Tôi biết chị Lê Minh Khuê vào những năm đầu của thập niên bảy
mươi thế kỷ trước. Một lần Lưu Quang Vũ đưa tôi đến nhà Lâm râu ở phố Triệu Việt
Vương thì gặp chị cũng ngồi chơi ở đó. Căn phòng nhỏ tầng hai ngôi
nhà xây từ thời Pháp, thật ấm cúng và mơ mộng. Nó như một sa lông
nghệ thuật nhỏ, tập hợp khá đông đủ khuôn mặt anh em làm văn làm báo, làm nghệ
thuật ở Hà Nội. Tôi còn nhớ, bữa ấy Khuê đang mải nghe bản nhạc của Su-be bên
chiếc máy quay đĩa chạy kim cổ lỗ. Chị ăn vận giản đơn, nhưng gọn gàng, mái tóc
đen nhánh tết làm hai bím thật dầy, cặp mắt mở to và rực sáng. Chiếc
máy hát có đầu kim quá mòn mà Lâm có sáng kiến treo chiếc côn xe đạp đè lên chiếc
cần để đầu kim bám vào đĩa. Chiếc đĩa than cũ xước, thỉnh thoảng lại nghe tiếng
lạo xạo của đầu kim bị vấc. Nhưng âm thanh từ chiếc máy hát cũ càng đó, làm mê
hoặc chúng tôi lạ kỳ. Bây giờ, đời sống thay đổi, có nhiều dịp được nghe nhạc từ
những giàn âm thanh ba chiều bốn chiều với những bộ âm ly, những cặp loa cực kỳ
hiện đại và đắt tiền, ấy vậy, vẫn không sao có được cái cảm giác xôn xao khó tả
khi ngồi bên cái máy hát cổ lỗ ở nhà Lâm dạo ấy.
Trước
khi gặp Khuê, tôi dã đọc và mê văn của chị. Dạo đó, chị mới xuất hiện trên báo
chí. Một vài tùy bút, một vài truyện ngắn, khi ký tên Vũ Thị Miền, khi ký tên
Lê Minh Khuê, vậy mà văn chị ám ảnh tôi làm sao. Không phải riêng tôi, mà nhiều
anh em viết dạo đó đều mê văn của Khuê. Những câu chuyện chị viết ở chiến trường,
về những ngôi sao xa xôi trên cao điểm mùa hạ, về những cô thanh niên xung phong
đằm mình trong khói lửa, toát lên vẻ đẹp trong sáng và thanh cao. Đọc văn chị,
thấy có gì thao thức, quẫy đạp, vang vọng và kéo bao người đọc thoát khỏi những
ý nghĩ tủn mủn trong đời sống thường nhật. Không biết có phải thật thế không,
nhưng ngày đó, đọc những trang viết của chị, tôi nghĩ suy
như thế.
Tôi
còn nhớ căn phòng nhỏ chị ở sát chiếu nghỉ cầu thang trong tòa
nhà phố Trương Hán Siêu, Hà Nội. Căn phòng nhỏ, có khuôn
cửa sổ rộng. Tôi hình dung bên ô cửa sổ ấy, đêm đêm, chị đứng ngắm bầu trời bao la huyền
diệu. Phải chăng chị nhớ về những cánh rừng và bầu trời chi chít những ngôi sao
trong chiến tranh, nó đã khơi gợi cảm hứng chị viết truyện ngắn “Những ngôi xao
xa xôi” mơ mộng thửơ nào. Khuôn cửa sổ ấy, để cách ly cuộc sống ồn ào và đa tạp, đôi
khi, chị khép lại, chong đèn đọc sách hoặc viết lên trang giấy những cảm
xúc nóng hổi của mình. Hình như quá nửa đêm, có tiếng vòi nước chảy tong tong
vào cái bể nước tập thể luôn cạn nước ở tầng dưới. Ngày đó, nước máy sinh hoạt
như một thứ xa xỉ, khan hiếm. Tiếng vòi nước chảy tong tong vào bể nước, khơi gợi
một niềm vui riêng.
Tôi
nhớ không nhầm, trên những mảng tường quét vôi màu vàng trống trơn của căn
phòng chật hẹp dạo ấy của Khuê, có treo duy nhất bức ảnh chân dung Đôtx-tôi-ép
ki, nhà văn Nga vĩ đại, mà thời bấy giờ ở nước ta chưa được đề cao. Bức ảnh
chân dung đen trắng, nổi bật khuôn mặt võ vàng đau khổ của một bậc kiệt xuất, với
những tác phẩm bất hủ, như “Chàng ngốc”, “Năm đêm trắng”, “Tội ác và trừng phạt”,
“Anh em nhà Ca-ra-ma-dôp” mà chúng tôi từng chuyền tay
nhau ngấu nghiến đọc. Cặp mắt u buồn của người trong ảnh, đối lập với cặp mắt mở
to và rực sáng của người chủ nhân căn phòng. Lê Minh Khuê ngày ấy có thú vui
sưu tập rất nhiều ảnh các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, triết gia nổi danh
thế giới mà chị yêu quý. Bây giờ, công nghệ thông tin, truyền thông quá phát
triển, việc kiếm tìm tư liệu đễ dàng, thuận tiện; chứ như hơn bốn chục
năm về trước, để có được hàng trăm, hàng nghìn bức ảnh chân dung tiêu
biểu của nhân loại, đủ kích cỡ to nhỏ, phải nói là công lao lớn của Khuê.
Cao hơn cả công lao sưu tập, là tấm lòng say mê và tôn thờ các bậc kiệt liệt của văn hóa, văn chương nghệ thuật được xếp loại của thế giới. Lê Minh Khuê sưu tập, cắt dán vào mấy cuốn an-bum khổ to. Đã mấy lần tôi dược Khuê cho xem tập an-bum các nhân vật kiệt xuất như thế. Đấy là các tấm ảnh nghệ thuật đủ hình vóc các bậc vĩ nhân, như Sếch-xpia, Lep Tôn-xtôi, Đôx-tôi-épxki, Pu-skin, Mai-a, Ê-xê-nhin. Có người râu tóc xùm xòa già nua như thi sỹ Ấn-độ R.Ta-go, lại có những tấm hình tiểu thư, mơ mộng của nữ văn sĩ Pháp F.Sa-gan. Có khuôn mặt nghiêm nghị của nhà triết học J.Paul Sartre, lại có vẻ mặt tếu nhộn của danh hài Sac-lơ. Có khuôn mặt đau khổ của danh họa Pi-cat-xô bên bức tranh “Gec-ni-ca”, lại có vẻ đẹp mơ màng, bình yên của họa sĩ Lê-vi-tan bên bức tranh “Mùa thu vàng”... Mỗi bận Lê Minh Khuê cho tôi xem bộ an-bum về các danh nhân nỏi tiếng, lại một lần lòng đam mê nghệ thuật của tôi được khơi gợi và khích lệ.
Cao hơn cả công lao sưu tập, là tấm lòng say mê và tôn thờ các bậc kiệt liệt của văn hóa, văn chương nghệ thuật được xếp loại của thế giới. Lê Minh Khuê sưu tập, cắt dán vào mấy cuốn an-bum khổ to. Đã mấy lần tôi dược Khuê cho xem tập an-bum các nhân vật kiệt xuất như thế. Đấy là các tấm ảnh nghệ thuật đủ hình vóc các bậc vĩ nhân, như Sếch-xpia, Lep Tôn-xtôi, Đôx-tôi-épxki, Pu-skin, Mai-a, Ê-xê-nhin. Có người râu tóc xùm xòa già nua như thi sỹ Ấn-độ R.Ta-go, lại có những tấm hình tiểu thư, mơ mộng của nữ văn sĩ Pháp F.Sa-gan. Có khuôn mặt nghiêm nghị của nhà triết học J.Paul Sartre, lại có vẻ mặt tếu nhộn của danh hài Sac-lơ. Có khuôn mặt đau khổ của danh họa Pi-cat-xô bên bức tranh “Gec-ni-ca”, lại có vẻ đẹp mơ màng, bình yên của họa sĩ Lê-vi-tan bên bức tranh “Mùa thu vàng”... Mỗi bận Lê Minh Khuê cho tôi xem bộ an-bum về các danh nhân nỏi tiếng, lại một lần lòng đam mê nghệ thuật của tôi được khơi gợi và khích lệ.
Không
riêng gì tôi, mà Lưu Quang Vũ và Lâm râu mỗi bận xem các tập
an-bum mà Khuê sưu tập, như cùng có cảm giác giống tôi. Tôi nhớ một
lần xem tập an-bum này ở căn buồng nhỏ nhà Lâm râu. Lưu
Quang Vũ thì bồn chồn đi lại quanh căn phòng. Còn Lâm râu ngồi bó gối, tay chống
cằm, tư lự. Lê Minh Khuê khi ấy đứng khiêm nhường góc phòng, bím tóc tết sam vắt
trước ngực, cặp mắt mở to nhìn xa xăm. Chiếc máy hát chạy đĩa than vẫn chậm
chãi quay. Những bức tranh như quằn quại trên tường do Vũ chép tranh của
Pi-cat-xô. Có cả tranh của Nguyễn Thị Hiền với vẻ đẹp bứt dứt không bình yên. Bản
nhạc không lời, phát ra từ cái máy quay đĩa cổ lỗ có treo chiếc côn xe đạp
tì lên cần đĩa, tạo ra một không gian kỳ ảo.
Ngày
đi học khóa 6 trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ do Hội nhà văn tổ chức ở
Quảng Bá (1974), có lần Khuê đem tập an-bum đến lớp cho một số anh
em cùng xem. Ai cũng xuýt xoa về vẻ đẹp sang trọng các danh nhân
choáng ngợp đó. Có nhiều người trong lớp, lần đầu tiên được chiêm ngưỡng chân
dung của các nhà văn, mà tác phẩm họ từng đã đọc. Tôi càng nể sự đam
mê âm thầm sưu tập của Khuê.
Về
học ngày đó, hầu hết là các cây bút ít nhiều đã có đóng góp với văn học, sống với
nhau rất thoáng. Ấy nhưng có một cây bút tư duy cứng nhắc, phản ảnh
lên ban giám hiệu của trường là Khuê mang chân dung nhiều nhà văn phương Tây đối
lập đến lớp tuyên truyền. Nhà văn Nguyên Hồng khi ấy là hiệu phó trường, biết
chuyện, ông liền xem và phải kêu lên, trời ơi, đây là những đấng bậc
kiệt xuất về văn hóa, văn chương nghệ thuật của nhân loại. Tốt quá, các em hãy
lấy gương các đấng bậc trong tập an-bum này làm đích phấn đấu. Nhờ nhà văn
Nguyên Hồng có ý kiến kịp thời, Lê Minh Khuê cũng hết bị vướng mắc vì tập
an-bum các danh nhân yêu quý của mình.
Tinh
thần học tập năm ấy, ai nấy đều nghiêm túc. Những ngày nghỉ, anh em thường rủ
nhau đi chơi các vùng lân cận. Dịp đó là mùa xuân. Vùng quê Kinh Bắc của tôi vốn
là tháng hội hè la đà làng này sang làng kia. Mê quan họ, tôi rủ Khuê cùng Chử
Văn Long và Chu Hồng Hải đạp xe về Lim xem hội. Mải nghe quan họ, hôm sau chúng
tôi về muộn học. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, hiệu trưởng, biết chuyện, gọi chúng
tôi lên, không phê bình, mà chỉ nhắc nhở. Khuê và Hải bảo,
anh Long phải sáng tác bài thơ về quan họ, để xin lỗi thầy Sanh. Ấy rồi Chử Văn
Long có viết được bài thơ hay về quan họ, đem đọc thầy Nguyễn Xuân Sanh nghe,
được thầy khen. Bài thơ ấy rồi gửi in trên báo Văn Nghệ.
Khóa
học đa phần nội trú. Hà Nội ngày ấy còn nghèo, chưa phát triển. Việc
từ Quảng Bá về trung tâm thành phố, là cả quãng đường cách trở. Ấy vậy,
hễ ăn cơm chiều xong, thường thường anh em lại nhổng vào phố
chơi. Hầu hết là đến gặp gỡ anh em viết cùng lứa, hoặc đến thăm các nhà văn lớp
trên. Tình cảm người viết ngày ấy rất đẹp, rất quý nhau. Từng nhóm, từng nhóm một.
Có nhóm đến chơi nhà thơ Bằng Việt, nhà thơ Vũ Quần Phương. Có nhóm đến thăm
nhà văn Kim Lân, nhà văn Quang Dũng. Có nhóm lại cuốc bộ tới chòi ngắm sóng của
nhà thơ Phùng Quán ven Hồ Tây, vừa xem nhà thơ câu cá trộm, vừa ngâm thơ và uống
rượu. Đạp xe loanh quanh phố cổ, bánh xe lăn lạo xạo trên lớp lá khô. Phố xá
vào thu đậm đặc mùi hoa sữa. Tạt ngang khu chợ Đồng Xuân, ngồi ăn một bắp ngô
nướng, nghe lao xao chuyện chợ búa. Rồi chúng tôi ghé vào thăm nhà
thơ Tạ Vũ. Ngày ấy, Tạ Vũ còn khỏe, đang là một mẫu “nhà thơ công
nhân”, dấn thân vào đời sống lao động. Gặp Khuê, nhà thơ Tạ Vũ
reo lên “A, chào con sáo nhỏ của tôi!”. Chả là độ ấy, Khuê vừa có truyện ngắn
“Con sáo nhỏ của tôi” in trên báo ký tên Vũ Thị Miền. Ngôi nhà ba tầng đầu phố
Hàng Chiếu, sát ô Quan Chưởng của Tạ Vũ đã phơi ra cái dấu vết của đời
sống đang nghèo dần. Vượt qua chiếc cầu thang xoắn dốc bằng gỗ lim đã xộc xệch,
thiếu ánh sáng, là khoảng trời khoãng đãng của sân thượng luôn có cành cây lớn
ngoài phố vươn lên xòe vào che mát. Ô Quan Chưởng trầm tĩnh và u mặc. Lê Minh
Khuê như rất thích cái không gian này. Ở đấy, như luôn ồn ào bởi anh em viết
lách tụ bạ. Họ tranh cãi về một cuốn sách mới ra. Họ đọc cho nhau nhưng bài
thơ, trang văn mới viết. Đấy là Trúc Thông, Nghiêm Đa Văn, Trúc
Cương, Định Nguyễn… Có lần thấy cả nhà thơ Hoàng Cầm tay run run nâng chén rượu
bé như hạt mít, để ngang mày, ngâm thơ rất hay. Có bận, thấy Thọ
Vân, Đào Cảng từ Hải Phòng lên, quần áo như còn vị mặn của gió biển. Lại có lần
thấy Đào Ngọc Vĩnh từ Quảng Ninh về, vừa leo cầu thang vừa ôm ngực vì đau tim,
miệng lẩm nhẩm những câu thơ đắm say và trúc trắc. Đã có lần, ở giữa chừng cầu
thang tối om ấy, tôi cầm tay Khuê và dừng lại, để nghe cái âm thanh ồn ào từ
trên căn gác vọng xuống. Cái âm thanh hỗn tạp mà rất chân tình của đám viết
lách đang say sưa cãi vã, tranh luận nghệ thuật, ngỡ như họ làm thay đổi cả thế
giới bởi tuổi trẻ sôi nổi và bốc đồng của họ.
Một
bận, tôi cùng Khuê đi Hải Phòng, thăm bạn bè văn chương vùng đất Cảng. Hải
Phòng, những năm bảy mươi, là một miền đất sôi động. Đấy là thời của các nhà
thơ tiêu biểu đất Cảng, như Thi Hoàng, Thanh Tùng, Hoàng Hưng, Đào Cảng,
Nguyễn Tùng Linh, Vũ Châu Phối... đang sung sức. Khuê viết văn,
nhưng mê nghe đọc thơ. Buổi gặp gỡ chân tình, ai cũng muốn đọc những
bài thơ mới nhất của mình, để tặng Khuê. Những vần thơ hào sảng, hầm hập nhịp sống
và đắm say. Anh em viết ở Hải Phòng độ ấy, như ai cũng ngưỡng mộ Khuê. Văn
chương ngày ấy có sức ám ảnh kỳ lạ. Rồi Nguyễn Tùng Linh và tôi đưa Lê
Minh Khuê thăm bến cảng. Cửa sông, những con tàu kéo cờ nước ngoài nổi còi rền
rĩ xin cập bến. Khuê thích thú khi phát hiện con tàu trắng mang tên một nhà văn
Nga đang rẽ sóng ra khơi. Chúng tôi đưa Khuê tới thăm một công trường xây dựng,
mà người bạn đương phụ trách. Công trường ngổn ngang sắt thép, bê tông.
Chiếc cần cẩu cao lênh khênh quay những vòng quay gấp gáp, đưa những mảng tường bê tông vào khu nhà lắp ghép. Đấy là những năm đầu của công cuộc xây dựng đất nước thời hòa bình, thống nhất. Khuê được người bạn phụ trách công trường mời lên ngồi thử trên ca-bin cần cẩu tháp cao lưng trời. Tôi thấy đuôi tóc tết sam và cặp mắt mở to, rực sáng của Khuê cứ lung linh trên nền trời đầy nắng gió. Đêm ấy, Khuê về nghỉ ở căn gác gỗ nhà Nguyễn Tùng Linh. Mẹ của Linh chu đáo đưa chiếc màn tuyn trắng để chúng tôi mắc cho Khuê ngủ. Sau một ngày đi lại, gặp gỡ mệt nhoài, Khuê nằm ngủ ngon lành trên chiếc giường giữa phòng gác lửng. Lê Minh Khuê không thể hình dung ở hai chân giường, hai kẻ làm thơ là Nguyễn Tùng Linh và tôi chong đèn ngồi đọc báo suốt đêm để canh giấc ngủ bình yên cho Khuê. Đấy là tình cảm tinh khiết, quý mến của người viết dành cho người viết, như chỉ có được ở những năm tháng ấy. Chuyện xảy ra đã hơn bốn mươi năm rồi, mà cái cảm giác trong sáng và tôn thờ ấy, như vẫn còn nguyên vẹn.
Chiếc cần cẩu cao lênh khênh quay những vòng quay gấp gáp, đưa những mảng tường bê tông vào khu nhà lắp ghép. Đấy là những năm đầu của công cuộc xây dựng đất nước thời hòa bình, thống nhất. Khuê được người bạn phụ trách công trường mời lên ngồi thử trên ca-bin cần cẩu tháp cao lưng trời. Tôi thấy đuôi tóc tết sam và cặp mắt mở to, rực sáng của Khuê cứ lung linh trên nền trời đầy nắng gió. Đêm ấy, Khuê về nghỉ ở căn gác gỗ nhà Nguyễn Tùng Linh. Mẹ của Linh chu đáo đưa chiếc màn tuyn trắng để chúng tôi mắc cho Khuê ngủ. Sau một ngày đi lại, gặp gỡ mệt nhoài, Khuê nằm ngủ ngon lành trên chiếc giường giữa phòng gác lửng. Lê Minh Khuê không thể hình dung ở hai chân giường, hai kẻ làm thơ là Nguyễn Tùng Linh và tôi chong đèn ngồi đọc báo suốt đêm để canh giấc ngủ bình yên cho Khuê. Đấy là tình cảm tinh khiết, quý mến của người viết dành cho người viết, như chỉ có được ở những năm tháng ấy. Chuyện xảy ra đã hơn bốn mươi năm rồi, mà cái cảm giác trong sáng và tôn thờ ấy, như vẫn còn nguyên vẹn.
Nông
Cống là quê ngoại, Tĩnh Gia là quê nội. Tuy cùng đất tỉnh
Thanh, nhưng ngày ấy là cách trở. Ông nội ông ngoại đều là đồ
nho. Tuổi thơ của Lê Minh Khuê như gắn cả vào quê ngoại. Sống trong gia cảnh
không được thuận với thời cuộc, nhưng Khuê ít khi nói về mình.
Cũng không ca thán, oán trách gì về cái thời cuộc ấy. Bố mẹ mất sớm, năm 1965,
mười sáu tuổi, Khuê xung phong vào thanh niên xung phong. Chiến tranh đập vào số
phận dân tộc. Lớp trẻ ngày ấy, háo hức lên đường ra trận. Những cánh rừng, những
con đường nát nhừ bom đạn. Bốn năm lăn lộn trên bao tuyến
đường, năm 1969, từ khu Bốn, Khuê về làm phóng viên báo Tiền Phong. Thời
còn sống, nhà thơ Phan Xuân Hạt từng kể về lớp bồi dưỡng các cây bút trẻ do
Trung ương Đoàn tổ chức. Vì đương là cán bộ biên tập Nhà xuất bản Thanh niên,
ông có được cử về theo dõi lớp tập huấn ngắn ngày đó. Nhà thơ bất ngờ
khi đọc những trang viết đầu tay của cây bút nữ ít nói trong lớp. Ông mừng,
thốt lên, rồi em này sẽ thành nhà văn xuất sắc. Nữ tác giả trẻ
đó, chính là Lê Minh Khuê sau này. Cũng từ đó, Khuê làm phóng viên chiến trường
cho đến 1975. Từng làm việc ở Đài phát thanh giải phóng. Rồi Đài truyền hình Việt
Nam. Năm 1978, về làm việc ở Nhà xuất bản Hội nhà văn. Năm 1969, bắt đầu sáng
tác văn học. Truyện ngắn “Bức tranh” in trên báo Văn Nghệ, với bút danh Vũ Thị
Miền. Và sau đấy, cái tên Lê Minh Khuê đã sớm đi vào ấn tượng của văn đàn. Chị
là người bền bỉ, chung thủy và thành danh từ thể loại truyện ngắn. Lê Minh Khuê
đã xuất bản trên mười đầu sách. Đó là “Những ngôi sao xa xôi”, 1973. “Cao điểm
mùa hạ”,1978. “Đoạn kết”,1982. “Một chiều xa thành phố”,1986. “Tôi đã không
quên”,1991. “Bi kịch nhỏ”,1993. “Trong làn gió heo may”, 2000. “Màu xanh man
trá”, 2003. “Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa”, 2003. “Một mình qua đường”,
2006. “Nhiệt đới gió mùa”, 2012. “Làn gió chảy qua”, 2016… Ngoài ra, đã được
dịch và in các tập truyện ngắn ở Mỹ, Đức, Thụy Điển, Italia, Hàn Quốc. Lê Minh
Khuê được giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1987 và 2001. Giải thưởng mang
tên nhà văn Byeong-Ju Lee của Hàn Quốc, năm 2008. Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật, năm 2012.
Truyện
của Lê Minh Khuê luôn hướng về cái đẹp nội tâm của con người. Có thể phân
định thời gian trong các tác phẩm của chị. Đó là hai giai đoạn: con người trong
chiến tranh và con người sau chiến tranh. Ở thời đoạn trong chiến tranh, các
nhân vật của Lê Minh Khuê luôn toát lên vẻ đẹp trong trẻo, khoáng
đãng, cao cả của lớp người dám dâng hiến tuổi xuân cho đất nước. Đó là
các cô gái thanh niên xung phong, những anh bộ đội trẻ, hồn nhiên và dũng cảm.
Một lớp người lý tưởng.
Đất nước tao loạn, họ sẵn sàng ra trận, chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Các truyện ngắn tiêu biểu của chị trong thời gian này, là “Những ngôi sao xa xôi”, “Cao điểm mùa hạ”, “Con sáo nhỏ của tôi”… Viết về con người sau chiến tranh, thời hậu chiến, ngòi bút Lê Minh Khuê càng da diết, tỉnh táo, gọi tên những xấu xa, ti tiện, hèn hạ trong mỗi con người. Đương nhiên, chiến tranh dội lên đầu mỗi con người, tính tư hữu, ti tiện, tính toán cá nhân như bị lướt qua, không có cơ hội bộc lộ. Nhưng hòa bình, sự tranh giành quyền lợi, phân hóa giàu nghèo, lòng tham, tật xấu con trần trụi phơi lộ. Nếu viết về con người trong chiến tranh, Lê Minh Khuê có phần nhuận sắc nhân vật lý tưởng, cao hơn thực tế; thì với con người sau chiến tranh, chị đã mổ xẻ, lên án cái xấu, cái ác đang lộng hành với thái độ cương quyết. Đồng tiền, quyền lực quay cuồng, đảo điên. Bi kịch con người, bi kịch xã hội chồng chéo trên mảnh đất bao năm trận mạc. Lê Minh Khuê bóc trần, lý giải bằng tấm lòng bao dung và trách nhiệm của nhà văn.
Đất nước tao loạn, họ sẵn sàng ra trận, chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Các truyện ngắn tiêu biểu của chị trong thời gian này, là “Những ngôi sao xa xôi”, “Cao điểm mùa hạ”, “Con sáo nhỏ của tôi”… Viết về con người sau chiến tranh, thời hậu chiến, ngòi bút Lê Minh Khuê càng da diết, tỉnh táo, gọi tên những xấu xa, ti tiện, hèn hạ trong mỗi con người. Đương nhiên, chiến tranh dội lên đầu mỗi con người, tính tư hữu, ti tiện, tính toán cá nhân như bị lướt qua, không có cơ hội bộc lộ. Nhưng hòa bình, sự tranh giành quyền lợi, phân hóa giàu nghèo, lòng tham, tật xấu con trần trụi phơi lộ. Nếu viết về con người trong chiến tranh, Lê Minh Khuê có phần nhuận sắc nhân vật lý tưởng, cao hơn thực tế; thì với con người sau chiến tranh, chị đã mổ xẻ, lên án cái xấu, cái ác đang lộng hành với thái độ cương quyết. Đồng tiền, quyền lực quay cuồng, đảo điên. Bi kịch con người, bi kịch xã hội chồng chéo trên mảnh đất bao năm trận mạc. Lê Minh Khuê bóc trần, lý giải bằng tấm lòng bao dung và trách nhiệm của nhà văn.
Trong
một truyện ngắn, cái thị trấn miền núi nhỏ bé, cơ chế thị trường
đang tấn công, xâu xé. Hình ảnh ông thợ may phố núi chuyên may áo quần
vải chàm, bất bình với dự án xây khách sạn ven hồ, nhìn ra
bao hiểm họa đang tấn công thị trấn. Ông giận dữ bảo rằng “đứa nào
làm bẩn nước hồ, ông sẽ dìm xuống hồ cho chơi với cá” Khốn nỗi, cái mặt
trái của cơ chế thị trường, làm sao ông chống trả được? Nó không những chỉ
làm bẩn, mà còn quấy nát bét cuộc sống vốn thanh
bình nơi đây. Ông thợ may cực đoan tuyên bố “Dân phố cứt trâu, dân trong bản
thỉnh thoảng xuống hồ tắm có đánh rắm có ỉa vào hồ thì cũng vẫn là chất thải
lành”. Chứ cái lũ văn minh kia, nó xả rác thải xuống hồ, là “giang mai, si đa”,
là “chết hết cá đấy!”. Phản kháng thế, nhưng tai
họa vẫn ồ ạt tấn công. Kết quả là chính con gái ông, cái con ngỗng non
ngây ngô và ngơ ngác của ông đã chịu trận. Ngôn ngữ truyện giai
đoạn này của Lê Minh Khuê chát chúa, thô bạo, trần trụi. Đọc xong, lại
nhận cảm nỗi buồn ngậm ngùi.
Lê
Minh Khuê là người biết tiên lượng con chữ, phát huy cao nhất thế mạnh
của truyện ngắn. Với dung lượng truyện “Bi kịch nhỏ”, “Nhiệt đới gió
mùa”, ở người khác, có thể kéo dài ra thành một tiểu thuyết vài trăm
trang. Nhưng Lê Minh Khuê đã dồn nén thành truyện ngắn cô đọng. Truyện
của Lê Minh Khuê, không có nhân vật điển hình. Nhưng tâm lý điển hình, lớp
người điển hình, trong văn Lê Minh Khuê rất rõ, không lẫn được. Nhà
văn là người có trách nhiệm cao nhất với số phận nhân vật minh đẻ ra. Lê Minh
Khuê như luôn đẩy số phận nhân vật của mình tới tình huống kịch
cùng, với lòng yêu ghét kịch cùng. Lê Minh Khuê là người lý tưởng, cực
đoan trong ý nghĩ. Mặc dù bên ngoài, chị giữ vẻ ôn hòa, dịu dàng. Cá
tính, tạo ra thái độ trên trang viết của nhà văn.
Trong
một lần trả lời phỏng vấn báo “Người lao động”, (ngày 8-7-2005) chị từng
thốt lên “Đôi khi con người như phận cỏ”. Người cầm bút, như ai cũng có giây
phút mong manh, bất an. Chán chường và thất vọng. Một xã hội khi vật chất
lên ngôi, nhà văn như càng bị cô độc trước trang viết. Có lúc Lê Minh Khuê phải
tự trấn an mình, viết ra cái gì có chục người đọc, là thích rồi. Nhưng chị luôn
tin vào việc mình làm. Hay đó là cái nghiệp đã vận vào đời chị, với
đầy vinh quang và đầy cay đắng. “Không còn ai đọc, tôi vẫn viết!” Và cuối
cùng, truyện Lê Minh Khuê, vẫn ánh lên niềm tin yêu thiết
tha vào con người. Con đường văn nghiệp của Lê Minh Khuê tưởng như suôn sẻ, thuận
tiện, nhưng thực ra không phải thế. Văn của chị, không riêng độc giả,
mà ngay trong giới viết lách, có người ca ngợi hết mực, lại có người quay mặt,
không chấp nhận. Có nhiều truyện, trầy trật mấy năm, mới công bố
được. Ngay tập truyện “Màu xanh man trá” của Lê Minh Khuê, từng qua mấy nhà xuất
bản, không in. Mãi tới năm 2003, Nhà xuất bản Phụ nữ in ra, lập tức lại được
giới phê bình ca ngợi và đông đảo độc giả đón nhận.
Trong
tập “Truyện ngắn chọn lọc” của Lê Minh Khuê, in 2013, ám ảnh tôi,
truyện “Một mình qua đường”. Chuyện về đời thường, nhưng lại như một tuyên
ngôn về nghệ thuật. “Chả cần quan sát như người ta dặn. Có quan sát
có tránh cũng chả ai tránh mình. Anh cứ học em đây này. Em cứ đi chả nhìn ai sất.
Không ai dám lao vào mình đâu.” Đấy là lời nói của cô bé trong
truyện, quả quyết một mình sang đường theo lối của mình. Cô bé chấp
nhận trả giá. Là người cầm bút, nếu không có lòng tin, không có thái
độ, không dám đi theo lối của mình, thì sao viết được những trang sách thật mình
nhất? Bao năm nay, Lê Minh Khuê bền bỉ, quyết liệt, đi theo lối của mình.
Vì thế, sáng tác của Lê Minh Khuê có phong cách riêng, có chỗ đứng xứng đáng
trong bạn đọc.
Câu
chuyện về tập an-bum các danh nhân kiệt xuất của thế giới làm Lưu Quang Vũ, Lâm
râu và tôi nao nức, đã lùi xa mấy chục năm rồi. Tôi chả hỏi Lê
Minh Khuê còn nhớ không, chứ tôi thì vẫn nhớ cái âm thanh cao cả, sang trọng cất
lên từ chiếc máy hát cổ lỗ nhà Lâm râu. Vẫn nhớ tiếng nước chảy tong tong từ
chiếc vòi nước dưới cửa sổ mở rộng căn phòng một thời u Khuê ở. Và nhớ cả
cái luống cỏ hoa tóc tiên cứ bừng lên sau trận mưa ở sân trường Quảng Bá ngày
nào…
Tháng 8-2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét