1. Buổi sáng ấy trời đẹp lạ lùng. Gần đến mười giờ, nắng vẫn rất
dịu. Những đám mây lông ngỗng phơ phất bay tản mát khắp bầu trời. Từng cụm, từng
cụm mây bông nõn, mỏng tang trôi chầm chậm trên nền trời xanh thẳm, trong vắt.
Gió vi vút thổi. Có thể nhận ra từng đợt gió trườn đi nhẹ nhàng trên cánh đồng
qua từng đợt sóng lúa lúc xanh đậm, lúc hoe vàng cuồn cuộn xô dạt tới nơi xa
tít tắp.
Con tàu sầm sập sầm sập lao đi giữa một vùng đồng bằng phì
nhiêu. Thỉnh thoảng nó lại rú lên một hồi còi lảnh lói đầy kiêu hãnh. Khói tàu
trắng xóa cuồn cuộn phun lên rồi nhanh chóng nhạt nhòa trong không gian.
Tôi nài nỉ thầy Tín cho tôi được ngồi sát bên cửa sổ. Đây là
lần đầu tiên tôi được đi tàu. Tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan mới được
khôi phục trước đây ít lâu. Hòa bình mới được trở lại sau chín năm kháng chiến
chống thực dân Pháp đầy hy sinh gian khổ. Không khí náo nức của những ngày hòa
bình đầu tiên vẫn đang chan hòa khắp nơi khắp chốn. Đâu đâu cũng vang lên câu
hát: “Trùng trùng say trong câu hát. Lớp lớp đoàn quân tiến về…”, “Bồ câu tung
cánh bay trên nền trời xuân thắm tươi. Lòng hân hoan sướng vui đón hòa bình ca
vang khắp nơi…”. Ngồi bên cửa sổ, tôi thỏa sức nhìn ra cánh đồng. Ở những cánh
đồng ruộng trũng, lúa xanh mơn mởn. Trên những thửa ruộng cao, người cày, người
cuốc, người tát nước, người gieo hạt… Những chú bé chăn trâu chăn bò nhảy cẫng
lên reo hò đến khản giọng chào đón con tàu. Có chú còn chạy đuổi theo một thôi
dài. Bọn bò bê nhiều con cũng thôi gặm cỏ, nghếch mặt lên nhìn theo đoàn tàu,
miệng bỏm bẻm nhai, đôi mắt ngơ ngác. Ở đầu các bờ ruộng, đây đó cắm những lá cờ
đỏ sao vàng, cờ hòa bình xanh da trời ở giữa có con chim bồ câu trắng tung cánh
bay. Trên nóc một lô cốt cũ kề bên một xóm nhỏ, người phụ nữ trẻ đang phơi
thóc. Trên con đường nhựa chạy song song với đường sắt, những chiếc ô tô hàng
lao vun vút, có hành khách nhoài ra cửa xe vẫy đoàn tàu. Mấy chiếc xe bò chở gạch,
chở cát đủng đỉnh, chiếc nào cũng cắm cờ đỏ, cờ xanh trên thành xe. Một đoàn
thiếu nhi đang diễu hành, tiếng chiêng trống rộn ràng, biểu ngữ, cờ hoa tưng bừng.
Trông thấy đoàn tàu, đám thiếu nhi cùng nhảy lên hò reo, tiếng trống, tiếng kèn
náo động hẳn lên. Để đáp lại nhiệt tình của lũ nhỏ, con tàu rú lên một hồi còi
dài đầy phấn khích.
Tôi như mê đi trước bao cảnh vật mới lạ đang hiển hiện ra trước
mắt. Quang cảnh rộn ràng náo nức của những ngày hòa bình đầu tiên ấy in sâu mãi
mãi vào ký ức tôi, suốt đời không thể nào quên. Con tàu vẫn sầm sập lăn bánh. Cả
một không gian rộng lớn đang xoay vòng xung quanh tôi. Cánh đồng trải rộng hút
tầm mắt, những lũy tre mờ xa, những hàng cây phi lao, cây xà cừ ven đường, những
ngôi nhà, những con người đang mải mê cày cuốc…, tất cả đang xoay vòng, đang
lùi lại dần ở phía sau. Con tàu kiêu hãnh như một nàng công chúa đang ung dung
dạo gót trước sự ngưỡng mộ của đất trời, của con người. Tôi đắm chìm trong một
cảm giác ngây ngất trước bao cảnh đẹp mới lạ lần đầu tiên được thấy.
- Này, chú bé mơ mộng, nghĩ gì mà đăm chiêu thế? - Thầy Tín vỗ
nhẹ vai tôi, đưa tôi trở về thực tại.
Tôi chớp chớp mắt, mỉm cười ngượng nghịu:
- Đẹp quá, thầy nhỉ?
- Sắp đến thị xã Bắc Ninh rồi đấy. Quá lên mạn trên nữa, cảnh
vật còn đa dạng hơn. Có đồi núi, có sông, có những xóm làng vùng bán sơn địa, đẹp
hơn nhiều.
- Thế bao giờ thì đến thị xã Bắc Giang ạ?
- Hơn một tiếng đồng hồ nữa thôi…
Thầy Tín kể cho tôi nghe về thị xã Bắc Giang, nơi chúng tôi sắp
sửa đến. Thầy kể về tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan vừa mới được khôi phục
mấy tháng trước. Rồi đây, tuyến đường sắt này còn kéo dài thêm nhiều nữa. Trước
mắt, sẽ vượt qua biên giới, nối đến Bằng Tường của Trung Quốc. Rồi Bắc Kinh. Rồi
Ulan Bato của Mông Cổ. Rồi Mạc Tư Khoa của Liên Xô. Rồi các nước dân chủ nhân
dân ở Đông Âu, những Ba Lan, Tiệp Khắc, Hunggari, Rumani, Cộng hòa dân chủ Đức…
Thầy nói hào hứng. Tôi mê mải lắng nghe như muốn nuốt lấy từng
lời nói của thầy. Viễn cảnh về một tương lai vô cùng đẹp đẽ mở rộng trước mắt
tôi. Tôi lại nhìn ra ngoài cánh đồng đang chầm chậm xoay tròn. Những cánh đồng
lúa xanh bát ngát. Những luống cày đang được lật lên, màu đất nâu ẩm ướt màu mỡ.
Những thửa ruộng đang bắt đầu được trồng ngô, trồng khoai, màu xanh non còn
loáng thoáng, chưa phủ kín đất. Chỗ này người lúi húi tra đỗ, tra lạc, chỗ kia
người vung tay gieo hạt… Đất nước cũng giống như cánh đồng đang cày vỡ kia, còn
biết bao ngổn ngang, dang dở nhưng rồi đây sẽ xanh tươi, sẽ trù phú, sẽ được hồi
sinh, đó là một điều chắc chắn…
Lòng náo nức, tôi hồi hộp chuẩn bị bước vào những ngày mới. Lần
này, tôi xa nhà, lên Bắc Giang trọ học. Gia đình tôi sống ở Hà Nội. Riêng mình
tôi, mười ba tuổi, xa nhà lên trọ học ở Bắc Giang cũng là có nguyên do, sau này
tôi sẽ kể kỹ hơn. Một trong những nguyên do đó là trường Ngô Sĩ Liên, nơi tôi sắp
đến học lớp năm, vốn là trường các anh chị tôi đã từng học từ ngày còn kháng
chiến. Hòa bình lập lại, các anh chị tôi người đi bộ đội, người học Sư phạm,
người về Hà Nội học tiếp. Các thầy giáo, cô giáo của nhà trường biết rõ hoàn cảnh
gia đình tôi, rất yêu quý các anh chị tôi, nên khi chị cả tôi xin cho tôi vào học,
các thầy giáo, cô giáo vui vẻ nhận lời ngay. Thầy Tín vốn là bộ đội, sau khi giải
ngũ, thầy về làm giáo viên dạy môn chính trị và giáo dục công dân ở trường. Thầy
đặc biệt thân thiết với các anh chị tôi vốn là những học trò xuất sắc của thầy.
Nhân có việc về Hà Nội lo công chuyện của nhà trường, thầy ghé thăm gia đình
tôi, tiện thể đón tôi cùng đi luôn. Mẹ tôi mất sớm, khi tôi mới lên bảy tuổi, từ
đó tôi đã từng sống ở nhiều nơi, nay với ông bà, mai với chú thím… nên lần này
đi xa, tôi cũng không bỡ ngỡ, lo lắng lắm. Thầy Tín bảo thầy sẽ gửi tôi vào sống
cùng một nhóm mấy anh em học sinh nghèo, có những hoàn cảnh khó khăn đặc biệt
nên rất yêu thương gắn bó với nhau. Trong số đó có mấy anh biết anh chị tôi nên
tôi càng yên tâm hơn.
Con tàu bắt đầu đi vào một vùng bán sơn địa. Những xóm nghèo ở
rải rác mỗi nơi dăm bảy nóc nhà tường đất thấp, mái rạ cũ kỹ ẩn dưới những lùm
tre lơ phơ vàng hoe. Những ngọn đồi đất đỏ đầy sỏi đá, những bụi sim, bụi mua,
những lau lách vốn không xa lạ gì đối với tôi trong những năm tháng tản cư ở
vùng đồi núi Yên Thế trước đây… Xa xa, những ngọn đồi như bát úp, ngọn giống
hình con rùa, ngọn giống hình con voi nằm phủ phục. Bên phía tay phải, một rặng
núi dài án ngữ nơi chân trời. Thầy Tín bảo tôi: “Núi Neo đấy! Cả thẩy có chín
mươi chín ngọn. Sự tích hay lắm. Để hôm nào thầy kể cho mà nghe”. Rồi sông
Thương hiện ra trước mắt. Con “sông Thương nước chảy đôi dòng” tôi đã từng được
nghe nói đến nhiều, bây giờ đang ở ngay trước mặt tôi kia. Trên bến dưới thuyền
tấp nập. Không khí làm ăn, xây dựng rộn ràng lây cả sang tôi, làm tôi cũng thấy
náo nức theo.
Thầy Tín bảo tôi:
- Tới nơi rồi đó, em! Ta chuẩn bị xuống tàu.
Tự nhiên tôi bỗng thấy hơi ngần ngại, thoáng lo sợ. Sắp tới
đây, tôi sẽ gặp gỡ những ai? Những ngày tới tôi sẽ sống thế nào? Tôi thầm ước
giá mình cứ được ngồi trên tàu lâu thêm chút nữa, kéo dài thêm cảm giác lâng
lâng của một chuyến dạo chơi đầy thú vị. Nhưng thầy Tín đã đứng lên, lấy trên
giá để hành lý xuống chiếc ba lô, quàng lên vai tôi, nắm tay tôi đi dần ra cửa
toa.
2. Ở ga xuống, thầy Tín đưa tôi về khu tập thể giáo viên của nhà
trường, nơi thầy có một căn phòng nhỏ ở cuối dãy. Trước mặt khu tập thể là trường
học gồm mười mấy ngôi nhà vách đất, lợp lá gồi, chạy song song với nhau, ngôi nọ
cách ngôi kia chừng bốn, năm mét. Đang giờ học buổi chiều. Học sinh ngồi đầy
trong các lớp nhưng rất yên tĩnh. Chỉ thấy vang lên tiếng các thầy cô đang giảng
bài.
Khu tập thể vắng tanh. Tôi thầm mừng mình đến đúng vào lúc
các thầy cô giáo đang lên lớp. Nếu không, tôi sẽ rất lúng túng trước các thầy
cô giáo lạ. Chợt một người phụ nữ cao lớn, tóc cắt ngắn đi tới. Vừa mở khóa
phòng, thầy Tín vừa cười xởi lởi:
- Hôm nay chị không có giờ lên lớp hở chị Kim?
- Tôi vừa dạy xong hai tiết đầu. Thế nào, anh đi Hà Nội có được
việc không? Lại có chú bé nào thế kia?
- Cậu Thiện, em cô Trọng, cô Ngà học sinh cũ của trường, chị
còn nhớ không?
Cô Kim cười, để lộ chiếc răng khểnh làm vẻ mặt cô thêm tươi
và gần gũi:
- Nhớ chứ sao quên được! - Rồi cô quay sang tôi, vồn vã. -
Các anh chị có khỏe không em? Lâu quá cô cũng chưa gặp lại cái Trọng, cái Ngà,
thằng Hiệu. Chắc em lên đây học trường cũ của các anh chị cho tiện hả?
Tôi ấp úng chưa kịp trả lời thì thầy Tín đã đỡ lời:
- Đúng đấy chị Kim ạ. Cô Trọng đã trình bày mọi chuyện với
anh Lê Minh hiệu trưởng từ mấy tháng trước rồi. Anh Lê Minh đã đồng ý. Nhân tôi
về Hà Nội, cô Trọng nhờ tôi đón Thiện đi luôn.
Cô Kim hỏi tôi:
- Thiện học lớp mấy rồi?
- Dạ thưa cô, em học lớp năm.
- Vậy là vào đúng lớp cô làm chủ nhiệm. Sáng mai em bắt đầu
lên lớp được chưa?
- Dạ, được ạ! - Tôi đáp lí nhí.
Như chợt nhớ ra điều gì, cô quay sang hỏi thầy Tín:
- Anh Tín đã thu xếp cho em nó ở đâu chưa?
Thầy Tín cười vui vẻ:
- Tôi đã tính sẵn hết rồi. Định để Thiện ở với cậu Nhu, cậu
Hoàng. Các cậu ấy rất tốt, lại là bạn cũ cùng lớp của cô Trọng, cô Ngà.
Cô Kim mừng rỡ hiện rõ ra nét mặt:
- Thế thì yên tâm rồi. Lại ở ngay gần trường, qua lại cũng tiện.
- Chợt giọng cô thảng thốt. - À, mà hai thầy trò đã cơm nước gì chưa? Chắc mới
xuống tàu, chưa ăn gì phải không? Thôi, hai thầy trò rửa ráy chân tay rồi sang
bên tôi ăn cơm luôn thể. Tôi cũng đã ăn uống gì đâu. Hôm nay nhà có món riêu
cua ăn mát ruột lắm.
Sau khi ăn cơm ở nhà cô Kim xong, thầy Tín dẫn tôi đi gặp anh
Nhu. Tôi định xách ba lô theo, nhưng thầy ngăn lại:
- Mình cứ sang tay không đã em ạ. Giờ này không biết mấy anh
em bên đó có nhà không?
Tưởng đi đâu xa, hóa ra nhà mấy anh trọ ở liền kề ngay trường
học, chỉ cách một bờ rào bằng nứa. Trước khi sang, để cho chắc ăn, thầy Tín đứng
trên hiên nhà, gọi với sang qua hàng rào:
- Cậu Nhu có nhà không đấy?
- Ai đấy? Ai gọi Nhu đấy? - Tiếng đáp lại gần như liền tức
thì, cứ như là người trả lời đã chờ sẵn câu gọi từ lâu.
Một anh người cao, có khuôn mặt chữ điền từ trong nhà chạy
ra. Tôi chợt giật mình. Đúng là anh Nhu rồi. Anh Nhu ngày trước… Ban sáng nghe
thầy Tín nói, tôi đã hơi ngờ ngợ nhưng chưa dám tin hẳn. Tôi cứ nghĩ hòa bình rồi,
anh sẽ về quê… Anh Nhu cũng nhận ngay ra tôi. Anh reo lên:
- Thiện đấy à? Em lên đây bao giờ? Ai đưa em lên?
- Tôi chứ ai! - Thầy Tín cười khà khà, nheo mắt hỏi cả tôi và
anh Nhu. - Thế ra hai anh em đã biết nhau từ trước rồi à?
Anh Nhu cũng cười:
- Vâng ạ. Thằng Thiện thì em còn lạ gì. Chị Trọng, chị Ngà,
anh Hiệu có khỏe không em? Sao các anh chị em không lên chơi luôn thể?
Thầy Tín nói thay tôi:
- Vừa mới đầu năm học, ai mà bỏ đi chơi được? Tiện tôi về Hà
Nội, kéo cậu này đi theo luôn. Nhu à, Thiện ở đây với bọn em, được không?
- Được quá đi chứ ạ. Thầy cứ để Thiện ở với chúng em. Thằng
này nó hiền và ngoan lắm. Từ lâu em đã rất quý nó.
Thầy Tín bảo tôi chạy vào nhà lấy ba lô quần áo rồi thầy dẫn
tôi sang bên anh Nhu. Giọng thầy vui vẻ:
- Thầy trò mình phải vòng ra phía cổng chính em ạ. Thật đúng
là gần nhà xa ngõ.
Ngôi nhà bọn anh Nhu ở trọ nhỏ xíu, chỉ có một gian hai chái,
vách đất, mái rạ. Anh Nhu ra tận ngoài đầu ngõ đón hai thầy trò tôi. Anh vồn vã
nắm vai tôi, xách chiếc ba lô giùm tôi. Anh cười khôi hài:
- Gớm! Người thì mảnh dẻ còn chiếc ba lô sao mà nặng thế! Về
đây, về đây ở với bọn anh.
Bước vào trong nhà, hầu như chẳng có đồ đạc gì đáng kể. Anh
Nhu chỉ về phía góc trái ngôi nhà, giới thiệu:
- Đây là giường của bà Muộn, chủ nhà. Bà cụ chỉ sống có một
mình, ngày ngày chăm sóc mấy sào ruộng. Bà cụ cho bốn đứa chúng em ở nhờ. Chúng
em ăn ngủ gian bên này. Chiếc chõng giữa nhà, vừa để tiếp khách, vừa là bàn học.
Tối nào nóng quá, bọn em dựng chõng lên, trải chiếu nằm ngủ luôn. Bà cụ tốt
tính lắm, coi chúng em như con. Để chiều bà cụ về, em sẽ thưa qua bà một tiếng,
xin phép cho Thiện ở cùng với chúng em, chắc bà cụ cũng vui lòng thôi.
Thầy Tín hơi sững lại:
- Ờ, tôi cũng sơ suất thật. Đáng lý ra mình nên xin phép bà cụ
trước, sau đó dẫn Thiện đến, như vậy thuận hơn.
Anh Nhu cười xuề xòa, trấn an thầy giáo:
- Không lo, thầy ạ. Bà cụ dễ tính lắm. Mộc mạc, chất phác, em
thuyết phục được ngay mà! - Chợt anh hốt hoảng kêu lên. - Ấy chết! Em vô ý quá.
Từ nãy đến giờ cứ để thầy và em Thiện phải đứng. Mời thầy ngồi uống nước ạ.
Anh chạy xuống bếp, mang ra mấy chiếc bát ăn cơm và chiếc ấm
đất. Mặt đỏ bừng, vừa rót nước, anh vừa phân bua:
- Mong thầy thông cảm. Bọn em chẳng có ấm chén gì… Nhưng nước
vối thì uống lành lắm thầy ạ.
Vừa uống nước, tôi vừa quan sát xung quanh. Bà chủ nhà chắc
cũng nghèo. Đồ đạc ngoài chăn màn xếp ở đầu giường, chỉ còn một chiếc hòm gian
nhỏ kê bên góc, kế đó là bồ thóc, mấy thúng mủng và một chạn để thức ăn nhỏ.
Gian của mấy anh còn sơ sài hơn: Quần áo, chăn màn để ở góc giường; sát mái
nhà, gác mấy thanh tre làm thành một cái kệ để sách vở. Ở một góc nhà có giăng
một sợi dây mây, trên vắt tạm bợ mấy bộ quần áo.
Thầy Tín lắc đầu:
- Đừng để quần áo thế này, Nhu ạ. Muỗi nhiều lắm.
- Vâng, em đã nói mấy lần, các cậu ấy chứng nào vẫn tật nấy.
Vừa nói, anh Nhu vừa rút quần áo trên dây xuống. Anh vừa động
tay vào, mấy con muỗi đã vo ve bay lên.
Có tiếng léo xéo ngoài ngõ. Anh Nhu cười bảo tôi:
- Thiện có bạn chơi rồi đấy. Thằng Bảo đã đi học về. À, quên
khuấy đi mất. Em học lớp mấy rồi nhỉ? Lớp năm à? Vậy là vừa khéo. Thằng Bảo
cũng lớp năm; lớp cô Kim làm chủ nhiệm đấy.
- Ai nói vụng trộm gì về “lão mỗ” đấy?
Tiếng thằng Bảo xoe xóe ở ngoài sân. Nó chợt đứng sững lại, mồm
há hốc khi nhận ra thầy Tín ngồi trong nhà. Nó lè lưỡi, rụt cổ vẻ lo sợ, lủi
ngay ra sau nhà.
Anh Nhu gọi với theo:
- Vào đây, Bảo! Có bạn mới cho chú mày đây!
Thằng Bảo khép nép đứng áp người vào phên cửa. Người nó đậm
chắc, mắt hơi híp, mặt rỗ hoa.
- Làm gì mà bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng thế hở “lão mỗ”?
- Thầy Tín cười sảng khoái, nói đùa. - Làm quen với nhau đi. Đây là bạn Thiện…
Anh Nhu cười phá lên:
- Thầy khỏi phải lo. Chỉ thoáng một cái là chúng nó thân nhau
ngay ấy mà! Bảo rủ bạn ra ngoài chơi cho thoáng đi.
Hình như chỉ chờ có thế, thằng Bảo nháy mắt, ngoắc tay ra hiệu
cho tôi. Tôi còn ngần ngừ chưa dám ra thì thầy Tín đã nắm vai tôi đẩy nhẹ về
phía cửa:
- Đi chơi với bạn cho vui, em! Phải mạnh dạn lên…
Vừa ra khỏi cửa, thằng Bảo đã kéo tay tôi lôi xềnh xệch ra
ngõ, leo lên triền đê cao. Tôi hơi ngạc nhiên đây không có sông sao bỗng dưng lại
có một con đê cao như thế này. Đúng là một con đê chứ không phải đường cái
quan. Toàn thân đê phủ kín cỏ, chỉ ngoằn ngoèo một lối mòn thoắt ẩn thoắt hiện
cho người đi bộ. Sau này tôi mới biết đó là con đê quai, phòng xa khi lũ lớn nước
khỏi tràn vào thị xã. Sở dĩ tôi phải dừng lại nói hơi kỹ về con đê quai này vì
nó rất đẹp. Các triền thoai thoải phủ đầy cỏ mịn của nó sau này sẽ là nơi chiều
chiều mấy anh em tôi thường ra ngồi chơi, có lúc cùng nằm sóng soài trên đó mà
tán gẫu hoặc gối đầu trên hai cánh tay, vắt chân chữ ngũ, nằm ngửa mặt ngước
nhìn lên bầu trời có những đám mây bông xốp trôi chầm chậm…
Thằng Bảo hớn hở rủ tôi:
- Ra sân vận động chơi đá bóng đi. Còn sớm chán!
- Để hôm khác có được không? Thầy Tín đang chờ ở nhà…
- Thế thì chơi tạm quanh quẩn ở đây vậy. Mày dân Hà Nội, thường
chơi những trò gì?
Tôi lúng túng chưa biết trả lời ra sao thì thằng Bảo đã tía lia:
- Để rồi hôm nào tao sẽ dẫn mày đi câu, đi tát cá, đi bắt ếch,
thôi thì đủ thứ trò. À, mà mày có biết bơi không? Chúng mình sẽ ra sông Thương
bơi thỏa thích, tiện lượm củi luôn thể.
Thấy một đám cỏ mềm thích mắt, thằng Bảo nằm lăn ra, trồng
cây chuối rồi rủ tôi làm theo. Tôi chưa mạnh dạn được như nó nên chỉ ngồi nhìn
nó biểu diễn các trò nhào lộn một cách hào hứng. Nhào lộn chán, nó nằm dang
chân dang tay ra hết cỡ, mắt lim dim nhìn trời, giọng trở nên xa xôi:
- Để hôm nào tao sẽ dẫn mày về quê tao chơi. Đẹp không chê được
mày ạ. Cũng gần thôi, chừng mười bốn, mười lăm cây số. Hai thằng vừa đi vừa chạy
đuổi nhau chỉ mất ba tiếng đồng hồ là cùng. Thế nhé! Về quê tao chơi, mày sẽ mê
liền à!
Nằm nghĩ ngợi một lát, nó ngồi nhỏm dậy:
- Sao mày không học ở Hà Nội lại lên đây?
- Mình thích học xa nhà…
- Lạ nhỉ! Tao lại chẳng thích xa nhà một tý nào. Ở nhà, sướng
như vua. Mẹ tao chiều tao hết mực. Quê tao chưa có trường cấp hai nên tao mới
phải lên đây học. Cực lắm mày ạ.
Đăm chiêu một thoáng, nó chép miệng:
- Nhưng kể ra đi xa cũng có nhiều cái khoái. Tha hồ bay nhảy
tự do. Mấy anh ở đây cũng tốt lắm. Mày mới chỉ gặp anh Nhu thôi nhỉ. Còn anh
Hoàng, thằng Nam nữa. Họ cũng sắp về cả rồi đấy.
Chiều đang dần xuống. Đã tắt nắng nhưng những xóm làng ở xa
tít tắp vẫn còn nhìn rõ mồn một. Không khí trong trẻo lạ thường. Ngồi trên triền
đê thoáng đãng nghe gió ù ù thổi, nhìn ra xung quanh, mọi cảnh vật thật êm đềm,
lòng tôi thanh thản vô cùng. Đúng là đi xa cũng có những điều thú vị thật. Ở Hà
Nội, làm sao có được những cảm xúc như thế này? Những ngày sắp tới, chắc tôi sẽ
còn gặp nhiều điều bỡ ngỡ, lạ lẫm, không tránh khỏi những khó khăn, vấp váp
nhưng tôi mơ hồ cảm thấy có lẽ nhiều điều thú vị sẽ đến với tôi. Ngày đầu tiên
xa nhà như thế này kể ra cũng đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp. Giả
thử, nếu tôi vẫn ở nhà, thì ngày hôm nay chắc cũng sẽ chỉ là một ngày mờ nhạt
giống như bao ngày khác… Nghĩ vậy, tôi thấy vui lên và yên lòng. Tôi nói với Bảo:
- Thôi, mình về đi kẻo anh Nhu mong.
Thằng Bảo vùng dậy, đấm vào lưng tôi mấy cái khá đau rồi ù té
chạy. Nó cười phá lên, vừa chạy vừa quay lại nhăn nhó trêu tôi. Bất giác, tôi
quên hết mọi ưu tư, cũng bật cười, chạy đuổi theo thằng Bảo.
3. Khi chúng tôi về đến nhà thì tất cả đã có mặt đông đủ. Anh
Nhu dẫn tôi đến chào bà cụ Muộn. Anh vui vẻ nói:
- Đây, em nó đây bà ạ. Nó hiền lành chứ không nghịch phá như
thằng Bảo.
- Có gì đâu mà chú cứ phải lo! - Bà cụ Muộn cười móm mém trả
lời anh Nhu, rồi xuề xòa bảo tôi. - Cháu cứ ở đây với mấy anh cho vui. Ăn mất
nhiều chứ ở mất bao nhiêu!
Nói rồi bà cụ quày quả bưng rổ rau và chiếc niêu nhỏ đi xuống
bếp. Dáng bà hơi còng, tóc đã bạc gần hết, da mặt nhăn nheo, khắc khổ. Nhưng
khi bà cụ cười thì rõ ra một con người phúc hậu.
Anh Nhu lần lượt giới thiệu cho tôi làm quen với anh Hoàng,
thằng Nam. Hai người đều mỉm cười nhìn tôi đầy thiện cảm. Anh Hoàng ít nói, hiền
lành. Thằng Nam nhỏ người, nhanh thoăn thoắt.
- Thôi, dọn cơm ăn đi. Tôi đã nấu xong xuôi cả rồi đấy. Bữa
nay chỉ có rau láo nháo nấu canh với ít lạc rang, các vị ăn tạm nhé. Mai đi chợ
mua mấy lạng thịt về liên hoan, gọi là để mừng chú Thiện gia nhập hội. - Anh
Nhu vừa bưng nồi cơm ra giữa sân vừa tươi cười nói.
Thằng Bảo, thằng Nam nhanh nhảu bưng mâm, bưng nồi canh cùng
một chồng bát đũa ra, đặt trên chõng tre đã được anh Hoàng mang đặt giữa sân. Mấy
anh em người đứng, người ngồi xì xụp ăn. Anh Nhu lấy thìa xúc lạc cho tôi, giọng
ái ngại:
- Ở với bọn anh, cực đấy em ạ. Ăn uống kham khổ chứ không được
như ở nhà đâu. Không biết rồi em có chịu được hay không?
- Em chịu được ạ. - Tôi nói nhỏ vừa đủ cho anh nghe.
Tối hôm ấy, bên ngọn đèn bão đặt giữa chõng, mấy anh em chụm
đầu ngồi học bài. Tôi chưa có gì để học, vả lại suốt buổi ngồi trên tàu, gặp gỡ
người này người khác, đầu óc khá mệt mỏi nên mới ngả lưng nằm trên giường một
lát, tôi đã ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Nhưng cũng chỉ chợp mắt được ít
phút, tôi bừng tỉnh. Từ đó cứ thao thức, nghĩ lan man chuyện này chuyện khác.
Lần này xa nhà, tôi không tránh khỏi lo lắng vì phải sống giữa
nhiều người xa lạ. Nhưng thú thật, tôi cảm thấy vui nhiều hơn. Tôi tin những lạ
lẫm ban đầu rồi sẽ nhanh chóng qua đi. Khi ấy tôi sẽ được sống thoải mái, tha hồ
học, tha hồ chơi. Gia đình tôi, nói ra thì hơi buồn, nhưng quả thật không mấy
lúc được vui vẻ. Sau hòa bình lập lại, nhà tôi như khánh kiệt. Do một số điều bất
ưng, bố tôi nghỉ việc, không đi làm. Mẹ kế của tôi (mà chúng tôi thường gọi là
cô) lâu nay chỉ ở nhà lo việc nội trợ; khó khăn quá xoay ra buôn bán vặt, lúc nấu
xôi chè, lúc bán bún thang, bún riêu nhưng cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng lại
phải đóng cửa vì ế ẩm, vì không quen với cách làm ăn xô bồ, chộp giật. Chị cả của
tôi đi thanh niên xung phong, sau đó được đi học trường Sư phạm. Chị thứ hai của
tôi cũng bỏ học dở dang. Do xinh xắn và có năng khiếu múa hát, giữa lúc mấy anh
chị em tôi sống quá khó khăn, nhân một lần đoàn văn công quân đội tuyển diễn
viên, chị tôi trúng tuyển và vào bộ đội từ lúc mới mười lăm tuổi. Hai chị tôi
chỉ hưởng phụ cấp, không có lương bổng nên cũng không giúp gì cho gia đình.
Ba anh em tôi cùng với bốn em con của cô tôi, tất cả đều đang tuổi đi học. Bố tôi, cô tôi cùng bảy đứa con sống bấp bênh, không có một nguồn thu nhập nào ổn định. Tôi nhớ có một Tết Trung Thu, mỗi sổ hộ khẩu gia đình được mua một chiếc bánh dẻo, một chiếc bánh nướng. Vậy mà bố tôi cũng không có tiền mua, phải cho gia đình hàng xóm mua kẻo phí mất tiêu chuẩn. Nhiều hôm đi học về, đói mờ cả mắt, vậy mà chờ mãi, chờ mãi cũng chẳng thấy ai nói gì đến cơm nước. Cô tôi mệt mỏi nằm quay mặt vào tường. Chúng tôi lẳng lặng nhìn nhau, tự biết là hôm ấy nhà hết gạo, bố tôi không có đồng nào để đưa tiền chợ cho cô tôi. Chúng tôi phải sống không ít ngày trong cái không khí nặng nề như thế. Không có cảnh đánh chửi nhau. Không có chuyện quăng bát quăng đĩa. Rất ít khi to tiếng. Nhưng sao mà trầm uất… Ngay từ khi mười một, mười hai tuổi tôi đã luôn có mặc cảm là mình có tội, mình là gánh nặng của gia đình, không tự kiếm sống được mà phải sống dựa vào bố mẹ, ăn nhờ vào chính những người thân của mình. Suốt cả những ngày niên thiếu của tôi, tôi luôn nung nấu một ao ước là mong sao lớn thật mau để được đi làm, để khỏi phải sống dựa vào gia đình. Nhà tôi ở đầu phố Khâm Thiên. Đường chim bay đến ga Hàng Cỏ rất gần. Đêm đêm tôi trằn trọc không ngủ được vì tiếng còi tàu giục giã. Hàng chục đoàn tàu vào ga rồi rời ga, hú lên những hồi còi đầy nôn nóng và náo nức. Tôi phân biệt rất rõ tiếng lảnh lói cao vút của những con tàu cũ từ thời Pháp và tiếng trầm trầm đùng đục điềm tĩnh của những con tàu Trung Quốc mới. Chúng gọi nhau, chúng chào đón nhau, chúng thôi thúc nhau đi đến những miền đất xa xôi. Lòng tôi cũng bồn chồn, cũng náo nức theo chúng. Tôi cũng ao ước được bứt phá khỏi cuộc sống buồn tẻ này. Nhưng tôi còn nhỏ quá. Tôi mới chỉ mười ba tuổi. Biết đến bao giờ tôi mới đủ mười sáu, mười bảy tuổi để được đi làm, để khỏi phải ngong ngóng chờ đến bữa cơm mà nhiều hôm chờ đến ngang chiều cũng không thấy có… Trong đêm thanh vắng, nghe tiếng còi tàu hú gọi nhau, lắm khi tôi thầm ứa nước mắt.
Ba anh em tôi cùng với bốn em con của cô tôi, tất cả đều đang tuổi đi học. Bố tôi, cô tôi cùng bảy đứa con sống bấp bênh, không có một nguồn thu nhập nào ổn định. Tôi nhớ có một Tết Trung Thu, mỗi sổ hộ khẩu gia đình được mua một chiếc bánh dẻo, một chiếc bánh nướng. Vậy mà bố tôi cũng không có tiền mua, phải cho gia đình hàng xóm mua kẻo phí mất tiêu chuẩn. Nhiều hôm đi học về, đói mờ cả mắt, vậy mà chờ mãi, chờ mãi cũng chẳng thấy ai nói gì đến cơm nước. Cô tôi mệt mỏi nằm quay mặt vào tường. Chúng tôi lẳng lặng nhìn nhau, tự biết là hôm ấy nhà hết gạo, bố tôi không có đồng nào để đưa tiền chợ cho cô tôi. Chúng tôi phải sống không ít ngày trong cái không khí nặng nề như thế. Không có cảnh đánh chửi nhau. Không có chuyện quăng bát quăng đĩa. Rất ít khi to tiếng. Nhưng sao mà trầm uất… Ngay từ khi mười một, mười hai tuổi tôi đã luôn có mặc cảm là mình có tội, mình là gánh nặng của gia đình, không tự kiếm sống được mà phải sống dựa vào bố mẹ, ăn nhờ vào chính những người thân của mình. Suốt cả những ngày niên thiếu của tôi, tôi luôn nung nấu một ao ước là mong sao lớn thật mau để được đi làm, để khỏi phải sống dựa vào gia đình. Nhà tôi ở đầu phố Khâm Thiên. Đường chim bay đến ga Hàng Cỏ rất gần. Đêm đêm tôi trằn trọc không ngủ được vì tiếng còi tàu giục giã. Hàng chục đoàn tàu vào ga rồi rời ga, hú lên những hồi còi đầy nôn nóng và náo nức. Tôi phân biệt rất rõ tiếng lảnh lói cao vút của những con tàu cũ từ thời Pháp và tiếng trầm trầm đùng đục điềm tĩnh của những con tàu Trung Quốc mới. Chúng gọi nhau, chúng chào đón nhau, chúng thôi thúc nhau đi đến những miền đất xa xôi. Lòng tôi cũng bồn chồn, cũng náo nức theo chúng. Tôi cũng ao ước được bứt phá khỏi cuộc sống buồn tẻ này. Nhưng tôi còn nhỏ quá. Tôi mới chỉ mười ba tuổi. Biết đến bao giờ tôi mới đủ mười sáu, mười bảy tuổi để được đi làm, để khỏi phải ngong ngóng chờ đến bữa cơm mà nhiều hôm chờ đến ngang chiều cũng không thấy có… Trong đêm thanh vắng, nghe tiếng còi tàu hú gọi nhau, lắm khi tôi thầm ứa nước mắt.
Chính vì thế, khi được lên Bắc Giang trọ học, tôi thích thú
vô cùng. Bố tôi lo tôi còn nhỏ đã phải xa nhà sống một mình, nhưng rồi vẫn bằng
lòng để tôi đi, có lẽ một phần cũng vì bố tôi gặp quá nhiều khó khăn, có muốn
giữ tôi ở lại cũng không có điều kiện. Thầy Tín hứa hẹn sẽ đề nghị nhà trường cấp
cho tôi một suất học bổng.
Bố tôi vay ở đâu đó được hai mươi đồng bạc đưa cho tôi, bảo
đó là tiền ăn của tháng tới và tiền sách vở đầu năm học. Hàng tháng bố tôi sẽ cố
gửi đều lên cho tôi mỗi tháng mười đồng. Thầy Tín nói vậy cũng tạm đủ.
4. Sáng nào anh Nhu, anh Hoàng cũng dậy sớm để đi làm. Các anh học
buổi chiều. Bài vở cho ngày hôm sau, các anh dồn hết vào buổi tối. Sáng sáng
các anh đi làm phụ thợ hồ để lấy tiền ăn học. Hầu như gia đình hoàn toàn không
phải chu cấp gì cho các anh. Trong một bữa cơm tối, anh Nhu bảo mấy anh cũng chỉ
gắng làm thêm trong năm học lớp chín này, cốt sao có đủ tiền ăn và dư ra một ít
dành cho năm sau, còn sang năm lớp mười thì phải toàn tâm toàn ý vào việc học để
cuối năm còn thi tốt nghiệp phổ thông và thi đại học.
Thằng Nam học lớp sáu. Tôi và Bảo học lớp năm. Cả ba đứa tôi
đều học buổi sáng. Nhờ học so le như vậy nên việc phân công nấu nướng, quét dọn…
rất thuận tiện. Các anh dậy từ khi chúng tôi còn đang ngủ lăn ngủ lóc. Các anh
nấu nướng xong, ăn vội ăn vàng rồi đi làm, cơm canh để phần lại cho chúng tôi
ăn sau. Gọi là “để phần” cho sang chứ thực ra bữa cơm của chúng tôi rất đạm bạc,
thường chỉ có rau muống hoặc rau cải luộc, đĩa muối riềng hoặc hôm nào sang hơn
là muối vừng trộn loáng thoáng ít mảnh lạc. Buổi chiều đến lượt mấy thằng nhóc
chúng tôi nấu. Thường buổi chiều bao giờ bữa cơm cũng thú vị hơn vì có mặt đông
đủ mấy anh em chứ thức ăn thì cũng không có gì hơn buổi sáng.
Ăn uống kham khổ, ở chật chội, đèn đóm tù mù, nói chung mọi
thứ đều kém xa Hà Nội nhưng tôi thấy thanh thản vô cùng. Lớp tôi là lớp năm A,
do cô Kim làm chủ nhiệm. Cô biết khá rõ hoàn cảnh gia đình tôi. Các anh chị tôi
trước đây cũng đều là những học sinh có một số mặt nổi bật trong nhà trường.
Tôi thường nghe mọi người, cả các anh chị học sinh những lớp lớn và một số thầy
giáo ca ngợi chị Trọng, chị cả của tôi là một cán bộ hiệu đoàn học sinh rất
năng nổ, dễ chan hòa, có sức cuốn hút lớn đối với mọi người, được cả trường yêu
quý. Uy tín của các anh chị tôi rất thuận lợi cho tôi. Thêm nữa, tôi học vào loại
giỏi, mặt mũi lại sáng sủa, dáng thư sinh hiền lành nên được các thầy cô và bạn
bè có cảm tình. Đặc biệt, thầy Luyến dạy môn văn rất yêu quý tôi. Những bài luận
tôi làm, hầu như bài nào thầy cũng cho 5 điểm, điểm cao nhất, và thầy đem ra đọc
cho cả lớp nghe. Chính tôi nhiều khi cũng tự thấy thầy khen tôi quá mức, thầy
quá yêu tôi nên hơi thiên vị, nhưng tôi vô cùng biết ơn thầy. Có lẽ thầy là người
đầu tiên khuyến khích tôi, cổ vũ tôi một cách nhiệt thành để tôi mạnh dạn bước
những bước đầu tiên đi vào con đường văn học.
Chính những tình cảm yêu thương của các thầy cô giáo và bạn
bè đã làm cho tôi mỗi ngày một gắn bó hơn với cái tập thể nhỏ bé của mấy anh em
tôi.
Đặc biệt, tôi rất thích thằng Bảo. Nó là một thằng sống đầy
tình cảm. Nhà nó ở nông thôn. Mẹ và mấy anh chị đều làm ruộng. Bố nó làm cán bộ
ở Ty giáo dục nên cho nó lên đây trọ học. Nó lớn hơn tôi một tuổi nhưng to con,
da ngăm đen, tay chân săn chắc. Nó luôn tự nhận nó là anh tôi. Hễ có đứa nào va
chạm với tôi chút xíu, nó liền nhảy bổ đến sừng sộ: “Có chuyện gì đấy? Đứa nào
động đến em tao đấy?”. Đi đâu nó cũng đi cùng tôi. Tôi thì mảnh dẻ, trắng trẻo,
có phần nhút nhát. Còn nó thì đậm chắc, da bánh mật, bước đi huỳnh huỵch, ăn
nói bặm trợn. Có người nói đùa nó là vệ sĩ của tôi, nó không bực tức, trái lại
còn hoa chân múa tay, đi mấy đường quyền, tỏ ra rất đắc ý.
Bảo thường hay kể chuyện về quê nó. Cứ theo lời nó kể thì quê
nó phải đẹp vào loại nhất nhì thế giới. Đầu làng có hồ sen rộng đến hàng mấy mẫu.
Mùa sen nở, suốt đêm dân làng đắm mình trong hương sen thơm. Trước khi vào làng
phải qua một bãi hoang, có nhiều gò đống và những bụi dứa dại. Đó là giang sơn
riêng biệt của lũ trẻ chăn trâu. Đặc biệt, trên một gò cao có một mỏm đá bị
chém làm đôi, hai nửa vẫn còn nằm cạnh nhau, mảnh lớn có một lỗ sâu hun hút, đổ
bao nhiêu nước xuống cũng không đầy. Tục truyền rằng từ xa xưa, đấy là nơi trú
ngụ của một đàn gà mẹ con bằng vàng ròng. Đêm đêm, vào những giờ khắc yên tĩnh,
vắng lặng nhất, từ trong hang, gà mẹ dẫn bầy con vàng óng, lung linh kỳ ảo túc
tục túc tục vây quanh. Hào quang bao phủ quanh chúng sáng rực cả xung quanh.
Vào những lúc như thế, bọn trẻ trong làng rủ nhau chạy ra xem. Phải tuyệt đối
im lặng, không được cười nói, không được gây ra tiếng động. Phải đứng nấp từ
xa, nín thở ngắm nhìn đàn gà nhởn nhơ dạo chơi. Đang yên đang lành, dân làng
đang tự hào vì quê mình có một diễm phúc như thế, chợt một lão phù thuỷ ở đâu
xuất hiện. Lão muốn bắt đàn gà vàng. Một đêm kia, lão phục sẵn gần mỏm đá. Chờ
cho đàn gà mẹ con dẫn nhau ra thật xa, lão mới một tay cầm chiếc túi lớn, miệng
túi mở toang hoác sẵn, tay kia cầm thanh kiếm sắc, rượt đuổi đàn gà. Đàn gà chạy
tán loạn, lão cố hết sức mà không lùa bắt được con nào. Cuối cùng, gà mẹ dẫn bầy
gà con quay vòng trở lại, chạy tuốt vào hang. Cả một luồng ánh sáng vàng rực
hun hút hun hút tuồn vào hang tối. Lão phù thuỷ tức điên, lồng lộn vung kiếm
chém theo nhưng không kịp. Lưỡi kiếm tóe lửa. Mỏm đá bị xẻ làm đôi, dấu tích
còn mãi đến tận bây giờ…
Thằng Bảo còn kể nhiều chuyện thú vị khác làm tôi mê mẩn. Nó
rủ tôi hôm nào được nghỉ học hai, ba ngày, hai đứa sẽ về quê nó chơi. Tôi cũng
náo nức muốn tận mắt nhìn thấy làng quê của nó. Và biết đâu duyên may lại đến với
tôi, tôi được gặp lại đàn gà vàng kỳ lạ.
Thấy tôi có vẻ thích thú lắng nghe những chuyện làng quê của
nó, thằng Bảo càng phổng mũi, hăng hái kể cho tôi nghe nhiều chuyện hơn. Có thể
nói nó có cả một kho những chuyện về quê nó, về sự tích ngọn núi này, chiếc đầm
nọ, cánh đồng kia. Đặc biệt chuyện về ma thì vô thiên lủng. Nhiều chuyện làm
cho tôi sợ nhưng vẫn thấy hiếu kỳ muốn nghe. Nó bảo thời bây giờ tân tiến, ma bỏ
đi đâu hết chứ thời trước ma nhan nhản. Mẹ nó đã gặp ma nhiều lần. Ma hay nhát
mẹ nó, trêu chọc mẹ nó cho vui. Có lần mẹ nó đi bắt cua, gần hết buổi chẳng được
con nào. Trời chiều, đến quãng đồng gần bãi tha ma, bỗng nhiên cua ở đâu bò ra
lổm ngổm khắp bờ ruộng. Mẹ nó chỉ việc nhanh tay chộp lấy. Nhoáng cái đã được đầy
một giỏ. Về nhà, hớn hở đổ cua ra chiếc ang thì trời ơi, toàn sỏi là sỏi. Ông
ngoại nó bực lắm, biết là ma nhát mẹ nó, liền cho đống sỏi đó lên chảo rang. Thế
là tiếng kêu oai oái vang khắp nhà. Ma không chịu được lửa nóng, cuống quýt lạy
như tế sao, van xin tha tội chết… Lại một lần khác, giữa đêm mưa gió đùng đùng,
cả nhà nó nằm yên trên giường, mấy người lớn lầm rầm cầu khấn mong sao mưa bão
nhanh chóng qua đi. Bỗng thấy hàng loạt sỏi đá ném tới tấp vào cánh cửa. Cửa vẫn
đóng kín mà chẳng hiểu sao sỏi đá vẫn lọt được vào trong nhà. Ông ngoại thằng Bảo
mới đốt lửa lên, vứt hết sỏi đá vào lửa. Tiếng van xin thảm thiết đến rợn người.
Thì ra bọn ma thấy mưa gió lớn, muốn rủ nhau vào nhà tránh rét. Sáng hôm sau lại
tuyệt nhiên chẳng thấy đám sỏi đá ấy đâu nữa. Những chuyện nó kể chẳng biết thực
hư thế nào. Tôi nghi là nó nghe kể lại những chuyện xửa chuyện xưa, nhưng để
tăng tính thuyết phục, làm cho tôi phải tin hoàn toàn, nó đã gán cho mẹ nó, ông
ngoại nó từng tham dự vào các sự việc đó. Nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn không cưỡng nổi
lòng ham muốn nghe nó kể. Càng nghe, tôi càng thèm có được một vùng quê như nó
quá. Bảo đã được sống ở quê suốt cả thời thơ ấu nên nó có nhiều kỷ niệm về quê
mình. Còn tôi, xa quê từ lúc lên bốn, lên năm tuổi, tôi nhớ rất ít hình ảnh về
quê gốc của mình. Quê tôi ở thị xã Hải Dương. Giờ nhớ lại chỉ thấy thấp thoáng
những kỷ niệm rời rạc, không rõ nét, lúc hư, lúc thực, tất cả như ẩn hiện qua một
lớp sương mù lúc đậm lúc nhạt. Nhưng đặc biệt có một hình ảnh rõ nhất mà tôi
còn hình dung ra được là ngôi nhà của bố mẹ tôi. Đó là một ngôi biệt thự khá lớn.
Phía trước có cổng sắt, có tường xây lửng, phía trên là hàng song sắt màu xanh
lá cây, có giàn ăngtigôn bò lan quấn quýt với những chùm hoa li ti màu hồng phấn
loáng thoáng đung đưa gợi một vẻ gì rất quý phái. Sau cổng là một khu vườn rộng.
Chính giữa vườn, một bồn hoa lớn hình tròn, có bờ cỏ tóc tiên với những bông
hoa hình loa kèn nhỏ xíu màu hồng nhạt viền quanh, ôm lấy một gốc đào lâu năm
to bằng bắp chân người lớn, thân xù xì mốc mác, nổi u nổi bướu, phía trên tỏa
ra nhiều nhánh cành cong queo phơ phất vài chùm lá thưa thớt, trông có vẻ cằn cỗi
khô xác đã hết nhựa sống, nhưng cứ gần đến Tết là cây đào thay đổi hoàn toàn.
Như có một phép màu diệu kỳ, cây đào như hồi sinh trở lại sau suốt một năm mơ
màng ngủ dưỡng sức. Vừa có hơi xuân, những nụ đào mập mạp tròn căng lập tức nhú
ra từ những nách lá, lớn nhanh như thổi, rồi bung ra thành những bông hoa màu hồng
phấn đầy kiêu sa làm sáng rực cả khu vườn. Vòm cây không còn một chiếc lá, hồng
rực lên từng chùm từng chùm hoa cánh mỏng manh phập phồng run rẩy, ngỡ như
chúng có thể đồng loạt bay lên bất cứ lúc nào, khi có một làn gió nhẹ thoảng
qua…
Hai bên bồn hoa là hai con đường lớn trải sỏi cuội thoai thoải cao dần lên dẫn đến tiền sảnh ngôi nhà. Nền nhà cao vượt hẳn lên. Nhà có nhiều phòng, có hành lang rộng bao quanh. Phía sau tòa nhà chính là một dãy nhà phụ thấp nhỏ hơn. Bên phải ngôi nhà có bể nước chứa nước mưa dự trữ. Kế đó là một cây ngọc lan lớn và một giàn hoa móng rồng. Phía trước ngôi nhà, bên tay trái, sát lối đi là một cây hoàng lan rất lớn. Thân cây lực lưỡng đen thẫm nhưng những cành phụ lại mảnh dẻ, thướt tha luôn đung đưa xào xạc trong gió với những cụm lá dày xanh mướt xen kẽ những bông hoa cánh dài vàng tươi. Có những buổi mấy chị em tôi hò hét đuổi theo nhau chạy vòng quanh cây hoàng lan nhặt hoa rơi. Cứ sau mỗi trận gió, từ trên cao lả tả rụng xuống những bông hoa chín vàng. Chúng tôi dang tay đón bắt, miệng hò reo, những đôi chân cuống quýt vấp ngã và những khuôn mặt đỏ bừng nhễ nhại mồ hôi đầy phấn khích. Hai chị tôi đem ngâm những bông hoa vào âu nước, bảo rằng chỉ một lát sau chúng sẽ biến thành thứ nước hoa hảo hạng mà người lớn thường dùng. Hai chị tôi thi nhau vốc từng vốc “nước hoa” tự tạo vã lên mặt, bôi lên tóc, tấm tắc khen nước hoa sao mà thơm đến thế. Tôi chúi đầu vào âu nước lã cố hít lấy hít để nhưng chẳng thấy mùi vị gì ngoài cái mùi ngai ngái nhàn nhạt. Nhưng trước sự ca tụng nồng nhiệt của hai chị, và nhất là trước sự hăm hở vốc nước vã lên đầu lên tóc, thi nhau trang điểm của hai chị, tôi sinh ra hoang mang, hoài nghi về khiếu thẩm định mùi vị của mình. Chẳng biết mùi vị thực hư ra sao, chỉ thấy thứ nước hoa quý giá đó có nguy cơ sắp cạn kiệt vì sự chi dùng quá hào phóng của hai chị, tôi cũng lăn xả vào, nhúng cả hai tay vào âu, vốc nước vã lên mặt, xoa lên cổ, lên ngực, ướt đẫm cả hai vạt áo. Lần đó, tôi bị ốm nhưng sợ không dám nói. Toàn thân tôi nóng ran, có lúc lại rùng mình ớn lạnh. Trong cơn nửa mê nửa tỉnh, tôi chợt nhận ra mùi hoàng lan dịu ngọt quấn quýt quanh mình. Lúc này tôi mới thấy “nước hoa” của hai chị tôi thơm thật là thơm. Mãi sau tôi mới biết mùi thơm bao bọc quanh tôi ấy chính là tỏa ra từ một bông hoàng lan đã vô tình rơi vào túi áo ngực của tôi trong lúc tôi lon ton chạy vòng quanh gốc cây để đón bắt những bông hoa thả xuống từ trên cao…
Hai bên bồn hoa là hai con đường lớn trải sỏi cuội thoai thoải cao dần lên dẫn đến tiền sảnh ngôi nhà. Nền nhà cao vượt hẳn lên. Nhà có nhiều phòng, có hành lang rộng bao quanh. Phía sau tòa nhà chính là một dãy nhà phụ thấp nhỏ hơn. Bên phải ngôi nhà có bể nước chứa nước mưa dự trữ. Kế đó là một cây ngọc lan lớn và một giàn hoa móng rồng. Phía trước ngôi nhà, bên tay trái, sát lối đi là một cây hoàng lan rất lớn. Thân cây lực lưỡng đen thẫm nhưng những cành phụ lại mảnh dẻ, thướt tha luôn đung đưa xào xạc trong gió với những cụm lá dày xanh mướt xen kẽ những bông hoa cánh dài vàng tươi. Có những buổi mấy chị em tôi hò hét đuổi theo nhau chạy vòng quanh cây hoàng lan nhặt hoa rơi. Cứ sau mỗi trận gió, từ trên cao lả tả rụng xuống những bông hoa chín vàng. Chúng tôi dang tay đón bắt, miệng hò reo, những đôi chân cuống quýt vấp ngã và những khuôn mặt đỏ bừng nhễ nhại mồ hôi đầy phấn khích. Hai chị tôi đem ngâm những bông hoa vào âu nước, bảo rằng chỉ một lát sau chúng sẽ biến thành thứ nước hoa hảo hạng mà người lớn thường dùng. Hai chị tôi thi nhau vốc từng vốc “nước hoa” tự tạo vã lên mặt, bôi lên tóc, tấm tắc khen nước hoa sao mà thơm đến thế. Tôi chúi đầu vào âu nước lã cố hít lấy hít để nhưng chẳng thấy mùi vị gì ngoài cái mùi ngai ngái nhàn nhạt. Nhưng trước sự ca tụng nồng nhiệt của hai chị, và nhất là trước sự hăm hở vốc nước vã lên đầu lên tóc, thi nhau trang điểm của hai chị, tôi sinh ra hoang mang, hoài nghi về khiếu thẩm định mùi vị của mình. Chẳng biết mùi vị thực hư ra sao, chỉ thấy thứ nước hoa quý giá đó có nguy cơ sắp cạn kiệt vì sự chi dùng quá hào phóng của hai chị, tôi cũng lăn xả vào, nhúng cả hai tay vào âu, vốc nước vã lên mặt, xoa lên cổ, lên ngực, ướt đẫm cả hai vạt áo. Lần đó, tôi bị ốm nhưng sợ không dám nói. Toàn thân tôi nóng ran, có lúc lại rùng mình ớn lạnh. Trong cơn nửa mê nửa tỉnh, tôi chợt nhận ra mùi hoàng lan dịu ngọt quấn quýt quanh mình. Lúc này tôi mới thấy “nước hoa” của hai chị tôi thơm thật là thơm. Mãi sau tôi mới biết mùi thơm bao bọc quanh tôi ấy chính là tỏa ra từ một bông hoàng lan đã vô tình rơi vào túi áo ngực của tôi trong lúc tôi lon ton chạy vòng quanh gốc cây để đón bắt những bông hoa thả xuống từ trên cao…
Về quê chính Hải Dương, tôi chỉ nhớ nhất chuyện ấy và cái buổi
sáng cuối cùng gia đình tôi từ giã quê nhà đi tản cư mà sau này có dịp tôi sẽ kể
lại. Tôi không có được nhiều kỷ niệm như thằng Bảo.
Ngoài thằng Bảo, người tôi đặc biệt yêu quý là anh Nhu. Anh
là bạn học cùng lớp với hai chị tôi từ năm 1952, khi còn đang kháng chiến chống
Pháp. Trường Ngô Sĩ Liên của chúng tôi là một trong số ba bốn trường trung học
có tiếng trong thời kháng chiến. Quê anh Nhu ở Gia Lương, Bắc Ninh lúc đó nằm
trong vùng địch tạm chiếm đóng. Anh trốn nhà ra vùng tự do, lên Yên Thế học.
Tôi biết anh từ hồi đó, rất mến anh, nhưng anh học trung học, tôi học cấp I trường
làng, không mấy lúc được gần nhau. Tôi chưa được ở trọ cùng một nhà với anh như
hiện nay. Tính anh hiền hòa, điềm tĩnh, rất dễ gần. Do quen biết các anh chị
tôi nên anh đối với tôi có phần thân tình hơn đối với những bạn khác. Tiền
nong, tôi giao hết cho anh giữ hộ. Cần đóng góp gì, anh đều tự động đóng thay
tôi. Anh quan tâm đến tôi từ việc học hành, ăn ở, đến cả việc ngủ nghê, tắm rửa.
Anh thực sự là một người anh ruột thịt của tôi. Chính nhờ có anh mà tôi rất yên
tâm khi phải sống xa nhà. Tôi mau chóng hòa nhập được vào cuộc sống mới, khác
khá nhiều so với cuộc sống của gia đình tôi lâu nay.
5. Cả trường tôi rộ lên vì sự kiện thầy Tín mượn ở đâu đó được
quyển Thép đã tôi của nhà văn Nga Nicôlai Astơrốpski, hình như do Thép Mới dịch.
Có lẽ là một bản dịch đã giản lược, chỉ dày khoảng hơn hai trăm trang, chứ chưa
phải là tác phẩm Thép đã tôi thế đấy dịch hoàn chỉnh sau này. Cuốn sách được
chuyền tay nhau đọc, được đem ra thảo luận ở các buổi sinh hoạt Đoàn, sinh hoạt
lớp. Không khí vô cùng náo nức. Cuộc đời đầy sóng gió và hừng hực nhiệt huyết
cách mạng của nhân vật chính Paven Coócsaghin không những hấp dẫn đối với các
anh chị lớn mà còn cuốn hút ngay cả bọn nhỏ chúng tôi. Đâu đâu cũng bàn tán về
Paven. Hình ảnh những năm tháng nội chiến ở nước Nga mênh mông với từng từng lớp
lớp người ra trận, mặt mũi ai nấy đều dầu dãi gió sương, râu tóc bơ phờ nhưng
những đôi mắt thì rực lửa. Những đoàn kỵ binh đỏ hăng hái xung trận, áo choàng
phần phật tung bay, mũ chùm kín đầu, lấp lánh ngôi sao đỏ, miệng gào thét “hua
ra!”, tay vung kiếm ào ào xông tới… Trong hoàng hôn đỏ bầm như máu, những đoàn
tàu chở quân ra tiền tuyến lặng lẽ mà quyết liệt. Trên những va-gông không mái
che, những người lính mặt hốc hác xạm đen khói súng nửa nằm nửa ngồi, tay ôm
súng, mắt đau đáu nhìn chân trời mù mịt khói lửa. Họ cùng cất tiếng hát trầm
hùng đầy bi tráng… Những cảnh ấy tôi thấy trong phim ảnh, rồi qua óc tưởng tượng
mơ màng, cứ lung linh mãi lên, đẹp một cách kỳ ảo.
Phải khó khăn lắm, cuốn sách mới quay vòng đến được tay tôi.
Tôi mê mải chép ngày chép đêm, mất hơn một tuần lễ thì xong. Ai cũng kinh ngạc
vì sự kiên trì của tôi. Thằng Bảo cũng học theo, mua quyển sổ thật dày để chép,
nhưng chỉ được mấy trang, nó đã lè lưỡi, bỏ cuộc. Tiếp theo truyện Thép đã tôi,
cả trường lại xôn xao lên một đợt nữa. Trước hàng mấy trăm học sinh toàn trường,
thầy Hùng, một thầy giáo trẻ, đầy tâm huyết, người đã từng đem lại cho chúng
tôi những tiết học sôi nổi, hào hứng, đã gieo vào lòng chúng tôi chất lý tưởng
cao cả, bây giờ vừa nghẹn ngào vừa đọc Vượt Côn Đảo. Tất cả ngồi im phăng phắc
lắng nghe như nuốt từng lời. Những nghĩa địa Hàng Dương, cầu Ma Thiên Lãnh, rồi
chuyến vượt biển quả cảm… Cứ nhớ mãi cái chi tiết giữa biển khơi, trong đêm tối
mịt mù bỗng vang lên tiếng quốc ca không biết là hư hay thực…
Suốt đêm, mấy anh em tôi bàn luận về Thép đã tôi, về Vượt Côn
Đảo quanh bếp lửa bập bùng. Vừa nướng mấy củ khoai mà tôi và thằng Bảo mót được
mấy hôm trước, khi ra ngoài ruộng tưới rau giúp bà cụ Muộn, vừa trò chuyện rôm
rả. Thằng Bảo cứ xuýt xoa tiếc mãi là không còn dịp để đi chiến đấu thật ác liệt
nữa. Phải chiến đấu vào sống ra chết kia! Chứ không phải đi bộ đội nghĩa vụ
trong thời bình. Nhìn ngọn lửa lúc bùng lên, lúc lịm đi trong than hồng, nó mơ
màng:
- Mấy năm kháng chiến, mình lại còn nhỏ quá. Bây giờ thì chẳng
còn được ra trận đánh giặc nữa, chán thật! Cái anh Paven thế mà sướng! Suốt ngày
ngả rạp trên lưng con chiến mã phi như bay, tha hồ vung gươm, tha hồ “hua ra!”
gào thét!
Anh Nhu an ủi nó:
- Cố gắng học đi. Sau này biết đâu còn khối dịp.
Giọng nó buồn xo:
- Hòa bình rồi, lấy đâu ra mà khối dịp? Sinh sau đẻ muộn, thiệt
thòi thật.
Thằng Nam bỏ dở mẩu khoai, mắt sáng lên:
- Còn khối dịp thật ấy chứ! Miền Nam còn trong tay Mỹ - Diệm
đấy thôi. Chắc gì đã được hòa bình mãi…
Thằng Bảo gân cổ cãi:
- Chắc chứ sao không chắc? Bây giờ thằng Tây nào còn dám đụng
đến mình nữa?
- Thôi thôi, xin hai ông tướng! - Anh Nhu xua tay can. - Mới
tý tuổi đầu mà nói chuyện chính trị như hai ông cụ non.
Cả hai thằng đều phá lên cười. Thằng Bảo lại tiếp tục:
- Học xong phổ thông, tao sẽ thi vào trường Đại học Mỏ địa chất.
Đúng là có trường ấy, phải không anh Nhu? Tha hồ lên rừng, xuống biển. Tha hồ
đi đến những nơi khó khăn gian khổ nhất. Tao sẽ lặn lội suối sâu, vượt đèo núi
cao, một mình lang thang trong rừng già hàng năm trời. Tao sẽ phát hiện ra những
vỉa quặng lớn nhất nước. Nơi này mỏ vàng. Nơi kia mỏ sắt. Nơi kia nữa mỏ kim
cương. Cứ gọi là thỏa sức mà khai thác nhé! Còn mày, mày thích gì hở Nam?
- Tao thích lái tàu…
- Tàu thủy hay tàu bay?
- Tàu nào cũng khoái. Tha hồ vi vu. Tàu thủy thì lênh đênh
trên biển hàng tháng trời, thấy cảng nào đẹp cứ việc rẽ vào, chơi chán lại nhổ
neo. Tàu hỏa cũng vậy. Nghe nói rồi đây tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan sẽ
kéo dài ra mãi, sang Trung Quốc, Liên Xô, đến tận Đông Đức nữa kia! - Rồi nó nằm
ngửa ra, đầu gối lên đùi anh Hoàng, rung cặp chân khẳng khiu, khe khẽ hát: Ngàn
trùng xa khôn ngăn anh em kết đoàn - Biên giới sâu khôn ngăn mối dây thâm tình…
Bất giác, không ai bảo ai, mấy anh em cùng cất tiếng hát
theo. Hát nhỏ thôi, nhưng đầy xúc động. Bếp lửa chốc chốc lại bùng lên, hắt
bóng mấy anh em chập chờn trên vách. Bên ngoài trời tối đen, gió xào xạc luồn
lách qua mấy hàng tre. Thỉnh thoảng tiếng tre vặn mình kẽo kẹt càng làm tăng
thêm vẻ tĩnh lặng huyền bí của bóng đêm. Bảo ngồi nhỏm dậy, giật tay anh Nhu:
- Còn anh, anh sẽ làm gì sau này?
Anh Nhu cười mủm mỉm, trả lời sau một lát suy nghĩ:
- Anh muốn thi vào Đại học Nông nghiệp. Tốt nghiệp kỹ sư, anh
sẽ xin về nông thôn công tác. Anh sẽ nghiên cứu các giống lúa, làm sao tạo được
nhiều giống lúa mới, cho năng suất cao gấp năm, gấp mười lần bây giờ để cho nước
mình mau giàu, dân mình mau thoát khỏi cảnh đói nghèo. Nước mình là nước nông
nghiệp, phải bắt đầu đi lên từ nông nghiệp…
Thằng Bảo cười to:
- Đó! Đó! Anh cũng lý luận hay lắm đấy chứ! Nếu vậy, em cũng
sẽ đi vào nông nghiệp như anh.
- Thế còn điạ chất để cho ai?
- Ờ, ờ… Thôi được, nông nghiệp để phần anh. Em đi ngành điạ
chất hay hơn. Thế còn anh Hoàng?
Anh Hoàng từ nãy vẫn ngồi trong góc khuất, giờ nghe câu hỏi mới
hơi chồm người ra, ánh lửa chỉ soi rõ nửa khuôn mặt. Anh cười ngượng nghịu:
- Anh sẽ theo ngành y.
Miệng Bảo lại tía lia:
- Lúc ấy anh em mình sẽ chẳng còn lo gì bệnh tật nữa, anh nhỉ.
Hơi nhức đầu xổ mũi, ới một tiếng là có mặt anh Hoàng liền!
Anh Nhu cốc vào đầu thằng Bảo:
- Chỉ được cái lém lỉnh!
Rồi quay sang tôi, anh cúi xuống hỏi nhỏ:
- Còn chú mày? Chú mày thích ngành gì nhất?
- Nó sẽ viết văn! Dứt khoát nó sẽ trở thành nhà văn! - Bảo
nhanh nhẩu trả lời thay tôi. - Anh không thấy sao? Nó vẫn lén lút viết đấy. Bài
luận nào của nó cũng được năm điểm, được thầy Luyến khen hết lời!
Anh Nhu cười hiền lành, giọng nhỏ nhẹ:
- Ừ, viết văn cũng tốt lắm. Nhưng cực đấy em ạ. Phải sống từng
trải, có kiến thức rộng, lại còn phải có năng khiếu nữa. Mấy hôm nay bọn anh
đang học về nhà văn Mácxim Gorki…
Đúng là mấy hôm vừa rồi lớp anh học về Mácxim Gorki. Nghe anh
Nhu và anh Hoàng đọc đi đọc lại tiểu sử của nhà văn, tôi nhập tâm rồi thuộc
lòng. Nên khi anh Nhu hỏi:
- Em có biết ông nhà văn ấy là người nước nào không?
Tôi đọc luôn:
- Nhà văn lớn người Nga Mácxim Gorki tên thật là Alécxây Pêscốp,
sinh năm 1868 ở thành phố Nigiơni Nôvôgơrốt, nay là thành phố Gorki và mất năm
1936 ở Mạc Tư Khoa. Bút danh Gorki có nghĩa là “Cay đắng”. Ông là tác giả của
những tác phẩm nổi tiếng như: Người mẹ, Cuộc đời Clim Xăngghin, Sự nghiệp gia
đình Áctamônốp, Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi…
Hai anh cùng tròn xoe mắt nhìn tôi. Anh Nhu ngạc nhiên:
- Sao? Sao em biết được những điều đó?
- Em nghe các anh học…
- Trời đất! - Anh Nhu vỗ vai tôi thật mạnh. - Thế mà anh ê a
suốt mấy ngày không thuộc.
Được khen, tôi mạnh dạn hơn, khoe:
- Em còn thuộc cả Ilya Êrenbua nữa. Em rất thích mấy đoạn nói
về lòng yêu nước.
- Em đọc ở đâu?
- Cũng nghe các anh học, sau đó em xem lại ở trong sách giáo
khoa của các anh.
- Đâu, đọc thử coi.
Tôi đọc làu làu:
- Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật bình thường nhất:
yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu dãy phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị hương chua
mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.
Dòng suối đổ vào sông. Con sông đổ ra dải trường giang Vonga.
Con sông Vonga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên
lòng yêu Tổ quốc…
Thú quá, anh Nhu ôm chầm lấy tôi, dằn đầu tôi xuống, đấm vào
lưng tôi thùm thụp. Anh Hoàng cũng không giấu nổi sự “thán phục”. Thằng Bảo thì
dúi vào tay tôi nửa củ khoai nướng cháy cạnh nó vừa lấy trong bếp ra, coi như một
phần thưởng đặc biệt.
Thời gian đó sách còn ít, nhưng có mấy quyển hút hồn tôi, làm
tôi mê mải đọc, đó là Dế mèn phiêu lưu ký và Cỏ dại của Tô Hoài (bản in trước
cách mạng, trên giấy bản thủ công), Tâm hồn cao thượng của Etmông đơ Amixi (bản
dịch của Hà Mai Anh), Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Thời thơ ấu của Nguyên Hồng,
Vichia Malêép ở nhà và ở trường của Nicôlai Nôxốp (bản dịch của Khu học xá
Trung ương), Chiến sĩ Matơrôxốp của Duốcba do Tú Cầu dịch. Tôi nhớ từng chi tiết
nhỏ, từng đoạn văn hay. Chẳng hạn cuốn Chiến sĩ Matơrôxốp, thực ra chỉ là một
cuốn truyện bình thường, viết về người anh hùng trẻ tuổi lấy thân mình bịt lỗ
châu mai của Liên Xô, nhưng có sức hút kỳ lạ đối với tôi. Có lẽ cuộc đời của
chú bé mồ côi đầy bất hạnh nhưng cũng rất lãng mạn ấy đã làm tôi say mê. Gần
năm mươi năm qua rồi, cuốn sách ấy bây giờ chắc rất khó tìm, tôi vẫn nhớ y
nguyên tên của các nhân vật: Matơrôxốp, Saikha, thầy giáo Clápxức, trợ giáo
Rivôvích… Và huyền thoại “Vì sao cây anh túc nở hoa đỏ” với hình ảnh cuối cùng:
“Roi sắt đánh cho mình mẩy trong trắng của Đancô đến thịt nát xương tan vẫn
dũng cảm thẳng tiến, hiên ngang, ưỡn ngực, ngửng đầu…”. Câu văn hơi sáo nhưng
không hiểu sao cứ bám riết vào trí nhớ của tôi suốt bao nhiêu năm nay. Có lẽ bởi
hình tượng người anh hùng mà tôi ngưỡng mộ…
Cũng trong khoảng thời gian cuối năm 1956 ấy, một tin vui đến
với chúng tôi: Thư viện của tỉnh Bắc Giang bắt đầu được thành lập. Tôi hớn hở
chạy đến xem. Nhưng thật không may, chỉ học sinh cấp ba trở lên mới được cấp thẻ.
Tôi nài nỉ thế nào, cô phụ trách thư viện cũng không linh động cấp thẻ cho tôi.
Tuy không có thẻ nhưng không chiều nào tôi không đến thư viện. Tôi ngồi ngoài
hành lang, nhờ mấy anh lớn cho tôi đọc ké sách báo. Các anh cũng phải khôn khéo
lắm, giấu không cho cô thủ thư biết. Cũng may cả thư viện cũng chỉ có một mình
cô thủ thư, bận tíu tít ở trong phòng nên không có điều kiện ra ngoài để phát
hiện ra tôi. Nhưng rồi cuối cùng cô cũng biết. Thấy tôi ngồi trong một góc khuất
ngốn ngấu đọc, cô cũng lờ đi, bỏ qua. Dần dà, tôi làm quen được với cô. Tên cô
là Uyên, em gái nhà văn Kim Lân, tác giả của truyện Làng và Anh chàng hiệp sĩ gỗ
mà tôi rất thích. Các buổi sáng chủ nhật, tôi đến thư viện rất sớm, ngồi chờ cô
ở cổng. Cô vừa đến, tôi đã nhanh nhẹn giúp cô quét dọn xung quanh nhà, lau chùi
bàn ghế, sắp xếp lại sách báo… Tôi giúp cô làm sổ sách, ghi ký hiệu các tác phẩm,
dán lại các trang sách hư cũ. Thấy tôi nhanh nhẹn, cần cù, việc gì cũng vui vẻ
làm, cô Uyên dần “mủi lòng”, đặc cách cấp cho tôi một chiếc thẻ, không những được
quyền đọc tại chỗ, mà còn được mượn về nhà nữa. Tuy có thẻ rồi, tôi vẫn ngày
ngày ra thư viện giúp cô làm đủ mọi việc lặt vặt. Tôi tranh thủ đọc được không
biết bao nhiêu là sách. Sách hay cạn dần. Tôi đọc cả những cuốn sách tầm tầm của
các tác giả ít có tên tuổi. Nghe anh Nhu giảng giải muốn viết văn, muốn trở
thành nhà văn, phải có trình độ nhạy bén, tôi cũng tìm đọc cả những quyển sách
chính trị dày cộp, nào là Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, nào là Chống Đuyrinh,
nào là Những vấn đề của chủ nghĩa Mác, nào là Bàn về mâu thuẫn… Hiểu rất lơ mơ
nhưng tôi vẫn gắng đọc.
Dần dà, số sách trong thư viện không thỏa mãn được tôi. Tôi
thường xuyên ra hiệu sách nhân dân, xem có sách gì mới lập tức chạy về báo cho
cô Uyên biết. Tôi sướng đến run rẩy cả người khi lần đầu tiên trông thấy quyển
Những người khốn khổ của Victor Huygo được xuất bản một cách hoàn chỉnh. Trước
đây, tôi đã được đọc bản Những kẻ khốn nạn do Nguyễn Văn Vĩnh dịch. Bản dịch lần
này đầy đủ hơn, văn chương mới hơn. Mới chỉ tập một mà đã dày cộp. Tôi chạy như
bay về báo cho cô Uyên, nài nỉ cô đưa tiền để tôi đi mua ngay giúp cô. Sắp hết
giờ làm việc, cô cho phép tôi đi mua sách, mang về tranh thủ đọc rồi sáng mai
đem đến trả cô sớm. Tôi mừng đến run hết cả người. Ngay đêm đó, tôi ngốn ngấu đọc
hết tập một. Rạng sáng, đọc xong rồi mà tôi vẫn còn ngơ ngẩn thèm thuồng. Ước
gì có ngay tập hai, tập ba… để tôi đọc liền một mạch. Hình ảnh Giăng Vangiăng,
Phăngtin, Côdét, Gavơrôt cứ lừng lững đi lại, nói năng, buồn vui, đau khổ ngay
trước mặt tôi kia. Tâm hồn tôi đẹp thêm lên biết bao nhiêu nhờ những trang sách
chứa chan lòng yêu thương…
6. Mẹ kế tôi lại mới sinh đôi, một trai một gái nên gia đình tôi
càng khó khăn hơn. Tôi nói với anh Nhu cho tôi đi làm phụ với các anh. Dạo đó,
hòa bình mới được lập lại, nhà cửa xây dựng thêm nhiều. Các việc phụ hồ, chuyên
chở tranh tre nứa lá, vôi đá, gạch cát… không thiếu. Lâu nay anh Nhu, anh Hoàng
vẫn đi làm phụ hồ vào các buổi chiều. Do thiếu giáo viên, các lớp có sự sắp xếp
lại, các anh chuyển sang học buổi sáng, cùng buổi với mấy đứa nhỏ chúng tôi.
Nghe tôi khẩn khoản muốn đi làm, anh Nhu đăm chiêu một thoáng rồi nói nhỏ:
- Để anh xem có việc gì nhẹ nhàng cho em làm thêm. Em còn nhỏ
quá, lại mảnh khảnh yếu ớt thế này, không khéo ốm đau thì còn khổ hơn.
Mấy hôm sau, chiều đi làm thêm về, từ ngoài ngõ, tiếng anh đã
nói như reo:
- Thằng Thiện, thằng Bảo có nhà không? Có tin vui đây!
Tôi và thằng Bảo đang làm bài bên chiếc chõng tre, nghe anh gọi,
cùng xô nhau ra cửa. Thằng Bảo háu ăn nhanh nhảu:
- Anh mua được món gì đấy? Cho em ăn với!
- Chẳng có món gì đâu. Chỉ có tin vui thôi!
- Thế mà em cứ tưởng… - Bảo tiu nghỉu.
- Vậy em không thích tin vui à? Này nhé, mấy anh em mình có
việc làm mới rồi…
Anh kể anh và anh Hoàng đã bàn với nhau, từ nay các buổi chiều
mấy anh em sẽ đi chở thuê nguyên vật liệu xây dựng cho mấy nơi đang xây cất nhà
cửa. Chở từ ngoài bến sông Thương vào thị xã, xa chừng ba, bốn cây số. Đã hỏi
được nơi cho mướn xe ba gác rồi. Họ thông cảm với hoàn cảnh của học sinh nghèo,
lấy giá phải chăng thôi. Sẽ mướn hai chiếc. Hai anh lớn sẽ kéo, điều khiển xe.
Bọn nhóc chúng tôi sẽ đẩy theo xe, phụ thêm việc xếp gạch, xúc cát…
Cả tôi và thằng Bảo đều mừng. Công việc nặng nhọc đâu chưa thấy,
chỉ thấy trước mắt là ngày ngày được ra sông Thương, thấy thuyền bè xuôi ngược,
thấy cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp.
Anh Nhu kìm bớt sự sôi nổi thái quá của chúng tôi. Giọng anh
trầm xuống, có phần lo lắng:
- Cực lắm chứ chẳng nhẹ nhàng đâu các chú mày ạ. Dạo này buổi
chiều lại nắng dữ dội. Năm giờ, năm rưỡi mà mặt trời vẫn còn chói chang.
- Anh yên tâm, bọn em chịu được mà! - Cả tôi và thằng Bảo
không hẹn mà cùng thốt lên đúng một câu.
- Nhưng điều trước tiên là phải đảm bảo học vẫn tốt đấy nhé.
Nếu học sút đi là ngưng liền!
Tôi không nói gì, chỉ mỉm cười, nắm tay anh Nhu thật chặt, ngầm
hứa với anh là tôi sẽ không để anh phải thất vọng về tôi. Còn thằng Bảo thì
oang oang ra miệng:
- Anh yên chí đi! Thằng Thiện thì khỏi nói rồi. Nó học giỏi,
lo gì! Còn em, chí ít ra em cũng sẽ đứng thứ… nhất! - Nó cười khà khà, nháy mắt
tinh nghịch.
Ngay hôm sau, chúng tôi bắt tay vào việc. Đi học về, đã quá
mười hai giờ trưa. Mấy anh em cất vội sách vở, uống quấy quá mấy bát nước vối rồi
tất tưởi đi đến chỗ thuê xe ba gác. Vừa kéo, vừa đẩy, vừa chạy rầm rầm trên phố.
Ban đầu còn náo nức, hớn hở, vừa lao đi vừa trò chuyện í ới, coi mọi việc nhẹ
tênh như một thứ trò chơi. Nhưng chỉ một lát sau thì biết nhau ngay. Tôi và thằng
Bảo đẩy xe cho anh Nhu kéo. Trên xe, chất đầy gạch thẻ. Trông gọn gàng, có vẻ
ít nhưng thực ra rất nặng. Gạch vuông thành sắc cạnh, xếp khít vào nhau thành một
khối chắc nịch, vuông chằn chặn. Anh Nhu gò lưng kéo, hai chân choãi ra, các
ngón bám đất, hai tay ghì chặt lấy càng xe, cố điều khiển cho xe đi thẳng, khỏi
loạng choạng lao ra vệ đường. Tôi và thằng Bảo mắm môi mắm lợi đẩy phía sau.
Hai đứa ráng hết sức để đỡ cho anh Nhu. Ban đầu thằng Bảo còn thỉnh thoảng pha
trò dăm ba câu, sau thì im thin thít. Mồ hôi đứa nào đứa nấy chảy ròng ròng,
quyện bụi đất đỏ quạch, nhem nhuốc cả mặt mày. Giữa trưa nắng gắt, chỉ gằn lên
tiếng bánh xe lạo xạo nghiến trên đường đất đỏ và tiếng thở phì phò nặng nhọc của
mấy anh em tôi.
Hết một chuyến, chúng tôi lại chạy tiếp chuyến nữa. Không cần
nghỉ. Sau chuyến chở hàng đầy ắp gạch vừa rồi, bây giờ xe chạy không, coi như
nghỉ ngơi quá thoải mái rồi. Thằng Bảo lại cười nói, lại chành chỏe trêu chọc
tôi. Anh Nhu lại chùng tay nắm càng, lôi chiếc xe chạy lộc cộc tâng tâng trên
đường, đôi lúc hứng lên anh còn huýt sáo mấy giai điệu vui vui nữa. Ra đến bờ
sông, tôi nói với anh Nhu:
- Anh ra gốc bàng kia nằm nghỉ một lát đi, để hai đứa em xếp
gạch lên xe cho.
Anh Nhu không chịu, cứ lăn vào tranh việc. Tôi và thằng Bảo
phải ôm chặt lấy anh, đứa kéo, đứa đẩy, vần anh từng bước một, cuối cùng mới
dúi anh ngã ngồi dưới gốc cây bàng. Hai đứa cố làm mặt giận, quát to lên, bắt
anh phải ngồi nghỉ lấy lại sức chốc nữa kéo tiếp, mãi sau anh mới chịu.
Những đống gạch ngon ăn, xếp từng chồng từng chồng cao ngất ở
sát mặt đê đã bị các nhóm thợ sành sỏi khác tranh phần chuyển mất. Chúng tôi phải
xuống tận gần mép nước, nơi gạch vừa được chuyển từ dưới thuyền lên. Mất thêm rất
nhiều công sức. Hai đứa tôi lễ mễ bê từng chồng gạch mười viên một, đi xiên
xiên theo triền đê, chuyển gạch một cách chậm chạp. Được mấy chuyến, mồ hôi đã
nhễ nhại, lưng áo ướt đầm, thở ra cả đằng tai. Thấy cảnh ấy, anh Nhu ngồi không
yên, vùng dậy làm cùng chúng tôi. Anh nói to:
- Làm vậy mất công lắm. Biết bao giờ mới đầy một xe? Lại hao
tốn sức. Các chú mày nghe anh bảo này!
Anh bảo chúng tôi cùng anh đứng giăng thành một hàng dọc. Thằng
Bảo đứng dưới bến. Anh Nhu đứng gần mặt đê. Tôi đứng chính giữa, chia đều khoảng
cách giữa hai người. Cứ thế, chúng tôi chuyền từng viên gạch cho nhau. Gạch
tung lên, ban đầu còn loạng choạng, đôi ba lần bắt trượt. Dần dà, mọi thao tác
thuần thục, trăm viên bắt gọn cả trăm. Những viên gạch bay lên, hạ xuống rồi lại
bay lên, hạ xuống nhịp nhàng, duyên dáng như những con bồ câu đỏ hồng chao liệng
trước mắt chúng tôi. Anh em tôi cảm thấy thích thú, phần nào dịu bớt nỗi mệt nhọc.
Thằng Bảo vốn thực tế, dù thích thú mấy, vẫn có phần hậm hực, nói với anh Nhu:
- Anh phải bảo họ trả thêm thù lao cho mình, anh ạ. Làm gấp
đôi công việc còn gì!
Anh Nhu cười, đưa cánh tay gạt mồ hôi trên mặt:
- Được rồi! Chú mày cứ yên chí. Nhất định họ phải tính thêm
công cho anh em mình chứ. Cứ cố lên, đâu sẽ có đó.
Tốp của anh Hoàng, thằng Nam cũng không thua kém gì tốp chúng
tôi. Vì anh Hoàng to khỏe, thằng Nam cũng nhanh nhẹn, lớn tuổi hơn tôi và thằng
Bảo. Lúc chia tốp, ban đầu anh Nhu xếp Nam đẩy xe cùng với tôi nhưng thằng Bảo
không chịu. Nó muốn đi cùng với tôi, để có gì còn “bảo vệ” cho tôi như nó vẫn
thường nói.
Chiều “ra quân” đầu tiên như vậy là thắng lợi. Mỗi nhóm chở
được bốn chuyến. Ai nấy đều phờ phạc nhưng mà vui. Anh Nhu vỗ vai tôi:
- Không ngờ em cũng làm không thua kém ai, khá lắm! Nhưng chắc
đêm nay em sẽ ngủ say như chết và ngày mai sẽ bải hoải, mình mẩy sẽ đau nhừ cho
coi! Nhưng không sao! Vài ba ngày thế thôi. Gắng vượt qua chừng một tuần, em sẽ
quen và thấy người khỏe ra em ạ.
Sợ đêm sẽ ngủ mê mệt không làm bài vở được, nên vừa về đến
nhà, tôi ra giếng giội ào mấy gầu nước, kỳ cọ tắm rửa xong, tranh thủ học bài
cho buổi mai. Mấy anh em đều vừa tranh thủ nấu cơm vừa học. Tôi thấy lòng vui lạ.
Vậy là tôi cũng theo kịp được mọi người. Tôi sẽ gắng sao để mấy ngày tới đừng ốm,
đừng phải bỏ cuộc. Đi làm thế vừa vui, vừa khỏe người, vừa có thể kiếm thêm tiền
ăn học, khỏi phải xin trợ cấp của gia đình. Bản thân anh Nhu thì khỏi phải nói
rồi. Mấy năm nay gia đình anh không phải lo lắng gì cho anh. Anh hoàn toàn tự
túc ăn học. Bây giờ làm sao để cả nhóm được như thế. Nếu được vậy thì hay quá.
Tôi sẽ sống tự lập, đỡ được phần nào gánh nặng cho bố tôi.
Tối ấy, tôi vẫn học rất khuya. Mấy lần anh Nhu giục đi ngủ.
Anh bảo:
- Ngủ để lấy lại sức em ạ. Không khéo sáng mai ngủ gật trên lớp
thì gay!
Anh giục mãi, tôi đành đi nằm. Quả nhiên, vừa nằm xuống, tôi
ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Một giấc ngủ đằm sâu rất ít khi tôi được hưởng.
Lâu nay, tuy ít tuổi nhưng tính tôi hay nghĩ ngợi, thường trằn trọc rất lâu trước
khi chìm vào trong giấc ngủ.
Đúng như anh Nhu nói, mấy ngày đầu khắp người tôi đau như dần.
Tay chân bải hoải, suốt ngày chỉ thèm ngủ. Đôi lúc cứ nghĩ đến việc chiều mai
phải đi chở gạch tiếp, tôi lại thấy rùng mình. Hay là thôi đừng đi làm nữa!
Mình có nghỉ, chắc anh Nhu và mọi người cũng thông cảm cho thôi vì ai cũng biết
mình gày yếu nhất nhà. Đã mấy lần tôi định nói với anh Nhu cho tôi thôi, tìm việc
khác nhẹ nhàng hơn, nhưng thấy mọi người ai nấy đều mệt mỏi, mặt mày hốc hác,
cũng phải ráng sức kiếm sống chứ có ai mình đồng da sắt, vốn quen chịu đựng cực
nhọc đâu, nên tôi không dám nói nữa. Tôi gắng theo mọi người. Quả nhiên, qua một
tuần, tôi không thấy ngại việc như trước. Tay chân cũng bớt nhức mỏi. Mồ hôi
không túa ra đầm đìa, trống ngực không còn đánh loạn xạ… Tôi mừng thầm là đã cố
ghìm được, không nói ra cái ý định bỏ cuộc hôm trước. Mọi việc dần quen đi, tất
cả đã vào guồng. Tôi cảm thấy lòng nhẹ nhõm, thư thái. Sáng đi học, chiều đi
làm thêm, tối thức khuya học bài…, dường như cuộc sống vốn là như thế, một cuộc
sống bình thường, không có gì là đặc biệt.
Tiện có người cô lên Bắc Giang, bố tôi gửi cho tôi mười đồng.
Đó là tiền ăn của hai tháng trước. Đã hai tháng nay bố tôi không gửi tiền cho
tôi. Tôi biết bố tôi đang khó khăn lắm nên không dám viết thư hỏi. Cũng may là
anh Nhu vẫn chi tiền giúp tôi. Tôi nói với người cô nhờ nhắn lại với bố tôi là
nhà trường đã cấp học bổng cho tôi, từ nay bố tôi không phải lo gửi tiền cho
tôi nữa. Biết nói dối là không tốt nhưng tôi muốn cho bố tôi yên lòng.
Đi làm, công xá được bao nhiêu, anh Nhu giao cho anh Hoàng
vào sổ sách cẩn thận. Tiền thì các anh gửi bà cụ Muộn. Mỗi lúc cần chi tiêu lại
hỏi bà cụ. Cũng chỉ mua gạo là tốn kém nhất thôi. Đi chợ, chủ yếu là mua gạo,
nước mắm, muối. Khoảng hai, ba tháng ăn thịt một lần. Mỗi lần đi chợ, mấy anh
em cùng kéo nhau đi. Để chia nhau vác gạo và tiện thể đi chơi, xem chợ búa cho
thích mắt. Đôi lần cao hứng, anh Nhu còn kéo cả bọn vào quán ăn bánh đúc riêu.
Tiêu chuẩn mỗi đứa chỉ được một bát thôi nên đều thấy còn thòm thèm. Bà chủ
quán ban đầu còn xởi lởi nhưng sau có vẻ không vui vì thấy bọn tôi ngốn rau sống
dữ quá, cứ xin thêm rau muống chẻ liên tục. Chẳng biết nói đùa hay nói thực,
anh Nhu cười bảo:
- Ăn bánh đúc riêu cua là phải ăn thật nhiều rau sống mới
đúng điệu.
Bà chủ hàng lườm xéo anh một cái sắc lẻm.
Ăn xong, mấy anh em lại kéo nhau đi xem chợ. Không dám dừng lại
ở đâu lâu vì sợ những lời chào mời xoắn xuýt và sợ “dông”, phiền cho người bán
hàng. Qua mấy quầy bún chả, nem rán khói bay mù mịt, hương thơm ngào ngạt, đứa
nào đứa nấy nuốt nước bọt ừng ực. Anh Nhu kéo tay tôi bước nhanh. Anh khôi hài
ngân nga: “Dửng dưng không một cảm tình chi…”([1])
Có lẽ cảm thông với những đôi mắt sáng ngời ngời của mấy đứa
tôi mỗi khi đi ngang qua dãy hàng ăn đầy thịt thà, tôm cá vàng ngầy ngậy, khi
đi qua quầy bán thịt, anh Nhu khoát tay vẻ đầy hào phóng, nói với giọng bất cần
đời:
- Hoàng! Cậu vào mua hẳn nửa cân thịt lợn cho tớ! Về nhà mấy
anh em ăn cho sướng cái miệng! Một đời ta muôn vàn đời nó, cần cóc gì!
Mấy đứa tôi cùng túm lấy anh, nhảy lên reo khiến nhiều người
ngỡ ngàng, cùng đổ xô mắt nhìn. Anh Nhu lại ra lệnh:
- Bảo! Mua lấy nửa ký cà chua, một bó hành về nấu canh. Chỉ một
món canh đặc biệt thôi, đồng ý chưa?
Bữa ấy vui như Tết. Cả nhà quây quần quanh nồi canh thịt cà
chua hành váng mỡ nổi sao trông thật hấp dẫn, ai nấy đều căng phễnh bụng. Nhưng
rồi khốn khổ vì suốt đêm thay nhau bị “Tào tháo đuổi”. Lâu nay ăn uống kham khổ,
chỉ có hết muối vừng kèm dăm ba hột lạc, nay được một bữa phủ phê nào thịt, nào
mỡ, cái bụng không quen, của thiên giả địa hết.
Đúng ra, nói thật chính xác thì chúng tôi ít được ăn thịt, chỉ
hai ba tháng ăn một lần dăm ba miếng, nhưng mỡ thì không đến nỗi thiếu. Thỉnh
thoảng thằng Bảo về quê, khi lên cũng mang theo một chai mỡ nước. Mỡ đông trong
chai, là món dự trữ để chúng tôi ăn dần. Ăn dè xẻn bằng cách mỗi bữa rót ra một
thìa nhỏ, trộn muối hột sền sệt để hột muối nào cũng thấm mỡ. Đĩa muối mỡ để giữa
mâm, mấy anh em nhón gắp từng hột, ăn cũng đậm đà và béo ngậy.
Rau thì chẳng thiếu. Chúng tôi có một mảnh vườn nhỏ trồng rau
mùa nào thức nấy. Rau muống trắng, rau dền, rau cải thay nhau phủ kín các luống,
không cho đất được nghỉ ngơi. Ven bờ rào, đặc biệt chúng tôi trồng được mấy bụi
mồng tơi và mấy gốc rau đay ăn quanh năm. Thường thì mấy loại rau đó chỉ sống
qua từng vụ, nhưng cây của chúng tôi cho lá quanh năm. Mấy gốc đay, mồng tơi ấy
đã già lắm, trông cằn cỗi, lá nhỏ nhưng nảy lộc liên tục. Càng hái càng nảy lộc,
chỉ tội nhỏ và không được mỡ màng. Đó là kho thức ăn dự trữ tuyệt vời của anh
em tôi. Bất cứ lúc nào, ngay cả những lúc mưa gió hay có khách đột xuất, bao giờ
cơm canh cũng đầy đủ. Chỉ cần ra bờ rào, hái nhanh vài nắm lá, vậy là xong. Đôi
khi anh em tôi hứng lên, ăn đổi món. Rau muống, rau cải mãi cũng chán. Làm một
bữa rau láo nháo ăn chơi. Chỉ việc chui qua hàng rào nứa, sang bên trường học.
Quanh nền nhà lớp học, cơ man nào là rau rệu, rau dền cơm, rau xam… Loáng một
cái đã được đầy rổ. Rau láo nháo ăn ngọt, lại rất lành.
([1]) Thơ Tố Hữu.
7. Một hôm được nghỉ học, thằng Bảo rủ tôi về quê nó chơi. Tôi
nhận lời ngay vì từ hồi mới gặp nhau, nó đã kể cho tôi biết bao nhiêu chuyện lý
thú về làng quê của nó. Cứ theo lời nó kể, tôi hình dung ra quê nó đẹp vô cùng.
Chưa về quê nó, nhưng trong tâm trí tôi, những đầm sen, những cổng làng, những
bãi, những gò với sự tích bầy gà vàng cứ long lanh ẩn hiện như ở một xứ sở thần
thoại nào.
Hai đứa dậy thật sớm đi cho đỡ nắng. Về nhà nó chừng mười bốn,
mười lăm cây số. Bảo nói cứ nhẩn nha đi bộ, trưa sẽ đến nơi. Vừa đi, nó vừa kể
chuyện cho quên nỗi mệt nhọc. Chỉ dãy núi kéo dài chắn ngang cả phía chân trời
trước mắt, Bảo hỏi tôi:
- Mày có biết dãy núi kia tên gì không? - Tôi chưa kịp trả lời,
nó đã nói. - Ờ, chắc mày chưa biết đâu. Đó là núi Neo. Sự tích hay đáo để. Có
nhiều truyền thuyết về dãy núi này lắm, nhưng thôi, tao chỉ tạm kể cho mày nghe
hai sự tích thôi nhé!
Tôi náo nức đón nghe nó kể. Biết vậy, nó cố tình chọc tức tôi
bằng cách cứ ậm ừ, hết hắng giọng lại làm lơ giả bộ nói sang chuyện khác. Tôi
đành phải cố nài nỉ nó mới bắt đầu “mở máy”. Chuyện thứ nhất, nó kể rằng: Ngày
xửa ngày xưa, cách đây đã lâu lắm, có đến hàng triệu triệu năm, từ cái thời mới
khai thiên lập địa, có năm mươi ông khổng lồ thi nhau đào vét đất để tạo ra con
sông Thương. Đào được sông rồi, các ông lại thi nhau gánh đất đã đào lên đổ đi
nơi khác, sao cho thật nhanh, thật gọn. Mỗi ông gánh một gánh nặng vô cùng, mỗi
bên quang gánh là cả một trái núi khổng lồ. Các ông thi nhau vừa gánh vừa chạy.
Bốn mươi chín ông cùng đến một lúc. Riêng có một ông đuối sức, gần đến đích thì
loạng choạng muốn ngã, chỉ đổ được một trái núi vào đống đất chung, còn trái
núi bên kia bị văng ra xa. Vì thế dãy núi Neo chỉ có chín mươi chín ngọn…
Tôi thích thú reo lên:
- Có thật là chỉ có chín mươi chín ngọn? Đã có ai đi khắp được
dãy núi để đếm từng ngọn núi chưa?
Thằng Bảo hỉnh mũi đầy vẻ tự đắc. Nó lại ậm ừ, cố trì hoãn
câu chuyện. Tôi lại phải nén bực bội, khẩn khoản:
- Kể tiếp đi, Bảo! Sao biết chính xác có chín mươi chín ngọn?
Bảo phẩy tay:
- Thì hãy dỏng tai lên mà nghe tiếp truyền thuyết thứ hai
đây! Mày biết không, chỉ một chút xíu nữa thì vùng đất quê tao trở thành đất
kinh kỳ, nơi nhà vua xây dựng kinh đô đấy nhé! Chỉ một chút xíu nữa thôi, tiếc
thật! - Bảo chép miệng, vẻ mặt vừa quan trọng vừa ngán ngẩm tiếc rẻ.
Nó im lặng hồi lâu. Tôi không đoán được lần này nó buồn thực
sự hay làm bộ làm tịch kéo dài câu chuyện để chọc tức tôi. Nhìn bộ mặt thiểu
não của nó, tôi đoán có thể nó buồn thật. Mãi sau, nó mới kể tiếp:
- Mày biết vì sao vùng quê tao không được trở thành kinh đô
không? Chỉ vì có một lần một trăm con đại bàng khổng lồ từ rất xa bay tới.
Chúng dang cánh bay rợp trời rợp đất. Chúng lượn qua lượn lại, đảo khắp các
vùng trời để tìm đất lành trú ngụ. Thấy dãy núi Neo trập trùng, đất đai xung
quanh tươi tốt, trù phú, một trăm con đại bàng xà xuống đậu. Mỗi con đậu một đỉnh
núi. Núi chín mươi chín ngọn, chỉ đủ cho chín mươi chín con đậu. Một con cuối
cùng lượn qua lượn lại mãi, không tìm đâu ra nơi trú chân, liền vỗ cánh bay đi.
Thấy thế, cả đàn lần lượt vỗ cánh bay theo. Người ta bảo vậy là đây không phải
là đất đế vương. Các vua chúa về sau không chọn nơi này làm kinh kỳ nữa. Mày bảo
như vậy có tiếc không? Tiếc đứt ruột đi ấy chứ! - Trầm ngâm một lát, nó phẩy
tay. - Nhưng thôi, như vậy cũng là một vùng đất quá nổi tiếng rồi, phải không?
Cũng chỉ thua kém đất kinh kỳ một chút xíu…
Nghe Bảo kể chuyện, tôi quên hết mệt nhọc. Thêm nữa, trời hôm
nay nắng nhạt, gió hiu hiu mơn man da thịt thật dễ chịu. Hai đứa cứ vui chân nhẩn
nha đi.
Hết kể về sự tích cũ, Bảo lại giảng giải cho tôi về các giống
cây cỏ gặp trên đường. Trong nó là cả một kho kiến thức về thiên nhiên làm tôi
phát thèm. Những ngày nhỏ, tản cư lên vùng Yên Thế mấy năm, được sống giữa cây
cỏ, đồng ruộng, tôi cũng không xa lạ lắm với thiên nhiên, nhưng so với Bảo, hiểu
biết của tôi còn kém xa. Có lẽ vì Bảo vốn quê ở nông thôn, gia đình qua nhiều đời
làm ruộng, từ nhỏ đến lớn Bảo đều sống giữa môi trường đồng ruộng, tất cả đã ăn
sâu vào máu thịt; còn tôi, dù sao cũng là dân thành phố, chỉ mới được biết về
làng quê trong những năm đi chạy giặc…
Hết chuyện cây cỏ, Bảo lại thao thao về chuyện tôm cá. Nó bảo
rồi nó sẽ dạy tôi đi câu, đi bắt cua, bắt ếch, đi tát đìa… Nghe nó nói, tôi sướng
mê. Đang kể chuyện cua cá, đột nhiên nó hỏi tôi:
- Mày đã ăn thịt ba ba bao giờ chưa? Chưa à? Ngon tuyệt cú
mèo mày nhé! Tao có một ông chú họ chuyên sống bằng nghề bắt ba ba. Ông ấy uống
rượu tối ngày, tính điên điên khùng khùng nhưng bắt ba ba thì phải nói là tài số
một. Ông ấy ở một mình trong túp lều ven sông, cạnh một đập nước chảy xiết.
Trong lều, trên vách liếp, treo một dãy mo nang, cái to cái nhỏ cắt hình những
con ba ba đủ loại. Khách đến mua ba ba nhắm rượu liên tục. Khách thập phương biết
tiếng, tìm đến cũng rất nhiều. Nghe tiếng đồn ông ấy có tài bắt ba ba mà! Ba ba
ở dưới sông sâu nhưng khách đến muốn mua vào giờ nào cũng có, muốn to nhỏ cỡ
nào cũng có. Cứ việc chỉ vào mấy tấm mo nang, ông ấy sẽ đi bắt về ngay tắp lự,
đúng y boong kích cỡ yêu cầu. Trước khi lặn sâu xuống nước, ông ấy tợp mấy ngụm
nước mắm rồi chỉ vận mỗi chiếc quần đùi, ông ấy nhảy ùm xuống nước lặn một hơi.
Nước dưới sâu lạnh đến rụng rời chân tay mày nhé! Nhờ có mấy ngụm nước mắm nhĩ
nên ông ấy ấm người, đủ sức chịu lạnh. Nếu không, máu ộc ra đằng mũi đằng mồm
và phọt cả ra hai lỗ tai ngay. Một lúc rất lâu sau, khi mọi người đã sốt ruột,
tưởng là ông ấy bị chết ngạt dưới đó rồi, thì bỗng nhiên ông ấy trồi lên, tay
giơ cao con ba ba còn người thì tím tái, hai hàm răng va nhau lạch cạch. Hỏi
sao ở dưới đó lâu thế, ít ba ba lắm à? Ông ấy cười khành khạch: “Ba ba vô thiên
lủng, nhưng tôi chọn đi chọn lại, mãi mới bắt được con vừa đúng tiêu chuẩn quý
khách yêu cầu”. Mày bảo thế có thánh không? Mày muốn “thực mục sở thị”, hôm nào
tao sẽ cho mày gặp ông ấy. Thế nào ông ấy cũng đãi cánh mình món cháo ba ba trứ
danh.
Chuyện con cà con kê của thằng Bảo giúp cho hai đứa tôi quên
hết cả thời gian. Đã về đến quê nó từ lúc nào. Nhưng thú thật là tôi thất vọng
ghê gớm. Tôi không tin vùng đất đang bày ra trước mắt tôi kia lại là quê của thằng
Bảo. Tôi hỏi đi hỏi lại nó đầm sen đâu? Cổng làng đâu? Bãi thả trâu có hang của
bầy gà vàng đâu? Nó vẫn rất tự tin trả lời bằng một giọng chắc nình nịch:
- Đó thôi! Đang ở ngay trước mặt mày đó thôi!
Tôi căng mắt nhìn, không dám tin vào đôi mắt của mình nữa. Đầm
sen có rộng như nó miêu tả đâu! Nước cạn, lơ phơ những cuộng sen héo úa, thảng
hoặc mới có vài ba chiếc lá còn xanh. Cổng làng thì nhỏ bé, loang lổ rêu phong,
một góc bị sạt lở, gạch vôi lỏng chỏng. Thất vọng nhất là hang đàn gà vàng trú
ngụ. Cứ tưởng hang phải to lắm, mỏm đá phải cao lắm, xung quanh cảnh vật phải
huyền bí lắm. Ai ngờ chỉ là một bãi đất hoang mọc đầy dứa dại, ở giữa nhô lên một
gò đất nhỏ, có mấy tảng đá to chừng chiếc chum, chiếc vại. Đúng là có hai tảng
đá gần kề nhau có mặt phẳng, có thể coi như một nhát chém vỡ đôi thật. Tảng lớn
có một lỗ sâu hun hút, miệng rộng con chó có thể chui lọt. Dù sao tảng đá ấy, lỗ
hang ấy cũng khác xa với những gì lung linh tôi hằng nghĩ. Sợ Bảo buồn, tôi
không dám bộc lộ hết nỗi thất vọng của mình. Tôi nói với nó:
- Chiều nay cậu dẫn mình đi xem thêm những cảnh đẹp của quê cậu
nhé!
Bảo nói rất vô tư:
- Thì đó! Có gì hay nhất, tao đã chỉ cho mày xem rồi đó!
Tôi chợt hiểu ra trên cùng một mảnh đất này, tôi thì dửng
dưng, hầu như vô cảm, còn thằng Bảo thì yêu mê đắm vì nó có cả một quá khứ với
biết bao gắn bó. Cả tuổi thơ của nó trôi qua ở đây. Những buổi lặn ngụp trong đầm
sen. Những lần thả trâu trên bãi hoang. Những cuộc đánh trận giả bươu đầu sứt trán.
Những đêm trăng thanh nằm mơ mộng đếm sao trời và nghe mẹ kể về đàn gà vàng kỳ ảo…
Đêm ấy ngủ ở nhà thằng Bảo, tôi cứ thao thức mãi, trằn trọc
không ngủ được. Không chỉ vì lạ nhà mà còn vì nghĩ ngợi vẩn vơ, lan man biết
bao chuyện.
Bảo dọn giường thu xếp cho tôi ngủ ở buồng bên xong, nó ra ngồi
nói chuyện với mẹ. Nó nói đủ thứ chuyện. Hết chuyện học hành đến chuyện đi làm
thêm, chuyện mấy anh em ăn bánh đúc riêu ở chợ, chuyện vỡ đất trồng rau, cả
chuyện “Tào Tháo đuổi”. Cả chuyện nó bị hắc lào, người ta mách bôi nước điếu
xót ơi là xót, mãi cả tháng trời mới khỏi… Nghĩa là nó kể cho mẹ nó nghe không
thiếu một chuyện gì, ngay cả những chuyện rất vặt vãnh, vớ vẩn.
Nằm ở phòng bên này, tôi ngạc nhiên hết sức. Tự nhiên nước mắt
tôi cứ ứa ra. Tôi chợt hiểu ra một điều rất giản dị nhưng lâu nay tôi không tự
biết: Thì ra có mẹ là như thế đấy. Có thể tâm sự với mẹ về tất cả mọi điều,
nghĩ thế nào thì nói ra thế ấy, không cần đắn đo cân nhắc, không chỉ nói những
điều to tát, có ý nghĩa mà có thể nói cả những điều vụn vặt, những suy nghĩ
đang hình thành, còn dở dang chưa hoàn chỉnh… Mất mẹ từ nhỏ, tôi không được hưởng
những hạnh phúc bình dị ấy. Mấy anh chị em tôi đã phải sống già trước tuổi.
Ngay từ nhỏ, rất ít khi chúng tôi được sống cùng với nhau trong một thời gian
dài. Người ở với ông bà. Người ở với chú này, cô nọ. Mỗi khi gặp nhau thường là
phải có chuyện quan trọng gì đó chứ ít khi được thanh thản vô tư. Thấy tôi đến
gặp, các chị tôi thường không giấu được vẻ lo lắng chắc là tôi có điều gì không
vui, hoặc bố tôi và cô tôi có chuyện gì phải lo nghĩ rồi. Vì thế, sau này, khi
vừa gặp các chị tôi, để tránh cho các chị phải nghĩ ngợi, tôi thường nói ngay:
“Em vẫn bình thường. Gia đình vẫn bình thường. Lâu không gặp các chị, em nhớ
thì vào thăm thôi!”.
Càng nghe thằng Bảo tía lia cái miệng, chẳng những nó tía
lia, nó vừa nói vừa ăn nhồm nhoàm, đòi mẹ nó hết thứ này đến thứ khác, khuya rồi
mà nó còn bắt mẹ nó đi rang lạc rồi gọi tôi trở dậy cùng ăn…, tôi thèm được vô
tư như nó quá.
Tôi ở chơi nhà Bảo đến trưa hôm sau thì hai đứa ra về. Mẹ Bảo
bắt mang đi đủ thứ: nào là gạo nếp, nào khoai sọ, khoai lang, nào mấy bơ lạc và
không quên một chai mỡ nước. Mẹ Bảo rất hiền. Bà ít nói, ban đầu tôi thấy hơi
ngài ngại nhưng sau tôi nhận ra bà ít nói vì hiền lành, ít giao thiệp rộng chứ
không phải sự ít nói của người khó tính.
Dọc đường về, Bảo lại nhẩn nha kể chuyện về quê nó cho tôi
nghe. Suốt cả buổi sáng nó đã dẫn tôi đi đảo một vòng khắp làng. Tôi nhìn, tôi
ngắm nơi nọ nơi kia theo tay nó chỉ một cách hờ hững, không mấy mặn mà nên bây
giờ tôi mới tiếc. Chốc chốc nó lại hỏi tôi:
- Mày có để ý cây đa ở cạnh đình không? Ngày nhỏ bọn tao thường
ra đấy bẫy chim…
- Con chó đá ở đầu làng, mày có biết vì sao nó bị vạt mất cái
mõm không?
- Cái giếng làng tao, mày có trông thấy những bậc đá xanh
không? Ngày xưa có một cô tiên đẹp đến mê hồn mày nhé, đêm đêm cô thường đến
múc nước gội đầu. Ôi chao! Tóc cô dài ơi là dài…
Nó nói đến đâu, tôi ngớ ra đến đấy. Quả thật là tôi hờ hững
quá, vô tình quá. Tôi thèm có một tình yêu làng quê như nó. Nó gắn bó với làng
quê bằng những kỷ niệm thật cụ thể, thật rõ ràng. Chỉ một ngày về quê với nó,
tôi học thêm được biết bao điều.
8. Sáng nay, cả lớp náo nức vì được cô Kim dẫn đi tham quan Kho
xăng dầu. Đối với một thị xã nhỏ, vào những ngày hòa bình mới được lập lại chưa
được bao lâu, việc kho xăng dầu được xây dựng ở vùng ngoại vi, gần bên bờ sông
Thương là cả một sự kiện lớn. Từ rất xa đã có thể trông thấy những bồn chứa dầu
khổng lồ trắng lóa dưới nắng. Từng vòm, từng vòm tròn, bồn nọ kế bồn kia, cả một
khu rộng lớn được tường cao bao bọc, có đèn sáng rực thâu đêm. Đối với bọn nhỏ
chúng tôi thời ấy, kho xăng dầu to lớn uy nghi là biểu hiện rực rỡ của công cuộc
công nghiệp hóa, là biểu tượng đẹp đẽ của tương lai đất nước.
Gần hai tiếng đồng hồ, chúng tôi được dẫn đi tham quan các
kho bãi. Trước đó, ông phụ trách kho xăng đã nói chuyện với chúng tôi về công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước bạn, về ý nghĩa của xăng dầu
trong công cuộc xây dựng vĩ đại đó và cuối cùng là quá trình xây dựng kho xăng,
dung tích của mỗi bồn chứa, khối lượng đồ sộ của cả kho bãi, thành tích của cơ
quan từ khi được thành lập… Tiếng xuýt xoa thích thú, tiếng trầm trồ thán phục
râm ran. Cả bọn chúng tôi nghiêm trang, gần như kính cẩn đi quanh các bồn chứa,
mắt ngước nhìn lên các vòm mái tròn cao vút, cảm thấy lòng đầy tự hào. Nói ra
thì có vẻ khó tin, nhưng đúng là có mấy đứa lúc nãy đã ngây thơ nghĩ rằng mỗi bồn
chứa to lớn kia là cả một nhà máy, trong đó máy móc chạy rì rầm suốt đêm ngày để
chế tạo ra xăng dầu. Bọn tôi cãi đó chỉ là những bồn chứa, người ta chở xăng dầu
đến bơm vào những bồn chứa đó để dự trữ, mấy đứa kia dứt khoát không tin, cho
là chúng tôi không biết gì. Dù sao thì buổi tham quan cũng để lại trong lòng lũ
trẻ chúng tôi những ấn tượng rất tốt đẹp.
Sau buổi tham quan, mấy đứa chúng tôi rủ nhau ra bờ sông
chơi. Sông Thương những ngày cuối năm hanh heo thật đẹp. Nước trong văn vắt,
lành lạnh màu vỏ chai xanh lục nhạt. Tôi thắc mắc:
- Sao người ta lại nói “Sông Thương nước chảy đôi dòng” hở Bảo?
- Ban đầu tao cũng thắc mắc như thế, nhưng sau mới phát hiện
ra là thế này mày ạ: Đoạn phía trên cầu chừng vài trăm mét có một cửa cống rất
lớn. Về mùa mưa lũ, nước từ trong đồng túa ra sông qua cửa cống đó. Nước trong
đồng đục ngàu, chảy xiết tạo thành một dòng chảy riêng biệt không hòa lẫn với
nước sông trong vắt nên mới có câu “nước chảy đôi dòng”, bên trong bên đục.
Nhưng cũng chỉ được một đoạn thôi. Qua khỏi cầu một khúc, dòng nước trong đồng
yếu dần, nước trong nước đục hòa vào nhau liền. Đó, cái cửa cống to chềnh ềnh
đó, mày thấy không?
Chọn một triền đê thoai thoải có đám cỏ mượt, bọn tôi lăn
toài ra nằm. Ngửa mặt lên ngắm trời mây, dang chân dang tay ra thoải mái, sao
mà thú vị đến thế! Gió hiu hiu mơn man da mặt. Vài sợi tóc vương trên trán khe
khẽ lay động buồn buồn. Trời xanh ngút ngát, ban nãy vừa thấy mấy cụm mây bông
nõn bay nhởn nhơ, thoáng cái đã mất hút, hình như chúng đã tan hòa vào sắc xanh
không cùng… Mặt sông nhấp nhánh ngàn vạn những đốm sáng nhảy nhót nhìn đến lóa
mắt. Nắng loang loáng sắc vàng phơi phới bay khắp trời. Tinh ý, có thể nhận ra
những sợi tơ trời mỏng mảnh lả lướt óng ánh thoáng hiện rồi lẳng lặng biến mất…
Dưới sông, thuyền bè qua lại tấp nập. Nhiều nhất là những
thuyền chở cát, chở gạch, đá. Cờ đỏ, cờ xanh hòa bình trên mũi thuyền, sau đuôi
thuyền. Không khí những ngày mới hòa bình vẫn chưa phai nhạt. Ven sông san sát
những bè gỗ, bè tre nứa đang nằm chờ được bốc dỡ. Tiếng gọi nhau í ới. Tiếng
máy nổ xình xịch. Tiếng xe rồ. Tiếng ngựa hí. Tiếng người la hét… Trăm ngàn âm
thanh hỗn tạp vẫn không át đi được tiếng vỗ óc ách, dào dạt của những con sóng
táp vào mạn những con thuyền đang chầm chậm trôi trên sông.
Tự nhiên, mấy đứa cùng im lặng không nói, chỉ chăm chú nhìn
ra mặt sông lấp lánh ánh nước. Một lúc lâu sau, thằng Tụng mới ngồi nhỏm dậy, đột
ngột hỏi:
- Tối qua các cậu có đi xem phim không?
Không hẹn mà cả mấy đứa chúng tôi cùng ngồi bật dậy:
- Có! Có!
- Phim tuyệt cú mèo!
- Phim thế mới là phim chứ, nhỉ!
- Thiện, mày có nhớ mấy câu nói rất hay ở đoạn cuối phim
không? Đọc lại nghe coi!
Tôi hắng giọng, cả bọn im thin thít, chăm chú chờ đợi. Tôi đọc
lại nguyên văn lời thuyết minh trong phim:
- Vào đời! Vào đời để hiến cho đời tất cả những gì tốt đẹp và
nhân đạo của tâm hồn, trí óc ta!
Thằng Tụng sôi nổi nhắc thêm:
- Còn một câu nữa. Cái câu ở đoạn giữa phim ấy!
Tôi lại cao giọng đọc:
- Sau này có chết đi, thân thể có mục nát thì trước khi nhắm
mắt, ta có thể tự hào rằng: Trong đời ta, suốt hơn bốn mươi năm trời, có những
kẻ cố tình làm cho tâm hồn ta hư hỏng, nhưng công trình của họ chẳng khác nào
dã tràng xe cát…
Cả thằng Tụng và thằng Bảo cùng nài nỉ:
- Mày đọc lại một lần nữa để chúng tao chép.
Tôi gạt đi:
- Thôi, muốn chép để lúc khác. Bây giờ nói chuyện thích hơn.
- Thì cứ đọc cho nghe một lần nữa vậy.
Tôi lại phải đọc cho chúng nó nghe một lần nữa. Cả bọn lại
cùng trầm trồ bàn tán về bộ phim tối hôm qua. Đó là bộ phim “Thời thơ ấu của
Mácxim Gorki”. Có thể nói trước đó chưa bao giờ chúng tôi được xem một bộ phim
hay như thế. Bộ phim đã gây một ấn tượng rất mạnh, để lại trong tâm khảm tôi những
kỷ niệm đẹp đẽ, không bao giờ phai mờ. Có lẽ đó là bộ phim có ảnh hưởng sâu sắc
nhất đối với thời niên thiếu của tôi, có tác động sâu xa đến cuộc đời tôi sau
này. Tôi yêu biết bao nhiêu chú bé Aliôsa nghèo khổ nhưng tràn đầy lòng yêu con
người, yêu cuộc sống. Tôi không thể nào quên được hình tượng bà ngoại đầy bao
dung, anh Tsưganốc hào hiệp và bác Tốt Lắm hiền từ. Hình ảnh cuối cùng của bộ
phim đầy chất biểu tượng, như một giấc mơ, như một lời kêu gọi đã cuốn hút tôi,
ghi hằn trong tôi suốt đời không thểnào quên: Trên đồng cỏ lộng gió mờ mờ ẩn hiện
con đường thiên lý chạy mãi đến những nơi xa tít tắp, chú bé Aliôsa - nhà văn
vĩ đại Mácxim Gorki tương lai - đang xăm xăm bước đi. Chiếc mũ kê pi và mái tóc
dày biếng chải bị gió hất ngược lên. Tà áo rộng phần phật bay trong gió. Trên
vai khoác chiếc túi vải - Aliôsa hăm hở bước ngược chiều gió thổi. Vang lên lời
kêu gọi cháy bỏng: “Vào đời! Vào đời để hiến cho đời tất cả những gì tốt đẹp và
nhân đạo của tâm hồn trí óc ta!”. Người tôi run lên. Cuộc đời lam lũ bần hàn
nhưng đầy chất lãng mạn của cậu bé Aliôsa đã lôi cuốn tôi thực sự, làm cho tôi
mê say thực sự. Hình ảnh nhà văn vĩ đại của tương lai đã hằn sâu trong tâm khảm
tôi, lay động mãnh liệt tâm hồn tôi.
- Nghĩ ngợi gì mà im lặng thế hở Thiện?
Tiếng thằng Bảo làm tôi bừng tỉnh, trở về với thực tại. Thằng
Tụng lăn người đến nằm sát tôi. Giọng nó tha thiết:
- Mày đọc lại cái câu ở cuối phim cho tao chép đi!
Nó giở cuốn sổ dày cộp, bên trong ghi chi chít những câu danh
ngôn, những đoạn văn hay ra, nắn nót ghi thêm câu nói trong phim do tôi đọc lại.
Ngày đó, mấy đứa có máu mê yêu văn chương bọn tôi, đứa nào cũng có một cuốn sổ
ghi những câu văn hay như thế. Mỗi lần đi xem phim về, bọn nó thường bắt tôi đọc
lại những đoạn thuyết minh phim có ý nghĩa hoặc ít nhiều có chất văn chương để
chúng nó chép lại. Hồi đó trí óc non dại của tôi tiếp thu rất nhanh những ý tưởng
mới lạ, tôi thuộc một cách dễ dàng từng đoạn văn dài dằng dặc.
Chép xong mấy câu nói trong phim, Tụng bảo tôi:
- Tao chỉ muốn bỏ học thôi mày ạ. Bỏ học để bước vào đời lấy
vốn sống mà viết. Thầy Luyến vẫn thường nói đấy thôi! Muốn viết văn phải có nhiều
vốn sống, phải lăn lộn, từng trải. Vậy mà chúng mình sống nhạt nhẽo quá!
Tôi rất hiểu tâm trạng nôn nóng của thằng Tụng. Tôi cũng có
những ý nghĩ giống như nó. Nhiều lúc tôi cũng rất muốn bỏ học, vừa là để bớt
gánh nặng cho gia đình, vừa là để tích luỹ vốn sống sau này sẽ viết. Không nói
ra ý nguyện ấy, sợ bạn bè cười cợt, nhưng thực ra trong lòng tôi luôn sôi sục
khát vọng sau này sẽ trở thành một nhà văn.
Giọng thằng Tụng vẫn sôi nổi:
- Tiếc thật đấy! Chúng mình sinh ra muộn màng quá. Giá sinh sớm
dăm bảy năm, được đi bộ đội, vào sống ra chết, chiến đấu trên khắp các chiến
trường trong Nam ngoài Bắc thì phải biết nhá! Thế nào tao cũng viết được một
tác phẩm hay ra trò! Còn bây giờ, chiến tranh ác liệt qua rồi, chẳng có gì gay
cấn hấp dẫn nữa…
Thằng Bảo cũng ngồi nhỏm dậy góp chuyện:
- Tao thì chẳng văn chương chữ nghĩa gì như hai đứa mày.
Nhưng tao cũng tiếc lắm. Đúng là cuộc sống bây giờ không thú vị bằng trước đây.
Tao khoái đi bộ đội lắm nhưng chiến tranh qua rồi, mất hết lý thú!
- Mày muốn đi bộ đội thì thiếu quái gì dịp? Đến tuổi đi nghĩa
vụ, mày được đi liền à! - Thằng Thao từ nãy vẫn nằm lim dim mắt, im lặng lắng
nghe không nói gì. Nó vốn là thằng rất chín chắn, nói câu nào chắc câu ấy, giờ
cũng vui vẻ góp chuyện.
Bảo nhăn nhó:
- Thời bình, đi bộ đội, chẳng đánh đấm gì, chán chết! Tao muốn
được lao vào lửa đạn hẳn hoi kia! Đúng là chúng mình sinh sau đẻ muộn, chịu đủ
thứ thiệt thòi…
- Mày lo gì! Trong miền Nam đấy, giặc giã đã yên đâu… - Thằng
Thao nói lấp lửng.
Bảo vẫn thở dài sườn sượt. Tôi biết nó buồn thực sự. Tôi ngồi
hẳn dậy kể cho chúng nó nghe về một kỷ niệm nhỏ tôi được chứng kiến năm, sáu
năm về trước. Hồi đó, gia đình tôi tản cư lên vùng Yên Thế. Một hôm, có một đơn
vị hành quân qua làng. Toàn là tân binh, anh nào anh nấy trẻ măng. Các anh chỉ
dừng lại một buổi để nấu cơm nhờ. Ăn xong lại ào ào lên đường. Cơm chẳng có gì
ngoài một món rau muống luộc chấm tương, nhưng các anh cười đùa rất vui vẻ. Bọn
trẻ con chúng tôi đứng vòng quanh, mê mải nghe các anh hò hát. Tôi vẫn nhớ như
in quang cảnh các anh ngồi quanh đống lửa, vừa hào hứng vỗ tay, vừa hát say
sưa. Lời bài hát thật mộc mạc, giản dị, có lẽ là do các anh tự sáng tác nhưng mới
sôi nổi, hào hùng làm sao. Một anh đứng lên bắt nhịp, tay vung lên như múa, người
nghiêng ngả như say. Ca đám đông cùng hát theo với đủ thứ giọng trầm bổng, khàn
đục, thô ráp nhưng đầy chân thành và sôi sục: “Đời lên đèo, đời xuống đèo. Đời
lên dốc, đời xuống dốc. Đời vệ quốc thú lắm anh em ơi! Súng trong tay anh bắn
quân thù. Giặc chịu thua quay đầu về nước. Đời vệ quốc tươi thật là tươi!”
Tôi chưa thấy bài hát nào lại mộc mạc như thế, hồn nhiên như
thế nhưng cũng phản ánh rõ đến thế cái hào khí của một cuộc chiến đấu của những
người nông dân vừa vùng lên đánh đuổi quân thù. Nếu chỉ đọc lên lời lẽ kia thì
khó mà hình dung được cái không khí sử thi kỳ lạ mà bài hát đã gợi lên. Phải
hát lên kia! Cái chất nhạc thô ráp, dung dị nhưng mạnh mẽ, gân guốc đầy gợi cảm.
Tôi bỗng cao hứng hát thành lời bài hát đầy chất dân dã. Cả Bảo, Tụng, Thao, Tấn,
Thanh cùng mấp máy môi hát theo, ban đầu còn rụt rè, sau mạnh bạo dần và cuối
cùng thì cả mấy đứa đều đắm chìm vào trong lời hát hào hùng.
- Đó, thấy chưa? Bây giờ thì còn đâu cái hào khí náo nức ấy nữa?
- Thằng Bảo tiếc hậm tiếc hụi.
- Mình còn nhớ một câu hát rất hay này nữa. Chỉ một câu thôi!
- Tôi khoe.
- Câu gì? Câu gì, nói nghe coi! - Thằng Tấn nôn nóng hỏi.
Hành vi ấy hiếm thấy ở nó. Tấn vốn điềm đạm. Đã nhiều lần nó ao ước sau này trở
thành một nhà giáo, về dạy ngay chính ngôi trường này.
- Cái hồi chiến dịch Đông Khê, Thất Khê mình còn bé xíu.- Tôi
bắt đầu nhớ lại.- Các bác các chú mình kể chuyện cho nhau nghe, mình cứ hếch
mũi, dỏng tai lên mà nghe hóng. Có một chuyện làm ai nấy đều cảm động. Chú mình
kể lại, khi Đông Khê được giải phóng, trong một buổi chiều mưa rét, giữa vùng rừng
núi còn khét lẹt khói súng, có một đoàn tù binh được bộ đội ta áp giải đi. Có
nhiều lính Âu Phi, do hoảng loạn bỏ chạy, đã cởi cả áo quần quăng đâu mất. Chỉ
đánh mỗi chiếc quần đùi, họ co ro lầm lũi đi trong mưa lạnh. Ở một ngã ba đường,
có mấy cán bộ của ta đứng nhìn theo đoàn tù. Trong gió rét căm căm, một cụ già
bỗng cởi áo khoác ngoài choàng lên vai người tù binh da đen khập khiễng đi
ngang qua. Người tù binh vừa sợ sệt vừa ngạc nhiên, cảm động nói lời cảm ơn. Chắc
anh ta chỉ nghĩ rằng đó là một ông già Việt Nam bình thường chứ không hề biết
đó chính là Bác Hồ, đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Cả Tụng và Bảo đều có vẻ không tin, dồn dập hỏi:
- Sao mày biết chuyện đó?
- Ai kể cho mày nghe chuyện đó?
Tôi thủng thẳng đáp đầy vẻ tự tin:
- Thì mình đã bảo chính chú mình tham gia chiến dịch đó kể lại
mà! Chú mình còn kể nhiều chuyện cảm động khác nữa. Có cả những chuyện buồn cười.
Chẳng hạn, có những anh bộ đội trông thấy những bánh pho mát lại tưởng là xà
phòng, đem ra suối tắm giặt, gội đầu, thế là bê bết, nhày nhụa hết cả. Thì từ
thuở cha sinh mẹ đẻ, những người nông dân nghèo khổ ấy có biết pho mát pho miếc
là cái quái gì! Qua những chi tiết nhỏ nhặt như thế, mình cũng hiểu được cuộc
kháng chiến vừa qua thực sự là một cuộc đổi đời, những cái gì đó mới mẻ đang đến…
- Thế còn câu hát gì mà cậu bảo rất hay? - Tụng nhắc.
Tôi kể tiếp:
- Chú mình vừa gẩy ghita vừa hát một bài về chiến thắng Đông
Khê. Hay lắm. Trong đó có một câu làm mình nhớ mãi. Theo mình, chỉ có một câu
đó thôi cũng đủ gợi lên cả một bối cảnh hào hùng của chiến dịch…
- Thì nói ngay đi, cứ vòng vo mãi! - Bảo sốt ruột.
Tôi vẫn cứ nhẩn nha, cố tình trêu tức tính nôn nóng của hai đứa.
Thấy vẻ mặt cau có khổ não của chúng, tôi không nỡ đùa thêm, khe khẽ hát:
- “Một viên đạn không còn, lửa reo Đông Khê bốc cháy…”. Đó,
thấy không? Liệu có còn câu nào ngắn gọn mà nói lên được cả sự ác liệt của trận
đánh, cả nỗi hân hoan của những người chiến thắng như câu hát đó không? Bao
nhiêu sức lực đổ dồn vào trận đánh ác liệt. Vừa giành được chiến thắng, đồn bốt
địch vừa bốc cháy thì quân ta cũng không còn lấy một viên đạn. Ác liệt chưa? Có
đúng là một câu hát thật hay chưa?
Tôi hãnh diện khoe với chúng nó, vẻ mặt kiêu hãnh, cứ như
chính tôi là tác giả của câu hát hào sảng kia. Mấy đứa cùng lẩm nhẩm hát lại.
Nhưng hát xong, vẻ mặt đứa nào đứa nấy buồn thiu. Lại tiếc nuối không còn dịp để
được cống hiến hết sức mình cho đất nước.
- Tao vẫn sẽ xin đi bộ đội chúng mày ạ. - Thằng Bảo sôi nổi.
- Không còn giặc ở trong nước thì tao tình nguyện đi chiến đấu ở nước ngoài.
Như chí nguyện quân Trung Quốc sang chiến đấu ở Triều Tiên ấy!
Thằng Thảo làm ra vẻ thông thạo chính trị:
- Cần gì phải đi đâu xa? Miền Nam còn trong tay Mỹ - Diệm đó.
Biết đâu chiến tranh còn trở lại…
Giọng thằng Bảo chợt buồn buồn:
- Giá mà có chiến tranh nhưng mọi người đừng phải chết nhỉ!
Tao thích đi bộ đội, thích chiến đấu ác liệt, nhưng không muốn mọi người phải
chết!
Thằng Tụng cự lại:
- Mày nói gì kỳ cục thế? Làm gì có chuyện chiến tranh mà
không ai bị chết?
Bảo cười chống chế:
- Thì tao nói “giá mà” chứ tao có bảo sự thật là như thế đâu!
Còn mày, mày thích sau này sẽ làm gì?
- Tao sẽ lên công trường xây dựng… - Tụng khẽ nói.
- Mày sẽ “vào đời” như cái ông nhà văn trong phim ấy à?
Tụng không trả lời nhưng tôi biết đúng là nó dự định như thế.
Phim Thời thơ ấu xem tối qua cũng đốt cháy lòng nó như đã đốt cháy tâm hồn tôi.
Trong mấy đứa bạn, Tụng là đứa cũng có máu mê văn chương như tôi. Nó cùng học lớp
năm nhưng ở lớp năm B, còn tôi và thằng Bảo học lớp năm A. Tụng không phải trọ
học như tôi. Nhà nó ở ngay thị xã, chuyên làm giò chả. Mẹ nó rất hiền, bán hàng
ở chợ. Ông ngoại nó người nhỏ bé, rất ít nói và cũng rất hiền. Thỉnh thoảng tôi
đến chơi, ông thường lẳng lặng mang bánh dày, bánh giò ra dúi vào tay tôi, ra hiệu
bảo ăn. Hầu như tôi không nghe thấy ông nói bao giờ. Lúc nào cũng thấy ông lầm
lụi làm việc, lúc giã giò, lúc gói bánh, luộc bánh. Thằng Tụng có lẽ cũng giống
đức tính ông ngoại và mẹ. Nó ít nói, trầm tính. Tụng nhỏ con, da ngăm ngăm mai
mái. Nó rất quý tôi. Thỉnh thoảng, tan học, Tụng lại rủ tôi về nhà nó ăn cơm.
Hình như nó cố ý rủ tôi về nhà nó để nó “bồi dưỡng” cho tôi hay sao ấy, vì mỗi
lần tôi đến, nó toàn bắt tôi ăn vã giò chả, dứt khoát không cho tôi ăn cơm. Vừa
ép tôi ăn, nó vừa vồn vã: “Ăn đi! Ăn cho chán đi! Của nhà làm mà, thiếu gì!”.
9. Mấy anh em tôi vừa đi học vừa làm thêm được gần hai tháng thì
gặp một việc kinh khủng, chút xíu nữa xảy ra tai nạn. Hôm ấy hết gạch đá, chúng
tôi chuyển sang chở tre nứa, lá gồi lợp nhà. Vẫn bốc hàng từ dưới sông lên mặt
đê rồi từ mặt đê chở bằng xe ba gác vào thị xã. Hai chuyến đầu chót lọt, không
xảy ra chuyện gì. Đến chuyến thứ ba, phần vì mấy anh em đã thấm mệt, phần vì
chuyến cuối, cố chở cho hết số lá gồi còn lại nên xe quá nặng. Từ trên mặt đê,
phải ghìm xe cho chạy chầm chậm qua một con dốc thoai thoải chừng năm bảy chục
mét rồi mới xuống đến đường đất đỏ nối vào phố chính. Anh Nhu cầm càng, tôi và
thằng Bảo bám cuối thành xe. Mới lăn bánh khỏi mặt đê chừng vài mét, bắt đầu xuống
dốc, chiếc xe bỗng loạng choạng, nghiêng hẳn về một bên, chực đổ. Anh Nhu hét
lên:
- Hai đứa níu chặt lấy xe! Cố ghìm cho chắc nhá!
Tôi và thằng Bảo choãi chân, ngửa người ra phía sau, mắm môi
mắm lợi cố ghìm chiếc xe lại. Nhưng chiếc xe to lớn, lại đang ở trên đỉnh dốc,
cứ phăng phăng lao xuống. Hai đứa tôi cố bám chặt lấy xe, cương quyết không chịu
buông. Chân chúng tôi lập bập, nhảy choi choi, lúc chới với trên không, lúc sục
sâu vào đất, lúc bị kéo lê lết trên cỏ. Mắt tôi tối sầm. Không còn biết làm gì
hơn là cố bám thật chặt vào cuối thành xe, gồng mình, choãi chân trì níu cố
ghìm cho xe lao chậm lại. Tiếng la hét, kêu gào hoảng sợ vang lên bốn bề. Tất cả
cứ loang loáng vùn vụt lao xuống. Đầu óc tôi như mê muội không còn biết gì. Trước
mặt tôi, lúc tối đen, lúc lại đỏ rực lên như một lò lửa. Đột nhiên, tôi thấy
mình rơi phịch xuống, người đau nhói, ê ẩm. Thì ra chiếc xe ba gác lao nhanh
quá, tôi và thằng Bảo kéo lại không nổi, cả hai đứa đã bị văng ra, tung người
lên rồi ngã chúi xuống đất. Cũng may mà triền đê toàn đất thịt và cỏ mọc dày
nên không đến nỗi nào, chỉ bị đau ê ẩm toàn thân và sây sát hai khuỷu tay.
Nhưng anh Nhu thì vẫn đang trong tình thế vô cùng nguy hiểm. Tôi muốn kêu lên
mà không sao kêu nổi. Mồm chỉ há ra, mắt mở to kinh hoàng. Chiếc xe vẫn đang chồm
chồm lao xuống dốc. Lá gồi văng ra tứ tung. Anh Nhu vẫn cố bám càng, ghì chặt
chúng xuống, cố hết sức để ghìm bớt tốc độ ghê gớm của xe. Người anh lúc như rà
sát mặt đất, lúc lại bị nâng bổng lên không, hai chân khua khoắng chới với. Những
người bốc vác ở gần đấy và khách ngang qua đường kêu la ầm ĩ, nhiều người đứng
chết lặng nhìn theo một cách bất lực. Ai cũng nghĩ anh Nhu cầm chắc cái chết
trăm phần trăm. Cả tôi và thằng Bảo cùng vừa chạy theo vừa khóc nức nở. Biết là
anh của mình đang lao vùn vụt tới chỗ chết mà không có cách nào ngăn lại được.
Nhiều người khác cũng ùa chạy theo chúng tôi. Xuống đến chân dốc, chiếc xe phần
nào chậm lại và cuối cùng đổ nghiêng xuống vệ đường đánh rầm, ngay sát bên một
quán nước. Người trong quán từ nãy đã chạy túa ra khỏi quán, đang nhớn nhác đứng
dõi theo chiếc xe và bàn tán sôi nổi. Tôi và thằng Bảo lao đến chiếc xe đầu
tiên. Chúng tôi gào to, lăn xả vào gầm xe định ôm lấy xác anh Nhu mà cả hai đứa
tôi và tất cả mọi người đều đinh ninh là anh đã bị chiếc xe nghiến nát. Nhưng kỳ
lạ quá! Anh Nhu đang ngóc đầu lên, toe toét cười với hai đứa tôi. Anh vẫn nằm trong
gầm xe đang cố bươi đất chui ra. Người xúm đông xúm đỏ vây quanh anh, cười nói
rổn rảng. Không ai hiểu nổi vì sao anh lại thoát chết một cách kỳ lạ như thế.
Khi đã qua cơn choáng váng, bọn tôi mới bắt đầu quan sát. May mắn làm sao! Gần
qua khỏi chân đê, chiếc xe đã giảm tốc độ và đổ nghiêng ra vệ đường. Một bánh
xe lún sâu xuống đất ẩm, một bánh xe vênh lên trời, quay tít như chong chóng.
Anh Nhu nằm lọt dưới rãnh thoát nước, ngay dưới gầm xe.
Tiếng bàn tán rộ lên:
- Cậu này gan lỳ thật! Xe lao rầm rầm thế mà dứt khoát bám
càng không chịu buông!
- Không chịu buông là đúng! Nhát gan, buông ra là toi đời!
- Cái mạng cậu này lớn lắm đó! Thật là nhờ phúc đức ông bà…
- Cầm chắc cái chết trăm phần trăm, vậy mà không hề hấn gì, lạ
lùng thật!
Tôi ôm chặt lấy anh Nhu, vừa khóc vừa cười. Anh cúi xuống khẽ
bảo tôi:
- Trông buồn cười chưa kìa! Nín đi chứ! Anh vẫn sống nhăn
răng ra đây thôi!
Tôi biết anh nói cứng vậy chứ thật ra anh cũng tự biết là
mình vừa trải qua một tình huống cực kỳ nguy hiểm. Mặt anh vẫn còn tái mét. Mặt
tôi áp vào ngực anh, tôi vẫn còn nghe rõ trống ngực anh đập thình thình. Có cái
gì dinh dính, ươn ướt trên má tôi. Thì ra hai cánh tay anh bị sây sát, máu rướm
ra đỏ hết cả, dính vào má tôi.
Chúng tôi chạy đi lượm những tàu lá gồi văng tứ tung xếp lại
vào xe rồi tiếp tục kéo vào thị xã. Đám đông vẫn chưa chịu giải tán. Tiếng bàn
luận vẫn rôm rả. Mọi người nhìn theo mấy anh em tôi, vừa thương cảm vừa thán phục.
Đi được một đoạn, anh Nhu mới thở phào:
- Nghĩ lại, kể cũng hãi. May mắn sao lúc đó đường lại vắng.
Chứ như mọi ngày, ô tô chạy rầm rầm, lao phải chúng chỉ có mà tan xác!
Sau buổi đó, mấy anh em tôi tạm nghỉ ít ngày. Anh Nhu bảo để
cho hoàn hồn lại đã. Bây giờ kéo xe cứ thấy gai gai người, chờn chợn thế nào.
Mới nghỉ làm hai hôm, tôi và thằng Bảo đã thấy ngứa ngáy chân
tay, cảm thấy thiêu thiếu một cái gì. Thằng Bảo rủ tôi:
- Chúng mình ra sông Thương vớt củi rều đi. Có cái mà đun nấu,
đỡ phải xin rơm rạ của bà Muộn.
- Sông trong leo lẻo, có phải mùa mưa lũ đâu mà có củi rều? -
Tôi hỏi lại.
Thằng Bảo cười, cái cười kẻ cả, như muốn khoe sự khôn lanh,
sành sỏi của nó:
- Mày không thấy sao? Trên các bè tre nứa, củi rều mắc lại vô
thiên lủng. Mấy hôm bốc dỡ lá gồi, tao đã để ý rồi. Đầu mẩu tre nứa cũng đầy
ra. Đi, cứ đi theo tao rồi khắc biết.
Ngang qua nhà thằng Tụng, thằng Thanh, thằng Tấn, thằng Học,
chúng tôi rủ bọn nó cùng đi cho vui. Rủ bọn nó đi tắm sông cho vui thôi chứ nhà
mấy đứa đó khá giả, chúng nó không cần vớt củi. Ra đến bờ sông Thương, thằng Bảo
hét to như ra lệnh:
- Mấy đứa bay cứ tắm trước đi nhá! Tao và thằng Thiện kiếm ít
củi rồi tắm sau!
Thằng Thanh nhanh nhảu:
- Để bọn tao cùng kiếm củi ủng hộ hai đứa mày rồi tắm luôn thể.
Sẽ thuỷ chiến một trận thật ác liệt có vui hơn không?
Quả thằng Bảo nói không sai. Rải rác trên các bè nứa, các đầu
mẩu gỗ vụn, tre nứa đầu thừa đuôi thẹo rất nhiều. Chỉ một lát sau, chúng tôi đã
gom được mấy bó. Thằng Thanh, thằng Học còn láu cá bẻ cả mấy cây nứa còn nguyên
vẹn sóng hàng trên bè. Thấy vậy, thằng Bảo cảnh báo liền:
- Chúng mày có muốn chết không hả? Nhà bè họ thấy, họ đuổi cả
lũ bây giờ! Không có chơi cái trò gian dối ấy. Chúng ta đi nhặt củi rơi vãi
đàng hoàng chứ có phải đi lấy trộm của người ta đâu?
Thằng Thanh cười tít mắt, xí xóa:
- Gớm! Gớm! Làm gì mà lên giọng dạy đời khiếp thế hở cái thằng
Bảo rỗ kia?
- Chứ không à? - Bảo sừng sộ cự lại, mặt đỏ văng lên.
Thằng Thanh thấy thế càng trêu già:
Thế là hai đứa lăn xả vào nhau, ghì đầu nhau chúi xuống nước.
Chiếc bè chòng chành làm cả hai cùng lăn tòm xuống sông trước sự reo hò cổ vũ của
cả nhóm. Cuộc thuỷ chiến bắt đầu. Mặc cho mấy bó củi đang kiếm còn dang dở,
chúng tôi hào hứng vùng vẫy trên sông nước. Trong bọn, tôi là đứa bơi dở nhất.
Đúng ra, tôi chưa thật sự biết bơi. Thằng Bảo, thằng Tụng mới dạy tôi bơi được
mấy buổi. Tôi chỉ mới dám khua khoắng chân tay ở gần bờ, hai tay bám chặt vào
bè tre, chân đạp loạn xạ làm nước bắn tung tóe. Thấy bạn bè hăm hở lặn ngụp,
nhào lộn, soải tay vươn ra tới giữa sông, tôi thèm vô cùng. Thằng Bảo và thằng
Tụng bơi khỏe nhất. Chúng nó tấn công bọn thằng Thanh, thằng Tấn, thằng Học tới
tấp, làm bọn kia ho sặc sụa, kêu oai oái, mấy lần la lên xin hàng. Thấy tôi cứ
quanh quẩn gần bè nứa, thằng Bảo phun nước phì phì, vừa vuốt mặt vừa khích lệ
tôi:
- Ra đây, Thiện! Ra đây vùng vẫy mới đã! Để tao dìu mày cùng
bơi. Phải mạnh dạn lên! Học bơi mà cứ nhát sợ thì chẳng bao giờ bơi giỏi được!
Nó nhoài người về phía tôi. Chợt nó mất hút. Tôi còn ngơ ngác
tìm kiếm thì đột nhiên nó đã trồi lên ngay sát cạnh tôi, cười sằng sặc. Nó lôi
tôi đi phăng phăng. Tôi phát hoảng thật sự. Càng ra ngoài xa, sóng càng lớn. Hết
lớp này đến lớp khác, những con sóng tới tấp ào đến phủ trùm lên tôi, làm tôi rợn
ngợp, không kịp thở. Tôi sặc sụa, van vỉ thằng Bảo cho tôi quay trở vào bờ. Thằng
Bảo đùa dai, thấy thế, càng lôi tôi ra xa tiếp. Tôi cảm thấy mình đã mệt mỏi lắm,
nhưng thằng Bảo thì hình như không nhận ra điều đó, vẫn vừa hò hét vừa kéo tôi
lao đuổi theo thằng Thanh. Cũng may là nó đã áp sát được thằng Thanh. Tôi thều
thào:
- Thanh! Mình mệt quá! Cậu dìu mình vào bờ…
Tôi nghe tiếng thằng Thanh hét lên:
- Bảo! Ngừng lại, Bảo! Mày không thấy mặt thằng Thiện trắng bệch
ra kia à? Đưa nó vào bờ ngay!
- Tao cứ tưởng nó giả bộ… - Bảo vẫn cười cợt.
Cả hai đứa cùng xốc nách, dìu tôi quay trở lại. Khó khăn lắm
tôi mới leo được lên bè nứa. Người tôi nhợt nhạt, lạnh run. Tôi co ro, ngồi bó
gối, răng va nhau lạch cạch. Thằng Thanh bảo tôi:
- Mày ngồi sưởi nắng một tý là khỏe ngay ấy mà. Hay chịu khó
lên bờ đê, chạy nhảy, vung tay vung chân cho ấm người.
Rồi nó quay ra sông, nói với thằng Bảo:
- Mà thôi, chúng mình cũng về thôi Bảo ạ. Hôm khác lại chơi
tiếp.
Thằng Bảo vẫn còn đang say chiến trận, chưa chịu về. Nó nhấp
nhổm trên sóng, giọng đắc thắng:
- Chúng mày dở quá! Cứ gọi là thua tao hết! Chơi thêm một lát
hẵng về.
Bảo lại quẫy sóng, soải mình hơi ra xa. Mặc cho nó khích bác,
thằng Thanh không đua theo nó nữa, chỉ vờn táp sóng ở gần bè nứa. Nhìn chúng nó
vùng vẫy, té nước ràn rạt, miệng thì hò reo inh ỏi, tôi thấy mình non kém quá.
Tôi phải gắng tập bơi cho mau giỏi để theo kịp chúng nó, để cho thằng Bảo đỡ
vênh vang. Nghĩ vậy, tôi lại tuồn xuống nước. Hai tay tôi nắm chặt lấy một cây
tre ở mép bè, đầu tôi vục xuống nước, hai chân ra sức đạp. Chợt tôi thấy chân
phải tôi bị co lại, bàn chân cứng ngắc, không sao duỗi ra được. Tôi rùng mình,
cảm thấy toàn thân lạnh toát. Tôi từ từ buông tay ra, chìm dần trong làn nước mỗi
lúc một giá buốt. Tôi muốn kêu lên mà không sao kêu được. Tôi muốn vùng vẫy trồi
lên khỏi mặt nước mà không biết phải làm thế nào. Tôi không còn điều khiển được
tay chân mình nữa.
Khi tôi hồi tỉnh lại thì đã thấy mình nằm trên triền đê, bạn
bè vây kín xung quanh. Thằng Bảo reo to lên:
- Nó tỉnh rồi! Nó mở được mắt ra rồi!
Mấy đứa hớn hở, cười nói rầm rĩ. Thằng Tụng ghé sát vào tai
tôi:
- Mày làm chúng tao lo quá! Cứ tưởng không còn hy vọng gì nữa…
- Cũng may mà thằng Thanh phát hiện sớm. Muộn chút xíu nữa là
đi tong rồi!
- Mày kể lại đi, Thanh! Sao mày biết nó bị chìm mà lao xuống
cứu?
Thằng Thanh nhấp nhấp giọng, bắt đầu kể:
- Cũng mày là lúc ấy tao đang thấm mệt nên không lao theo thằng
Bảo nữa. Tao chỉ quẩn quanh bên chiếc bè, định kỳ cọ qua loa rồi lên bờ. Thấy
thằng Thiện ngồi co ro, mặt nhợt nhạt, môi tím bầm, tao đang định bảo nó mặc quần
áo vào kẻo cảm lạnh thì bỗng thấy nó lại chuồi xuống nước, tiếp tục vùng vẫy.
Mà nó vùng vẫy mới khiếp chứ! Tao thầm cảm phục nó: À, thằng oắt con này cũng
kiên cường ra phết đây! Rõ ràng thấy nó mệt mỏi ra mặt mà vẫn cố gắng tập luyện.
Tao lặn một hơi cuối cùng để rồi lên bờ. Nhưng khi nhô lên khỏi mặt nước, tao
không thấy thằng Thiện đâu. Nhìn lên bờ không thấy nó. Nhìn ra ngoài sông, chỉ
thấy mấy đứa chúng mày đang nhấp nhô. Mà tài thánh thằng Thiện cũng không thể
bơi nhanh ra nhập với bọn chúng mày được. Rất nhanh, tao linh cảm thấy có chuyện
chẳng lành rồi. Nhìn thấy mép bè dập dềnh, mấy cây nứa trồi lên sụt lên sụt xuống
hơi khác thường, tao nghi liền. Tao lặn ngay xuống thì thấy thằng Thiện đang quờ
quạng dưới đó. Nó quờ quạng một cách yếu ớt. Nó cố thúc đầu lên nhưng làm sao
mà lên nổi vì phía trên là bè nứa. Thằng Thiện bị mắc kẹt dưới bè nứa. Tao lao
đến. Thiện lập tức túm chặt lấy tao. Tao sợ quá, cố vùng ra mà không được.
Không khéo cả hai đứa cùng chết kẹt dưới đó. Tao dồn hết sức lực, co người lại
rồi đạp thật mạnh. Cứ hướng về phía có ánh sáng lờ mờ mà chuồi ra. Vừa đạp mạnh
vừa chuồi ra. Dưới bè, nước lạnh buốt và tối om. Phía có ánh sáng mờ mờ là phía
ngoài sông. Một lúc sau, chẳng biết là bao lâu sau, thì tao trồi lên được. Thấy
ánh sáng chói lòa, tao biết là mình sống rồi! Tao dìu thằng Thiện cùng nhô lên
và gào đến vỡ họng gọi chúng mày…
- Lúc đó, nghe tiếng mày gào, bọn tao cứ tưởng là mày đùa.
Nhưng sau thấy mày gào dữ quá, cả bọn mới chịu ngưng chiến, quay vào bờ.
Bảo vẫn cười cười cợt cợt. Thằng Thanh giận tím mặt:
- Mày cứ liệu đấy! Bỏ cái tính đùa dai đi nhé! Ban nãy một
chút xíu nữa thì tao cũng chết sặc vì mày đấy!
Tôi vẫn còn mệt. Bao nhiêu nước trong bụng tôi đã được lũ bạn
dùng đủ cách, từ hô hấp nhân tạo đến nằm sấp, nằm ngửa, dốc ngược đầu xuống đất…
để tống nước ra ướt đẫm bãi cỏ quanh chỗ tôi nằm. Mấy đứa dìu tôi ngồi sang bãi
cỏ khác khô ráo hơn. Định kéo nhau về nhưng thấy tôi vẫn còn bải hoải nên cả bọn
cùng ở lại, nằm ngồi ngả ngốn xung quanh tôi tán chuyện gẫu. Thằng Bảo lại thao
thao bất tuyệt về chuyện con nam, con giải ở ngoài hồ, ngoài sông. Nó bảo những
người chết đuối thường biến thành những con nam, chực sẵn dưới nước để dìm chết
một ai đó. Có người thế mạng, con nam mới mong trở lại trần thế, đầu thai kiếp
khác… Cả bọn lại bị những câu chuyện ly kỳ của thằng Bảo cuốn hút, quên hết cả
những nỗi bực bội, những lo âu ban nãy. Lại thơ thới ngắm nhìn trời mây, sông
nước.
Ngoài mặt sông, nước lấp loáng, muôn ngàn đốm sao ánh sáng nhấp
nhánh nhảy nhót. Theo từng cơn gió, nước sông rợn lên từng đợt sóng vừa xám
xanh màu đá vừa lóa sáng như bạc. Một con thuyền nhỏ đang trôi xuôi. Thằng bé
lái thuyền nửa nằm nửa ngồi, dựa lưng vào mạn thuyền, dùng hai chân điều khiển
mái chèo một cách điệu nghệ làm cho cả bọn chúng tôi đều lác mắt thán phục và
thèm thuồng. Cảnh vật xung quanh bình yên quá. Chỉ một chút xíu nữa thôi là tôi
đã vĩnh viễn chẳng bao giờ được thấy những cảnh này. Tự nhiên trào lên trong
tôi lòng yêu quý cuộc sống, bình dị sự gắn bó máu thịt với bạn bè. Tôi cảm thấy
yêu cuộc đời này quá, một cuộc đời bình thường hầu như chẳng bao giờ mình biết
trân trọng, chỉ đến khi sắp bị mất nó, mình mới nhận ra vẻ đẹp lớn lao và vô giá
của nó…
Chúng tôi chạy xuống bè, thu gom lại những củi cành, bó thành
bó chuẩn bị ra về. Mỗi đứa một vác nặng. Thằng Bảo chợt tỏ vẻ lo sợ, căn dặn cả
bọn:
- Chúng mày tuyệt đối giữ bí mật chuyện thằng Thiện suýt chết
đuối nhé! Anh Nhu mà biết thì chết cả lũ. Sẽ chẳng bao giờ được ra sông chơi nữa
đâu!
Thằng Tụng làm ra vẻ thâm thuý, góp thêm:
- Từ nay cánh ta cũng phải cẩn thận chúng mày ạ. “Họa vô đơn
chí, phúc bất trùng lai”. Hết chuyện xe lao xuống dốc bữa trước đến chuyện thằng
Thiện suýt đi gặp Hà Bá hôm nay. Tao sợ tai họa chưa qua hết đâu.
Mấy đứa xốc củi lên vai, lom khom leo lên triền đê. Tôi đi
sau cùng, không phải mang vác gì. Lũ bạn vừa đi vừa ngoái lại, sợ tôi đuối sức
không theo kịp. Tôi bỗng thấy chúng nó thật thân thiết, gần gũi biết bao nhiêu…
10. Những vết trầy trên hai cánh tay anh Nhu tưởng nhẹ không có
gì đáng ngại, không ngờ hai hôm sau bỗng sưng tấy lên, bắt đầu mưng mủ làm cho
anh Nhu phát sốt. Ai cũng ngạc nhiên sao vết thương chuyển biến nhanh đến thế.
Anh Nhu bảo có lẽ anh bị nhiễm trùng máu, bị têtanốt, phải tiêm kháng sinh liều
cao. Anh nhớ hình như xe ba gác anh kéo đã lao xuống rãnh kề liền với đống sắt
vụn phế thải bên hông quán nước. Mưa nắng đã làm đống sắt han rỉ vàng khè lẫn với
màu đất cấp phối rải đường. Tôi và thằng Bảo, thằng Nam lập tức chạy ra bến
sông xem lại. Quả đúng như vậy. Anh Hoàng mượn chiếc xe đạp của thầy Tín đèo
anh Nhu đến bệnh viện. Mấy đứa chúng tôi bám theo xe, vừa đi vừa chạy gằn cố
cho kịp.
Anh Nhu là người anh cả của chúng tôi, là linh hồn của cả nhóm.
Anh bị bệnh, ai cũng buồn cũng lo. Mọi việc đều trở nên chểnh mảng, ăn uống thất
thường, sinh hoạt tạm bợ. Lo nhất là bệnh của anh, không biết có xảy ra chuyện
gì không? Khi anh Hoàng kể lại lời các bác sĩ chẩn đoán anh Nhu bị nhiễm trùng
khá nặng nhưng do phát hiện sớm, đưa đi bệnh viện kịp thời nên không đến nỗi
nào. Cả bọn cùng thở phào nhẹ nhõm. Chỉ còn một nỗi lo không biết viện phí, tiền
thuốc thang có nặng lắm không? Về khoản tiền nong, mấy anh em tôi không lấy gì
làm dư dả. Tiền làm thêm được hầu như chỉ vừa đủ cho các bữa ăn hàng ngày và dư
ra chút đỉnh. Mấy hôm nay lại đang nghỉ việc… Tôi biết không ai nói ra nhưng tất
cả cùng đang lo nghĩ về chuyện ấy.
Trên đường đi thăm anh Nhu về, qua con mương nhỏ, thấy nước
trong mát ngập cả bờ cỏ thích mắt quá, thằng Bảo rủ tôi và thằng Nam ngồi chơi
một lát. Dưới bóng cây xà cừ xùm xòa, ba đứa cùng nằm lăn ra bên cạnh con
mương. Thằng Bảo bỗng ngồi nhỏm dậy, mắt sáng lên:
- Con mương này nhiều cá quá chúng mày ạ. Bắt một mớ về đánh
chén đi! Lâu lắm rồi không có chất tanh, thèm ghê!
Nam nói giọng uể oải:
- Có cần câu quái đâu mà câu?
- Cần gì cần câu? - Bảo giật giọng. - Để tao chỉ cho hai đứa
mày cách bắt cá đặc biệt này. Cứ gọi là ăn mệt nghỉ!
Nói rồi Bảo cởi phăng quần áo, chỉ đánh mỗi chiếc quần đùi, lội
ào xuống mương. Nó giục bọn tôi:
Vừa nói, nó vừa vục tay xuống bùn, vốc lên từng vốc bùn non với
rong cỏ. Nó lấy chân đạp mạnh vào bờ mương, bửa ra từng vầng đất lớn cỏ mọc
dày, khệ nệ bưng lên rồi cẩn thận xếp thành hàng chắn ngang dòng nước mương.
Tôi và thằng Nam chăm chú nhìn nó làm rồi bắt chước làm theo. Vừa hăm hở vốc đất,
Bảo vừa giải thích:
- Cả dòng mương dài thế này thì bắt sao được cá? Phải khoanh
vùng nó lại. Ta lấy đất lấy bùn và cỏ rong đắp hai bờ chắn ngang dòng mương tạo
thành một cái chuôm nhỏ, cá chạy đằng trời! Tha hồ bắt!
Tôi và Nam vẫn chưa hiểu hết ý thằng Bảo nhưng cứ làm theo lời
nó chỉ dẫn. Ba thằng vốc đất chừng mươi phút thì đắp xong được một bờ chắn
ngang dòng mương. Bảo dẫn tôi và Nam đi ngược lên chừng mươi mét, lại đắp thêm
một bờ đất nữa. Nó cười híp cả hai mắt lại:
- Thấy chưa? Thấy rõ ý đồ của lão mỗ chưa? Vậy là lũ cá bị nhốt
trong chiếc ao nhỏ này. Thả sức mà bắt.
Đắp xong bờ đất thứ hai, cả ba đứa thi nhau tát nước. Cũng
may mà hôm nay cả ba cùng đội mũ. Cứ vục mũ lá gồi xuống nước, trút ra ngoài
mương. Chẳng mấy chốc nước trong “ao” đã gần cạn, chỉ còn ngập đến ngang bắp
chân. Bảo ra lệnh:
- Thôi, ngừng tát! Bây giờ hai đứa làm theo tao nhá!
Bảo đi trước, hai đứa tôi theo sau. Ba đứa cứ đi đi lại lại từ
bờ đất này sang bờ đất kia, chân sục sâu dưới bùn. Vừa sục bùn, Bảo vừa giảng
giải:
- Bọn cá sẽ sặc bùn, đờ đẫn như lũ mất hồn, chúi sâu dưới các
lốt chân. Cứ thế mà tóm chúng bỏ giỏ!
Quả nhiên, lũ cá nằm im thin thít dưới các lốt chân chúng tôi
thật. Ba đứa cứ lom khom dò dẫm từng bước một, đưa hai tay quờ quạng dưới bùn
nhão, khéo léo tóm gọn lũ cá.
Không có giỏ, cứ vứt tạm lũ cá vào một hốc đất, sau thu gom lại.
Thế mà cuối cùng cũng được gần đầy ba chiếc mũ. Thôi thì cá rô, cá diếc, cá
đuôi cờ, tôm, cua…, đủ cả. Thằng Nam cười hả hê:
- Chiều nay được một bữa ngon lành rồi! Chỉ tiếc anh Nhu
không có nhà.
- Thì mang vào bệnh viện cho anh chứ khó gì! - Bảo thủng thẳng.
- Thôi, xong việc rồi, ta lại phá bờ đi để cho con mương nó chảy thong dong.
Đắp thì vất vả chứ phá thì quá dễ. Chỉ vài cú đạp mạnh, hai
con bờ đã đổ nhào để dòng nước lưu thông trở lại. Ba đứa ngược lên phía trên một
đoạn, thi nhau vục nước rửa mặt mũi chân tay. Đứa nào đứa nấy mặt mũi tươi rói,
cười hả hê mặc dù có mệt bã người.
Ngồi nghỉ bên mương nước, thằng Nam ra sức tán dương tài bắt
cá của thằng Bảo. Thằng Bảo hỉnh mũi, bốc lên:
- Thế này đã thấm tháp gì! Để rồi tao sẽ cho hai đứa mày xem
lắm trò hấp dẫn hơn nhiều. Hôm nào bọn ta đi bắt ếch chơi! Rồi đi câu tôm, đi
cuốc chạch, đi bắt cá cóng, đi mò ốc. Chúng mày có khoái ăn ốc luộc không? Cái
anh ốc luộc là tao khoái nhất hạng. Ốc luộc chấm nước mắm gừng, chà chà, chỉ no
căng bụng chứ không hề chán. Tao có một cách bắt ốc cực kỳ nhanh chóng. Chỉ
trong vài phút tao có thể vơ được cả một rổ đầy!
- Mày chỉ bốc phét! - Thằng Nam tương luôn một câu làm thằng
Bảo tức điên, nhảy chồm lên như bị kiến lửa đốt.
- Mày bảo ai bốc phét? Đừng có hỗn láo nhá! Không tin, để rồi
tao biểu diễn cho mà coi. Nếu tao nói đúng, mày mất cho tao cái gì?
Hai đứa cứ cãi qua cãi lại mãi, tôi phải can mấy lần chúng mới
chịu yên. Thằng Bảo chợt nhích lại gần tôi, nói một cách rất thành thực:
- Mày ạ, tao nghĩ ra rồi. Hay là từ nay bọn mình thôi không
đi chở gạch đá thuê nữa. Đi bắt cá, bắt cua đem ra chợ bán có khi lại hay đấy.
Vừa bán được tiền lại vừa được lang thang trên các sông hồ…
Tôi tròn mắt ngạc nhiên trước ý định mới mẻ của thằng Bảo.
Tôi ngỡ ngàng hỏi lại nó:
- Cậu nói đùa hay nói thật đấy?
Bảo vẫn nói một cách rất hồn nhiên:
- Thật chứ sao lại đùa? Cái trò bắt tôm cá là sở trường của
tao từ nhỏ. Tao có tiếng là sát cá đấy mày ạ. Nhiều người đi câu về tay không
chứ tao đã ra quân là chỉ có mang chiến thắng trở về. Giỏ của tao bao giờ cũng
đầy nhóc nhá!
Tôi cười bảo nó:
- Không được đâu Bảo ơi! Còn học hành, bài vở, còn bao thứ
chuyện…
- Thì lâu nay chúng mình vẫn đi làm đó thôi, có sao đâu?
- Đi làm gọn trong một buổi thì được. Giờ đánh bắt tôm cá, phải
đi xa, rồi còn chuyện ra chợ bán nữa chứ, đâu có đơn giản? Thôi, dẹp chuyện đó
đi. Để anh Nhu ra viện rồi sẽ tính.
Bảo ngồi thần mặt ra, mắt híp càng thêm híp làm tôi không nhịn
được cười. Nó sừng sộ nạt tôi:
- Mày cười cái gì? Tao lại cho một quả tống bây giờ!
Nói vậy thôi chứ nó vẫn ngồi yên. Tôi biết chẳng bao giờ nó đụng
đến tôi. Đối với tôi, chẳng hiểu vì sao, bao giờ nó cũng có cách đối xử hơi
khác với những đứa khác. Yêu quý hơn, thậm chí có phần nể trọng nữa.
Về cái tài bắt ốc như nó đã khoe, chẳng phải chờ lâu, chỉ mấy
hôm sau là tôi và thằng Nam được chứng kiến liền. Cứ gọi là bái phục nó sát đất.
Đi học về, nó thủng thẳng hỏi:
- Hôm nay chúng mày có muốn ăn ốc luộc không?
- Muốn chứ sao không? - Thằng Nam trả lời đầy vẻ thách thức.
- Thế thì đừng nấu cơm nữa, để bụng mà ăn ốc. Cho chúng mày
ăn kỳ chán thì thôi! - Chợt nó nhớ ra điều gì, mắt bỗng sáng lên tinh quái. -
Nhưng nếu tao nói đúng, thằng Nam phải mất cho tao cái gì?
- Gì cũng được, tuỳ ý mày.
- Mày sẽ phải cõng tao đi học, cả đi lẫn về, suốt trong một
tuần nhá!
- Được thôi! Mà nếu mày nói bốc phét, cũng phải cõng tao y
như thế!
Hai thằng hăm hở ngoéo tay nhau hứa giữ lời. Thấy Bảo quá tự
tin, tôi vẫn hoài nghi, hỏi nó:
- Gần tối rồi, mai mới đi bắt chứ?
- Đi liền bây giờ! Bảo đảm mươi phút là ăn liền! Thằng Thiện
cầm rổ đi theo tao. Còn thằng Nam chạy sang nhà bác Bảy xin nắm lá chanh, lá bưởi.
Nhớ bẻ mấy chiếc gai bưởi về lể ốc.
Nó nói một cách dứt khoát, đầy tự tin làm cho cả tôi và thằng
Nam đều chột dạ. Nó nói thật chứ chả bỡn đâu. Tôi đi theo sau nó, ra đến đầu
ngõ nó còn quay đầu lại giục thằng Nam:
- Mày chạy đi xin lá chanh ngay đi kẻo bọn tao về không kịp
có lá thơm mà luộc. Nhớ xin thêm cả gừng. Không có gừng là không ra món ốc luộc
đâu!
Tôi đi theo Bảo, lòng phấp phỏng không biết nó sẽ giở trò ma
mãnh gì? Nhưng ngay lập tức, tôi phải sững sờ trước biệt tài của nó. Bảo xắn quần
lội xuống ao cách nhà chừng vài trăm mét, bên cạnh xưởng cưa. Nó bảo tôi:
- Mày khỏi phải xuống. Mình tao là đủ. Rồi mày xem, có mất
quá mười phút không?
Cho đến lúc ấy, tôi vẫn không tin là nó nói thật. Bảo cúi người,
đưa tay quờ quạng dưới ao, nhẹ nhàng vớt lên một tấm gỗ xẻ. Khi tấm gỗ nổi trên
mặt nước, tôi sửng sốt trông thấy cả trăm con ốc to nhỏ bám đầy mặt ván. Bảo
kêu lên, giọng đắc thắng:
- Mở to mắt ra mà trông này! Có đúng là ốc bươu ốc gạo đây
không? Quăng rổ xuống đây cho tao, mau!
Vừa tiếp tục nâng tấm gỗ xẻ, Bảo vừa đưa tay gạt ốc vào
rổ. Hết tấm gỗ xẻ này, nó lại vớt lên tấm gỗ xẻ khác. Lại cứ thế mà gạt ốc vào
rổ. Chỉ bốn, năm tấm gỗ xẻ, nó đã được đầy một rổ ốc.
Tôi chỉ còn biết đứng trân trân ra mà nhìn thằng Bảo. Nó khệ
nệ bưng rổ ốc, bước lên bờ, không nói không rằng vì biết là tôi đã bị khuất phục
hoàn toàn. Giọng nó đầy độ lượng:
- Thôi, giờ thì tới nhiệm vụ của mày: bưng rổ ốc về, rửa sạch
và đổ vào nồi, nổi lửa lên!
Như một tù binh an phận, tôi hiền lành tuân theo mệnh lệnh của
nó. Về đến nhà, thằng Nam vẫn chưa về. Một lúc lâu sau nó mới nhẩn nha xuất hiện
với lời nói giễu:
- Thế nào? Về tay không hả? Làm tao phí công toi! Tao…
Nó há hốc mồm, không nói câu nào hết vì thấy rổ ốc chềnh ềnh
giữa sân. Vẫn chưa tin hẳn, Nam hỏi:
- Chắc mày mua sẵn để trộ bọn tao hả?
- Thôi, đi luộc ốc đi, đói lắm rồi! - Bảo tỏ vẻ không chấp.
Nó cẩn thận dặn thêm. - Đừng có đổ nhiều nước quá nhá! Chút xíu nước thôi. Sôi
một lát thì bắc ra ngay kẻo ốc đứt ruột hết, hỏng ăn! Nhớ cho lá bưởi lá chanh
vào cho thơm. Cả một nhúm muối nhỏ nữa.
Vừa đun bếp, Nam vừa quay ra hỏi vặn tôi:
- Đúng là nó bắt đấy à? Mày có tận mắt trông thấy nó bắt
không? Bắt ở đâu mà nhanh thế?
Tôi phải tường thuật tỉ mỉ mọi chuyện cho thằng Nam nghe. Tôi
nói cho nó biết cả chuyện thằng Bảo tiết lộ thêm: từ mấy hôm trước, đi ngang
qua xưởng cưa, thằng Bảo đã lén lao mấy tấm ván xẻ xuống ao cho bọn ốc bám vào
để hôm nay chỉ việc ra mà gạt vào rổ…
Thằng Nam ngồi đun bếp, háo hức nghe tôi kể nhưng qua ánh lửa,
tôi vẫn nhận ra vẻ mặt nó càng lúc càng xịu xuống. Có lẽ nó nghĩ đến chuyện
trong suốt cả tuần tới nó sẽ phải chịu cực hình: cõng thằng Bảo đi học rồi lại
về học. Chắc chắn không chỉ có chuyện cõng đơn thuần, mà kèm theo đó còn là những
chuỗi cười đàm tiếu của bạn bè và nhiều trò tinh quái khác của thằng Bảo.
Sau lần ấy, Bảo còn trổ tài bắt cua, đào hang bắt ếch làm bọn
tôi phục lăn. Nhìn hang nào có cua, có ếch nó biết ngay chứ không rù rờ như thằng
Nam và tôi, mất rất nhiều công sức mà ít có kết quả. Thấy tôi và Nam thực sự
thán phục tài nó, Bảo càng nung nấu ý định trở thành người bắt cua cá “chuyên
nghiệp”. Khi nghe nói lại chuyện đó, anh Nhu và anh Hoàng ôm bụng cười. Bảo vẫn
tỉnh khô. Nó thành thực tin vào khả năng siêu việt của nó và lấy làm ngạc nhiên
là làm sao bọn tôi lại có thể đem cái nguyện vọng rất chính đáng ấy của nó ra
mà giễu cợt?
11. Trong suốt cả thời niên thiếu, khi học cấp hai và cấp ba, người
thuộc lớp đàn anh lớn tuổi để lại trong tôi nhiều kỷ niệm đẹp đẽ nhất là anh
Nhu. Tôi biết anh từ rất lâu rồi, từ năm 1953, khi còn đang kháng chiến chống
Pháp, gia đình tôi tản cư lên vùng Yên Thế. Lúc đó, tôi còn học lớp ba, nhỏ
xíu, còn anh học lớp bảy cùng với chị Trọng, chị Ngà và anh Hiệu tôi. Tuổi học
ngày đó không nhất loạt giống nhau như bây giờ. Cùng học một lớp nhưng anh Nhu
hơn chị cả tôi một hai tuổi. Quê anh ở mãi huyện Gia Lương, Bắc Ninh lúc ấy
đang còn bị địch tạm chiến. Anh trốn nhà ra vùng tự do để khỏi bị bắt đi lính và
được tiếp tục theo học. Gia đình ở xa, lại có nhiều khó khăn không có điều kiện
chu cấp tiền cho anh ăn học. Anh hoàn toàn phải tự túc. Cùng với năm chị em
tôi, anh và mấy bạn bè nữa thuộc nhóm những học sinh nghèo, phải kiếm việc làm
thêm ngoài giờ học. Chúng tôi được các thầy giáo, cô giáo trong trường hết lòng
thương yêu giúp đỡ, tìm việc cho để làm. Có lúc mấy anh em nhận thóc của Nhà nước
về xay giã để lấy cám, tấm vụn và một ít tiền công. Các chị tôi là con gái khéo
tay thì giần sàng, các anh lớn và bọn nhóc chúng tôi thì xúm vào xay, giã. Có
khi nhiều việc, chúng tôi hì hục xay giã suốt đêm.
Hết việc xay giã gạo, các anh chị lại kiếm được việc xe đay để cho người ta dệt bao tải đựng gạo. Suốt ngày đêm vang lên tiến xè xè, lách cách vui tai. Các anh, các chị thành thạo hơn thì xe đay dọc, sợi nhỏ mịn, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn. Còn bọn nhỏ tuổi như tôi chỉ được xe đay ngang, sợi to, công việc đơn giản. Bận bịu suốt ngày nhưng mà vui. Chúng tôi tự hào là đã “tự lực cánh sinh”, sống tự lập được, không phải nhờ cậy vào gia đình. Hai nhân vật trụ cột của cả nhóm học sinh nghèo chúng tôi hồi đó là anh Nhu và chị Trọng, chị cả của tôi lúc ấy mới mười sáu tuổi. Bây giờ nghĩ lại, lắm lúc tôi vẫn không thể nào hiểu nổi sao hồi ấy các anh chị của tôi lại giỏi đến thế. Vừa đi học, vừa đi làm, lại còn bao công tác Đoàn, Đội, họp hành sinh hoạt liên miên, vậy mà mọi việc vẫn chạy băng băng, lúc nào cũng tươi cười, cũng hò hát. Những đêm liên hoan đèn đuốc sáng trưng, sặc sụa mùi dầu, mùi khói khét lẹt. Những điệu nhảy đơn giản, chỉ có mỗi một động tác vung tay bên này, hất chân bên kia với những lời ca mộc mạc: “Đây gió đây trong rừng…”, “Dân Liên Xô ca múa trên đồng hoa…”. Chị Ngà tôi nổi tiếng khắp trường với tiết mục múa “Bà Chu cho trứng”, mô tả câu chuyện một bà lão nông dân đem những quả trứng gà phân phát cho các chí nguyện quân Trung Quốc trước khi lên đường đi đánh Mỹ ở Triều Tiên. Chị Trọng tôi đi họp hiệu đoàn nhà trường về, vừa xe đay vừa dạy mấy đứa nhỏ chúng tôi bài hát về công cuộc thi đua yêu nước: “Vì ai mà thi đua? Vì kháng chiến, vì nhân dân. Vì ai mà thi đua? Vì muốn giết hết quân thực dân. Chúng ta cùng thi đua vì thi đua là yêu nước. Chúng tai cùng thi đua vì thi đua giữ vững hòa bình…”. Bài hát đầy chất chính trị khô khan ấy, vậy mà mấy đứa nhỏ bọn tôi cũng ê a hát cả ngày không biết chán.
Hết việc xay giã gạo, các anh chị lại kiếm được việc xe đay để cho người ta dệt bao tải đựng gạo. Suốt ngày đêm vang lên tiến xè xè, lách cách vui tai. Các anh, các chị thành thạo hơn thì xe đay dọc, sợi nhỏ mịn, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn. Còn bọn nhỏ tuổi như tôi chỉ được xe đay ngang, sợi to, công việc đơn giản. Bận bịu suốt ngày nhưng mà vui. Chúng tôi tự hào là đã “tự lực cánh sinh”, sống tự lập được, không phải nhờ cậy vào gia đình. Hai nhân vật trụ cột của cả nhóm học sinh nghèo chúng tôi hồi đó là anh Nhu và chị Trọng, chị cả của tôi lúc ấy mới mười sáu tuổi. Bây giờ nghĩ lại, lắm lúc tôi vẫn không thể nào hiểu nổi sao hồi ấy các anh chị của tôi lại giỏi đến thế. Vừa đi học, vừa đi làm, lại còn bao công tác Đoàn, Đội, họp hành sinh hoạt liên miên, vậy mà mọi việc vẫn chạy băng băng, lúc nào cũng tươi cười, cũng hò hát. Những đêm liên hoan đèn đuốc sáng trưng, sặc sụa mùi dầu, mùi khói khét lẹt. Những điệu nhảy đơn giản, chỉ có mỗi một động tác vung tay bên này, hất chân bên kia với những lời ca mộc mạc: “Đây gió đây trong rừng…”, “Dân Liên Xô ca múa trên đồng hoa…”. Chị Ngà tôi nổi tiếng khắp trường với tiết mục múa “Bà Chu cho trứng”, mô tả câu chuyện một bà lão nông dân đem những quả trứng gà phân phát cho các chí nguyện quân Trung Quốc trước khi lên đường đi đánh Mỹ ở Triều Tiên. Chị Trọng tôi đi họp hiệu đoàn nhà trường về, vừa xe đay vừa dạy mấy đứa nhỏ chúng tôi bài hát về công cuộc thi đua yêu nước: “Vì ai mà thi đua? Vì kháng chiến, vì nhân dân. Vì ai mà thi đua? Vì muốn giết hết quân thực dân. Chúng ta cùng thi đua vì thi đua là yêu nước. Chúng tai cùng thi đua vì thi đua giữ vững hòa bình…”. Bài hát đầy chất chính trị khô khan ấy, vậy mà mấy đứa nhỏ bọn tôi cũng ê a hát cả ngày không biết chán.
Ngay từ những ngày xa xôi đó, anh Nhu đã tỏ ra yêu quý tôi đặc
biệt. Có lẽ một phần là do tôi nhỏ tuổi nhất, có vẻ yếu ớt nhất. Thêm nữa, tôi
vào loại sáng dạ, học luôn luôn được xếp vào loại giỏi, được mọi người yêu mến.
Hòa bình lập lại, tôi về Hà Nội sống với gia đình một thời
gian, phải xa anh Nhu chừng một năm. Lần này quay trở lại Bắc Giang, không ngờ
lại được gặp anh và hơn nữa lại được sống với anh dưới một mái nhà. Anh thực sự
coi tôi như một đứa em ruột thịt. Đối với riêng tôi, anh vẫn có sự quan tâm đặc
biệt hơn so với thằng Bảo, thằng Nam. Mỗi lần anh mua sắm gì, như sách vở, giấy
bút hoặc bàn chải, khăn mặt…, anh đều mua thêm cho tôi. Anh để tôi ngủ cùng giường
với anh, lo mắc màn cho tôi ngủ, nhắc nhở tôi từng ly từng tý trong mọi sinh hoạt
hàng ngày.
Sau khi ra viện, sức khỏe anh giảm sút hẳn. Kể ra, nếu có điều
kiện ăn uống bồi dưỡng đầy đủ thì chắc anh cũng mau lại sức thôi. Nhưng vì anh ốm,
bọn tôi không đi làm thêm được nên mức sinh hoạt còn thấp hơn cả những ngày
bình thường. Hầu như bữa nào cũng chỉ có độc một món canh, không rau muống tự
trồng thì cũng là rau tập tàng hái quanh quẩn bên nhà. Mấy hôm đầu anh mới ở viện
về, thằng Bảo, thằng Nam và tôi rất tích cực đi bắt cá, bắt cua về cải thiện. Nhưng
sau nghe cô Kim phàn nàn chẳng hiểu sao dạo này thằng Bảo học sút hẳn, có mấy
bài toán bình thường mà cũng không giải được, đến lớp còn ngủ gà ngủ gật…, anh
Nhu lập tức bắt dẹp hết chuyện tôm cá. Anh la cho mấy đứa một trận, đứa nào đứa
nấy mặt xanh lét, im thin thít. Bữa cơm đành phải đạm bạc vậy thôi.
Khỏe lại được mấy hôm, nhân các thầy cô giáo bận đi học chính
trị đột xuất ba ngày, học sinh được nghỉ học, anh Nhu tranh thủ về thăm nhà.
Tôi định theo anh về quê chơi nhưng anh không cho. Anh bảo để dịp nào mượn được
xe đạp, anh sẽ đèo tôi cùng về. Gần năm chục cây số, đi bộ mất trọn một ngày,
anh sợ tôi không đi nổi. Về rồi lại lên ngay cho kịp học chứ có được nghỉ ngơi
gì đâu.
Anh mang từ quê lên mấy đấu gạo, ít lạc, ít vừng. Đặc biệt có
nửa con gà luộc. Anh bảo con gà mới đẻ lứa đầu, chưa được chục trứng. Mẹ anh thấy
anh về, mừng quá, bắt thịt cho anh ăn. Anh ngăn thế nào cũng không được. Đó là
một con gà mái hoa mơ rất đẹp. Nghe anh kể, tự nhiên tôi khựng lại, không sao
nuốt được. Thằng Bảo, thằng Nam thì vẫn vô tư, cười nói rổn rảng. Nhận ra vẻ mặt
đăm chiêu của tôi, anh Nhu lại lái sang chuyện khác:
- Tóc thằng Thiện dài quá rồi đấy. Lát nữa để anh cắt cho
nhá! Anh mới xin được một bộ đồ nghề…
Mấy đứa tôi cùng nhao nhao:
- Đâu? Bộ đồ nghề đâu anh?
- Ai cho anh đấy?
- Có đủ cả tông đơ, dao, kéo không anh?
Anh Nhu lấy trong bị cói ra một bọc vải, vừa cởi nút thắt ra
vừa cười hà hà:
- Của ông chú anh cho đấy. Chú ấy mới sắm được một bộ mới
toanh, thải bộ này ra. Cũ lắm rồi, dễ đến hơn hai chục năm. Nhưng còn tốt chán.
Đủ cả, không thiếu thứ gì.
- Nhưng anh đã biết cắt tóc chưa? - Bảo bỗng hỏi đột ngột.
- Anh biết cắt rồi nhưng còn ngượng tay, chưa được thuần thục.
Có thời gian anh được ông chú cho cắt thử, toàn lấy đầu bọn trẻ trong xóm ra cắt
“thí điểm”, đầu đứa nào đứa nấy nham nhở, trông chết cười! Để anh sẽ luyện thêm
tay nghề rồi cắt cho các chú mày, đỡ phải ra hiệu, tốn tiền.
Thằng Bảo vỗ tay reo:
- Cứ “thí điểm” bọn em trước, sau sẽ cắt cho học sinh cả trường
anh ạ. Cứ lấy công rẻ bằng một nửa ở hiệu, khối đứa cắt!
Anh Nhu cười hiền lành:
- Điều đó thì anh chẳng dám nghĩ đến. Trước mắt, cứ quanh quẩn
cắt cho anh em mình đã. Thế nào, Thiện? Có dám để cho anh cắt thử không? Nói
trước là không được đẹp như ở hiệu đâu nhé!
- Cần gì đẹp! Anh cứ mạnh dạn cắt thử đi. Em xung phong cắt
trước. - Bảo hăng hái. - Nếu cắt hỏng, anh cứ húi trọc luôn cho em cũng được.
Càng mát!
- Nếu ông khách nào cũng dễ tính như em thì anh đỡ quá! - Anh
Nhu xoa đầu thằng Bảo.
Được thể, Bảo lại ba hoa chích chòe:
- Có chuyện này hay lắm, liên quan đến nghề cắt tóc, cả nhà
có muốn nghe không?
- Thì em cứ kể đi! - Anh Nhu cười, khuyến khích.
- Nghe nói ở gần Hà Nội có một làng chuyên làm nghề cắt tóc.
Đời ông, đời cha, đời con, đời cháu, ai cũng làm nghề cắt tóc. Người thì mở hiệu,
người thì đi cắt tóc dạo. Cả nhà có biết vì sao lại có chuyện lạ lùng như thế
không?
Chưa ai kịp trả lời, Bảo đã nói luôn:
- Đó là vì ông thánh địa lý Tả Ao để đất cho làng đó, cho dân
làng đời đời kiếp kiếp làm nghề cắt tóc. Chuyện ly kỳ lắm…
Bảo tinh quái nhìn mọi người. Nó biết ai cũng nóng lòng muốn
nghe đầu đuôi câu chuyện nên cố ý nhẩn nha kéo dài thời gian. Nó thủng thẳng kể
tiếp:
- Nguyên do mọi chuyện là thế này: Có một lần, đã lâu lắm rồi,
ông Tả Ao đi ngao du sơn thuỷ, ngắm nhìn thế đất, tìm nơi vương địa. Khi ngang
qua làng đó, gặp đúng lúc làng đang mở hội, ăn uống linh đình. Ông Tả Ao ghé
vào, giả làm người đi đường bình thường xin hớp nước, nắm xôi đỡ lòng. Bọn chức
sắc trong làng quát nạt đuổi đi. Khi biết ông là Tả Ao, bọn họ cuống cuồng xin
lỗi, dập đầu tạ tội, truyền mang rượu thịt ra khoản đãi. Họ vật nài ông thánh địa
lý chọn cho làng một miếng đất linh thiêng để thờ cúng, cầu mong cho cả làng
làm ăn thịnh vượng, ăn nên làm ra, mở mày mở mặt với thiên hạ. Ông Tả Ao hỏi
các vị chức sắc muốn chọn cho làng làm nghề gì? Bọn họ nói với ông: “Xin tuỳ ý
tiên sinh. Miễn là tiên sinh chọn cho một nghề nào đó để dân làng tôi có thể
vít đầu vít cổ thiên hạ mà sống là được!”. Thế là ông Tả Ao chọn ngay cho họ mảnh
đất truyền đời dân làng thay nhau làm nghề cắt tóc, tha hồ vít đầu vít cổ thiên
hạ… ha ha… ha ha…
Thằng Bảo cười sặc sụa vì chính câu chuyện do nó kể. Thằng
Nam đấm vào lưng thằng Bảo thùm thụp:
- Mày chỉ bịa! Chỉ bịa! Làm quái gì có chuyện đó!
- Tao nghe người ta kể y boong trăm phần trăm! Mày bảo bịa ở
chỗ nào? Chẳng thế mà cả làng đều làm nghề cắt tóc. Đúng quá, anh Nhu nhỉ?
Anh Nhu lắc đầu làm thằng Bảo cụt hứng:
- Em nghe họ kể chuyện tiếu lâm đấy thôi. Anh hỏi em nhé: Em
có biết dân mình, đàn ông mới cắt tóc ngắn từ bao giờ không? Hồi đầu thế kỷ
này, rất nhiều cụ ông còn để tóc dài, búi tóc củ hành đấy.
Bảo chịu cứng, lảng sang chuyện khác:
- Thôi được, bỏ qua chuyện đó. Bây giờ anh cắt tóc cho em đi!
- Tóc chú mày mới cắt mà! Để anh cắt tóc cho thằng Thiện. Nó
sắp thành người rừng rồi! - Anh Nhu vò đầu tôi, nói đùa.
Tôi ngoan ngoãn để anh Nhu cắt tóc cho, tuy có hơi lo, chỉ sợ
nhỡ anh Nhu cắt hỏng, tôi đến lớp sẽ bị bọn bạn trêu chọc. Nhưng thôi, ai cười
cũng được. Miễn là anh Nhu, qua cái đầu “thí điểm” của bọn tôi, sẽ vững dần tay
nghề để rồi cuối cùng có thể kiếm được ra tiền, vượt qua được những ngày khó
khăn này.
Tôi ngồi yên cho anh Nhu lướt nhẹ chiếc tông đơ. Mấy lần tôi
suýt bật khóc nhưng cố nén không để lộ ra, sợ anh Nhu buồn. Chiếc tông đơ đã
quá cũ kỹ, quá cùn mòn, day qua day lại mấy lượt mà tóc không chịu đứt. Có cảm
tưởng như từng mảng tóc sắp bị dứt khỏi da đầu. Đến mức mỗi khi chiếc tông đơ
chỉ mới chạm nhẹ vào đầu, tôi đã giật thót người, rụt cổ lại, mắt nhắm nghiền
chờ đợi cực hình sắp xảy ra. Người tôi ướt đẫm mồ hôi. Có lẽ anh Nhu cũng thấy
hết tất cả những điều đó nên vừa cắt, anh vừa động viên tôi ráng ngồi thêm ít
phút nữa. Anh bỏ tông đơ, lấy kéo ra tỉa tóc cho tôi. Tôi thấy người nhẹ bỗng,
vô cùng sung sướng như vừa thoát được một tai họa. Bên cạnh, thằng Bảo, thằng
Nam vẫn liến láu bình phẩm, chỉ dẫn. Chúng nó cứ làm như mình là chuyên gia bậc
thầy về cắt tóc, bắt anh Nhu phải cắt thế này, tỉa thế kia… Tôi sốt cả ruột vì
những góp ý của chúng nó, nhưng anh Nhu vẫn bình tĩnh như không. Anh còn vui vẻ
đối đáp một cách hóm hỉnh với chúng nó nữa chứ!
Hôm sau tôi đến lớp, thật khốn khổ vì những câu bình phẩm
châm chọc của lũ bạn. Chúng nó cũng chỉ đùa vui thôi chứ không có gì ác ý. Cả bọn
xúm quanh tôi, bình luận:
- Mày cắt ở hiệu nào mà nham nhở như cóc gặm thế?
- Cứ như chiếc nồi đất úp chụp lên đầu ấy!
- Chỗ thì nhẵn thín, chỗ lại bù xù…
- Chỗ trắng hếu, chỗ đen sì…
- Bắt họ sửa lại đi, Thiện! Cắt thế mà cũng đòi cắt!
Tôi chỉ biết cười trừ. Rồi tóc sẽ mọc lại thôi mà. Giữa những
tiếng cười đang rộ lên thì thằng Bảo lao đến. Nó hét oang oang:
- Cái gì đấy? Có chuyện gì đấy? Chúng mày làm gì em tao đấy?
Nó xông vào giữa đám đông, tả xung hữu đột, tay vung chân đá
tới tấp. Lũ bạn kêu ré lên, dạt hết cả ra. Đấm đá một hồi rồi cùng cười xòa,
hòa cả làng. Cũng chẳng đứa nào cười cợt tôi nữa.
Chiều về, anh Nhu rủ tôi lên bờ đê trước nhà ngồi hóng mát.
Anh ngồi, cao hơn tôi một cái đầu. Anh choàng tay qua vai tôi. Hai anh em im lặng
một lúc lâu, như cùng lắng nghe tiếng gió lúc ù ù thổi mạnh, lúc chỉ hiu hiu vi
vu khe khẽ. Chợt anh bóp mạnh bàn tay tôi, giọng hơi lạc đi:
- Thiện này, có một chuyện anh muốn bàn với em…
Anh ngập ngừng không nói hết câu. Tôi phải nài nỉ:
- Sắp tới chắc là anh em mình không đi chở hàng thuê như thời
gian vừa qua được nữa đâu. Họ trả công xá rẻ mạt quá. Xe tải chở nguyên vật liệu
bây giờ cũng nhiều, đánh bạt hết cánh xe thô sơ của anh em mình. Vả lại, chở
hàng bây giờ cũng nguy hiểm lắm. Xe tải rầm rập suốt ngày, phá nát hết đường.
Đoạn từ trên đê lao xuống toàn ổ trâu ổ voi, không sớm thì muộn anh em mình
cũng gặp tai nạn. Nhất là dạo này lại thường chở tre nứa cồng kềnh, nhỡ nó lao
vào người thì hết thuốc chữa. Anh định anh em mình sẽ chuyển sang làm việc
khác.
Tôi băn khoăn:
- Nhưng liệu có tìm được việc gì khác không anh?
- Anh và anh Hoàng sẽ quay lại việc phụ hồ…
- Cho em cùng làm với.
- Em không làm được đâu. Bao nhiêu việc ngon ăn, có người làm
hết rồi. Anh và anh Hoàng phải nhận cái chân khuân vác xi măng lên tầng ba, tầng
bốn. Mỗi người vác một bao năm mươi ký lô chứ có ít đâu!
Thấy tôi im lặng, anh Nhu lắc lắc tay tôi:
- Liệu em có làm phụ bếp được không? Thầy Tín đã có quyết định
sang làm hiệu trưởng trường Phổ thông lao động, chuyên bồi dưỡng văn hóa cho
các cán bộ lớn tuổi. Cô An vợ thầy và cô Nhuận bạn của cô An sẽ làm cấp dưỡng ở
bên đó. Anh đã hỏi qua ý kiến thầy Tín, định xin cho em làm phụ bếp cho các cô.
Em có thể rửa rau vo gạo, dọn dẹp nhà cửa, rửa bát đĩa, gánh nước, phụ đi chợ…
Cũng vất vả lắm đấy. Vì thế anh muốn hỏi ý em thế nào?
- Vất vả thì em chẳng sợ. Em quen rồi. Nhưng liệu bên đó có
chịu nhận em không? Ai lại nhận trẻ con…
- Nhận hay không là quyền ở thầy Tín. Mà thầy Tín thì lại rất
quý, rất thương em, em biết rồi đấy.
- Em chỉ sợ làm không được việc, không biết ăn nói với thầy
thế nào.
- Việc ấy thì em chẳng lo. Anh tin là mọi người sẽ quý mến
em. Mình cứ chăm chỉ, làm hết sức mình, không sợ em ạ.
Tôi nghĩ đến thằng Bảo:
- Thế còn thằng Bảo, có xin cho nó làm ở đâu được không anh?
Giá nó được làm chung với em…
Anh Nhu trầm ngâm:
- Anh cũng đã cố tìm nhưng chưa được. Rồi cũng sẽ có việc cho
Bảo thôi em ạ. Nhưng cũng không đáng lo. Gia đình Bảo không đến nỗi nào. Trong
mấy anh em, khó khăn nhất vẫn là anh Hoàng, em và anh. Trước mắt, cứ tạm như vậy
đã. Rồi anh sẽ gắng tìm một việc gì đó để mấy anh em cùng làm với nhau cho vui.
Thế nhé, em đồng ý làm phụ bếp cho cô An, cô Nhuận nhé! - Anh cười, nói đùa. -
Thì chú bé Aliôsa cũng làm phụ bếp trên tàu thuỷ đấy thôi? Biết đâu rồi những
ngày khó khăn này cũng sẽ rất có ích cho em trong việc tích luỹ vốn sống để mà
viết…
Anh Nhu ngả người xuống nằm trên bãi cỏ, kéo theo tôi cùng nằm
theo. Hai anh em dang chân dang tay nằm thoải mái, mắt lơ đãng nhìn lên bầu trời
xanh dịu đang sẫm dần. Xa xa, vẳng lại tiếng chuông nhà thờ gióng giả, khoan
thai. Giọng anh Nhu buồn buồn:
- Giá hoàn cảnh anh em mình đừng quá khó khăn, đừng quá phải
lo nghĩ về chuyện kiếm sống thì thích quá nhỉ. Anh rất thèm những giờ phút bình
yên như thế này.
Tôi rất muốn nói một câu gì đó an ủi anh nhưng không biết nói
thế nào. Chỉ biết quờ tay sang nắm lấy bàn tay thô ráp của anh. Giọng anh vẫn đều
đều:
- Giá mà anh làm được ra tiền, anh sẽ không để em phải vất vả
đi làm thêm như thế này đâu. Em còn nhỏ quá, đang tuổi ăn tuổi ngủ…
Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra. Thì anh cũng đã nhiều tuổi gì
cho cam? Anh cũng đang ở độ tuổi ăn học đấy thôi? Thế mà anh đã vất vả từ mấy
năm trước… Đột nhiên anh Nhu ngồi nhỏm dậy, vui vẻ hẳn lên:
- Nhưng thôi, không sao em ạ. Anh em mình sẽ vượt qua tất cả
thôi. Cố gắng lên, Paven! À quên, Aliôsa! - Rồi anh nắm lấy hai vai tôi bóp mạnh,
cười rất tươi. - Hôm nay mái tóc của em đã xanh lại như cũ rồi đấy. Liệu lần
sau có dám để cho anh cắt nữa không?
Cả hai anh em cùng cười. Tôi nói với anh:
- Em
không sợ anh cắt xấu đâu mà sợ cái tông đơ cùn nó day tóc, đau lắm anh ạ. Anh
phải mang ra hiệu cho họ mài đi. Mài sắc rồi, em lại xin xung phong giơ đầu cho
anh cắt “thí điểm”.
12. Tôi làm “phụ bếp” thấm thoát đã được hơn một tháng. Ngày nào
cũng vậy, tôi dậy từ mờ đất, đánh răng rửa mặt xong là vội vàng chạy sang trường
Phổ thông lao động của thầy Tín. Tôi cùng cô An, cô Nhuận nhóm lò than, chuẩn bị
đun nước. Trước hết là nấu một chảo lớn nước sôi để sáng ra cho các học viên có
nước pha trà. Trường học toàn học viên lớn tuổi, là cán bộ được đi học bổ túc
thêm kiến thức phổ thông. Họ dậy rất sớm và thú vui duy nhất chỉ là uống trà
Thái Nguyên thật đậm vào buổi sáng sớm trước khi lên lớp. Nhóm bếp xong, tôi
gánh nước đổ đầy hai thùng phuy. Giếng ở cách bếp chừng ba bốn chục mét, công
gánh không mệt bằng công kéo gầu múc nước. Bắt đầu vào mùa đông, giếng nước cạn,
càng mất sức nhiều hơn. Xong chuyện nước nôi, tôi bắt đầu quét dọn nhà ăn, lau
chùi bàn ghế, còn những bát đĩa, nồi niêu soong chảo nào chưa rửa thì rửa nốt.
Đâu đấy rồi, nếu cô Nhuận, cô An không bảo làm gì thêm, tôi mới chạy về nhà
thay quần áo, lấy sách vở đi học. Học trên lớp xong, tôi lại tất tả chạy đến
nhà ăn. Cũng vừa lúc sắp đến giờ các học viên ăn cơm. Tôi phụ bưng bê cơm canh
bày sẵn ra các bàn. Trong lúc họ ăn uống, tôi làm các việc vặt trong bếp, đi đổ
rác, gánh thêm nước, bổ thêm củi, xúc thêm than… Học viên ăn uống xong, tôi dọn
bàn, rửa bát đĩa cùng với cô An, cô Nhuận. Mọi việc xong xuôi, mấy cô cháu mới
ăn cơm. Ăn xong, không kịp nghỉ ngơi, lại lo chuẩn bị cho bữa cơm chiều. Nhặt
rau, vo gạo, đun bếp… Lại rửa chén bát, dọn dẹp nhà ăn, gánh thêm nước… chẳng mấy
chốc đã sập tối. Tôi trở về nhà, tay chân rời rã, ngồi tán gẫu với thằng Bảo,
thằng Nam một chốc rồi đi học bài. Nhiều khi mệt bã người, muốn nằm một lát
nhưng không dám. Nằm xuống thì tôi sẽ ngủ liền, mắt ríu lại không sao cưỡng được.
Mà bài vở thì còn nguyên đấy chưa mó đến.
Với chân phụ bếp, tôi được ăn hai bữa cơm mỗi ngày cùng với
cô An, cô Nhuận. Ngoài ra, mỗi tháng tôi được thù lao thêm năm đồng để mua giấy
bút. Tôi nhớ hồi đó mỗi ký gạo mậu dịch là bốn hào. Như vậy, đối với tôi cũng
là đỡ lắm. Đã mấy tháng nay tôi hoàn toàn sống tự lập được, không phải xin tiền
của gia đình. Vừa học, vừa kiếm việc làm thêm, tuy vất vả nhưng tôi rất vui.
Tôi tự hào là mình đã đỡ được gánh nặng cho bố, lại quen thêm được nhiều người
tốt. Thầy Tín, cô An, cô Nhuận coi tôi như người trong nhà. Sang tới tháng thứ
hai kể từ khi tôi bắt đầu làm với các cô, thầy Tín bảo tôi đến ở luôn trong trường
của thầy để tôi đỡ phải đi lại, tiện cho việc làm thêm của tôi. Liền với nhà
ăn, có một căn buồng nhỏ lâu nay làm nhà kho, giờ kê thêm chiếc giường cá nhân
cho tôi nằm. Sáng sớm, cô Nhuận thường đánh thức tôi dậy. Cô là một người tốt
hiếm thấy. Mắt cô hơi hiếng, da ngăm ngăm đen, tóc hơi xoăn tự nhiên. Dần dà hỏi
chuyện, hóa ra cô có biết bố mẹ tôi ít nhiều. Cô bảo có thời gian bà nội tôi làm
ăn buôn bán ở ga Kép, từ trước Cách mạng tháng Tám. Gia đình cô và gia đình tôi
thường qua lại chơi với nhau. Cô nhớ mẹ tôi dáng người dỏng cao, da trắng, tóc
dài, mắt đen lay láy, tướng quý phái rất sang. Mẹ tôi hay mặc bộ đồ lụa đen. Chỉ
vài nét phác qua về mẹ tôi do cô kể lại như thế, đối với tôi cũng rất quý. Bởi
vì mẹ tôi mất khi tôi còn nhỏ. Tôi có rất ít kỷ niệm về mẹ. Có chăng thì cũng
chỉ mờ ảo khó nắm bắt. Cô Nhuận thương tôi như một người cô ruột thịt. Có hôm,
thấy tôi ngủ say, cô không nỡ gọi. Cứ để cho tôi ngủ tiếp, cô dậy từ tờ mờ đất,
lụi hụi nhóm lò, gánh nước đổ đầy hai thùng phuy, những việc thuộc phần tôi phải
lo mỗi buổi sớm. Vài ba lần như thế, tuy không ai trách cứ tôi nhưng tôi tự thấy
mình có lỗi. Trước khi đi ngủ, tôi lên văn phòng nhà trường mượn chiếc đồng hồ
báo thức, căn giờ cẩn thận để ở đầu giường. Bốn giờ rưỡi sáng, chuông reo, tôi
trở dậy, khỏi làm phiền đến cô Nhuận.
Cô An vợ thầy Tín cũng rất quý mến tôi. Cô kém thầy Tín đến
mười mấy tuổi. Nhà cô nghèo, còn bà già và người em trai, cả hai đều trông cậy
vào cô. Cô rất hiền, rất ít nói, làm việc luôn chân luôn tay. Lúc đó, cô vừa mới
sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Hương. Con bé mới được mấy tháng, nhưng hình
như đã biết thông cảm với sự vất vả của mẹ nên cả ngày nằm yên trong nôi, thỉnh
thoảng mới ọ ẹ đòi ăn. Chiếc nôi treo ngay bên hiên nhà ăn, liền kề với nhà bếp,
rất tiện cho các cô để mắt tới. Những lúc các cô lo nấu nướng, làm các món ăn,
tôi thường được rảnh rỗi chút ít. Tôi tranh thủ học bài. Tôi học ngay cạnh chiếc
nôi của bé Hương, vừa tiện trông nom bé, vừa để các cô cần gì, ới một tiếng là
tôi có mặt liền. Một hôm, bé Hương ấm đầu, khóc ngằn ngặt đòi bế. Tôi bế bé, ru
thế nào cũng không nín. Tôi liền đặt bé vào nôi, đưa bổng nôi lên. Bé vẫn khóc,
tôi càng dẻo tay đẩy nôi bổng nữa. Bé khoái chí, cười sằng sặc. Tôi lại càng dẻo
tay tung nôi lên cao hơn. Bé cười mãi, cười mãi, rồi như có vẻ sợ hãi, tiếng cười
ngắt đoạn, chuyển thành tiếng khóc. Tôi vẫn đưa bổng nôi lên. Bé thôi không
khóc nữa, ngủ thiếp đi sau cơn sợ hãi. Nhìn thấy mặt bé trắng bệch, tôi sợ quá.
Tôi ghé tai vào sát ngực bé, không nghe thấy động tĩnh gì. Tôi hoảng hốt thật sự,
kêu ầm lên. Cô An, cô Nhuận cùng ở trong bếp lao ra. Cô An ôm chặt con vào ngực,
mặt tái mét. Cô Nhuận cuống quýt đi lấy dầu gió. Phải mấy phút sau, bé Hương mới
hoàn hồn. Có lẽ tôi đã làm bé quá sợ hãi. Tôi thú thật với hai cô là do lỗi ở
tôi. Tôi đã đưa nôi quá bổng. Nhưng cả cô An và cô Nhuận đều gạt đi, bảo bé
Hương trúng gió, tôi không có lỗi gì. Mấy hôm sau cô Nhuận mới nhẹ nhàng nói nhỏ
với tôi, bảo tôi đừng đưa nôi bổng như thế nữa, nguy hiểm lắm. Ngoài việc bé
Hương quá sợ hãi, rất có thể còn xảy ra chuyện đứt dây, cả nôi và bé Hương bị
văng ra xa. Hôm trước, thấy mặt tôi cắt không còn giọt máu, các cô không muốn để
tôi sợ hãi thêm, nói tránh đi như vậy thôi.
Nhờ bên trường thầy Tín có điện, ngoài hành lang nhà ăn sáng
suốt đêm nên tôi tha hồ thức khuya học bài, đọc sách. Tôi vẫn thường xuyên ra
thư viện mượn sách về đọc. Những lúc rảnh tôi vẫn giúp cô Uyên dọn dẹp phòng ốc,
đóng lại sách báo cũ, vào sổ sách mới… Nhờ có điện sáng, một buổi tối tôi làm
thêm được bao nhiêu việc. Học cũng tỉnh táo hơn. Đọc sách cũng được nhiều hơn.
Nhưng tôi chỉ thích thú được ít ngày. Tôi bắt đầu thấy nhớ những buổi anh em
quây quần bên bếp lửa, nhớ anh Nhu, thằng Bảo… Tuy ngày nào chúng tôi cũng vẫn
gặp nhau nhưng chỉ trong thoáng chốc giờ ra chơi giữa buổi học. Tôi thèm được về
sống giữa cái gia đình nhỏ bé lam lũ nhưng ấm cúng của tôi. Tôi nói với cô An,
cô Nhuận ý nghĩ ấy. Các cô vui lòng để tôi ra về sau khi đã làm xong mọi việc
và ăn bữa cơm chiều với các cô. Thế là tối tối tôi lại chụm đầu học bài với thằng
Bảo, thằng Nam quanh chiếc đèn dầu tù mù. Tôi lại được nằm bên anh Nhu, được
anh phe phẩy quạt cho mỗi lúc nóng nực, được gác chân lên bụng anh… Chúng tôi lại
bàn tán rôm rả về chuyện học hành, về tương lai của mỗi người.
Sáng tinh mơ, anh Nhu lại đánh thức tôi dậy. Mắt nhắm mắt mở, tôi lại chạy đi làm phụ bếp… Anh Nhu, anh Hoàng cũng dậy sớm đi làm phụ hồ. Thỉnh thoảng, vào những ngày chủ nhật, anh Nhu lại xách hòm đồ nghề thợ cạo đi vào các làng xa để kiếm thêm ít tiền tiêu. Giờ thì anh đã cắt thành thạo lắm rồi. Tôi và thằng Bảo, thằng Nam đã vui vẻ làm “vật tế thần” cho anh suốt mấy tháng. Chúng tôi ngồi yên cho anh cắt “thí điểm”, rút kinh nghiệm dần. Sau đó anh cắt cho bọn trẻ con quanh xóm không lấy tiền. Tay nghề anh vì thế được nâng cao nhanh chóng và giờ thì anh đã có thể cắt đủ các kiểu, mốt này mốt nọ tuỳ theo yêu cầu của khách.
Sáng tinh mơ, anh Nhu lại đánh thức tôi dậy. Mắt nhắm mắt mở, tôi lại chạy đi làm phụ bếp… Anh Nhu, anh Hoàng cũng dậy sớm đi làm phụ hồ. Thỉnh thoảng, vào những ngày chủ nhật, anh Nhu lại xách hòm đồ nghề thợ cạo đi vào các làng xa để kiếm thêm ít tiền tiêu. Giờ thì anh đã cắt thành thạo lắm rồi. Tôi và thằng Bảo, thằng Nam đã vui vẻ làm “vật tế thần” cho anh suốt mấy tháng. Chúng tôi ngồi yên cho anh cắt “thí điểm”, rút kinh nghiệm dần. Sau đó anh cắt cho bọn trẻ con quanh xóm không lấy tiền. Tay nghề anh vì thế được nâng cao nhanh chóng và giờ thì anh đã có thể cắt đủ các kiểu, mốt này mốt nọ tuỳ theo yêu cầu của khách.
Có một đêm, đã khuya lắm, khi mọi người đã ngủ hết, tôi vẫn nằm
thao thức. Tôi bỗng thấy nhớ nhà. Đã lâu tôi không nhận được tin tức gì của gia
đình. Tôi chỉ nằm im lặng suy nghĩ, không dám động cựa vì sợ làm anh Nhu tỉnh
giấc. Vậy mà anh Nhu vẫn biết. Anh khẽ hỏi:
- Có chuyện gì mà em cứ trằn trọc mãi thế?
- Không ạ. Không có chuyện gì đâu. Em chỉ thấy khó ngủ thôi.
- Tôi cố giấu.
Anh Nhu thì thào:
- Thiện này! Dạo này em học hành thế nào? Làm thêm vất vả vậy,
học có bị sút đi không?
- Em vẫn học bình thường, anh đừng lo.
- Gắng đừng để ảnh hưởng đến học tập nhé. Có gì trở ngại, phải
nói cho anh biết ngay nhé.
- Vâng, anh cứ yên tâm. - Tôi nắm tay anh hứa.
Yên lặng một lúc lâu. Tôi tưởng anh ngủ lại rồi, không ngờ
anh lại thì thào:
- Thiện này, em vẫn lén tập viết phải không? Viết được gì,
cho anh xem với. - Ngừng một lát, anh nói tiếp - Việc em đi làm thêm, anh muốn
em nên có ý thức đó không chỉ đơn thuần là việc kiếm sống, việc kiếm thêm tiền
để ăn học, mà còn là dịp để em tìm hiểu cuộc đời, tìm hiểu con người. Nó sẽ rất
có ích cho việc viết văn của em sau này. Chuyện văn chương, anh không rành lắm.
Nhưng anh cứ nghĩ một cách đơn giản thế này thôi: muốn viết văn, phải có vốn sống.
Có bột mới gột nên hồ em ạ. Đọc tác phẩm của Nam Cao, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài…, anh thấy họ là những người từng trải lắm, vốn sống
của họ ngồn ngộn phong phú lắm. Tất nhiên, ngoài vốn sống còn cần phải có nhiều
phẩm chất khác nữa. Nào là học thức, nào là năng khiếu… Em phải chịu khó tìm hiểu,
quan sát em ạ. À, mà dạo này em đang viết gì thế? Cứ giấu giấu giếm giếm… Phải
cho anh xem với chứ!
Tôi cười khúc khích, cúi đầu vào bên sườn ấm sực của anh. Tôi
nói chống chế:
- Em viết vớ vẩn ấy mà! Bao giờ viết được cái gì ra hồn, em sẽ
nhờ anh đọc cho em.
Anh khẽ kéo chăn che ngực cho tôi rồi khẽ giục:
- Thôi, khuya lắm rồi. Ngủ đi, mai còn đi làm sớm.
Nghe lời anh, tôi cố nhắm mắt ngủ, nhưng lòng cứ xốn xang
không yên.
13. Mấy ngày sau, tôi nhận được thư của bố tôi báo cho biết Hiếu,
em ruột tôi, con của cô tôi mới mất. Cách đây hơn hai tháng, cái Hoa, đứa em
sinh đôi với Hiếu cũng đã mất. Cả hai đều mất vì suy dinh dưỡng nặng. Bệnh viêm
phổi và sau đó là bệnh tiêu chảy kéo dài nhiều ngày đã cướp đi sinh mạng của cả
hai đứa em tôi. Tôi xin phép cô Kim cho tôi về thăm nhà mấy ngày, vừa là để an ủi
bố mẹ tôi; thêm nữa, từ ngày lên đây học tôi cũng chưa về thăm nhà lần nào.
Vừa bước chân vào nhà, tôi đã nhận ra ngay không khí buồn thảm,
lạnh lẽo của một gia đình vừa có tang. Cô tôi nằm quay mặt vào tường, bất động.
Dũng, em trai tôi, mười hai tuổi ngồi góc bàn đang hý hoáy chữa chiếc bút máy hỏng.
Dung, em gái mười tuổi, ngồi xệp dưới nền đá hoa, lưng dựa vào tường, cắm cúi
ngồi đan áo len. Cả hai đứa trông thấy tôi, vẻ vừa mừng vừa ngạc nhiên pha chút
sợ sệt. Cái Dung ngừng tay đan, hơi nhổm người về phía tôi, giọng thì thào:
- Thằng Hiếu mất rồi…
- Anh có nhận được tin. Cậu viết thư cho anh. - Tôi nói nhỏ,
sợ làm cô tôi thức giấc. - Cậu đâu? Anh Hiệu, anh Lượng đâu?
- Cậu lên trên phố. Anh Hiệu, anh Lượng đi học chưa về. Cái
Hương, cái Yến chắc đang chơi bên cụ Trưởng.
Tôi đưa cho Dung và Dũng gói lạc luộc tôi mua ở trên tàu rồi
ngồi xuống nền nhà, cạnh Dung, hỏi chuyện em. Dung vẫn ngoắt ngoắt các ngón tay
đan thoăn thoắt, vừa đan vừa kể chuyện nhà. Dạo này cô tôi nhận đan thuê. Dung
cùng đan với mẹ, thành thạo chẳng kém gì người lớn. Nhà khó khăn, con bé sớm biết
nghĩ, rất chăm chỉ làm mọi việc trong nhà, luôn chân luôn tay không mấy khi được
ngơi nghỉ. Tôi giục ăn lạc luộc, Dung chép miệng như người lớn: “Để phần cho
con Hương, con Yến. Em lớn rồi, quà với cáp gì!”. Nghe nó nói, tôi thấy cay cay
nơi sống mũi. Nghe tiếng trò chuyện rì rầm, cô tôi trở mình và nhận ra tôi đã về.
Giọng khản đặc uể oải, cô tôi hỏi:
- Thiện về đấy à?
Vừa hỏi dứt câu, cô tôi òa khóc. Cô tôi ngồi dậy, búi lại mái
tóc xõa xượi, khóc dấm dứt. Tôi muốn nói một câu gì để an ủi cô tôi mà không
nói được. Tôi chỉ biết ngồi lặng yên nhìn cô tôi, nước mắt ứa ra. Cho đến khi
cô tôi khóc nức lên, giọng thều thào: “Nó mới biết bò tháng trước. Khổ thân con
tôi. Bò như thế thì biết đến bao giờ mới về được đến nhà, con ơi! Con nằm ngoài
nghĩa địa một mình lạnh lẽo…” thì tôi cũng bật khóc òa theo.
Tôi rất thương cô tôi. Là vợ kế của bố tôi, nhưng cô tôi cũng
chính là em ruột của mẹ tôi. Nghe người lớn nói lại, ngày trước gia đình bên nội
tôi giàu có lắm. Ông thầy tử vi nói số bố tôi phải có hai vợ. Qua sự sắp xếp của
ông bà nội ngoại tôi, bố tôi lấy cả hai chị em, để nhỡ có chuyện gì thì của nả
khỏi rơi vào tay người khác và mấy chị em tôi cũng đỡ khổ. Những chuyện của người
lớn không bao giờ tôi dám hỏi. Tôi chỉ biết một cách lờ mờ là hình như giữa mẹ
tôi và cô tôi không được vui vẻ gì. Cả hai người đều ôm những nỗi khổ riêng,
không dễ gì nói ra. Bằng vào những gì tôi được biết, được chứng kiến thì tôi thấy:
suy cho cùng, cô tôi là một người đàn bà khổ sở cả đời. Cái nỗi khổ lớn nhất của
cô tôi có lẽ là về đường con cái. Cô tôi thuộc lớp người cổ rất coi trọng con
trai nối dõi. Cô sinh nở sáu lần. Con trai đầu của cô tôi là thằng Dũng, cô hết
lòng chăm bẵm, yêu quý thì chẳng may lại hơi bất bình thường, không dại hẳn
nhưng cũng không được như mọi đứa trẻ khác. Cô tôi đau khổ âm thầm cả chục năm.
Đến lúc sinh đôi thằng Hiếu, cái Hoa, mặc dù hoàn cảnh vô cùng túng quẫn, cô
tôi vẫn vui vẻ với hy vọng thằng Hiếu lớn lên sẽ là chỗ dựa vững chắc cho cô
tôi. Giờ thì nó đã bỏ cô tôi mà đi… Tuy còn ít tuổi nhưng tôi cũng đã thấu hiểu
những tâm tư sâu kín của cô tôi và cảm nhận sâu sắc nỗi đau to lớn mà cô tôi
đang phải gánh chịu.
Giai đoạn này gia đình tôi lại đang khó khăn cực kỳ. Bố tôi
không có công ăn việc làm ổn định. Cô tôi từ xưa chỉ quanh quẩn làm việc nhà.
Nay túng bấn quá thì nhận len về đan thuê. Hai chị tôi, người học Sư phạm, người
đi bộ đội, sinh hoạt phí eo hẹp chỉ đủ dùng cho cá nhân, dù có muốn cũng không
có điều kiện giúp đỡ gia đình. Trong nhà lốc nhốc chín đứa con sàn sàn trứng gà
trứng vịt, đứa lớn nhất là anh Hiệu tôi mới mười sáu tuổi, đứa nhỏ nhất còn ẵm
ngửa. Chuyện gia đình đã sẵn có những điều không vui. Kinh tế khó khăn làm cho
không khí ngày càng nặng nề. Ngày chưa lên Bắc Giang trọ học, tôi thường xuyên
sống trong mặc cảm mình có lỗi, mười ba mười bốn tuổi rồi mà không làm được gì
để giúp đỡ gia đình, cứ phải ăn bám vào những người thân yêu ruột thịt.
Ngang tầm trưa, cái Hương cái Yến chạy về, kêu đói bụng. Hai
đứa rất ngoan. Biết nhà đang gặp nhiều chuyện khó khăn, chúng chẳng bao giờ đòi
hỏi, vòi vĩnh gì. Ăn xong vốc lạc Dung đưa xong, cả hai dốc ngược ấm tích, tu ừng
ực đến căng bụng rồi lại chạy sang hàng xóm chơi. Một lúc sau, anh Hiệu, anh Lượng
cũng đi học về. Chỉ Hương, Yến nhỏ tuổi, vô tư là cười nói to, còn mọi người
nói nhỏ, gần như thì thào. Cô tôi vẫn nằm quay mặt vào tường. Tôi nhìn lên chiếc
đồng hồ để bàn đã hơn một giờ. Không thấy ai đả động gì đến chuyện cơm nước.
Tôi hỏi Dung:
- Nhà ăn cơm rồi hả Dung?
Dung ngập ngừng:
- Chưa…
- Thế đã nấu chưa?
Dung đưa mắt sợ sệt nhìn mọi người, vẫn ngập ngừng:
- Chưa nấu…
Tôi thầm trách mình sao lại đi hỏi chuyện đó. Trước đây ở nhà
tôi cũng đã từng phải chứng kiến biết bao lần tương tự như thế này rồi. Tôi rủ
anh Lượng đi ra phố. Vừa ra khỏi cửa, anh Lượng đã nói khá to:
- Mấy hôm nay nhà hết gạo, bữa ăn bữa nhịn, đói mờ cả mắt.
Ban nãy ở trên lớp, tý nữa thì tớ xỉu…
Anh Lượng hơn tôi một tuổi, vẫn có thói quen xưng hô “tay
tay, tớ tớ” với tôi. Hai anh em tôi vào ngõ chợ, mua về ba ký bún. Tôi định mua
mấy ký gạo nhưng anh Lượng ngăn lại:
- Đừng mua gạo ngoài, đắt lắm. Để lấy sổ gạo đi mua. Tháng
này nhà đã mua đâu! Tiền chẳng có…
Ngang qua hàng thịt quay, bà chủ vồn vã chào mời. Tôi định dừng
lại, anh Lượng giật giật tay tôi, nói nhỏ:
- Đắt lắm, mua phí tiền! Về rưới nước mắm là tuyệt rồi!
Đi được mấy bước, anh trợn mắt hỏi tôi:
- Tay có nhiều tiền không mà định tiêu vung vít như thế?
Tôi cười, vỗ vỗ vào túi quần:
- Em có nhiều! Anh cứ yên chí. Lúc nào anh em mình ra Cẩm
Bình ăn kem.
Ngày đó, kem Cẩm Bình ở phố Huế ngon nổi tiếng. Sắp về tới
nhà, anh Lượng rủ tôi:
- Chiều nay tớ với tay vào Cầu Giấy thăm chị Trọng, chị Ngà
đi. Nhân thể có một chuyện quan trọng tớ cũng muốn nói với tay…
- Chuyện gì mà quan trọng? - Tôi dừng lại, hỏi.
- Để chiều tớ sẽ nói. Chuyện quan trọng thật mà!
“Chuyện quan trọng” anh định nói với tôi là chuyện anh định bỏ
học để đi làm công nhân đường sắt tuyến Hà Nội - Lào Cai đang mở. Có hai, ba
người ở cùng phố đã đi làm trên đó, rủ anh lên theo. Ngồi trên tàu điện vào Cầu
Giấy, anh bảo tôi:
- Bỏ học, tớ tiếc lắm. Nhưng không còn cách nào khác. Nhà
càng ngày càng kiệt quệ. Cứ nghĩ đến cảnh gia đình như thế, học cũng chẳng thể
nào vào được. Lên trên đó, có lớp bổ túc văn hóa, tớ sẽ tranh thủ học thêm.
Đúng là không còn con đường nào khác thật. Thấy anh phải bỏ học,
tôi buồn lắm nhưng không biết nói gì hơn là đành phải cùng anh chấp nhận. Xuống
tàu điện ở Cầu Giấy, vừa đúng lúc có xe buýt chạy vào Mai Dịch, tôi kéo tay anh
định leo lên nhưng anh bảo tôi:
Thấy quán nước bên đường bày bán mấy nải chuối chín trứng cuốc
vàng ươm ngon lành, tôi rẽ vào mua một nải, làm quà cho hai chị tôi. Quán này
tôi đã mua mấy lần. Ngày còn ở nhà, thỉnh thoảng tôi thường xin phép bố và cô
tôi vào thăm hai chị. Từ Khâm Thiên vào Mai Dịch tôi hay đi bộ theo lộ trình:
Đi bộ ra cửa Nam. Từ Cửa Nam đi tàu điện vào Cầu Giấy. Từ Cầu Giấy đón xe buýt
vào trường Đại học Sư phạm và Mai Dịch. Mỗi lần như thế, bố tôi thường cho tiền,
đủ để mua vé đi, về. Nhưng sau này chẳng mấy khi tôi đi tàu xe. Tôi đi bộ từ đầu
phố Khâm Thiên ra Ô Chợ Dừa, lên Đê La Thành, Giảng Võ rồi chạy tuốt ra Cầu Giấy,
vào Mai Dịch. Vừa đi vừa chạy cho nhanh. Chẳng phải tôi khoái gì chuyện đi bộ
mà chính là để dành tiền mua quà cho hai chị tôi. Khi mua nải chuối, lúc tôi
mua quả đu đủ. Chút xíu thôi nhưng cũng gọi là một chút quà. Tôi nói với hai chị
tôi là quà của cô tôi gửi:
- Lâu không thấy hai chị về, cô nhắc luôn. Hôm nay em vào, cô
gửi lời hỏi thăm và gửi quà cho hai chị.
Sở dĩ tôi phải “bịa” ra chuyện đó là vì có một thời gian, chẳng
biết vì lý do gì, trong cư xử cô tôi có phần không được mặn mà lắm với hai chị,
nhất là với chị cả tôi. Hai chị tôi rất buồn, nhiều khi ngần ngại, ít về thăm
nhà. Phải chứng kiến và chịu đựng những rạn nứt trong quan hệ gia đình, tôi rất
khổ tâm. Tuy mới là một đứa trẻ, tôi đã muốn đóng vai trò của một người hòa giải.
Tôi muốn níu kéo lại những mối liên hệ, mong mỏi mọi người nhích lại gần nhau
hơn. Khi ở chỗ hai chị về, tôi lại vừa đi bộ vừa chạy gằn, dùng số tiền hai chị
cho để mua quà mang về. Tôi lại nói dối cô tôi:
- Hai chị con bận quá, lâu không về thăm nhà được. Hai chị
con gửi quà về biếu cô và cho các em.
Thật ra trong gia đình tôi không bao giờ xảy ra những mâu thuẫn
lớn, thậm chí suốt trong mấy chục năm, chưa bao giờ có một câu nói nặng lời, một
cử chỉ gì gây xúc phạm đối với người này người khác. Chỉ bàng bạc một không khí
uể oải, buồn chán, lạnh lùng, một sự không bằng lòng do một nguyên nhân thầm
kín nào đó không dễ nói ra chi phối. Sự túng quẫn về kinh tế càng làm cho không
khí trong gia đình nặng nề hơn. Anh Lượng tôi ra đi là phải. Trước mắt, cốt sao
hãy được sống trong một môi trường thanh thản hơn. Như tôi đấy. Đi trọ học, phải
sống tự lập, phải bươn chải khá vất vả nhưng tôi rất thích, tôi ít bị ám ảnh bởi
sự buồn chán nặng nề.
Trong mấy anh chị em, tôi sống gần anh Lượng trong một thời
gian dài nhất. Lúc mẹ tôi còn sống, bị ốm nặng lâu ngày, đơn vị quân y của bố
tôi di chuyển qua nhiều nơi, bao giờ bố tôi cũng đem theo mẹ tôi, anh Lượng và
tôi. Còn hai chị Trọng, Ngà và anh Hiệu tôi ở với ông bà Thượng (bà Thượng là
chị ruột ông nội tôi). Đến khi mẹ tôi mất, anh Lượng và tôi ở với ông bà Hai
(ông Hai là em ruột ông nội tôi). Chính vì thế mà hai anh em có nhiều gắn bó.
Cùng ăn ở một nơi, cùng học một lớp, cùng tham dự mọi chuyện buồn vui trong gia
đình, cùng tham gia mọi trò chơi nghịch ngợm. Ngày nhỏ, anh nổi tiếng là bướng
bỉnh, ngang ngạnh, tóc rễ tre lúc nào cũng sừng lên, đỏ quạch. Lớn lên một
chút, anh thay đổi hẳn. Tính trầm hẳn lại, suy nghĩ sâu sắc và đặc biệt là rất
gắn bó với gia đình, rất quan tâm đến chuyện gia tộc, họ hàng. Anh cũng có tính
cả nghĩ như tôi, lúc nào cũng chỉ sợ phiền người khác. Việc anh quyết định bỏ học,
đi làm công nhân đường sắt trên Lào Cai cũng chính là để bớt gánh nặng cho gia
đình. Bố tôi chấp nhận chuyện anh ra đi một cách im lặng. Bố tôi không nói một
câu nào. Tôi biết bố tôi đau lòng lắm. Phải để cho đứa con trai mười lăm tuổi bỏ
học dở chừng, lên miền rừng núi xa lạ, ngày đêm phơi mặt giữa sỏi đá. Bố tôi buồn
nhưng bất lực…
Ngày hôm sau, buồn vì không khí trầm uất trong gia đình, tôi
rủ anh Lượng đi chơi phố. Gọi là đi chơi phố chứ thực ra hai anh em tôi chẳng
biết đi đâu ngoài việc chạy bộ lên Bờ Hồ Hoàn Kiếm xem mấy đám xiếc khỉ, mãi võ
Sơn Đông và cuối cùng rẽ vào hiệu sách phố Tràng Tiền. Để cho mau đến nơi, hai
anh em tôi vừa đi vừa trêu chọc nhau. Anh Lượng hay bày trò đánh nhau, đẩy tôi
ngã dúi dụi rồi ù té chạy, cười ngặt cười nghẽo. Với bộ dạng ấy mà mấy hôm nữa
anh đã lên công trường…
Đến cổng đền Ngọc Sơn, tôi lại thấy ông già bán kẹo kéo. Mấy
năm rồi ông vẫn đứng bán ở đấy. Trông bộ dạng ông vẫn hom hem khổ não như trước.
Có điều tóc ông thưa hơn, bạc nhiều hơn. Tôi nhớ ông không chỉ vì ông bán rẻ, lần
nào cũng cho tôi thêm mẩu kẹo nhỏ mà ông búng tay đánh “cấc” một tiếng đanh gọn,
điệu nghệ. Tôi nhớ ông còn vì trên mặt hòm gỗ của ông có dán bức tranh vẽ mùa
thu với một bờ cây vàng rượi và một con sông nhỏ lượn lờ đượm buồn. Chắc là ông
cắt ở hình một tờ họa báo nào đó. Ông dán bức tranh lên mặt hòm để che bớt những
vết nham nhở hơn là vì lòng yêu nghệ thuật, tôi chắc thế vì mấy khoảng sáng
trên tranh, ông ghi chi chít các con số, có lẽ là những khoản tiền khách thiếu
nợ. Tôi mê bức tranh mùa thu ấy vô cùng. Ngày còn ở nhà, cứ hở ra lúc nào rảnh
rỗi, tôi lại xin phép bố và cô tôi cho “chạy ra hiệu sách một lát”. Vừa được
cho phép, tôi liền chạy ngay lên đây, mê mẩn ngắm nhìn bức tranh. Mà đường đi
có gần gặn gì? Từ Khâm Thiên ra hồ Thiền Quan, lên Bà Triệu, chạy tuốt lên đền
Ngọc Sơn… Thỉnh thoảng có dăm ba đồng, tôi mua kẹo kéo của ông để gây được cảm
tình, được đứng xem tranh lâu lâu một chút. Còn phần lớn là xem tranh nhờ. Ban
đầu ông có vẻ bực bội vì tôi “ám” ông, nhưng sau ông dần có cảm tình và cuối
cùng thì quý tôi thật sự. Ông bảo chưa thấy thằng bé nào có nỗi đam mê quá quắt
như tôi. Thấy tôi quá mê mẩn vì bức tranh, có lần ông đã định bóc ra cho tôi
nhưng bóc không được. Ông đã dán quá kỹ. Tôi tiếc lắm và đành lâu lâu lại chạy
ra xem ké. Buồn nhất là có những hôm chạy đến đứt hơi nhưng ra không gặp ông.
Tôi thẫn thờ, uể oải bước về.
Giờ thì ông lão đang ở trước mặt kia. Từ xa, tôi vẫn nhận ra
bức tranh mùa thu vẫn còn đó. Ông lão cũng nhận ra tôi, gật đầu mỉm cười. Tôi
và anh Lượng ăn kẹo kéo, xem tranh rồi ra trước hiệu kem Hồng Vân ăn thịt bò
khô. Cạnh bến xe điện, quanh mấy máy chiếu phim quay tay xúm đông xúm đỏ bọn trẻ
con hiếu kỳ. Tiếng phim chạy xè xè và tiếng mấy người thuyết minh liến láu đầy
hấp dẫn. Những chiếc xe điện nửa vàng nửa đỏ ngật ngưỡng chạy trên đường ray,
tiếng chuông rung leng keng vui tai. Lâu lắm tôi mới lại được thấy cảnh này. Hai
anh em tôi còn la cà quanh hết cả một vòng bờ hồ. Lúc dừng lại mê mải xem xiếc
khỉ, lúc trầm trồ thán phục mấy ông mãi võ mình trần gồng người đến tím tái mặt
mày, để cho đệ tử cầm giáo nhọn đâm vào giữa ngực. Ngọn giáo cán tre cong vồng
lên, mũi giáo tỳ lên ngực vẫn không sao xuyên thủng được.
Có lẽ đấy là lần cuối cùng trong thời niên thiếu hai anh em
tôi rong chơi cùng nhau, lòng thơ thới vô tư. Về sau này, chúng tôi còn đi với
nhau vài ba lần nữa, cũng quanh Bờ Hồ này, nhưng không còn đâu những cảnh xiếc
khỉ, những đám mãi võ, những tiếng thuyết minh phim bình dân vừa vui nhộn vừa bỗ
bã… Tâm trạng của anh em tôi cũng đã khác. Cuộc sống đầy biến động đã làm cho
anh em tôi già trước tuổi, cằn cỗi đi nhiều. Tất cả chỉ còn là hoài niệm…
14. Ở nhà được ba hôm, tôi trở lại Bắc Giang. Sáng sớm, trên đường
ra ga Hàng Cỏ, tôi chợt nhận thấy ở đầu đường Trần Hưng Đạo có một cây cơm nguội
lá vàng rực. Tôi ngẩn ngơ đứng nhìn. Thì ra đã cuối thu đầu đông rồi. Trời se
se lạnh. Bất giác tôi sờ tay lên cổ áo, định cài thêm chiếc khuy áo trên chót
cùng, quanh năm không bao giờ cài đến. Chắc những hàng cây cơm nguội trên đường
Quang Trung, đường Lý Thường Kiệt lúc này đang đẹp lắm? Chúng cũng đang vàng rực
lên như thế kia? Tôi quyết định sẽ lùi lại đi chuyến tàu trưa. Ở lại với Hà Nội
thêm mấy tiếng đồng hồ nữa.
Tôi đi xuôi theo đường Trần Hưng Đạo, rẽ ngang qua phố Dã Tượng,
gặp đường Lý Thường Kiệt. Từ khúc này chạy tuốt đến trường Đại học Y dược, đường
Lý Thường Kiệt đẹp vô cùng. Hai bên đường toàn là cây cơm nguội cổ thụ. Đường
phố lớn, hè phố rộng, cây được vươn mình lên hết mức, cây nào cây nấy bề thế,
uy nghi, phô hết dáng vẻ từng trải của mình.
Vừa ngoặt qua đường Lý Thường Kiệt, tôi sững sờ trước hai bờ
cây óng vàng. Gió nhè nhẹ thổi. Tiếng lá xào xạc, hơi khô và sắc chứ không mềm
mượt như dạo mùa xuân lá non. Thỉnh thoảng một làn gió mạnh lướt qua, lá cuốn
bay lên, chung nghiêng chao lượn mãi mới chịu rơi xuống lả tả. Xen kẽ giữa những
vòm vàng rực là một vài cây đã rũ hết lá. Đó là những cây nhạy cảm với thời tiết,
lá vàng sớm và rụng sớm. Những cây này có một vẻ đẹp riêng. Nổi lên trên nền trời
xám nhạt mây phẳng lỳ là những cành cây trơ trụi mà hung nâu. Cành cây cơm nguội
mảnh dẻ, li ti lăn tăn nhiều nhánh nhỏ nên khi lá vàng rụng hết, vòm cây lại có
một vẻ đẹp mờ ảo, mông lung như khói. Đây đó, trên một vài cành trơ trụi còn để
lộ ra những búi cây ổ gà lá xanh đậm, trông xa ngỡ như tổ chim. Cái giống cây
cơm nguội này đẹp cả bốn mùa. Mùa thu, mùa đông thì thế. Mùa xuân thì đẹp một
cách nõn nà. Các nhánh cành trơ trụi suốt cả mùa đông, đến khi có mưa xuân rỉ rả
thấm đẫm đất đai, đầm đìa cây cỏ, các cành cây ẩm ướt thẫm đen lại, từ các nách
lá cũ bắt đầu trồi ra các nanh mầm xanh sáng bé xíu. Chỉ vài ba ngày sau, sác
nanh mầm nở bung ra thành những chồi non bụ bẫm. Cả bờ cây phảng phất một màu
xanh mơ hồ, như có như không, như mơ như thực. Rồi màu xanh hiện hình dần lên
trong làn mưa bụi, nõn nà như ngọc, xanh mướt màu cốm non. Thật là hạnh phúc được
đi dưới những vòm lá xanh non ấy, nghe tiếng lá lay động một cách dịu dàng…
Tôi mê mải ngắm nhìn lên những vòm cao. Cây ân cần thả xuống
cho tôi từng chiếc lá như những đồng tiền nhỏ vàng óng. Bỗng nhiên tôi trở
thành chú hoàng tử sung sướng đi giữa những vị thần khổng lồ lòng đầy hào hiệp.
Các cây cổ thụ cao lớn mới hùng vĩ làm sao! Có thể nào ngờ được họ cũng bắt đầu
từ những mầm cây tí xíu rồi lớn lên từng ngày, từng ngày. Qua bao nhiêu năm
tháng, bao nhiêu bão giông, giờ đây họ lực lưỡng như thế kia…
Suốt cả buổi sáng, tôi đi hết phố này sang phố khác. Đến phố
Tràng Thi, tôi dừng lại trước cổng Thư viện quốc gia thân thiết. Tôi đã đọc được
biết bao nhiêu là sách ở đây. Chưa đủ tuổi để xin thẻ thư viện, tôi thường theo
anh Hiệu và chú Định tôi, nhờ anh và chú mượn sách cho tôi đọc, nói khó với bác
thường trực cho tôi ngồi ở ngoài vườn, trên băng ghế đá đặt dưới gốc bàng cổ thụ.
Tôi đã làm quen với Dế Mèn và Dế Trũi, với chú bé Rêmi và cụ Vitali, với Gavơrôt
và Côdét, với Giăng Vangiăng và Phăngtin ở thư viện quốc gia này. Cũng ở đây
tôi được biết Thạch Lam, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,
Nguyên Hồng, Tô Hoài… Tôi còn được biết Anđecxen với nàng tiên cá, chú lính
chì, bé tý hon, cô bé bán diêm… Rồi Tiễu Nhiên - Mỵ Cơ, Anna Khalệninh,
Ivânhoa, Lâu đài họ Hạ…, những cuốn sách dịch mà tên các nhân vật đã được Việt
hóa, dấu tích sơ khai của văn học dịch thuở ban đầu. Vớ được quyển nào tôi ngốn
ngấu đọc quyển ấy, cả sách cho trẻ em lẫn sách của người lớn. Cả một thế giới
bao la nhiều màu nhiều vẻ, lung linh kỳ ảo và lầm lụi bùn đất hiển hiện trước mắt
tôi, đem lại cho tôi biết bao hiểu biết, nâng tâm hồn tôi bay bổng trong thế giới
của cái Thiện và cái Đẹp. Sau này tôi nhớ lại, tôi nghiệm thấy trong đời tôi có
hai vùng đất mà tôi chịu ơn sâu nặng, hai vùng đất đã in hằn trong tôi những kỷ
niệm khó phai mờ, đó là Bắc Giang và Hà Nội. Bắc Giang đã nuôi tôi gần suốt cả
thời thơ ấu và niên thiếu, đem lại cho tôi lòng yêu con người, đã để lại trong
tôi những ấn tượng mạnh mẽ về thiên nhiên với những cảnh sắc miền trung du đầy
mê hoặc.
Những triền đồi thoai thoải, những con đường mòn son đỏ ẩn hiện giữa những bụi sim mua, những làn gió heo may rải đồng, những cây sau sau thân trắng mốc, lá vàng chanh run rẩy trong gió lạnh, những cánh bãi miên man những cây chè đồng, cây chổi suể hoa vàng có mùi bạc hà thơm mát, những chân trời xa tít tắp… Còn Hà Nội mang lại cho tôi ánh sáng của học thức, trí tuệ, nét tài hoa, tâm hồn tinh tế, lịch lãm…
Những triền đồi thoai thoải, những con đường mòn son đỏ ẩn hiện giữa những bụi sim mua, những làn gió heo may rải đồng, những cây sau sau thân trắng mốc, lá vàng chanh run rẩy trong gió lạnh, những cánh bãi miên man những cây chè đồng, cây chổi suể hoa vàng có mùi bạc hà thơm mát, những chân trời xa tít tắp… Còn Hà Nội mang lại cho tôi ánh sáng của học thức, trí tuệ, nét tài hoa, tâm hồn tinh tế, lịch lãm…
Tôi xin phép người gác cổng cho tôi vào ngồi một lát trên chiếc
ghế đá thân thuộc dưới tán cây bàng đang cháy đỏ. Những chiếc lá bàng khô cong,
đỏ tía, nhìn từ dưới lên càng thêm đỏ vì ánh nắng từ trên cao rọi xuống. Nhìn
ra xung quanh, tôi ngỡ ngàng vì tầng cao tầng thấp lớp lớp lá bàng đỏ rực. Con
đường Tràng Thi này đẹp là nhờ những cây bàng cổ thụ. Cây hai bên đường cao
vút, ngả vào nhau, làm thành một con đường hầm chạy dài hun hút, mát rượi. Mùa
xuân, những hàng cây tưng bừng nảy lộc. Búp bàng non ban đầu màu đỏ tía, dần
chuyển sang màu xanh nõn, mập mạp, khỏe mạnh giống như trăm nghìn con bướm đang
chụm cánh chỉ chờ ai đó rung cành là đồng loạt bay lên.
Gần suốt cả năm, con đường rợp bóng cây xanh. Vào độ tháng mười,
tháng mười một, lá ửng dần lên thành màu đỏ tía. Rồi lá rụng, để lại những thân
cây xù xì, gân guốc, thẫm đen lại dưới làn mưa xuân phơi phới. Tôi đã từng đứng
hàng giờ dưới những gốc bàng cổ thụ có đến cả trăm tuổi, trong làn gió xuân dịu
nhẹ, dưới bầu trời mờ mịt hơi nước và bụi mưa li ti… Tôi lẳng lặng ngước nhìn
lên những vòm cây trơ trụi lá, chỉ có những nhánh cành đan xen vào nhau như những
tấm lưới chằng chịt. Đây đó còn sót lại dăm ba chiếc lá bàng thắm đỏ, giống hệt
những chú cá vàng tung tăng trong biển trời mờ mịt sương khói, bị mắc lại giữa
tấm lưới đen thẫm những cành bàng giao nhau kia…
Miên man liên tưởng hết chuyện này sang chuyện khác, vui chân
tôi đi mãi, không ngờ đã đến bờ Hồ Tây từ lúc nào. Tôi ngồi trên bãi cỏ dưới gốc
cây liễu ven hồ. Mặt hồ mờ mịt hơi nước. Trời nước nhòa vào nhau không phân biệt
giới hạn. Tưởng như nơi đây đã là cùng trời cuối đất. Trước mặt, một màu trắng
sữa mênh mông vô tận. Chùa Trấn Quốc rêu phong mơ màng trong sương. Hơn lúc nào
hết, tôi bỗng thấy những câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan sao mà gần gũi, mà mến
yêu: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương…” Bao giờ
cũng thế, mỗi khi nhớ về Hà Nội, những câu thơ đầu tiên mà tôi nghĩ đến chính
là những câu thơ sang trọng, cao quý đượm buồn này.
Ngồi chừng vài ba phút, sương mù chợt loãng ra. Trên mặt hồ, ở
ngoài xa bỗng hiện lên những chấm đen chấp chới di động. Tôi nghĩ chắc là những
cánh bèo trôi dạt. Một chiếc thuyền câu mảnh mai như một vành trăng non trong
sương mù hiện ra tiếp. Những chấm đen vội nối nhau ùa bay lên, lượn vòng như một
tấm voan đen mỏng lả lướt chờn vờn trên mặt hồ rồi chầm chậm bay lên cao, chìm
dần vào không trung mờ xám. Thì ra một đàn sâm cầm, giống chim từ lâu ít xuất
hiện, nay bỗng nhiên bay về trong thoáng chốc rồi lại bay đi. Sương mù lại kéo
đến dày đặc. Khoảng không gian trong trẻo nhỏ bé ban nãy vừa hé lộ trong khoảnh
khắc từ từ chìm khuất. Tôi sững sờ tiếc nuối. Hà Nội của tôi ơi! Cảm ơn Người
biết bao nhiêu. Phải chăng, thấy tôi đi xa trở về, Người đã ban tặng cho tôi một
đặc ân là được thấy lại một vẻ đẹp của Hà Nội nghìn xưa trong giây lát rồi Người
lại đem giấu đi tất cả vào sương mù của dĩ vãng?...
Tôi chợt giật mình, bừng tỉnh. Đã quá trưa. Tôi vội rời Hồ
Tây ra ga cho kịp tàu. Lúc này tôi mới lại nhớ đến anh Nhu, thằng Bảo… Chắc mọi
người cũng đang mong tôi lắm.
Tôi về đến nhà lúc nắng đã tắt. Mọi người đang tíu tít nấu
cơm chiều. Thằng Bảo reo lên:
- May quá, mày về thật đúng lúc. Chiều nay lang thang ngoài đồng,
tao vớ được quả trứng con vịt nào đó đẻ rơi. Sẽ làm một món chiêu đãi cả nhà, gọi
là để mừng mày về.
Anh Nhu lườm yêu thằng Bảo:
- Gớm, có mỗi quả trứng mà dám nói chiêu đãi cả nhà!
Thằng Bảo cười phá lên:
- Em nói nghiêm chỉnh mà! Anh không tin em sao? Sẽ có đủ phần
cho từng người.
- Chắc cho vào nồi cà chua, khuấy tan ra chứ gì?
Bảo vẫn cười, vẻ bí hiểm:
- Không nấu canh! Dứt khoát không nấu canh. Để rồi cả nhà
xem!
Mấy anh em cùng xúm lại hỏi thăm gia đình tôi, để mặc cho Bảo
làm trò ảo thuật. Quả nhiên, đến bữa ăn, mọi người đều ngạc nhiên nhìn món trứng
đặc biệt của Bảo. Cả một bát to tướng thường đựng canh đầy tú ụ món trứng màu
trắng ngà, xôm xốp như bánh bò. Bảo lấy dao xắn đều ra thành tám miếng, mỗi miếng
to gần bằng một quả trứng. Vừa cười ha hả, nó vừa liến láu:
- Thấy chưa? Phục tài chế biến của lão mỗ chưa?
Sau đó Bảo mới tiết lộ bí quyết của nó. Có gì đâu? Nồi cơm
sôi, nó chắt đầy một bát nước cơm đặc, đập quả trứng vào, khuấy đều lên rồi để
trong nồi cơm, đậy kín vung lại. Cơm chín, món trứng đặc biệt của nó cũng ngon
lành.
Thấy mọi người đã bị tài lẻ của nó chinh phục hoàn toàn, Bảo
càng lên nước. Giọng nó không giấu nổi niềm tự hào:
- Mấy hôm nay trời trở lạnh rồi. Để hôm nào rét đậm, em sẽ đi
bắt cá cóng về làm một bữa ăn thỏa thích.
- Cá cóng là cá gì? Có to không? - Thằng Nam hỏi thực thà.
- Trời ơi! Cá cóng là cá bị chết cóng. Mày lại tưởng tên một
loài cá à? - Bảo phát vào lưng thằng Nam đau điếng rồi giải thích thêm. - Trời
rét, nước lạnh buốt, cá chết cóng, mày hiểu không? Vớt đem về, dội nước sôi
vào, chúng nó mới hồi tỉnh lại, quẫy văng mạng.
Nghe nó nói, tôi cũng mê quá, mong sớm được theo nó đi bắt cá
cóng. Đêm đó, tôi nằm giữa anh Nhu và thằng Bảo. Nó gác chân ngang bụng tôi, rì
rầm nói chuyện rất khuya vẫn không dứt. Nó nói lan man đủ thứ chuyện, đang chuyện
này đột ngột nhảy cóc sang chuyện khác, hết chuyện nghiêm túc đến chuyện tào
lao. Hình như cảm thấy nằm sát cạnh nhau vẫn chưa đủ thân thiết, thỉnh thoảng
nó lại nhỏm dậy, ghé sát vào mặt tôi, nói sôi nổi. Nó bảo sau này tôi đi đâu nó
đi đấy, tôi làm việc gì nó làm việc nấy, suốt đời hai đứa sẽ sống với nhau.
Đang nói to, bỗng nó hạ thấp giọng, cười rúc rích:
- Tao với mày sau này sẽ ở chung một nhà, sẽ lấy chung một…
- Nói bậy bạ cái gì thế? Ngủ đi! - Giọng anh Nhu chợt thốt
lên nghiêm khắc, cắt đứt câu nói bông phèng của thằng Bảo. Không ngờ anh Nhu vẫn
thức. Từ nãy thấy anh nằm yên không động đậy, hai đứa tôi cứ ngỡ anh ngủ rồi.
Bảo vẫn cười rúc rích bóp mạnh bàn tay tôi trong bóng đêm đen
đặc. Tôi thực sự cảm động trước tình cảm thân thiết của nó. Tôi thấy yên lòng
biết bao nhiêu khi được sống cùng với Bảo, với anh Nhu, anh Hoàng, thằng Nam.
Ngày mai đây, tôi lại bận túi bụi vào việc học bù những ngày nghỉ vừa rồi; lại
tiếp tục đi làm phụ bếp… Mệt mỏi lắm, nhưng mà vui và thanh thản. Vì tôi đã có
anh Nhu, thằng Bảo… Với ý nghĩ đầy mãn nguyện ấy, tôi thiếp đi từ lúc nào không
hay…
15. Chúng tôi đã trải qua một mùa đông thật đáng nhớ. Trời rét đến
mức nhà trường phải cho học sinh nghỉ học liền mấy ngày. Một số học sinh nghèo
không đủ quần áo ấm nói nhỏ với nhau lấy giấy báo quấn quanh ngực, phủ áo bên
ngoài chẳng ai biết. Tôi cũng thử lót tờ báo trước ngực, quả nhiên đỡ lạnh rất
nhiều. Anh Nhu đánh mấy gốc tre già đã chết khô về đốt giữa nhà. Mấy anh em
quây quần quanh đống lửa, vừa học bài vừa lùi sắn, nướng khoai lang ăn. Mấy hôm
trước bọn tôi ra ruộng dỡ khoai giúp bà cụ Muộn, bà cụ cho đầy một xảo để ở góc
nhà. Thằng Bảo còn kiếm ở đâu ra mấy con cà cuống, muồm muỗm, nướng lên thơm nức
mũi. Nó xé từng miếng nhỏ còn bốc khói và dính tro chia đều cho cả nhà. Có cảm
tưởng trên đời chẳng có món gì ngon hơn thế. Thấy mọi người còn thòm thèm, Bảo
nháy mắt ra hiệu cho tôi xuống bếp. Nó rủ tôi đi bắt cá cóng. Phải bí mật vì sợ
anh Nhu không cho đi.
Mỗi đứa một chiếc rổ, vừa đi vừa đuổi nhau cho nóng người. Một
lúc sau, đầm Mực đã ở ngay trước mặt. Về mùa này, nước đầm gần cạn, lội xuống
chỉ ngang bắp chân. Vừa thò chân xuống nước, tôi đã giật thót người, hai cánh
tay sởn da gà. Nước trong leo lẻo lạnh buốt, nhìn thấu đến tận đáy. Thấy tôi ngần
ngừ chưa bước xuống hẳn, thằng Bảo động viên:
- Cứ bước ào xuống đi! Quen ngay ấy mà! Mày yếu bóng vía quá!
Chạm tự ái, tôi liền lội ào xuống. Người tôi run lên, rùng
mình, cái giá buốt xộc lên tận óc. Thằng Bảo nhìn tôi, cười phá. Chắc nó thấy bộ
mặt tôi nhăn nhó thiểu não lắm. Giọng nó vẫn oang oang:
- Mày trông kìa! Cá chết nổi lên nhiều chưa kìa!
Theo tay nó chỉ, tôi nhìn thấy mấy con cá diếc phơi bụng trắng
nổi lềnh bềnh. Bảo giải thích:
- Bọn cá trắng yếu hơn nên chết trước. Bọn cá đen dai sức
hơn, chỉ lờ đờ ngắc ngoải thôi. Mày đừng mất công vớt mấy con cá diếc chết tiệt
ấy nhá. Bắt bọn cá rô ngon lành hơn.
Tôi chăm chú nhìn xuống đáy nước. Mấy con cá rô hầu như nằm
yên bất động. Tôi thò tay xuống bắt, chúng chậm chạp lách đi một cách đờ đẫn. Bảo
đưa rổ lên cao, hớn hở khoe:
- Trông này, Thiện! Gần hai chục chú rồi nhá! Mày vẫn chưa
tóm được con nào à?
- Mình chưa chạm tới thì nó đã lẩn mất.
- Thế thì thế này vậy: Mày chặn rổ phía trước đầu nó rồi nhẹ
nhàng lùa nó trườn vào.
Nghe Bảo chỉ dẫn, tôi vục rổ xuống, lùa ngay được hai con. Thấy
ngon lành, muốn vục tiếp nhưng không biết để hai con cá đã bắt vào đâu, tôi
đành lò dò thò tay bắt từng con vậy. Tôi rê chiếc rổ trên mặt nước, một tay kéo
rổ, một tay bắt cá. Ban đầu tóm phía sau nên rất dễ trượt. Rút kinh nghiệm, tôi
tóm ngay đầu cá, thấy có hiệu quả liền. Chẳng mấy chốc rổ của tôi cũng chen
chúc hơn chục con. Tôi hăng hái lên, lội ào ào, khua nước ràn rạt. Bảo la
toáng:
- Mày hùng hổ thế thì làm ăn gì được? Nhẹ nhàng thôi, lò dò từng
bước thôi. Đừng khua khoắng loạn xạ làm nước đục ngầu lên, không trông rõ cá
thì tóm thế nào được nó!
Càng bắt càng ham, tôi quên khuấy đi cái rét. Lũ cá nằm ngoan
ngoãn trong rổ, không động cựa. Ngày thường ấy à? Đừng hòng nhé! Chúng lại chẳng
quẫy nhặng xị lên, văng tứ tung cho mà coi! Tôi mải mê tóm cá, nhắm con nào được
con nấy, lòng khấp khởi tự hào. Nhưng đến khi trông thấy một con cá trê to gần
bằng cổ tay lờ đờ di chuyển cách tôi chừng một thước, tôi muốn bước vội lên đón
đầu nó thì tôi bỗng thấy mắt mình hoa lên, đầu choáng váng, người tôi lử lả muốn
ngã. Tôi cố nhấc chân lên nhưng không nhấc nổi. Tôi lờ mờ nhận ra là hai chân
tôi đã tê dại vì ngâm dưới nước lạnh buốt quá lâu. Tôi cố kêu to lên:
- Bảo ơi, mình bị…
Chưa kịp nói hết câu, tôi lảo đảo chúi đầu về phía trước. Bảo
đặt phịch rổ cá xuống nước, lao đến đỡ lấy tôi. Cũng may lúc đó nó ở cách tôi
không xa. Nó dìu tôi vào bờ nhưng tôi không nhấc chân lên nổi. Đầu óc tôi vẫn tỉnh
táo nhưng không sao chỉ bảo được đôi chân đã tê dại. Tôi rất muốn nhấc chân lên
nhưng không biết phải làm cách nào để nhấc được. Bảo vừa ghé vai xốc nách tôi vừa
cúi xuống dùng hai tay nắm chặt bắp chân tôi, cố rút nó lên khỏi bùn. Cứ lôi từng
chân như thế, mãi lâu sau nó mới đưa được tôi lên bờ. Tôi nằm vật ra bãi cỏ,
hai hàm răng va nhau lạch cạch, người run lên từng chặp. Bảo lại lội xuống nước,
kéo rê hai rổ cá vào bờ. Bọn cá vẫn còn nguyên, không con nào còn đủ sức thoát
thân. Tôi cố ngồi dậy, lấy hai bàn tay vỗ thật mạnh vào hai bắp chân tím ngắt
cho nóng lên chút đỉnh. Tôi véo vào thịt không thấy đau nữa. Thấy tôi có vẻ lo
lắng, Bảo cười, nói hào hển:
- Không lo đâu! Một lát khỏe lại liền ấy mà! Cố lên! Paven!
Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh. Lúc đó thép trở nên cứng rắn và không hề
biết sợ… - Bảo cười phá lên, sau khi đọc lại làu làu câu nói mà hồi đó lũ chúng
tôi không đứa nào không thuộc.
Mặt Bảo cũng tái mét, vừa nói vừa rên hừ hừ. Nó chạy mấy
vòng, hai tay vung lên vung xuống cho ấm người. Rồi nó đến giúp tôi duỗi chân
duỗi tay cho máu lưu thông. Vừa bóp chân cho tôi, nó vừa dặn đi dặn lại:
- Đừng cho anh Nhu biết chuyện này nhé. Biết mày suýt chết
cóng, anh Nhu sẽ giết tao! Cũng tại tao ham bắt quá, không để ý đến mày. Với lại
bây giờ mới thấy rét chứ lúc ấy có thấy mùi mẽ gì đâu! Thôi, về đi. Nấu một nồi
cháo cá, ấm bụng liền ấy mà!
Bảo đổ cá của tôi sang rổ nó, được gần đầy rổ, khệ nệ cắp về,
lệch cả người. Tôi khập khiễng đi theo nó vì đôi chân vẫn chưa hết tê dại. Phải
một đoạn khá xa, tôi mới bước được thật chân. Anh Nhu, anh Hoàng và thằng Nam vẫn
ngồi học quanh bếp lửa. Thấy tiếng thằng Bảo léo nhéo đầu ngõ, anh Nhu ló đầu
qua liếp cửa, xuýt xoa:
- Gió ù ù thế, hai chú mày đi đâu từ nãy đến giờ?
Thay cho câu trả lời, Bảo nhe răng cười đưa rổ cá ra phía trước.
Anh Nhu sửng sốt:
- Cá ở đâu mà nhiều thế? Ông mãnh này giỏi thật đấy!
- Bọn em bắt ở đầm Mực. Nhiều vô thiên lủng anh ạ.
- Bắt bằng cách nào?
- Cá cóng… - Tôi định nói thì thằng Bảo lừ mắt ra hiệu cho
tôi im, để nó trả lời trôi chảy hơn.
- Cá cóng dạt hết cả vào bờ, lừ đừ như lũ mất hồn, bọn em chỉ
việc vớt một cách nhẹ nhàng…
Anh Nhu xoa đầu nó khen:
- Thằng này giỏi thật đấy. Cái gì cũng biết!
Cả nhà xúm vào xem rổ cá. Thằng Nam “xì” một tiếng:
- Toàn cá chết cứng đờ! Ai dám ăn?
Bảo sửng cồ lên, đốp luôn:
- Đừng có nói bố láo nhá! Ai bảo mày là cá chết?
- Chết sờ sờ ra đấy còn cố cãi!
- Để rồi xem! Thằng Thiện, đem siêu nước lại đây cho tao!
Chẳng chờ tôi bước đi, Bảo xăm xăm đến bên bếp lửa xách siêu
nước lên. Nó đặy rổ cá vào chậu rửa bát, tưới nước sôi vào lũ cá. Hơi nước trắng
xóa tỏa ra ấm sực. Lũ cá bỗng nhảy lên nhao nhao, có con văng xa đến tận bếp lửa,
ngay cạnh con mèo đang nằm lười nhác co ro trong đống tro. Nhanh như chớp, con
mèo vồ lấy rồi chuồn mất biến giữa tiếng cười rộ lên của mọi người. Anh Nhu vừa
bưng chậu cá xuống bếp, vừa quay lại bảo bọn tôi:
- Giờ thì hai đứa rửa ráy chân tay sạch sẽ rồi ngồi sưởi cho ấm.
Trông mới gớm ghiếc chưa kìa! Bùn bê bết từ chân lên tận đỉnh đầu! Còn thằng
Nam xuống đây làm cá với anh. Chà chà, cá rô này, giá có mỡ rán giòn lên thì
tuyệt! Thôi, không có mỡ, ta nấu canh rau cải vậy. Còn lại, kho ăn dần.
- Nấu một nồi cháoăn cho ấm cái bụng đã anh ạ!- Bảo góp ý.
- Ai lại nấu cháo cá rô? Nhưng thôi, các em muốn ăn thì anh nấu.
Tanh, cấm có kêu đấy nhá!
Sau bữa đó, tôi bị sốt li bì mất cả tuần. Ngày ngày, từ sáng
tinh mơ, anh Nhu phải thay tôi chạy sang trường thầy Tín kéo gầu, gánh nước cho
cô An, cô Nhuận làm bếp rồi anh lại tất tưởi đi làm phụ hồ. Buổi trưa, buổi chiều
thì thằng Bảo sang bên đó dọn nhà ăn, rửa bát đĩa, làm những việc tôi vẫn thường
làm. Anh Nhu bảo phải làm vậy để khỏi lỡ việc của các cô cấp dưỡng và để giữ việc
cho tôi làm lâu dài. Nếu tôi nghỉ lâu, nhất định bên trường phải tìm người khác
thay tôi.
Thấy tôi ốm, cô Kim, thầy Tín, thầy Luyến thường xuyên đến
thăm và cho thuốc. Cũng may, chứ nếu không, anh em tôi biết xoay xỏa thế nào?
Tiền ăn còn chật vật, lấy đâu ra tiền mua thuốc? Cô Kim bảo đã bàn với các thầy
cô, đề nghị nhà trường cấp một phần học bổng cho tôi. Đề nghị rồi, nhưng chắc
phải một thời gian nữa mới được.
Phải nghỉ học, tôi nằm ở nhà một mình, lúc mê lúc tỉnh. Cứ đến
giờ ra chơi, thằng Bảo, thằng Nam lại lén chui rào nứa về thăm tôi. Bảo cời lại
bếp lửa giữa nhà, cố sao cho than âm ỉ cháy đừng lụi tắt nhưng cũng đừng bốc
thành ngọn, sợ cháy nhà. Nó lo cũng phải vì hai hôm trước, giữa lúc tôi đang mơ
mơ màng màng, bỗng thấy nhà sáng bừng, người nóng ran. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình
đang mê sảng, cảm thấy khó chịu vậy thôi, nhưng sau mới hoảng hồn vì đống lửa
đang bốc cháy rừng rực, gần táp đến chỗ tôi nằm. Tôi nhảy vội xuống đất, tiện
siêu nước sôi gần bếp, tôi tưới xối xả vào đống lửa…
Tối về, mọi người cùng quây quần bên tôi. Anh Nhu chắt ra một
bát nước cơm đầy, khuấy đường của cô Kim cho, ép tôi uống hết. Tôi uống một
cách chậm chạp, khó khăn. Thằng Bảo giục tôi:
- Cố uống đi mày ạ. Nước cơm là bổ nhất hạng đấy!
Rồi vừa ép tôi uống, nó vừa tía lia cái miệng:
- Mày biết không? Mẹ tao kể, ngày xưa có một cặp vợ chồng rất
nghèo nhưng thương nhau lắm. Có lần anh chồng bị ốm liệt giường nhưng chị vợ
không biết kiếm đâu ra tiền để thuốc thang chạy chữa cho chồng. Gạo cũng không
đủ ăn, lấy gì mà thuốc với thang! Khi nấu cơm, chị vợ chắt nước cơm ra uống cầm
hơi, còn để dành cơm cho chồng ăn. Vậy mà anh chồng cứ ngày một gầy rộc gầy rạc
còn chị vợ thì cứ béo ú béo ụ. Làng xóm ai cũng chê cười, bảo chị vợ không biết
thương chồng, tham lam ăn tranh hết phần chồng. Chị khóc lóc, phân bua thế nào
hàng xóm cũng không tin. Đó, mày thấy đó! Nước cơm là bổ ghê bổ gớm. Cố mà uống
cho mau khỏi bệnh mày ạ!
Nghe nó nói, anh Nhu và anh Hoàng cùng nhau mủm mỉm cười. Chắc
là hai anh cùng tin như thế thật nên bữa nào hai anh cũng chắt ra một bát đầy
nước cơm đặc sánh, bắt tôi uống cho kỳ hết.
Rồi tôi còn được “bồi dưỡng” thêm bằng mấy bữa ếch xáo măng,
chạch kho khô, cháo chim sẻ… Tất cả đều do mấy anh em trong nhà săn lùng được,
dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thằng Bảo. Tội nghiệp cho nó quá. Từ hôm tôi bị
ốm, nó học hành chểnh mảng. Đầu óc lúc nào cũng chỉ luẩn quẩn tìm kế kiếm thêm
chút gì bồi dưỡng cho tôi. Nó bị xơi con ngỗng (hai điểm) vì đã nộp bài toán
làm dở dang. Bài toán thầy Cư cho về nhà làm. Toán quá dễ, nó thừa sức làm, nhưng
đang làm dở thì nó bỏ ra đồng tìm trứng vịt đẻ rơi cho tôi ăn thêm. Nó lang
thang ngoài đồng suốt buổi chiều, hy vọng nhặt được một quả trứng vịt đẻ rơi
như dạo trước. Nhưng tối mịt, nó về tay trắng. Vừa buồn vừa mệt, nó ngủ thiếp
đi, không làm tiếp bài. Thế là xơi gọn một con ngỗng. Cũng chỉ vì nó quá thương
tôi đấy thôi…
16. Sau hơn một tuần ốm lay ốm lắt, tôi đã ngồi dậy, đi đi lại lại
trong nhà được. Người vẫn còn bấy bớt, chưa đi học được. Tôi thấy nhớ bạn bè
quá. Suốt ngày ở nhà một mình, người bứt rứt khó chịu, bồn chồn không yên. Tôi
ra ngoài hiên ngồi cho thoáng. Vừa bước ra khỏi cửa, tôi sững sờ vì cái nắng
vàng rượi đang lan toả bốn bề. Tôi hơi choáng ngợp, cảm thấy chóng mặt, người lảo
đảo. Tôi vịn nhanh vào thành cửa, lấy lại thăng bằng. Chỉ một thoáng sau, người
tôi bình thường trở lại. Một cảm giác lâng lâng dịu nhẹ ve vuốt trái tim tôi.
Tôi cảm thấy một cách rõ rệt mình đang khỏe lại từng giây, các tế bào trong cơ
thể đang sinh sôi nảy nở, các mạch máu đang rạo rực chảy mạnh, cơ thể non trẻ của
tôi đang được hồi sinh. Tự nhiên tôi thấy xung quanh tôi mọi thứ đều đáng yêu
quá. Ngôi nhà bé nhỏ này, mảnh sân với bờ giậu cúc tần có những dây tơ hồng vướng
vít kia, cây ổi còng cạnh đầu hồi đang lấp ló mấy quả ưng ửng vàng, rặng tre dưới
chân đê đang vàng cháy lên chuẩn bị trút những đợt lá cuối cùng… Tất cả, tất cả
sao mà gần gũi, đáng yêu. Rồi anh Nhu, thằng Bảo, rồi cô Kim, thầy Luyến những
ngày qua đã hết lòng chăm sóc tôi, giờ đây đã trở nên những người thân yêu ruột
thịt… Tôi chỉ muốn mau mau khỏe lên để lại được đi học, đi làm, được gặp gỡ mọi
người, được chia sẻ với mọi người mọi chuyện buồn vui…
Nắng vẫn vàng rượi xung quanh tôi. Gió vẫn vi vút thổi, nhưng
trong gió lạnh sắc đã thoáng có hơi nước dịu mát. Mùa xuân chắc cũng sắp về rồi.
Tôi tựa lưng vào cửa liếp, đăm đăm nhìn qua bờ rào nứa sang
bên trường. Các lớp đang trong tiết học, im phăng phắc, thỉnh thoảng vang lên
tiếng thầy giáo giảng bài. Ngôi trường đã trở nên quá thân thuộc đối với tôi.
Trường được xây dựng trên một khu đất rộng, trước kia là ruộng lúa. Có cả thảy
mười hai ngôi nhà dành làm lớp học và một ngôi nhà lớn hơn, dài rộng hơn làm
văn phòng nhà trường. Tất cả đều vách đất, mái lợp lá gồi. Những ngày nắng, nhiều
khi ngồi học, chúng tôi thích thú nghe tiếng ống nứa trên mái nổ lốp bốp. Trâu
bò của dân vào sân trường gặm cỏ thoải mái, có lúc chúng còn hồn nhiên nghểnh cổ
nhìn chăm chăm vào lớp học, ậm ò gọi nhau một cách vô tư. Tôi và thằng Bảo ngồi
cạnh cửa sổ, sát bên vách. Mỗi khi nét bút viết trên vở đẫm mực, khỏi cần giấy
thấm, Bảo liền véo một cục đất trên vách, bóp vụn rắc lên vở. Đất hút khô mực,
thổi vù đi là xong.
Để có được ngôi trường tuy còn đơn sơ ấy, đã mất biết bao
công sức. Do những ngày hòa bình đầu tiên, Nhà nước còn nhiều khó khăn, kinh
phí còn eo hẹp, hầu như nhà trường phải tự lo liệu mọi việc. Thầy trò phải đổ
công sức xây dựng lấy cơ ngơi của mình. Khi tôi nhập học, mọi khó khăn lớn nhất
hầu như đã qua. Các lớp học đã xây dựng gần xong, chỉ còn hai ba ngôi đang dựng
dở. Thiếu tre nứa, thiếu lá gồi, thiếu cả bàn ghế, Ban giám hiệu quyết định trở
lại nơi trường đã xây dựng trong những ngày còn kháng chiến chống Pháp ở Luộc Hạ,
chuyển nốt số bàn ghế và dỡ mấy lớp học cũ lấy nguyên vật liệu xây dựng ở trên
đó đem về. Một đoạn đường không gần gặn gì: khoảng ba mươi cây số. Thầy trò đi
bộ, người vác tre, người gánh lá gồi, người vác ghế dài, hai người vác một chiếc
bàn, cứ thế đi lầm lũi dưới cái nắng gay gắt. Không có một chiếc xe ba gác,
không cả một chiếc xe đạp, chỉ là vai trần, chân đất, thầy trò động viên nhau gắng
sức đi… Tôi cũng có mặt trong dòng người mang vác mệt nhọc đó. Thằng Bảo và tôi
cùng vác một chiếc bàn dài. Đối với Bảo, mọi việc không đến nỗi khó khăn lắm.
Nó đã quen làm nhiều việc nặng nhọc. Còn đối với tôi, quả là một thử thách nhớ
đời. Ba mươi cây số, chỉ đi bộ tay không đã mệt, huống hồ còn còng lưng, rụt cổ
vác một chiếc bàn. Có những lúc lảo đảo muốn ngã. Nhiều lần sa sẩm cả mặt mày.
Hai vai tê dại, bỏng rát, da trầy buốt xót, chỉ khẽ chạm tay vào cũng rùng
mình. Thú thật đã có lúc tôi suýt bật khóc, cảm thấy không sao chịu nổi nữa. Chỉ
có một ước ao duy nhất là được nằm lăn ra cỏ, ngủ thiếp đi một giấc dài. Bảo
luôn mồm động viên tôi. Cứ “Sắp đến nơi rồi, cố lên!” đến cả trăm lần mà đường
phía trước vẫn dài hun hút. Thấy tôi nhăn nhó khổ sở, nó cố pha trò cho tôi cười
để quên bớt nặng nhọc, nhưng dù nhiều câu nó nói rất tức cười, tôi vẫn không
sao cười được. Cuối cùng thì hai đứa tôi cũng tha được cái bàn về đến nơi đến
chốn. Mấy hôm sau, tôi xin với cô Kim cho tôi được đổi chiếc bàn cũ tôi và thằng
Bảo, thằng Thanh vẫn ngồi lấy chiếc bàn ấy. Chiếc bàn tuy có xấu hơn, không chắc
chắn bằng nhưng là một kỷ niệm nhớ đời đối với tôi.
Còn biết bao nhiêu kỷ niệm nhớ đời khác nữa. Thầy Tín đã lo
tìm việc cho tôi. Cô Kim chỉ bảo cho tôi từng ly từng tý trong việc học toán.
Thấy quần áo tôi rách, cô mang về khâu vá lại cho tôi. Thấy tôi đau ốm, cô mang
thuốc, mang sữa đến tận nhà. Sợ tôi lười uống thuốc, cô tự tay rót nước, bắt
tôi uống ngay trước mặt để cô yên tâm ra về… Rồi chuyện sợ tôi ngủ không đủ
chăn ấm, thầy Luyến bảo tôi sang trường đắp chung chăn với thầy. Tôi cứ nhớ mãi
cái đêm lạnh thấu xương ấy. Thầy Luyến mới về trường, khu tập thể giáo viên hết
phòng, thầy phải ở tạm một góc trong phòng thí nghiệm. Chỉ có một chiếc giường
cá nhân và một chiếc bàn làm việc kê sát vách. Nửa đêm hai thầy trò tôi đang ngủ
say thì mưa lớn. Nhà dột tứ tung. Ban đầu còn cố nằm rốn nhưng sau thì đành phải
trở dậy, hai thầy trò khiêng giường chạy dột hết chỗ này sang chỗ khác. Vẫn
không thoát khỏi bị ướt. Loay hoay mãi cuối cùng trốn được vào một chỗ ở cuối
phòng, sau khi đã chuyển một đống chai lọ, vật dụng làm thí nghiệm ra chỗ khác
một cách vất vả, dưới ánh sáng ngọn đèn dầu chập chờn lúc mờ lúc tỏ, lúc leo
lét chỉ chực tắt. Hai thầy trò thở phào nhẹ nhõm, đặt lưng nằm xuống. Thầy Luyến
bảo tôi nằm trong, sát ngay vách cho ấm. Thầy nằm ngoài, choàng tay ôm lấy tôi.
Chiếc khăn bông của thầy khá dày nhưng hơi hẹp, hai người nằm phải co kéo lại
thật khéo mới khỏi hở sườn. Vậy cũng là tốt lắm rồi. Bên ngoài gió vẫn thổi ù
ù, thỉnh thoảng lại rú rít lên từng chặp. Sấm ùng oàng, lúc xa lắc, lúc nổ gần
ngay trên đầu. Chớp lóe liên tục, ánh sáng lúc xanh lét, lúc trắng lóa sáng rực
cả căn phòng. Tiếng mưa quất ràn rạt trên mái gồi, xói cả vào vách nhà. Tôi bỗng
thấy chân mình ươn ướt. Cố lờ đi, mong cho qua trận mưa. Nhưng rồi cả đùi, cả mạng
sườn cũng ướt rượt. Tôi không dám nói, sợ thầy Luyến đang ngủ say. Nhưng người
tôi mỗi lúc một sũng nước. Thì ra mưa đã xói vào vách nhà, đất rã ra làm thành
một lỗ thủng toang hoác ngay phía lưng tôi. Tôi rét run nhưng không dám gọi thầy
giáo. Đối với thầy, tôi vẫn có phần nể sợ, mặc dù tôi biết thầy rất yêu quý
tôi, đối xử với tôi rất thân tình. Mưa càng lúc càng lớn, nước ướt sũng lưng và
bên sườn tôi. Lo sợ quá, tôi khóc tấm tức khe khẽ. Thầy Luyến chợt thức dậy. Thầy
hoảng hốt ôm lấy tôi. Thầy kêu lên: “Trời! Em ướt hết rồi này! Sao không gọi thầy
dậy?” Tôi không dám trả lời, mím môi cố ghìm nước mắt. Thầy ngồi dậy, sờ soạng
tìm cây đèn. Giọng thầy cằn nhằn: “Khổ quá! Diêm lại hết mất rồi. Làm sao thắp
đèn bây giờ?”. Chớp lằng nhằng, sáng lóa lên rồi vụt tắt làm cho đêm tối càng
đen đặc hơn. Khắp phòng lỉnh kỉnh chai lọ thí nghiệm, không có đèn, hai thầy
trò đành ngồi yên không dám di chuyển sợ làm đổ vỡ mọi thứ. Thầy Luyến bảo tôi:
- Đành chịu ướt một chút vậy em ạ. Nào, ngủ tiếp đi. Chắc trời
cũng sắp sáng rồi.
Thầy mò mẫm trên bàn, lấy một xấp báo chèn vào chỗ vách thủng
rồi kéo tôi nằm xuống. Thầy để tôi nằm phía ngoài, còn thầy nằm sát vách, ngăn
cho gió khỏi thốc vào tôi. Tấm chăn trùm kín hai thầy trò, ngoài việc ủ ấm còn
có tác dụng che mưa dột. Từng giọt, từng giọt mưa rơi lộp bộp trên chăn. Đã tưởng
được yên, không ngờ một lúc sau, tôi lại thấy nước lạnh buốt dưới mạng sườn
mình. Tôi khẽ quàng tay qua lưng thầy giáo nhưng phải vội rụt lại vì mưa gió
đang xối xả ùa vào lưng thầy. Xấp báo chắc đã mủn nát bị cuốn đi đâu mất. Vách
đất rã ra lớn hơn, để lộ sườn tre bên trong, mỗi lần chớp lóe lên, thấy rõ cả mảnh
sân ngoài kia ngập nước. Tôi cố kéo mép chăn nhém lại dưới mạng sườn thầy, nhém
thật nhẹ nhàng để khỏi làm thầy thức giấc. Nhưng thầy khẽ bảo tôi:
- Cố ngủ đi em ạ. Khắp phòng đều dột, không còn chỗ nào khô
ráo đâu. Mưa cũng sắp tạnh rồi.
Thì ra thầy giáo vẫn thức. Thầy đã gồng thân mình để che chắn
mưa gió cho tôi. Tôi ứa nước mắt. Không biết nói gì hơn, tôi chỉ còn biết
choàng tay qua lưng thầy. Tôi rất muốn ôm chặt lấy thầy nhưng không dám, chỉ
làm ra bộ quàng tay một cách hờ hững vô tình vậy thôi…
Tôi chợt giật mình vì tiếng kẻng báo giờ ra chơi. Kẻng vừa dứt,
đã thấy thằng Bảo từ trong lớp chạy ào ra. Nó chui qua rào nứa về thăm tôi. Thấy
tôi ngồi ngoài hiên, nó la toáng:
- Ai cho mày ra ngồi ngoài gió lộng thế, hở? Muốn chết không?
Vào nhà ngay!
Giọng nó đầy hách dịch kẻ cả. Biết tính nó, tôi chỉ cười xí
xóa. Nó móc túi đưa cho tôi hai con muồm muỗm đã ngắt cụt cánh và dặn:
- Mày nướng mà ăn, bổ nhất hạng đó. Vừa bùi vừa thơm. Đang ngồi
học, tự nhiên hai chú nhảy vào giữa trang sách nộp mạng!
Kẻng lại gióng giả vang lên. Bảo tuồn qua hàng rào, trở về lớp.
Nó không quên quay lại nhắc tôi:
- Vào nhà ngay đi, nghe chưa?
Chờ nó khuất vào lớp, tôi lại ngồi dựa lưng bên vách liếp,
miên man nghĩ tiếp…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét