh thủ
thời gian cho đến lúc quốc hội quyết định về viện trợ cho Việt Nam. Cuộc đánh đố
giữa đại sứ Martin và Nhà Trắng, các bộ ngoại giao và quốc phòng và nhất là giữa
các vị đại biểu quốc hội về số phận của Việt Nam, kéo dài một vài
ngày nữa. Để được lòng đại chúng, Martin cho phép giám đốc vô tuyến truyền hình
Mỹ CBS (Columbia Broadcasting System) bí mật tổ chức một cầu hàng không để tản
cư các nhân viên người Việt Nam. Khoảng sáu trăm người nhờ đó được rời Sài Gòn.
Trong khi đó các cơ quan tình báo, viên chức dân sự và quân sự
Mỹ tranh nhau để được tản cư sớm. Họ đưa ra nhiều lý do, nào là cấp bậc, nghề
nghiệp, quyền lợi bản thân, những cái đó đáng kể hơn số phận của hai trăm nghìn
người Việt Nam chỉ sợ cộng sản đến. Trường hợp bi đát nhất, cuộc tản cư nguy hiểm
bằng máy bay lên thẳng, giữa cuộc chiến ở Sài Gòn mà các cơ quan rất lo sợ chưa
được đại sứ bàn đến. Và Hoa Thịnh Đốn cũng chưa có quyết định về số phận Thiệu.
Ông ta ra đi. Hay không ra đi? Nhất là ý đồ của Hà Nội ra sao đây? Sáng 17
tháng 4, chúng tôi được tiếp một nhân viên tình báo CIA có tài. Anh nói: Bắc Việt
Nam sẽ tiếp tục tiến công đến khi giành được thắng lợi hoàn toàn, dù Thiệu có đổ
hay Hoa Kỳ có cung cấp viện trợ bổ sung cho Sài Gòn, cũng thế. Hà Nội kiên quyết
thực hiện nghị quyết cuối cùng tháng 3 năm 1975, dù có phải hy sinh nhiều trong
một cuộc tổng tiến công còn hơn là mất thì giờ để tìm thắng lợi qua việc thành
lập một chính phủ liên hợp. Hà Nội kiên quyết không có thương lượng, không có
chính phủ liên hợp.
Khi tôi hỏi anh về ngày tiến công cuối cùng vào Sài Gòn, anh
trả lời, ngày đó đã được quyết định lại. Trước định vào ngày 19 tháng 5 nhưng bộ
tổng tư lệnh cộng sản mới quyết định là sẽ kỷ niệm ngày sinh của cụ Hồ Chí Minh
ở Sài Gòn, nghĩa là 19 tháng 5 (đúng là mục tiêu cụ thể do tướng Dũng và các đồng
chí của ông định ra chỉ cách đây một hay hai ngày). Anh cho rằng để đạt được mục
tiêu ấy muộn lắm là ngày 1 tháng 5, Bắc Việt Nam phải bắt đầu tiến
công. Trước hết họ đánh các sân bay, những kho vũ khí và các căn cứ
quân sự. Trong cuộc tiến công Sài Gòn không những họ sử dụng pháo binh hạng nặng
mà cả không quân. Trạm ra đa đã được đặt trên núi Bà Đen, phía Bắc Tây Ninh, sẽ
hướng dẫn cuộc đánh phá bằng máy bay. Anh nói thêm: Bộ tổng tư lệnh còn đề ra
biện pháp để bảo vệ những đoàn đại biểu cộng sản ở sân bay Tân Sơn Nhất.
Khi tôi trở lại sứ quán, Polgar không có trong phòng làm việc
Tôi đến gặp Pittman, người phó của ông, ngồi phòng bên. Tôi đang thuật lại cho
Pittman nghe cuộc nói chuyện trên thì Polgar vào. Ông chú ý lắng nghe mấy phút,
mặt tỉnh bơ, rồi ngắt lời tôi: "Không có gì mới trong câu chuyện ấy. Chúng
tôi biết cả rồi. Nói ra vô ích". Nói xong, ông bỏ ra. Tôi ngạc nhiên.
Không có gì mới? Chắc ông lầm. Quên cả Pittman, tôi vội vàng chạy đến phòng
Polgar cố làm cho ông thay đổi ý kiến. Đúng, có thể chúng ta đã nhận được những
mẩu tin xấu về vấn đề này. Nhưng lần này, nhân viên của ta cung cấp đầy đủ hơn
với những chi tiết quan trọng, thí dụ không có đàm phán, dùng không quân, mục
tiêu của chiến dịch và nhất là việc định ngày tiến công. Không có một báo cáo mới
nhất nào của chúng ta cung cấp nhiều tin như thế về kế hoạch gần đây của Hà Nội.
Polgar gãi mũi một cách khó chịu. Ông tỏ vẻ không nghe tôi
nói. Tôi đề nghị ông để tôi gửi những điều ghi chép về Hoa Thịnh Đốn bằng đường
dây nội bộ, để cán bộ nghiên cứu tại chỗ của CIA phân tích làm tài liệu cho họ.
Mãi ông mới đồng ý và nhấn mạnh: Gửi bằng đường dây nội bộ, đó là bản báo cáo của
tôi chỉ dành riêng cho bộ chỉ huy CIA. Ở Hoa Thịnh Đốn, không ai được nhận nữa.
Hiếm khi có một tin quan trọng như thế lại chỉ được một cấp thấp tiếp nhận.
Trời ơi, may quá, Hoa Thịnh Đốn lại nhận một cách vui vẻ. Bộ
chỉ huy CIA liền công khai hóa nó ngay và xếp vào loại tin tối ưu gửi cho khách
hàng chính: Kissinger, Bộ tổng tư lệnh Gayler ở Honolulu và cá sứ quán Sài Gòn
nữa. Gayler sốt ruột đến mức gọi dây nói thẳng cho chi nhánh CIA Sài Gòn bằng
đường dây nóng để kiểm tra mấy điểm, nhất là điểm nói về cuộc tiến công bằng
không quân có ra đa hướng dẫn. Nhiều tin tức ban đêm bằng nhiều đường khác nhau
khẳng định là tin vừa biết là đúng. Những nguồn đáng tin cậy nêu rõ phi công Bắc
Việt Nam đang tập luyện với những máy bay chiếm được ở Đà Nẵng. Một nhân viên
tình báo chắc rằng cuộc tiến công vào Sài Gòn từng hoãn lại nhưng vẫn sẽ được
tiến hành.
Mặc dù sau này, đại sứ Martin công nhận rằng, ông cũng như
Polgar, không đánh giá đúng mức giá trị của tin trên, nhưng lúc này, ông tỏ ra
chấp nhận tin ấy hơn. Chấp nhận những kết luận của bản tin có nghĩa là công nhận
sắp có thảm họa đến nơi.
Sự hiểu lầm của Polgar làm tôi cay đắng và sợ hãi. Martin và
Polgar càng không cho là cuộc tiến công của cộng sản sắp diễn ra. Họ đành để
cho cuộc tản cư phải phụ thuộc vào trò chơi hòa bình. Quá băn khoăn về điều đó,
một lần nữa, tôi báo cáo cho Hoa Thịnh Đốn biết (như tôi đã làm trước qua Moose
và Miessmer) Martin và Polgar xa thực tế quá mức. Chiều ấy, Alan Carter, phụ
trách cơ quan thông tin, mời mấy nhà báo Mỹ ăn cơm. Bữa tiệc đối với anh là một
hành vi phản kháng vì Martin đã cấm không cho Alan Carter tiếp xúc với giới báo
chí, trừ những nhà báo do Martin giới thiệu với anh.
Tôi nói với Carter cho tôi dự. Anh trả lời: Được thôi, không
có vấn đề gì cả. Nhưng tôi phải báo cáo cho anh biết, hầu hết khách mời của tôi
đều biết anh là CIA. Họ sẽ hỏi anh những vấn đề cơ bản. Tôi nói: Đúng là những
điều tôi muốn nói. Họ là những người được lựa chọn đúng. Vô tuyến truyền hình
có Garrich Utley ở đài NBC và Bob Simon thuộc đài CBS. Có bốn người viết báo:
Keyes Beeck ở tờ Chicago Daily Newa và George Mc Arthur ở tờ báo Los
Angeles Times, là hai phóng viên chiến tranh lâu ngày đã sống và làm việc ở Việt
Nam. Fose Betterfield thuộc tờ New York Times đến muộn, anh khoe khoang về cuộc
tiếp xúc giữa anh với Martin và Polgar. Phil Mc Comls cũng thế. Ông là con vật
đen mới của sứ quán. Là người trước đây thảo diễn văn cho thượng nghị sĩ bảo thủ
ở New York, James Buekley, mấy tháng trước, ông đã viết trên báo Washington
Post một loạt bài về các vấn đề tham nhũng và tinh thần sa sút của quân đội Nam
Việt Nam làm Martin tức giận.
Hầu hết khách đến dự tiệc đã nghe tôi nói chuyện. Họ biết tôi
nhận được nhiều tin. Do đó họ rất chú ý nghe tôi trong bữa ăn. Sau khi nói vắn
tắt về cân bằng lực lượng, tôi nhấn mạnh: Chắc chắn cộng sản đã chọn giải pháp
quân sự và họ định kỷ niệm ngày sinh của cụ Hồ Chí Minh ở Sài Gòn. Họ không có
ý gì về dàn xếp thương lượng hoặc một sự đầu hàng trá hình. Tôi nói với các nhà
báo: Tôi nêu ra những tin này mong các bạn viết ngay về Hoa Thịnh Đốn.
Mc Arthur và Betterfleld ngạc nhiên về ý kiến của tôi. Hai
người vừa phỏng vấn quan chức cao cấp ở sứ quán. Họ nhắc lại những điều nghe được:
thứ nhất: Cộng sản không có đủ người, đủ con bài chính trị để nuốt một lúc cả
nước, thứ hai: Với một vài thay đổi trong chính phủ Sài Gòn, họ có thể chấp nhận,
trong một thời gian, cơ cấu chính trị hiện nay, có lẽ để tăng thêm hy vọng được
nhận viện trợ và tài chính của các nước không cộng sản.
Tôi công nhận những điều ấy có một ý nghĩa nào đó nhưng hoàn
toàn là dựng đứng. Và tôi nhấn mạnh những điều tôi nói với họ phản ảnh đúng lập
trường mới đây của Hà Nội, không có gì bịa đặt. Không một phóng viên nào dám viết
bài thuật lại những điều tôi nói. Mấy tháng sau, Beeck xin lỗi tôi: Đại sứ dọa
giới báo chí đến mức không nhà báo nào dám viết những bài không do giới chính
thức (trừ Polgar) cho viết.
Những nỗ lực của tôi không hoàn toàn vó ích. Nhiều nhà báo dự
bữa cơm hôm ấy, sau này thường gọi tôi, hỏi thêm tin phụ hay bảo tôi cho nhận
tin về những bài phóng sự mặt trận.
Ngày ngày qua đi, nhân viên của chúng tôi biến dần. Tin tức
do các phóng viên chỉ phản ánh tình hình ở cách Sài Gòn mấy kilômét mà thôi.
MỘT CUỘC DI TẢN "CÓ TRẬT TỰ"
Sáng thứ sáu 18 tháng 4, bộ ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn có bàn
đến bản tin của nhân viên tình báo là tôi. Tuy nhiên, do trục trặc đường dây
nên bản tin đưa đến được phòng làm việc của Kissinger quá muộn. Bộ trưởng ngoại
giao đã chủ động đề ra việc nối lại đàm phán, coi như đã có sự thỏa thuận. Đêm
trước, Kissinger nói chuyện bằng dây nói rất lâu với Martin. Ông bảo đại sứ
thăm dò không những Hà Nội mà nhiều nơi khác nữa... Trong khi nhiều hoạt động
chính trị diễn ra thì các cơ quan Mỹ bắt đầu giảm nhân viên người Mỹ cũng như
người Việt Nam. Những chuyến bay đen được tổ chức giữa Thái Lan, Philippine và
Hoa Kỳ. Những quan chức cao cấp Mỹ lợi dụng sự mềm dẻo của thể lệ nhập cư, cho
lái xe, đầu bếp, người làm vườn ra đi. Ở lại chỉ còn những người Việt Nam mà
tính mạng dễ bị uy hiếp.
Trong khi sứ quán bắt đầu giai đoạn thứ nhất giảm số nhân
viên lãnh sự thì lãnh sứ quán Biên Hòa cũng thu xếp hành lý. Sáng 18, chỉ còn ở
đây 8 nhân viên CIA và năm viên chức bộ ngoại giao. Một đám mây tro bụi từ lò
sưởi bốc lên: lính thủy đốt những hồ sơ mật cuối cùng. Trước buổi
trưa, Taggart, trùm chi nhánh CIA ở đây, cho nhân viên trẻ là John Stockwell,
lên máy bay lên thẳng về Sài Gòn. Trong ba ngày qua, hai người cãi nhau kịch liệt
về việc Stockwell đòi tản cư tất cả nhân viên người Việt Nam giúp việc. Không kể
đến lệnh của Taggart, anh ta định tổ chức một đoàn tàu chạy từ sông ra biển.
Nghe tin ấy, Taggart vội vàng cho nhân viên hấp tấp về Sài Gòn, sợ ông gieo rắc
hoang mang trong thị xã Biên Hòa. Xế chiều khi Taggart cùng Stockwell đến gặp
Polgar, Taggart cấm không cho thực hiện cuộc tản cư bằng đường thủy. Polgar
thông cảm với Stockwell là không tuân lệnh và đề nghị với Polgar thông cảm với
Stockwell nhưng ông tán thành ý kiến của Taggart, cho là Stockwell ôm rơm rặm bụng.
Có phải để bảo đảm cho đoàn tàu đến nơi, đến chốn, anh ta định đi theo đoàn tàu
không? Lew James vừa bị cộng sản bắt. Polgar không thể để Stockwell đem vạ vào
thân.
Sau buổi họp ấy, Taggart một mình ở lại Biên Hòa, đem trả tỉnh
trưởng tất cả tàu bè do Stockwell thu thập. Một số nhân viên người Việt Nam
giúp việc Taggart về Sài Gòn bằng phương tiện riêng. Không có nhiều người đi được
máy bay. Taggart và Dick Peter, tổng lãnh sự ở Biên Hòa rời nước này trước khi
Sài Gòn thất thủ mấy ngày. Họ để mặc sứ quán lo cho những người Việt Nam giúp
việc họ.
Sáng 18 tháng 4, tổng thống Nguyễnvăn Thiệu bắt đầu thấy rõ
việc không thể tránh được. Sáng sớm, tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III, đi máy
bay từ sở chỉ huy ở Biên Hòa đến báo cho Thiệu biết thua trận rồi. Quân đội
đang tán loạn, số quân quá ít. Chỉ hy vọng chống cự được hai ba ngày nữa thôi.
Để đánh dấu buổi sáng ấy, Thiệu tiếp một đoàn đại biểu
các nhân vật ôn hòa vào trước buổi trưa. Những người đến dự cho Thiệu
biết: thời kỳ của Thiệu đã hết. Nếu ông ta không ra đi trong thời hạn sáu ngày
thì họ buộc phải đòi ông từ chức. Để làm yên lòng những người đối lập: Thiệu ra
lệnh bắt nhiều sĩ quan, theo ông, thật sự là những kẻ phải chịu trách nhiệm về
những thảm họa trong những tuần qua. Trong những kẻ bị nhốt vào nhà lao có viên
tướng khốn khổ Phạm Văn Phú mấy ngày trước khi hôn mê được đưa vào nằm ở một bệnh
viện gần Sài Gòn.
Buổi chiều, sứ quán đến cứu Thiệu một lần nữa. Đêm trước, do
một nguồn tin Nam Việt Nam, tướng Chales Timmes được biết Nguyễn Cao Kỳ định
làm đảo chính. Nghe thấy chuyện đó, Martin quyết định thuyết phục Kỳ. Ông cùng
Timmes đến gặp Kỳ ở sân bay Tân Sơn Nhất. Họ thảo luận với nhau trong hai giờ.
Martin và Timmes cố nói cho Kỳ rõ: ông ta và chiến hữu có một vị trí trong ván
bài đang chơi. Thực tế, Martin nghĩ khác: Việc Kỳ tham gia chính phủ sẽ tiêu
tan mọi hy vọng thương lượng. Nhưng đại sứ cho rằng cách duy nhất để bảo đảm
cho việc thay đổi chính phủ theo hiến pháp là gây cho Kỳ và những cái đầu nóng
khác cảm tưởng rằng họ có phần trong đó. Martin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cuối buổi họp, Kỳ chấp nhận để Thiệu yên vị miễn là thực quyền được trao cho một
người khác, như ông ta chẳng hạn. Tiếc thay, đối với những nhà viết sử, cuộc
trao đổi giữa Martin và Kỳ chưa bao giờ được dựng lại đây đủ. Tối hôm đó, lúc
Timmes ngồi viết lại tường thuật buổi nói chuyện thì ông thấy máy thu thanh giấu
trong cặp đã bị hỏng. Suốt đêm, ông ngồi cố nhớ lại nhưng cũng chỉ ghi đúng được
một phần cuộc thảo luận. Sau đó, đại sứ đã phê bình ông.
Ngoài những người định lật đổ và Bắc Việt Nam, Thiệu còn vấp
phải một vấn đề nữa: đó là tiền. Trước đó gần một tháng, ông ta đã gửi tàu thủy
đi Đài Loan và Canada phần lớn gia tài và đồ đạc Nhưng còn tài sản quốc gia gồm
16 tấn vàng đáng giá 120 triệu đôla chiếm gần hết dự trữ của nhà nước vẫn chưa
được gửi đi. Trước đó, Thiệu định giữ kín và gửi đi Paris cho ngân
hàng quốc tế, ở đấy đã giữ một phần vàng của Nam Thiệt Nam đáng giá
năm triệu đôla. Như ông ta nói với những người hợp tác với ông, 16 tấn vàng này
dùng để mua vũ khí, đạn dược cho quân đội. Nhưng mấy ngày trước khi gửi đi, một
người báo tin cho sứ quán biết. Một công tác viên của Martin cho là không thể
tin được Thiệu, nên đã tố cáo với giới báo chí. kết quả: các hãng Hàng không
Thiệu điều đình để chở số vàng ấy đi, không nhận nữa. Kế hoạch của Thiệu bị vỡ.
Martin cũng can thiệp kịp thời. Để đánh tan mọi điều nghi ngờ,
ông khuyên Thiệu gửi vàng sang ngân hàng New York, việc đó rất hợp pháp. Thiệu
chấp nhận. Ngày 16 tháng 4, sứ quán điện cho Hoa Thịnh Đốn xin một chuyến máy
bay quân sự đặc biệt được bảo hiểm để chở số vàng đi New York. Nhưng không quân
và ngân hàng New York không sẵn sàng bảo hiểm một tài sản lớn như thế gửi từ một
nước đang có chiến tranh. Công việc kéo dài một hai ngày, 18 sư đoàn Bắc Việt
Nam tiến vào Sài Gòn bằng mọi hướng. Vàng vẫn nằm nguyên trong kho ngân hàng quốc
gia.
Ảnh: Bản đồ miêu tả chiến dịch mùa xuân 1975 của phía Hoa Kỳ
NÚT CỦA HOẢNG LOẠN
Có thể tin những bản báo cáo đến mức nào? Không thể biết chắc
được. Ngày thứ bảy, 19 tháng 4 trôi qua. Không có cuộc tiến công thẳng vào Sài
Gòn. Quân cộng sản tiến chậm. Có thể tin rằng các nhân viên tình báo của chúng
tôi nói đúng. Những cuộc tiến công của quân Bắc Việt Nam không phải được hoãn lại.
Pháo binh của họ lần đầu tiên bắn phá đảo Phú Quốc, ở đấy có năm mươi nghìn người
tị nạn. Hai sư đoàn Bắc Việt Nam đánh Phan Thiết. Đáng sợ nhất là những xe tải
chở tên lửa Sam-2 đang từ hướng Đông Bắc tiến về Sài Gòn.
Những dấu hiệu chính trị không có gì phấn khởi. Trong buổi họp
báo thường kỳ vào sáng thứ bảy hàng tuần, trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng
lâm thời ở Tân Sơn Nhất, đại tá Võ Đông Giang, đã nâng cao giá lên. Ông đòi như
trước: tất cả cố vấn Mỹ giả làm dân thường phải rút đi, và điều mới là Martin
cũng phải ra đi. Ông Giang nói "Martin có vẻ là một nhà ngoại giao Mỹ
nhưng thực tế ông đã điều khiến mạnh mẽ mọi lĩnh vực quân sự, chính trị và kinh
tế. ông ấy phải chịu trách nhiệm về mọi hành động tội ác do chế độ Thiệu gây
ra".
Điều đó có phải có nghĩa là ông Giang muốn xóa mọi vết tích về
sự có mặt của Mỹ ở Sài Gòn một khi Hà Nội chiến thắng không? Những điều ông
Giang nói khá ngoắt ngoéo: "Nếu một nghìn kiều dân Mỹ ở lại thì không có vấn
đề gì cả nhưng sự có mặt của thột cố vấn Mỹ cũng là một điều vi phạm nghiêm trọng
hiệp định Paris.
Polgar lại hiểu lời ông Giang như sau: Có khả năng duy
trì sự có mặt tối thiểu của Mỹ ở Sài Gòn dù tình thế nào xảy ra, đúng như lời
Trần Văn Đôn nói với chúng tôi mấy hôm trước đây. Có thể ông ta vẫn mở ra con
đường thương lượng chính trị thật sự. Tôi viết một bản tường trình bác bỏ luận
điểm ấy, nhấn mạnh những điều không rõ ràng của ông Giang nhất là không có sự
có đi có lại. Polgar đọc bản tường trình ấy, để ra một bên, không gửi đi đâu cả,
kể cả cho đại sứ.
Vả lại, Malcolm Brown, tổng biên tập báo New York Times chẳng
đã viết rằng những ý kiến của ông Giang làm cho người ta hiểu là vẫn còn thì giờ
để thỏa thuận về những điều kiện của cộng sản là gì? Thật ra, không có một sự
trùng hợp nào về vấn đề này cả. Trong những ngày qua, Polgar đã cung cấp cho
Brown nhiều tin bí mật. Ông lấy Brown làm người tâm sự... Polgar vào phòng tôi,
bảo tôi làm một bản báo cáo về tình hình quân sự. Ông nói: Viết thật đen tối
vào, đại sứ sẽ dùng bản báo cáo để thuyết phục Thiệu rút lui. Polgar làm tôi nản
biết mấy, đến mức phải mất một lúc tôi mới hiểu ra những điều ông dặn dò.
Tôi không có gì phải thêm vào bản báo cáo: phản ánh đúng sự
thật là thấy rõ sự đen tối ngay: với sự sụp đổ của quân đội chính phủ ỡ Xuân Lộc,
và sự tiếp viện của quân đội Bắc Việt Nam ở Quân khu III, cán cân lực lượng ở
vùng rộng lớn Sài Gòn đã nghiêng hẳn về phía Bắc Việt Nam và Việt cộng. Đó là kết
luận của bán báo cáo của tôi. Mười lăm ngày nữa thì Sài Gòn sẽ bị bao vây hoàn
toàn. Có khả năng trong ba hay bốn tuần nữa sẽ rơi vào tay cộng sản. Tôi định
viết: có thể nhanh hơn nữa nhưng Polgar đã ngăn lại. Sau này, bản báo cáo của
tôi gần như trở thành một tài liệu lịch sử nhưng không phải vì những lý do tôi
tưởng. Khi Thiệu rời bỏ chính quyền, ông ta để hồ sơ nguyên vẹn. Không ai mất
công phá hủy đi cả. Cộng sản bắt được giấy tờ của Thiệu trong đó có bản báo cáo
của tôi. Tướng Dũng thấy thú vị về bản báo cáo này, ông đã chép nhiều đoạn, từng
chữ một vào hồi ký của ông viết sau chiến tranh.
Tôi đang đánh máy bản báo cáo thì Polgar cùng mấy đồng nghiệp
CIA họp kín trong phòng riêng, bàn vấn đề chuyển giao nhanh chính quyền. Phải
làm thế nào khi Thiệu rút thì phó tổng thống Trần Văn Hương lập tức nhường chỗ
cho Minh lớn và quốc hội chuẩn y ngay sự thay đổi ấy để mọi việc được tiến hành
đúng hiến pháp (như yêu cầu của Martin) và nhanh chóng (như yêu cầu của một số
người khác).
Ở sứ quán Pháp, cách đó vài bước, Mérillon và đồng nghiệp
cũng dành cả buổi sáng để thu xếp như trên. Mérillon nói với Martin sáng hôm
sau đi gặp Thiệu. Thiệu và giới thân cận không phải là không biết âm mưu lật đổ
ông ta. Sáng hôm ấy, tổng thống Singapor Lý Quang Diệu gọi dây nói mời Hoàng Đức
Nhã đến ngay. Diệu nói: Một việc gai góc cần phải tháo luận. Mấy giờ sau khi
Nhã đến Singapor, Diệu cho ông ta biết: Nhà chức trách Mỹ đề nghị Singapor và mấy
chính phủ ở Đông nam Á cho Thiệu sống lưu vong. Nhã gọi ngay về Sài
Gòn. Thiệu vừa nghe xong trả lời ngay: Ừ, tôi đã chờ đợi việc đó”.
Trong khi đó, Nhà Trắng tiếp tục đòi giãn cộng đồng người Mỹ
và di tản người Việt Nam mà tính mạng dễ bị uy hiếp. Các cơ quan của sứ quán cứ
dẫm chân tại chỗ vì những khó khăn hành chính. Những thể lệ mới của cơ quan nhập
cư cho phép người Việt Nam ra đi nếu họ được người Mỹ bảo lãnh, gây ra nhiều
phiền phức. Một người Mỹ có thể chịu trách nhiệm tới 60 người Việt Nam. Số phận
hàng nghìn người phụ thuộc vào một con dấu, một chữ ký, một giấy đi đường. Trước
các viên chức đang phân loại người đi, hàng đoàn người xếp hàng dài chờ đợi và
những cảnh thất vọng, thương tâm đang diễn ra. Đô đốc Noel Gayles, tổng tư lệnh
hạm đội Thái Bình Dương đến Sài Gòn nghiên cứu biện pháp di tản. Giữa sứ quán
Sài Gòn và Nhà Trắng, các viên chức chửi mắng nhau là đồ nọ đồ kia qua dây nói.
Bên này bảo bên kia: Chính anh đã ấn nút của hoảng loạn! Thật vô cùng lộn xộn!
THIỆU RA ĐI
Một năm sau ngày Nam Việt Nam thất thủ, một công tố viên của
quốc hội hỏi Martin: "ông giữ vai trò gì trong việc Thiệu từ chức, nếu ông
có giữ một vai". Đại sứ trả lời: "Không đóng vai trò nào cả. Tôi xin
cố gắng trình bày với ông tình hình hết sức thật thà, rõ ràng và khách quan”.
- Thiệu có khi nào hỏi ông, ông ta có phải từ chức không?
- Có ông ta có hỏi... Tôi trả lời: Việc
đó do ông ta quyết định tùy theo quyền lợi của người Sài Gòn, của nước Việt Nam
nói chung, tùy theo tất cả mọi cái mà ông ta đã bảo vệ, đồng thời tùy theo cảm
tình và văn hóa của người Việt Nam.
Sáng 20 tháng 4, Martin đến gặp Thiệu sau khi Mérillon, đại sứ
Pháp, đến nói chuyện với ông cũng về việc này. Martin nói: đôi được phái bộ
quân sự và CIA cho biết những tin tức mới nhất về tình hình quân sự và những
tình cảm của giới quan chức cao cấp, dân sự cũng như quân sự... Tóm lại là nếu
Hà Nội quyết định đánh nhanh thì Sài Gòn không giả nổi một tháng, chắc chắn
không giữ được hạ tuần dù có bảo vệ tốt và tài.
Mặc dù ta biết là Hà Nội muốn chiếm Sài Gòn nguyên vẹn chứ
không muốn thấy Sài Gòn đổ nát, cũng không nên loại trừ khả năng thứ hai nếu
không đi đến thương lượng.
Tổng thống Thiệu hỏi về triển vọng việc xin viện trợ quân sự
bổ sung. Tôi trả lời: Nếu may mà số tiền đó được chuẩn y thì chúng sẽ giúp ta củng
cố địa vị ở bàn đám phán nhưng chúng đến quá chậm để có thể thay đổi cân bằng lực
lượng. Ông ta biết rõ điều này: Ngay bây giờ cán cân nghiêng rất nguy hiểm
không lợi về phía ông ta. Tôi nói với Thiệu tôi đến gặp ông ta với tư cách cá
nhân chứ không phải thay mặt tổng thống hay bộ trưởng ngoại giao mà không phải
với tư cách đại sứ Hoa kỳ. Tôi bảo Thiệu, tôi nói chuyện với ông ta như một người
từ lâu đã theo dõi tình hình ở Đông Nam Á và hai năm nay, cố gắng tìm hiểu những
khó khăn của vấn đề Việt Nam. Tôi bảo Thiệu, tôi càng già, càng không biết nhiều
và bao giờ cũng có một sự nghi ngờ phải chăng. Nhưng lúc này có quá nhiều khó
khăn và có thể nhận định của tôi về các sự việc xảy ra cũng đúng như nhận định
của bất cứ một người phương Tây nào khác. Nhiều vấn đề đối với tôi rất rõ. Tình
hình quân sự cực kỳ xấu và nhân dân Việt Nam đổ cho Thiệu phải chịu trách nhiệm.
Giới chính trị, người cùng phe cánh với ông ta cũng như đối thủ của ông ta, đều
cho rằng ông ta bất lực để có thể đưa nước này thoát ra khỏi cuộc khủng
hoang hiện nay. Tôi nói: Tôi đi đến kết luận rằng, tất cả các tướng của Thiệu,
mặc dù đã quyết tâm chiến đấu, đều cho rằng không còn hy vọng gì nữa nếu không
có một cuộc đàm phán cứu họ. Tôi nói: Các tướng của Thiệu sẽ yêu cầu ông ra đi,
nếu ông không từ chức lúc này.
Tổng thống Thiệu hỏi việc ông ra đi có ảnh hưởng gì đến cuộc
bỏ phiếu quốc hội không? Tôi nói việc đó có thể có ảnh hưởng nếu xảy ra sớm mấy
tháng trước nhưng nay cần phải làm nhiều việc mới mong thay đổi kết quả. Nói một
cách khác là nếu Thiệu nghĩ rằng từ chức đổi được việc chuẩn y của quốc hội nhận
viện trợ đủ cho Việt Nam sống lại thì ông ta đưa món hàng này ra quá muộn rồi!
Vấn đề quan trọng nhất có lẽ là ảnh hưởng việc Thiệu rút lui đối với kẻ thù.
Tôi bảo Thiệu tôi không rõ việc này nhưng hình như hầu hết người Nam Việt Nam đều
cho rằng việc ông ta ra đi sẽ thuận lợi cho những cuộc thương lượng. Riêng tôi
nghĩ rằng điều đó không khác mấy. Hà Nội phản đối mọi thủ lĩnh có thế lực. Bắc
Việt Nam. đòi, nếu họ mong muốn thương lượng thật sự có một nhân vật yêu đối
thoại với họ. Đồng nghiệp của Thiệu cho rằng điều cốt yếu lúc này là tranh thủ
thời gian. Nếu có thể tránh cho Sài Gòn khỏi bị tàn phá, nếu một nước Việt Nam
độc lập có thể tiếp tục tồn tại thì ta vẫn hy vọng tình hình được cải thiện dù
là hy vọng mỏng manh.
Cuộc nói chuyện diễn ra gần một giờ rưỡi. Lúc tôi từ biệt Thiệu,
ông nói: "Sẽ hành động vì quyền lợi của đất nước này".
Trong một điện ngắn gửi cho Kissinger, Martin báo tin, Thiệu
sẽ từ chức sau một thời gian ngắn, có lẽ hai hay ba ngày nữa. Rồi đại sứ trở về
nhà riêng, đi tắm bằng xà phòng, ngủ trưa như ông kể lại. Có phải ông muốn xóa
sạch những việc làm buổi sáng ấy không? Sớm ngày 21 tháng 4, phòng tuyến bảo vệ
của chính phủ ở Xuân Lộc sụp đổ. Máy bay lên thẳng phải đến cứu tiểu đoàn cuối
cùng của bốn tiểu đoàn sống sót thuộc sư đoàn 18 Nam Việt Nam và cứu
cả viên tư lệnh: tướng Đảo. Sáu trăm người dưới quyền chỉ huy của đại tá Lê
Xuân Hiền, xung phong ở lại chặn hậu, bảo vệ cuộc rút lui. Trong vài giờ, họ bị
quân tiên phong của 40.000 binh lính Bắc Việt Nam đánh tràn qua. Buổi sáng, bộ
trưởng quốc phòng Trần Văn Đôn cầm đầu một nhóm liên hợp chống Thiệu, trong đó
đáng kể có tướng Viên. Viên công nhận, bất đắc dĩ, quân đội không còn chiến đấu
được nữa và không còn hy vọng gì thắng trận. Đôn tuyên bố: Trong những điều kiện
như thế thì chỉ có xin điều đình. Điều đó có nghĩa là Thiệu phải rút lui và phải
thay ông ta bằng một người khác - tướng Mình là hơn ai hết - có thể thương lượng
với kẻ thù. Viên có đồng ý không? ông ta tán thành. Có Viên ủng hộ, Đôn gây được
ảnh hưởng đối với nhiều bộ trưởng quan trọng trong chính phủ Cẩn: Bản thân thủ
tướng và bộ trưởng kinh tế Nguyễn Văn Hảo. Bốn người đi đến thỏa hiệp. Hôm sau,
họ sẽ đòi Thiệu từ chức. Nếu không được, họ sẽ sử dụng lực lượng vũ trang để đuổi
ông ta. Thiệu đã chuẩn bị. Tối đó, ông ta từ chức ngay, để cho họ hội họp mà
không để họ phải sử dụng vũ lực.
Trước trưa ngày 21 tháng 4, Thiệu triệu tập Khiêm và Hương đến,
báo cho hai người biết ông sắp từ chức và sẽ báo tin ngay tối nay. Kể lại cuộc
nói chuyện giữa Thiệu với Mérillon và Martin, Thiệu nhấn mạnh rằng hai người
này không ai khuyên ông ta rút lui nhưng trước tình hình quân sự đã bi đát
(Khiêm và Hương tán thành) sự có mặt của Thiệu không còn lý do nữa và có thể là
một trở ngại cho một giải pháp. Thiệu chỉ có một yêu cầu: việc chuyển giao
chính quyền được thực hiện đúng hiến pháp để tránh lộn xộn. Rất khó có thể hiểu
rằng Thiệu muốn ám chỉ Minh lớn. Ngoài phó tổng thống ra, ông ta không nên tin
một ai làm người thay thế.
Máy ghi âm do CIA đặt trong phòng làm việc của Thiệu truyền
đi từng lời ông ta nói. Mười ba giờ, giờ địa phương, Polgar chạy vào phòng tôi.
Ông nói to với tôi: Chúng ta là những người đầu tiên nhận được một
tin tối quan trọng kể từ ngày ngừng bắn đến nay. Không phải lo ngại về tình
hình quân sự nữa. Cái phải chú trọng bây giờ là chính sách liên hợp.
Không để mất thì giờ, Polgar báo tin cho người Pháp về việc
Thiệu sắp rút lui, rồi đến chiều, cử tướng Timmes đến gặp Minh. Timmes đi ngay.
Minh có bằng lòng nắm quyền và thương lượng hòa bình trước khi loại được Hương
không? Minh gật đầu. Ông ta nói có thể làm yên lòng kẻ thù và sẽ cử ngay đại diện
đi Paris để mở cuộc thảo luận. Timmes rút trong cặp ra một nắm giấy bạc mới, một
triệu đôla để làm phí tổn (chưa bao giờ Minh sử dụng món tiền ấy và ông ta cũng
không hề trả lại).
Trong lúc đó, một viên chức khác của CIA bàn chiến thuật với
một người thân cận Minh. Viên chức CIA nói: Tiện hơn cả là Minh nhận làm thủ tướng
của Hương, như thế thuận lợi cho việc chuyển giao chính quyền. Người nghe lắc đầu:
Không, không bao giờ Minh tham gia chính phủ của Hương. Minh phải nắm chính quyền
như đã thỏa thuận. Những điều đó cho thấy việc chuyển giao chính quyền sẽ không
được thực hiện như kế hoạch của sứ quán.
19 giờ rưỡi, giờ Sài Gòn, Thiệu nói chuyện với quốc dân đồng
bào. Có khoảng hai trăm nhân vật Nam Việt Nam được ông ta mời đến dinh tổng thống
trực tiếp nghe ông ta nói. Nhiều người vừa nghe vừa ngáp hoặc có những cử chỉ
khác. Điều biết trước là không những Thiệu bảo vệ mình trước lịch sử mà còn lên
án người Mỹ đã mất ý chí sau vụ Watergate. Gần hai giờ sau, Thiệu vừa khóc vừa
tuyên bố từ chức và giao quyền cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Thiệu nói: Vì
nửa đất nước đã mất nên ông ta hy sinh vì quyền lợi quốc dân. Tướng Viên đọc một
tuyên bố ngắn. Ông nói quân đội tiếp tục chiến đấu để bảo vệ tổ quốc chống bọn
xâm lược nước ngoài. Trong lễ bàn giao chính quyền, tổng thống mới Trần Văn
Hương, 71 tuổi, liệt, nửa mù, thề chiến đấu cho đến lúc quân đội bị
tiêu diệt, nước mất. Những người biết suy nghĩ ở sứ quán Mỹ không lấy những lời
thề đó làm quan trọng. Họ nói: "Đó là một cái xương cho Kỳ và phái hữu gậm
để ngăn họ xen vào công việc. Sự thật là Hương muốn thương lượng”. Như là đổ nước
vào cối, chính phủ mới nhanh chóng đề nghị ngừng bắn và thành lập một hội đồng
quốc gia hòa giải hòa hợp tay ba có cộng sản tham gia.
Nhưng tất cả trò chiêng trống ấy làm một số đông chúng tôi lo
ngại. Để làm yên lòng Kỳ và những phần tử phái hữu, chính phủ mới có thái độ có
thể xúc phạm đến cộng sản. Tôi viết trong sổ tay: Thiệu từ chức, Sài Gòn yên
tĩnh. Tối 21 tháng 4, lại thiết quân luật từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng để ngăn
chặn những cuộc biểu tình nhưng tôi nghĩ người ta đã quá mệt mỏi, không còn muốn
nhảy ngoài đường phố nữa.
Một số đồng nghiệp lấy làm thú vị khi được biết tin này. Tôi
thì không. Tôi chỉ thấy buồn - không phải vì Thiệu ra đi - việc đó không thể
tránh được - mà buồn chính vì bản thân cảnh này. Chúng tôi đều biết mọi việc đều
giả dối, nói một cách khác, việc chiết cành của chúng tôi không bén rễ. Tuy thế,
ai cũng mong không kết thúc như thế này hay ít nhất là không phải chứng kiến cảnh
ấy. Trong khi tin Thiệu từ chức bay về Hoa Thịnh Đốn thì Kissinger gửi một điện
chia buồn cho Martin, bày tỏ sự kính trọng không suy xuyển của ông đối với người
lãnh đạo Nam Việt Nam, ông đề nghị được giúp đỡ Thiệu rời khỏi nước này. Ông nhấn
mạnh: Chính phủ Mỹ không hề hợp tác với người Pháp để chống Thiệu. Và ông nói
thêm đến nay cũng chưa nhận được tin tức gì của Liên Xô.
Trong giới chính trị Sài Gòn, phản ứng rất khác nhau về việc
Thiệu ra đi và về những thế lực đã đánh đổ ông ta. Một số người hoan
nghênh những lời chỉ trích của Thiệu đối với người Mỹ. Một số khác, nhất là sĩ
quan trẻ, tỏ vẻ khó chịu. Hương hình như không được lòng ai. Nhưng nói chung họ
nói: “già rồi, không làm gì được!". Không một người nào tán thành sự kiện
diễn ra sau đó. Những người đứng về phe ngừng bắn tỏ lòng tin tưởng, họ cho rằng
có thể thương lượng bình đẳng với cộng sản. Minh lớn là một người trong số đó,
ông bình tĩnh chuẩn bị nói chuyện ngã ngũ với phía bên kia, trong khi đó, người
phát ngôn của ông ta ở Paris công khai yêu cầu ngừng bắn, nối lại cuộc đàm phán
và thành lập một chính phủ thật sự tiêu biểu.
Khó mà biết Minh có tin thật sự vào chuyện đó hay không. ông
ta vẫn được coi là người của đời sống chính trị hiện nay ở Sài Gòn. Đối với những
người ôn hòa, sự dũng cảm của Thiệu là chìa khóa của sự sống còn của họ và của
đất nước Việt Nam cộng hòa. Đó là cách làm duy nhất để làm yên lòng Kỳ và phe
lũ trong khi tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình. Martin và Polgar, chắc chắn
đều hiểu mối nguy hiểm do Kỳ có thể gây ra, và họ chuẩn bị để gạt mối nguy hiểm
ấy. Chiều thứ ba, Polgar nói với Timmes đến thăm Kỳ. Cuộc gặp mặt như dầu đổ
vào lửa. Như sau đó Kỳ công nhận, ông nghĩ rằng nhân viên CIA đến gặp Kỳ như gặp
người thay Hương. Và chỉ một câu hỏi vụng về của Timmes về sự nguy hiểm của một
cuộc đảo chính chống Minh lớn là Kỳ biết ngay ai là người được Hoa Kỳ chọn làm
tổng thống. Kỳ quyết định thu xếp ngay vị trí của mình. Sự vụng về của Timmes
đã làm cho những người ôn hòa khó hoạt động và phái hữu báo động.
Trong khi đó, người Pháp tiếp tục xen vào, Pierre Brochand Ở
cạnh Minh suốt ngày, khuyến khích và bảo vệ Minh chống mọi kẻ cạnh tranh. Sáng
22, khi Brochand được tin Trần Văn Đôn muốn lên làm tổng thống, ông vội vàng đến
gặp Đôn và nói rằng chỉ có Minh mới được cộng sản công nhận. Phản ứng
đầu tiên của cộng sản về sự thay đổi tổng thống rất rõ ràng. Ở Tân Sơn Nhất,
người phát ngôn chính phủ cách mạng nói ngay với các nhà báo: Việc Thiệu rút
lui không thay đổi gì cả và ông ta bác bỏ lời kêu gọi đình chiến của Hương. Đài
phát thanh Hà Nội lên án Hương là một tên phản động, phản quốc và đòi Hoa Kỳ phải
bỏ cả tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu chứ không chỉ riêng bản thân Nguyễn Văn Thiệu
và không được can thiệp vào công việc của Việt Nam, nhất là không được viện trợ
quân sự. Đó là một tối hậu thư (cách duy nhất để thoát ra khỏi cuộc chiến tranh
này, theo đài Hà Nội) chứ không phải là một nhân tố để thương lượng, và người
ta không thể nghi ngờ về lời đe dọa này.
Cộng sản cũng không để cho có hy vọng một cuộc tản cư yên ổn
mặc dù việc Thiệu rút lui cho phép hoãn một thời gian việc ra đi của chúng tôi.
Trái lại chỉ mấy giờ sau lời tuyên bố của Thiệu, đài giải phóng chỉ dành hai
hay ba ngày, thậm chí có 24 giờ đòi cố vấn Mỹ phải rút đi. Mặc dù như thế,
Martin và cả Polgar ở Hoa Thịnh Đốn nữa, vẫn còn tin rằng có thể vận động
thương lượng được. Sau ngày Thiệu từ chức một ngày, Polgar tiếp tục đi tìm gặp
người này, người khác... Trong khi đó, cộng sản giành thắng lợi vang
dội: chiếm Phan Thiết, thị xã cuối cùng ở Quân khu II, Hàm Tân, một huyện lỵ
cách thị xã 46 kilômét về phía Nam và Xuân Lộc. Từ đây, quân Bắc Việt Nam tiến
đến Biên Hòa về phía Đông và Vũng Tàu về phía Nam. Trước năm sư đoàn Bắc Việt
Nam trong vùng, Nam Việt Nam chỉ còn tàn quân của sư đoàn 18, hai lữ đoàn lính
thủy bị nghẽn ở phía Đông Biên Hòa, một lữ đoàn dù và hai trung đoàn bộ binh bị
đánh tơi bời đang đóng yên tại chỗ giữa Xuân Lộc và Vũng Tàu. Biên Hòa tiếp tục
bị bắn phá dữ dội mấy giờ sau khi Thiệu từ chức, tướng Toàn, tư lệnh Quân khu
III rời sở chỉ huy về Sài Gòn. Chưa phải là hoảng sợ thì là gì? Tôi
báo cho Polgar biết. Ông lờ đi.
Lần thứ hai trong tuần, ông kiểm duyệt, bỏ một tin không phù
hợp với quan điểm của ông. Nhưng hậu quả lần này tai hại hơn nhiều so với lần
ông gác lại báo cáo ngày 17 tháng 4 của một nhân viên của tôi. Bộ phận của tôi
nay là bộ phận duy nhất có thể cung cấp cho sứ quán tin tức và nhận định về
tình hình quân sự. Bộ phận tương tự của phái bộ quân sự đã ngừng hoạt động vì
quá bận về việc tản cư.
Kissinger cũng cảm thấy rằng có một cái gì trục trặc trong những
bộ phận tình báo. Ông gửi điện cho Martin ngày thứ ba hỏi ý kiến về sự đánh giá
của mấy nguồn tin nói rằng không có dàn xếp thương lượng. Martin trả lời: Nhiều
nguồn tin khẳng định như thế nhưng CIA đã nhiều lần thay đổi nhận định, rất khó
mà tin được.
Ngày Thiệu đọc diễn văn chào vĩnh biệt, tướng Văn Tiến Dũng,
các ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng hoàn thành kế hoạch mở chiến dịch Hồ Chí Minh tại
bộ chỉ huy ở Lộc Ninh. Như được vạch ra, kế hoạch chung giống phần nào việc bóc
vỏ một củ hành. Quân đội Bắc Việt Nam trước hết phá vỡ phòng tuyến bên ngoài
Sài Gòn rồi tiến sâu thẳng vào thành phố bằng các đơn vị cơ giới, tập trung ở
năm mục tiêu quân sự: Dinh tổng thống, Bộ tổng tư lệnh, Bộ tổng tham mưu, Sở chỉ
huy cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất. Hai ngày được ấn định: ngày 27 tháng 4,
tiến công vùng ngoại vi thành phố, ngày 29 tiến công cuối cùng. Trong hồi ký của
ông, tướng Dũng chỉ rõ ngày thứ ba 22 tháng 4 đã quyết định hai ngày nói trên.
Tất cả chiến dịch tập trung vào một điểm duy nhất: Sài Gòn. Những cuộc tiến
công đầu tiên vào Tây Ninh, ở phía Tây Bắc, vào vùng đồng bằng ở phía Nam, chỉ
là để giữ chân các đơn vị Nam Việt Nam ở đó và ngăn không cho họ kéo về bảo vệ
thủ đô.
Theo tướng Dũng, việc khó nhất là chọn chỗ chung quanh Sài
Gòn đặt tên lửa phòng không Sam-2. Việc tế nhị khác: chuẩn bị cho pháo binh bắn
vào sân bay Tân Sơn Nhất mà nhân viên tình báo của tôi nói là vào ngày 17. Trước
hết phải chiếm Nhơn Trạch, một vùng bùn lầy ở phía Đông Nam Sài Gòn, để đặt
súng bắn rốc két và đại bác 130 li. Chiều thứ ba, tướng Lê Trọng Tấn, tư lệnh mặt
trận phía Đông, đến sở chỉ huy, đặt ở phía Bắc Biên Hòa để chỉ huy trận đánh.
Tướng Dũng gửi cho tướng Tấn một điện khẩn. Phải chiếm Nhơn Trạch ngày 27 hoặc
28 là cùng.
Mặc dù Bắc Việt Nam không muốn đánh nhau với những người Mỹ ở
Sài Gòn, nhưng kế hoạch của họ cũng đề cập đến một việc loại trừ một số chúng
tôi. Ít lâu sau bài diễn văn của Thiệu, cảnh sát miền Nam Việt Nam, được một chỉ
điểm cho biết, đã báo cho một viên chức cao cấp CIA rằng đặc công Bắc Việt Nam
tối hôm ấy sẽ phá nhà ông ta ở giữa thành phố. Quá mệt vì phải làm việc suốt ngày,
những viên chức CIA, tối hôm ấy phải dành nhiều thì giờ để lau chùi lại khẩu M.
16 và chẹn cửa. Đến đêm, cảnh sát đến báo với ông. Đặc công đã bị chặn ở cửa
thành phố, ông không còn gì phải sợ. Ít nhất là trong lúc này.
Nếu tin vào hồi ký của ông thì tướng Dũng và tư lệnh các đơn
vị Bắc Việt Nam đều biết rõ những hoạt động chính trị và ngoại giao chung quanh
việc Thiệu từ chức. Mọi chi tiết đều được ghi trong một bài của ông Nguyễn Duy
Trinh, bộ trưởng ngoại giao Bắc Việt Nam. Nói về những đề nghị hòa bình của Mỹ
và Pháp, ông coi đó là những âm mưu xảo quyệt. Tính từ này cũng được báo chí cộng
sản dùng khắp lượt. Những lời tố cáo của ông Trinh chỉ làm cho tướng Dũng quyết
tâm giành thắng lợi hoàn toàn càng nhanh càng tốt. Ông Lê Duẩn cũng gửi điện
vào, mong muốn và chúc đánh thắng nhanh. Ông Duẩn viết: “Thời cơ quân sự và
chính trị để mở cuộc tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng
ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không để chậm. Nếu để
chậm thì không có lợi về chính trị và quân sự. Kịp thời hành động lúc này là bảo
đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn". Sự khinh bỉ của tướng
Dũng đối với trò ngoại giao ở Sài Gòn xuyên qua các trang hồi ký của ông. Ông
viết: Đó là một tập đoàn ngu dốt và ngớ ngẩn. Chúng thay đổi chính phủ với mục
đích duy nhất là để ngăn chặn cuộc tiến công của chúng ta và tránh sự thất bại
hoàn toàn. Ông cũng đả kíck Polgar: "Bọn CIA ở Sài Gòn, như con
rắn độc, luồn lách rình mò với nhiều âm mưu xảo quyệt, bắn tin: Hương làm tổng
thống chỉ là tạm thời, sẵn sàng đi đến thỏa thuận, Mỹ chờ đợi sự đáp lại
v.v...” Tướng Dũng cũng bắn tên vào tướng Vanuxem, sĩ quan cũ của quân đội Pháp
đã biết Thiệu trong những năm đầu thập kỷ 50, mới đến Sài Gòn mấy tuần trước để
"khuyên" Thiệu trong những giờ cuối cùng ông ta ở dinh tổng thống. Mặc
dù Thiệu từ chức, Vanuxem vẫn ở lại Sài Gòn để đề nghị một chiến thuật phản
công với bộ tư lệnh Nam Việt Nam. Tướng Dũng gọi Vanuxem là một người mê ngủ,
ngu muội.
Tuy vậy, không có gì trong những lời nói trên chứng tỏ Bắc Việt
Nam sữ dìm Nam Việt Nam trong biển máu. Chắc chắn họ sẽ chấp nhận sự đầu hàng
không điều kiện nếu việc đó đến nhanh và rõ ràng. Dù sao, sau khi Thiệu từ chức,
tướng Dũng và Hà Nội không còn chờ đợi được nữa. Ngày 22 tháng 4, tướng Dũng và
ông Phạm Hùng cùng ký vào bản quyết tâm chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ chỉ huy chia
làm đôi. Tướng Dũng và người phó quan trọng của ông, ông Trần Văn Trà, đóng sở
chỉ huy tiền phương ở Bến Cát, tỉnh Bình Dương, phía Đông Bắc Sài Gòn, còn các
ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng ở lại Lộc Ninh để điều hòa hoạt động chính trị, ngoại
giao và quân sự. Và có thể để chờ sự đầu hàng không điều kiện cho đỡ phải đánh
trận cuối cùng.
THÔNG TÍN VIÊN BÍ MẬT
Chủ nhật 20 tháng 4, 24 giờ sau khi Thiệu từ chức, cuộc di tản
ồ ạt bắt đầu. Không biết trong cuộc hội kiến vừa qua Martin và Thiệu có thảo luận
để xúc tiến cuộc di tản không. Thật ra, không cần thiết, hai người đã nghe thấy
tiếng gầm rú của máy bay phản lực C.141 rời sân bay Tân Sơn Nhất, cách đó 8
kilômét.
Nhịp độ di tản tăng. Từ ngày 4 tháng 4, ngày có cầu hàng
không đầu tiên, cầu hàng không trẻ em, ngày nào bốn máy bay vận tải lớn, cũng
bay đi bay lại từ Tân Sơn Nhất đến căn cứ Clark ở Philippines. Mặt khác, sự mềm
dẻo của thể lệ nhập cư đã làm tăng lên rất nhiều số người di tản hợp pháp. Việc
đó không ngăn cản những chuyến bay lậu tiếp tục cất cánh: những máy bay này
không chở những người Việt Nam về chính trị có nhiều vấn đề mà chở bạn bè, thân
thuộc của các sĩ quan phái bộ quân sự. Vấn đề duy nhất phải lo là làm thế nào
chở những người không có giấy tờ ấy vượt được hàng rào sân bay. Cuối cùng người
ta tìm ra mánh khóe: đút lót. Cảnh sát quân sự ở sân bay đã nhận khoảng 50.000
đôla.
Hồ sơ của CIA là một núi giấy tờ mật, nặng 14 tấn báo cáo,
tài liệu, tiểu sử nhân viên tình báo. Đầu tháng đã hủy một phần rồi nhưng ban
ngày, đại sứ không cho đốt hồ sơ sợ tro ở lò sưởi bay ra làm bẩn xe hòm đỗ
ngoài hành lang. Sau thấy cấp bách quá, ông cho đốt cả ngày, đêm. Tiếng kêu của
hai lò sưởi đặt trên mái nhà, ngay đầu tôi, làm tôi hết sức khó chịu. Trong những
nhân viên sứ quán được coi là không cần thiết, nghĩa là tản cư ngay, có Pat
Johnson, nữ cộng tác viên gần gũi nhất của tôi. Pat giành hai ngày cuối ở Sài
Gòn để đi chào người quen. Sau này bà nói với tôi: Sao lại có lúc kỳ lạ thế. Đối
với tôi cái gì cũng mờ ảo. Một số bạn Việt Nam cho tôi cảm tưởng là họ không thấy mối
nguy hiểm đã đến gần. Sáng thứ bảy, bà gặp một người bạn bình tĩnh tưới hoa
trong vườn. Lúc bà đến phòng hớt tóc, người chủ ngạc nhiên nói: Ồ, bà còn ở đây
à? Bà là người cuối cùng rồi. Tất cả khách hàng người Mỹ của tôi đã ra đi. Pat
buồn rầu khi phải chào từ biệt người đầy tớ già: chị Ba. Chồng chị đã mất, năm
con và nhiều cháu chị đều ở trong nhà Pat. Sáng chủ nhật, trước khi đi, Pat xuống
bếp ôm hôn chị Ba, đưa cho chị nắm đôla cuối cùng, mọi người đều khóc. Pat có ý
định đưa họ đi Mỹ nhưng họ từ chối lấy cớ sống ở đấy không hợp. Ở đây, trà trộn
với nhân dân, họ có thể sống được. Cộng sản không thể giết được tất cả mọi người.
Chiều hôm đó, Pat bay đi Bangkok trên một máy bay đặc biệt,
chỉ có mấy hành khách. Ban Giám đốc hãng hàng không Việt Nam tổ chức chuyến bay
này để chở vốn của hãng đi: 20 triệu đôla bằng vàng. Pat ngồi giữa đống bao tải
bằng vải xám đầy kim loại óng ánh không có gì nguy hiểm. Sau khi thất thủ Sài
Gòn, những bao tải ấy biến mất. Chắc chúng đã trốn vào tủ sắt một người nào đó.
Ở Bangkok, Pat đi chơi tối với bạn, khiêu vũ suốt tới sáng. Cuộc vui lạ lùng và
giả tạo do căng thẳng đẻ ra. Chiều hôm sau, bà được tin Thiệu từ chức.
Bản chất vốn không kiên trì và dễ xúc động, nên bộ trưởng quốc
phòng Schlesinger trở nên cáu kỉnh hơn lúc nào hết. Trong mấy ngày qua,
Kissinger và ông tranh luận gay gắt về nhịp độ và tầm quan trọng của việc di tản.
Ông nói với một phóng viên: Cuộc di tản cấp tốc được thực hiện quá chậm nên kế
hoạch di tản những người Mỹ bằng cả máy bay dân sự lẫn máy bay quân sự vẫn
không kịp với tình hình. Có lẽ phải dùng đến máy bay lên thẳng và lực lượng
lính thủy đánh bộ. Kissinger phản đối.
Sáng thứ hai, ông công kích Schlesinger, lên án bộ
quốc phòng quá nặng nề bảo vệ uy tín cá nhân nên đã tuyên bố lung tung với các
nhà báo. Kissinger nhấn mạnh: Mặt khác, cuộc di tản cấp tốc những người Mỹ còn ở
lại Sài Gòn sẽ gây hoảng loạn, điều mà Martin rất lo ngại. Sau đó, Kissinger ra
lệnh cho Martin cho di tản càng nhanh càng tốt nhân viên phái bộ quân sự, trước
khi phải sứ dụng đến máy bay lên thẳng. Bất bình về cuộc xung đột nổ ra giữa
hai bộ trưởng, hai viên chức nhỏ của bộ ngoại giao Lionel Rosenblatt và Craig
Johnstone quyết định giúp những người bạn Việt Nam. Họ xin nghỉ phép năm, mua
vé máy bay đi Sài Gòn. Mấy giờ sau khi tướng ngoại giao Habib biết tin này, ông
yêu cầu Martin đuổi ngay họ về Mỹ. Nhưng hai viên chức ấy đã kịp chặn điện của
Habib, đại sứ không nhận được.
Những ngày sau, Rosenblatt và Johnstone làm việc ở khách sạn
Caravelle 24 giờ trên 24 giờ. Họ bí mật đưa danh sách những người Việt Nam sang
trung tâm phân loại của phái bộ quân sự. Khi họ trở về Mỹ, họ gầy mất mấy kí lô
nhưng đã đưa đi di tản được 20 nhân vật Việt Nam quan trọng và gia đình những
người này, nghĩa là tất cả hai trăm người mà không một ai có dấu xuất cảnh. Đó
là những người cộng sự đắc lực của Mỹ đã tham gia việc khủng bố cộng sản.
Thứ hai, 21 tháng 4, đô đốc Gayler cho cầu Hàng không hoạt động
suốt 24 giờ, máy bay C.141 bay ban ngày, máy bay C.130 bay ban đêm. Thoạt đầu,
mỗi máy bay chở một trăm người, nhưng sau hạn chế cho mỗi người chỉ được đem
theo một va li nên chở được gấp đôi. Hơn 1.500 người Mỹ và Việt Nam, tăng gấp
ba lần hôm trước, được di tản đến căn cứ không quân Clark ở Philippines trong
12 giờ. Ở đấy đã có hơn ba nghìn người tị nạn, họ ở trong một làng dựng
tạm bằng nhà bạt trên sân chính của căn cứ, người ta gọi làng ấy là làng
"vui trên bãi cỏ”.
Cơ quan CIA từ lâu đã đề nghị với Lầu Năm Góc dành
riêng cho mình một số máy bay để rải rác ở Tây Thái Bình Dương. Nhưng nay có cầu
hàng không quân sự, chúng tôi nghĩ là không thể lấy được máy bay. Để thay thế,
John Pittman đề nghị với Bộ chỉ huy CIA cho phép lấy tất cả những máy bay chở
hàng bay đi Đài Loan, Thái Lan, Singapore làm máy bay chở khách đến các nơi ấy.
Bộ chỉ huy bác bỏ, Shackley nói: Không nước nào chịu nhận những người Việt Nam
đã được CIA che chở. Việc bác bỏ ấy làm chúng tôi bực mình. Một đồng nghiệp liền
gọi cho Frank Scotton, phân xã trưởng Hoa Thịnh Đốn, Thông tấn xã Hoa Kỳ, đề
nghị Scotton thuyết phục Shackley. Thông tín viên bí mật, một nhân viên quan trọng
và có kinh nghiệm ấy nói với Scotton: "Chúng tôi đang ở vào tình thế cực kỳ
nguy hiểm, đòi hỏi phải có ngay một cầu hàng không máy bay lên thẳng. Martin
thì bất lực, Polgar thì bối rối. Anh nhờ Scotton nói với các quan chức ở Hoa Thịnh
Đốn cố gắng can thiệp. Scotton biết rõ tình hình Sài Gòn lúc bấy giờ liền đến bộ
chỉ huy CIA, Colby được nghe chuyện. Ông hỏi căn cước thông tín viên bí mật xem
anh ta có đủ tư cách đánh giá tình hình không. Người ta cho ông biết tên. Ông
nói: Thông tín viên này không biết rõ tình hình chung, không cho máy bay bay
ngay! Thực tế, thông tín viên này biết rõ tình hình như đếm đầu ngón tay. Chính
tôi đã nói cho anh rõ tình hình quân sự mấy ngày nay. Với địa vị cao và sự hiểu
biết của anh, tôi tin rằng Hoa Thịnh Đốn sẽ đồng ý. Một lần nữa, tôi đã lầm.
Thông tín viên bí mật và tôi không phải là những viên chức
CIA duy nhất đề nghị can thiệp. Larry Dows, trùm chi nhánh Cần Thơ, liên tiếp gửi
điện cầu cứu cho Sài Gòn, xin máy bay lên thẳng để chở nhân viên người Việt
Nam. Không ai trả lời anh ta. Bill Johnson, viên chức ở chi nhánh
CIA Sài Gòn, bất chấp thể lệ hành chính. Chiều 21 tháng 4, anh và nhiều đồng
nghiệp, bí mật hoạt động, làm cho việc di tản đạt kết quả lớn nhất. Đó là việc
chuyển đi đài phát thanh tối mật của CIA mà thường được gọi là "ngôi nhà số
7".
Đài này được thành lập từ sau ngày ngừng bắn do lệnh của
Kissinger để tuyên truyền, loại trừ ảnh hưởng của Bắc Việt Nam và Việt cộng.
Người ta gọi là đài "radio xám" cũng được vì nó hoạt động như một đài
không cộng sản nhưng không có quan hệ gì với chính phủ. Ở Sài Gòn, Johnson được
giao trách nhiệm phụ trách đài. Anh cho làm những studio hiện đại đặt trong những
ngôi nhà tồi tàn cũ kỹ ở số 7 đường Hồng Thập Tự - do đó có tên "ngôi nhà
số 7" - sau đó còn thiết lập 5 đài nữa, mỗi đài truyền tin trên một làn
sóng riêng. Đài dùng mật mã "bà mẹ Việt Nam" có hiệu quả nhất. Tiếng
nói phụ nữ quyến rũ, âm nhạc gợi nhớ quê hương và nhiều tin vui đánh vào lòng
binh lính Bắc Việt Nam đang lội trong bùn lầy đồng ruộng làm cho họ nhớ cha mẹ,
vợ con... Tin chính trị được nói bằng một giọng tình cảm khơi trong họ ý thức
hòa hợp dân tộc, coi trọng gia đình là những đức tính tốt của nhân dân Việt
Nam. Bản thân phát thanh viên cũng có hai mặt, là hai phụ nữ tiếng nói rất khác
nhau. Người có tuổi là Mai Lan có vẻ đẹp kiều diễm, đã học ở Hoa Kỳ, bố là một
nhân vật cao cấp trong chính phủ Thiệu. Hoàn toàn Âu hóa, chiều chiều, chị làm
mê những lòng người nghe bằng những bài hát dân ca nói về đất nước mà chị ít biết.
Đầu tháng tư, Johnson nói với đài số 7 anh sẽ cố gắng đảm bảo an ninh cho họ.
Anh đã đề nghị với Polgar và bộ chỉ huy CIA cho anh chuyển đài ra khỏi Việt
Nam, tiện hơn cả là sang Thái Lan, nhưng Shacklay và Polgar không nghe. Johnson
không nản lòng. Anh xin được phép chuyển mọi người ra đảo Phú Quốc, ngoài biển.
Đêm 24 tháng 4, hai máy bay C. 46 và C.47 hãng Hàng không Mỹ bắt đầu
di chuyền. Bốn ngày sau, 141 nhân viên người Việt Nam giúp việc ở ngôi nhà số
7, và gia đình họ, tổng cộng một nghìn người, bình yên vô sự, thoát khỏi Sài
Gòn.
Ngày cuối cùng cuộc chiến tranh, một trăm nghìn người tị nạn ở
Phú Quốc biểu tình. Một đại diện của đài phát thanh bị giết chết. Những nhân
viên khác được tàu Pioneer Challenger chở đi đảo Guam. Johnson phải
"khóc" một người nhưng đã giữ được lời hứa với tất cả nhân viên.
Ngày 22 tháng 4, tôi viết vào sổ tay: bắt đầu sắp xếp hành
lý. Một việc đáng buồn. Sẽ mất hết. Vì có việc riêng, tôi đi gặp Polgar. Nhân
viên hậu cần bảo tôi có gì thì để cả ra giữa phòng ấy. Người ta sẽ đóng gói cho
anh. Sứ quán cũng trở thành con ốc rỗng. Hành lang đầy gói, dọc đường, xếp chật
hòm. Hàng trăm người Việt Nam, ngồi trên ghế vải gấp, trước lãnh sự quán, chờ
giấy tờ hoặc xin dấu xuất cảnh. Cả những người giàu có, tầng lớp đã Âu hóa cũng
đánh nhau để dành một chỗ trong chuyến bay chở người tị nạn. Một số đông chưa hề
bán mình cho chúng tôi ngày nào, nay cũng sẵn sàng làm việc đó để được ra đi. Một
tin đăng trên tờ Sài Gòn Post hôm nay: Nữ sinh viên trẻ, đẹp, 18 tuổi, đỗ tú
tài, biết chơi dương cầm, con một gia đình khá giả, muốn làm con nuôi hoặc kết
hôn với một người nước ngoài quốc tịch Mỹ, Pháp, Anh, Đức hay nước nào khác có
thể đưa cô ta sống ở nước ngoài để tiếp tục học tập. Tiền phí tổn cô chịu...".
21 giờ sau khi Thiệu từ chức, nhịp độ tản cư tăng gấp đôi. Thứ
ba, ngày 22, hơn ba nghìn người rời Sài Gòn nhờ phái bộ quân sự can thiệp. Như
vậy từ đầu tháng đến nay đã có hơn mười nghìn người. Mỗi giờ có hai máy bay chở
hàng Mỹ cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất. Hoa Thịnh Đốn lại giảm nhẹ thể lệ nhập
cảnh một lần nữa để tăng nhịp độ di tản: Ngày 22 tháng 4, theo đề nghị khẩn cấp của
Kissinger, thượng nghị viện đã thông qua luật bãi bỏ những trở ngại cho 130.000
người nước ngoài từ Đông Dương sang vào nước Mỹ, trong số này có 50.000 người
tính mạng bị uy hiếp. Bộ Tư pháp cho áp dụng ngay luật này. Đó là sự nhượng bộ
lớn của quốc hội và cơ quan nhập cư. Bình thường, mỗi năm chỉ cấp cho một nước
20.000 hộ chiếu. Trước đây đã có một trường hợp rộng rãi như trên: đó là vào đầu
thập kỷ 60, cho phép 60.000 người di tản Cu ba vào Mỹ sau thất bại ở vịnh Con
Heo.
Ở trung tâm phân loại của phái bộ quân sự, việc giảm nhẹ thể
lệ không thay đổi gì tình hình vì luật và thể lệ đã được thay bằng sự linh động
rồi. Do đó, sau khi Thiệu từ chức, thiết quân luật bắt đầu từ 8 giờ tối, các
viên chức phụ trách di tản quyết định để cho những người tị nạn ngủ lại ở nhà
phụ và họ làm việc suốt 24 giờ. Căn nhà để phân loại bỗng chốc giống như một hội
chợ lúc đóng cửa. Một người kể lại: "Nóng ghê gớm. Lúc mọi người ở lại, phải
chú ý mọi cái. Hành lý vất lung tung, phòng vệ sinh bị đóng cửa. Nhiều người Việt
Nam bị ốm vì sợ. Chúng tôi phải lấy rào chắn không cho đi lại".
Chịu trách nhiệm về sự lộn xộn ấy là Moorefield, một viên chức
phụ trách hoạt động di tản, đúng ra là vì anh quá rộng lượng. Anh giải thích,
tôi phải tìm mọi cách giúp đỡ hàng đống người bị bỏ lại. Đáng lẽ viên chức cơ
quan thông tin Mỹ đi với nhân viên các hãng tư nhân nhưng có điều gì đó không ổn,
họ phải ở lại. Nhân viên tổ chức World Vision và nhiều tổ chức từ thiện khác mắc
kẹt ở phái bộ quân sự, không có ai che chở ngoài một người Việt Nam. Nhân viên
nhiều công ty Mỹ cũng thế. Họ đến phòng làm việc của tôi đưa cho tôi một tài liệu
vu vơ và nói: Người ta hứa giúp chúng tôi. Đúng, họ xứng đáng được giúp đỡ nên
tôi không có cách nào khác là tạo điều kiện cho họ đi. Lại còn vấn đề dở khác
là vấn đề tỷ lệ, chỉ tiêu nữa. Nhiều người đã giữ chỗ từ trước. Chúng tôi không
biết còn bao nhiêu chỗ sau khi những kẻ ở phái bộ quân sự và sứ quán
gửi những giấy “đặc biệt vào”!
Cứ 20 phút tôi lại gọi dây nói cho sứ quán xin ý kiến. Nhưng
rõ ràng không ai kiểm soát được việc gì nữa. Lúc đó tôi bắt đầu làm theo ý
riêng. Khi Rosenblat hoặc một nhân viên CIA nào dẫn một người Việt Nam đến nói
rằng người này ỡ lại sẽ bị nguy hiểm, thế là tôi đóng dấu cho đi. Không hỏi
thêm điều gì nữa. Viên chức bậc thấp người Việt Nam được Moorefield sử dụng
cũng trở thành vấn đề. Anh kể lại: Thỉnh thoảng tôi ngẩng đầu lên, tôi nhìn thấy
mọi người đã thu xếp xong hành lý và đi rồi. Sau này tôi mới biết nhiều người
trong bọn họ chuồn đi với những cặp giấy thông hành, đem ra chợ bán theo giá chợ
đen, đắt kinh khủng.
Chiều thứ ba, 22 tháng 4, đám người tị nạn ở căn cứ không
quân Clark ở Philippines tràn qua khu vực đón tiếp như nước vỡ bờ. Ở Hoa Thịnh
Đơn, lực lượng can thiệp đã dự kiến tình hình di tản, vội báo cho chính quyền ở
đảo Guam chuẩn bị đón mỗi ngày năm nghìn người tị nạn, sẵn sàng cho họ ăn, ở trong
90 ngày. Chỉ mấy giờ sau, những người tị nạn đã được đưa đến căn cứ không quân
Anderson ở Guam, được ở trong những baraque bằng kim loại gọi là thành phố đồ hộp.
Phi công Mỹ lái máy bay B.52 trước kia cũng ở đây khi đảo này là bậc nhảy của
những đoàn máy bay đi ném bom ở Bắc biệt Nam.
Thoạt tiên, các viên chức cơ quan nhập cư ở Guam và Clark áp
dụng triệt để luật pháp. Giấy tờ của người tị nạn được kiểm tra, kiểm soát cẩn
thận đề phòng nhầm lẫn và giấy giả. Tội phạm hình sự, gái điếm, người nghiện cần
sa đều được vạch mặt và cho cách ly. Nhưng chỉ một, hai ngày sau, số người tị nạn
quá đông, không còn kiểm soát, kiểm tra được gì nữa. Nếu làm việc cẩn thận như
cũ thì các viên chức cơ quan nhập cư sẽ gây ách tắc và ngăn cản cầu hàng không
hoạt động. Cũng như Moorefield và nhiều người khác ở Sài Gòn lúc đầu, họ cố làm
hết sức mình để công việc chạy.
Ảnh: Không ảnh phái bộ quân sự Mỹ DAO, với các điểm đánh dấu
bãi đáp trực thăng di tản ngày 28-4-1975
MỘT Ý NGHĨ QUÁ GIẢN ĐƠN
Mặc dù việc di tản tiến triển nhanh, quốc hội cũng không bằng
lòng. Ở phủ tổng thống, người ta nghi ngờ. Có phải chính phủ muốn hoãn việc tản
cư người Mỹ lại để đưa người Việt Nam đi trước không? Một thượng nghị sĩ nói với
các nhà báo: chúng tôi không muốn ở Sài Gòn còn quá số người Mỹ mà một máy bay
lên thẳng có thể chở được".
Nhà Trắng cố dập tắt những lời công kích ấy bằng cách hứa một
lần nữa, sẽ rút cộng đồng người Mỹ xuống còn 1.500 người trong mấy ngày tới. Lầu
Năm Góc cho biết hạm đội di tản sẽ được tăng cường để có một cầu hàng không lớn
máy bay lên thẳng sẵn sàng phục vụ. Nhưng điều đó chưa làm quốc hội vừa lòng.
Nhiều nghệ sĩ phê phán chính phủ muốn nhảy vào một cuộc chiến tranh mới. Phía Bắc
Việt Nam cũng bất bình. Đài phát thanh Hà Nội cảnh cáo: "Thái độ ấy có thể
gây ra những hậu quả nguy hiểm. Trong một bài diễn văn đọc chiều thứ tư ở Trường
đại học Tulane, tổng thống Ford cố đánh tan những điều lo ngại ấy. Ông tuyên bố:
Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, ông đề nghị đất nước
thôi không lao vào những cuộc đấu tranh, tranh cãi như trước. Ông nói: Một số
người tưởng rằng nếu chúng ta không đạt mọi thắng lợi ở mọi nơi thì chúng ta
không thắng lợi ở đâu cả. Tôi phản đối sự khẳng định ấy. Chúng ta có thể có nhiệm
vụ giúp đỡ người khác để họ tự giúp họ. Nhưng số phận của những người đàn ông,
đàn bà khắp thế giới này, nói chung, cuối cùng nằm trong tay họ. Ở Sài Gòn,
phía bên kia trái đất, 18 sư đoàn Bắc Việt Nam được nhiều đơn vị xe bọc thép,
pháo binh yểm hộ, đang tiến như gió mùa. Sự có mặt của họ thể hiện suốt ngày bằng
những trận đánh phục kích. Một Ô tô buýt bị đổ trên đường Sài Gòn - Tây Ninh. Ở quốc
lộ số 14, cách Sài Gòn 21 kilômét về phía Tây Nam, một cuộc đột kích xảy ra.
Trên đường Xuân Lộc - Biên Hòa, sự uy hiếp mỗi lúc một tăng. Trạm ra đa ở Phú
Lâm cách Sài Gòn mấy kilômét lại bị đặc công tiến công. Nhưng lần này, những kẻ
bảo vệ không muốn chống cự nữa, vừa nghe tiếng súng, họ đã bỏ chạy. Sân bay
Biên Hòa đã đóng cửa. Lãnh sự quán cũng thế. John Stockwell trở lại Sài Gòn lần
cuối cùng, vào thứ tư ngày 23 tháng 4, xem người Việt Nam của anh được di tản
chưa. Chỉ còn mấy tên lính gác người Nùng ở lại trụ sở. Dick Peters, tổng lãnh
sự, chờ đến chiều, phút cuối cùng, mới đi, không phải vì anh nhận rõ trách nhiệm
mình là người chỉ huy mà vì khôn ngoan thôi!
Anh báo cho sứ quán: Anh không thể về Sài Gòn nếu không có một
máy bay lên thẳng hộ vệ. Sự cẩn thận ấy có vẻ đúng vì trên đường đi, anh gặp
nhiều lính tức giận bắn vào mui xe anh!
Trong khi tướng Dũng khép chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn,
thì Kissinger cố gắng sử dụng thì giờ còn lại. Trong một điện gửi cho Martin,
sáng 23 tháng 4, ông nói: Có hai giải pháp: hoặc là cố cứu chính quyền Hương
trong một lúc, hoặc là thực hiện kế hoạch của người Pháp, thiết lập một chính
quyền mà cộng sản có thể chấp nhận. Ông nghiêng về giải pháp thứ nhất. Martin
chấp hành lệnh của Kissinger rất nghiêm chỉnh và tin rằng nhân viên của ông
cũng làm như thế. Khi Polgar xin phép đi mua một số nghị sĩ Sài Gòn để mau
chóng đưa Minh lên cầm quyền thì Martin không muốn nghe nói nữa. Ông nhấn mạnh:
Người Nam Việt Nam phải quyết định lấy số phận của họ, không có sự can thiệp của
người Mỹ!
Đó là việc Nam Việt Nam vẫn làm nhưng họ thường không thấy việc
gì sẽ đảm bảo hơn sự sống còn của họ. Về phần Minh, vẫn là người chỉ phù hợp với
việc thay đổi chính phủ bất chấp Hiến pháp, ông ta cho rằng chỉ có ông ta mới cứu
được nước này, với nói chuyện được với cộng sản. Minh nói với Viên và nhiều người
khác: Không khi nào ông ta chịu để Hương bố nhiệm ông làm bộ trưởng. Ông chỉ chấp
nhận một chức vụ tổng thống với điều kiện chức vụ ấy do một khối liên hợp trung
lập phong. Còn Hương, khốn khổ cho anh chàng giữ nhà ấy, vẫn có tham vọng đóng
vai quốc trưởng, mà ông tưởng làm quốc trưởng thật. Hương nói với đại sứ Pháp
Mérillon: Thiệu đã trốn tránh trách nhiệm. Nay trách nhiệm thuộc về tôi. Để tỏ
rõ quyền lực của mình, Hương ra lệnh gỡ những tấm băng và áp phích chống cộng sản
trong thành phố. ông cho một cộng tác viên đến sân bay Tân Sơn Nhất thăm dò xem
có thể mở cuộc thương lượng với Doàn đại biểu Bắc Việt Nam trong ủy ban hỗn hợp
quân sự không. Sáng thứ năm 24 tháng 4, Hương còn lợi dụng cả sự thất trận để
nêu cao đạo đức hòa bình của mình. Ông nói với Viên ra lệnh cho quân đội chỉ
phòng thủ thôi để tỏ rõ cho cộng sản biết chủ trương hòa bình thật sự của Sài
Gòn.
Cử chỉ ấy dù tốt nhưng nhiều tướng của Viên phản đối. Mặc dù
họ không có ảo tưởng gì về khả năng kháng cự của quân đội, họ muốn cho cộng sản
nếm lần cuối cùng, mùi sắt thép. Nếu có thương lượng thì chỉ có hai bên. Hôm
trước, chỉ mấy giờ sau khi Thiệu từ chức, tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III còn
gợi ý đề nghị máy bay B.52 của Mỹ ném một trận bom cuối cùng. Viên đã gạt bỏ ý
kiến ấy do nhiều nguyên nhân hiển nhiên. Khác với Toàn, ông biết không còn máy
bay B.52 nữa. Nhưng gợi ý làm ông nghĩ đến những trận ném bom hồi trước. Được sự
giúp đỡ của kỹ thuật viên phái bộ quân sự Mỹ, phi công Nam Việt Nam đã lắp vào
máy bay một loại bom đặc biệt do Von Marbod và Weyand đưa sang hồi đầu tháng:
đó là một vũ khí đáng sợ: bom CBU. 55.
Vũ khí ấy gây khủng khiếp vào chiều thứ ba. Một máy bay
C.130, mang theo bom CBU.55 cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất bay về Xuân Lộc,
ném xuống bên ngoài một thị trấn cộng sản vừa chiếm được. Thiệt hại nặng nề.
Hơn 250 lính Bắc Việt Nam biến thành tro bụi hoặc bị chết ngạt vì
thiếu không khí lúc bom nổ. Đài phát thanh Hà Nội lập tức lên án Hoa Kỳ và Năm
Việt Nam là đồ man rợ, ném bom vi trùng!
Giữa sự phản kháng ấy, nhiều máy bay chở bom Daisy Cutters, một
loại bom lớn 7.500 kilôgam, dùng để san bằng đất dùng nơi đỗ cho máy bay lên thẳng
và chở bom bi 250 kilôgam, ném xuống các đơn vị cộng sản chung quanh Xuân Lộc.
Ngoài ra còn một trận đánh vào đoàn xe chở tên lửa Sam-2 ở phía Đông Bắc Quân
khu III. Lần này, dùng tên lửa Wild Weasel và do máy bay Mỹ phóng. Cả Polgar lẫn
các nhân viên tình báo khác của ông cũng không hề biết máy bay Mỹ lại trở lại
chiến trường. Cộng sản phản kháng ngay tức thì. Chỉ mấy giờ sau trận ném bom
CBU, cuộc bắn phá sân bay Biên Hòa tăng cường, các đường băng hỏng hết. Một vài
máy bay phản lực F.5A còn lại vội bay về Sài Gòn. Còn những máy bay A.37 cất
cánh đi Cần Thơ. Đúng lúc Sài Gòn dồn sức cho một trận đánh cuối cùng thì cuộc
đàm phán chính trị mà Kissinger hằng thiết tha mong muốn tắt ngấm ở chân trời...
Về phía tướng Dũng, ông xem lại lần cuối cùng kế hoạch tiến
công. Chiều thứ năm; tướng Lê Trọng Tấn, chỉ huy mặt trận Xuân Lộc - Biên Hòa đề
nghị ông cho phép đánh sớm hơn ngày dự kiến - ngày 26 tháng 4 - để có thể đặt đại
bác ở Nhơn Trạch kiềm chế và bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất ba ngày sau đó. Trong
12 giờ, tướng Dũng không trả lời đề nghị đó. Trong lúc đó, Quang Tấn, chỉ huy
xe bọc thép, nghiên cứu chi tiết bản đồ trung tâm Sài Gòn. Buổi sáng, ông được
tin sư đoàn xe bọc thép 203 của ông có nhiệm vụ xung phong vào thủ đô Nam Việt
Nam. Ông được vinh dự cao cả chiếm dinh tổng thống. Ông rất xúc động nhưng cũng
rất bận. Chiều 24 tháng 4, quân của ông chưa sẵn sàng, hai đơn vị chưa hành
quân tới. Mặt khác ông chưa rõ "mục tiêu” của mình ở đâu, chưa
đến Sài Gòn bao giờ và chưa biết phố xá và vùng phụ cận thành phố ra làm sao.
Ông chỉ dựa vào những bản đồ của Hà Nội, những bản đồ vẽ, in vội vàng. Quân của
tướng Dũng cũng tỏ ra phần nào chểnh mảng trong việc chuẩn bị chiến đấu. Những
tin tức radio đánh đi không hoàn toàn bằng mật mã khá rõ đối với cơ quan thu
tin của chúng tôi: cuộc tiến công vào Sài Gòn sắp đến nơi rồi. Nhưng Polgar vẫn
chưa tin. Ông nói với tôi ngày thứ năm: Có thể quân cộng sản định lừa chúng ta
bằng những bức điện như thế để chúng ta mắc bẫy và lo sợ.
Trong khi Martin và Polgar trực tiếp tìm kiếm một dấu hiệu
chính trị nhỏ nhen nào đó thì Mérillon và nhân viên sứ quán Pháp vẫn tỏ ra tin
tưởng. Chiều 24 tháng 4, mười nghìn công nhân Pháp trong thành phố được lệnh là
không động đậy gì vì sắp có ngừng bắn. Kết quả là một số đông người Pháp định
giúp bạn bè và người quen Việt Nam di tản thôi không hoạt động nữa. Một số phần
tử trong cộng đồng người nước ngoài không dễ dàng bị lừa. Sáng thứ năm, bốn đại
sứ quán đóng cửa hẳn. Không một sứ quán nào ra đi có danh dự. Sứ quán Anh và
Canada bỏ mặc nhân viên. Đại biện lâm thời Canada, với giọng cáu kỉnh, giải
thích với các nhà báo rằng không phải ông ta có nhiệm vụ giúp những người di tản
khi những người này chỉ có những giấy tờ không hợp lệ!
Sứ quán Đài Loan lại còn tồi hơn, không những bỏ rơi các nhân
viên, mà còn để mặc một nghìn kiều dân Trung Hoa quốc gia trong thành phố,
trong số này có nhiều người làm điệp viên tình báo. Noi gương khu vực sứ quán,
phần lớn các hãng dầu và hàng không nước ngoài đều ngừng hoạt động hôm đó. Cả
hãng Hàng không Pan Am cũng chấm dứt những chuyến bay mỗi tuần hai kỳ. Khác
với giới ngoại giao, giới buôn bán gặp nhiều khó khăn trong việc giúp đỡ người
Việt Nam mà họ chịu trách nhiệm. Đại diện các hãng Chase Manhattan, First
National City Bank và Bank of American, đã trở lại Sài Gòn (sau khi vội vã rời
thủ đô trước đó) để di tản các nhân viên người bản xứ. Nhiều hãng nhỏ định
thuê chung một máy bay đặc biệt đi Bangkok. Cuối cùng, vào đầu tuần, bộ ngoại
giao đã giải quyết được vấn đề bảo hiểm cho chuyến bay quân sự chở 220 triệu
đola vàng của ngân khố Việt Nam, từ Sài Gòn đến New York. Những người chịu
trách nhiệm ở Bộ kinh tế phụ trách việc đóng gói. Máy bay sẽ đến sáng ngày 25
tháng 4. Nhưng đến phút cuối cùng lại có trục trặc.
Sáng thứ năm, bộ trường kinh tế Nguyễn Văn Hảo, báo cho Dan
Ellerman, cố vấn kinh tế của Martin, biết tổng thống Hương đã ra lệnh hoãn chuyến
máy bay đó cho đến lúc chính phủ mới được thành lập. Martin cố thuyết phục
Hương bỏ lệnh ấy. Không có kết quả. Ông quyết định để nguyên số vàng tại chỗ
cũ, ra lệnh cho Ellerman giữ máy bay lại cho đến đêm 27 tháng 4. Martin hy vọng
nhờ được Hảo. Nhưng ngay sau khi thất thủ Sài Gòn, nhiều nguồn tin cho tôi biết
Hảo từ lâu là người của cộng sản. Đầu tháng tư, nhiều cán bộ Bắc Việt Nam bảo đảm
với Hảo rằng: Sẽ được chế độ mới đối xử khoan hồng nếu ông ta ngăn không cho chở
số vàng trên ra khỏi nước này. Hảo không phải là đảng viên cộng sản nhưng ông
ta là một thanh niên sôi nổi, phần nào lý tường hóa. Hảo tin vào những lời nói
của cộng sản. Không những Hảo từ chối không di tản mà còn nhờ mánh khóe lễ
phép, ngăn cản Ellerman chiếm số vàng trên. Dự trữ 220 triệu đôla bằng vàng nằm
trong một ca bin máy bay vận tải ở sân bay Tân Sơn Nhất lúc quân của tướng Dũng
chiến thắng tràn vào thành phố.
Chiều thứ năm, khi tôi trở về nhà, Tư Hà bận trong bếp. Cô
khua xoong chảo để làm át tiếng súng đại bác nổ ở phía Biên Hòa. Cô chẳng chào
tôi nữa. Một tuần nay, cô có vẻ sợ hãi và do dự hết mức, có cảm giác
như lúc nào cô cũng bị say thuốc. Đứng ở cửa, nghe cô nói, tôi đã có một quyết
định tốt trong ngày. Nếu tôi điên, đến phút cuối cùng còn muốn chơi trò anh
hùng, thì tôi không có quyền gì đòi cô phải chơi trò ấy. Tư Hà và gia đình cô
chẳng có gì phải giấu giếm và sợ cộng sản cả. Chưa bao giờ họ ủng hộ mạnh mẽ
chính phủ hoặc tâng bốc quá cao người Mỹ. Có thể bố mẹ cô lo sợ khi biết tin cô
quan hệ tốt với một "con mắt tròn". Chưa bao giờ ông bà ấy biết rằng
cô đã làm chiêu đãi viên mấy năm nay trong các tiệm ở Vũng Tàu và đường Tự Do.
Tuy nhiên, nếu cộng sản hiểu lầm quá khứ của cô và quan hệ giữa
cô với người Mỹ thì cái gì sẽ xảy ra? Phải tính đến chuyện đó dù đó là việc nhỏ.
Trong bữa cơm chiều, tôi hỏi cô ta muốn làm gì. Cô vừa nức nở khóc vừa nói: Tôi
sợ đi Mỹ lắm nhưng ở lại cũng không yên tâm. Tôi vừa lúng túng gắp thức ăn bằng
đũa, vừa nói: Có cách lấy giấy tờ cho cô đi, và có người nhận nuôi cô. Cô ngồi
yên một lúc, rồi hỏi tôi một câu rất quan trọng mà tôi không thể trả lời được:
Việt cộng có giết tôi không? - Tôi không biết. Tôi bảo cô chuẩn bị 12 giờ nữa sẽ
đi. Cô nhìn tôi với vẻ van nài. Cô nói lí nhí: "Còn việc này nữa - hình
như cô sợ phải nói đến việc đó - tôi có thể đem theo gia đình được
không?". Tôi không biết đã giảm nhẹ thể lệ giấy tờ, nên trả lời: không thể
được". Sáng hôm sau, Joe Kingsley và tôi phân công nhau. Từ nay, Joe trông
nom việc di tản các bạn Việt Nam của chúng tôi, còn tôi phụ trách công việc bàn
giấy. Anh kêu lên: "Như thế tốt quá, tôi đã khá mệt với những trò phân
tích, báo cáo rồi. Dù thế nào, không còn ai quan tâm đến nữa. Tôi hiểu anh muốn
nói gì. Trong những giờ sau, Kingsley thu thập giấy tờ giả mạo,
nói với một người bạn cũ làm người bảo lãnh và đưa Tư Hà ra khỏi nước
này. Moorefield gọi dây nói từ sân bay Tân Sơn Nhất về báo cho biết, họ đã có
chỗ đề bay đi. Trong lúc đó, Tư Hà và cha có cố rút tiền gửi ở Ngân hàng ra,
khoảng hơn một nghìn đôla, ngoài việc cô có ý định rời thành phố này một thời
gian. Lúc cô trở về nhà chuẩn bị hành lý thì mẹ cô đi chợ.
Ăn cơm sáng xong, Tư Hà đến nhà tôi, xách theo va li. Cô gửi
cô sen của tôi một bức thư trao cho bố mẹ cô, trong thư cô giải thích việc ra
đi. Hai giờ sau, Kingsley đến dẫn cô ra sân bay. Trước khi từ biệt chỗ phân loại,
Kingsley đưa cho cô một phong bì, trong đó, tôi để một nghìn đôla. Tám giờ sáng
hôm sau, Tư Hà, người bạn Mỹ và nhân tình người Việt Nam của anh ta
lên một máy bay C.141 của không quân Mỹ. Chuyến bay lạnh lẽo, mất 9 giờ. Nhiều
khách đã bị ốm. Phòng vệ sinh không dùng được, không có gì ăn uống. Nhưng cái
làm Tư Hà xúc động là sự yên lặng trong ca-bin. Các bạn đồng hành người Việt
Nam của cô, lẳng lặng khóc nức nở, không nói một lời!
Khi máy bay hạ cánh xuống Guam, đã 4 giờ chiều. Nhân viên hải
quan phân phát bánh biscuit và cháo. Đêm đầu tiên, Tư Hà và 11 người khác ngủ
trên sân gỗ một túp nhà dài, rộng mỗi chiều một mét. Sáng sớm, đàn ông, đàn bà
đều muốn đi tắm nhưng không có nước. Tư Hà ở trên đảo hơn sáu tuần, ngày ngày
ngồi trong túp nhà tồi tàn ấy. Các nhà chức trách cơ quan nhập cư khám phá thấy
giấy tờ của cô giả mạo, từ chối không cho cô đi Mỹ với lính thủy hoặc nhân viên
nhập cư để được tiếp tục vào Mỹ.
Tư Hà phải mất tiền mới được thả. Một bạn cô, người Việt Nam,
có nhiều người bảo lãnh ở California bán cho cô một giấy chứng nhận
lấy một trăm đola. Nhờ đó có giấy xuất cảnh và một địa chỉ rõ ràng. Cặp vợ chồng
đón cô ở bên bờ biển phía Tây là vợ chồng một sĩ quan đã nghỉ hưu. Họ có vẻ hiền
và dễ thân như người nhà. Nhưng chỉ một, hai tuần sau, anh chồng đã tán tỉnh Tư
Hà bị người vợ bắt được và đuổi cô đi. Chắc chắn Tư Hà sẽ có nhiều bạn trẻ, những
thanh niên California vì thấy cô lạ và quyến rũ. Nhất là trong túi cô lại có
nhiều tiền. Họ sẽ dẫn cô đi ăn cơm tối, đi xem chiếu bóng và chị chị tôi tôi mời
cô trả tiền cho mọi người. Chẳng mấy lúc, cô hết một nghìn đôla và họ sẽ bỏ rơi
cô!
Thất vọng, cô bé viết cho hai vợ chồng một cô bạn Việt Nam
đang sống ở Nouvelle Orléans, đề nghị cho cô đến ở nhờ. Mấy tháng sau khi Sài
Gòn thất thủ, tôi mới tìm thấy Tư Hà. Nhờ khéo xoay sở, cô đã nhận làm người
may vá và có một phòng ở. Với giọng nói trọ trẹ, cô bắt đầu sử dụng những tiện
nghi mới nhất của Mỹ.
MỘT NGƯỜI LÁI XE CÓ CỠ
Sáng 25 tháng 4, đài phát thanh Sài Gòn dựng đứng lên một tin
giật gân: Có người bị ám sát ở Hà Nội v.v... Tưởng rằng có thể đánh lừa được mọi
người nhưng ai cũng biết đó chỉ là chiến tranh tâm lý. Nhà chức trách Sài Gòn
tung tin này đề hòng lung lạc tinh thần quân đội Bắc Việt Nam đang ở cửa ngõ thủ
đô. Phần lớn người Sài Gòn đều thấy đó là một tin ngớ ngẩn. Họ không buồn mở
đài để nghe thêm chi tiết nữa. Quân Bắc Việt Nam cũng không hề xúc động. Chỉ có
những nhà báo Mỹ là những người nghe và tin rằng tin này có thật. Trong buổi
sáng, tôi nhận được không biết bao nhiêu cú điện thoại của các nhà
bao quen thuộc hỏi lại tin trên. Tôi trả lời; Đó là trò đùa tồi của Sài Gòn.
Hôm ấy, tôi viết vào số tay: thành phố là một lò than".
Người ta chiếu cuốn phim mới nhất của John Wayne trong một rạp
rỗng không ở giữa thành phố. Không ai còn cần có cảm xúc mạnh trong lúc sự thật
đã quá căng thẳng. Như thường lệ, tiền là thước do tinh thần. Ngoài chợ đen, một
đôla trị giá năm nghìn đồng. Hôm qua, hôm kia chỉ có ba nghìn. Ít con gái ra đường.
Theo một anh bạn nhà báo, những cô gái xinh của bar Mini sáng nay đã đưa hành
lý lên một chiếc xe Chevrolet. Một người Mỹ tháo vát đã tìm cách đưa họ lên tàu
"Chim tự do".
Ở sứ quán, một tình bạn giả tạo nấy nở giữa chúng tôi là những
người được coi là "cần thiết phải ở lại”. Có những đồng nghiệp chưa hề nói
chuyện với nhau nay trở thành bạn tri kỷ. Họ ăn sáng (rất nhanh) với nhau và kể
cho nhau nghe những chuyện về nguồn gốc xã hội của đại sứ, thái độ của ông và về
kế hoạch của cộng sản. Tình thân hữu ấy lúc này rõ ràng là một nhu cầu chung.
Con sen, người đầu bếp, em bé đánh giầy đều vắng cả, chẳng có ai giúp chúng tôi
làm những việc lặt vặt. Phải sát cánh lại với nhau. Vợ một viên chức bộ ngoại
giao (một phụ nữ duy nhất còn lại) nhận nấu ăn cho chúng tôi trong khách sạn ở
đằng sau sứ quán, người quản lý nhà tôi ở, cũng nhờ được bà hàng xóm rủ mấy người
đến làm cơm cho chúng tôi. Mặc dù Tư Hà đã ra đi. tôi vẫn xoay sở được. Tuy
nhiên, một cô thư ký nhắc tôi: Quần áo và sơ mi của anh bẩn rồi đây! Tôi tiếp tục
cố gắng cung cấp tin cho bạn bè và đồng nghiệp. Tôi tự bảo phải nắm được tin chứ
không được bịa ra. Hôm nọ, Eva Kim bảo tôi, mỗi khi trông thấy tôi vào phòng đại
sứ với bản báo cáo trong tay, tim chị lại đập thình thình! Tôi có cảm giác đi
khắp mọi nơi, từ phòng đại sứ sang phòng Polgar, trở về phòng tôi. Tôi nghiên cứu,
phân tích tình hình rất nhanh. Qua những tin mỗi lúc một nghèo nàn, tôi tìm xem
có hy vọng mỏng manh nào không. Polgar vẫn cho rằng các đài phát thanh Hà Nội
và Giải Phóng sẽ phản ảnh thái độ tốt của kẻ thù. Do đó, cứ mỗi giờ tôi lại
sang phòng nghe đài của CIA để lấy những bản dịch tin mới nhất.
Sáng thứ sáu, được tin Hoa Thịnh Đốn đồng ý để cho 130 nghìn
người tị nạn vào Hoa kỳ. Mấy giờ sau, lính dù Việt Nam định vượt hàng rào dây
thép gai rải chung quanh nơi phân loại người đi của phái bộ quân sự... Một tiểu
đội lính thủy đánh bộ sẵn sàng bảo vệ ngôi nhà. Sau này tướng Smith nói: Nếu có
những người làm cho lính Việt Nam kiêng nể thì đó là những người lính thủy.
Từ ngày từ chức (ngày 21 tháng 4), Thiệu để thì giờ đi bách bộ
trong nhà của ông ta ở bờ sông. Ông ta nghiền ngẫm một cuộc trả thù và mơ tưởng
đến việc giành lại địa vị trước kia. Vợ ông ta, quá sợ hãi, không còn chịu được
cảnh thất thế này. Sáng thứ năm, bà ta đi Bangkok trên một chuyến bay thương mại.
Em họ của Thiệu. Đại sứ của Sài Gòn từ Đài Loan trở về nước khuyên anh sớm ra
đi. Nhưng Thiệu chưa nghe. Ông ta nghĩ rằng ông ta còn giữ một vai trò gì đó ở
đây. Ông ta nói với em họ là Hoàng Đức Nhã: "Nếu tôi phải ra đi, tôi sẽ đi
với đoàn tùy tùng có trống giong cờ mở". Thiệu, vốn thường kín đáo, ít
nói, nay có vẻ cảm động. Ông ta nói với Nhã: Em là người duy nhất còn lại ở bên
anh, mặc dù anh đã làm hại em, cách chức và đuổi em đi.
Nhã tìm cách an ủi Thiệu. ông ta nói với Thiệu: "Anh cứ
coi tôi như Cambroune, viên tướng trung thành với Napoléon ở ngoài đảo
Elbe".
Hương, người kế vị Thiệu, không dám giục Thiệu di tản, sợ bè
phái Thiệu sẽ trả thù. Hương nói với Martin làm việc đó. Đại sứ cũng không
thích thú làm việc này. Cho đến nay, ông vẫn làm cho người ta tưởng
rằng sứ quán không can thiệp vào việc Thiệu từ chức. Ông không muốn làm thay đổi
nhận định ấy.
Nhưng có một thứ yếu tố phải tính đến. Minh lớn cho rằng sự
có mặt của Thiệu ở Sài Gòn vẫn là một trở ngại lớn cho hoạt động của ông ta.
Minh đề nghị Timmes, cơ quan ClA giải quyết giúp việc này. Điều đó
làm vừa lòng Martin.
17 giờ ngày 25 tháng 4, Polgar gọi tôi đến phòng làm việc. Ở
đấy đã có Joe Kingsley, tướng Timmes và một nhân viên CIA nữa. Polgar nhỏ nhẻ hỏi
chúng tôi: Ban đêm, các anh có dám ra ngoài phố không? Chúng tôi đều gật đầu.
Riêng tôi, tôi không chắc có thuộc hết các ngõ ngách và những cái hẻm do người
Pháp xây dựng không, nhưng dù sao... Polgar tiếp tục nói: thế thì tốt. Tôi đề
nghị các anh tối nay, giúp tôi cho Thiệu và Khiêm đi Đài Loan. Đó là một ân huệ
đối với các anh, đồng thời là một phần thưởng vì các anh đã làm việc rất tốt".
Thật ra, Polgar mới chỉ biết "phần thưởng" này cách đây mấy giờ. Trước
đó, Martin định giao cho phái bộ quân sự thu xếp mọi việc, kể từ việc tổ chức
chuyến bay đặc biệt cất cánh từ cuối đường băng Tân Sơn Nhất. Đến phút cuối
cùng ông giao lại cho CIA. Khoảng 20 giờ 30 phút, bốn người chúng tôi đi ba xe
đến bộ tổng tư lệnh Nam Việt Nam ở Tân Sơn Nhất, Khiêm ở trong khu vực này, Joe
và tôi giấu vũ khí dưới chỗ ngồi. Chúng tôi không thể không tính đến việc diễn
lại cuộc ám sát anh em Diệm trước đấy. Chúng tôi định kế hoạch như sau: “Sẽ có
những sĩ quan trẻ ngăn chúng tôi lại trên đường đi, ra lệnh cho chúng tôi xuống
xe và bắt chúng tôi. Tức thì chúng tôi nổ súng”.
Quá 21 giờ, Polgar đến nhà Khiêm, trong một xe riêng có lái
xe lái. Ông đến uống rượu với Khiêm và Timmes. Chúng tôi đứng đợi ngoài sân.
Kingsley và tôi, để giết thì giờ, hai đứa nói chuyện với những người lính gác
Việt Nam. Mấy lính khác chơi bài. Phần đông tỏ ra không đế ý gì đến
việc đi lại của bọn "mũ cao áo dài" này. Có tiếng súng nổ ở phía sân
bay. Đài radio báo cho chúng tôi biết: Hai lính Nam Việt Nam cáu kỉnh đã bắn
súng ở đây: "Không thiệt hại gì, nay tình hình yên tĩnh. Đúng lúc đó, một
xe Mercedes xám đỗ trên đường. Một người tầm thước, tóc bạc, chải lật ra sau
gáy, mặt bôi kem, quần áo xám chỉnh tề, bước xuống đất. Trong bóng tối, Nguyễn
Văn Thiệu giống một người mặc quần áo mẫu quảng cáo trong một tạp chí hơn là một
nguyên thủ quốc gia. Ông ta không thèm nhìn chúng tôi!
Mấy phút sau, mấy người lực lưỡng, mỗi người xách một va li nặng,
đi đến chỗ chúng tôi, bảo chúng tôi mở cửa xe, để tự họ xếp va li vào. Khi họ để
va li xuống, có tiếng kim loại va vào nhau. Tiếp đó Thiệu, Khiêm, Polgar và
Timmes, theo sau có nhiều nhân vật cao cấp Nam Việt Nam, bước ra cửa, tiến
nhanh vào xe hơi. Thiệu ngồi xe tôi, ở ghế đằng sau. Giữa Timmes và một người
Việt Nam. Timmes khuyên ông ta: Tổng thống ngồi thấp xuống để được yên ổn.
Chuyến đi chỉ có mấy phút nhưng tôi thấy rất dài. Timmes nói
với Thiệu những chuyện không đâu, về quá khứ. Họ quen nhau năm 1961 trong một
cuộc lửa trại ngoài Quân khu I. Trong những năm sau, Timmes thường cho Thiệu biết
sự tiến triển của việc bình định: "thưa tổng thống, đó là một thành tựu lớn
của chúng ta". Có một lúc Timmes giới thiệu tôi với Thiệu như một người nhận
định tin có tài ở sứ quán, một người lái xe "có cỡ” ! Mọi người bất đắc dĩ
cười. Tiếp đó, Thiệu nói tiếng Anh pha giọng Pháp, cho rằng tất cả những lái xe
ở Sài Gòn đều có cỡ nhưng xấu nhất, hay xấu hơn cả những kẻ thù điên ở Bangkok.
Timmes hỏi: "Phu nhân và tiểu thư có khỏe không ạ? Thiệu
trả lời: Nhà tôi và cháu đi Luân Đôn mua ít đồ cổ. Tôi nhìn rõ mặt cựu tổng thống
qua tấm kính xe, mắt sáng dưới ánh đèn ngoài đường, mùi rượu Scoth thoáng bay
trong xe có máy điều hòa không khí.
Đến gần cổng vào sân bay Tân Sơn Nhất, đèn phụ xe hơi rọi thẳng
một lúc vào bức tượng do người Việt Nam dựng để tưởng nhớ những người Mỹ chết
trong chiến tranh. Trên bức tượng có dòng chữ: "Chúng tôi không bao giờ
quên sự hy sinh cao cả những người lính đồng minh". Thiệu thở dài khá to
và quay mặt đi. Một lần nữa Timmes nhắc Thiệu ngồi thấp xuống. Bình thường, cơ
quan an ninh Việt Nam đứng gác ở sân bay không chú ý đến xe của sứ quán Mỹ.
Nhưng quá 21 giờ 30 rồi, quá giờ thiết quân luật hơn một tiếng.
Những người gác có thể ngăn xe lại. Trời ơi, may quá, họ không làm gì cả. Đoàn
người đi qua đường băng. Người lái xe trước tắt đèn. Tôi cũng làm theo. Trong một
lúc tôi thấy dài ghê, tôi không trông thấy gì cả. Chiếc xe Chevrolet đồ sộ của
tôi chạy một mình trong đêm tối. Sau tôi mới quen dần. Chợt tôi trông thấy
Polgar chạy qua đường băng, cách tôi mấy mét. Tôi vội hãm phanh. Bánh xe kêu
ken két. Xe dừng lại. Thiệu và người ngồi xe tôi bị xô vào ghế trước. Những xe
sau vội quay ngang, quay dọc bao vây lấy xe tôi: một cảnh trong phim trinh
thám. Polgar chạy đến vẫy tay và mở cửa xe cho Thiệu.
Một máy bay bốn động cơ C.118 của không quân Mỹ đậu gần đấy.
Lính thủy Mỹ mặc thường phục đứng gác và đi theo đại sứ Martin, dàn hàng ngang
bên cạnh máy bay. Đại sứ chờ ở chân cầu thang. Khi Polgar mở cửa sau xe tôi.
Thiệu cúi xuống vỗ vai tôi, nói giọng khàn khàn: cảm ơn ông ta chìa tay ra, giữ
tay tôi một lúc ông ta cố nén không khóc. Tiếp đó ông ta rời xe, bước lên cầu
thang máy bay. Khiêm và đoàn tùy tùng Thiệu đi sau, tay xách va li vai đeo máy ảnh,
xắc...
Sau này, Martin thuật lại: "Tôi chỉ chào tạm biệt ông
ta. Không có câu nói lịch sự nào. Chỉ một lời tạm biệt".
Đối với tôi cũng như đối với Joe Kingsley, ngay mấy từ ấy
cũng dài lê thê. Bên ngoài, trên đường băng, chúng tôi cáu kỉnh nhìn chu vi sân
bay. Polgar và Martin mãi mới trở lại, đầu cúi gầm. Máy bay nổ máy. Lúc đại sứ
từ bậc cuối cùng của cầu thang bước xuống ông ta quay lại, vịn vào thành cầu
thang như muốn giữ lại mối liên hệ với quá khứ. Tôi kêu lên: "Thưa đại sứ,
tôi có thể giúp đại sứ việc gì?". Martin đứng lại. Ông đăm đăm nhìn tôi.
Ông thở. Lúc ấy, với đôi kính gọng bầu dục, màu da, đại sứ thật giống một con
ma ăn mặc chỉnh tề hơn là một nhà ngoại giao vừa vĩnh biệt dấu vết cuối cùng của
ba mươi năm thực hiện một chính sách tồi tệ.
ĐẾN LƯỢT CHÚNG TÔI
Sáng hôm sau, lúc mặt trời mọc trên sân bay Biên Hòa, một làn
sóng người tị nạn, xe hơi riêng, xe tắc xi chạy trốn từ thị xã này. Nơi đây trước
kia là thiên đường của dân phe, là nơi ăn chơi phè phỡn bổ sung cho Sài Gòn. Xa
lộ có bốn đường xe, chạy thắng tắp về Sài Gòn là niềm tự hào của kỹ sư Mỹ, lúc
này giống như một con rắn khổng lồ bò dưới những đám mây khói xăng, dầu của những
xe hơii nối đuôi nhau. Lực lượng an ninh đặt những trạm kiểm soát đề phòng sự
thâm nhập của cộng sản nhưng phải bỏ chạy.
Tướng Viên, Trần Văn Đôn và nhiều người khác, buổi sáng ở
dinh tổng thống để ép Hương từ chức. Đến trưa, ông già này chấp nhận. Nhưng, hoặc
để trả thù, hoặc muốn hợp hiến hay muốn vừa lòng Martin, Hương đòi phải có yêu
cầu của quốc hội. ông nói: Tôi không trao quyền cho Minh một cách dễ dàng như
thế. Quốc hội có nhiệm vụ phải hợp pháp hóa sự thay đổi này bằng cách
chính thức bán mình. Ông kêu gọi các nghị sĩ và nói thêm. Nếu các vị
thấy không thể thay tôi bằng tướng Minh và các vị không thế điều đình có kết quả
thì Sài Gòn sẽ biến thành biển máu. Và chúng ta sẽ phải chiến đấu cho danh dự
dân tộc chúng ta.
Hương không làm gì để tạo điều kiện thuận lợi cho Minh lên cầm
quyền. Nhưng về phía cộng sản, họ có vẻ có ý định ấy. Buổi trưa, Trần Văn Đôn
cho biết ông ta đã tiếp xúc với trung gian của Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Người này nói chắc chắn sẽ có ngừng bắn nếu Minh nắm chính quyền và nếu người Mỹ
không chuyên chở vũ khí, đạn dược đi (Von Marbod đã cố làm việc này)...
Ngày 26 tháng 4, đài phát thanh Hà Nội đòi chính phủ và quân
đội Nam Việt Nam phải đầu hàng và kêu gọi lực lượng thứ ba cùng nhân dân nổi dậy
tổng khởi nghĩa. Minh thường được coi là người trung lập của lực lượng thứ ba?
Buổi trưa, trong một cuộc họp báo, đại tá Võ Đông Giang trả lời một nhà báo khi
anh này hỏi về triển vọng của những cuộc thương lượng: Quân đội chúng tôi tiếp
tục tiến công. Ông Giang đã biết rõ mình nói gì. Đại diện Chính phủ Cách mạng
lâm thời đã được bộ tư lệnh của tướng Dũng mật báo cuộc tiến công Sài Gòn sắp nổ
ra. Họ đào hầm trú ẩn trong chỗ ở, đề phòng bom đạn ba ngày nữa sẽ nổ.
Trong lúc Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn còn mơ hồ về ý đồ thật sự
của Hà Nội thì tướng Dũng đang đi xe trên một đường đất ở Quân khu III. Bình
minh ngày 26, ông từ Lộc Ninh đến Bến Cát, cách Sài Gòn 48 kilômét về phía Bắc.
Ở đây, trong một túp lều tranh ông điều hòa kế hoạch cuối cùng của chiến dịch Hồ
Chí Minh. Người phó của ông, tướng Trần Văn Trà, đã vạch những đường tiến công
trên bản đồ. Ở phía Đông, tướng Lê Trọng Tấn, tư lệnh mặt trận Biên Hòa, đang
chuẩn bị cho cuộc tiến công vào ngay buổi chiều hôm đó. Hai lãnh tụ cộng sản,
các ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, ủy viên Bộ Chính trị, vẫn ở lại Lộc
Ninh, để xem xét thái độ chính trị mới nhất.
Trừ người Pháp, còn bất cứ người nào ở Sài Gòn cũng thấy chuyện
thương lượng đến phút này là vô ích. Trong 24 giờ qua, số người Mỹ và người Việt
Nam xếp hàng nối đuôi nhau ở nơi phân loại người di tản của phái bộ quân sự
tăng gấp bội. Sáng 26, phải đóng cửa nơi này. Ba viên chức lãnh sự quán cùng với
Moorefleld làm việc cật lực mà không kịp. Mỗi đêm họ chỉ ngủ ba, bốn giờ.
Moorefield kể lại: "Mỗi phút, chúng tôi phải có một quyết định sống còn.
Thí dụ như làm tan nát một gia đình hay đẩy người này, người nọ vào tay Việt cộng.
Là sĩ quan đã từng tham chiến, tôi có kinh nghiệm để chịu trách nhiệm về những
việc này. Các anh ở bộ ngoại giao không có kinh nghiệm ấy".
Buổi trưa, một đồng nghiệp của Moorefield phát điên. Bỗng
nhiên, anh nhảy ra khỏi ghế, ném chai coca-cola vào tường. Rồi anh vừa kêu vừa
chửi. Moorefield phải cho anh ta nghỉ. Những người khác cố cầm cự, cố tính
toán. Moorefield thuật lại: "Tôi nhớ có một người Mỹ đến lúc 6 giờ 31
phút. Anh ta nói rằng có một bạn Hoa kiều sẵn sàng làm cho chúng ta giàu có nếu
chúng ta đóng dấu xuất cảnh cho người ấy. Tôi ngạc nhiên về điều anh ta yêu cầu.
Đó là bạn tôi, người thật thà. Nhưng tôi cho rằng anh cũng là nạn nhân của sự
căng thẳng mỗi lúc một lớn".
Người ta chất ngày càng nhiều người tị nạn lên những
máy bay C.141. Và ở đầu đằng kia của cầu hàng không, rối loạn chẳng kém gì ở chỗ
bay đi. Cuối cùng, chiều ngày 26 tháng 4, Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cho những người
tị nạn đi sau đến đảo Wake, cách đảo Guam hai nghìn kilômét về phía Đông Bắc.
Từ bộ tư lệnh ở phía Đông Sài Gòn, tướng Lê Trọng Tấn theo
dõi nhịp độ di tản qua những bản báo cáo do đặc công cộng sản nằm cạnh sân bay
Tân Sơn Nhất nói radio về. Điều ông muốn biết là có máy bay Mỹ tham
gia chuyên chở không. Máy bay thám thính của ông, cho đến lúc ấy, không thấy.
Đúng 17 giờ, viên tư lệnh quân đội Việt Nam nhìn đồng hồ. Ông
gật đầu ra lệnh cho người điều khiển radio. Mấy giây sau, lệnh bằng mật mã ban
ra: Cuộc tiến công của cộng sản vào Nhơn Trạch và vùng phụ cận phía Đông Sài
Gòn bắt đầu. Sáu tư lệnh của sáu sư đoàn nằm dưới quyền của tướng Tấn cùng nổ
súng mở đầu "Chiến dịch Hồ Chí Minh để giải phóng Sài Gòn". Trong khi
đó , ở Sài Gòn, giới chính trị vẫn còn tranh cãi nhau. Chiều rồi mà các nhóm
khác nhau trong quốc hội vẫn chưa thỏa thuận được với nhau về cách lập lại
chính phủ cho vừa lòng cộng sản, cũng không thấy rõ sự cần thiết phải làm.
Một số nghị sĩ thuộc phe cánh của Thiệu trước đây, phản đối
việc bầu Minh, sợ sau đó, Minh sẽ ra lệnh trả thù. Một số thuộc phái hữu muốn Kỳ
thay Hương. Trước tình hình rắc rối ấy, quốc hội giao cho viên chủ tịch già giải
quyết thế nào cho có lợi để thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Việc đó cũng không rõ
ràng như những đòi hỏi của Hương. Trước giờ thiết quân luật, tôi đi xe đến
khách sạn Duc. Những bản báo cáo đầu tiên về cuộc chiến chung quanh Biên Hòa đã
được gửi tới nhưng thiếu chi tiết. Tốt hơn hết là ăn một bữa cơm ngon và ngủ một
giấc đẫy. Tối hôm ấy, ở khách sạn, người ta tưởng như đang xem một vở kịch của
Brecht. Chúng tôi đến rất đông, uống ly rượu cuối cùng để mong lấy lại sức,
nhưng không có không khí vui vẻ của một ngày vừa làm việc xong. Mọi người đều
cho là đã đến ngày tận thế. Qua cửa kính, ánh lửa đại bác nhấp nháy. Tôi kéo một
ghế đẩu, ngồi bên cạnh một anh bạn cũ, chuyên về châu Mỹ la tinh, đổi sang Việt
Nam từ lâu. Mặt anh trắng bệch như phấn, mồ hôi nhễ nhại, tay anh run khi cầm cốc
rượu scoth đưa lên môi. Tôi hỏi thăm sức khỏe vì biết anh đau tim. Anh nói anh
mạnh nhưng những sự kiện xảy ra ngày hôm nay làm anh sợ.
Anh ở phái bộ quân sự từ sáng đến chiều cố xoay chỗ cho mấy
người bạn Việt Nam. Khổ quá: Cả ngày ở ngoài nắng mà chỉ có một cốc bia. Không
còn gì nữa. Thử tưởng tượng xem. Tôi ngắt lời anh, không muốn nghe những chi tiết
hãi hùng nữa. Thế còn người vợ Việt Nam của anh? Còn gia đình anh? Họ được di tản
chưa? Anh gật đầu. Rồi, họ đi mấy ngày trước đây. Anh mỉm cười cho biết họ gặp
trắc trở do những người kiểm soát của phái bộ quân sự đã làm khó dễ. Gia đình
anh nuôi heo ở sân sau, vợ anh muốn đem một, hai con sang Mỹ. Chị dắt hai con lớn
nhất đến nơi phân loại người đi. Nhưng những người kiểm soát ngăn lại.
Tôi cười vỡ bụng. Chúng tôi nói vui về tài xoay sở của người
Việt Nam. Tôi mời anh một ly scoth. Anh nhìn ly rượu, nét mặt giãn ra. Anh
khóc.
Tôi ngủ được khoảng bốn giờ thì tiếng chuông điện thoại ở đầu
giường reo. Viên chức CIA thường trực ở sứ quán gọi tôi. Đài phát thanh Hà Nội
vừa ra tuyên bố chính trị quan trọng, một lời cảnh cáo đối với nhà chức trách
Sài Gòn đòi họ phải đầu hàng ngay theo điều kiện của Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Tôi bảo anh đừng có đánh thức Polgar dậy vì chuyện ấy. Ông không đếm xỉa gì đến
những lời cảnh cáo đâu. Khoảng một giờ sau, tiếng nổ đầu tiên hất tôi ra khỏi
giường. Tức thì tôi sờ soạng trong bóng đêm tối để tìm áo giáp và khẩu M.16. Tiếng
nổ tiếp tục làm rung cửa, tôi bò lại bàn đến gọi dây nói cho sứ quán. Viên chức
thường trực trả lời: Đó là đạn rốc két. Không biết bao nhiêu phát. Đều bắn vào
giữa thành phố. Tôi bảo anh, mặc quần xong tôi sẽ tới.
Tôi mặc sơ mi, quần jean, đang khoác áo giáp thì tiếng đập cửa
buồng hốt hoảng. Tôi tháo chốt an toàn khẩu súng, từ từ mở cửa. Đó
là Joe Kingsley, hàng xóm và đồng nghiệp của tôi. Anh mặc quần đùi, nhưng đội
mũ sắt và khoác áo giáp. Anh mỉm cưới nói: có vẻ chiến tranh rồi. Anh đi không?
Tôi trả lời: Đi, nhưng tôi đề nghị anh ở lại điều khiển việc di tản trong trường
hợp có lệnh tiếp tục làm. Máy bay lên thẳng, như đã hẹn trước, sẽ đỗ trên mái
nhà".
Lúc tôi đến sứ quán, cảnh sát đã cho biết: năm quả rốc két bắn
vào thành phố, hai quả vào khu trung tâm, ba quả vào chợ lớn. Một quả trúng
khách sạn Majestic sang trọng. Một quả trúng Nha cảnh sát đô thành. Nhiều người
chết và bị thương, nhiều nhà cháy hoặc bị phá hủy. Buổi sáng, Polgar đã cho nhiều
người ra phố điều tra tình hình và xem có triệu chứng hoảng loạn không. Nhưng
người Việt Nam vẫn sống như người Việt Nam, nói giọng triết lý là mặc cho số phận.
Một bà già sống trong một cái lều, nói với một nhà báo: "Tuần trước, chúng
tôi thấy những người tị nạn ngủ trong lều. Thật khổ sở. Nay đến lượt chúng tôi
. Ở phía Đông, tướng Tấn vừa mở cuộc tiến công nhỏ. Đại bộ phận quân đội Bắc Việt
Nam nay mới hoạt động. Sớm ngày 27, sư đoàn 232, cánh quân chiến thuật do tướng
Lê Đức Anh chỉ huy, chiếm một thị xã trên đường số 4, cách Sài Gòn 19 kílômét về
phía Tây Nam. Ở phía Tây Bắc, Quân đoàn I chặn đường Tây Ninh - Sài Gòn, bao
vây một sư đoàn 26 Nam Việt Nam ở Củ Chi.
Mấy giờ sau, một đơn vị Bắc Việt Nam chặn đường Sài Gòn -
Vũng Tàu, làm cho dân di tản ra bờ biển mà Martin đã nghĩ đến không thể thực hiện
được. Như tướng Dũng đã dự kiến, phòng tuyến ngoài Sài Gòn vụn như vỏ củ hành.
Tướng Dũng chưa bằng lòng. Ông gửi một điện khẩn cho tướng Tấn: Phải vượt mọi
khó khăn để chúng ta có thể ngày 29 tháng 4 mở trận đánh cuối cùng vào Sài Gòn.
Buổi sáng, lực lượng cộng sản đã đến sát Biên Hòa và tiếp tục
tiến. Hai nhà báo Pháp lang thang tìm đề tài viết bị quân tiên phong đuổi kịp.
Một người bị bắt làm tù binh, người kia bị chết vì đạn lạc. Ở phía Tây thành phố,
quân đặc công đánh mìn phá đổ một cầu quan trọng đi vào Sài Gòn. Quân Nam Việt
Nam vội vàng gài mìn vào những cầu khác. Lính đào ngũ của sư đoàn 13 Nam Việt
Nam và đơn vị dù vừa chạy vừa đốt, cướp. Trong khi đó, đài Giải Phóng nêu ra
nhiều đòi hỏi đối với Hoa Thịnh Đốn: Rút ngay tất cả hạm đội, nhân viên tinh
báo và cố vấn Mỹ, người Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của Việt
Nam. Đối với một số người chúng tôi, điều đó có nghĩa là sứ quán cũng phải thu
xếp hành lý.
Giữa lúc đó, viên tổng thống già Trần Văn Hương lại nổi cơn sốt
kiểu Pháp. Hắn mời chủ tịch thượng nghị viện Trần Văn Lắm tới và ngỏ ý muốn nhường
Minh làm người kế vị, nhưng ông muốn được quốc hội chuẩn y để ông không phải chịu
trách nhiệm của mình. Lắm triệu tập ngay phiên họp đặc biệt có 131 thượng, hạ
nghị sĩ còn lại ở thành phố tới dự. Sau mấy giờ tán láo, quốc hội mới nhất trí
thông qua nghị quyết (có một phần ba nghị sĩ vắng mặt) bầu Minh làm tổng thống.
Hôm sau mới tuyên thệ. Hương đòi lên tuyên thệ làm vào buổi chiều để ông được
khoe với gia đình và bạn bè, ông ta làm tổng thống trong một tuần!
Minh thăm dò ngay ý kiến để thành lập chính phủ. Một công việc
phức tạp vì phần đông giới chính trị chưa nắm quyền đều thuộc phe cánh Thiệu,
dưới hình thức khác. Người duy nhất không có vấn đề là bạn chính trị của Minh,
Vũ Văn Mẫu, được Minh giao cho làm thủ tướng. Tướng Kỳ thấy mình không sơ múi
gì, liền tuyên bố ủng hộ Minh và ra lệnh cho phe cánh cũng làm như thế. Trước
khi quốc hội bàn, đại sứ Mérillon cố vận động lần cuối cùng cho hòa
bình. Ông đến sân bay Tân Sơn Nhất trực tiếp gặp các đoàn đại biểu cộng sản.
Nhưng điều làm ông sửng sốt, những người này chỉ nhắc lại những đòi hỏi mới nhất
của đài phát thanh Hà Nội. Họ đồng ý đem lại hòa bình với điều kiện quân Mỹ rút
hết, hoàn toàn và từ chối không đàm phán với Minh.
Polgar cũng đi thăm dò nhưng chỉ được trả lời: Đã quá muộn,
không thể nào có thỏa hiệp. Polgar bất bình, tưởng tai mình nghe lầm. Vì sao lại
từ chối thỏa hiệp khi Minh đã lên cầm quyền? Không một lúc nào, ông có thể nghĩ
rằng quân Bắc Việt Nam uy hiếp về mặt quân sự không phải vì những lý do chính
trị mà vì những lý do hoàn toàn quân sự. Ở Hoa Thịnh Đốn, một số nhà quan sát
cũng lạc quan như ông. Mặc dù Schlesinger nghi ngờ, những người nhận định tình
hình ở bộ quốc phòng, trong báo cáo ngày 27 tháng 4 cũng viết: "Những cuộc
bắn phá bằng rốc két sáng nay nhằm mục đích ép Nam Việt Nam mau chóng thương lượng.
Có thể cộng sản sẽ hoãn cuộc tiến công ồ ạt vào Sài Gòn để nghiên cứu khả năng
chính trị”.
Cùng lúc ấy, những sư đoàn của tướng Dũng đã mở giai đoạn
đầu của cuộc tiến công cuối cùng. Tối ấy, khoảng 20 giờ, lúc tôi rời được phòng
làm việc, thì tôi biết sắp đến lúc kết thúc. Đường Sài Gòn ra Vũng Tàu bị cắt
nhiều quãng. Không còn liên lạc được với 700 quân còn lại của sư đoàn 18 Nam Việt
Nam đóng ở phía Đông Biên Hòa và đường số 4 về đồng bằng sông Cửu Long cũng bị
ngăn chặn ở nhiều nơi. Sài Gòn trở thành một đảo, liên lạc với bên ngoài bằng một
cầu duy nhất, cầu hàng không!
Trên đường về, tôi lại vào nhà Joe Kingsley, uống một ly
martin cho khỏe. Mặc dù có nhiều sự kiện trong ngày. Kingsley vẫn vui vẻ. Tôi
nhanh chóng khám phá ra vì sao. Chúng tôi đang uống ly thứ hai thì có người gõ
cửa. Joe nói đó là cô Tuệ. Anh mở cửa, một phụ nữ Việt Nam xinh đẹp khoảng 19
tuổi bước vào, nét mặt tươi cười, ngực đồ sộ. Đó là một chiêu đãi viên của bar
Mini. Cô ta không muốn rời thành phố với những cô khác. Cô đang tìm khách. Tôi
quyết định chiều cô và anh cũng thế. Đêm đến, cô ở với anh trong nhà này. Thú
vui và mệt nhọc không hợp nhau. Dù sao cũng không phải phòng tôi. Tôi khó chịu
vì Joe quá săn sóc tôi. Tôi định từ chối món quà nhưng Joe không nghe. Đã quá
giờ thiết quân luật, không cho cô gái về được nữa.
Và không biết làm thế nào, tôi dẫn Tuệ sang phòng tôi. Cô
nhún vai khi bước vào trong phòng. Gian nhà lộn xộn, mất trật tự hòm xiểng để
khắp mọi nơi. Tôi đưa nước uống, chúng tôi ngồi nói chuyện. Một lúc sau, tôi thấy
ý định của Joe không phải là tốt. Nhưng chuông điện thoại reo lên. Viên chức
thường trực như thường lệ gọi tôi. Họ vừa nhận được tin của đài Hà Nội, rất cần
tôi phải đến sứ quán ngay.
Tôi bảo Tuệ ở lại coi nhà mình và ra xe đi. Phố xá vắng tanh.
Đây đó có hàng rào dây thép gai, mấy người lính dân vệ dưới 20 tuổi ngủ trên
hè. Viên thuốc đài Hà Nội mới gửi càng khó nuốt. Họ nói: "Việc thay đổi
chính phủ ở Sài Gòn, đuổi Hương, đưa Minh lên thay cũng chỉ là một trò gian giảo,
nham hiểm, định thay Thiệu - Hương bằng một bọn tay sai khác để cứu vãn chế độ
Sài Gòn". Polgar có cần thêm chứng cớ để hiểu rằng không có vấn đề thương
lượng, Minh cầm quyền cũng chẳng ăn thua gì. Tôi gọi ông đọc qua dây nói tuyên
bố của Hà Nội. Ông lau bàn rồi mắt dây nói vào. Khi tôi trở về nhà thì Tuệ đã
ngủ say giữa giường tôi. Có tiếng đạn rốc két nổ xé tan bầu không khí yên tĩnh
ban đêm, cô cũng không dậy.
HỌ ĐANG Ở CỬA
Đó là một buổi sáng mát mẻ và sương mù. Một buổi sáng hiếm có
ở Sài Gòn. Bình minh vừa qua, quân đặc công Bắc Việt Nam đánh phá và đốt ngay một
kho của chi nhánh cơ quan phát triển Mỹ bên kia sông. Họ chiếm luôn hai vị trí
tiền tiêu của chính phủ bên kia cầu Tân Cảng, cách trung tâm thành phố vài
kilômét. Họ đặt một khẩu liên thanh giữa cầu, bắt dầu bắn vào mục tiêu di động.
Phía chính phủ cho máy bay lên thẳng vũ trang đến phản kích. Cầm tách cà phê buổi
sáng, tôi cùng Joe đi lên mái nhà sứ quán, xem họ bắn. Kể từ năm 1968, chiến
tranh chưa bao giờ gần Sài Gòn như hôm nay. Họ chiếm cầu nên xa lộ Sài Gòn -
Biên Hòa không đi được. Biên Hòa cũng bị đánh phá không ngừng, lính đào ngũ đã
cướp phá sở chỉ huy Quân khu III.
Ở phía Nam, nhiều đơn vị quân Bắc Việt Nam từ đồng bằng tràn
lên đường số 4, thâm nhập vào ngoại ô Sài Gòn. Về phía Tây Bắc đêm qua, Tây
Ninh bị bắn phá dữ dội. Sư đoàn 25 Nam Việt Nam cố phá vỡ vòng tuyến của quân Bắc
Việt Nam trên đường số 1 về Sài Gòn mà không ăn thua. Các đường chính về thủ đô
đều bị cắt làm cho quân lính mất tinh thần và không còn nguồn tiếp tế, không
còn đường rút lui. Nhưng có thể có một vài thuận lợi. Do quân Nam Việt Nam phần
lớn bị bao vây bên ngoài thành phố nên Sài Gòn may ra không bị đánh. Quân Bắc
Việt Nam không có lý do gì để phá hủy Sài Gòn, đội quân thua trận càng không thể
phá huỷ nó được. Bóc vỏ củ hành, tướng Dũng đã cứu chúng tôi!
Các ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng vừa đến sở chỉ huy tiền
phương của tướng Dũng, cách Sài Gòn 48 kilômét về phía Bắc. Các ông nhanh chóng
cho tướng Dũng biết tình hình chính trị và nhắc lại chỉ có thắng lợi
quân sự thôi. Tướng Dũng tán thành và quay lại với bản đồ tác chiến. Thủ đô
căng thắng như da mặt trống. Tiếng súng ở phía cầu Tân Cảng vang dội đến trung
tâm thành phố. Phố xá đầy binh lính và dân thường từ đồng quê chạy ra bằng
chân, xe hơi, xe đạp. Dọc các phố phụ, sĩ quan cảnh sát và quân đội cởi binh phục,
mặc quần áo thường, để khỏi bị bắt.
Đến chiều, hơn sáu nghìn người Việt Nam sợ hãi tập trung trước
cửa phái bộ quân sự. Những người Mỹ ra đi chưa nhiều - cả ngày mới được 123 người,
vì một số muốn ở lại thu xếp cho xong công việc. Martin muốn người Mỹ đi nhanh,
tất cả các nhân viên không cần thiết đi ngay, nhất là những viên chức thuộc
phái bộ quân sự, như ông đã hứa với Bắc Việt Nam, đi trước ngày 30 tháng 4.
Trên các đảo Guam và Wake, các trung tâm đón tiếp chật ứ người tị nạn. Trong số
20 nghìn người đến từ đầu tháng, mới có 12 nghìn người đi California, ở căn cứ
không quân Travis. Những người khác, do liên quan, giấy tờ, chưa nhúc nhích được.
Cơ quan nhập cảnh phải chịu trách nhiệm một phần về tình trạng
này. Họ cử đến đây có 90 viên chức. Lúc trận đánh cầu Tân Cảng diễn ra, bốn
trong năm tàu đậu gần đấy đã nhổ neo đi Vũng Tàu, không chở ai cả. Tàu thứ năm
cùng với ba tàu kéo và bốn sà lan chạy ra quân cảng, chắc chắn và gần trung tâm
thành phố hơn. Phái bộ quân sự tiếp tục cho rằng sà lan không phải là phương tiện
tốt để chở người di tản, trái lại, sứ quán đã nghĩ ra việc sứ dụng sà lan vì sứ
quán biết rõ là các cầu hàng không không thể chở hết người ghi trong danh sách.
Buổi sáng, một đám đông người mất trật tự đã tràn vào sân
chơi đằng sau sứ quán. Người Việt Nam mỗi lúc một đông, nhất là những
nhân viên làm việc cho các cơ quan của sứ quán. Họ đến, đem theo giấy giới thiệu,
hy vọng có một chỗ ra sân bay. Nước bể bơi không thay mấy ngày qua, vàng như nước
tiểu. Vẫn có người tắm giặt. Căn tin đã đóng cửa vì người phục vụ cuối cùng đã
đi Guam. Một người Mỹ ở bộ phận hành chính của sứ quán lợi dụng lúc bấy giờ đem
bán những bản khai danh dự cho người Việt Nam với giá đắt.
Giữa buổi sáng, một nữ Hoa kiều tôi quen biết từ lâu gọi dây
nói đến đề nghị tôi giúp đỡ. Người chồng Mỹ của chị đã bỏ rơi chị ở lại với đàn
con. Chị chẳng biết trông cậy vào ai lúc này. Tôi bảo với chị rằng tôi đang bận
chưa giúp chị được. Một giờ nữa chị gọi lại tôi thử xem. Yên lặng một lúc ở đầu
đường dây đằng kia. Rồi chị bình tĩnh nói: "Nếu anh không giúp tôi, tôi sẽ
tự tử với các cháu. Tôi đã mua thuốc độc rồi". Tôi liếc nhìn giấy tờ xếp
thành đống trước mặt. Polgar muốn tôi thảo nhanh một bản nhận định tình hình có
lẽ chẳng dùng làm gì cả. Tôi không thể bỏ nơi đây được Tôi bảo chị: "Một
giờ nữa, gọi lại, tôi sẽ giúp chị". Như đã hẹn, một giờ sau, chị gọi tôi
nhưng tôi không có trong phòng làm việc. Chị để lại một mẩu giấy: tôi chờ anh,
chào anh". Đó là lấn cuối cùng tôi nhận thư chị. Còn các đồng nghiệp của
tôi, họ ném vào lò sưởi hàng đống hồ sơ. Chỉ mấy giờ, mọi cái trong nhà đều đầy
tro, khói.
Các người phụ trách chi nhánh Mỹ cơ quan AID xin phép gửi hồ
sơ quý bằng máy bay đi Thái Lan hay Philippines. Đại sứ không đồng ý, theo ông,
sau khi ngừng bắn, vẫn còn thì giờ. Trong khi lò sưởi ngốn hàng đống hồ sơ, báo
cáo, tin tình báo và nhiều giấy tờ, công văn thì nhiều viên chức khác gói hàng
bó tiền. Buổi sáng, phái bộ quân sự đã rút trong tủ sắt ra ba triệu đôla. Để trả
phụ cấp đi dường cho các nhân viên sứ quán. Đến trưa, trong số 900 người Việt
giúp việc chỉ còn 20 người chưa được lĩnh tiền.
Trong khi đó, ở cổng sau sứ quán, nhiều xe của chính phủ Nam
Việt Nam đến. Một viên tướng, một đại tá, một nhân viên chính trị từ xe chui
ra, gật đầu chào lính gác rồi chạy vào thang máy. Họ ra đi. Từ sáng sớm, những
máy bay lên thẳng của không quân Mỹ không ngừng đổ xuống mái nhà, bay đi, chở
theo giới thượng lưu Sài Gòn đến sân bay Tân Sơn Nhất. Ở đấy máy bay Mỹ đang chờ
họ. Sáng hôm ấy, người khách quan trọng nhất là tướng Cao Văn Viên, tổng tham
mưu trưởng. Ông đến sứ quán, chào lính gác, bắt tay nhân viên bộ ngoại giao
đang mở cửa cầu thang. Ông tiến vào - cửa đóng. Chuyến "du lịch cuối cùng”
của ông bắt đầu. Sau này tương Smith nói: Đó là một con người sung sướng. Khi
ông đến phái bộ quân sự, ông xử sự như đồ con nít. Ông không giấu được vẻ vui mừng
khi ông đổi binh phục lấy những bộ quần áo thường. Một máy bay lên thẳng chở
Viên ra tàu của Hải quân đậu ngoài khơi. Còn tổng thống Hương, ông ta thuyên
chuyển số người chỉ huy quân đội, thực tế quân đội không còn tư lệnh nữa. Điều
đó không ngăn cản các tướng, nhất là Quang và Kỳ, cấu xé nhau.
Trong bữa ăn sáng, Bill Johnson viết vội mấy chữ cho vợ là
Pati, đang ở Bangkok. Anh viết: "Đang đi đến giàn xếp thương lượng, em đừng
lo". Rồi anh lấy xe đi ra thành phố thăm mấy quan chức cao cấp thuộc Nha cảnh
sát đặc biệt và Bộ Thông tin. Anh định để cho họ di tản bằng một máy bay đặc biệt
do CIA tổ chức hôm đó. Anh cho rằng nếu có thành lập chính phủ liên hợp thì những
người này ở ngoài có lợi hơn. Anh nói: "Tôi giúp họ không phải vì tinh thần
nhân đạo, tôi giúp họ vì tôi nghĩ sau này họ có thể giúp ta thành lập ở nước
ngoài một mạng lưới tình báo cho Sài Gòn.
Trong cuộc thảo luận giữa anh với những người nói trên,
anh không hề đề cập đến việc di tản tám trăm nhân viên người Việt Nam mà tính mạng
có thể bị uy hiếp. Anh giải thích: "Sự chăm sóc của chúng tôi
hoàn toàn do nghiệp vụ chứ không do lòng nhân đạo.
Gần trưa, Johnson chào vĩnh biệt viên chỉ huy mới Nha cảnh
sát đặc biệt. Anh thuật lại: " ông ta khóc, vì biết rằng nay là chỉ huy
thì mai kia sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tôi bắt tay, vổ vai ông ta và nói: cố
dũng cảm lên!". Hai ngày sau, ông này đã gí khẩu súng Browning vào đầu tự
bắn vỡ sọ.
Sáng 26 tháng 4, Johnson còn làm mấy trò nữa để hy vọng sau
này đánh lừa cộng sản. Anh ra lệnh làm một số tài liệu mật giả mạo, xếp trong tủ
sắt của sứ quán. Trong số này có cả danh sách nhân viên tình báo CIA, nhiều người
là quan chức cao cấp của cộng sản. Polgar theo dõi mọi việc đang xảy ra. Ông cố
pha trò nhạt. Joe Kingsley, cáu kỉnh nói đến ổ liên thanh trên cầu Tân Cảng.
Polgar bảo anh đi xe ra xem thế nào, làm như đi xem một việc bình thường. Joe
tái xanh mặt nói: "ông cho tôi một tay súng giỏi để bảo vệ". Polgar bảo
anh đi tìm ở bộ phận khác rồi hất tay ra lệnh cho anh đi. Joe vừa đi, Polgar gọi
tôi lại giao cho tôi một nhiệm vụ đặc biệt. Tôi phải mang một bức thư đến cho
người bạn lâu đời của ông là Malcolm Brown, phụ trách phóng viên báo New York
Times. Đây là những câu hỏi mà Brown sẽ đặt ra với người của anh trong Chính phủ
Cách mạng lâm thời: Cộng sản có đồng ý để Minh làm Quốc trưởng không? Ông nói với
tôi: Phải đi nhanh, đừng đi xe anh, lấy xe tôi mà đi, Út, người lái xe của tôi
rất thạo. Ông nói đúng, Út lách qua hàng trăm xe Peugeôt và Hon da trên đường Tự
Do trong năm phút.
Sau vụ đánh rơi mật mã ấy, tôi muốn nghỉ một chút. Xách ghế
ra sân cỏ đằng sau sứ quán, tôi ngồi ngắm cảnh chung quanh. Đã mười ngày nay,
tôi mới lại được ngồi như thế. Cầu hàng không máy bay lên thẳng hoạt động đều,
mặc dù gặp khó khăn: sân hẹp, CH.53 là loại máy bay trực thăng lớn, nặng, mỗi
chiếc phải chở tới 70 người, mức trọng tải cao nhất. Nhiều lần, gió cuốn suýt
gây ra tai nạn. Đã có một máy bay trực thăng lên được ba mét lại phải hạ xuống.
Lên ba mét nữa lại phải hạ xuống lần nữa. Chúng tôi rất lo. Công suất máy có thể
đưa máy bay lên được không? Tai hại biết mấy nếu một chiếc rơi, nổ trong sân sứ
quán! Phi công của hải quân quả có tài. Thấy hết khó khăn ở đây, càng phục họ.
Họ phải chở nặng, bay đi bay lại từ sân sứ quán, hoặc từ mái nhà ra hạm đội,
cho người xuống xong lại bay vào. Chắc họ mệt vô cùng. Những người lính thủy Mỹ
cũng có những cử chỉ đẹp, hành động đẹp. Sắp xếp người di tản nhanh, đưa họ lên
máy bay để khỏi phải chờ lâu, điều đó có nghĩa là, bánh xe của máy bay vừa chạm
đất, người tị nạn phải chạy ngay đến cửa sau. Ngoài ra còn sức gió 130
kilômét/giờ của cách quạt quay, nếu để phụ nữ hay trẻ em bị cuốn đi thì thật là
nguy hiểm.
Thỉnh thoảng, một sứ giả của đại sứ, khi thì Wolf Lehmann,
khi thì George hay Brunson Mc Kingsley, lại xuống giảng giải. Họ làm ra vẻ quan
trọng, lúc nào cũng đeo máy vô tuyến điện, nét mặt đăm chiêu! Hình như chỉ có họ
là những người chịu trách nhiệm! Thực tế, đó chỉ là những người lính ăn chơi
không cần ai giúp đỡ. Có lúc Mc Arthur ra sân cỏ, nhìn qua ống nhòm. Anh vẫn
tươi trẻ, không có gì mệt mỏi. Không ghi sổ, không chụp ảnh, anh chỉ quan sát.
Tôi biết trên kia, ở phòng đại sứ, họ đã uống rượu thỏa thích. Ở phòng Polgar
cũng vậy, uống tha hồ, mặc sức. Ở đây, sống trong những ngày qua tôi thấy ớn những
bữa rượu chè.
Từ sáng đến giờ, ba bốn máy bay Nam Việt Nam đã bị súng phòng
không của cộng sản bắn rơi ở ngoại ô Sài Gòn. Một giờ rưỡi trước, quân Bắc Việt
Nam đã sử dụng tên lửa Sam-2, bắn vào máy bay Phantom của Mỹ, cách thành phố 16
kilômét về phía Đông Bắc. Phi công Mỹ bắn tên lửa Wild Veasels chống lại, phá hủy
bệ phóng của cộng sản. Thực tế, người Mỹ đã trở lại tham chiến!
BUỔI TỐI
Trong phòng thường trực của sứ quán, kim đồng hồ sắp chỉ sáu
giờ. Tôi ngồi ở bàn chị thường trực, tay cầm áo giáp. Cộng sản có nhận đúng lúc
thông điệp của Timmes không? Hay chỉ mấy phút nữa, pháo binh Bắc Việt Nam lại bắn
phá. Không ai trong bốn, năm viên chức CIA ở phòng bên kia biết tin sắp có oanh
tạc. Họ có vẻ dửng dưng.
Đúng sáu giờ, tiếng nổ dữ dội làm rung chuyển cả ngôi nhà. Tự
nhiên, tôi co người lại. Mấy giây trôi qua, dài và nặng nề, tiếng vang xa
dần. Polgar ở trong phòng đi ra, nhìn tôi. Buổi chiều, quá bối rối, chắc ông
quên tin báo sẽ có bắn phá. Tiếng nổ vừa rồi đã nhắc ông ta. Ken Woorefleld đi
qua sân cỏ sứ quán, sẵn sàng bắn bằng khẩu M.16. Anh nói: "Tôi tưởng một
trái lựu đạn hay một quả bom nổ, nhưng khi ra tới cổng ra vào, tôi thấy một
đoàn xe Volkswagen bốc cháy bên kia đường phố. Một người Việt Nam vớ vẩn nào đó
đã đánh rơi que diêm vào bể xăng”. Tức thì Bùm!
Nhiều người bị thương, nhưng tôi chẳng muốn ra xem có bao
nhiêu nạn nhân. Hai ba lính thủy ở cổng định ra cứu, tôi ngăn họ lại: "Các
anh dễ làm mục tiêu cho một kẻ bắn lén nấp trong đám đông!". Trong nhà phụ
của phái bộ quân sự ở Tân Sơn Nhất, người ta đang đánh nhau. Don Hays, hai người
dân Mỹ và mấy lính thủy đang tập hợp một số người di tản thì lộn xộn xảy ra.
Lính thủy vội vàng đối phó, đuổi được lính dù ra. Khi tướng Smith biết tin, ông
ra lệnh chuyển những ngời tị nạn vào ngôi nhà chính, chắc chắn hơn.
Một đại tá hải quân báo cho Hays: Xe ô tô buýt sắp chở mấy
nghìn người tị nạn đến ngôi nhà chính. Hays và hai người dân Mỹ cố tập hợp người
tị nạn. Họ vừa xếp được một hàng năm mươi người thì có tiếng gọi vô tuyến điện
của phái bộ quân sự: Lính dù Việt Nam lại chặn đường từ nhà phụ sang ngôi nhà
chính, xe ô tô buýt không chạy được. Chỉ còn một cách: Bảo người tị nạn chạy dọc
dãy nhà ở chu vi Nam nhà phụ, qua sân bóng ném, đến nơi máy bay đỗ. Nửa giờ
sau, nhà phụ hết người, lính thủy về đóng ở gần sân bóng ném.
Trong ngôi nhà của phái bộ quân sự, Nelson Kief, một người sống
sót từ Pleiku về, lặng lẽ phá hủy những hồ sơ mật cuối cùng. Anh vừa rút ngăn
kéo còn lại ra thì thấy trước cửa sổ, có hai sĩ quan đang đổ dầu xăng vào hai
phuy bằng tôn. Anh vội đứng dậy, hai sĩ quan chuồn ngay để lại hai phuy.
Kief ra mở nắp một phuy. Anh suýt ngất đi. Trong phuy có hàng triệu đồng đôla
giấy buộc cẩn thận. Trước đó, anh được biết tướng Smith đã ra lệnh hủy tất cả
tiền mặt của phái bộ quân sự. Vào khoảng hơn ba triệu rưỡi đôla thì phải.
Tôi ngồi trong phòng đợi của Polgar đang tự hỏi xem quân Bắc
Việt Nam có thôi không dùng pháo binh nữa không thì có tiếng chuông điện thoại.
Ngoài phố ầm ầm, tôi không nhận ra được tiếng nói đằng kia đầu dây, mãi mới biết
là Út, người lái xe của Polgar. Tôi đưa máy nói cho Harry Linden, nhờ anh nghe
hộ vì Út nói tiếng Việt Nam, tiếng the thé, Linden làu bàu, nghe xong nhìn tôi
"ông ta nói cầu thang ngôi nhà ở đường Gia Long đầy người, ông chưa đưa được
30 người Việt Nam quen Polgar lên mái nhà để đi máy bay. Nghe thấy thế, Polgar
hét lên: "Bảo nó dẫn về sứ quán, trời ơi lâu quá, họ đến đây ta sẽ kẻo họ
qua tường, bất chấp sự phản đối”. Trong khi Linden truyền lại lệnh của ông,
Polgar gọi Philip Custen, Bill Johnson và mấy viên chức ngồi phòng bên. -
"Đi với tôi ra ngoài kia”. Tôi đứng dậy định cùng đi thì ông lắc đầu: “Ở
lại thường trực với Pittman”.
Mấy người đi, đều dắt súng và đeo dùi cui vào thắt lưng. Mỗi
người buộc một băng trắng quanh đầu. Mấy phút sau, họ len vào giữa đám đông, đi
ra mé cổng. Harry Linden nhìn tôi như muốn hỏi ý kiến rồi anh quay lại, theo
Polgar. Nửa giờ sau, họ bắt đầu kéo người Việt Nam qua tường. Mấy lính thủy bất
đắc dĩ đã phải giúp họ. Đứng sát vào cổng sắt, Polgar lấy tay chỉ những
người quen ông đứng giữa đám đông. Bill Johnson, ngồi trên tường, kéo phụ nữ và
trẻ em. May quá, không ai bắn anh. Những người Việt Nam, bên ngoài sứ quán, chỉ
tranh nhau tiến đến gần anh. Thỉnh thoảng có người bám vào chân tay anh nhưng bị
nhân viên CIA hoặc lính thủy hất ra.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, Polgar chỉ đưa được mấy người Việt
Nam vào sứ quán. Người lái xe can đảm của ông, Út bị mắc kẹt ở ngoài. Trong lúc
đó, ở Hoa Thịnh Đốn, Kissinger gọi dây nói báo cáo với tổng thống Ford đang ở
nhà riêng: "Cuộc di tản vẫn tiến hành bình thường tuy có hơi chậm hơn dự
kiến".
18 giờ 30 phút, máy bay lên thẳng của không quân Mỹ đỗ xuống
lần cuối cùng. Ngày hôm ấy, riêng máy bay Huey chở được mấy nghìn người trong mỗi
chuyến, một máy bay khác chỉ đem đi được 12 người. Ở dinh tổng thống, Minh giận
dữ đi lại trong phòng. Đoàn sứ giả đi Tân Sơn Nhất không biết sống chết thế
nào. Nhiều người trong giới thân cận lại khuyên Minh đầu hàng không điều kiện.
Nhưng Minh không thể làm như thế. Ông ta nói: "Đồng bào tôi sẽ khinh tôi!
Tôi sẽ quyết định sau”. Ông ta muốn thành lập chính phủ để khỏi một mình chịu sự
ô nhục này.
Ở sứ quán, nhiều người không chờ đi nữa. Shep Lowman rời mái
nhà lúc 19 giờ cùng mấy đồng nghiệp. Joe Kingsley, bạn cũ của tôi và nhiều người
khác đi cùng lúc ấy. Cả buổi chiều, anh giúp lính thủy đưa người tị nạn lên máy
bay, lúc đi, anh mệt lử. Một nhà báo Mỹ đi sau cùng. Mỗi máy bay trực thăng
quân sự này chở từ 60 đến 80 người, vượt quá trọng tải rất nhiều. Do đó, lính
thủy không cho đưa nhiều hành lý lên, để có thêm chỗ cho người tị nạn. Nhiều
phóng viên nhiếp ảnh không biết thể lệ ấy hoặc giả vờ không biết, đem cả máy
móc lên. Chắc họ không quen Joe Kingsley. Lúc một người trong bọn họ đẩy
một phụ nữ Việt Nam để lấy một chỗ đặt máy. Kingsley vỗ vào vai và huơ nắm đấm
trước mặt anh ta rồi quẳng camera vào bụi. Làm xong việc ấy, Joe cho là đã hoàn
thành nhiệm vụ nên trèo lên chiếc máy bay CH.53 đi sau.
Trên lầu ba sứ quán, trong phòng riêng của đại sứ, Lacy
Wright tiếp tục giúp Eva Kim nghe dây nói, 19 giờ, một người Pháp, trốn ở sứ quán
Nouvelle-téland bỏ trống, gọi đến xin giúp một số người Việt Nam và hắn di tản.
Wright trả lời: “Giữ họ ở lại đấy, Quân Bắc Việt Nam tôn trọng qui tắc ngoại
giao". Tướng Smith quyết định ở lại cho đến lúc Martin đi. Nhưng đô đốc
Gayler đã ra lệnh cho Smith đi ngay. Mặc dù thế, ông thấy có trách nhiệm đối với
đại sứ nên đã đổi kế hoạch.
19 giờ 15 phút, bỗng nhiên mất điện, phái bộ quân sự tối om.
Sau đó tìm thấy một kẻ phá hoại Việt Nam nào đó đã mắc một sào gỗ vào dây điện
dẫn đến phái bộ. Cho chạy ngay máy nổ nhưng các kỹ thuật viên thấy thiệt hại lớn
hơn nhiều: đường dây liên lạc giữa phái bộ quân sự với Hoa Thịnh Đốn và thế giới
bị cắt. Phải 10 phút mới nối lại được. Thấy thế, tướng Smith ra lệnh không sửa
chữa nữa vì chỉ còn khoảng 30 người trong ngôi nhà.
20 giờ, giờ Sài Gòn, tướng Smith dẫn đầu đoàn người Mỹ đi ra
sân quần vợt, nơi có máy bay đỗ sẵn, chờ họ. Lúc họ sắp lên máy bay thì một ô
tô buýt chở người Việt Nam đến, họ đành phải nhường. 20 giờ 15 phút họ mới đi
được. Trong bọn họ có Hays mệt bã người. Khi chiếc CH.53 bay lên, anh nhìn lại
lần cuối cùng sân bay Tân Sơn Nhất rồi thiếp đi vì đã bốn ngày liền anh không hề
chợp mắt.
Nay đến lượt tướng Carey và lực lượng an ninh lính thủy trông
nom phái bộ quân sự. Họ lần lượt cho những người Việt Nam lên máy bay mỗi lúc một
hiếm. Lúc chiều, khi chiếc máy bay trực thăng đầu tiên đỗ xuống sân sứ
quán thì Martin ra lệnh: Việc di tản phải được tuần tự tiến hành theo phương
châm ai đến trước, đi trước. Người Mỹ không được hưởng quyền ưu tiên. Nhưng
tình hình đã làm đảo lộn lệnh của ông. Ai cũng muốn người thân quen của mình đi
trước. Người ta cho bạn bè chí cốt lên hàng đầu. Mỗi khi có cánh hẩu, Polgar lại
cho mở rộng cổng sứ quán cho vào. Martin không hề biết những hiện tượng ấy. Một
viên chức sứ quán phải thốt lên: Chẳng còn kỷ luật gì nữa, mạnh ai người ấy cho
đi!
Quá 21 giờ, Jim Devine đột nhập vào phòng sứ quán. Anh vừa nửa
đùa, vừa ra hiệu cho đồng nghiệp ngồi trong phòng: "Đến lúc rồi, những anh
bạn không cần thiết ạ! Sứ quán đã khóa cửa, tàu, sà lan đã chạy, tướng Smith đã
đi, các anh còn làm gì ở đây nữa?". Lacy Wright và Don Ellerman, cố vấn
kinh tế, cầm lấy cặp, tiến tới cầu thang. Theo sau họ là Alan Carter, mệt lả
người mà vẫn phải bỏ lại các nhân viên của cơ quan thông tin, rồi Eva Kim, nữ
thư ký riêng của Martin. Họ lên mái nhà. Lần đầu tiên trong đời, Eva mất vẻ
bình tĩnh, tóc cô bị tung. Mười một năm phục vụ người Mỹ, làm thư ký riêng cho
ba đại sứ trước Martin, cô biết mọi bí mật của sứ quán. Nhưng cô không phải là
một phụ nữ ba hoa. Từ đầu đến cuối, cô là một cộng tác viên hoàn toàn trung
thành, kín đáo và giữ kỷ luật.
Eva Kim đang tiến tới máy bay thì George Arthur, phóng viên
báo Los Angerles Times đi kịp cô. Anh chàng có con gì động đậy trong tay, nó sủa
lên. Anh chàng phải dỗ dành con chó đen nhỏ, giấu dưới áo: "Bình tĩnh,
bình tĩnh, chỉ mấy phút thôi!". Arthur đưa con Nit Noy, con chó của đại sứ
cho Eva Kim, giúp cô trèo lên ca bin. Nhà báo đã nhận che chở cho con chó của đại
sứ trong chuyến đi cuối cùng này!
Máy bay CH.47 bay lên cao, lượn một vòng, lên cao nữa. Qua cửa
sổ, nhìn thành phố anh hằng quen biết, Lacy Wright không hề luyến tiếc.
Anh đã làm hết sức mình trong những tuần qua, đã cố gắng giúp đỡ người Việt Nam
và thực hiện chính sách của Hoa Kỳ.
9 giờ 30 phút, giờ Hoa Thịnh Đốn, viên chức bộ ngoại giao, cơ
quan CIA, bộ quốc phòng trong tách cà phê đầu tiên buổi sáng trước khi làm việc.
Ở Nhà Trắng, Kissinger báo cáo với tổng thống Ford: Phái bộ quân sự đã hoàn
thành việc di tản. Hơn 4.500 người đi bằng máy bay lên thẳng trong đó có 450
người Mỹ. Đó là một thành công rực rỡ mặc dù có mất mát. Theo một báo cáo của hải
quân vừa gửi về, một máy bay CH.53 rơi xuống biển, bên cạnh đằng lái một con
tàu. Không có người tị nạn trên đó nhưng phi công và người phụ lái đều mất
tích. Có thể họ đã chết. Họ mệt quá nên để xảy ra tai nạn. Cầu hàng không hoạt
động gần 6 giờ rồi, thời tiết quá xấu, chẳng thấy rõ mấy, lại thấm mệt nên viên
phi công đã tính sai khoảng cách từ máy bay đến chỗ đỗ.
Ford hỏi Kissinger xem có nên tạm ngừng cầu hàng không cho đến
sáng không. Phái bộ quân sự cũng muốn thế thì phải? Kissinger trả lời: Nên,
nhưng cũng cần xem xét lại một số điều. Bắc Việt Nam bảo đảm cho máy bay trực
thăng qua lại nhưng không có gì chắc chắn. Nếu tạm ngừng rồi sáng mai lại bay,
họ có hiểu trệch đi không? Kissinger gọi dây nói cho Martin hỏi ý kiến
nhưng đại sứ không có trong phòng làm việc. Ông ra ngoài sân đếm xem còn bao
nhiêu người cần di tản. Đi qua phòng Polgar, tôi thấy Polgar đang quỳ trên một
vali để cố đóng nắp. Ông nhẹ nhàng nói với tôi: "Thế là hết và tiếp tục
khóa vào. Tôi định giúp ông thì ông ngăn lại. Ông đã chuẩn bị xong để rời nước
này!
Tôi quay về phòng, thu gọn những bức điện mật đã bị xé thành
một đống, chuẩn bị đốt thì một người quen cũ đến gặp. Đó là Moorefield mà mấy
ngày ngay không có mặt ở đây. Anh vừa thoát khỏi đám đông ở ngoài cổng, trông
anh giống như bức tượng một chiến binh nhỏ, tóc và mặt đầy thuốc súng, khẩu
M.16 trong tay. Tôi bắt tay anh: "Mình tưởng cậu đi Tân Sơn Nhất rồi?".
Anh trả lời không chút pha trò: "Mình thử lại sứ quán xem ở đây xoay sở ra
sao?". Anh nhìn mỉa mai mấy đồng nghiệp đang ngồi uống rượu trên ghế tựa
ngoài phòng đợi: "Họ làm gì thế, đang dự tiệc à?". Tôi kẻo anh ra cửa
và nói: Đó là một cách tỏ ra mình làm việc! Tôi rất xấu hổ trước cảnh này. Ra
ngoài kia, sẽ nói chuyện thêm. Tôi đang bận. Anh mỉm cười, tỏ ý hiểu, quay gót
ra, khẩu súng vẫn cầm trong tay. Nhìn anh đi, tôi thấy vui vui. Morefield vẫn
là một binh sĩ Mỹ chuyên nghiệp, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu.
Mấy phút sau, Polgar ngồi vào bàn máy chữ, đánh một điện cho
Hoa Thịnh Đốn, ông báo tin sắp đóng cửa cơ quan và chi nhánh tình báo ở đây đã
hết việc. Ông đưa bức điện xuống lầu ba để đại sứ duyệt. Khi trở lại, ông xách
luôn vali, không nói một lời. Đó là dấu hiệu báo giờ khởi hành đã tới. Tôi cúi
xuống gầm bàn, lấy hai chiếc cặp cất ở dưới đó. T.D.Latz bước vào, hai tay ôm
hai máy vô tuyến điện vượt đại dương. Anh bảo tôi: "Mang hộ mình một cái.
Bọn chúng bắt được thì uổng". Polgar đá vào một máy thu phát General
Electric giá bảy trăm đôla, nói: "Đem được cái gì thì đem. Chi nhánh mất
năm triệu đôla thiết bị trong mấy tháng qua rồi đấy!". Người mắc bệnh tâm
thần cũng phải sửng sốt Chúng tôi chỉ còn 12 người trong tổng số ba trăm nhân
viên tình báo CIA ở Việt Nam. Tôi nhìn lại lần cuối cùng bàn làm việc của tôi.
Một cuốn sách của Don Oberdorfer: "Tết”, còn nằm trên đó. Tôi định cầm lấy
thì chợt nghĩ: Người đến đây ở sau cùng chắc sẽ thú vị được biết tư tưởng người
Mỹ sau cuộc tổng tiến công năm 1968!
Tất cả 12 người chúng tôi xếp hàng, dọc cầu thang lên mái
nhà, chung quanh xúm xít người Việt Nam. Tôi không có can đảm nhìn họ. Một lính
thủy hỏi chúng tôi có vũ khí không. Nếu có phái để lại. Có nhiều tiếng phản đối
khi nghe lệnh ấy nhưng không ai giữ lại súng nữa. Polgar rút khẩu súng Browing
ra, ngắm nghía một lát, rồi thở dài, thất vọng: "Tôi phải ở lại, đại sứ
cũng muốn ở lại một lúc nữa, chờ cho người Việt Nam ở trong ngôi nhà này đi hết
mới lên đường. Tôi ở lại và cùng đi với đại sứ. Quay lại, ông nói với Pittman,
người phó của ông: "Anh cũng nên ở lại". Pittman gật đầu đặt vali xuống.
Polgar quay ra phía tôi: "Anh giúp bạn Việt Nam tôi lên máy bay. Tôi hỏi lại:
"Ông có cần tôi ở lại không?” - Không. Sở chỉ huy đã ra lệnh, mọi người đi
cả. Tôi chỉ giữ Pittman và một nhân viên thông tin ở lại để liên lạc với Hoa Thịnh
Đốn.
Lần cuối cùng tôi trông thấy Polgar lúc ông đi về phòng cùng
với một lính thủy, lấy một két bia Heineken. Trên mái nhà, đó là một giấc mộng.
Nơi máy bay đỗ, ánh đèn yếu ớt, một máy bay CH.47 nổ động cơ om sòm. Đoàn phi
hành đều đội một loại mũ lớn, qua ánh nhấp nháy của đèn hiệu máy bay, họ giống
những con sâu bọ khổng lồ đứng trên chân sau. Tôi trèo lên thang, kéo mấy bạn
Việt Nam của Polgar lên theo. Tướng Smith ngồi cạnh tôi và Bob Kantor, Bill
Johnson ngồi trước chúng tôi, đầu vẫn đội mũ câu. Máy bay bắt đầu bay. Qua cửa
hậu còn mở có một người lính ngồi cạnh khẩu liên thanh, tôi thấy rõ sân bay xa
dần. Đèn ca bin tắt. Máy bay vượt qua trung tâm thành phố, theo đường Vũng Tàu,
con đường quen thuộc ngày chủ nhật tôi thường đi. Máy bay vừa qua Biên Hòa, rẽ
về hướng Đông, thì tôi thấy kho Long Bình nổ, một loạt nấm nhỏ nguyên tứ bốc
lên. Trên hệ thống đường từ Sài Gòn đi Xuân Lộc, hàng nghìn xe vận tải, xe tăng
chắc là của Bắc Việt Nam, đang chạy từ từ về Biên Hòa, xe nào cũng sáng đèn. Họ
bắn lên bầu trời Bà Rịa, gần Vũng Tàu ánh sáng vàng và đỏ chạy dài như trên một
màn ra đa. Tôi thúc khuỷu tay vào Timmes và nói vào tai ông: "Họ bắn chúng
mình!". Ông chồm dậy, mắt sáng lên: "Tôi lại nhớ trận đánh Normandie
năm 1944”. Ông có nhiều chiến công ở mặt trận này. Chỉ huy một đơn vị lính dù,
ông cũng đã cùng đơn vị nhảy đầu tiên vào vùng sau lưng địch. Người lính già,
qua cửa sổ máy bay, nay nhớ lại cảnh oanh liệt thời xa xưa của mình.
Làn đạn bắn lên kéo dài khoảng ba, bốn phút. Rồi một tiếng nổ
lớn ở bên phải máy bay. Tôi nghĩ thật là ngớ ngẩn nếu đúng lúc rời khỏi nước
này lại bị giết hại! 22 giờ, máy bay bắt đầu xuống. Trong ca bin, nhiều người
nhấp nhỏm. Họ muốn nhìn những tàu chiến. Một tàu bỗng hiện ra trước cửa hậu máy
bay vẫn mở. Đèn tàu sáng trưng. Nhiều máy bay trực thăng bay chung quanh tàu.
Chúng tôi tuần tự xuống, dưới ánh đèn rực rỡ. Tàu Denver đón chúng tôi như cái
kén bằng kim loại bọc con tằm. Máy bay đỗ hầu như chúng tôi không thấy gì.
Ảnh: Trực thăng di tản của KQ VNCH
bay ra tàu sân bay Midway
bay ra tàu sân bay Midway
Mười giờ, giờ Hoa Thịnh Đốn, James Schlesinger nổi giận đùng
đùng, hơn lúc nào hết, việc di tản sứ quán Sài Gòn suýt nữa bị thất bại! Thời
tiết trở nên rất xấu ở Vũng Tàu. Gần một nhà máy bay trực thăng đang phải sửa
chữa. Phi công mệt lử. Một giờ trước, một máy bay CH.63 rơi, chứng tỏ việc
chuyên chở ban đêm rất nguy hiểm. Điều khốn khổ là Martin không biết cần dành
ưu tiên cho những người nào. Mấy giờ gần đây, chỉ thấy người Việt Nam được di tản,
còn lại quá nhiều người Mỹ, một máy bay không thể chở hết!
Schlesinger mới đầu gọi dây nói cho Martin để tỏ rõ sự bất
bình của mình. Sau đó ông gửi điện nhờ Lầu Năm Góc và vô tuyến điện của
đô đốc Whitmire chuyển. Schlesinger định rõ thời hạn: Giữa đêm phải ngừng cuộc
di tản. Nghĩa là chỉ còn hai giờ nữa. Sáng hôm sau, sẽ tiếp tục bay. Bây giờ,
19 máy bay lên thẳng sẽ đến sứ quán để đón tất cả người Mỹ ở đó, kế cả bản thân
đại sứ. Martin trả lời một cách tiêu cực.
Sau này, đại sứ trình bày trước một ủy ban của quốc hội:
"Sứ quán đầy người Việt Nam, ai cũng biết chúng tôi ra đi. Chúng tôi sợ hoảng
loạn sẽ nổ ra bất cứ lúc nào. Bên ngoài hàng trăm người Việt Nam muốn xông vào
sứ quán. Rất khó và rất nguy hiểm ngừng cuộc di tản đến nửa đêm, rồi lại tiếp tục
ngày hôm sau”. Đại sứ cũng giải thích với Kissinger như trên trong cuộc nói
chuyện bằng dây nói với Nhà Trắng. Sau này, ông nói rõ trước quốc hội:
"Tôi được Hoa Thịnh Đốn chấp nhận điểm này: “Tiếp tục di tản cho đến khi
không còn người Mỹ nào nữa".
Thực tế lời đề nghị của ông rất cụ thể: "Ông xin thêm 30
máy bay trực thăng để có thể chở hết mọi người. Đề nghị ấy được Hoa Thịnh Đốn
chuẩn y".
23 giờ 30 phút, đại tá Gray và một nhóm lính thủy phá hủy sở
chỉ huy phái bộ quân sự. Xe tăng Bắc Việt Nam đang đến gần. Không một thiết bị
quân sự nào được để rơi vào tay cộng sản. Đầu tiên là hệ thống liên lạc tối mật
giữa tướng Smith và Hoa Thịnh Đốn. Nhóm phá hoại đặt nhiều mìn mạnh chung quanh
hệ thống. Một lính thủy kể lại: Vừa có lệnh, một tiếng nổ rung trời, ánh sáng
bùng lên, không khí nóng ran, mọi cái tan tành! Mấy phút sau, đại tá Gray và
lính thủy đặt bom nổ chậm và bom cháy vào các hầm nhà rồi chạy lên máy bay. Máy
bay vừa cất cánh thì lửa đã bao phủ các ngôi nhà. Sức nóng rất cao, đến nỗi mái
nhà vững như thép của đồn lũy chỉ huy Hoa Kỳ ở Việt Nam sụp đổ như tấm sắt tây.
Trước 12 giờ đêm, Martin mặt trắng bệch ra sân sứ quán. Cùng
với mấy cộng tác viên, ông cho gọi người Mỹ vào trong nhà. Chú lính thủy
vừa được tin của đài cộng sản loan báo cuộc tiến công vào Sài Gòn bắt đầu. Đúng
như thế. Cách đó 8 kilômét về phía Nam, tướng Văn Tiến Dũng đã chuẩn bị xong.
Trong lúc đó, Kissinger gặp các nhà báo ở bộ ngoại giao, cuộc di tản tiến hành
tốt. Nếu họ muốn, ông sẽ gặp lại họ vào hồi 14 giờ. Ông sẽ báo tin tất cả người
Mỹ đều đã rời Sài Gòn. Kissinger trở lại phòng tác chiến ở Nhà Trắng thì đã 0
giờ 45 phút, giờ Sài Gòn.
Người Mỹ trú trong hầm sứ quán bắt đầu nghĩ lại. Sau này,
Moorefield kể: "Không ai bảo chúng tôi làm việc nhưng chỉ mấy phút, chúng
tôi thấy cộng sản chưa tiến công, thì tốt hơn hết, lợi dụng lúc này, tiếp tục
cho di tản”. Còn bao nhiêu người tị nạn ở sứ quán Martin cũng không biết. Để
làm yên lòng hai đô đốc, ông bịa ra con số! Còn 500 người Việt Nam, 75 người Mỹ.
Dựa vào hai con số đó, lực lượng can thiệp ở Thái Lan nhanh chóng cho máy bay
sang. Họ tính thêm 9 máy bay CH.53 nhà thì chở hết dân thường ở sứ quán. Nghe
thấy thế, Martin sợ phiền, lại vội vàng điện về Nhà Trắng, báo cáo: Sứ quán còn
một nghìn người Việt Nam, gấp đôi số người mà ông dự đoán trước đó. Ngoài sân,
đại tá Madison và bốn sĩ quan nữa thuộc ủy ban quân sự hỗn hợp đi qua đám đông.
Đại tá Sumniers, người phó của ông, vớ lấy máy phát thanh: "Bình tĩnh,
bình tĩnh. Chúng tôi ở lại đây, và sẽ đi sau bà con".
Một giờ sáng, viên chức cao cấp của sứ quán ở lại để cùng đi
với Martin, không còn biết làm việc gì nữa. Sài Gòn đang hấp hối. Pittman đi
tìm một thùng lạc rang bơ, mong giữ vững tinh thần mọi người. Polgar đi từ
phòng này sang phòng khác. Lehmann và mấy người nữa thay nhau nghe dây nói.
Lehmann chợt nghe tiếng cầu cứu của một nhóm 50 nhân viên cơ quan thông tin Mỹ
do Carter bỏ lại. Cùng lúc ấy giám đốc IBM (cơ quan máy tính) ở Bangkok
cũng điện và đề nghị cho nhân viên của họ di tản. Nhưng không còn có thể làm gì
được nữa cho nhân viên thông tin cũng như cho người giúp việc của IBM!
Morefield kể lại: "Có lúc không hiểu vì sao tôi lại vào
phòng đại sứ. Vì tò mò chăng? Một lần tôi thấy Boudrau nói chuyện bằng dây nói
với một phụ nữ Việt Nam, chị này cho biết chị có hộ chiếu Mỹ và ba đứa con lai
Mỹ, chị hỏi khi nào chị đến được sứ quán để di tản. Boudreau tuy biết rằng hết
hy vọng rồi nhưng vẫn trả lời: Sớm mai đến. Tôi trông theo đại sứ một lúc. Tiếng
khàn, ông không nói được rõ. Có vẻ rất mệt. Tôi muốn giúp ông nhưng lại thôi.
Tôi đi vòng quanh sứ quán lần cuối cùng. Trong khi đó, Martin mặc dù đau yếu, vẫn
cố tranh thủ thì giờ. Ở Hoa Thịnh Đơn, Kissinger nổi giận và sốt ruột, cứ nửa
giờ, lại có tin tức. Có gì mới không? Tình hình bây giờ như thế nào? Mấy viên
chức trẻ đứng chung quanh bắt đầu chế giễu: "Ông già Martin vừa cho di tản
sáu trăm người cuối cùng của bốn trăm người di tản!".
Nhưng Martin lại xin thêm được một thời hạn: 3 giờ 45 phút,
giờ Sài Gòn, chấm dứt. Không thêm một phút. Kissinger hoãn cuộc họp báo đến 17
giờ (giờ Hoa Thịnh Đốn). Ông nói với Martin qua điện thoại: tôi muốn trông thấy
ông trên chuyến bay tới là chuyến bay cuối cùng. Các vị anh hùng phải trở về.
Trên lầu sáu, đứng dưới nơi đỗ của máy bay lên thẳng. Tom Polgar ngồi trong
phòng làm việc trong trơn, trước chiếc máy chữ cũ kỹ. Ông vừa đánh xong một bức
điện gửi Hoa Thịnh Đốn, bức điện lịch sử như ông đã nhấn mạnh trong những câu đầu:
"Đã nhận được lệnh của tổng thống chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 45 phút,
giờ địa phương ngày 30 tháng 4”. Muốn hỏi xem có phải là thông điệp cuối cùng gửi
chi nhánh Sài Gòn không?
Phải mất 20 phút mới phá hủy được máy móc ở đây. Đến 3
giờ 20 phút, giờ địa phương, chúng tôi sẽ chấm dứt việc liên lạc". Đoạn
sau có một nội dung rất triết lý. Ông biết rằng ông viết đây là cho thế hệ mai
sau. Nhưng cũng như nhiều bức điện trước ông gửi về Hoa Thịnh Đốn trong mấy tuần
qua, những điều ông viết chỉ phản ảnh ảo tưởng của ông, chứ không nói về hoàn cảnh,
về thực tế lúc bấy giờ. Nay cũng vậy, Polgar cho rằng sự bủn xỉn của quốc hội,
những biện pháp nhỏ nhen nửa vời (danh từ, tính từ ông thích dùng, đã gây nên sự
đổ vỡ của chế độ Sài Gòn). Ông viết: "Đó là một cuộc chiến đấu lâu dài và
khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc không
báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt”. Nhưng sự nghiêm trọng
của thất bại vào hoàn cảnh đưa đến thất bại, buộc chúng ta phải nghiên cứu sâu
sắc chính sách, biện pháp nhỏ nhen, nửa vời của chúng ta thường áp dụng trong sự
can thiệp của chúng ta vào nước này mặc dù chúng ta đã ném vào đây bao nhiêu
người và tiền của. Ai không học gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải nhắc lại lịch sử.
Mong rằng chúng ta không phải học thêm kinh nghiệm của một Việt Nam khác mà nhớ
đời bài học này! Chấm dứt liên lạc của Sài Gòn".
Ở Hoa Thịnh Đốn, gần lúc ấy, Colby, giám đốc cục tình báo
trung ương CIA, cũng gửi điện cuối cùng cho Polgar. Bức điện ấy cũng đáng ghi
nhớ vì nội dung của nó. Colby viết: "Chúng ta sắp kết thúc việc thông tin
với Sài Gòn. Nhân dịp này, tôi muốn bày tỏ niềm tự hào và sự bằng lòng của mình
đối với chi nhánh về công việc các đại diện nó đã làm. Trong hai mươi năm tồn tại,
chưa bao giờ sự thật nổi bật như trong mấy tuần gần đây. Dũng cảm, liêm khiết;
hy sinh và năng lực cao, những đức tính mà các nhân viên chi nhánh có trong những
năm qua, giờ đây đã vượt mức, nhất là trong giai đoạn cuối cùng này. Hàng nghìn
người Việt Nam được cứu sống và có tương lai nhờ sự nỗ lực của các ông. Chính
phủ ta, từ những báo cáo rõ rệt gửi về, đã rút ra đều bổ ích lớn. Một
ngày kia, sẽ học tập một cách kính nể, thái độ của các ông trong việc bảo vệ những
mục tiêu và lý tưởng của đất nước. May mắn và rất cảm ơn".
Trước ba giờ sáng, cầu hàng không ở sứ quán lại chặn lại.
Sợ lính Mỹ quá mệt, Martin xin thêm sáu máy bay trực thăng lớn CH.53. Whitmire
bất đắc dĩ phải đồng ý. Sáu chiếc mau chóng lần lượt bay đi trong 40 phút. Nhân
viên thông tin liên lạc còn ở lại sứ quán, phá hủy những máy cuối cùng và lên lầu
sáu, xếp hàng cùng với những người đang đứng đợi.
3 giờ 45 phút, kết thúc cuộc di tản, Martin đi ra sân sứ
quán, nhìn nhanh đám đông, ra hiệu cho đại tá Madison: "Những người Việt
Nam còn lại sẽ đi bằng máy bay CH.53. Ai còn chờ trong sứ quán thì ra sân đợi.
Cầu hàng không trên mái nhà dành riêng cho người Mỹ”.
Thông tin liên lạc từ sứ quán với thế giới đã bị cắt. Giao
thiệp với bên ngoài chỉ còn có máy vô tuyến điện của lính thủy nhưng phải chờ
phi công máy bay lên thẳng chuyển. Nói chuyện với hạm đội, như vậy khá chậm và
phức tạp nhưng cũng thu xếp được. Do đó, những lời khiển trách của Kissinger
hay Whitmire sẽ còn lâu mới đến! Madison chia những người Việt Nam ra ngoài sân
thành những nhóm nhỏ, mỗi nhóm ngồi chờ một máy bay CH.53. Mấy phút sau, anh
báo cho Lehmann ở trong phòng đại sứ biết: Thêm sáu máy bay CH.53 là vừa đủ.
Hai mươi phút nữa là công việc hoàn thành.
4 giờ 20 phút, một máy bay CH.53 tới. Madison cho người Việt
Nam lên, máy bay bay đi, và kíp của anh đợi chiếc máy bay sau. Nhưng, ở đằng
kia cầu hàng không, Gays và Whitmire đã quyết định chấm dứt trò chơi của
Martin. Các ông hiểu rằng đại sứ cứ muốn lùi dần giờ kết thúc, mỗi lần Martin đều
viện cớ còn quá nhiều người Việt Nam v.v... Mà lệnh của Nhà Trắng rất rõ
ràng: Cầu hàng không ngừng lúc bản thân Martin chưa được di tản!
Morefield kể lại: Lúc đó không có máy bay nào cả, ngoài sân
cũng như trên mái nhà. Tôi đếm người ngoài sân: Còn hơn bốn trăm. Phải xin thêm
mấy máy bay nữa mới chở hết. Lại còn mấy người Triều Tiên, người Philippines nữa.
Lợi dụng lúc đáng buồn ấy tôi xuống lầu sáu. Trung tá Kean vừa nhận được tin của
hạm đội Nghiêm chỉnh, ông dõng dạc tuyên bố với những người chung quanh: “Tôi vừa
nhận được điện của Nhà Trắng. Tổng thống ra lệnh: Từ lúc này, nhân viên sứ quán
phải di tản!... không được ồn". Ông nhắc thêm làm như chúng tôi còn sức để
quấy phá. Tôi nhớ lúc ấy, tôi quay lại bảo Jay Blowers, giọng châm biếm:
"Không được ồn! Chỉ những người Mỹ được di tản từ giờ này. Chúng ta không
di tản ai hết!". Tôi lại lên mái nhà, đếm người dưới sân: Hơn bốn trăm người.
Tôi biết chắc rằng không ai được đi nữa".
Ảnh: Không còn chỗ hạ cánh xuống tàu Midway,
một phi công bỏ
máy bay nhảy xuống biển
Lúc ấy, Brunson Mc Kingsley, cánh tay phải của đại sứ chưa biết
quyết định của Whitmire. Anh ở ngoài sân và hứa với Medison và Summers sẽ xin
thêm máy bay. Hai sĩ quan ra nói lại với đám đông.
John Pittman đang ngồi ngủ trong phòng làm việc của đại sứ.
Trung tá Kean vào đánh thức anh dậy, anh chìa bức điện của Nhà Trắng ra: Tổng
thống ra lệnh cho đại sứ phải đi chuyến này! Martin nhún vai, cầm vali, nói với
mọi người: "Xong, ta đi" rồi tiến đến cầu thang máy. Nhiều cộng tác
viên đi theo: Polgar, Pittman, Jacobson, John Bennett thuộc cơ quan AID, Joe
Bennett, cố vấn chính trị và Brunson Mc Kingsley, Lehmann, Boudreau và Jim
Devine chờ chuyến sau.
Moorefield kể lại: "Tôi nằm dài trên mái nhà, gần cầu
thang phụ, đợi chuyến máy bay sau. Tôi thấy ồn ào trong cầu thang chính. Mặc dù
đêm tối, tôi trông rõ Polgar, Mc Kingsley và đại sứ. Tôi ngồi xổm dậy và
cho 28 người lên nhưng khốn khổ lại chưa có đại sứ. Mấy phút sau, máy bay đỗ xuống.
Tôi báo nhóm người đi qua mái nhà để lên máy bay. Nhưng lính thuỷ và phi công
cãi nhau bên tiếng rú của cánh quạt: "Nhà Trắng ra lệnh đại sứ đi chiếc
máy bay này, thế mà tôi lại không mời ông lên trước, tôi dám coi thường...".
Tôi liền quay lại cầu thang tìm Martin. Tôi có cảm giác ông không hiểu tôi nói
gì. Ông nhìn tôi vẻ chế giễu. Cách nhìn của ông, anh biết rồi đấy. Rồi ông lắc
đầu. Ông không hiểu. Ông có vẻ bực mình với tôi. Máy bay đậu tại chỗ, không
chuyển động mấy phút, phi công nói chuyện với hạm đội. Sau cùng, ai đó kêu lên:
"Lệnh là lệnh. Đại sứ phải lên. Mà lên ngay vì có thể quân đội Bắc Việt
Nam đã ở dưới đường. Họ sẽ nổi giận và bắn chúng ta nếu họ thấy chiếc máy bay đỗ
ở đây khá lâu” .
Tôi lại quay lại cầu thang và đưa đại sứ đến cửa máy bay. Khi
tôi đỡ ông bước qua cửa, ông xanh sao, vàng vọt, yếu ớt kinh khủng. Máy bay bay
lên, tôi quay lại cầu thang, nói với Polgar và mọi người: Sắp đến lượt các ông.
Một máy bay khác tới, họ lên máy bay. Tôi ra mép mái nhà nhìn xuống sân. Đại tá
Summers và Madison vẫn ở dưới đấy với những người tị nạn còn lại. Tôi nghĩ
không thể nào giúp họ được nữa. Mọi việc đã xong..
Trên sân, Summers tự hỏi: Những chiếc máy bay hứa hẹn đâu?
Trung tá Kean sau cùng mới cho ông biết chỉ còn máy bay chở lính thủy và nhân
viên sứ quán, sĩ quan quân đội còn lại thôi. Nghe thấy thế, Madison rất bực
mình. Nghiến răng, ông nói: Chỉ cần sáu máy bay là có thể chở hết, tôi chưa đi
nếu còn người ở lại. Đại sứ đâu? Phải đến nói với ông ta! Kean lắc đầu, thở
dài: "Đại sứ vừa đi rồi. Tất cả người Mỹ đều đi!" Madison không tin
vào tai mình nữa. Không đầy nửa giờ trước, Lechmann và Mc Kingsley nói với
ông có đủ máy bay cho người di tản Việt Nam. Thế mà bây giờ? Bực mình. Madison
nhìn thẳng vào mặt Kean. Ông nói dằn từng tiếng một: Anh và nhóm của anh không
ai đi cả nếu những người Việt Nam ở đây không dược di tản. Kean và kíp của anh
phải bảo vệ những người này cho đến khi họ được đi. Kean lắc đầu một lần nữa: Tổng
thống đã ra lệnh cho đại sứ đi ngay và chấm dứt cuộc di tản. Anh không muốn làm
trái lệnh tổng thống. Cũng không muốn người của anh bị nguy hiểm thêm. Nói
xong, anh quay gót, ra lệnh cho lính thuỷ tập họp trong sứ quán.
Madison chỉ còn bốn sĩ quan bộ binh. Ít quá để có thể bảo
vệ được tất cả người trong sứ quán. Không có sự giúp đỡ của Kean, ông chẳng còn
làm gì được. Chỉ còn một cách là rút lui. Ông ra hiệu cho mấy sĩ quan, lẳng lặng
đi vào sứ quán. Trong bản báo cáo cuối cùng về việc di tản, Madison viết:
"Còn 420 người nữa, chỉ cần sáu máy bay là đủ để di tản họ. Trong số này
có nhân viên sứ quán Nam Triều Tiên, đứng đầu là thiếu tướng Rhee Dai Yong;
nhân viên sứ quán chủ yếu là những người chữa cháy xung quanh ở lại cho đến chiếc
máy bay cuối cùng, đề phòng hỏa hoạn xảy ra; một linh mục Đức đang trông nom một
số người tị nạn và nhiều người giúp việc sứ quán và gia đình họ. Ngoài ra còn
có nhiều nhân vật chính trị quan trọng của Nam Việt Nam như cựu bộ trưởng tài
chính chính phủ Thiệu. Tất cả những người trên, theo lệnh của chúng ta, đã bỏ tất
cả hành lý ở lại để được di tản dễ dàng”.
Morefield là người cuối cùng rời sứ quán. Lúc chiếc máy bay
chở anh đi bay lên, anh nhìn đồng hồ: 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4 năm
1975. Morefield kể lại: "Lúc máy bay bay trên bầu trời Sài Gòn, tôi
cố ghi trong đầu cảnh thành phố lúc bấy giờ. Một vùng ngoại ô Mỹ đâu đó. Bình
yên, phẳng lặng. Trừ một vài đám cháy ở đằng xa. 45 phút sau, chúng tôi
đã ở trên tàu. Mặt trời ló sáng. Một đoàn tàu đánh cá chở đầy người tị nạn đậu
dài bên bờ biển. Chúng tôi vừa đặt chân xuống boong tàu thì sĩ quan an ninh hải
quân đã tước súng chúng tôi. Tôi không có thẻ căn cước trong người.
Họ hỏi tôi là ai. Có người nào báo lãnh cho tôi không. Lính thủy đi ra bệ tàu,
vứt vũ khí của chúng tôi xuống biển".
Ảnh: Nguyễn Cao Kỳ trên tàu Midway
Lên tàu USS Okinawa, đại tá Madison còn cố thuyết phục viên
tư lệnh một phi đội máy bay lên thẳng cho sáu chiếc đi cứu người tị nạn ở sứ
quán Mỹ tại Sài Gòn. Không ăn thua gì.
5 giờ 30 phút, giờ địa phương, tiểu đoàn xe tăng 205 của Bắc
Việt Nam vượt cầu Tân Cảng, tiến vào Sài Gòn. Người chỉ huy nghiên cứu cẩn thận
bản đồ để nhằm mục tiêu chính, Dinh tổng thống. Một lúc sau, đô đốc Gayler,
theo dõi ở Honolulu cuộc tiến công của quân cộng sản đã ra lệnh cho một máy bay
lên thẳng vũ trang đến Sài Gòn đề bảo vệ lính thủy đang phá hủy nốt số vũ khí ở
đấy!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét