Thứ Tư, 27 tháng 5, 2020

Tuấn, chàng trai nước Việt 3

Tuấn, chàng trai nước Việt 3
CHƯƠNG 21
Lúc bấy giờ các trường nghỉ Tết được nửa tháng, từ 22 tháng chạp ta đến mồng tám, hoặc mồng mười tháng Giêng. Trong mấy ngày nghỉ Tết, đa số học trò bị nhiễm một tật thông thường của đa số các bậc phụ huynh, là cờ bạc. Ở tỉnh nào và Phủ, Huyện nào cũng thế cả.
Có năm loại cờ bạc trong mấy ngày xuân:
1) giới quý phái, quan liêu, các quan lớn, quan nhỏ, thì đánh tổ tôm, tài bàn (nhất văn, nhị văn, tam văn... chi chi, cửu vạn, bát sách) v.v...
2) giới bình dân phong lưu thì đánh Kiệu (thất kiệu, tam kiệu).
3) giới bình dân đại chúng, nhất là phụ nữ, thì đánh Tứ sắc (tướng xanh, tướng đỏ, tướng vàng, tướng trắng, tốt xanh, tốt vàng v.v...) hoặc bài Tam cúc (ông Ẩm, ba Tiền, tám Tiền, v.v...).
4) giới cờ bạc chuyên môn thì Hốt Me, Xóc đĩa, Bài cào, Xì lác, các tê.
5) sau cùng là học trò và con nít thì đánh lú : Tam Túc Lượng Yêu (tam là ba đồng tiền, túc bốn đồng, lượng hai đồng, yêu một đồng).
Trong mấy ngày Tết, hầu hết các gia đình đều tổ chức đánh bài như thế, tuy là để " tiêu khiển" trong mấy ngày Xuân, nhưng cũng ăn thua tiền bạc quá nhiều và rất ham mê.
Cờ bạc công cộng thì có bài chòi, do làng xóm tổ chức. Lối chơi bài chòi công cộng này rất vui, rất dễ quyến rũ ngưởi ta. Thường thường một nơi xa kéo đến, có khi từ Huyện nọ sang Huyện kia, đến vài chục cây số. Hội Bài Chòi thường khai mạc sáng Mồng Một Tết và kéo dài đến Rằm tháng Giêng. Lối chơi này riêng biệt ở Trung Kỳ, rất thông dụng. Ở miền Bắc và miền Nam không có.
Đám thanh niên và học sinh vùi đầu vùi cổ trong các canh bài, đêm nào cũng thức thật khuya, có đêm thức tới sáng. Vì học trò có ít tiền nên mãn canh bạc, ăn thua chỉ trong vòng năm bảy tiền, hay một quan là nhiều.
Phải nhận xét vô tư và xác thực rằng tất cả những cuộc cờ bạc trên kia chỉ thịnh hành trong mấy ngày xuân thôi. Trừ ra một vài gia đình tiếp tục chơi đến hết tháng Giêng, còn hầu khắp các nơi hết Tết là hết cờ bạc. Các bộ bài được gói cất kỹ lưỡng trong tủ, và ai nấy lo làm ăn.
Học trò cũng thế. Hết nghỉ Tết, bắt đầu học trở lại, phần nhiều học sinh lo học, không đánh bài nữa. Dù có muốn chơi cũng không dám chơi, vì bài học và bài làm rất nhiều, đâu có thì giờ rảnh rang nữa.
Trừ một thiểu số lười biếng, phần nhiều là con nhà giàu, được cha mẹ cưng, còn hầu hết học sinh thời trước đều chăm chỉ học tập, sợ thầy phạt, và lo tranh đua với chúng bạn. Học không thuộc bài, bị thầy cho zéro trong sổ điểm, là một cái nhục lớn cho người học trò, đối với bạn bè trong lớp. Học trò thuở trước biết tự trọng, do đó mà biết cố gắng.
Xã hội Việt Nam từ 1910 đến 1950 không có hạng thanh niên lêu lỏng, truỵ lạc, quá nhiều như ngày nay. Chính ở hai đô thị xa hoa rộn rịp nhất là Saigon, Hà Nội, số thanh niên trác táng cũng không có bao nhiêu. Hoạ chăng chỉ là một thiểu số con nhà giàu, mà cha mẹ để cho ăn chơi tự do ; bọn công tử, công tôn xài phí hoang đường, cậy quyền, ỷ thế, có những hành động ngang tàng mất dạy. Còn hầu hết thanh niên đều cố gắng học hành thi cử, để kiếm công ăn việc làm. Tùy theo khả năng của mình, tất cả đều được tiếp nhận trong các công sở, tư sở, nhà buôn, nhà máy, và các ngành hoạt động khác trong xứ. Luân lý gia đình chặt chẽ, kỷ luật học đường nghiêm khắc, chương trình học vấn điều hòa, có căn bản, và phong độ chung của xã hội Việt Nam được lành mạnh, tốt đẹp, để bảo đảm cho thanh thiếu niên Tiền-chiến một đời sống tinh thần và vật chất thăng bằng, không bê bối, không hỗn loạn.
Thanh niên 1920-1940, có lễ độ, không hỗn láo, không xấc-xược. Đối với thầy họ không lỗ mãng, đối với bạn không lơ là, với mọi người trong xã hội họ giữ được tư cách đứng đắn, gương mẫu của người học trò. Tuy học chữ Tây, nhiễm văn minh vật chất của Âu Tây nhưng họ vẫn điều hoà được cả hai tinh thần đông phương và tây phương. Nhờ đó họ đã xây dựng một thế hệ trung bình, phấn chấn, không rụt rè thoái bộ, mà cũng không hời-hợt, lăng nhăng.
Tuấn-em lớn lên giữa một xã hội mới đang phôi thai trong tiến bộ, hấp thụ một dưỡng khí học đường lành mạnh, tinh khiết và mát dịu. Tinh thần chủng tộc càng nẩy nở mạnh mẽ trong tâm khảm nó. Bao nhiêu những rực rỡ tân kỳ của văn minh Pháp quốc, như tầu bay, xe hơi, giây điện, giây thép, đồng hồ và trăm ngàn máy móc mới lạ, tuy khiến cho nó kính phục, nhưng không sao biến đổi được tính chất thuần túy của giống nòi đã khắn khít như keo sơn, như cội rễ, trong giòng máu Việt Nam của nó.
Những kẻ "phục Tây sát đất", và nịnh Tây theo Tây - tôn người Pháp là "quan Thầy", tôn nước Pháp là "mẫu quốc". Chỉ có một số rất ít thôi. Đó là những kẻ muốn tăng cường địa vị cá nhân, muốn khuếch trương quyền lợi riêng, muốn dựa thế người Pháp để xây dựng danh vọng, vinh hoa, phú quý cho họ và cho gia đình họ. Những kẻ ấy không ảnh hưởng chút nào đối với đại đa số thanh thiếu niên, nhất là thanh thiếu niên học sinh ở các trường Pháp-Việt.
Nhân vật điển hình của hạng nịnh Tây, năm 1920 ở tỉnh Q., thuộc về giới "thượng lưu trí thức" lại chính là ông đốc học Phạm văn Mỗ. Tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương ở Hà Nội, ông là người Nghệ An được bổ nhiệm vào tỉnh Q. thay thế cho ông đốc học Pháp đổi đi nơi khác. Ông là một trong số người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm (trường này mới được chính phủ thuộc địa thành lập tại Hà Nội, năm 1914), và cũng là người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm làm Đốc học tại trường Tiểu học Pháp Việt ở tỉnh (Ecole de Plein Exercice). Ông độ 30 tuổi, người thấp và nhỏ, luôn luôn nói tiếng Pháp, ít khi nói tiếng Việt.
Năm 1920, ở các tỉnh toàn xứ hãy còn ít người An-Nam mặc Âu phục. Các thầy Thông, thầy Phán làm việc các Toà, các sở, các thầy giáo, đều mặc áo dài đen dài, mang giầy Hạ, đội mũ, hoặc chít khăn đen. Ở tỉnh Q. Quan Đốc học Phạm văn Mỗ là người đầu tiên mặc âu phục và "quan" chỉ mặc đồ tây, không bao giờ mặc đồ An-nam cả.
Ấy thế mà một năm sau, một thầy giáo lớp Tư cũng bắt chước mặc âu phục như quan Đốc thì quan Đốc không bằng lòng và thù ghét tìm cách đuổi thầy đi khỏi trường. Nghe nói thầy đi vô Đồng Nai, Gia Định!
Chỉ tội nghiệp cho thầy giáo lớp Ba. Cũng như thầy lớp Tư, thầy này cũng bắt chước may một bộ đồ tây, sắp sửa mặc đi dạy học. Học trò đến nhà thầy, thầy lấy bộ áo tây mới may đem ra khoe, có vẻ hảnh diện và vui sướng lắm. Học trò cũng thích thầy mặc đồ tây cho oai. Nhưng thấy cái gương thầy lớp Tư như thế, thầy lớp Ba vội-vàng xếp bộ đồ tây cất vô tủ, không dám lấy ra mặc nữa. Đến đổi chủ nhật thầy đi dạo chơi ngoài phố, hoặc đến chơi nhà các thầy khác, thầy cũng không dám mặc đồ tây, sợ có ai mét lại với quan Đốc thì nguy!
Mỗi buổi chiều thứ Năm nghỉ học, Tuấn-em đến thăm thầy, thầy than thở với Tuấn:
- Ở tỉnh mình không có thợ may đồ tây, và cũng không có tiệm nào bán vải may đồ tây, sẵn có người bà con đi Đồng Nai buôn bán, thầy gởi tiền nhờ họ vô Đồng Nai mua vải và mướn thợ may cho thầy một bộ. Không dè ông Đốc không muốn cho thầy giáo mặc đồ tây, thành thử thầy phải bỏ. Thầy tiếc quá!
Tuấn hỏi:
- Thưa thầy, thầy thuê thợ Đồng Nai may hết bao nhiêu tiền?
- Thầy để dành nửa tháng tiền lương mới đủ mua hàng tissu và may được bộ đồ complet đó.
Tuấn-em nghe thầy nói, thương thầy lắm. Học trò cả lớp đều thương thầy không đứa nào dám chế nhạo về vụ đó. Đối với ông Đốc, các thầy giáo và học trò cả trường đều sợ.
Buổi học cuối niên khoá, trước kỳ nghỉ hè 3 tháng, từ đầu tháng 7 dương lịch, ông Đốc vào từng lớp căn dặn học trò. Dĩ nhiên ông nói tiếng Pháp. Học trò lớp Năm và lớp Tư không hiểu nổi, các thầy giáo dịch lại tiếng An-nam :
- Ngày mai 1 tháng 7, bắt đầu nghỉ Hè. Nhưng các trò ở xa không được về quê vội. Vì ngày 14 tháng 7 là ngày lễ Quốc-khánh của nước Đại Pháp, có quan Công Sứ chủ toạ, cuộc diễn binh long trọng. Tôi muốn toàn thể học trò trường tỉnh phải đến đông đủ dự buổi lễ ấy. Vậy sáng ngày mai, và liên tiếp trong 7 ngày, học trò lớp Nhất, lớp Nhì và lớp Ba, phải tới trường để tập hát bài quốc ca Pháp, là bài La Marseillaise. Phải tới đông đủ, học trò nào vắng mặt sẽ bị phạt consigne. Ngoài ra, tất cả học trò các lớp phải nói với cha mẹ mua vải xanh vải đỏ may cho mỗi trò một lá cờ Tam Tài, xanh-trắng- đỏ, lá cờ của Mẫu quốc, để ngày 14 Juillet cầm đi dự lễ. Sáng 14-7, đúng 6 giờ các trò và các thầy giáo phải tề tựu đông đủ tại sân trường, mặc áo dài trắng sạch sẽ, và mỗi trò cầm một cây cờ Tam Tài lớn bằng một tờ giấy tây, sắp hàng tề chỉnh, để các thầy giáo dẫn đi dự lễ Quốc-khánh, và chào mừng quan Công Sứ. Trò nào khiếm diện hôm đó, sẽ bị đuổi luôn.
Ông Đốc học Phạm văn Mỗ truyền huấn lệnh rõ ràng, và nghiêm khắc như thế, rồi ra về.
Tuấn-em về nhà nói chuyện lại cho anh và cha mẹ nghe lời căn dặn của ông Đốc. Thím Ba, mẹ Tuấn, nói :
- Không lẽ may một lá cờ tam sắc nhỏ bằng tờ giấy tây mà phải đi mua ba thứ vải ba màu sao ! Mẹ cắt một tấm vải trắng ra thành ba, mẹ mua phẩm xanh, phẩm đỏ về nhuộm hai miếng, rồi mẹ may lại, được không?
- Thưa mẹ, không được đâu. Ông Đốc bảo phải mua vải xanh, vải đỏ.
Nhưng Phán Tuấn ngắt lời em:
- Ông Đốc bảo thế, kệ ổng. Mẹ cứ nhuộm vải trắng rồi may. Miễn có cờ ba sắc là được... Nhưng Ông Đốc này làm lố quá. Nghỉ hè, không cho học trò về quê thăm cha mẹ, bắt ở lại đến 14-7 để đi chào mừng ông Sứ là nghĩa lý gì? Lễ Quốc-khánh của Tây, chớ của An-nam sao? Nếu muốn dẫn học trò đi chào ông Sứ, thì học trò ở tỉnh được hơn trăm đứa cũng đủ rồi, cần gì phải bắt học trò quê ở các Phủ huyện xa phải ở lại? Ông Sứ có bắt buộc như thế đâu?
Tuấn-em hỏi anh:
- Lễ 14-7 là lễ gì, anh Hai ?
Phán Tuấn lấy sách Sử Ký Pháp ra giảng cho em hiểu:
- Đấy là một ngày lễ kỹ niệm cuộc Cách mạng Pháp. Dân chúng Pháp uất ức vì bị nhà Vua hà hiếp, thuế má nặng nề, nên họ nổi dậy phá tan ngục Bastille, và đòi bắt chém vua...
Tuấn kể dài nữa, thật dài và thật rõ ràng đầu đủ về cuộc Cách mạng nổi dậy ngày 14 tháng 7 năm 1789, ở Paris...
Tuấn-em nghe say mê lời anh thuật chuyện và sáng hôm sau cũng phải đến trường tập hát bài quốc Pháp, La Marseillaise, theo lịnh của ông Đốc.
Sáng ngày 14-7, Tuấn-em phải cầm lá cờ Tam tài đến trường đúng 6 giờ. Học trò và các thầy giáo đều đến đông đủ, đếm tất cả trường được 415 trò dưới sự chỉ dẫn của 10 thầy giáo. Học trò sắp hàng hai trước sân trường đúng 7 giờ, ông Đốc Phạm văn Mỗ đến. Ông mặc bộ đồ tây mới, toàn màu trắng, mang giày trắng, đội mũ trắng. Ông bảo học trò lớp Nhất, lớp Nhì, lớp Ba hát bài quốc ca Pháp cho ông nghe. Trò nào hát sai giọng, hoặc sai một chữ, bị ông đánh một tát tai nẩy lửa. Nét mặt giận dữ, ông la hét om sòm làm cho các thầy và toàn thể học sinh hoảng sợ. Đúng 7 giờ 30 phút, ông ngồi trên chiếc xe kéo nhà sơn đen, bánh cao su, do một người cu-li mặc quần áo mới kéo ra Sở Cò, trên đường Cửa Tây, là nơi hành lễ. Các thầy dẫn học trò sắp ngay hàng thẳng lối, mỗi trò cầm một cây cờ Tam tài, lặng lẽ đi sau xe ông Đốc. Học trò sắp hàng trên lề đường phố, đối diện khán đài.
Linh khố xanh (lính Tập) độ trăm người, mặc lễ phục oai vệ, cầm súng cắm lưỡi lê sáng quắc, đứng sắp hàng trên lề đường bên kia, hai bên khán đài. Dân chúng đứng xem đông nghẹt, chung quanh khán đài và trên các đường phố, chen lấn nhau chật ních, không còn một chỗ hở.
Sau khi ông Công Sứ và các quan khách đến đúng 8 giờ 30, và lính thổi kèn, bồng súng chào, ông Đốc học Phạm văn Mỗ bước ra trước mặt ông Sứ, đọc bài diễn văn bằng tiếng Pháp. Bài diễn văn rất dài, đại khái có một đoạn hùng hồn như sau đây:
Oh France magnanime! Oh France Bienfaitrice de l Humanité! Oh Mère Patrie! Combien, nous, les Annamites, vos fils adoptifs, vos fidèles protégés, nous sommes fiers ce jour glorieux qui porte la marque sublime de la grandeur francaise!...
Ông Đốc bảo một thầy giáo đọc bản dịch quốc ngữ cho mọi người nghe :
Hỡi nước Đại Pháp khoan hồng đại lượng! Hỡi nước Đại Pháp ân nhân của nhâ loại! Hỡi Mẫu quốc! Chúng tôi, người An-na-mít, là những đứa con nuôi của nước Pháp, những con trung thành được nước Pháp bảo hộ, chúng tôi hãnh diện xiết bao trong ngày hôm nay, ngày vinh quang của nước Pháp vĩ đại!...
Các quan Tây-Nam vỗ tay như sấm dậy. Theo huấn lịnh của ông Đốc dặn trước, ông đọc xong bài diễn văn, lúc học trò phải phất cờ tam tài của Pháp và hát lên bài quốc ca La Marseillaise...
Ông Công Sứ cảm động quá, đứng dậy gắn một chiếc mề đay trên ngực ông Đốc học Phạm văn Mỗ, và ôm hôn ông...
Lễ Quốc-khánh của nước Pháp, ngày 14 tháng 7 dương lịch, được gọi là "lễ Chánh-chung". Không biết ông quan nào của Nam-triều, hay thầy Thông, thầy Phán nào của chính phủ Bảo hộ, đã đặt ra danh từ lạ lùng ấy mà không ai hiểu ý nghĩa đích xác là gì cả. Có nhiều ông Tú, ông Cử nhà Nho nói rằng đúng chữ là Chánh - Trung", nghĩa là ngày lễ đúng vào giữa năm. Ngoài ra, còn có một danh từ khác thông dụng hơn, là lễ "cách -tót-duy-dê", phiên âm theo tiếng Pháp.
Trừ ngày Tết Việt-Nam có tính cách nghi lễ gia đình nhiều hơn, người ta có thể nói rằng lễ "cách -tót-duy-dê" là một ngày đại hội toàn quốc tưng bừng náo nhiệt nhất trong năm, dưới thời đô hộ Pháp ở xứ ta.
Sáng sớm tinh sương Tuấn-em vừa thức dậy đã nghe tiếng kèn lính tập thổi một bài quân nhạc đặc biệt vang lừng khắp tỉnh. Ngoài đường phố đã thấy lính khố xanh rộn-rịp, mặc toàn quân phục trắng của những ngày đại lễ. Sau nghi lễ chính thức có ông Đốc học Phạm văn Mỗ đọc diễn văn suy tôn ông Công Sứ, và tâng bốc nước Đại Pháp, và sau một cuộc "diễn binh" có hai anh lính khố xanh thổi kèn đi đầu, Tòa Sứ có tổ chức những cuộc vui công cộng mà dân chúng nô nức từ các làng kéo vể tỉnh để xem.
Trước sân chợ, có một môn giải trí do Quan Tuần Phủ bày ra. Trên khán đài đông đủ mặt các quan Tây, quan An-nam, và các bà Đầm ngồi hàng ghế danh dự, một thiếu phụ Pháp cầm một cần câu treo một cái chảo dính đầy lọ nghẹ. Dưới đít chảo có dán một đồng bạc trắng. Quan Tuần giảng nghĩa trò chơi cho công chúng nghe": "Ai muốn lấy đồng bạc kia, thì phải lấy khăn cột hai tay sau lưng, đứng dưới cần câu, ngước mặt lên đít chảo và đưa miệng lên cắn lấy đồng bạc". Nếu cần câu để yên một chỗ thì trò chơi không khó khăn gì, nhưng cô Đầm quái ác ngồi trên khán đài cố ý cầm cần câu nhử mồi như cầm cục xương đưa cao lên để nhử con chó vậy. Cô hạ cần câu xuống gần miệng người ham đồng bạc đang dùng mọi cử chỉ lanh lợi để đưa miệng lên táp vào đít chảo sắp sửa thành công, thì cô Đầm lại dựt cần câu lên, cái chảo cũng lắc lư ra xa. Người ham đồng bạc đã không cắn được đồng bạc mà mặt mủi lại bị dính đầy lọ nghẹ.
Các quan Tây, quan An-nam, và các bà Đầm, cô Đầm đều cười rũ rượi, khoái chí lắm. Khán giả "An Nam" cũng cười rùm lên. Người ham đồng bạc vẫn không thất vọng, cứ chườn cái mặt lọ lem kia ra, cố há miệng cho to táp vào đít chảo, mong táp trúng đồng bạc...
Tuấn-em đứng xem cũng tức cười như mọi người. Nhưng anh nó, thầy Phán Tuấn, sa sầm nét mặt, bảo nó:
- Em muốn xem nữa, cứ đứng đây xem, hay là xem các trò khác. Anh đi về.
Tuấn-em còn con nít, ham vui, đi coi khắp các trò chơi công cộng, như leo cột mỡ, bịt mắt bắt vịt, đua xe kéo, keó thùng nước đừng cho đổ ra ngoài, v.v...
Phán Tuấn về nhà, nghĩ lại cuộc chơi của "người An-nam liếm đít chảo" trong ngày lễ Quốc Khánh Pháp, cho rằng đây là một trò chơi nhục nhã cho người Việt. Nhưng còn biết bao nhiêu cái nhục nhã nữa kể sao cho hết ? Kể cho ai nghe ? Mà ai dám nghe ? Tuấn làm thông phán đầu toà, hàng ngày gần gũi với các ông Công Sứ Pháp và các quan Tây, các quan ta, các ông tổng, ông xã, đã mắt thấy tai nghe biết bao nhiêu những chuyện nhục nhã, đê tiện, khốn nạn, bỉ ổi, do chính hạng "An-nam nịnh Tây" nêu gương ra. Họ tưởng làm vui ông Tây, nhưng chính ông Tây chê cười, khinh bỉ.
Gặp những viên quan cai trị Pháp biết tôn trọng dân tộc Việt Nam, thì mình xấu hổ, vì họ vẫn theo thành kiến dân chủ và tinh thần bình đẳng. Nhưng một số đông người Pháp đã có kỳ thị chủng tộc, nhiễm thói tự cao tự đại với dân thuộc điạ, lại gặp những "người an nam mít" tâng bốc họ một cách đê tiện, vô liêm sĩ thì họ càng lên mặt vênh-váo, khinh khi cả giống người Việt và chà đạp lên dân ta như loài trùn dế vậy thôi.
Cuộc vui liếm đít chảo để lấy một đồng bạc, tự nó có thể được coi như một trò chơi bình dân, thật ra không đến nỗi xúc phạm đến quốc thể của một nước, nhưng chính vì do các "quan Đại Pháp - chủ trương, do các "quan An nam" bày đặt, và cả một công chúng "An Nam" đông đảo đứng xem và vỗ tay cười trước mặt Tây và Đầm, cho nên Tuấn thấy thương tổn đến phẩm giá của người Việt, và chạm đến lòng tự ái dân tộc của chàng.
Mặc dầu Trần anh Tuấn đương là một kẻ giúp việc cho Tây, ăn lương của "Nhà Nước Bảo Hộ" nhưng Tuấn đã được thấm nhuần tư tưởng ái quốc của vua Duy-Tân, vua Thành-Thái, lúc Tuấn còn là học sinh trường Quốc Học Huế. Cho nên một cuộc chơi liếm đít chảo bày ra mà đa số đồng bào chỉ biết hùa nhau vỗ tay cười, Tuấn lại cho là nhục nhã. Tuấn bùi-ngùi đau xót, tức giận, mà âm thầm không dám nói với ai.
Năm 1923, ở tỉnh có một đám rước "thầy Tú vinh qui" thật là vui. Người ta nô nức đi xem đông vô số kể. Đối với đám rước của Lê văn Thanh hồi chàng mới thi đỗ bằng tiểu học "ri-me" ở tỉnh thì đám rước này còn linh đình hơn nhiều.
Thầy Tú tân khoa là con một ông bá hộ có theo đạo Thiên Chúa. Cậu cũng học trường Quốc Học Huế, thi đậu bằng Thành Chung, lúc bấy giờ có một số người gọi là "Tân khoa Tú Tài". Cũng như Trần anh Tuấn vậy. Kể ra năm 1923, lớp học sinh thi đỗ bằng Thành Chung ở Huế, Vinh, cũng như ở Hà Nội, Nam Định,Saigòn, Cần Thơ v.v... đã nhiều rồi, không phải hiếm hoi như ba, bốn năm về trước, nhưng ở tỉnh Q., toàn tỉnh chỉ có chừng năm người. Hầu hết chỉ học đến lớp đệ nhị niên, đệ tam niên., (2è Année,3è Année Primarie Supérieur) đã thi ra làm thầy Thông ở các công sở như Thương chánh, Kho bạc, Bưu điện, Kiểm lâm, hoặc làm trợ giáo.
Một số ít con nhà khá giả mới học thi bằng Thành Chung (cũng gọi tắt là thi Diplôme).
Lúc mới mở các học đường thì chính người Pháp bày ra việc rước các cậu tuyển sanh và tú tài tân khoa, sau đó vài ba năm họ bỏ lệ ấy. Nhưng ông Bá hộ muốn khoe khoang, nên tự ý tổ chức riêng việc rước con trai của ông mới thi đỗ ở Huế. Cậu Tú mặc áo gấm, mang giầy hạ, đội mũ trắng, ngồi trong chiếc cáng. Có phường nhạc bát-âm và cờ xí loè-loẹt, chuông trống vang lừng. Đám rước phải đi gần mười cây số và đi thật chậm, để cho dân chúng các làng, các tổng ở khắp nơi kéo nhau đi coi mặt "thầy Tú vinh qui".
Về nhà, ông bá hộ tổ chức một buổi tạ ơn Chúa và tạ ơn Đức Mẹ tại nhà thờ Đạo trong tổng. Các cha sở và gần trăm bà con họ Đạo tham gia. Xong rồi ông giết ba con bò và năm con heo khao đãi dân làng và quan khách liên tiếp ba ngày đêm.
Tiếng đồn gần đồn xa, đến đỗi bọn ăn mày ở khắp tỉnh có đến năm, sáu chục người, già trẻ,lớn bé, đàn ông đàn bà xách bị, chống gậy, bưng nồi, bưng thúng, tổ chức thành một đoàn kéo đến ngồi chật cả sân ông bá hộ để xin một bửa ăn khao mừng thấy Tú tân khoa.
Còn những bà con của thầy Tú, họ nội, họ ngoại, xa lắc xa lơ từ mấy đời cũng lần lượt về mừng "cậu Tú nó", "anh Tú nó"... Kẻ vuốt ve, người ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi không hết lời. Thi đỗ bằng Trung học về làng, chàng thanh niên 1923 vẫn còn được trọng vọng như một vị anh hùng của xóm làng, huyện, tổng.
Quan Tuần, quan Phủ, có con gái lớn 15, 16 tuổi, cũng lăm le muốn gã con cho thầy Tú tân khoa. Thôi thì mai mối tấp nập. Nhiều cô gái trong tỉnh hồi hộp ước muốn làm cô Tú.
Tết năm ấy, làng sở tại có tổ chức một cuộc chơi Bài Chòi, sáng Mồng Một thầy Tú đước mời đến ngồi ghế tràng kỷ với các vị bô lão.
Tuấn-em đi xem về, thèm thuồng, hỏi anh nó:
- Anh Hai, anh cũng đỗ thành chung trước người ta sao anh không làm lễ rước tân khoa?
Phán Tuấn mỉm cười:
- Ở đời, có người thích thế này, có người thích thế khác. Chừng nào em học giỏi, thi đỗ, em có muốn được đón rước như thế không?
- Không, em bắt chước anh Hai. Anh Hai làm sao, em làm theo vậy.
CHƯƠNG 22 
1923
- Hội "Như Tây du học" của các quan
- Thanh niên Nam Trung Bắc du học ngoại quốc từ năm 1900 đến 1930
- Con gái Quan Thượng Thư đi du học ở Paris về, lấy tên Tây, ghê tởm nước mắm, và không biết cầm đũa ăn cơm.
- Con vua bằng đồng, mừng lễ Tứ tuần Vua Khải Định "Đại Nam Hoàng Đế"
- 20 thanh niên khiêng con voi ra Huế
- Cả tỉnh chỉ có 4 cô nữ sinh lớp Nhất, học chung với con trai.
- Cô học trò 16 tuổi, xưng "con" với Thầy giáo 20 tuổi.
- Phụ nữ đứng đắn ở Bắc chỉ mặc quần đen để phân biệt với bọn gái điếm quần trắng
- Y phục phụ nữ Bắc - Trung - Nam.
Các quan Thượng Thư của triều đình Huế nhận thấy rằng các trường Sơ học, Tiểu học và Cao đẳng tiểu học (#1) ở khắp ba kỳ, và ngay đến cả trường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, chỉ đào tạo các thanh niên trí thức vừa đủ khả năng làm việc cho nha hành chánh thuộc địa trong xứ, chứ không thể học lên cao được nữa, bèn lập ra một hội tên là "Như Tây Du Học Hội" để tuyển lựa một số thanh niên học sinh, cấp học bổng cho đi du học bên Tây. Cũng như ngày nay chính phủ cấp học bổng cho một số học sinh du học hải ngoại vậy.
Dưới thời thực dân phong kiến, những thanh niên được may mắn xuất ngoại đều là con cháu của các cụ Thượng Thư các Bộ, hoặc trong gia đình bên nội hay bên ngoại. Hoặc là con của các Quan Tổng Đốc, Tuần Phủ, có thần thế "có chưn trong chưn ngoài", nhờ các cụ Thượng-thơ và các quan Tây gửi gấm, hoạ may mới được đi Tây học. Các "ông lớn" đã giàu có, phần nhiều con cháu của các ông lại học kém thua con nhà bình dân, trung lưu, nhưng họ vẫn được cấp học bổng đầy đủ, có khi dư dã, để sang Pháp học.
Họ học về văn minh tiến bộ thì ít mà học cách ăn chơi xa xí thì nhiều. Ấy là nguyên nhân cho ta hiểu vì sao cùng một lúc thanh niên Nhật và Ấn Độ du học bên Âu Tây mà khi thành tài sau mấy năm chuyên cần học hỏi, họ đem về tất cả những khả năng kỹ thuật mới lạ, những bí quyết văn minh khoa học để mở mang kinh tế, kỹ thuật của xứ sở họ, không kém thua các nước Tây phương bao nhiêu. Còn du học sinh An-Nam đi Tây năm sáu năm trời, chỉ đem về một mớ kiến thức đủ làm công cho người Pháp ở thuộc địa mà thôi.
Người ta có thể đếm trên đốt ngón tay số thanh niên An-Nam đi du học bên Pháp "thành tài" trở về quê hương trong thời gian từ 1900 đến 1930, cả ba kỳ, Nam, Trung, Bắc. Vài ba ông kỷ sư Cầu Cống, kỹ sư Canh Nông, theo dân Tây, lấy vợ Đầm, hoặc chủ trương một đường lối chính trị úp mở, vì quyền lợi cá nhân hơn là quyền lợi Tổ Quốc, Dân Tộc. Một số Bác sĩ Y khoa, năm bảy ông Tiến sĩ Luật khoa, vài ba ông Cử nhân, Tiến sĩ văn chương.
Người ta không thấy những ông ấy làm được một việc gì ích quốc lợi dân cả. Họ không để lại được một thành tích gì vẻ vang cho xứ sở. Trừ ra một nhóm vài ba sinh viên ở Nam kỳ đi Tây về hoạt động Cách Mạng, gây ra phong trào sôi nổi, chứng tỏ tinh thần quật khởi của Dân Tộc, còn thì bao nhiêu sinh viên khác chỉ lo Vinh Thân Phì Gia, chẳng góp được một phần xây dựng nào cho xã hội đang vươn lên với văn minh thế giới. Hầu hết thế hệ thanh niên "Như Tây Du Học" của thời Pháp thuộc, chẳng đem về cho Đất Nước một tiến bộ nào xứng đáng.
Trái lại, người ta đã thấy biết bao nhiêu những điều lố lăng nhục nhã cho đám thanh niên du học ở Pháp về nước, phần nhiều là VONG BỔN.
Một buổi sáng thứ Hai, niên khóa 1924-24, Tuấn-em ngồi học trong lớp Nhất, giờ luận Pháp văn, do chính ông Đốc học Phạm văn Mỗ dạy. Bỗng anh cai trường đứng ngoài cửa lớp, lễ phép nói với ông Đốc:
- Dạ bẩm quan, có cậu Ấm con trai cụ Tuần-vũ, đi Tây về, đến thăm quan .
Ông Đốc học ỷ mình là cựu sinh viên trường Cao đẳng Đông Dương Hà Nội, và hiện làm quan Đốc học tại tỉnh, một bậc thượng lưu trí thức nào có kém ai, nên ông tỏ vẻ ganh ghét cậu Ấm, con quan Tuần-vũ, học bên Tây về đã chắc gì hơn ông. Nhưng không lẽ không tiếp, ông bảo người cai trường:
- Cho người ta vào.
Trò Tuấn thấy một chàng thanh niên mặc đồ Tây, tóc chải láng mướt, mang giầy tây đen bóng, không kém gì ông Đốc đeo nơ đen dính vào cổ áo sơ mi dài kín cổ, còn cậu Ấm đi Tây về lại mặc áo sơ mi hở cổ và đeo chiếc cà-vạt (cravate) nơi giữa ngực.
Ông Đốc chào bằng tiếng Tây:
- Bonjour!
Cậu Ấm mỉm cười vồn vã chào lại cũng bằng tiếng Tâ:
- Bonjour, Monsieur le Directeur... Je suis enchanté de faire votre connaissance...
(Tôi hân hạnh được làm quen với ông)
Ông Đốc gật đầu vài cái:
- Moi aussi (tôi cũng thế). Qu est ce-que vous avez fait en France? (anh đã làm gì ở bên Pháp?)
Hình như câu hỏi này làm chột dạ cậu Ấm con quan Tuần, nhưng cậu cũng loè lại ông Đốc :
- J ai été dans une Ecole Supérieure à Paris.
(Tôi đã học trong một trường Cao đẳng ở Ba-Lê)
- Oui, mais... qu avez-vous comme diplôme?
(Ừ, nhưng mà... anh đã đỗ bằng cấp gì?)
- Je suis ingénieur de canne à sucre.
(Tôi là kỹ sư mía).
Ông Đốc cười ngạo nghễ. "Kỹ sư Mía" là kỹ sư quái gì? Làm gì có trường Cao Đẳng Kỹ Sư Mía ở Paris?
Thế rồi ông Đốc cắt ngang câu chuyện:
- Bon, je vous remercie de votre visite. Je n ai pas le temps de vous recevoir plus longuement, je regrette.
(Thôi, được rồi, tôi cám ơn cậu đến thăm tôi. Tôi không có thì giờ tiếp chuyện lâu, tôi rất tiếc).
Hai người gật đầu chào nhau, rồi cậu Ấm Kỹ sư Mía cầm ba-toong đi ra. Cậu vừa ra đến sân, thì ông Đốc nói với học trò :
- Cái thằng ấy đeo cravate theo kiểu lãng mạn Pháp hồi thế kỷ mười chín. Nó nói nó đỗ kỹ sư Mía là nó nói láo. Tao nghe quan Công Sứ nói rằng cha nó là quan Tuần-vũ đang xin xỏ với Triều đình An-nam cho nó làm Tri-huyện.
Tuấn về nhà học lại với anh nó câu chuyện cậu Ấm con quan Tuần đến lớp học thăm quan Đốc. Phán Tuấn cười bảo:
- Anh chàng ấy có đến thăm ông Sứ, và nhờ ông Sứ tiến cử cho một chổ làm. Ông Tuần cũng có "vận động" với ông Sứ và ông Phó Sứ nhưng ông Sứ bảo anh rằng cậu ta không đỗ bằng cấp gì cả, chỉ biết nhảy đầm là giỏi. Có lẽ ông Sứ sẽ viết thư ra toà Khâm, đề cử cậu Ấm làm sở Mật-thám ở Huế.
Cũng năm ấy, trò Tuấn nghe người ta đồn có cô con gái lớn của một quan Thượng-thơ ở Huế, nhưng quê quán tỉnh nhà, đi du học bên Tây cũng vừa về. Ở Pháp, cô đã nhập tịch dân Tây, 22 tuổi chưa có chồng, và lấy tên tây là Anna.
Vì ở cùng làng, nên trò Tuấn tò mò muốn đến xem mặt. Trưa, tối, hoặc chủ nhật và thứ năm, nghỉ học, Tuấn thường chạy tới dinh cụ Thượng-thư xen lẫn với đám con nít kéo vào nhà bếp cụ Thượng để xem mặt cô Anna. Tuấn thấy sao, về học lại hết cho cha mẹ và anh Hai của nó nghe.
Nó bảo :
- Cô Tỳ-Ty (tên hồi còn ở nhà) mới qua Tây có ba năm mà bây giờ về nhà, cô ăn cơm không được. Mẹ ơi, bà cụ phải mua bánh tây cho cô ăn. Cô cầm đũa theo kiểu An-nam mình cũng không được nữa, anh Hai à!
Thím Ba vừa nhai trầu, vừa cười, hỏi:
- Con thấy cổ ăn bằng gì?
- Cô cầm cái gì mà Tây gọi là cái fourchette đó, với con dao tây. Cổ cắt bánh tây theo kiểu tây mẹ à!
- Bánh tây là bánh gì? Nó ra sao?
- Là bánh mì đó. Tây gọi là pain.
- À, "panh" là bánh đó hả? Cổ cắt bánh theo kiểu tây là cắt cách sao?
- Cổ cầm con dao cắt ngược từ ngoài cắt vô, từ dưới cắt lên, chứ không phải như An-nam mình từ trong cắt ra, từ trên cắt xuống dưới.
- Cổ ăn bánh tây với gì?
- Bà vú Hai dọn cơm có chén nước mắm, cổ la om sòm, cổ bịt mủi, nói cái này thúi, cổ không chịu được, cổ hất chén nước mắm ra ngoài sân. Cổ ăn toàn đồ tây, mua tận ngoài Huế, đem về mẹ ơi!
Ông Ba, (tức là chú Ba thợ mộc) hồi Phán Tuấn còn đi học, hỏi Phán Tuấn:
- Cô Hai đi Tây học đỗ tiến sĩ chưa con?
- Con có xem hồ sơ của cổ ở toà Sứ, cổ thi đậu Brevet Supérieur. Bằng cấp ấy ở bên ta không có. Đỗ bằng ầy sẽ được làm giáo sư dạy trường Quốc Học Huế.
- Nếu con đi tây, thì con cũng đỗ bằng ấy chứ gì?
- Dạ, nhưng nhà mình nghèo, mình chịu thấp kém hơn họ. Nhờ cổ là con quan thượng thơ, nên cổ là người con gái đầu tiên được nhà nước cho học bổng du học bên Pháp, đỗ bằng Brevet Supérieur, và làm giáo sư dạy collège. Nhưng bây giờ cổ là dân tây, chớ không phải An-nam nữa, cho nên cổ theo nếp sống của người Tây...
Nghe người ta đồn cô Anna, con gái quan Thượng thư đi du học ở bên Pháp có 3 năm mà về nước đã quên hết "tiếng An-nam", Phán Tuấn không tin. Nhưng hàng ngày, Phán Tuấn được bà con trong tỉnh nói lại - những người đã được nghe rõ ràng cô Hai "nói tiếng Tây như Đầm" và quên hết "tiếng An-nam" - Tuấn định chờ một cơ hội gặp cô Anna để xem lời đồn đãi của thiên hạ đúng thật hay không?
Một buổi sáng thứ hai, Tuấn đang ngồi làm việc nơi bàn giấy toà Sứ, thì cô Anna bước vào. Tuấn lễ phép đứng dậy:
- Chào cô, cô đến có chuyện chi?
Cô Đầm An-nam trố mắt ngó Tuấn, hỏi lại bằng tiếng tây:
- Qu est ce-que vous dites?
(Anh nói cái gì?)
Tuấn điềm nhiên hỏi:
- Thưa cô, cô muốn gặp ai?
- Voulez-vous parler Francais? Je ne comprend pas l Annamite.
(Anh hãy nói tiếng Tây cho tôi nghe. Tôi không hiểu tiếng An Nam).
Tuấn cười:
- Ah! Pardon! Vous êtes Francaise?
(À!..xin lổi cô, cô là người Pháp?)
- Oui, je veux voir monsieur le Resident.
(Phải, và tôi muốn gặp Quan Sứ).
Một giờ sau, cô Anna ra về, ông Sứ gọi Phán Tuấn vào văn phòng của ông, và khen cô Anna nói tiếng Pháp y như giọng một cô Đầm ở Paris ông thuật lại cho Tuấn nghe lời cô Anna vừa mét với ông rằng lúc nãy cô mới đến nghe Tuấn nói "tiếng An-nam", cô không hiểu gì cả... Rồi ông Sứ hỏi Tuấn :
- Quả thật cô Anna quên hết tiếng An Nam rồi sau?
- Dạ, chính cô ấy cũng vừa nói với tôi như thế.
Ông Sứ ngồi trầm ngâm một lát, rồi nhún vai, nhìn Tuấn:
- Tôi không hiểu cô gái Annam sinh trưởng ở đất Annam từ nhỏ cho đến 19 tuổi, sang Pháp chỉ ở có ba năm, lúc trở về không nói được tiếng mẹ đẻ của nó nữa, chuyện ấy làm cho tôi ngạc nhiên lắm. Anh có hiểu ra làm sao không?
- Dạ không.
- Có hai lẽ, một là tiếng an-na-mít là một thứ tiếng rất tồi, hai là cô Anna là một người An-na-mít rất tồi.
Để kết luận, ông Sứ cười hỏi Tuấn:
- Còn anh Tuấn, khi anh nói tiếng Pháp với tôi, anh có quên tiếng an-na-mít không?
Tuấn mỉm cười, xấu hổ, không trả lời.
Năm 1923, các quan Annam ở tỉnh Q. điều khiển một con voi bằng đồng, để gửi ra Huế dâng lên vua Khải Định trong dịp Tứ-tuần của ông vua này.
Nơi đúc là khu vườn hoang của Kho tỉnh, ngay trước trường học, phía bên kia đường cái, sau một bức tường dài vuông vức bao bọc chung quanh Kho.
Tuấn-em, cũng như số đông học trò, mê xem công việc này lắm. Buổi sáng, buổi chiều, Tuấn-em thường đến thật sớm trước giờ học, và trong các giờ chơi, Tuấn rủ một bọn học trò cùng lớp, chạy qua Kho để xem đúc tượng voi.
Không biết các đồ đồng lấy ở đâu mà nhiều thế! Nồi đồng, mâm đồng, chảo đồng, lư đồng, bỏ vào bốn năm cái chảo lớn, nấu thường xuyên trên một đống củi cháy hừng-hưc, suốt mười ngày đêm, cho đến khi đồng chảy ra để đỗ vào khuôn. Khuôn voi bằng đất sét, do một ngươi thợ hồ Việt Nam xây lên, giống hình con voi, nhưng không đẹp tí nào cả: chân cẳng, thân hình, đầu và đuôi, đều thẳng cứng, cái vòi cũng chỉa ra ngay đơ, hai tai thì nhỏ, cái bụng thì bự. Tuấn-em tò mò hỏi mấy người thợ đúc, mới biết rằng các đồ đồng dùng nấu để đúc tượng voi là do các làng xã thâu nhặt của dân chúng, theo lịnh quan tỉnh và các quan phủ, huyện. Sự thực thì các quan thâu góp của dân nhiều đồ đồng lắm, nhiều gấp ba, gấp bốn số đồng để đúc tượng voi, nhưng các quan lớn lấy bớt một phần, các quan nhỏ lấy một phần. Còn lại bao nhiêu đút trong kho để đúc tượng, có lính lệ canh giữ. Một đêm tối trời, một chị đàn bà ăn ở gần đây lẻn lấy trộm được một chiếc nồi đồng bị bắt quả tang. Lính dẩn chị qua dinh Quan Án, quan truyền lịnh đánh chị mười roi, rồi đem giam bên nhà Lao.
Tượng voi đúc một tháng mới xong, và phải đúc đi đúc lại ba lần, vì hai lần bị hỏng. Lần thứ nhất con voi không có vòi, vì đồng chảy không đều. Lần thứ hai có vòi, hai ngà, bốn chân, có cả đuôi lớn bằng chiếc đủa, nhưng trên đầu con voi bị sứt một cái tai, nên quan Tuần truyền lịnh đúc lại. Lần thứ ba này, các người thợ phải nấu một nồi xôi, mua một nãi chuối, một bình rượu và đèn hương, cùng cái miểu thờ Thổ thần nơi góc vườn Kho.
Tuấn-em có tính tò mò, cái gì cũng muốn coi, chuyện gì cũng muốn biết, cho nên nó chạy theo ông thợ Cả cúng thần. Nó lễ phép vòng tay đứng dựa vào cột miếu, nghe ông thợ cả khấn vái như sau đây:
- Con được lệnh của quan Tuần-vũ khuya nay phải đúc cho xong tượng voi đồng để kịp ngày đưa ra Huế dâng lên Đức Đại Nam Hoàng Đế, để mừng lễ khánh thọ Tứ-tuần của Hoàng đế. Vậy con lại xin Thổ- địa linh thần gia hộ cho con đúc tượng voi được hoàn thành, viên mãn, kẻo có tội với Đại Nam Hoàng đế.
Cúng lạy xong, ông thợ lấy hai đồng tiền kẽm, một mặt tiền bôi vôi, một mặt không, khẻ thả rõi hai đồng tiền xuống mặt đia sành để gieo quẻ, xem Thổ-thần có ưng thuận và chứng minh cho không? Nếu tiền rơi xuống đĩa một đồng ngửa (có bôi vôi) và một đồng xấp (không có vôi) tức là Thần bằng lòng. Nếu trái lại cả hai đồng tiền đều ngửa hết hoặc sấp hết, tức là Thần nhất định phá phách việc đúc tượng voi đồng dâng lên vua Khải định.
Chẳng may, khi ông thợ cả gieo quẻ thì cả hai đồng tiền đều nằm sấp.
Gieo lại lần thứ hai, hai đồng tiền đều ngửa. Gieo lần thứ ba, hai đồng tiền nhảy tung ra ngoài đĩa, rớt xuống đất.
Ông thợ cả rầu rĩ muốn khóc lên được. Theo lệ gieo quẻ, quá lắm là ba lần, được hay không cũng thôi, chứ không ai gieo lần thứ tư. Ông thợ Cả nhất định xin quẻ lần thứ tư và lạy lục Thổ thần thiếu điều gãy xương sống. Lạy xong, ông cầm cây đèn nến, cúi xuống soi kiếm hai đồng tiền, nhưng chúng văng vào khe tường nào, hay nấp trốn trong bụi cỏ, lùm cây nào, ông và bốn ngườì thợ đúc lụi cụi tìm mãi không ra. Các ông thợ đành bưng xôi, chuối và cầm bình rượu đi.
Ông thợ Cả lẩm bẩm nói với bốn anh thợ phụ của ông:
- Cái ông Thần Thổ địa này cứng đầu cứng cổ thật. Tượng voi đúc để dâng lên vua, mà ổng cứ theo phá phách mãi, đó là phạm tội khi quân, chứ không phải giởn à!
Rốt cuộc cái tượng voi cũng đúc xong nội trong đêm ấy. Con voi không đẹp, nhưng cũng may không bị sứt vòi, sứt tai chi cả, xem cũng ra vẻ con voi!
Rồi các bạn có biết, con voi đồng ấy phải chở đi bằng cách nào không từ tỉnh ra Huế? Quan An-nam truyền lệnh thợ mộc đóng một cái củi to tướng bằng gỗ, kín mít chung quanh, để đựng con voi. Rồi các làng sở tại phải bắt 40 thanh niên, họp thành hai đoàn, mỗi đoàn 20 thanh niên thay phiên nhau mà khiêng món quà kết -xù ấy đi bộ ra đến Huế!
Hôm lễ Tứ-tuần cuả Khải Định, ông vua chê cái tượng voi xấu-ỉnh. Xấu là tại nó bằng đồng. Giả sử nó bằng vàng thì dù cho nó sức đuôi mẻ vòi, chắc "Đức Đại Nam Hoàng đế" cũng khoái chí tử!
Tuy vậy, các quan An-nam chủ tỉnh cũng được vua ban cho một số tiền để thưởng cho mấy "thằng thợ đúc".
Nhưng mấy "thằng thợ đúc" có được hưởng đồng tiền của vua hay không. Tuấn-em không biết. Còn 40 cậu thanh niên lực lưỡng khiêng con voi đồng từ tỉnh ra đến kinh đô để mừng vua hưởng thọ 40 tuổi, thì phải đem tiền nhà theo để xài. Hết tiền, bốn cậu ở lại đất thần kinh làm nghề cu-li xe kéo cho các quan, còn 36 cậu đưọc đi xe lửa về đến Tou-Ranh (Đà Nẵng), rồi từ Tou-ranh đi bộ về tỉnh, trên mấy trăm cây số.
Niên khóa 1923-1924, Tuấn -em đã học lớp Nhất. Trường nữ học chỉ có đến lớp Nhì, và ở cách biệt trường Nam. Cả tỉnh, lần đầu tiên mới có 4 cô nữ sinh học lớp Nhất, cho nên phải học chung với tụi con trai ở trường Nam. Bốn cô cùng dãy ghế đầu trong lớp, ngay nơi cửa vào: cô Dư, cô Ánh Tuyết, cô Yến Tuyết, cô Tỷ. Tuấn-em ngồi dãy ghế thứ hai, sau lưng cô Nguyễn thị Dư. Cùng một dãy ghế với Tuấn, có Hường, Ái, Tế. Tế là con một quan Phủ nên có vẻ làm nghiêm, còn Hường, Aí, Tuấn, thì chính ba cậu không ngồi dẫy ghế này, vì họ thích ngồi ở phía sau, ở cuối lớp, để thỉnh thoảng lén thầy, ăn kẹo hay lánh mặt trong những hôm không thuộc bài. Nhưng tại vì hôm nhập học trong lớp Nhất có 40 trò con trai, trò nào cung mắc cở không chịu ngồi gần các cô con gái, thành ra dãy sau lưng 4 cô gái bị bỏ trống.
Thấy thế, thầy giáo bèn lôi cổ ba thằng tinh-nghịch nhất chui trốn ở cuối lớp, đem chúng nó lên ngồi dãy ghế thứ hai, sau lưng mấy cô. Tuấn-em, Hường, Ai ngoan ngoãn tuân lịnh thầy, nhưng trò nào cũng mắc cỡ, đỏ mặt tía tai.
Tuổi trung bình của học trò lớp Nhất năm ấy là 14 đến 15 tuổi ta. Đấy là đứa học sinh lớn nhất trong tỉnh. Thế hệ mới, có nhiều triển vọng nhất. Về việc học, có thể nói rằng tất cả đều chăm chỉ, và học trò cũng học thuộc bài, và cố gắng làm bài để khỏi bị thầy cho zéro. Đối với toàn thể học sinh, sự lười biếng, không thuộc bài bị thầy phạt là một cái nhục lớn. Nói đúng ra, bạn bè không ai chê cười mình nếu thầy gọi lên bảng đen, mình trả bài không xuôi, bị ăn trứng gà, nhưng mình tự xấu hổ với lương tâm của mình vì cả lớp đều học thuộc bài.
Về hạnh kiểm, thí dụ có tiếng là tinh nghịch nhất như Tuấn-em, Hường, Aí, cũng chỉ là tinh nghịch đùa dỡn với bạn bè mà thôi, chứ đối với thầy giáo, cả với thầy giáo lớp khác, học trò không bao giờ dám vô lễ, hỗn láo, xấc xược. Có thể nói rằng, học sinh của thế hệ 1920-1940 còn giữ được nề nếp nho phong của học trò chữ Hán, theo đúng phương châm "Tiên Học Lễ nhi Hậu Học Văn".
Có điểm đáng chú trọng, là học sinh lớp Nhất vẫn chưa biết gì về chuyện "yêu đương" như một số thanh niên ngày nay. Trái lại, hầu hết hình như là "sợ" con gái, và học trò trai ở lớp Nhất vẫn goị 4 cô nữ sinh cùng lớp bằng "chị" mặc dầu cùng lứa tuổi.
Gần Tết bỗng dưng có một thầy giáo mới đổi tới dạy riêng về Pháp-văn cho lớp Nhất. Thầy này người Huế, vừa mới đỗ "diplôme", còn trẻ măng, tuổi chừng 18, 19. Thầy đẹp trai, thường mặc áo xuyến đen, quần thật trắng, và ủi thật phẳng nếp, có vẻ bảnh bao lắm . Thầy hiền lành nhưng Tuấn-em để ý thầy không bao giờ dám ngó bốn cô nữ sinh, và thầy không khi nào gọi bốn cô nữ sinh lên bảng trả bài. Mỗi lần thầy vào lớp, mặt thầy tự nhiên đỏ bừng. Thầy bẽn-lẽn ra chiều bối rối. Để giữ uy quyền của nhà mô phạm, thầy làm nghiêm với học trò con trai, không bao giờ thầy cười hay nói đùa một câu với học trò. Ấy thế mà 4 cô nữ sinh lại sợ thầy như sợ cọp! Một lần, trong kỳ thi lục cá nguyệt, buộc lòng thầy gọi các cô lên bảng để thi bài khẩu vấn. Cô Dư bối rối không trả lời được.
Thầy nghiêm trang hỏi:
- Cô không học bài?
Cô vừa run vừa đáp:
- Dạ thưa thầy, con có học, nhưng tự nhiên con quên.
Học trò trai bụm miệng, không dám cười to, học trò gái cúi đầu lấy quyển vở che mặt. Thầy giáo không hề nhếch môi. Thầy nói tiếng Pháp đuổi cô Dư về chổ vì cô không thuộc bài văn phạm:
- Allez-vous-en! Vous ne savez pas votre leçon de grammaire.
(Không thuộc bài. Về chỗ)
Rồi thầy tặng cô con zéro tròn vo trong sổ điểm.
Lúc ra về, Tuấn-em theo sau cô Dư, nghe cô thút-thít.
Mặc dầu có nghiêng chiếc nón bài thơ để che mặt. Tuấn cũng thấy cô thỉnh thoảng lấy tà áo dài trắng đưa lên lau mấy giòng nước mắt lặng lẽ tuôn trên đôi má hồng đào...
Các cô đều 16 tuổi, nhưng xác đã lớn, và vẫn xưng "con" với thầy giáo 18,19 tuổi, vì kính trọng thầy . Nói cho công bằng, không phải riêng thầy giáo trẻ này là làm nghiêm với các cô học trò lớp Nhất, mà tất cả các thầy giáo đều nghiêm. Tất cả bốn cô sợ thầy, chính vì thầy là Thầy Giáo.
Có điều nên nói để khen tặng các cô nữ sinh thuở ấy: "tuy là sợ thầy nhưng các cô vẫn kính mến thầy, chớ không phải thù ghét." Trước khi nghỉ hè, thầy giáo trai trẻ được lệnh đổi đi tỉnh khác, học trò lớp Nhất kéo nhau đến nhà thăm thầy để chào tiễn biệt. Bốn cô cùng đến với đám học trò trai. Thầy tiếp niềm nở, hôm ấy thầy rất dễ thương - và khi thầy nói mấy lời từ giã, bốn cô đều cảm động, rưng rưng hai ngấn lệ. Chính cô Dư đại diện cho ba cô bạn, thưa với thầy:
- Thưa thầy, chúng con xin kính chúc thầy lên đường bình an mạnh giỏi...
Thầy khẽ cúi đầu đáp lễ. Hôm ấy, lần đầu tiên Tuấn-em cảm thấy quý mến bốn cô bạn gái cùng lớp. Tuấn hối hận vì suốt cả năm Tuấn chuyên môn phá phách các cô. Nào là trong giờ chơi, Tuấn ra sân trường tìm bắt những con cóc, con nhái, con trùn, để lẻn vào lớp bỏ trong cạt-táp các cô. Nào là bỏ cục phấn trong bình mực tím của cô Dư hay cô Ánh Tuyết.
Ba đứa học trò nghịch nhất trong lớp, lại là ba đứa vào hạng học khá nhất, Hường vẫn đứng đầu, hoặc đứng thứ hai, thứ ba, trong bảng sắp hạng hàng tháng. Ái và Tuấn cũng thế. Có lẽ nhờ học khá, nên mấy trò trai tinh nghịch này vẫn được mấy cô bạn gái mến hơn cả. Tình bạn ngây thơ, vô tội, của đám học sinh thời bấy giờ không có hậu ý gì vẩn vơ, bậy bạ.
Tôi đã nói tuổi 16, 17 của thế hệ 1920-1924, chưa biết tí gì về "yêu đương", "mơ mộng". Tâm hồn thanh thiếu niên hãy còn trong sạch, chưa bị tiêm nhiễm, chưa bị cám dỗ, chưa bệnh hoạn, suy đồi.
Chỉ có một lần, một câu chuyện "trai gái" của học trò bị đổ bể, làm xôn xao cả trường. Thủ phạm chính là trò A. ở lớp Nhất. Nữ đồng lõa là cô H. con một nhà buôn bán ở phố cửa Tây, mới 16 tuổi. Nhà hai cô cậu này gần nhau. Không biết hai đứa làm quen với nhau hồi nào, mà một đêm, mẹ cô H., vô tình bắt gặp con gái của mình trò chuyện nhỏ to với cậu học trò. Bà lôi cổ con gái về nhà, đánh một trận nhừ tử. Bà lại sang mét với gia đình trò A. Trò A cũng bị một trận đòn nên thân. Hôm sau cả trường đều biết vụ ấy. Toàn thể học sinh đều coi A là một đứa "học trò xấu-xa" và chế nhạo nó. A lại bị thầy giáo mắng, và bị Ông Đốc trừng phạt gắt gao.
Thế là câu chuyện "trai gái" của cặp thiếu niên chưa đâu vào đâu đã bị chấm dứt ngay sau khi chàng bị phạt quỳ gối trong hai tiếng đồng hồ trong cửa lớp học.
Thế hệ thanh niên 1920-1925 không chú trọng đến vấn đề tình ái cá nhân và không dùng những danh từ "yêu đương", "ái tình", "tình yêu". Ở miền Trung và miền Nam chỉ gọi là "trai gái" với nhau, hay là "phải lòng nhau", thường bị coi như làm một việc tội lỗi, không tốt đẹp, và bị chê cười.
Một thanh niên Việt Nam trong những năm 1920-1925 không bao giờ viết thư cho con gái với những câu "anh yêu em". Họ chỉ viết lén lút "tôi thương cô", đã là quá lắm rồi. Ba chữ rất tầm thường đó đã đã chứa đựng bao nhiêu... mê ly!
Tìm trên các tờ báo văn nghệ cách đây 35 năm, chưa hề thấy đăng những bài thơ loại "anh yêu em", "em yêu anh", "nhớ nhung", "nhung nhớ" tràn ngập như ngày nay.
Nhưng nói rằng thời bấy giờ thanh niên không biết yêu, lại cũng không đúng, thanh niên nào mà không biết yêu? Chỉ có khác là tình yêu kín đáo, dè dặt, nghĩa là tế nhị hơn. Không bồng bột sôi nổi, không bộc lộ công khai và không trơ trẻn.
Tình yêu trước đây 30 năm, cũng được gìn giữ kín nhẹm như y phục của thiếu nữ không bộc lộ ranh mãnh, không nửa kín nửa hở, và cũng không khiêu khích. Con gái ở các đô thị xa-hoa Saigon, Hà Nội, Huế... may mặc bằng hàng lụa sang đẹp, nhưng vẫn kín đáo, e-ấp như các cô thôn nữ.
Cô Dư, cô Ánh Tuyết, cô Tạ thị Tỷ, đều là con nhà giàu hoặc con nhà quan. Các cô thuộc giới "văn minh" nhất trong tỉnh và trong xứ. Đến trường, các cô mặc y phục trắng, đen hoặc tím. Chỉ những ngày chủ nhật, hoặc đi đâu, các cô mới mặc màu xanh, màu hồng. Tuấn không thấy bao giờ các cô mặc áo đỏ chói, hay màu vàng. Ngày Tết hay các ngày lễ các cô mặc áo gấm, quần sa-tanh mang giầy thêu cườm.
Ở Bắc Việt, phụ nữ mới bắt đầu mặc quần trắng vào khoảng năm 1930 trở về sau. Trước 1930, các bà, các cô đứng đắn mặc toàn quần đen.
Về nữ trang, các cô thường đeo kiềng vàng trơn (đi học cũng đeo kiềng) và hoa tai vàng. Không bao giờ đeo nhẫn, trừ khi đã có chồng. Các cô đã để răng trắng và tóc quấn trần theo kiểu Huế. Ở Bắc, vấn tóc trong khăn nhung đen, Ở Nam, để búi tóc sau ót.
Cổ áo cao một phân, tà áo dài xuống vừa đến đầu gối (ở Trung); hoặc trên đầu gối 1 phân (ở Nam): hoặc dưới đầu gối 1 phân (ở Bắc), các cô Hà nội mặc quần ống rộng, ở Huế và các tỉnh miền Trung ống vừa, ở Saigon và Lục tỉnh ống chật hơn, độ hai phân tây . Giày cao gót xuất hiện tại Hà nội và Saigon khoảng năm 1935, nhưng để riêng cho các thiếu nữ đã trưởng thành, theo phép xã giao tân tiến của Âu Mỹ. Nữ sinh các trường và các thiếu nữ dướí 21 tuổi không bao giờ mang giày cao gót.
CHƯƠNG 23
1924
- Một ông Quan tỉnh tặng ông Sứ Tây sắp về nghỉ phép ở Pháp một chiếc xe kéo và cả người cu-li để về Pháp ông xử dụng.
- Vua Khải Định có ý đem theo một chiếc xe kéo sơn son thếp vàng qua Pháp để Vua ngự du trong kỳ Hội Chợ Thuộc địa ở Marseilles.
- Công chức dùng "đồng hồ trái quít" đeo trên túi áo. Chưa có đồng hồ đeo tay.
- Phong trào đi xe máy bắt đầu thịnh hành. Lần đầu tiên thanh niên tập đi xe máy
- Một bài "Dictée" (chánh tả) thi Tiểu-học Pháp-Việt.
- Một kỳ thi vấn đáp : 100 quan tiền 6 cô (San Francisco)
- Bức trướng tặng Thầy trước khi từ giã mái trường, và 10 năm sau.
- Tình bạn giữa đôi nam nữ học sinh.
Năm 1924, ở các thủ đô các tỉnh An Nam đã bắt đầu xuất hiện khá nhiều những món nhật dụng mà trước đây một vài năm còn rất hiếm hoi. Các thầy Thông, thầy Ký đã sắm xe máy (ngoài Bắc: xe đạp), mà hầu hết là xe hiệu Hirondelle (chim én) do hãng Manifactures d Armes et de Cycles de Saint Etienne ở Pháp sản xuất.
Saint Etienne là tỉnh lỵ của tỉnh Loire, ở phía Nam thành phố Lyon cách không xa, là nơi sản xuất nhiều nhất các dụng cụ máy móc về sắt và thép, Tuấn-em để ý thấy hầu hết các đồ dùng văn minh mới lạ, đẹp và bền của người An nam lúc bấy giờ đều có ghi sản xuất là Saint Etienne. Cho đến nổi dụng cụ học sinh: bút chì, ngòi bút, quyển vở, tẩy, compas, équerre, double décimètre v.v... Cũng đều gởi mua tận bên Pháp, ở Saint Etienne . Cách gởi duy nhất là bằng tàu thủy, ba tháng hàng mới về. Lúc bấy giờ chưa có đường hàng không nào nối liền các xứ Đông Dương và Pháp.
Xe đạp do Pháp quốc gởi qua đã nhiều, và luôn luôn là các thầy Thông, thầy Ký có trước. Tuy nhiên, vì mới lạ nên nó vẫn được người chủ nó quý chuộng, nâng niu săn sóc, lắm khi còn hơn đứa con cưng.
Thầy Thông Hồ ở cạnh nhà Tuấn, làm việc ở sở Kiểm Lâm, bắt chước các thầy khác thuê thợ mộc đóng một cái kệ để gác chiếc xe đạp của thầy. Đường đi từ nhà thầy đến sở, quanh co, gồ ghề (đường phố trong tỉnh chưa tráng nhựa) thầy đạp đi rất chậm, sợ hư bánh xe. Đi làm về thầy xuống xe nhè-nhẹ, rồi hai tay nâng chiếc xe lên kệ gỗ. Nghe thầy bấm chuông leng-keng, tức thì vợ thầy, cô Thông Hồ, còn trẻ và đẹp, cầm một nùi giẻ ra lau chùi chiếc xe, từ cặp niềng cho đến bàn đạp. Nhờ hai vợ chồng gìn giữ chiếc xe cẩn thận như thế, mà bốn năm sau, Tuấn thấy chiếc xe của thầy vẫn láng mướt, còn mới tinh như lúc mới mu. Thời bấy giờ không có nạn ăn cắp xe nên xe không khóa, và không cần khóa. Đa số các thầy Ký đều có đóng kệ để gác xe như thầy Hồ, và gia đình nào sắm được chiếc xe máy cũng hãnh diện đôi chút, như ngày nay những người làm việc ít tiền ráng dành dụm sắm chiếc deux - chevaux...
Nhất là ở thôn quê, xe đạp được coi như là biểu hiện của văn minh tiến bộ. Các nhà thi sĩ ở Trung và Nam kỳ đã đặt cho nó biệt hiệu vinh dự là "con ngựa Sắt" cũng như bên Pháp lúc chiếc xe đạp mới ra đời được công chúng suy tôn là "La petite Reine" (Tiểu Hoàng Hậu). Một người đạp xe máy chạy trên đường làng, bóp chuông leng-keng... leng-keng, thế là con nít từ dưới các mái nhà tranh chạy nhao nháo ra ngõ đứng xem.
Mấy cậu học trò đi coi mắt vợ ở làng xa, cứ đi xe đạp đến nhà gái là được các cô thôn nữ ưng ý liền. Trai trong làng không biết đi xe máy, và biết bao giờ họ mới sắm được chiếc xe máy? Các câụ học trò ở tỉnh, ở huyện, ngồi trên yên xe còn oai hơn là ông Nghè ngồi trên yên ngựa vinh quy bái tổ hồi xưa, nghĩa là cách đây chưa quá 30 năm.
Tuy nhiên, chỉ có thầy Thông, thầy Ký làm việc được ít lương, các nhà buôn bán, tư chức, và học trò là thích đi xe đạp.
Hầu hết các thầy Phán làm được lương cao, và các thầy Trợ giáo lại thích đi bộ. Vì theo quan niệm của các thầy lúc bấy giờ ngồi trên yên xe máy và khom lưng đạp lia liạ cho xe chạy, là mất vẻ đạo mạo, đứng đắn. Cho nên nếu dư tiền, thì các thầy sắm xe kéo nhà, ngồi bệ vệ trong xe để cho người "cu-li" kéo. Nếu ít tiền (như đa số) thà đi bộ, với một lũ học trò năm bảy đứa cung kính đi theo sau, còn oai hơn, và thanh nhã hơn.
Xe đạp, tuy là văn minh, là tiện lợi, nhưng ngay từ lúc mới nhập cảng sang xứ ta, nó đã bị coi như là một loại xe bình dân, mà những người trưởng giả không thích dùng. Vả lại mấy thầy mặc tòan là quốc phục, áo dài đen quần vải quyến hoặc lụa trắng, chưn mang giầy Hạ, mà đi xe đạp thật là bất tiện. Phải kẹp ống quần để nó khỏi vướng vào giây chaîne, phải kéo tà áo ra phía trước và nhét nó vào lưng quần để nó khỏi thòng xuống garde-boue, phải kéo cả tà áo trước lên cao quá đầu gối, để nó khỏi bị dính dầu mỡ nơi giây chaine, tất cả ngần ấy chuyện đã là rắc rối, mà xem bộ tịch của thầy như thế kia lại không còn vẻ gì oai vệ như nhà mô phạm nữa. Trông chẳng hơn nào chú lính lệ cho quan Tuần, quan Án.
Chính vì những lý do danh dự ấy mà đa số các thầy Trợ giáo cũng như các thầy Thông, thầy Phán làm việc ở các sở các tòa đều không ưa đi xe đạp.
Riêng Phán Tuấn lại nghĩ khác. Tuấn là "quan Phán đầu tòa", cao nhất trong các ngạch công-chức An-nam toàn tỉnh, và là quan Phán được cụ Sứ tin cậy nhất, nên uy tín còn có khi hơn cả các quan An-nam, nhưng Tuấn lại ghét những gì quan cách, những "trưởng giả học làm sang". Tuấn đã nhất định không sắm xe kéo nhà. Có lần ông già của Tuấn hỏi tại sao, Tuấn bảo:
- Con là thanh niên, con ngồi trên xe để cho một người gìa cả khom lưng kéo như trâu, như ngựa, con không đành lòng.
- Mấy thầy vẫn ngồi xe kéo đó thì sao?
- Tại mấy thầy không nghe ông Sứ nói...
- Ông Sứ nói sao?
- Một hôm con hỏi ổng bên Pháp có xe kéo không, ông Sứ trả lời rằng: "Người Pháp đã văn minh lắm, ở Pháp một con người là một con người, chứ không phải là một con ngựa". Nghe thế là con hiểu ý ổng chê người "An-nam" mình còn dã man, con người mà đi kéo xe như con ngựa. Cho nên con nhất định không đi xe kéo.
- Vậy sao ông Sứ vẫn thường ngồi xe kéo, do người lính An-nam kéo!
- Ông Tây thấy người cu-li An-nam kéo xe như ngựa thì ổng ngại gì mà không ngồi xe cho An-nam kéo, như mấy ông quan An-nam và những người An-nam khác.
Một lần trước, ông Tuần-vũ nghe tin ông Sứ sắp về Pháp nghỉ 6 tháng, ông Tuần đến thăm, và nói muốn tặng quan lớn một chiếc xe kéo mới tinh, và cho một người lính lệ theo hầu Quan Lớn để về Paris thằng lính nó kéo xe cho quan lớn đi chơi, thì ông Sứ cười sặc sụa và cảm ơn ông Tuần: "Quan Lớn có lòng tốt, tôi rất cảm động nhưng nếu dân chúng ở Paris thấy một người ngồi trên xe do một người khác kéo, thì họ sẽ cho rằng cả hai người là hai thằng điên... Vì thế nên khi Hoàng Đế Khải Định sắp sang Pháp dự cuộc đấu xảo ở Marseilles, Ngài tỏ ý với quan Khâm Sứ rằng Ngài muốn đem theo một chiếc xe kéo của Ngài, sơn son thếp vàng thật đẹp, để lúc sang bên Pháp, lính An-nam sẽ kéo Ngài đi xem thành phố, thì quan Khâm Sứ liền kính cẩn khuyên Ngài đừng nên thực hiện ý định ấy..."
Năm 1924, tại các tỉnh miền Trung, xe kéo bánh sắt vẫn còn. Nhưng bánh cao su đã thay thế bánh sắt khá nhiều. Xe bánh sắt chỉ có hạng ít tiền đi thôi. Ở các tỉnh thành lớn cứ độ 10 xe kéo bánh cao su cũng còn 2,3 xe bánh sắt.
Đồng hồ, thì tất cả các thầy Thông, thầy Ký, thầy Giáo đều có. Vì sự bắt buộc phải có đồng hồ để làm việc đúng giờ, nên mặc dầu đắt giá, các thầy cũng ráng sắm mỗi người một chiếc. Nhưng năm 1924, đồng hồ đeo tay chưa có nhiều. Chỉ được thông dụng loại đồng hồ bỏ túi, gọi là "đồng hồ trái quít", tuy hình thức nó không phải tròn vo như trái quít, mà tròn dẹp, có sợi giây và cái khoen để đeo vào khuy áo.
Tuấn-em, cũng như tất cả học trò lớn ở trường tỉnh, đều ao ước được xe máy. Phán Tuấn có mua một chiếc, ngày hai buổi đạp đi đạp về, rất tiện lợi. Buổi tối chàng tập cho Tuấn-em đi. Hai đêm đầu, Tuấn-em cứ ngã luôn, có lần té vấp một bụi duối bị gai cào trầy cả mặt mũi. Nhưng đêm thứ ba, trò Tuấn đã đi được một mình, khỏi phải nhờ anh đỡ cái yên chạy theo sau. Từ đấy, cứ buổi trưa, mặc dầu nóng oi-ả, trò Tuấn cứ lấy xe máy của anh đạp chạy một vòng quanh các phố. Buổi trưa, các thành phố đều im lặng, không náo nhiệt như ngày nay. Trừ tiếng chuông xe máy và "lục lạc" xe kéo, không có tiếng ồn ào khác. Xe hơi vẫn còn ít, ít lắm. Trừ đôi ba chiếc của quan Tây, còn thì quan An-nam vẫn thích ngồi xe nhà, thường thường là xe sơn đen, bóng loáng, hoặc sơn đỏ sẩm, màu rượu bordeaux. Cũng còn nhiều ông quan An-nam đi xe song mã.
Tư gia không ai dùng xe hơi. Nhà giàu không dám sắm, sợ các quan ghen ghét. Nhất là Hoa-kiều, vì hầu hết các nhà buôn lớn nhất ở các tỉnh đều là của "các chú", họ dư sức sắm xe hơi, nhưng họ sợ các "quan An-nam" ghét nên họ cứ đi xe đạp, hay là xe kéo. Đi xa thì họ đi xe đò STACA.
STACA là "Société des Transports Automobiles de Centre Annam", một hãng chuyên chở bằng xe hơi của người Pháp, mà ta có thể nói là hãng xe đò độc quyền lúc bấy giờ chạy từ Tourane (Đà Nẵng) vào Nha Trang và ngược lại.
Mổi ngày chỉ có một chuyến duy nhất từ Tourane vào và một chuyến từ Nha Trang ra, gặp nhau khoảng 12 giờ trưa trước cổng nhà giây thép Quảng Ngãi.
Xe chở thư tín giao thông hàng ngày, một loại xe "car" không quá 10 chổ ngồi. Nghĩa là mỗi ngày từ miền ngoài vào miền trong, hay từ miệt trong ra ngoài không quá 10 hành khách, hầu hết là khách sang, hoặc nhà buôn lớn.
Trò Tuấn cứ khoảng 12 giờ trưa là thích đến vườn hoa trước cổng nhà giây thép để coi hai chiếc xe thơ staca gặp nhau tại đây. Ngừng độ một tiếng đồng hồ, rồi bỗng nhiên một chiếc rồ máy, xịt khói, bay hơi, chạy. Nó chạy vùn vụt ra miền Bắc. Chiếc thứ hai cũng rồ máy, xịt khói, bay hơi, chạy bon bon vào hướng Nam, bụi và khói tỏa mịt mù hai bên hàng phố. Trò Tuấn xem mê và cứ nghĩ thầm: "Biết bao giờ mình mới được đi trên chiếc xe điện này xem ra sao nhỉ? Ồ... biết bao giờ?".
Riêng gì trò Tuấn! Hầu hết người "Annam" ở các tỉnh đã mấy ai được đi xe hơi. Mặc dầu là xe thơ (người ta vẫn bảo là xe chở thơ của nhà nước), nó vẫn còn hiếm hoi, mỗi ngày chỉ một chuyến chạy ra, một chuyến chạy vào, ngoài ra không còn xe hơi nào khác nữa.
Nhưng đến năm 1924, đã bắt đầu có vài ba chiếc xe khác, gọi là xe "cam nhông"
(camions) của người An -nam làm chủ. Các loại xe đò này không phải là xe Thơ, chỉ chuyên chở hành khách và hàng hóa tư nhân. Xe cam nhông chạy không có giờ phút nhất định, muốn ngừng đâu thì ngừng, hành khách đông nghẹt, ngồi ép với nhau chật ních, không có trật tự đàng hoàng như trong xe thơ Staca.
Lần này, Tuấn-em được mãn nguyện. Cậu học trò tinh nghịch và tò mò hạng nhất, đã biết đi xe máy, muốn trèo lên xe hơi, thì bây giờ đã có dịp được lần đầu tiên ngồi trên xe hơi... Dịp ấy, là cuối tháng năm 1924, sắp sửa nhập học niên khóa 1924-1925 tại Quy Nhơn. Trò Tuấn đã thi đỗ bằng "Ri-me" cuối niên khóa 1923-1924 ở Quảng - Ngãi.
Hãy xin nói trước về kỳ thi Tiểu học của Tuấn, thiếu niên nước Việt, năm 1924.
Tuấn thuộc hạng học giỏi nhất lớp. Kỳ thi cuối niên khóa trong lớp Tuấn đứng hạng thứ 2, và được phần thưởng danh dự, thế mà thi bằng "Ri-me" cậu lại đỗ hạng bét. Và đỗ được là nhờ thầy trợ-giáo đứng ngoài " thổi " dùm cho.
Bài Dictée (chánh tả), Tuấn còn nhớ vài đoạn đầu như sau đây:
Les Norias de Quảng-Ngãi,
Aucun spectacle de la province ne renseigne mieux sur l esprit ingénieux du paysan d Annam, et ne cause pareille surprise aux yeux curieux du voyageur,
Accouplées par demi douzaines, elles atteignent parfaites, ces norias géantes, une hauteur de dix mètres v.v...
Bài dài hơn nửa trang giấy thi, đầy những mẹo văn phạm lắt-léo khó khăn đại khái như đoạn trên, nhưng Tuấn chỉ bị 2 lỗi.
Hết giờ ra về, Tuấn đọc lại nguyên vẹn bài dictée cho thầy giáo nghe, thầy mừng rỡ khen Tuấn rối-rít, nhưng thầy căn dặn Tuấn về môn thi Toán, Thầy chỉ sợ Tuấn hỏng Toán, vì Tuấn dở Toán nhất lớp. Quả nhiên, hôm thi Toán, chép xong hai đề toán trên giấy thi, Tuấn ngồi rưng rưng nước mắt, sắp khóc to lên. Toán thế này thì có nước trừ chữ "T" ra, còn lại chữ "oán", cộng với chữ "ai" ở trước là tìm ra lời giải?!
Mà ai- oán thật! Hai đề thi toán "Problèmes d Arithmétique", đọc đi đọc lại ba bốn lượt, Tuấn vẫn thấy bí kinh khủng! Liếc mắt nhìn qua những dãy bàn kế cận, Tuấn thấy hầu hết các trò khác đều đã bắt đầu làm bài ngay trong giấy thi, không cần làm nháp ở ngoài. Sao tụi nó làm dễ dàng, mau lẹ thế nhỉ? Sao tụi nó giỏi toán thế nhỉ? Trò Tuấn tệ quá, chỉ một mình trò là cùi, cùi thật là cùi, ngồi ngó hai đề toán mà mồ hôi chảy toát ra cả người, mặt mày choáng váng. Tuấn muốn té xỉu xuống, chết giấc luôn.
Nhưng ông Trời thương hại mấy học trò dốt toán, nên bổng dưng lúc bấy giờ có một người chết ở nhà thương gần trường học, và đám ma từ trong bệnh viện đi ra, tiến thẳng Cửa Đông, theo con đường dài ngay sau sân trường... Tiếng ai kêu khóc thật là ai oán thê lương!... Ông giám khảo đủng đỉnh bước ra đứng nơi cửa sổ, nhìn xem đám ma, quay lưng vào lớp thí sinh. Thừa dịp tốt hiếm có, trò Tuấn lẹ làng nghiêng đầu... thằng bạn giỏi toán ngồi nơi mút bàn (mỗi bàn chỉ có 3 thí sinh, Tuấn ngồi ngay giữa). Tuấn nói thầm với bạn: "tao không làm được một bài nào cả, mầy ơi!". Thằng bạn thật quả có lòng tốt. Lạy trời, ban phước đức cho nó. Nó nháp lia lịa bài toán thứ nhất và lời giải đáp trên một mảnh giấy, rồi lén lút đút ngay dưới bàn cho Tuấn. Trò Tuấn mừng như thể chết đi sống lại, vồ lấy miếng giấy nhanh như chớp, và chỉ có việc chép lại sạch sẽ vào trang giấy thi bài nháp làm phước của thằng bạn giàu lòng bác ái.
Tuấn chép xong, vò viên mảnh giấy bỏ vào miệng nhai rồi nuốt cái "ực" vào trong bao tử. Đám ma phía sau trường cũng vừa qua khỏi. Tuấn vái thầm: "Xin cầu chúc cho hương hồn ông bà nào chết đó được tiêu diêu miền Cực Lạc!". Nhưng ông giám khảo cũng vừa quay mặt vào và đi thẳng đến bàn Tuấn. Ông đứng ngay đối diện Tuấn, nghiêm khắc chỉ vào mặt trò: "Mầy vừa bỏ cái gì vào mồm?"
- Dạ thưa thầy, con không có gì bỏ vào mồm cả.
- Tao đứng nơi cửa sổ, tuy tao quay lưng vô lớp nhưng tao nhìn trong cửa kiếng, thấy rõ ràng hết, mầy đừng chối.
Tuấn gần luýnh huýnh, nhưng cố cứu vãn tình hình:
- Thưa thầy... con xin... há miệng cho thầy coi.
Nói xong nó làm liền. Tuấn há miệng ra, cái miệng còn hôi sặc mùi cháo lòng mà nó đã ăn vội vàng hồi sáng sớm trước khi đến trường, chưa kịp uống nước.
Ông giám khảo phì cười, nhưng xách tai nó đau điếng:
- Attention à toi, hein! (mày liệu hồn nhé!)
Từ phút đó, ông giám khảo cứ liếc mắt rình mò trò Tuấn, Tuấn cắm đầu xuống bàn, giả vờ chăm chỉ làm bài Toán thứ hai. Nhưng chốc chốc trò lại gãi đầu (sao hôm nay cái đầu nó hay ngứa thế?) Rồi rốt cuộc trống trường đánh ba tiếng, hết giờ thi Toán.
Tuấn nhanh nhẩu nộp bài trước hết thảy mọi người, nhưng trò chỉ "làm" được một bài thứ nhất thôi. Bài thứ hai, Tuấn chịu "forfait", bỏ giấy trắng. Nhờ đám ma đi qua, Tuấn làm trúng một bài, nhưng không biết trong lúc vội vàng Tuấn chép sai lời giải thế nào mà chỉ được 1/2 điểm. Tuy thế, nhờ các môn Việt văn và Pháp văn cứu vớt, Tuấn vẫn đậu "écrit " (thi viết), được vào "oral" (thi vấn đáp).
Trước giờ thi vấn đáp, thầy trợ giáo gặp Tuấn trên sân trường, hỏi Tuấn:
- Con đã thuộc hết các bài Sử Ký, Địa Dư chưa?
Tuấn trả lời ấp úng:
- Dạ, thưa thầy, con thuộc hết... Nhưng lỡ họ hỏi con câu nào con "bí" thì con phải làm sao?
- Thì ăn trứng vịt, chớ sao!
- Thầy làm cách nào "thổi" cho con...?
Thầy trợ giáo cười:
- Tuấn muốn thầy ở tù hả?
Thầy trợ giáo hồi hộp lo ngại, khi Tuấn vào lớp thi vấn đáp. Ông giám khảo là người Tây, tên là Paul Rivière. Ông này dữ lắm, hay bắt bí học trò, hỏi những câu trẹo họng.
Nhờ ông có giọng nói ồ ồ, vang cả lớp, nên thầy trợ giáo đứng ngoài sân trường nghe rõ các câu hỏi. Ông hỏi trò Tuấn hai câu rồi, Tuấn trả lời trôi chảy, đến câu thứ ba về Địa Dư:
- Trò hãy kể tên 5 thành phố lớn nhất của nước Huê-Kỳ?
Ở nhà Tuấn đã học thuộc lòng 5 tên thành phố ấy rồi, nhưng vào đây Tuấn chỉ kể được 4:
- Washington, New York, Chicago, Philadelphia...
Còn một thành phố nữa, Tuấn quên mất. Bổng Tuấn nghe ngoài sân tiếng một đứa học trò la lớn :
- "Một trăm quan tiền, sáu cô", mầy ơi!
Tuấn sực nhớ ngay vừa lúc ông giám khảo lặp lại câu hỏi:
- Còn một thành phố nữa tên gì?
- San Francisco. (San Francisco có thể phiên âm ra tiếng Pháp là cent franc six...)
- Giỏi!
Ông Tây cho Tuấn 10 điểm.
Ra sân trường, thầy Trợ giáo cười, cho Tuấn biết là thầy phải bảo một đứa học trò lớp Ba reo lên câu nói mánh lới trên kia để giúp trí nhớ của Tuấn.
Thế là Tuấn đậu bằng "Ri-me" năm ấy, nhờ tiếng kèn ai oán thê lương đưa một vong linh về thế giới của Phật A-di- đà... và nhờ một trăm quan tiền sáu cô của thầy Trợ giáo đứng mặc cả ngoài sân trường.
Phải nói rằng câu "học tài thi phận" họa chăng có áp dụng được hồi thi chữ Nho, chứ trong thời kỳ thi chữ Tây chỉ có thể là một lời an uỉ tạm bợ mà thôi.
Vì theo thời ấy, hể học giỏi, thông suốt hết chương trình thì tất nhiên đi thi phải đậu. Thi hỏng, là tại học không thuộc bài. Học trò dở, nếu không có môn nào trội hơn để cứu vớt các môn kém, thì nhất định là "trợt vỏ chuối".
Đấy là không kể một vài trường hợp hy hữu mà học trò thừa lúc giám khảo vô ý, lén lút "gà" cho nhau, như trường hợp trò Tuấn. Ngoại giả, việc thi cử thời Tây rất nghiêm ngặt. Không bao giờ các đề thi bị tiết lộ ra ngoài dù là thi Tiểu học, Trung học hay Tú tài. Chưa bao giờ xảy ra một vụ bán đề thi, từ 30, 40 nghìn đồng đến 100,200 nghìn đồng.
Không có sự gian lận của các thí sinh thi mướn với sự đồng lõa im lặng của giám khảo. Không có những vụ con em của một số hiệu trưởng, giám khảo, giáo học, học dốt mà thi đậu - nhiều khi đậu cao - còn học trò ngoài học giỏi hơn, trội hẵn mà lại thi rớt.
Trong các kỳ thi thời trước, bất cứ là thi gì, sự may rủi đã là ít có rồi, sự gian lận lại còn khó khăn hơn. Nói chi đến chuyện ăn tiền, “đút lót, “nhờ cậy“,”gởi gấm“, thật hoàn toàn không có, và không thể có.
Dù là con em ông giám khảo, ông Đốc học hay là con cháu ông Tổng Đốc, ông Thượng Thư, ông Sứ, ông Khâm, hễ học giỏi là nhất định đỗ, học kém là phải rớt, không có đút lót được ai cả, không gởi gấm cách nào được cả.
Bạn của Tuấn-em, sau này cùng Tuấn đi thi Tú-tài ở Hà Nội, có một số đông là con cháu của các vị quan to lớn có uy quyền, và thế lực biết bao. Họ quen thân với các ông giám sư, ăn uống tiệc tùng với các vị giám khảo, thế mà con cháu của họ thi hai ba lần đều hỏng cả, chỉ vì quanh năm chúng ăn chơi phè phởn, nhẩy đầm, nghiện rượu, say mê tình ái, không lo học hành.
Tuấn thi Tú-tài cũng hỏng hai khóa, vì một lần làm sai bài toán Hình-học, một lần không thuộc bài Vật-lý học, chứ không phải vì “học tài thi phận“. Những bạn của Tuấn đỗ trước Tuấn một hai năm, đều là học giỏi hơn Tuấn về các môn đó, chứ không phải nhờ đút lót tiền cho các ông giám khảo, hoặc nhờ gởi gấm cho ai.
CHƯƠNG 24 
Năm 1924, cả tỉnh chỉ có một trường Tiểu học duy nhất của Nhà Nước, không có một tư thục nào. Cả trường Tiểu học, chỉ có một lớp Nhất. Trong lớp chỉ có 40 học trò, thi đậu được 21, rớt 19. Riêng trong số 4 chị ngồi bàn đầu, có hai chị thi trợt vỏ dưa . Kết qủa ấy chứng tỏ rằng thi cử đã bắt đầu gắt gao, và thí sinh cần phải có một căn bản vững chắc mới hy vọng có tên trên "bảng vàng".
Đậu hay rớt, thi xong rồi toàn thể học sinh đều phải đi học một tuần lễ nữa, vì còn một tuần lễ nữa mới thật là mãn niên khóa. Phát phần thưởng cuối năm học, xong rồi mới chính thức bắt đầu nghỉ Hè.
Những học trò thi "Primaires" rớt, dù có hơi mắc cỡ với bạn bè, cũng ráng tiếp tục đi học cho hết mấy ngày cuối niên khóa, vì còn hy vọng được ông Đốc cho học lại một năm nữa. Trừ vài ba trò, vì lý do gia đình, hoặc vì lớn tuổi phải thôi học, buồn rầu từ giã mái học đường để về quê làm ruộng, hoặc đi buôn bán. Mấy trò thi đậu đáng lẽ được nghỉ chơi thỏa thích, nhưng ông Đốc vẫn bắt buộc phải cắp vở đến trường như thường lệ, tuy chỉ còn 7 ngày nữa là nghỉ hè. Tất cả đều phải tuân lệnh, vì tụi thi đỗ sợ rằng nếu khiếm diện mấy ngày ấy sẽ bị Ông Đốc cho chứng chỉ xấu rồi không được thi vào trường “Collège Quốc Học“ ở Huế hoặc "Collège Complémentaire" ở Quy Nhơn.
Nói đúng ra, mấy ngày cuối năm, có học hành gì nữa đâu! Các học trò thi rớt thì vô lớp ngồi rầu rĩ tỉ tê, chán cho đến nỗi một con ruồi bay đậu trên chóp mũi các trò cũng không buồn lấy tay xua đuổi. Ngày trước thi rớt không có nạn tự tử . Chỉ có sự cố gắng thêm để thi đậu khóa sau. Nhưng trông thấymột chị thi rớt ngồi trong lớp khóc sướt mướt vì bị bài Dictée 7 lỗi. Tuấn trong lòng nao nao, thấy lòng rung cảm, thương xót người bạn gái đau khổ. Buổi trưa Tuấn đến nhà bạn an uỉ “Đừng khóc nữa chị Tuyết. Chị giỏi Toán, sang năm chị ráng học thêm các môn thế nào chị cũng đậu". Tuyết đã 17 tuổi, sợ cha mẹ không cho đi học nữa. Nhưng năm sau Tuyết thi đỗ hạng ba, và được học trường Nữ Trung Học Đồng Khánh - Huế.
Các trò thi đậu thì dĩ nhiên sung sướng, vui vẻ, bàn tán không ngớt chuyện đi Quy Nhơn hay đi Huế. Trò nào trò nấy mặt tươi rói, miệng cười không ngớt. Phần thì được các Thầy khen ngợi, các bạn thèm thuồng, trìu mến, phần thì được cha mẹ cưng, muốn ăn gì cha mẹ cũng mua cho ăn, muốn mặc áo quần đẹp cha mẹ cũng sắm cho, lại được họ hàng, làng xóm o bế, nâng niu…
Câu chuyện thằng Tuấn-em đã thi đỗ "Ri-me" chỉ trong một buổi sớm cả tỉnh cả làng đều biết.
Mấy ngày cuối niên học, thầy giáo dạy ít mà nói chuyện nhiều. Lớp học tạm vui không đến nổi buồn tẻ lắm.
Nhưng khổ nhất là giờ tập thể thao (gymnastique).
Huấn luyện viên là một ông đội và ba người lính Khố xanh do bên đồn Lính Tập đưa sang. Họ tập thể thao cho học trò mà gắt gao không khác nào tập lính. Họ lại hô toàn những tiếng "bồi" khiến học trò không thể nào nín cười được.
Họ hét thật to, bảo:
- Đứng ngay thẳng: Ga-ra-vu!
Bảo:
- Bước đi, một hai… một hai… một hai…
 -An-na-văng mạc!… Ấc đơ… ấc đơ… ấc đơ…
- Xoay bên phải: a oách… oách…
Trò Bông nghe "a oách… oách …" liền cười to lên, bị thầy đội đến đánh một bạt tay nẩy lửa . Các trò khác liền chạy lại níu thầy đội và sừng sộ hỏi: "Sao thầy đánh nó" .
Một trò lớn nhất toan đánh lại thầy đội để trả thù cho bạn, nhưng cả lớp cùng bảo nhau: "Đừng đánh ổng, mà cũng đừng thèm tập nữa . Tụi mình vào thưa với Quan Đốc. Mấy lớp dưới, từ lớp Nhì A, Nhì B đến lớp Năm, đều một loạt bắt chước lớp Nhất, tức giận không tập thể thao nữa mặc dầu không có ai xúi giục cả. Ông Đốc đã về nhà, chỉ còn lại một thầy trợ và anh tùy phái.
Thầy trợ vội vàng chạy đến nhà quan Đốc học để tường trình mọi việc. Một lát sau, quan Đốc đi xe kéo nhà đến, nét mặt hầm hầm, gọi trò B, người gây chuyện, đến trước mặt ông. Ông đã không bênh vực danh dự học đường lại còn đánh B một bạt tay nữa. Toàn thể học sinh đều uất ức, nhưng không dám nói gì, oai danh hung hăng của quan Đốc học đã từng làm đám học trò và cả thầy giáo khiếp đởm nhiều phen.
Nhưng đây là buổi tập thể thao cuối cùng trong niên khóa. Năm sau môn thể dục do chính các thầy phụ trách huấn luyện học trò.
21 trò đậu “Ri-me" tự ý rủ nhau hùn tiền thuê thợ thuê một bức trướng tặng thầy làm kỷ niệm trước khi vĩnh biệt nhà trường.
Bức trướng thuê bằng kim tuyến bốn chữ Nho "Ngưởng Chi Như Sơn" (ngước lên nhìn Thầy ơn cao như núi). Bốn chữ này do ông Tú Phong đặt giùm cho và chính tay ông Tú viết, nét chữ tuyệt đẹp. Tại tỉnh không có thợ thuê, nên học trò phải xuống tận Thu-xà, nơi đây có mấy tiệm thuê của người Bắc Kỳ. Bên trái 4 chữ lớn, có giòng chữ nhỏ: "Quảng Ngãi tỉnh, Pháp Việt học đường, sĩ tử Nguyễn…Lê … Trần… (v.v… tên họ của 21 học trò thi đậu) đồng bái tặng"
Thầy cảm động nhận bức trướng long lanh các mặt kiếng nhỏ, rực rỡ các sắc màu, và thầy treo ngay tại phòng khách của thầy.
Nhưng cảm động hơn nữa là 10 năm sau, Tuấn-em trở lại thăm thầy, vẫn còn thấy nơi phòng khách gió phất phơ trìu mến bức trướng xưa, tuy hàng vãi đã nhạt màu, các viền trướng đã rách xác xơ, màu kim tuyến đã đen, mấy mặt kiếng đã vỡ nát hoặc đã rơi mất cả.
Toàn thể học trò lớp Nhất cũng chung tiền nhau lại mỗi trò góp 5 xu, để thuê thợ ảnh đến chụp với Thầy một bức ảnh lớn, ngoài sân trường để làm kỷ niệm. Thầy ngồi ghế giữa, hàng đầu, mặc áo xuyến đen, đầu chít khăn đen, chân mang giầy bốt tin, trông thầy thật đạo mạo. Trò Tuấn cặp vào nách một chiếc mũ trắng, tay cầm mấy quyển sách, mặc áo dài đen, mang guốc, đứng tít ngoài bìa, vì tuy nghịch ngợm nhất lớp, nhưng lại phải cái tính nhút nhát, vào chỗ đông người thì ưa đứng ngoài xa.
Cuộc chụp hình này đánh dấu buổi học cuối cùng niên khóa, thầy trò đều vui vẻ.
Sáng hôm sau, bắt đầu nghỉ Hè, Tuấn được cha mẹ cho phép tắm sông với một lũ bạn gần mười đứa đến nhà Tuấn rủ đi. Đứa nào cũng ôm theo một gói quần áo bẩn để ra song giặt, và một cục xà bông Marseilles là loại xà bông duy nhất được thông dụng lúc bấy giờ khắp từ tỉnh đến quê.
Mẹ Tuấn căn dặn:
- Con tắm trong cạn, đừng ra ngoài chỗ sông sâu, nghe con? Con coi chừng kẻo ma-da níu cẳng chết đấy!
Cũng như hầu hết con nít lúc bấy giờ - cả người lớn nữa - nghe nói đến ”ma-da“ là Tuấn sợ hết hồn. Lúc tắm sông, Tuấn vẫn nhớ lời mẹ dặn, chỉ lội quanh quẩn trong cạn, chổ nước trong, nhìn thấy rõ lớp cát và sỏi dưới đáy sông. Tuấn theo bắt một bầy cá lia thia con, đưa hai tai hứng bầy cá đang bơi tung tăng trong nước, nhưng hễ sắp bắt được cá thì cá lại thoát ra ngoài, rất nhanh. Tuấn đuổi theo ra xa xa một chút. Cứ như thế, Tuấn vô ý đi từ trong cạn ra đến chổ sông sâu, mực nước lên đến gần cổ. Bổng Tuấn dẫm dưới chân một vật gì nhơn nhớt, hoảng hốt la lên:
- Ma da níu tao! Ma da níu tao! Cứu tao với, tụi bây ơi!
Tuấn sụp xuống chỗ nước hơi sâu, bị giòng nước cuốn mạnh, Tuấn la khóc ần ỉ: ”Ma da bắt tao!“. Trò Diển, lớn tuổi và biết bơi, vội vàng bơi ra kịp, nắm tay Tuấn ì-ạch lôi vào. Diển kéo Tuấn chạy lẽ lên bờ, cùng lúc tất cả mấy đứa học trò đang tắm đều hoảng hốt chạy toán loạn. Tuấn nín khóc, lượm ba bốn cục đá quăng mạng xuống sông, và la lên với vẻ mặt giận dữ: ”Mẹ cha con ma da, tao ném cho mầy bể đầu. Mầy giỏi lên đây bắt tao? "Con ma-da biến đâu mất, không thấy nó thó đầu lên. Nhưng tụi học trò vẫn còn hơi sợ sợ, ôm áo quần còn ướt kéo nhau đi về hết.
Tuấn-em bị mẹ rầy một mẻ nên thân. Buổi trưa, đi làm ở Tòa Sứ về, Phán Tuấn nghe Tuấn-em mét: ”Anh Hai ơi, sáng nay em đi tắm sông, suýt bị con ma-da bắt. Nó níu chân em rồi, nhưng có trò Diễn bơi ra kéo em thoát chết.
Phán Tuấn cười bảo: ”Không có ma-da đâu em". Phán Tuấn giảng cho em nghe. Dù sao, mẹ Tuấn cũng vội vàng đi thắp hương đèn trên bàn thờ ông bà và cúng vái tạ ơn ông bà đã cưú cho thằng Tuấn vừa thi đỗ “Ri-me“, khỏi bị chết đuối.
Chiều tối, Tuấn đến nhà Tuyết, thấy Tuyết nằm võng, mặc áo cụt, gác tay trên mặt, khóc thút-thít. Tuấn đến gần võng. Tuyết nghe tiếng guốc bước nhè nhẹ, lấy tay ra, trông thấy Tuấn. Tuấn bảo:
- Sao chị khóc hoài vậy, chị Tuyết? Sang năm chắc chắn chị đậu mà . Chị cứ vui đi!
Tuyết lau nước mắt, ngồi dậy, đứng dựa vào cột nhà:
- Anh thi đỗ, sung sướng, tôi đâu có đỗ mà tôi vui?
- Tôi thấy chị rớt, tôi cũng buồn chứ tôi vui gì? Tôi đến để chào chị, sáng mai tôi về thăm bà ngoại tôi và ở nghỉ Hè trong làng bà ngoại.
Tuyết không nói gì, nhưng òa ra khóc. Nghĩ cũng kỳ! Tuấn-em 16 tuổi và Tuyết 17 tuổi chỉ là đôi bạn cùng lớp. Trong lớp, Tuấn ngồi bàn thứ nhì, ngay sau lưng Tuyết, và thỉnh thoảng Tuyết xoay lại mượn Tuấn một cục tẩy, hoặc cây bút chì màu, hoặc hỏi bài toán, hay một vài chữ Tây khó hiểu. Thế thôi.
Có lần trong giờ chơi, Tuấn lại ra sân bắt một con cóc, rồi thừa lúc bốn chị đi uống nước, Tuấn lẻn vào lớp bỏ con cóc trong cạc-táp của Tuyết, làm trò tinh nghịch để cười chơi. Ấy thế mà không hiểu sao từ hôm Tuyết thi hỏng, ngồi khóc trong lớp, Tuấn tự nhiên thương xót, cứ theo an ủi Tuyết mãi. Còn Tuyết có mến Tuấn hay không, Tuấn đâu có biết? Nhưng thấy Tuấn đến thăm và từ giã Tuyết để hôm sau đi về quê ngoại. Tuyết lại tỉ tê, nỉ non, buồn rười rượi. Tình bạn giữa đôi trai gái học sinh cũng có khi thật cảm động! Tuyết nhìn Tuấn với đôi mắt hiền lành:
- Sao anh không ở tỉnh cho vui?
- Mẹ tôi bảo về nghỉ hè ở nhà bà ngoại cho khỏe-khoắn, để rồi tháng 8 về đây sửa soạn đi Qui-nhơn thi vô Collège.
- Anh ở tỉnh, mỗi buổi sáng anh tới đọc dictée cho tôi viết…
- Mẹ tôi không cho… Hay là để tôi xin anh Hai tôi… Tôi cũng muốn ở tỉnh chứ không muốn về bà ngoại tôi. Tôi nghe mẹ tôi nói ở gần nhà bà ngoại tôi, có nhà ông Hương Cảnh có con gái học lớp Ba trường Huyện, ông Hương muốn gả cô đó cho tôi, nhưng tôi mắc cỡ, tôi đâu có chịu.
Tuyết cúi mặt xuống, hỏi khẽ:
- Sao anh không chịu?
- Tôi muốn ở tỉnh, mỗi buổi sáng đến đọc dictée cho chị viết.
Tuyết bổng dưng vui cười, chạy vào nhà lấy một trái mãng cầu chín đem ra cho Tuấn. Vừa lúc mẹ Tuyết trong nhà đi ra. Tuyết giới thiệu:
- Thưa mẹ, anh Tuấn, học trò lớp con, ảnh mới thi đỗ Primaire đấy.
Mẹ Tuyết cười:
- Mầy học giỏi quá vậy? Con Tuyết, nó thi rớt mấy bữa rày, nó khóc hoài, nó không ăn uống gì hết trọi.
Tuyết khẽ đánh yêu cánh tay mẹ:
- Mẹ cứ nói!
Bà hỏi Tuấn:
- Mầy năm nay mấy tuổi?
- Dạ thưa bác, con 14 tuổi.
- Chu-cha giỏi qúa, 14 tuổi mà đỗ “ri-me” rồi hả!
- Dạ thưa bác, con nhớ lộn, chớ tuổi thiệt của con là 15.
Mẹ Tuyết và Tuyết cười rùm lên. Mẹ Tuyết hỏi:
- Chớ tuổi thiệt của mầy là bao nhiêu mà mầy nhớ lộn?
- Dạ tuổi con 16, mà hồi xin vô học, anh Hai con biểu làm giấy khai sinh rút xuống hai tuôi?, thành ra trong giấy khai sinh con mới 14.
- Mầy con ai ?
- Dạ… bẩm bác, cha con làm thợ mộc. Anh Hai của con đi làm việc nhà nước.
- Anh mầy làm gì?
- Dạ, bẩm bác, anh Hai con là thầy Phán Tuấn làm trong Tòa Sứ.
- Ủa, vậy he? Mầy là em thầy Phán Tuấn he?
- Dạ.
- Hèn chi mầy học giỏi. Ở nhà có thầy Phán dạy thêm cho mầy. Chớ con Tuyết, ổng làm quan Kinh lịch không biết chữ Tây, tao cũng không biết chữ, có ai dạy thêm cho con Tuyết đâu, hèn chi nó thi rớt.
Tuyết quay sang thưa mẹ:
- Con nhờ anh Tuấn mấy tháng nghỉ hè, mỗi buổi đến đọc dictée cho con viết để con tập cho quen, sang năm con thi chắc đỗ.
Mẹ của Tuyết gật đầu, bảo Tuấn:
- Ừ… Mầy tới đọc đít-tê cho nó viết rồi tao may cho mày cái áo cụt để thưởng công cho mầy. Mầy chịu không?
Tuyết vội ngắt lời:
- Ảnh tới đọc dictée dùm cho con, chớ đâu phải ảnh đi làm thuê mà mẹ may áo để trả công cho ảnh?
Nhưng Tuấn cũng vui vẻ đáp:
- Dạ, thưa bác, để con về xin phép cha mẹ của con và anh Hai con…
Kỳ nghỉ hè ấy, Tuấn được gia đình cho ở lại tỉnh, và mỗi sáng, đến giờ ông Kinh-lịch đi làm việc trong dinh cụ Tuần, bà Kinh-lịch đi chợ, hoặc đi đánh bài tứ-sắc, thì Tuấn đội mũ trắng, mang đôi guốc cùn, đến nhà cô Ánh-Tuyết đọc dictée…
Đôi bạn trẻ học chung với nhau, viết dictée, làm toán, vẽ bản đồ Địa dư v.v… và trao đổi cùng nhau những chuyện ngây thơ êm đẹp . Mãi đến 11 giờ Tuấn mới về nhà.
2 tháng rưỡi sau, trước hôm Tuấn lên xe đi Quy Nhơn thi vào Trung học, Tuyết trao tặng Tuấn 10 chiếc khăn “mu-soa” do tự tay Tuyết thêu mỗi góc một chữ T và Tuyết khóc sướt mướt tiễn Tuấn lên đường...
CHƯƠNG 25
1920 - 1924
- Tình hình chính trị tổng quát ở toàn xứ, sau những vụ Phan-xích-Long ở Saigon (1916), vụ Duy Tân ở Huế (1916), vụ Đội Cấn ở Thái Nguyên (1917) và Phạm Hồng Thái ở Sa Điện (1923)
- Những ngày tàn của Nho học.
- Một lớp học chữ Hán sáng thứ Năm.
- Các cụ nhà Nho còn tôn kính "Hoàng - Thượng".
- Một lễ "Bái mạng" trước Hành Cung, có sự chứng kiến của các ông Tây bà Đầm.
- "Văn minh khắp cả hoàn cầu, ông sư cũng cúp cái đầu 3 xu".
- Sinh viên Cao Đẳng Hà Nội đã bắt đầu mặc đồ Tây trước tiên.
- Đá kiện, trò chơi phổ thông nhứt của học sinh
Từ 1920 đến 1924, tình hình chính trị tổng quát ở toàn cõi An-nam có thể gọi là yên ổn. Từ thành thị đến thôn quê, uy quyền của nước Pháp đã được triệt để tôn trọng, địa vị của chính phủ thuộc địa đã vững chắc, không có gì làm lay chuyển được.
Tất cả các cuộc vận động cách mạng trong nước hoặc âm mưu khởi nghĩa, đều đã bị thất bại. Ở Saigon, vụ Phan xích Long đánh phá Khám lớn năm 1916, ở Bắc Kỳ, vụ Đội Cấn và đảng Việt Nam Quang Phục đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên năm 1917, cho đến cả ở Quảng Châu, bên Tàu, vụ Phạm Hồng Thái ném bom ở tô giới Sa Điện toan giết viên Toàn quyền Merlin năm 1923 - không một cuộc hoạt động nào trên kia thành công, và tất cả những nhà ái quốc khởi xướng đều bị đàn áp, bị bắt, bị giết, hoặc bị đày đi xa. Trong toàn xứ An-nam, hình như không còn ai dám rục rịch nổi dậy đánh Tây, hoặc hô hào cách mạng nữa.
Nước Pháp lại vừa thắng nước Đức trong cuộc Thế giới Đại chiến 1914-1918, và cứ hàng năm, đến ngày 11 tháng 11 dương lịch là chính phủ thuộc địa ở Đông Dương tổ chức ngày lễ Chiến Thắng (họ gọi là “Fête de la Victorie") rất long trọng, uy nghi, hùng hổ, vừa để mừng một ngày kỷ niêm vẻ vang nhất của họ, vừa để nhắc nhở cho dân An-nam rằng nước Pháp rất hùng cường, vĩ đại, "văn minh bậc nhất trên tòan cầu". Người dân An-nam lúc bấy giờ cũng nhìn nhận rằng nước Pháp thật là văn minh, hùng cường hơn nước ta trên rất nhiều phương diện.
Phái nhà Nho "từ Tú-tài lên đến Tiến sĩ, Phó Bảng" mà có tinh thần chống Pháp, đã tham gia trực tiếp các phong trào cách mạng từ 1916, thì đã bị giết chết hoặc đi Hải ngoại, phần đông sang Nhật, sang Tàu. Một số bị đày ra Côn Lôn, nhưng lúc mãn hạn tù trở về làng xã, hầu hết là trước 1924, đều lo an thường thủ phận, không hoạt động gì nữa cả. Một số đông các cụ mở trường tư ngay tại nhà dạy chữ Nho và chữ Quốc-ngữ cho một ít học trò nhỏ để vui qua ngày tháng, hoặc làm nghề Đông-Y, xem mạch, bốc thuốc, hoặc chuyên về khoa bói, quẻ Dịch, quẻ Lục nhâm, tử vi, tướng số, v.v…theo các sách Tàu.
Còn phái nhà Nho thụ động, không có tham gia một cuộc hoạt động chính trị nào cả, thì hoàn toàn ngưỡng mộ người Pháp và triệt để ủng hộ chính sách thuộc địa, triệt để trung thành với Hoàng Đế An-nam. Những ông Tú tài có đôi chút thế lực, đem tiền lo lót - không có tiền thì bán đất bán ruộng - để được làm một chức quan nho nhỏ như Đề-lại, Thư-lại. Mấy ông Cử nhân thì được bổ đi Tri Phủ, Tri Huyện, Tri Châu. Một số Tú tài, Cử Nhân khác ở nhà làm ruộng, tham gia vào việc làng xã, hoặc sống một cuộc đời nhàn hạ, uống rượu, ngâm thơ, làm đối, làm liễn dùm cho các người ít học, và được dân làng trọng vọng như một bậc danh nhân ở địa phương.
Tuy từ năm 1919 không còn Thi Hương, Thi Hội nữa, và Nho học đã chính thức bãi bỏ ở toàn xứ An Nam, bị chữ Pháp và chữ Quốc ngữ hoàn toàn thay thế, nhưng chính phủ Nam triều vẫn còn dùng chữ Hán một cách mặc nhiên, người Pháp không ngăn cản. Chữ Nho bị bỏ, chứ không bị cấm. Cho nên, bên Hành Chính Thuộc Địa, các quan Tây thì dùng chữ Pháp; còn bên Hành Chính Nam Triều các quan An-nam vẫn dung toàn chữ Nho. Các giấy tờ, công văn, từ Bộ về Tỉnh, từ Tỉnh về Phủ, Huyện, từ Phủ, Huyện về làng, đến năm 1924 vẫn còn áp dụng chữ Nho. Ngay ở các trường Tiểu học Pháp Việt, mỗi tuần vẫn còn 2 giờ học chữ Nho buổi sáng thứ Năm.
Theo chương trình tiểu học, lớp Nhất cũng như lớp Nhì A, Nhì B, và lớp Ba, đều phải học hai giờ chữ Hán sáng thứ Năm. Thầy dạy chữ Hán cho lớp Nhất của Tuấn học là một ông Tú-Tài, tên là ông Tú Cẩn. Một hôm đang học, bỗng có thanh tra người Pháp, tên là Délétie, ở Huế đi thanh tra các trường đột ngột bước vào lớp học, không báo tin trước cho thầy giáo và học trò biết trước. Ông Tú, khăn đen áo dài đen như thường lệ, đang đứng nơi bảng đen giảng nghĩa bài học về con Hoàng-ngưu (con bò). Ông dạy theo nghĩa từng tiếng một theo lối nhà Nho:
- "Kỳ nhục sở thực, Kỳ nhũ sử ẩm", nghĩa là "Sửa thịt khá ăn, sửa sữa khá uống".
Ông Délétie mà ai cũng biết là giỏi chữ Nho, trố mắt hỏi học trò:
- Các anh có hiểu lời giảng của ông Thầy không?
Dĩ nhiên, học trò chẳng ai hiểu cả . Ông Tây hỏi ông Tú:
- “Sửa thịt khá ăn, sửa sữa khá uống “ là nghĩa làm sao?
- Dạ bẩm quan lớn, kỳ là sửa, nhục là thịt, khả là khá, thực là ăn…kỳ là sửa, nhũ là sữa… ông Tây cười xòa, rồi bỏ lớp đi ra.
Tuy nhiên, các ông Tú, ông Cử cuối cùng của mùa Hán-học đã suy tàn, còn có thể hãnh diện là đã có lần được lĩnh áo mão của Vua ban hồi các ông mới thi đậu, mặc dầu những ngày vinh quang ấy đã khá xa rồi.
Họ còn tôn kính Vua, thờ Vua, và luôn luôn, dù ở trong hương thôn, mỗi khi có dịp gì nói đến Vua, họ đều cung kính suy tôn Hoàng Thượng, hay là “Đức Hoàng Thượng".
Năm 1924, những ngày mừng vua Khải Định được 40 tuổi (lễ Tứ tuần). Tuấn-em có chứng kiến một buổi lễ phi thường, tại "Hành Cung" ở tỉnh. Lễ này được tổ chức khắp tất cả các tỉnh Trung-kỳ và Bắc-kỳ, trừ ra Nam-kỳ là "nhượng địa" của Pháp, không có. Tỉnh nào cũng có một Hành-Cung, là một gian nhà kiến trúc như một Cung điện nhà Vua, phía trước có sân Rồng lát gạch, và một cổng lớn có chạm rồng gọi là "Ngọ Môn".
Theo nguyên tắc, Hành Cung là tượng trưng Cung Điện của Hoàng Đế, khi nào vua đi kinh lý đến tỉnh, sẽ "ngự" nơi đây. Nhưng ít khi Vua đến. Vua ngự trị ở Huế, không bao giờ "Ngự du" đi đâu xa.
Cho nên Hành cung vẫn bỏ trống luôn luôn giữa ba bức thành bao bọc, cỏ mọc đầy sân, không có ai gìn giữ quét dọn, tuy là ở đối diện ngay trước dinh quan Tuần-vũ, hay quan Tổng Đốc, hai bên con đường chính nối dài từ Cửa Đông đến Cửa Tây. Chủ nhật, thứ Năm, bọn học trò tinh nghịch như Tuấn-em, thường rủ nhau đến đây chơi. Bởi không có lính canh gác, nên tui. con nít này tha hồ "ngự trị" trong Hành cung đào lỗ đánh bi, đánh đáo, và lấy gạch, lấy phấn viết, vẽ bậy bạ khắp các vách tường.
Thỉnh thoảng có trò đau bụng, ngồi làm bậy ngay một nơi góc tường của Hành cung, mấy trò khác bịt mũi cười la rất là náo động. Các chú lính lệ bên dinh quan Tuần bận uống rượu và đánh bài tứ sắc, và quan Tuần chễm chệ hút thuốc lào trong văn phòng có một chú lính đứng quạt hầu, không một ai hay biết lũ ôn con làm gì bên Hành cung.
Thế rồi, một buổi sáng Chủ nhật, Tuấn với mấy đứa bạn rủ nhau đến Hành cung để đánh bi, bổng thấy cờ xí treo chung quanh, và lính Khố Vàng (của quan An nam), lính Khố Xanh (của quan Tây) mặc lễ phục toàn màu trắng sắp hang đứng chật ních hai bên sân rồng. Chiếu hoa trải kín hết sân, và Cung điện quét dọn sạch sẽ, kết hoa lá, treo cờ Pháp, cờ An-Nam, giữa cung có đặt một "ngai vàng". Đó là một cái ghế fauteuil bằng mây, sơn màu vàng - kê trên một bục gỗ sơn màu đỏ.
Dân chúng không được vào trong, đứng đông nghẹt phía ngoài thành (thành chỉ cao độ 1 thước) chen lấn nhau để xem chốc nữa các quan lạy Hành cung, mừng lễ Tứ-tuần của Hoàng đế Khải- Định. Người ta đã cấm con nít không được vào trong, nhưng Tuấn cũng len lỏi thế nào để vào cho được, nhờ nó bé nhỏ và nó đứng nấp sau lưng một người lính khố xanh, cậu của nó.
Các quan An Nam đã lần lượt kéo đến rất đông và đã sắp hạng trên sân, tùy theo phẩm trật. Các quan nhỏ từ Thất phẩm, Lục phẩm, các thầy đề lại, các ông tú-tài, cử nhân đều mặc áo rộng xanh, đứng phía sau cùng, gần cửa Ngọ môn. Các quan Huyện, quan Phủ, đứng mấy hàng trước. Phía trước hết, các quan Án sát, Lãnh binh, cả các quan đã về hưu râu tóc bạc phơ, và riêng hang đầu là quan Tuần-vũ hay quan Tổng đốc. Mấy ông quan từ Ngũ phẩm trở lên đều mặc triều phục, mang hia, đội mũ cánh chuồn.
Đúng 9 giờ, các "quan Bảo Hộ" từ bên tòa Sứ đi xe hơi đến trước cổng Ngọ môn, được quan Tuần vũ đón chào và mời vào Hành cung. Tuấn nhận thấy có ông Sứ, ông Phó Sứ, ông Tây Kho bạc (ông này bị một chân thọt, thay bằng chân gỗ, học trò đặt cho ông biệt hiệu là “ông Tây Point-et-Virgule”, vì mỗi khi ông đi, chân thật bước một bước thì chân gỗ hất tới, y như thể một dấu chấm và một dấu phết). Ngoài ra, còn có ông Giám binh đồn lính Khố xanh, ông Tây Lục-lộ, ông Tây GIây thép, ông Tây Thương chánh, ông Kiểm lâm, ông Đốc-tờ, ông Cò, với mấy bà Đầm. Tất cả đều được quan Tuần vũ, chủ tỉnh An Nam, mời vào Hành cung. Họ đứng một dãy cách "ngai vàng" độ ba, bốn bước.
Chuông trống nổi lên, có một ông quan làm xướng ngôn viên, hô lên từng tiếng, nhịp với tiếng kèn tiếng trống theo trong nghi lễ. Các quan An-nam sụp xuống lạy. Nói là lạy Vua để mừng "Thánh Thọ" 40 tuổi, nhưng kỳ thực là lạy mấy ông Tây bà Đầm đứng trong Hành cung nhìn ra, chứ cái ngai vàng để trống có Hoàng Thượng nào “Ngự Tọa" đấy đâu. Các quan An Nam cúi lạy liên tục bốn lạy, đồng một loạt với nhau, trong lúc lính Khố xanh, Khố vàng bồng sung chào. Các “Quan Bảo hộ " và các bà Đầm đứng gần bên chiếc ngai vàng nhìn ra với cặp mắt tò mò, ngạc nhiên. Tuy họ vẫn giữ lễ độ đứng đắn nhưng không phải là họ không lộ ra đôi chút kiêu hãnh, khinh khi.
Tuấn-em nhìn thấy trong đám các ông Cử, ông Tú sụp lạy ở đằng sau cùng, có cả ông Tú Cẩn, là thầy dạy chữ Nho của Tuấn mỗi buổi sáng thứ Năm. Ông mặc chiếc quần trắng dơ bẩn và chít áo rộng xanh bạc màu, rách một miếng to tướng nơi cùi chỏ.
Trước khi đi Quy Nhơn để thi lên các lớp Trung-học Pháp-Việt (Collège Complémentaire francaise-indigène). Tuấn-em muốn hưởng cho hết thời niên thiếu trong ba tháng nghỉ Hè trong năm 1924. Vì bằng Tiểu học “Primaire” có thể được coi như gần dứt thời kỳ niên thiếu của chàng trai đất Việt, thời kỳ mà Tuấn-em đã sống đầy đủ, hăng hái, đôi mắt mở to, hai tai vểnh rộng, để nhìn thấy và nghe ngóng bao nhiêu những mới lạ, trong lúc giao thời của Đất Nước đang nô nức ùa theo phong trào mới của “Văn minh tiến bộ".
Như các bạn đã biết, phong trào ấy đã bồng bột từ 1910, thế hệ của Trần anh Tuấn - bây giờ là Phán Tuấn - cho đến 1924. Một thời đại mà ngày nay chúng ta có thể gọi là thời kỳ thiếu niên của một nước An Nam mới, đang dần dần cởi bỏ những lốt cũ kỹ nghìn xưa.
Tuấn-em sung sướng và có thể có đôi chút hãnh diện là đã được may mắn sinh nhằm thế hệ này. Chàng khôn lớn cùng một lượt với xứ sở đang vươn lên song song với những tiến triển nhanh chóng của dân tộc mà nếp sống vật chất và tinh thần đã khác nhiều so với thời kỳ trước Thế giới Đại chiến thứ Nhất, mở đầu Thế kỷ.
Nhận xét thật đứng đắn, ta thấy rằng tất cả mọi biến đổi trong thời kỳ ấy đều xảy ra một cách tuần tự lặng lẽ, gần như tự nhiên, không có một áp lực nào thúc đẩy, và cũng không có một trở ngại nào. Không phải một cuộc cách mạng xã hội, mà chỉ là một định mệnh, một sự kiện dĩ nhiên của Lịch sử mà chính những nhân vật đương thời, dù muốn dù không, cũng mặc nhiên công nhận, sẵn sàng để bị lôi cuốn theo.
Có điều nên lưu ý, là nếu “Đông và Tây không gặp nhau được" như lời của nhà văn Anh-quốc, Rudyard Kipling - và điều đó cũng đúng một phần nào, - thì ta ngạc nhiên thấy rằng sự tiếp xúc đột ngột giữa hai văn hóa Pháp và Việt. Hai văn hóa cổ truyền của Tây phương và Đông phương cách biệt hẳn nhau, và trái ngược hẳn nhau, vẫn không gây ra một cuộc chống chọi nào cả. Xin nhắc rằng đây tôi không nói về phương diện chính trị và tôn giáo, mà nói tổng quát về văn hóa mà thôi. Trái lại, đã có nhiều cuộc phối hợp ngẫu nhiên và thuận lơi., nếu không thì cũng có sự dung túng và thông cảm với tinh thần hiểu biết rộng rãi, không nề hà câu chấp.
Nhiều biến đổi trái hẳn với nguyên tắc Khổng - giáo, như dân chúng xem thường ông Vua, trai gái học chung một trường, đàn ông đàn bà giao thiệp thân mật, đàn ông hớt tóc v.v… đã được mặc nhiên công nhận, không bị phản ứng nào mãnh liệt.
Hơn nữa, chính các ông Tú, ông Cử Nho học, cũng đã bắt chước cắt bỏ búi tóc tượng trưng cho lòng Hiếu đến với Cha Mẹ, và đã đua nhau “cúp đầu carré", phong trào đang lan tràn mau chóng nhất lúc bấy giờ.
Dân chúng ở hương thôn, thường là thủ cựu 100 phần 100, cũng đã rủ nhau ra huyện, ra tỉnh, để hớt tóc. Nghề hớt tóc đã thịnh hành, thợ hớt tóc đã mở tiệm khắp cả từ thành thị đến thôn quê.
Một câu ca dao xuất hiện thời bấy giờ, diễn tả rất vui vẻ và hóm hỉnh sự kiện thực tế ấy:
"Văn minh khắp cả hoàn cầu,
Ông Sư cũng cúp cái đầu 3 xu!"
Năm 1924, cúp cái đầu đã được coi là "bắt chước theo văn minh". Sự phối hợp giữa “mới" và "cũ" được biểu hiện rõ rệt ngay trên tấm quảng cáo bằng ba thứ chữ treo trước các tiệm hớt tóc An nam từ năm 1924 như sau đây:
(COIFFEUR - HỚT TÓC - TIỂN PHÁT)
Tuy nhiên, đến năm 1921, đại đa số thanh niên An nam vẫn chưa mặc âu phục, và chưa chào nhau bằng cách bắt tay. Ngay ở Hà Nội và Huế (Saigon có khác hơn vì gần gụi với Tây lâu hơn), chỉ có một thiểu số công chức, tư chức, làm việc trực tiếp với người Pháp - nhưng cũng chỉ mới có một thiểu số thôi - là mặc âu phục gặp nhau bắt tay bonjour" và dở mũ. Sinh viên trường Cao đẳng Đông Dương ở Hà nội cũng đã bắt đầu “mặc đồ Tây" theo các giáo sư Pháp.
Phụ nữ, dĩ nhiên chưa có một người nào uốn tóc, độn ngực, đeo xu-chiêng (Soutien-gorge), - kể cả các Bà, các Cô “tân thời" nhất. Hầu hết nữ sinh đều đi chưn không, các cô Trợ giáo mang guốc, đội nón.
Ở Nam Kỳ, đàn bà thành thị phần đông che dù, ngoài Bắc Kỳ che ô, ở Trung Kỳ đội nón gò găng, hoặc nón lá, thứ đẹp cho các bà các cô nhà giàu, thứ xấu cho phụ nữ bình dân.
Năm 1924, thiếu nữ miền Trung không ăn trầu nữa, nhưng một số đông còn nhuộm răng đen, và chưa dám mặc quần trắng (thời bấy giờ chỉ có con gái “nhà thổ, gái điếm, mới mặc quần trắng) . Ở Nam Kỳ thì đã để răng trắng từ lâu, và mặc áo quần “bà ba" bằng hàng lụa ngoại quốc.
Về Thể thao, học trò lớn đã chơi ballon (Foot-ball, đá bóng). Tennis là môn chơi dành riêng cho hạng trí thức sang trọng và quý phái, phần nhiều chỉ chơi với Tây Đầm. Bóng rỗ và bóng bàn chưa được thông dụng trong đám thanh niên và học sinh.
Bọn học trò nhỏ, 15, 16 tuổi như Tuấn-em, chưa ham chuộng các môn Thể thao và cũng rất ít khi đi chơi lang thang ngoài phố. Môn chơi thịnh hành nhất trong đám học trò Tiểu học là “Đá Kiện". Có nhiều trò đá giỏi, đến 200 cái một lượt. Có khi bốn trò đứng bốn góc sân đá chuyền cho nhau một trái “kiện", hàng nửa tiếng đồng hồ mà trái "kiện" vẫn chưa rơi xuống đất. Tuấn-em môn nào cũng khoái chơi, đá kiện, đánh bi, đánh đáo, xích đu, bắt cóc, bắt thằn lằn, bắt dế.
Mấy thầy Trợ giáo và thầy Thông làm việc các sở, ngoài những buổi sáng xách ô đi tối xách về, thường tiêu khiển bằng âm nhạc An Nam (các cây đờn cổ điển) hoặc trồng bông, đánh cờ tướng, đi bẩy chim. Ít có ai đi câu cá hoặc đánh Tennis.
Có những thầy dùng cả những sáng Chủ nhật để lau chùi chiếc xe máy, là món đồ được đa số công chức tâng tiu nhất.
Trừ Hà Nội, Huế, Saigon, còn toàn xứ An nam chưa có tỉnh nào có rạp chiếu bóng. Mỗi tỉnh chỉ có một rạp: ở Nam Kỳ là hát cải lương (còn sơ khai), ở Trung Kỳ hát bội, ở Bắc hát chèo. Tất cả những tuồng hát đều có tính chất Khổng giáo, Phật giáo, nêu gương đạo đức, luân lý, và luôn luôn đến đoạn kết là kẻ hiền tài được thành đạt vẻ vang, được khán giả khâm phục, còn kẻ dữ, kẻ bất lương thì không tránh khỏi bị Trời phạt đích đáng và khán giả phê bình, nguyền rủa.
Nếu thỉnh thoảng một vài cô thiếu nữ đa cảm và nhẹ dạ mê kép hát đến nỗi trốn nhà đi theo chàng, thì toàn là những anh kép đóng vai oai hùng, hiệp sĩ. Những vai độc ác, bất nhân, bọn nịnh thần, quân phản chúa, dù cho hát hay thế mấy, cũng không bao giờ được ai khen ngợi, không đời nào được các cô gái say mê.
Đấy, tình hình tổng quát về tinh thần và vật chất của xã hội An Nam từ năm 1910 đến năm 1924, dưới cặp mắt quan sát tò mò của Tuấn-em, một thiếu niên nước Việt.
CHƯƠNG 26 
1924
- Một cuộc viễn hành xe đò từ sáng sớm đến khuya trên đường cái quan dài 150 cây số.
- Ông Tú-tài nhà nho, đầu “cúp carré“ đội mũ trắng làm thơ ca-ngợi chiếc xe hơi.
- Cuộc chiến tranh cân-não giữa chiếc xe đò và con cọp ngồi giữa đèo.
- Cách biệt giữa Tây và Ta trong xã hội.
- Giáo sư Pháp với học trò Việt.
- Hai tờ báo “Việt Nam Hồn“ và “Le Paria“ lén lút đầu tiên đến tay học sinh 14 tuổi.
- Một bài thơ trong “Việt Nam Hồn“.
- Ảnh hưởng của tờ báo “Việt Nam Hồn“ trong đầu óc học sinh.
- Lưu cầu Huyết Lệ Thơ, Việt Nam Vong Quốc Sử, Hải Ngoại Huyết Thư (từ Nhật Bổn đưa về, tới tay học sinh).
- Học trò tổ chức đánh phá một tiệm Hoa kiều bốc lột.
Giấy xe “cam nhông“ ghi bảy giờ sáng khởi hành đi Quy nhơn. Thím Ba, mẹ của Tuấn, đã lo dậy từ hồi gà gáy đầu, để làm thịt hai con gà nấu cháo. Tuấn-em cũng giật mình tỉnh dậy, coi lại mấy bộ quần áo, toàn là mới may, và các dụng cụ học sinh, sắp xếp thứ tự trong chiếc “va-li “ mây. Lần lượt Phán Tuấn và chú Ba cũng thức dậy, thắp đèn trong nhà sáng trưng, và dặn dò Tuấn-em cặn kẽ từng mỗi chi tiết về mọi sự. Tuấn-em chăm chỉ ngồi nghe, ghi nhớ những lời chỉ bảo và hồi hộp lo sợ, vì là lấn đầu tiên Tuấn sẽ lìa cha mẹ, lìa anh, từ biệt quê nhà, để một mình đi học tỉnh xa, bơ vơ còn nhỏ dại.
Thím Ba dọn mâm cháo gà lên cúng Ông Bà. Phán Tuấn thắp đèn, đốt nhang trên bàn thờ. Chú Ba, khăn đen áo dài, khấn vái cho Tuấn-em đi đường bình an vô sự, và được thi đậu vào lớp Ðệ Nhất niên trường Quy Nhơn. Chú cúng xong, Tuấn-em cũng mặc áo dài, cúng kính lạy bốn lạy để xin Ông Bà chứng giám, phù hộ cho đứa cháu út trong gia đình được mạnh khỏe và đi học được đỗ đạt thành tài. Trước khi dọn cháo xuống, chú Ba còn lấy giò gà xem quẻ có tốt không. Chú ngồi ghế tràng kỷ, long trọng đưa hai gìo gà dưới ánh sáng đèn dầu hỏa, xem xét tỷ mỉ mỗi mống chân đã luộc chín quặp lại như thế nào, lớp da teo lại như thế nào, và những đường gân nhỏ trên cẳng, móng cẳng, được sắp xếp như thế nào. Chú Ba trở qua trở lại xem xét hai giò gà, và mỉm cười bảo:
- Quẻ tốt quá! ông bà phù hộ cho con ra đi được gặp toàn điều đại cát (rất tốt, rất hay). Con thi vào trường thế nào cũng đậu.
Xong ông trao cho Tuấn-em cả hai giò gà để ăn lấy hên. Tuấn-em cười chỉ lấy một cái. Nhưng thím Ba rầy con:
- Con phải ăn hết một cặp giò. Ăn một cái không nên.
- Sao thế, mẹ?
Chú Ba bảo:
- Ăn một cái, sẽ bị “quáng gà“ con à.
- Quáng gà là sao, cha?
Chú Ba tủm tỉm cười, bảo:
- Theo tục lệ của ông bà truyền lại từ xưa, hễ ăn giò gà phải ăn hết đủ cặp, ăn một cái thì buổi chiều tối, sẽ bị lòa mắt, không thấy rõ đường đi, cũng như gà vâỵ.
Tuấn-em sợ hãi, liền gặp hết hai cái giò gà.
Xong bửa cháo tiễn biệt, xem đồng hồ đã 6 giờ hơn, Phán Tuấn giục em ra đi. Nhưng Tuấn-em còn bịn-rịn đứng khóc thút-thít một lúc lâu, tay nắm chặt lấy tà áo của mẹ.
Thím Ba cũng khóc. Thím vừa khóc vừa nói, tiếng nói ấm ức lẫn với tiếng khóc:
- Thôi… con đi mạnh giỏi… Nhờ trời phù hộ cho con… Vô tới trong ấy, con viết thư về, kẻo mẹ trông mong… nghe con?
Phán Tuấn giục mãi, Tuấn-em mơí chịu đi. Nó chấp hai tay trước ngực, cúi đầu chào mẹ chào cha:
- Thưa cha con đi…, thưa mẹ con đi …, thưa anh Hai em đi…
Nó vẫn còn khóc thút thít, Phán Tuấn bảo:
- Anh Hai đi với em… Thôi nín đi. Ra đường khóc, người ta cười đấy.
Phán Tuấn xách va li cho em, tiễn em ra đến bến xe.
Chiếc xe “cam nhông“ đi Quy Nhơn lớn bằng chiếc xe thơ “Staca“ nhưng hành khách đã ngồi chật ních cả. Muốn cho em có chổ ngồi được thong thả một chút, Phán Tuấn đã mua vé hạng nhất là được chỗ ngồi ưu tiên trên ghế trước, cạnh “chauffeur“ (lúc bấy giờ chưa có danh từ “tài xế“, chỉ có tiếng “sốp phơ“ là thông dụng khắp nơi). Không dè trên ghế trước trừ anh “sốp phơ“ đã có hai ngươì khhách ngồi đấy rồi, nhét Tuấn-em ngồi kẹt ở giữa. Phán Tuấn than phiền:
- Chà! Chật qúa, em tôi ngồi ép thế này, làm sao quẩy cựa được?
Sốp phơ cười đáp:
- Hễ xe chạy, lắc qua lắc lại một lát là rộng chỗ liền, thầy Phán đừng lo.
Trên cửa xe, có ghi mấy giòng chữ trắng 21 places (21 chỗ ngồi), nhưng Phán Tuấn đếm trong xe đã 27 người, dồn ép vào nhau như trong hộp cá mòi. Trên mui xe cột đồ hành lý cao chất ngất, lại còn có ba ngươì ngồi ngất nghểu, kẻ đội nón, người che dù. 8 giờ rồi, trời đã nắng, mà xe vẫn chưa chạy. Phán Tuấn hỏi:
- Sao trong giấy ghi 7 giờ khởi hành?
Sốp phơ bảo:
- Thưa thầy, còn chờ hai người khách nữa, rồi chạy liền.
Mãi đến 8 giờ 30, mới thấy hai người “các chú“ (Hoa-kiều, cũng gọi là “khách trú“) đi xe kéo tới, chở hai chiếc va li to tướng và hai giõ hàng hóa. 3 người ngồi trên mui phải leo xuống đất để ngươì ta chất thêm bốn món hành ký kia rồi mới leo trở lên. Nhưng cả ba người đều nói cười vui vẻ. Coi bộ họ thích được ngồi trên mui hơn là ngồi trong xe. Một ông, có lẽ là ông Tú hay ông Cử gì đấy, đầu cúp “carré“, đội mũ trắng, tay cầm dù, miệng nhai trầu, đứng trên bàn đạp phía sau, ngâm bốn câu thơ mà ông vừa cao hứng đặt ra, cho tất cả bà con cô bác nghe chơi. Tuấn-em còn nhớ rõ bài thơ như sau đây:
Gặp hội long vân chuyến viễn hành
Ngồi cao ngất ngưởng tận trời xanh
Văn minh rầm rộ thu đường đất
Tiến bộ còi vang khắp thị thành.
Ông cười ha hả, phẹt một bãi nước trầu đỏ ngòm xuống đất, rồi còn giảng cho người ta nghe, sợ người ta không hiểu hết ý nghĩa hay ho của bài thơ tứ-tuyệt mà ông vừa “xuất khẩu” đã thành:
- Gặp hội Long vân, vì chiếc xe cam nhông này tên là “Long Vân“ là Rồng Mây, xe hơi của nhà nước Ðại Pháp sáng chế ra có khác nào rồng bay trong mây, cho nên tôi muốn ngồi trên mui xe, cao ngất ngưỏng như ngồi trong mây xanh vậy đó! Ha!. Ha!… Câu thứ ba Văn minh rầm rộ là chiếc xe văn minh kêu rầm rầm rộ rộ, thu đường đất xa hóa gần. Tiến bộ còi vang, là xe hơi tiến bộ bóp còi kêu vang khắp cả thành thị thôn quê. Có phải bài thơ này tuyệt không bà con? Ha! Ha!
Có mấy người thành thật khen hay, rồi ông Tú mới víu hai tay vào thành xe leo lên mui. Miệng ông vẫn cười đắc chí. Ông nghiêng mình xuống đất nhổ một phẹt nước trầu rồi giương cây dù lên che nắng, cười với tất cả những người đứng dưới ngước lên ngó ông.
9 giờ hơn 10 phút, chiếc “xe văn minh“ nổ rầm rầm, xịt khói ra đen nghịt phía sau. Giờ phút long trọng. “Tiếng còi tiến bộ“ reo vang lên “ oa… oa… oa…” như gào thét cho những kẻ tò mò đứng chật bên đường phải vội vàng chạy tránh ra hai bên lề. Xe chuyển bánh rồi vụt chạy ầm ầm.
Ông Tú “gặp hội Long vân“ ngồi trên mui cao, bị lắc qua lắc lại, vẫn còn nghiêng mình xuống đường cái, cười nói thật to để từ giã đám đông:
- Bà con ở lại mạnh giỏi nghe!
Xe đã vụt chạy xa, người ta còn trông thấy tay ông ngoắc ngoắc…
Xe đã biến trong một vùng khói bụi mù cuộn lên như một trận cuồng phong.
Vào gần đến Bồng Sơn thì xe hỏng máy. Phải ngưng để xốp phơ sửa chữa ba tiếng đồng hồ mới chạy được. Sông Bồng Sơn rộng lớn, chưa có cầu, phải qua “phà“. Tất cả hành khách đều xuống, đi một chuyến phà sang trước chờ đơị bên kia song. Chiếc xe cam nhông được chở trong một chiếc phà riêng, đi sau. Nhưng qua bên kia, xe bò chậm chậm lên bờ, chạy được gần 100 thước rồi lại chết máy.
Sốp phơ chui xuống dưới gầm xe, nằm ngửa mặt lên tay cầm các thứ dụng cụ để sửa máy, trong lúc trên 30 hành khách nhẫn nại ngồi chờ hai bên đường, ÔNG Tú (hay ông Cử gì đấy) vừa học lỏm được của sốp phơ vài ba danh từ và vài tiếng Pháp mới lạ, liền cao hứng làm một bài thơ nữa để ngâm lên cho bà con nghe chơi. Tuấn em nhớ hết bài thơ như sau đây:
Máy móc văn minh thật khó bì
Hư đâu sửa đó chẳng hề chi
Tắt bình chứa điện, xe ngưng chạy
Nghẹt ống bơm xăng khói hết xì
Kỹ nghệ khéo bày môn tuyệt xảo
Ô tô nào phải vật vô tri
Ni-hoen( manivelle) quay tính kêu như sấm,
Bốn bánh bon bon vụt tốc kỳ.
Ông Tú nhà nho hãnh diện vuốt râu, nhai trầu, đội mũ trắng ngồi trên lề đường, ngâm nga và giảng 8 câu thơ tuyệt bút của ông. Hành khách và thiên hạ chung quanh xúm lại nghe, đều gật đầu, tấm tắc khen ngợi… Tuấn-em nghe cũng mê…
Lúc bấy giờ, không biết là mấy giờ, nhưng đã khuya lắm, chiếc xe ì ạch, nặng nề, leo lên một cái đèo cao, quanhco trên một sườn núi . Hai ngọn đèn pha chiếu hai vệt ánh sáng vàng khè trên mặt đường . Bỗng mấy người ngồi băng ghế đầu, trông thấy hai con mắt sáng ngời đăm đăm nhìn chiếc xe. Người sốp phơ run cầm cập, quay laị nói với hành khách:
- Có “ông“ ngồi ở đàng trước kia kìa! Bà con cô bác coi chừng. Ðừng thò đầu, thò tay, ra ngoài nghe!
Ðồng thời mấy người ngồi trên mui cũng la lên thật to:
- Cọp! Cọp! Ê bà con coi chừng! Có con cọp to lắm đang ngồi nhóc mỏ bên lề đường kìa.
Tất cả đều nhôn nhao, sợ hãi. Tuấn-em nghĩ thầm: ”Mình ngồi kẹt ở giữa, không sợ. Nếu cọp có chụp thì chụp cái ông Ba Tàu ngồi ngoài, sát cửa xe.
Chỉ có một con cọp ngồi ngoài đường mà 30 người ngồi trong xe đều hết hồn hết vía.
Tuấn-em tuy ngồi kẹt trong một vị trí tương đối yên ổn hơn, nhưng vẫn hồi hộp run sợ, vì biết đâu! … Lần này là lần đi xe hơi đầu tiên, lại đi xa, và ban đêm gặp cọp trên đèo, thì làm sao biết trước được sẽ xẩy ra chuyện gì?
Anh sốp phơ chắc đã chạy quen trên đường quan lộ, sao anh cũng sợ quýnh lên thế! Xem chừng ảnh mất cả bình tỉnh rồi và hai tay anh run run nắm cái tay lái coi bộ không vững. Anh lâm râm khấn vái: ”Lạy ông, ông đi chỗ khác để cho xe tôi chạy, ông ơi“.
Con cọp cứ ngồi miết một chỗ. Hai con mắt sáng quắc và đỏ lòm, cứ nhìn chòng chọc lên chiếc xe đang rồ máy ầm ầm. Mấy ông ngồi phía sau thúc dục anh sốp phơ:
- Cứ chạy chứ sợ gì, chú? Bóp kèn cho vang lên, rồi “phóng nước đại“, ổng không dám làm gì đâu.
Anh sốp phơ nói:
- Bữa trước, đã có một chuyến xe lên đèo ban đêm cũng gặp ổng rồi, ổng rượt theo xe, vồ một thằng “ét” ngôì phía sau.
Mấy ngươì ngồi sau, nghe nói hoảng hốt, ngồi ép dồn vào trong hết. Moị người la lên:
- Sao xe không có cửa sau đóng lại vậy nè?
- Có cửa, mà bị cọp vồ chuyến trước, thành nó sút ra đành phải bỏ laị Quy Nhơn để sửa, chuyến này vô mới lắp lại được.
Trong xe bàn tán xôn xao, nhưng không ai dám lớn tiếng, vì ai nấy đều lo sợ cọp nhảy tới. Chiếc xe vẫn cứ rồ máy và rung động, hình như chính nó cũng sợ run lên. Có người bảo sốp phơ:
- Chú cứ đạp mạnh ga cho xe vọt mau lên, không được sao?
- Ðược làm sao được? Ðèo thì cao, xe vừa sửa máy phải chạy chậm, chứ chạy mau lở hư máy nữa thì chết. Nếu xuống dốc thì còn nói gì.
- Thế thì làm thế nào? Không lẽ đứng mãi đây à?
Sau cùng sốp phơ bảo:
- Tôi cho xe chạy nghe! Bà con la hét rùm lên thật to nghe! Lạy trời, ổng sợ không dám rượt theo thì mình thoát nạn.
- Ừ, cứ chạy đi. Tuị tui la làng xóm lên, không sao đâu.
Anh sốp phơ sang số xe, cho xe từ từ tiến tơí, rối cố vọt lên đèo. Toàn thể hành khách la hét um sùm, lẫn lộn đủ các tiếng: ”Ối làng xóm ơi! Hù, hù, hù, hù, hù. Cọp, cọp, cọp. Ối làng xóm ơi, Cọp! Cọp!“
Xe gần đến cọp, cọp cứ ngồi yên không nhúc nhích, nhưng cặp mắt cọp sáng ngời cứ đăm đăm nhìn theo xe… Xe càng đến gần cọp, tiếng kêu la hò hét càng to lên, càng ồn ào náo nhiệt. Bổng cọp “gầm“ lên một tiếng vang dậy cả núi rừng khiến cho tất cả mọi người đều khiếp đảm, im lặng hết. Chỉ còn tiếng xe kêu rầm rầm, khói xịt ra mù mịt đen ngòm và tiếng còi xe kêu điếc óc điếc tai.
Xe chạy ngay đến chỗ cọp, cọp nhổm dậy toan vồ xe, bổng từ trên mui xe hai cái thùng rớt mạnh xuống kêu “Phèng! phèng! choảng choảng“ ngay trước mũi cọp rồi lăn ra đường cái. Cọp hiảng hốt chạy vọt vào rừng, hành khách chưa kịp hiểu tiếng gì cũng hoảng hốt ôm chầm lấy nhau, dồn ép nhau thành một đống. Xe cứ bò từ từ lên đèo, rầm rầm rộ rộ, còi xe cứ bóp oa, oa, oa! Vài ba bà hành khách chưa hoàn hồn còn há to mồm la hét:
- Ối làng xóm ơi. Ối làng xóm ơi!
- Cọp, Cọp, cọp!
Lên đèo khoảng 100 thước, xe bắt đầu xuống dốc, chạy êm ru không còn tiếng ồn ào xáo động nữa.
Chạy một khoảng xa, đến đồng bằng, vừa thấy vài chục nóc nhà và các lều tranh ở hai bên lề đường, đèn đuốc, sáng trưng, người ta đông đúc, vui vẻ. Một trại của “cu-li lục-lộ“ ở chung vơí xóm làng dân địa phương. Xe ngừng lại, để nghỉ. Ðến đây, toàn thể hành khách xuống xe, mơí bu lại ba ông trên mui cũng vừa leo xuống, kể lại câu chuyện thùng thiết. Ðấy là hai thùng thiết đựng đường cát của ông Tú đem vào Quy Nhơn để bán. Trong lúc xe ngừng trên đèo và hành khách bàn tán những biện pháp lo đối phó với cọp, ộng Tú lặng lẽ cùng hai bạn đồng hành đổ hết đường ra một tấm vải bố lớn của chủ xe ddùng để che đậy hang hóa. Ông nhất định hy sinh hai thùng htiếc ấy để đánh một đòn “chiến tranh cân não“ lên đầu cổ “ông cọp“ và ông tin chắc chắn sẽ thắng lợi.
Ông Tú nghĩ đúng. Cọp sợ hoảng vụt chạy vào rừng, chính vì bị cái vố hai thùng thiếc bất ngờ ấy rơi ngay trước mũi ông với một tiếng phèng la kinh khủng, chứ đâu phải vì những tiếng kêu: ”ối làng xóm ơi! Hù. Hù!“ “Cọp! Cọp“, và tiếng còi oa, oa… của chiếc xe ho lao không đủ sức bò lênm đèo!
Câu chuyện gặp cọp trên đèo thành ra một đề tài vô cùng hào hứng cho các anh “cu li lục lộ“ và đàn ông đàn bà trong xóm hai bên đường cùng xúm lại bàn tán, vui cười rất là náo nhiêt.
Tuấn chen vào các đám đông góp câu chuyện bi hài kích thích thú vị ấy.
Nhưng một lúc, Tuấn không thấy ông Tú đâu. Ði ngang qua các căn nhà mở cửa, Tuấn muốn tìm ông Tú. Ông đang ngồi trong một căn nhà chong đèn dầu hỏa. Chung quanh ông có sáu, bẩy người, nét mặt vui cười nghe ông ngâm thơ. Tuấn bước vào. Ông Tú vẫn đội mãi chiếc mũ trắng trên đầu (tóc cúp carré), tay vẫn cầm cây dù đen, miệng vẫn nhai trầu mỏm mẻm, nói rất có duyên. Ông đang ngâm và giảng bài thơ ông vừa làm ra như sau đây, cho bà con cô bác nghe chơi:
ÐI XE GẶP CỌP
Một chiếc xe xanh, một cọp vàng
Nhìn nhau bốn mắt sáng choang choang
Cọp gầm vang động, ôi hồn vía!
Xe hoảng kêu lên, ối xóm làng!
Máy bết, người run, vô diệu kế
Ðèo cao, đêm vắng, thậm nguy nan!
Kìa đôi thùng thiếc ai quăng đấy!
Cọp nhảy co giò, tưởng sét vang.
Tuấn ngồi nghe, và thuộc lòng mấy bài thơ của ông Tú làm dọc đường, để kỷ niệm cuộc viễn hành đầu tiên của Tuấn giữa buổi giao thơì của Lịch sử, nửa tân nửa cựu.
Ðường cái quan người Pháp goị là “đường thuộc địa số một“ (Route Coloniale N. 1) qua các vùng hiểm trở của miền Trung, nhất là từ Bình Ðịnh vào Bình Thuận, đã có tiếng rất là nhiều cọp. Xe hơi đi ban đêm thường gặp cọp luôn, và bởi cọp thời bấy giờ chưa từng thấy xe hơi nên ưa ra ngồi bên lề đường để rình chụp, và hăm he khiêu khích. Cọp ngày nay đã văn minh rồi, nên trông thấy xe hơi thì mau mau lẫn tránh vô rừng.
Dọc đường, thỉnh thoảng có một vài cái “Miểu cô hồn“ hoặc “Am bà Thánh Mẫu - không ai biết bà Thánh Mẫu nào? - Ở các khúc đường quẹo nguy hiểm.
Nhiều khi ở dưới chân đèo, giữa rừng núi âm u. Ðến gần đấy, xe hơi nào cũng đậu lại. Sốp phơ đốt giấy vàng bạc và đèn hương cúng lại vị Thần linh. Các anh sốp phơ đã truyền miệng cho nhau rằng phai cúng lạy nơi các am ấy để các “ngài“ phù hộ cho xe tránh khỏi tai nạn dọc đường, như xe rớt xuống hố, xe hư giữa đèo, hành khách bị cọp chụp v.v…
Hình như (theo lời họ nói) đã có những chiếc xe hơi qua đấy không chịu cúng kiến à dâng hoa quả, lên đèo bị tai nạn luôn.
Văn minh khoa học và mê tín dị đoan vẫn dung hòa với nhau trong các chuyến xe vận tải và xe đò dọc theo quan lộ…
Trước cặp mắt tò mò và ngơ ngác của Tuấn, thiếu niên 14 tuổi của nước Việt năm 1924, thành phố mà cậu đến lần đầu tiên để tiếp tục việc học, cách xa tỉnh nhà trên 150 cây số, thật là hoàn toàn mới lạ.
Mới lạ, vì đây là một thành phố rộng lớn, ở ngay trên bãi biển. Mới lạ, vì ở đây nhà cửa cao đẹp, đường phố rộng rãi, người qua lại đông đúc, xe hơi chạy rần rần “văn minh tiến bộ“ hơn ở tỉnh cũa cậu nhiều. Mới lạ, vì ở đây cậu thấy đủ các hạng Tây Ðầm: Tây quan, Tây nhà buôn, Tây “cò“, Tây “cố đạo“, Tây “giáo sư“, có đến ba bốn chục ông, chớ không như ở tỉnh nhỏ của cậu chỉ có bốn năm ông quan Tây và vài ba bà Ðầm mà thôi.
Dĩ nhiên, Tuấn còn là cậu học trò con nít, vẫn còn “sợ“ các ông Tây, cũng như hầu hết học trò lúc bấy giờ. Cho đến đỗi, trong năm đầu, học Ðệ Nhất niên, thường gặp các ông Tây ”cố đạo“ (danh từ thông dụng thời bấy giờ, để gọi các vị linh mục Gia Tô Giáo), Tuấn cũng không dám đến gần.
Có thể nói rằng hầu hết thiếu niên Việt-Nam thế hệ 1924-25, cùng lứa với Tuấn đều có mặc cảm rằng người “Tây“ khác hẳn người “Ta“ về mọi phương diện. Tuy đang học chữ Tây, nói tiếng tây đã khá thạo, viết chữ tây đã hơi thông, các cậu học trò thời buổi ấy vẫn coi Tây là một giống người xa lạ, mà các cậu còn e ngại, ngờ vực, chưa khứng làm quen.
Tuấn lại nhận thấy rằng người Tây ở một khu riêng biệt, nhà cửa cao ráo, sang trọng, có vườn hoa đẹp, có xe hơi, có xẩm giữ con, có bồi, có bếp, có chó “ berger”. Ði ngoài đường ngó vào thấy có vẻ oai nghiêm lạ. Cả thành phố lớn như thế, Tuấn không thấy được một nhà An-nam nào sang trọng như nhà Tây.
Kể ra người Pháp sang xâm chiếm và cai trị xứ ta đã gần 40 năm rồi mà sự cách biệt giữa Tây và Ta vẫn còn xa lắc xa lơ: cách biệt trong đơì sống hang ngày, cách biệt trong các công cuộc hoạt động hành chánh, xã hội, kinh tế, thương mãi. Cách biệt cả trong phạm vi giáo dục nữa.
Tuấn để ý thấy rằng trường Tây để cho con Tây học riêng, và xây cất đẹp hơn, một tòa nhà đồ sộ, kiến trúc nguy nga, giữa một khu vườn rộng, có bồn cỏ, khóm hoa, ngay trên bãi biển. Trường An-Nam thì sơ sài, thấp lè tè, xây trên một động cát khô khan gần chưn núi. Không những thế, ở trường An-nam - một truờng duy nhất học đến cấp bậc Cao Ðẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur) - có 5 giáo sư An-nam tốt nghiệp trường Cao đẳng Hà Nội và 5 giáo sư Pháp tốt nghiệp tương đương, bằng Brevet Supérieur ở Pháp, mà sự giao thiệp Pháp Việt hang ngày vẫn lơ là gượng gạo. Giáo sư Pháp ít nói chuyện và ít giao du thân mật với giáo sư Nam, trừ một đôi trường hợp hiếm hoi. Quen tính tò mò, Tuấn hay để ý thấy trong các giờ chơi, thỉnh thoảng hai ba giáo sư Pháp đứng nói chuyện vơí một vài giáo sư Nam độ 5, 10 phút, rồi Pháp lại cặp kè với Pháp, An-nam bị bỏ rơi đi thơ thẩn trên hành lang, mỗi người một ngã không ai để ý đến.
Tuy nhiên, nói như thế không phải là qủa quyết rằng giáo sư Pháp kiêu căng, phách lối. Trái lại hầu hết giáo sư Pháp đều rất thương mến học trò, và rất vui vẻ với học trò hơn các giáo sư An-nam nữa!
Trừ một giáo sư Toán đáng ghét, còn bốn ông khác đều gây được lòng cảm mến của toàn thể học sinh, Nhất là giáo sư Sử Ký, mỗi khi ông giảng sử Pháp là học trò nghe mê. Ông là người có chân trong hội Nhân quyền và Dân quyền ở Paris, cho nên trong lúc giảng bài ông luôn luôn công kích kịch liệt chế độ quân chủ thời Louis XVI và không ngần ngại tuyên truyền cho đám thiếu niên học sinh An Nam những tư tưởng của Cách mạng Pháp 1789 Tự Do, Bình Ðẳng, Bác Ái.
Ông đả kích bọn cầm quyền độc tài, áp chế, ông hô hào tự do, dân chủ, đề cao các nhà Cách mạng Pháp như Jean Jaurès, ông đề cao cả cụ Phan Chu Trinh, mà học trò ngơ ngác chưa biết là ai. Cứ đến giờ Sử ký Pháp, ông giáo Mariani vào lớp là y như thể sắm có cuộc diễn thuyết cổ động chống “chính sách thuộc địa“. Ông lật sách ra, giảng sơ sơ năm mười giòng rồi bỏ sách xuống, nói huyên thuyên, la ầm ĩ, hét thật to, đập bàn, đập ghế, đứng dậy, xăn tay áo, phùng mang, trợn mắt, mặt đỏ như quả gấc, ông nói, ông nói…” Dân là Vua! Dân là Chúa Trời! Vâng, đúng thế! Dân là tất cả! Dân là Chúa Tể trong nước! Kẻ nào đè nén Dân, bóc lột Dân, hãy coi chừng!…v.v…
Tuấn ngồi há miệng nghe,như uống ngon lành, say sưa những lời nói ào ạt, ngào ngạt, của vị giáo sư Sử ký Pháp. Ðến khi hết giờ giáo sư còn nói… nói “cách mạng là cuộc vùng dậy, cuộc quật khởi của những kẻ yếu, chống lại kẻ bạo tàn. Và luôn luôn kẻ yếu sẽ thắng! Công lý sẽ thắng! Tự Do sẽ thắng! Cường quyền và áp chế sẽ sụp đổ như những tượng ác thần luôn luôn bị ngã gục, đổ nát tan tành dưới lưỡi búa tầm sét của Liịch sử! …” Xong ông đứng dậy ôm cặp đi ra… Tuấn muốn chạy theo ôm lấy chân ông, muốn hôn bàn tay ông, muốn níu ông trở lại, thì vừa ông Gabriel giáo sư Toán bước vào.
Ông này có nụ cười láu cá, đôi mắt ranh mãnh, nét mặt độc ác, trái hẳn với ông Mariani. Ông giảng toán một lúc rồi gọi Tuấn lên bảng:
- Mầy hãy vẽ một hình tam giác hai cạnh đều nhau.
Tuấn cầm phấn vẽ hình tam giác hai cạnh đều nhau.
Ông Gabriel mặt đỏ bừng hỏi Tuấn:
- Xong chưa?
- Thưa ông, xong rồi.
- Ði xuống, zéro!
Ông cho Tuấn trong sổ điểm một con số không tròn vo thật đậm. Tuấn không hiểu sao cả. Ông goị người học trò khác lên bảng. Anh này giỏi toán nhất lớp, và được ông Gabriel cưng nhất. Ông hỏi:
- Thằng Tuấn nó vẻ hình tam giác đấy có đúng không?
- Dạ, thưa không.
- Thiếu cái gì?
Trò kia cầm phấn đề 3 chữ A, B, C nơi ba góc. Ông Gabriel gật đầu:
- Giỏi! Ði xuống.
Ông cho trò ấy 19 điểm. Tuấn ngồi làm thinh. Ông Gabriel nhìn nó và mắng nó:
- Mầy là thằng ngốc! Thằng ngu! Crétin, va!
Tuấn đứng dậy:
- Thưa ông gíáo sư…
- Im cái mồm và ngồi xuống! Ðồ mọi rợ! Cả giòng giống An-nam của mầy là đồ mọi rợ. Giòng giống An-nam bẩn thỉu (sale race annamite). 
Cả lớp ngồi gục đầu, cắn răng, làm thinh, Tuấn cũng làm thinh . Bốn chục chàng thiếu niên âm thầm nuốt hận.
Lớp học lại tiếp tục trong bầu không khí nặng nề. Có lần cũng trong lớp học, ông Gabriel chửi Ðề Thám là ”tướng cướp“, chửi vua Duy Tân là “thằng nhải con“ và có lần ông lấy một bài của Phạm Quỳnh đăng trong baó France Indochine ở Hà nội, đọc cho học trò nghe, và khen tặng Phạm Quỳnh một câu: ”Ðấy là một người An nam thông minh“ (voilà un Annamite intelligent).
Các ông giáo sư “An Nam“ có lẽ không thông minh chăng, vì học trò mét lại cho các ông nghe những lời của giáo sư Pháp kia chửi rủa giòng giống An Nam như thế, mà các ông Giáo Sư An Nam vẫn điềm nhiên. Có ông lại còn cười, cho là những lời nói đùa. Một ông giáo sư Luân Lý lại còn điểm một câu phê bình: ”Người mạnh bạo bao giờ cũng có lý. Các cậu không nên phàn nàn“.
Tuấn chia giáo sư Pháp ra làm ba hạng:
giáo sư Toán Gabriel, đáng ghét,
giáo sư Sử Ký Pháp: Mariani, đáng kính phục.
Hai giáo sư Pháp văn và giáo sư Ðịa dư: đáng mến.
Tuấn cũng chia giáo sư An nam làm 4 hạng:
Ông Tr. Giáo sư Lý Hóa: đáng sợ (ông này nghiêm quá)
Ông Th. Giáo sư Luân Lý: đáng ghét (vừa làm phách, vừa dạy dở, lại hay gắt gỏng và ưa nịnh Tây)
Ông V. Giáo sư Quốc Văn: đáng ghét (vừa làm tàng, vừa kém Việt văn, cũng nịnh Tây đôi chút)
Ông B. Giáo sư Sử Ký An-nam: đáng mến, dạy giỏi.
Ông D. giáo sư vẽ và viết tập: đáng mến và hiền lành.
Dần dần, quen với giáo sư Pháp, Tuấn thích lân la nói chuyện với họ và bắt đầu có những ngạc nhiên mới lạ. Như thấy có 3 ông trong số 5 ông, sáng chủ nhật không đi nhà thờ, đêm Noel không đi lễ, Tuấn đánh bạo hỏi. Ông Mariani cũng như hai ông giáo sư Pháp văn bảo: ”Tôi không tin có Chúa“. Trái lại ông Gabriel là một tín đồ nồng nhiệt, ông giáo sư địa dư cũng là một con chiên trung thành, sáng chủ nhật nào cũng gặo ông đi nhà thờ rất sớm, Tuấn liền có ý nghĩ:
“À, thế ra không phải tất cả người Pháp đều theo đạo Gia-tô".
Sau này có ông Martin và cô vợ trẻ đẹp của ông là con gái ông Ðốc học, cả hai đều là giáo sư Pháp văn và Văn phạm, cũng không khi nào đi nhà thờ. Hơn nữa, ông M. thường công kích đạo Gia-tô kịch liệt, Ông công kích cả đạo Phật cho là tất cả các tôn giáo đều là mê tín . Còn giáo sư An Nam thì không ai theo đạo Gia-tô cũng không ai theo đạo Phật: các ông theo đạo… cờ bạc. Ðêm nào các ông cũng đánh tứ sắc, hoặc xổ tam hường. Tuấn biết hết các nơi hội họp đổ bác của các ông, chỉ trừ ông giáo sư Sử ký An nam, người Bắc, góa vợ, ông này có một đời sống thanh bần giản dị, có hơi “phi-lô-dốp“ một chút.
Tuấn ở trọ một thầy Thông Kho Bạc, người Hoàng phái, họ Bửu. Một đêm thứ bảy, có bốn thầy tụ họp trên gác nhà thầy Bửu Vinh để đánh tổ tôm. Tuấn ngồi ngoài hè, chăm chú ngó con thằn-lằn bò trên mặt kiến đèn “carbure” dựng bên lề đường. Bóng nó nằm dài thườn thượt xuốnf đường cái như bóng ma, lúc biến lúc hiện, lẫn với bóng lá bóng cây run run trong gío lạnh.
Bổng có một thầy cùng sở với thầy Bửu Vinh tên là H. đi xe máy đến. Thầy xuống xe, móc trong túi lấy ra một tờ giấy in gấp lại dầy mo, nhét vào tay Tuấn và khẻ bảo:
- Ði vào nhà, đọc đi, đừng cho ai thấy. Ðọc lẹ, rồi 10 giờ tôi lấy lại.
Nói xong, thầy dắt xe máy vào nhà thầy Bửu Vinh, đóng cửa lại, rồi trèo thang lên gác, nhập vào sòng bài tổ tôm. Còn một mình Tuấn ở nhà dưới. Tuấn hết sức ngạc nhiên, mở xấp giấy in ra thấy ba chữ to tướng in màu đỏ: “Việt Nam Hồn“.
Lần đầu tiên, cậu thiếu niên Trần Tuấn, cầm trong tay một tờ báo. Cậu ngó kỹ thấy trên đầu trang dưới giòng chữ: ”Việt Nam Hồn“, một câu cũng in màu đỏ đại khái như sau đây: ”Cơ quan tranh đấu cho nền Ðộc Lập của nước Việt Nam“, dưới có giòng in đen: ”Trụ sở Trung Ương ở Marseille, Pháp quốc“.
Tuấn vừa sợ vừa mừng run lên, Cậu lên giường nằm trùm chiếc chiếu, để ló đầu ra và đặt cái đèn dầu lửa gần đầu giường. Cậu xem tờ báo, say mê, như muốn nuốt vào bụng những cột báo đầy rẫy những chữ hô hào Ái quốc, cổ động cách mạng chống Pháp, tranh đấu giành Ðộc Lập, Tự Do.
Những bài thơ in trong báo ”Việt Nam Hồn“ mà Tuấn còn nhớ sau đây:
Hăm lăm triệu đồng bào nổi dậy
Ðuổi quân thù ra khỏi giang sơn
Chớ sao ngậm oán nuốt hờn
Ðể mang tủi nhục cho Hồn Việt Nam
Bẻ xiềng xích, phá vòng nô lệ
Ðem máu đào rửa hận Non Sông
Hỡi đàn con cháu Lạc Hồng
Chớ mê giấc ngủ còn hòng việc chi!
Bài thơ còn dài lắm… Tuấn nhắm mắt đọc ôn lại hai ba lần cho nhớ từng chữ, từng câu, chớ không dám chép ra giấy, để còn những bài khác, những trang khác, tất cả bốn trang giấy lớn in đầy những lời xúi dục khởi nghĩa, thức tỉnh đồng bào.
“Việt Nam Hồn“ là tờ báo bí mật đầu tiên lọt vào tay chàng thiếu niên nước An Nam năm 1924, tuy lúc bấy giờ Tuấn mới 14 tuổi. Tuấn hết sức ngạc nhiên, sau khi đọc hết tờ báo, coi lại thật kỷ nơi trang đầu, thấy có chua một giòng chữ đen mà Tuấn không hiểu: ”Chủ nhiệm: Nguyễn thế Truyền“.
Tuấn cứ thắc mắc: ”Chủ nhiệm là gì? Một danh từ mơí lạ mà Tuấn không biết rõ nghĩa, và sau đó hỏi một ông giáo sư Quốc văn, ông giảng giải: ”Chủ nhiệm là một ông chịu trách nhiệm“ Còn Nguyễn thế Truyền là ai? Cậu học sinh 14 tuổi tưởng tượng ông là nhân vật ghê gớm lắm. 10 giờ 30, thầy H., từ trên lầu xuống, đến gầnm Tuấn. Tuấn để ý thấy thái độ thầy H. cũng bí mật lạ lùng. Thầy hỏi rất khẽ: ”cậu đọc rồi chưa? “Tuấn cũng trả lời rất khẽ:
- Dạ rồi… Thầy ơi, tờ báo này ở đâu vậy, thầy?
- Có ngươì ở bên Tây đem về. Bí mật đấy nhé. Tôi thấy cậu Tuấn có “đầu óc“, tôi mới cho mượn xem. Xem xong, đừng nói cho ai biết. Nói tùm lum sẽ bị bắt bỏ tù, hay là bị chết chém đấy.
- Dạ, tôi không nói gì đâu.
- Giữ bí mật, rồi tôi sẽ cho mượn tờ khác để coi.
- Dạ… nhưng thầy à, ai gởi Báo cho thầy vậy? Sao họ đem lén đem về được, thầy?
- Có anh bồi tầu, cứ mỗi chuyến tàu ở bên Tây về thì ảnh đem báo này về cho tụi mình. Cậu Tuấn nhớ là đừng để lộ bí mật, nghe? Người nào đáng tin cậy, cậu hãy nói chuyện và đọc vài câu thơ trong này cho họ nghe. Cậu chỉ nói là cậu nghe lỏm đâu đó, chứ đừng nói là câụ có thấy tờ báo: "Việt Nam Hồn“. Nghe không?
- Dạ .
- Cậu có thích đọc tờ này không?
- Dạ, thích lắm. Tôi đọc say mê, thầy ơi! Hay quá thầy ơi! Ồ, nếu Tây họ biết được, chắc họ bỏ tù tuị mình.
- Ừ, vì thế nên tôi dặn cậu là phải kín mồm kín miệng.
- Thầy có đưa cho thầy Vinh đọc không?
- Có, thầy Vinh cũng thích lắm. Chính thầy hiểu cậu, biết cậu là học trò có “đầu óc“, nên thầy dặn tôi đưa cho cậu xem.
- Cảm ơn thầy lắm. Hễ chừng nào có “Việt Nam Hồn“ thì thầy nhớ cho tôi mượn coi với nhé. Chu cha! coi sướng quá thầy ơi! Thơ hay qúa thầy ơi! Họ chửi Tây, mình đọc thấy lạnh xương sống. Sướng mê!
Thầy Hồ tủm tỉm cười, gấp tờ báo “Việt Nam Hồn“ làm bốn, rôì đút trong lưng quần, giấu kín sát bụng, dưới hai lớp áo cụt và áo đen. Thầy ra về.
Tuấn tắt đèn, nằm đọc thầm lại bài thơ lúc nãy:
Hăm lăm triệu đồng bào! Nổi dậy!
Ðuổi quân thù ra khỏi giang sơn
Chớ sao ngậm oán nuốt hờn
Ðể mang tủi nhục cho hồn Việt Nam?
Ðây là đêm thứ Bảy. Cả ngày Chủ nhật Tuấn cứ đọc thầm bài thơ trên 70 câu. Tội nghiệp Tuấn-em ! Mới 14 tuổi, chưa hiểu quốc sự là gì cả, lần đầu tiên được xem lén một tờ báo “ghê gớm“ in từ bên Tây, gởi lén về An Nam, làm xáo trộn cả tâm hồn còn ngây thơ của cậu. Cậu bổng nhớ lại nét mặt nhăn nhó và những lời quyền rủa của ông giáo sư Toán, Gabriel, mà Tuấn thường gọi với các bạn là “Người Mặt Khỉ“
Tại sao ổng dám chửi mình là “nòi giống dã man“ “Sale race Annmite“?
Trong đêm tối, nằm đắp chiếc chiếu (vì không có tiền mua mùng và mền), Tuấn âm thầm tức giận ông Tây Gabriel, rồi cảm xúc vì bài thơ trong “Việt Nam Hồn“, bổng dưng Tuấn khóc… Nhưng Tuấn khóc thút thít, không dám khóc to…
Cô Vinh, vợ thầy Bửu Vinh, từ nhà trên cầm cây đèn đi ra sau bếp, chợt đi ngang qua chỗ Tuấn nằm, nghe Tuấn khóc. Cô cười, hỏi với giọng Huế :
- Cậu Tuấn dợ dà hỉ (nhớ nhà, nói theo giọng Huế)?
Tuấn nằm im thin thít giả vờ ngủ, không dám lên tiếng.
Sáng thứ Hai, Tuấn đi học, tìm ngay một ngươì bạn cùng tỉnh mà cậu thân nhất, kéo ra phía sau trường nói thầm:
-Quỳnh ơi, mầy có thấy tờ báo “Việt Nam Hồn“ không?
-Tờ gì?
- Việt Nam Hồn.
- Ở đâu?
- Tao có đọc lén được một tờ, mầy ơi. Có bài thơ hay lắm, tao đọc cho nghe…
Thế là Tuấn đọc hết cả bài thơ “Hăm lăm triệu đồng bào, nổi dậy“…
Trò Quỳnh kéo trò Tuấn ngôì xuống cát, dựa lưng vào vách tường, bảo Tuấn đọc lại một lần nữa. Rồi Quỳnh căn dặn Tuấn làm sao hỏi mượn tờ “Việt Nam Hồn “ cho Quỳnh xem.
Từ hôm ấy, trong trưòng Cao đẳng Tiểu Học Qui-nhơn lớp Ðệ Nhất Niên (1ère Année) tương đương với lớp Ðệ Thất bây giờ, có một nhóm học sinh năm đứa, cứ trao lén cho nhau xem tờ Việt Nam Hồn đã rách nhèo nát hết và dán lại từng mảnh.
Mỗi khi cho mượn, hoặc trao trả lại, các trò gấp làm tư, dúi trong lưng quần, giấu sát bụng, dưới hai lớp áo cụt và áo dài đen. Lúc bấy giờ học trò chưa dám mặc “đồ Tây“, tất cả đều mặc aó dài ta, đội mũ, mang quốc.
Phải nói rõ rằng, nhóm học sinh âý chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện “cách mạng“ hay là “làm hội kín đánh Tây“. Nhưng cái mầm ái quốc đã bắt đầu nẩy nở dụt dè và kín đáo trong tâm hồn ngây thơ của tuổi trẻ. Và không riên gì ở trường Quy Nhơn, mà khắp các trường Cao đẳng Tiểu học trong nước như trường Quốc học và Ðồng Khánh ở Huế, trường Trung học Bưỏi, và Cao đẳng Ðại học ở Hà Nội, các trường “college“ khác ở Hải Phòng, Nam Ðịnh, Vinh, Saigon, Mỹ Tho, CầnThơ, v.v… Ấy là do ảnh hưởng đầu tiên của những tờ báo bí mật từ bên Tây gởi lén về do đường tàu thủy trong đó có hai tờ được phổ biến lén lút sâu rộng hơn cả là Việt Nam Hồn bằng Việt ngữ xuất bản ở Marseille, và tờ Le Paria bằng Pháp ngữ xuất bản ở Paris.
(Le Paria, tiếng Pháp gốc tiếng Ấn Ðộ, là kẻ thuộc về giai cấp bần cùng, không có quyền gì cả, bị coi như là lớp người ti tiện, và bị kẻ giàu mạnh chà đạp, khinh khi, hất hủi)
Ðó là tờ báo cách mạng đầu tiên mà Tuấn và nhiều thiếu niên khác cùng thế hệ đã được đọc lén lút từ năm 1924.
Cùng một lúc, một số sách báo, cũng bí mật từ bên Tây và bên Nhật được gởi lén về Việt Nam, do tầu thủy, nhất là do chiếc tàu S/S Canton, chạy đường Saigon - Tourane (Ðà Nẵng) - Hải Phòng - Hồng Kông . Trong số các sách báo ấy rất tiếc là chỉ một số rất ít viết bằng Việt ngữ, còn đa số là bằng chữ Nho. Tuấn được thất bổn “Việt Nam vong quốc sử, Lưu cầu huyết lệ thư, Hải ngoại huyết thư“. Nhưng lúc bấy giờ Tuấn chỉ được đọc các bản chép lại bằng tay, không có tên tác giả. Mãi bốn năm năm sau, Tuấn đã ra Hà Nội tìm tòi học hỏi, mơí biết là những sách ấy của cụ Phan Bội Châu . Tuấn trao các sách1 “cấm“ ấy cho Quỳnh và các trò khác cùng một chí hướng, nhưng ai cũng phải tự tay mình chép lại, để xem lén, rồi giấu kín dưới va li quần áo.
Một hôm, lần đầu tiên Tuấn đưa một bài thơ chép trong “Viêt Nam Hồn“ trên một mảnh giấy, trao cho H.X.T., con một quan Tri phủ đang nhậm chức ở Bình Ðịnh, học cùng lớp vơí Tuấn. Trò T., ngươì Huế, xem xong hoảng hốt xé phăng ngay mảnh giấy. Hắn hỏi Tuấn:
- Mi lấy cái đồ bậy bạ ni ở mô rứa?
Tuấn cười đáp:
- Tối hôm qua, tao đi bắt còng (con còng giống như con cua, nhưng nhỏ hơn và chạy rất nhanh, có trên nhiều trên bờ biển, trốn giỏi lắm, nhất là ban đêm) ngoài bờ biển, lượm được bài thơ đó trong môt cái hang còng, mầy ơi!
T. làm thầy khôn, dặn Tuấn:
- Sau, mầy đừng có lượm những cái giấy như ri, lỡ mà ông Directeur thấy được thì ông đánh mi chết.
- Tao đưa cho mầy coi chơi, chớ tao đâu dám coi.
Trò T. sợ quá, còn lấy tay moi một lỗ khá sâu trên bãi cát sau sân trường, để chon dấu bài thơ ghê gớm mà hắn đã xé vụn ra từng mảnh nhỏ.
Tuấn cười bảo:
- Mi dấu bài thơ nớ còn hơn con còng dấu trứng nó trong hang ! Mi coi chừng chớ tao sợ bài thơ nó sẽ nở ra thành một bầy còng chạy lung tung trong trường mình, thời mặc sức ông Ðìa-réc-tưa chạy theo bắt. Ha ! Ha!
Trò T. con trai cưng của quan Phủ Bồng Sơn không hiểu ý Tuấn, nhưng cũng cười hì hì.
Tưởng cần nhắc lại rằng, trong lúc nhiều phần tử trí thức Nho học, lẫn Tây học, ở Bắc, Trung, Nam vẫn tiếp tục hoạt đông bí mật, hô hào Nhân quyền, Dân quyền, cổ xuý Tự Do, Ðộc Lập, thì trái lại, một số thanh niên hầu như hoàn toàn lãnh đạm, chỉ ham mê học hành tranh đua trên con đường công danh sự nghiệp mà thôi. Tâm trạng ấy không phải là không có nguyên nhân. Một là vì chưa có điều kiện tổng quát để kích thích sự phát huy tư tưởng ái quốc, hai là chưa có một mãnh lực đủ uy tín để giác ngộ tinh thần quốc gia chủng tộc của lớp trẻ ấy. Vả lại phải nhìn nhận rằng thời bấy giờ người ta chưa chú trọng đến thanh thiếu niên cho lắm.
Các sách báo cách mạng từ Hải ngoại gởi về lén lút do các đường tầu thủy, chỉ được lưu hành trong các tầng lớp trung lưu trí thức, nhất là trong giáo giới và một số ít công tư chức có tư tưởng độc lập. 
Một vài tờ báo lọt đến tay các bạn thanh niên, là một việc hi hữu và trong những trường hợp vô cùng dè dặt và thận trọng. Chưa có một phong trào chính trị, hoặc xã hội để kích động tuổi trẻ, tuổi trẻ bồng bột hăng hái, mà một việc tức giận nho nhỏ cũng có thể bung lên thành một việc to lớn.
Một vụ “xung đột“ sôi nổi như sau đây, giữa học trò và một bọn “các chú“ trong thành phố, có thể biểu hiệu tinh thần chủng tộc đang tiềm tang trong đám thiếu niên thời bấy giờ.
Sau một kỳ nghỉ Hè, học sinh tấp nập đến các tiệm “các chú“ mua giấy bút, mực v.v… Hầu hết các tiệm buôn lớn có đủ dụng cụ học sinh, cũng như các tạp hóa khác, đều là của “khách trú“. Người An Nam ít vốn chỉ buôn bán nhỏ thôi. Vì thế, có vài tiệm “các chú“ thường hách dịch với khách hang, và hay ăn hiếp học sinh. Một em bé lớp tiểu học, độ 10 tuổi, đến tiệm Diêu Ký mua hai cuốn vở 100 trang. Người các chú có lẽ đông khách nên vội vàng lấy trao cho em hai quyển vở 50 trang. Em khờ khạo không xem kỹ, nhưng về nhà cha mẹ thấy sự lầm lẫn liền bảo con đến tiệm đổi lại. Người “các chú“ không đổi, lại còn la mắng cậu học trò. Ðứa con nít sợ về nhà sẽ bị cha mẹ đánh, nên nhất định đòi cho được vở 100 trang, vì quả thật nó đã trả tiền theo giá vở 100 trang. Người “các chú“ mắng nó là “ăn gian“ và đánh nó một bạt tai. Nó khóc thét lên. Vài cậu học trò lớn đứng chứng kiến sự cộc cằn hỗn láo của người Hoa kiều, và lên tiếng bênh vực đứa nhỏ, liền bị tuị “các chú“ chửi: ”Người An lam ăn cắp à!“ Chỉ một câu nói vô ý thức kia đã gây lên sự công phẫn của mấy cậu học trò và được truyền miệng đi khắp hết các đám học sinh trong thành phố. Thế rôì, do một nhóm bốn người học trò lớn xúi dục 7 giờ tối đêm hôm ấy trên 500 học trò cầm đá và củi, kéo đến ném tung các món ấy vào trong tiệm Diêu Ký, làm bể hết các tủ hang và gây thương tích cho tất cả trên 10 người các chú và á xẩm trong tiệm. Tuấn-em cũng có dự vào cuộc “khích động“ này. Năm giờ chiêù nó đang chơi bắt còng ngoài bãi biển, bổng có một đứa bạn đi xe đạp ngang qua, bảo nó: ”Mấy thằng các chú ở tiệm Diêu Ký chửi An nam là dân ăn cắp, tối nay tụi mình cầm củi và đá đi đánh cho chết cha tụi nó, mầy đi không?“
Tuấn đang chơi, tức giận chạy ngay về nhà trọ. Dọc đường, nó hốt hai ba chục hòn đá xám của sở Lục-lộ dùng để lót đường, bỏ đầy nhóc hai tuí áo cụt. Nó ra sau nhà bếp lấy ba thanh củi thật to, đem để sẵn dưới bàn học với đống đá của nó. Bà chủ nhà trọ thấy thái độ khả nghi của Tuấn, hỏi: ”Trò Tuấn làm chi mà lấy củi và đá bỏ một đống rứa?“ Tuấn nói rõ cho cô chủ nghe, và tỏ vẻ tức giận mấy người khách trú lắm. Cô chủ la rầy Tuấn, nhưng chồng cô, thầy Thông Vinh Kho bạc, bảo: ”Học trò, họ muốn đánh lộn với các chú thì mặc họ. Can cớ chi đến mình mà mình ngăn cản, hỉ?“. Trong thâm tâm, thầy Vinh cũng tán thành cuộc đả kích kẻ ngoại kiều dám xấc xược với người An Nam, tuy thầy không phải học trò nên không tham gia.
Còn bọn học trò, thì chỉ truyền miệng với nhau, chứ sự thật không có trò nào dám ra mặt chỉ huy trận “chiến tranh đá“ này và không ai nghĩ đến hậu quả. Chỉ lo trả thù câu chửi rũa hỗn láo của mấy người khách trú ở tiệm Diêu Ký thế thôi. Chỉ nghĩ đến việc ném đá và quăng củi vào tiệm, cho “chết cha tụi nó“, để hả cơn tức vì câu nói “người An lam ăn cắp“. Có thể gọi là sự bộc lộ “tinh thần dân tộc“, nhưng thật ra chỉ là sự bộc lộ cá tính bồng bột tự nhiên của tuổi trẻ, chứ chưa phải là một cuộc “biểu tình“ có tổ chức, có kẻ chỉ huy, vì không có ai chỉ huy cả. Trò Tuấn, cũng như mấy trò khác, chạy đi đến các nhà trọ có bạn bè trú ngụ, kể chuyện mấy người khách trú đánh đứa học trò nhỏ lúc 12 giờ trưa, rồi rủ 7 giờ tối đi ném đá. Trong số 6oo học trò của nhà trường, có độ 100 trò không dám làm việc ấy, còn thì trò nào cũng tức tốc chạy đi kiếm đá, củi để đến 7 giờ tối đem quăng vào tiệm Diêu Ký cho hả cơn giận.
Chưa đến 7 giờ, Tuấn đã cầm ba thanh củi, và bỏ đầy đá xám trong hai túi áo cụt, đi tới tiệm Diêu Ký, ngay trước cổng chùa Quảng Ðông, và đã thấy có sáu bảy chục học trò tụ họp ngay đấy rồi. Một trò tự động đầu tiên ném vào tiệm hai, ba cục đá to bằng trái cà và hai thanh củi. Mấy trò khác bắt chước ném theo, đá và củi tới tấp bay vào tiệm Diêu Ký như mưa, rôì tất cả bỏ chạy. Tuấn ném sau cùng trong lúc trong tiệm tụi “khách trú“ chạy ùa ra rất đông, cầm củi và dao, quyết trả thù lại. Tuấn bỏ chạy trong lúc một bọn học trò trên vài chục đứa khác từ ngoài bờ song kéo vào tiếp tục xung kích vào mục phiêu “địch“. Bọn học trò càng đông, tụi đã chạy rồi còn quay trở lại nữa với các cục đá và các cây củi xin ở các nhà An nam kế cận. Cuộc loạn đã kéo dài cho đến 10 giờ. Ðến 11,12 giờ, tiệm đã đóng cửa mà thỉnh thoảng cũng còn những cục đá to tướng ném chan chát vào hai cánh cửa, và trên mái ngói.
Cảnh sát ở đâu? Cả thành phố to lớn như thế chỉ có 6 người “lính phú lít“, toàn là người An nam. Họ thay phiên nhau ba người ở sở để hầu hạ ông “Cò“ Pháp, và túc trực ở văn phòng. Còn 3 ngươì được nghỉ ở nhà đi uống rượu đánh bạc. Thành phố rất yên ổn, không cần có “phú lít“. Bị học trò đánh và đánh nhau với học trò, mấy người “khách trú“ không dám đi thưa “bót phú lít“ vì ban đêm họ không dám đến phá rầy quan Tây. Mãi 8 giờ sáng hôm sau, chủ tiệm Diêu Ký cùng cả gia đình khách trú trên 10 người bịu đầu, lỗ trán, chảy máu mắt, sưng mặt, sưng mũi, gãy răng, rách áo, rách quần, kéo đến sở Cò. Họ còn khệ nệ bưng theo bốn chai rượu chat đỏ, một bịch thuốc Méllia và 20 hộp sữa Nestlé để “kỉnh quan lớn“ nhờ quan lớn xử giùm, mong “đèn trời soi sáng“ cho họ được nhờ vì họ bị bọn “học trò nhà nước đánh phá tan hoang hết cửa tiệm".
Ông Cò nhận các đồ lễ, rồi điềm nhiên bảo họ cứ đi về buôn bán, ông sẽ xử cho. Tất cả đều cúi khòm lưng vái chào cảm ơn quan lớn. Ông Cò làm bản tường trình đem lên ông Sứ (chính thức là quan Công Sứ) ông Sứ chuyển giấy sang ông Ðốc học, cũng người Pháp.
Ông Ðốc cho gọi vài cậu học trò lớn lên phòng giấy, để hỏi về cụ đánh các chú đêm vừa qua. Các trò đồng thanh trả lời:
- Monsieur le Directeur, ces Chinois sont des voleurs. (Thưa ông Ðốc, mấy người Hoa kiều ấy là bọn ăn cắp). Ils volent les élèves (chúng nó cướp tiền của học trò).
Ông Ðốc cũng tường trình lên ông Sứ:
- Monsieur le Résident, les Chinois sont des voleurs, Ils volent mes élèves. (Thưa Quan Công Sứ, Hoa kiều là tụi ăn cắp. Chúng nó cướp tiền học trò tôi).
Bảy hôm sau, ông Cò gửi trát đòi chủ tiệm Diêu Ký lên hầu. Ông thân ái khuyên bảo người Hoa kiều:
- Từ nay không nên ăn cướp tiền của học trò . Chúng nó sẽ không phá phách cửa tiệm của mầy nữa đâu (người Pháp thời bấy giờ vẫn khinh khi người Hoa kiều, và gọi họ bằng “mầy“, ít khi họ gọi “anh“ hay “ông“.
Qủa thật, vụ “chiến tranh đá và củi“ năm 1924 không tái diễn nữa.
Sau vụ này, Tuấn –em sung sướng khoe với các bạn là nó đã ném một cục đá trúng kêu cái “đóp“ vào đầu một chị xẩm, tại chị này đứng trước cửa xăn quần lên đến đầu gối, chửi lũ học trò: ”Mẹ tổ cha mấy đứa học trò A lam à!“.
Ngoài vụ đánh phá tiệm Diêu Ký, bình nhật “học trò An-nam“ vẫn hiền lành như đất cục, ngày tháng chăm lo học hành.
Thiểu số dăm bảy cậu thỉnh thoảng được đọc thường xuyên và không dám nói lại cho nhiều người nghe những bài văn thơ “kinh thiên động địa“ mà các cậu đã được đọc, từ nghìn xa lén lút trao về.
Nhưng đó là những món ăn tinh thần nghiền ngẫm mãi trong tiềm thức, thấm nhuần trong đầu óc, bổ dưỡng cho suy tư, để rồi có cơ hội thuận tiện là bộc phát lên như dậy men, như bùng lửa, như sôi máu, sôi gan…
CHƯƠNG 27
1920 - 1924
- Trước 1925 danh từ “Việt Nam“ chưa được thông dụng trong dân chúng.
- Nước gọi là An Nam, Dân gọi là người An Nam, hoặc là Annamite (theo tiếng Pháp).
- Ða số "Thượng lưu trí thức Nam kỳ“ nhập tịch dân Pháp, theo đạo Thiên Chúa, và sống theo Tây.
- Hoàng thân Lào, Sinh Viên Cao Ðẳng Công chính Hà Nội, tên là Souphanouvong, lấy vợ An Nam ở Nha Trang (Nay là lãnh tụ Pathet Lào).
- Nhiều tỉnh Bắc, Trung Kỳ chưa có đèn điện.
- Dư luận xôn xao về vụ một ông Quan Ba tàu thủy Pháp cho học trò nhiều tiền để đánh ông trên đường đèo, đêm vắng.
- Một ông Giám-binh Tây, đi kinh lý, ở ngủ lại ban đêm trong làng.
Trước 1925, hay nói cho đúng là trước tháng 7-1925, hồi cụ Phan bội Châu chưa bị Tây bắt tại Thượng Hải đưa về Hà Nội, danh từ "Việt Nam" chưa được phổ thông trong dân chúng, và chưa được chính thức áp dụng ở xứ ta. Trên các công văn, báo chí, sách vở bằng chữ Pháp cũng như chữ Quốc ngữ không mấy khi dùng đến hai tiếng "Việt Nam".
Bên Nam triều, theo quốc hiệu đã được sửa đổi từ thời vua Minh-Mạng, các giới quan trường và trên các giấy tờ chính thức, đều dùng hai chữ “Ðại Nam“. Vua An Nam được xưng hô là Ðại Nam Hoàng Ðế.
Các nhà trí thức, khiêm nhường hơn, thường viết là “Nước Nam“, hoặc “Nam Quố “, còn dân chúng, từ Nam chí Bắc, lại quen dùng danh từ đã có sẵn từ nghìn xưa, do chính người Tàu ban bố cho, là “nước An-Nam“. Người Tàu gọi người Việt là Ố-nàm-dàn (An nam nhân). Ở Hà Nội, nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu, chủ trương một tờ báo văn nghệ, lấy tên là An Nam Tạp Chí. Ở Saigon, ký giả tài ba xuất chúng là Nguyễn Phan Long điều khiển một tờ báo viết bằng Pháp-ngữ, lấy tên là Echo Annamite.
Riêng ở Nam kỳ, phần đông các giới “thượng lưu trí thức“, và các nhà kỹ nghệ, thương mại, đại điền chủ ở Saigon và Lục tỉnh, lại không thích người ta gọi mình là "Annamites”. Ða số đã xin vô "dân Tây“, sống theo lối Tây, và hãnh diện được gọi là "Citoyens Français“ (ông dân Pháp). Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, trái lại, hạng “An Nam dân Tây “ rất hiếm. Ngay những người thân Pháp nhất, triệt để trung thành với Pháp, nhà văn như Phạm Quỳnh, quan lại cao cấp như Hoàng Trọng Phu, Vi Văn Ðịnh, Tôn Thất Hân, Thái văn Toản, v.v… đều giữ nguyên quốc tịch An Nam.
Về tiếng xưng hô địa danh của ba miền, tuy người Pháp đã đặt riêng ra ba tên khác nhau: le Tonkin (Bắc Kỳ) - người là les Tonkinois; L’Annam (Trung Kỳ), người là les Annamites du Centre; la Cochinchine (Nam Kỳ), người là les Cochinchinois, nhưng tiếng An - nam và Annamites vẫn thông dụng hơn, từ Nam chí Bắc. Ở Hà nội, Hải phòng, cũng như ở Huế, Qui nhơn, Saigon, Cần thơ, Châu đốc dân chúng vẫn quen gọi với nhau là “người An nam“ và nói: hàng hóa An nam, ngày An nam, các quan An nam, tiệm buôn An nam, ngày Tết An nam, v.v…
Chính những người có học thức cũng quen nói như thế trừ những nhà làm cách mạng mà thôi. Những người bình dân ở Saigon và Lục tỉnh, không học Ðịa dư, thường gọi từ Nha Trang trở ra là “xứ Bắc“, hoặc là “xứ Huế“, ”xứ Nghệ“. Ít khi họ phân biệt là miền Bắc, miền Trung. Thỉnh thoảng họ gọi bằng một danh từ châm biếm và khôi hài là “dân trọ trẹ“. Tại vì tiếng nói từ Nha Trang trở vào Phan Thiết, cũng na ná như tiếng miền Nam, còn từ Quy Nhơn trở ra Nghệ An, Hà Nội, giọng nói hơi nặng, người miền Nam nghe khó hiểu.
Người miền Trung lại gọi Nam Kỳ là đất "Ðồng Nai Gia Ðịnh“. Người bình dân miền Bắc thỉnh thoảng lại gọi Nam Kỳ là “xứ ở gần mặt trời".
Cho đến năm 1932, đường hỏa xa từ Hà nội vào Trung Kỳ chỉ mới tới Tourane, mà người Việt gọi là Cửa Hàn (nay là Ðà Nẵng). Ðường xe lửa từ Saigon ra, cũng chỉ đến Nha Trang, nơi đây là ga cuối.
Tại Nha Trang năm 1924, có một khách sạn khá lớn ở ngay trước ga xe lửa, mà chủ nhân người An-nam, đặt tên là Hotel Terminus (Khách sạn Cuối). Ông chủ Hotel, có một cô con gái khá đẹp và rất lãng mạn, tên là Kỳ Nam.
Vào khoảng 1937, có một cậu sinh viên trường Cao Đẳng Công Chính Hà nội là một Hoàng tử Lào, nhân dịp nghỉ hè, đi nghỉ mát ở Nha Trang. Cậu sinh viên Hoàng tử đến trọ tại "Khách sạn Cuối“ và được dịp làm quen với cô Kỳ Nam, con gái ông chủ. Ðối với cậu Hoàng tử Lào lúc bấy giờ, lấy được một “tiểu thư Annam“ làm vợ là cả một vinh dự lớn lao.
Ðối với cô thiếu nữ lãng mạn ở Nha Trang, lấy một người chồng là Hoàng tử, mặc dầu là Hoàng tử Lào, và không đẹp trai, cũng là một hạnh phúc thần tiên. Thế là cuộc tình duyên thơ mộng đã kết cuộc bằng một đám cưới vô cùng long trọng. Ðôi vợ chồng Việt - Lào đó hiện nay vẫn còn sống và cậu sinh viên Hoàng Tử Lào lúc bấy giờ chính là Souvanna Souphanouvong, lãnh tụ Pathet Lào hiện nay.
1924, nhiều tỉnh chưa có đèn điện, tuy là những thành phố lớn vào hạng ba, hạng tư, ở toàn xứ An nam. Ðường phố vẫn còn thắp đèn acétylène cháy nhờ hơi đá carbure, đựng trong một bình bằng đồng, lồng trong bốn mặt kiếng, trên cột sắt sơn đen và chạm trổ rất đẹp . Thường có những con thằn lằn to lớn không biết từ đâu bò lên trên mặt kiếng để đớp những con thiêu thân. Hình bóng những con thằn lằn ấy ngã xiêng xuống mặt đường, lúc hiện ra nằm dài trên đường lộ, lúc rút lại trong bóng tối, như những bóng ma. Nhất là trong những đêm mưa gió và ở các ngã tư vắng vẻ những “bóng ma" ấy thường làm cho những học trò nhút nhát ghê rợn không dám đi qua.
Trừ ba thủ đô Saigon, Huế, Hà Nội, và các thị trấn quan trọng như Nam Ðịnh, Hải Phòng, Vinh, Tourane, Cần Thơ, v.v…, còn hầu hết ở các thành thị khác, đường phố không có tên, và không có số nhà . Dân chúng thường gọi theo những tên địa phương mà không ai đặt ra nhưng moị người đều biết, như: đường Lò Heo, đường Lò Vôi, đường Bờ Sông, đường Cống Kiều, đường Nhà Thờ, đường Miễu Cô hồn v.v…
Tuy thế, trong mỗi tỉnh, đường nào ở đâu, nhà nào ở đâu, nhà ai, ở xóm nào, mấy anh cu li xe kéo đều biết hết. Vì đường phố hãy còn ít, nhà cửa chưa đông đúc, đất trống còn nhiều, kỹ nghệ chưa thành hình, thương mãi của người An nam gần như không đáng kể.
Hầu hết các hiệu buôn bán lớn là của "các chú“, của “ Chà và“ của “Ma la bà“ (Chà và là Java - Nam Dương; Malabar: gốc Ấn Ðộ). Các hãng xuất nhập cảng là của người Tàu, hoặc Pháp, An nam chỉ đành phận bé nhỏ, nghèo hèn, với những tiệm cúp tóc đơn sơ, tiệm thợ may (hai ngành này phát triển nhất) thuốc Nam, thuốc Bắc, hoặc tạp hóa nho nhỏ. Thỉnh thoảng xen vào một vài tiệm người Bắc, chuyên môn bán đồ đồng (mâm, lư, đèn) và một ít lụa Hà Ðông.
Trừ một vài đại lộ đã trải nhựa goudron để cho xe hơi chạy, nhất là xe các quan, còn thì hầu hết các đường phố đều lồi lõm, chổ u, chổ đột, sạn đá gồ ghề, mỗi lần mưa to là nước chảy như đường mương, khe suối.
Cứ chiều chiều, tan giờ học, Tuấn thường ưa đi dạo xem các dãy phố, các tiệm buôn, các nhà cửa vườn tược, chùa miếu ở khắp hang cùng ngỏ hẻm. Tính tò mò, chỗ nào cũng muốn đến, việc gì cũng muốn thấy, chuyện gì cũng muốn nghe, cậu học trò 15 tuổi mặc áo dài đen vá nơi cùi chỏ, mang đôi guốc cùn ba xu, đi lang thang khắp phố, khắp phường.
Gặp các ông giáo, nhất là ông giáo sư Vật Lý học và Hóa Học, cậu vội vàng chạy trốn. Ông này người Huế, mặt nhiều mụn, cái miệng hay dô ra, cặp mắt sáng quắc, thường đi xe máy. Tốt nghiệp Trường Cao Ðẳng Hà nội, ông rất giỏi về Lý Hóa, nhưng cũng rất nghiêm khắc với học trò. Ðã ba lần rồi, buổi chiều gặp Tuấn đi chơi ngoài phố, là sáng hôm sau giờ Vật lý hay Hóa, ông gọi Tuấn lên trả bài. Luôn luôn ông cho Tuấn ăn hột vịt. Một buổi chiều chủ nhất, ông trông thấy Tuấn nằm chơi một mình trên bãi biển Gành Ráng, sáng thứ hai ông kêu Tuấn lên trả bài. Trò Tuấn ở nhà học thuộc bài vanh vách, nhưng không biết tại sao khi vào lớp, đứng trước mặt giáo sư trò quên tất cả. Ông giáo thưởng cho trò một con zéro bự rồi trừng mắt nói với cả lớp:
- Ce cancre ne sait jamais ses leçons, parce qu’il s’ amuse tout le temps avec les cancres (Thằng học trò lười biếng ấy không bao giờ thuộc bài bởi vì nó chơi cả ngày với mấy con cua biển).
Do lối “chơi chữ“ của ông Giáo sư, vì chữ cancre có hai nghĩa, mà bạn bè trong lớp gọi đùa Tuấn là “con cua biển“ (hay là thằng lười biếng, theo nghĩa thứ hai).
Một buổi tối, Tuấn nằm trên bãi cát, nghe tiếng sóng hòa nhịp với tiếng reo vi vu của rặng cây phi lao trên Cầu Tàu. Ngoài khơi, có chiếc tàu Orénoque của Tây đậu cạnh hải đăng. Ông quan ba với mấy người thủy thủ chèo chiếc tam bản (tây gọi là sampan) vào cặp bến. Mấy người thủy thủ lên bờ, đi bách bộ vào thành phố, vừa đi vừa hát om sòm. Bãi bể tối om, xa xa có một ánh đèn đá lắt leo trong gío lộng. Tuấn ngạc nhiên thấy ông quan Ba đến gần cậu .Tuấn không lo sợ gì, vì cậu đã biết nói tiếng Tây, sẵn sàng đối đáp. Ông quan Ba vuốt tóc cậu. Và khẽ nói với giọng rất hiền hòa:
- Bonsoir, mon enfant
Tuấn bạo dạn đáp lại, với giọng con nít:
- Bonsoir, monsieur…
Ông quan Ba lấy trong túi ra một gói sô-cô-la cho Tuấn, và bảo Tuấn đưa ông đi dạo phố . Lần đầu tiên Tuấn được đi chơi với ông Tây, - lại là ông quan Ba tàu thủy, - nói chuyện với ông thân ái và tin cậy như một người bạn lớn tuổi. Dọc đường, ông bảo Tuấn rủ thêm bốn đứa bạn nữa cùng đi cho vui. Ông nói :"Tôi rất yêu thanh niên An nam“. Tất cả có bốn đứa bu theo bên ông đều là bạn học của Tuấn, được ông cho kẹo, cho thuốc hút, cho nhiều tấm hình cartes postales in các thắng cảnh bên Tây rất đẹp. Rồi ông đề nghị: ”các em đưa tôi đến một nơi nào thật hoang vắng, ngoài châu thành, nơi không có người qua lại. Ngồi chỗ vắng như thế, chúng ta sẽ xem trăng, xem sao, và nói chuyện thú hơn“. Tuấn và bốn đứa bạn hăng hái đưa ông lên chân núi Xuân Quang, nơi đây không một bóng người, không một túp nhà, cách xa thành phố 2 kí lô mét.
Sau khi tất cả đều ngồi xung quanh ông, trên một bãi cỏ, nghe ông kể chuyện bên Tây, một lúc thật vui, ông quan Ba cười bảo: ”Bây giờ các em sẽ xem tôi bày ra một trò chơi rất lý thú nhé“. Cả bọn nôn nao vui mừng. Ông lấy một đồng bạc đưa Tuấn, bảo: "Em xuống phố mua chừng 5 thước dây dừa thứ lớn và thật chắc, 9 hoặc 10 cây roi mây, hoặc roi tre, hay là những khúc củi dài cũng được, và 100grammes ớt thứ thật cay, với 100 grammes muối“. Tuấn hơi lo ngại hỏi: ”Trò chơi gì mà phải dùng các món đó? “Ông quan Ba cười, nụ cười hiền lành đáng tin cậy:
- Em cứ đi tìm các món đó về đây, rồi các em xem tôi làm trò chơi này hấp dẫn lắm.
Tuấn và một đứa bạn theo lệnh ông vội vàng chạy về phố tìm mua một bọc ớt, mốt gói muối, và năm cuộn dây dừa. Còn roi thì các trò không biết mua ở đâu, bèn bảo nhau nhổ đại mấy cây tre cắm hang rào của một căn nhà trống ngoại ô.
Khi Tuấn trở lại núi Xuân Quang với đủ các đồ "chơi" kia, ông quan Ba vui vẻ bảo: ”Các em lột hết quần áo của tôi ra, lấy dây dừa cột hai tay hai chân của tôi lại,và trói chặt nhé, và đè tôi nằm xuống đất, đừng cho tôi quẫy cựa. Rồi các em thay phiên nhau mỗi người cầm một cây roi tre đánh vào mông đít tôi. Phải đánh thật dữ tợn. Các em đánh tôi như đánh một kẻ thù, vừa đánh vừa chửi, và đánh thật mạnh, đừng sợ tôi đau. Ðánh mãi chừng nào gãy nát hết mấy cây roi, và đánh sao cho nổi lằn trên đít tôi, cho rơm rớm máu… Nhưng các em nhớ rằng chỉ đánh trên mông đít, đừng đánh trên lưng hay trên đầu, hay các chỗ khác trên thân thể tôi. Ðánh trên mông cho chảy máu rồi gĩa muối ớt cho thật nhỏ, chà xát trên những chỗ lằn roi rớm máu ấy. Xong rồi tôi sẽ thưởng cho mấy em mỗi đứa 2 đồng bạc.
Hai đồng bạc thời bấy giờ giá trị hơn 200 đồng ngày nay. Tuấn và bốn đứa bạn do dự, không đứa nào dám làm công việc lạ lùng ấy mà các trò không hiểu tại sao. Nhưng ông Tây quan Ba cứ năn nỉ, van lơn, và đưa trước cho mỗi trò hai đồng bạc. Sau cùng, Tuấn bảo các bạn: ”Tuị mình cứ làm như lời ổng dặn, nếu có xẩy ra việc gì thì chạy trốn. Trời tối, đêm vắng, núi hoang, sợ cóc gì, hè!“
Nhưng Tuấn hỏi ông quan Ba:
- Chơi trò chơi chi mà kỳ cục thế hả ông?
Ông Quan Ba mỉm cười đáp:
- Các em làm cái việc ấy xong, rôì tôi kể chuyện cho nghe. Chuyện hay lắm.
- Tụi tôi đánh ông, rôì ông có đánh lại tụi tui không?
Ông quan Ba cười:
- Không, tôi là Quan Ba Tàu Thủy, tôi không phỉnh gạt các em đâu.
- Lỡ đánh ông rôì tụi tui bị lính bắt bỏ tù thì sao?
- Nơi đây vắng vẻ, có ai biết đâu? Chính tôi đề nghị cái trò chơi ấy cơ mà! Nào! Bây giờ các em xúm lại lột quần áo của tôi ra đi. Chúng ta bắt đầu cuộc chơi rất hấp dẫn say mê này. Nào! Các em ra tay đi!
Tuấn cưòi bảo mấy đứa bạn cùng xáp vào thi hành “trò chơi“ ly kỳ, bí mật, mặc dầu chưa biết kết cuộc sẽ như thế nào.
Ðể kích thích sự can đảm của năm thiếu niên Annam, ông Quan Ba tự cởi hết áo quần ra.
Tuấn lấy sợi giây dừa, cùng bốn đứa bạn bắt đầu trói tay trói chưn ông Tây… Nói đúng ra năm cậu con nít này đều có cảm tưởng đang làm một việc động trời, cho nên trò nào cùng còn sợ sệt ngại ngùng. Ai mà khi không dám cầm roi quất vào mông đít một ông Tây? Lại là ông Tây quan Ba? Nhưng ngẫu nhiên được cơ hội đánh Tây, Tuấn tỏ ra hăng hái nhất. Tuy rằng cậu không có thù oán gì ông Tây quan Ba này, trái lại, từ lúc mới gặo cho đến bây giờ, cậu và bốn đứa bạn đều kính mến ông và được hân hạnh chơi thân với ông, nhưng sẳn “trò chơi“ kỳ quái và nguy hiểm này chính ông Tây bày đặt ra, và chính ông van lơn, năn nỉ các trò đánh đập ông. Tuấn bổng nhiên cảm thấy từ trong thâm tâm nổi dậy sự vui thích dã man được đánh một ông Tây cho thỏa lòng “ái quốc hận thù“. Ðó là ảnh hưởng đột ngột và đầu tiên của những bài thơ ái quôc mà cậu đã đọc lén trong hai tờ báo bí mật “Việt Nam Hồn“ và “Le Paria“.
Sự “căm thù“ hoàn toàn vô ý thức, vì không lý do gì cả đối với cá nhân ông Tây Quan Ba rất hiền lành tử tế kia nhưng Tuấn sung sướng được dịp cầm roi quất trót, trót!… thật mạnh, thật đau, trên hai mông đít trần truồng của ông Tây, vừa chửi đã đời, vừa đánh đã đời: ”Tổ cha thằng Tây! Tao oánh cho chết mày! Sao mầy qua lấy nước tao?... Sao mầy bắt bỏ tù vua Duy Tân của nước An Nam?... Mẹ cha mầy!..."
Thật là một cơ hội hy hữu, vừa là một dịp đầu tiên trong đời trẻ con của các cậu học trò trường Tây được đánh một ông Tây! Tuấn đánh nhiều hơn cả, liên tiếp ba cây roi tre đều dập nát hết. Rôì đến phiên ba trò kia cũng thi nhau mà đánh, mà chửi, một trò không dám đánh mạnh, một trò vừa đánh vừa cười. Ông Tây vẫn nằm yên, sắp mặt xuống đất, tay chân bị trói chặt bằng mấy vòng dây dừa to bằng ngón chân cái. Theo đúng lời căn dặn của “khổ chủ“ năm trò đánh nát cả chục cây roi tre, để trên hai mông của ông chằng chịt những lằn roi rướm máu, rồi gĩa muối thật cay để xát vào những lằn máu kia. Quái lạ làm sao! Ông Tây vẫn nằm yên, không hề tỏ vẻ gì đau đớn cả, và không kêu la một tiếng. Nhưng khi năm bàn tay học trò xát mạnh muối ớt lên những lằn roi ứa máu, thì tụi này nghe ông bắt đầu rên rĩ… Ông rên rĩ một giọng khoái trá, một giọng đê mê… như tiếng mèo đực ôm ghì lấy mèo cái trong đêm khuya trên mái nhà.
Năm đứa học trò An nam không hiểu cái lối “chơi“ gì lạ lùng quái gở của ông Tây.
Nửa giờ sau, “cuộc chơi“ chấm dứt. Mười cây roi tre đã dập gãy xác xơ, nắm muối ớt chà xát trên mông ông Tây cũng đã hết rồi. Ông nằm rên một lúc khá lâu, mắt nhắm riết gần mười phút đồng hồ, không quẫy cựa. Năm cậu học trò ngồi xuống đất, hồi hộp đợi xem.
Tuấn khẽ bảo mấy đứa bạn:
- Nè, nếu ổng ngồi dậy la làng xóm, thì tụi mình chạy trốn hết nhé. Ðứa nào đứa nấy lẻn về nhà nằm. Sáng mai đừng đi ra phố mà cũng đừng nói gì cho ai biết chuyện nầy, tụi bay nghe?
Tất cả đều băn khoăn lo sợ. Trò Tuấn sợ nhất, vì chính trò cầm đầu vụ này và trò đánh ông Tây hăng hái nhất.
Ông Tây mở mắt mỉm cười, tuy nụ cười hơi mệt nhọc. Ông nói chậm rãi, uể oải, nhưng giọng nói thoải mái:
- Ah, mes enfants! C’est bien! C’est très bien! Merci! Merci! (À, các con ơi, Giỏi lắm! Giỏi tuyệt! Cảm ơn …cảm ơn…)
Ông bảo tiếp:
- Maintenant, délivrez-moi de cette corde de coco. (Nào, bây giờ các con hãy cởi hộ cái dây dừa ra cho ta).
Năm đứa học trò xúm lại mở dây trói ra cho ông rôì ông lấy áo quần mặc vào . Ông móc túi áo lấy cho thêm mỗi đứa 2 đồng bạc, vừa nói lâm râm trong miệng:
- Merci! Merci! (Cảm ơn! Cảm ơn!)
Ông và lũ học trò kéo nhau xuống thành phố. Dọc đường, Tuấn hỏi cuộc “chơi“ lạ ấy có ý nghĩa gì, và ở bên nước Tây người ta thích chơi kiểu đó làm sao?
Ông Tây mỉm cười đáp:
- Ðó là một lối chơi riêng của người Âu châu, nhưng chỉ có số ít người thôi, nhất là những người ở Hải quân, vì họ đi ngoài biển tháng này qua tháng nọ ít được tiếp xúc với đàn bà… nhưng các con đừng nói lại chuyện này cho ai biết nhé!
Mấy cậu học trò vẫn chưa hiểu gì cả, và ông Quan Ba thuyền trưởng chiếc tàu Orénoque, cũng không nói thêm câu nào nữa. Hình như ông mắc cỡ, cho nên gặp chiếc xe kéo bánh cao su đáng đi lang thang kiếm khách, rung lạc leng keng… leng keng, ông Quan Ba vội vàng nhẩy lên xe bảo chạy ra bãi biển.
Mấy hôm sau, chiếc Orénoque đã rời bến đi mất rồi. Tuấn mới dám đem chuyện đánh ông Tây Quan Ba ra thuật lại cho một vài vị giáo sư nghe và nhờ quý vị giải thích dùm cho… Nhưng tất cả các giáo sư Tây và Nam và mấy thầy làm việc gần Tây đều không ai tin câu chuyện của Tuấn. Họ còn cho rằng Tuấn đặt chuyện nói láo.
Câu chuyện thắc mắc “đánh ông Tây“ vẫn còn in đậm trong đầu óc Tuấn mười mấy năm sau. Một hôm, ngẫu nhiên ở thư viện Hà Nội Tuấn đọc một quyển sách Pháp nói đến các chứng bịnh về tình dục (maladies sexuelles), có tả một câu chuyện giống hệt chuyện Tuấn đánh ông Quan Ba. Trong sách bảo lối “chơi“ bệnh hoạn ấy gọi là Flagellation (đánh roi). Nhưng vị bác sĩ, tác giả quyển sách cũng không giảng giải rõ ràng, chỉ phân tích một vài triệu chứng đau thần kinh mà thôi.
Vụ quan Ba tầu Orénoque do Tuấn và bốn đứa bạn nói cho nhiều người nghe, vài hôm sau cả thành phố đều biết. Và sau đó tám tháng, chiếc Orénoque trở lại cập bến, nhưng viên Công Sứ Pháp cai trị thành phố ra lệnh cấm ông Quan Ba lên bờ.
Có lẽ để giữ thể diện và uy tín chung cho người Pháp ở An nam chăng?
Tuấn và bốn đứa bạn vẫn khoe với mọi người rằng chúng đánh Tây mà được Tây thưởng tiền! Lời khoe khoang của con nít còn khờ khạo, nhưng sự ngẩu nhiên được đánh Tây tuy là một hành động máy móc do chính ông Tây kia xúi dục để thỏa mãn một chứng bịnh tình dục của ông, nhưng không dè cũng chính là khởi điểm một thỏa mãn thầm lén được “đánh Tây“ và “chửi Tây“ của mấy học trò An nam 14, 15 tuổi đã đọc “Việt Nam Hồn“.
Tôi muốn đề nghị với bạn đọc, ta nán lại hơi lâu một tí trong năm 1924 nầy. Tôi muốn phác họa bức tranh sinh hoạt của xã hội Việt Nam, và riêng của thanh niên trong năm này đối với nhiều chi tiết nữa, về các phương diện tinh thần và vật chất, để rồi sang năm 1925 chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc thay đổi toàn diện, do một vài yếu tố chính trị gây ra một cách bất ngờ. Các bạn sẽ thấy năm 1924 chấm dứt một giai đoạn của Lịch sử Việt Nam và đồng thời cũng chấm dứt một thời niên thiếu của chàng trai đất Việt mà sau này người ta sẽ gọi là Thế hệ thanh niên 1925.
Thế hệ này sẽ đóng góp một vai trò rất quan trọng trong Lịch sử Dân Tộc cho đến năm 1945…
1924, sự tiếp xúc với người Pháp ở toàn cõi Việt Nam, trên phương diện chính trị cũng như xã hội, đã được bình thường, sau tám năm thái bình an lạc, kể từ cuộc thất bại gần như âm thầm của phong trào Duy Tân tháng 5 năm 1916.
Thời kỳ 1918-1924 là thời kỳ an ninh nhất trong Lịch sử đô hộ của Pháp ở khắp ba cõi Nam Trung Bắc kỳ, và ngưòi Pháp thường hãnh diện cho là thời kỳ “Thái bình của Pháp“, nhờ nước Pháp tạo nên, họ gọi là "La Paix Francaise“.
Năm xứ Ðông Dương do họ cai trị, gồm có Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Miên, họ gọi là Indochine Francaise và được dịch ra danh từ chính thức là Ðông Pháp. Uy tín của người Pháp ở đây lúc bấy giờ thật là lớn lao, địa vị của họ thật là bền vững, xét bề ngoài hình như không có sức mạnh nào làm lung lay nổi uy quyền của họ.
Lá cờ Pháp với ba màu nổi bật, bay rực rỡ một mình trên ngôi bá chủ, ngự trị khắp cõi bờ thuộc địa, uy nghi trên các thành quách lâu đài, phất phới trên mái nhà tranh nhà ngói…
Việt Nam không có cờ, bởi lẽ rất giản dị là không có nước Việt Nam! Chỉ riêng xứ Trung kỳ có lá cờ của Nam triều, nền vàng với một miếng cờ Pháp chiếm một góc trên bên trái, nhưng cờ này chỉ treo nơi cửa Ngọ Môn ở Huế và tại các tỉnh đường mà thôi. Dân chúng không ai treo cờ Nam triều (cũng có chỗ gọi là cờ An Nam, có nơi gọi là cờ Khải Ðịnh. Từ 1932, cờ này đổi lại cờ mới, kiểu khác, dân chúng gọi là cờ Bảo Ðại). Vả lại không ai bắt buộc phải treo “cờ An Nam“ cho nên không ai may cờ ấy làm chi cho tốn vải, vô ích!
Ở Nam Kỳ chỉ treo cờ Pháp, mà dân chúng gọi là “cờ Tam Sắc“. Ở Trung Kỳ và Bắc kỳ gọi là “cờ Tam Tài". Trò Tuấn có hỏi vài ông Tú nhà Nho taị sao cờ Pháp (xanh trắng đỏ) lại goị là cờ tam tài, các cụ giảng nghĩa: ”cờ Ðại Pháp gồm có Thiên Taì, Ðịa Tài, Nhân Tài, nên gọi là cờ Tam Tài“, Tuấn lại hỏi ai đặt ra danh từ ấy? thì các cụ chịu thua. Một cụ Cử trả lời bông lông: ”Chắc là có một ông Quan An Nam nào đặt ra như thế, để quan Tây vui lòng“. Một vài ông giáo sư Tây học trả lời cho Tuấn như sau đây: ”Mầu xanh là tượng trưng nền da trời, cao siêu tột bực. Màu trắng là trong sạch tinh khiết, quảng đại vô biên. Mầu đỏ là rực rỡ như vầng thái dương rọi khắp hoàn cầu.” Nhưng Tuấn tò mò, ham học hỏi, muốn biết đến nơi đến chốn, bèn hởi thẳng một người Pháp, ông Charol, giáo sư Sử ký. Ông này giảng rõ ràng cho Tuấn nghe: "Lá cờ ba sắc của Pháp hồi khởi cuộc cách mạng 1789. Lúc bấy giờ nước Pháp còn là một nưóc quân chủ chuyên chế, lá cờ của nhà vua là màu trắng, dân chúng Paris nổi dậy đòi nhà vua phải chia sẻ quyền hành cho dân, và sau khi phá ngục Bastille, đòi vua phải triệu tập một hội nghị nhân dân. Chính trong hội nghị ấy, nhà lãnh tụ La Fayette đề nghị bỏ lá cờ trắng có hoa huệ (drapeau blanc fleur de lys) của vua, mà thay vào cờ của dân chúng thủ đô Paris, kèm hai bên màu trắng của vua. Lá cờ tam sắc được dân chúng hoan hô nhiệt liệt và từ đấy được coi là cờ cách mạng. Ðến khi tòa án nhân dân diệt Vua Louis XVI và Hoàng Hậu Marie Antoinette để thành lập chính phủ Cộng Hòa, lá cờ tam sắc vẫn được chính thức nhìn nhận là lá cờ của Cộng Hòa Pháp quốc, lá cờ của nhân dân Pháp.
Tuấn nghe ông Giáo sư Pháp giảng rõ lịch sử lá cờ tam sắc, liền nhớ lại những lời giảng qua văn chương triết lý của mấy cụ nhà Nho và mấy vị giáo sư “An nam“. Tuấn nghĩ rằng các ông ấy chỉ muốn đề cao nước Pháp, và những kẻ nào đã đặt ra danh từ “cờ Tam Tài“ cũng chỉ có mục đích nịnh bợ người Pháp, không cần căn cứ đúng trên ý nghĩa lịch sử chân chính của nó.
Trừ các nhà Cách mạng An nam đã đi ở tù, hoặc bị đầy nơi xa (như đã nói ở một chương trên) còn hết thảy những người trí thức Nho học và Tây học mà trò Tuấn được dịp tiếp xúc, đều khen Tây và phục Tây sát đất.
Như thế, xét về tình hình toàn diện đến cuối năm 1924, thì quyền bá chủ của người Pháp ở Ðông dương đã được mặc nhiên công nhận. Không ai chối cãi rằng nước Pháp quả thật văn minh tiến bộ về khoa học hơn nước ta nhiều.
Một số trí thức Tây học đã không ngần ngại, trong sách báo cũng như trong các bài diễn thuyết trước công chúng, tán dương vai trò lãnh đạo của nước Pháp, mà họ hãnh diện suy tôn là bậc nhất hoàn cầu.
Nhiều nhà báo kỳ cưụ ở Nam kỳ thuộc vào hạng thượng lưu và trung lưu vẫn thường nói: ”Thầy Ðại Pháp của chúng ta“. Các nhà Nho-học và Tây học ở “Trung, Bắc lưỡng kỳ“ lại ưa dùng những danh từ mới, mới đặt ra trong thời kỳ ấy, - những danh từ rất thịnh hành mà người ta thường gặp luôn trong các sách, báo do các nhà “Trí Thức An nam viết, và các bài diễn văn, như: Khai hóa, đuốc văn minh, mẫu quốc, nhà nước bảo hộ, quan thầy Ðaị Pháp v.v… và những câu đại khái như: ” Nhà nước Ðại Pháp đến khai hóa cho dân An Nam ta“, “dân An Nam ngày nay đã văn minh tiến bộ, ta phải nhớ đến công ơn Quan Thầy Ðại Pháp“ v.v… và v.v…
Nhiều người ưa lý sự nhất trong tỉnh, những tay ăn nói cừ nhất, thuộc về hạng trung lưu, nếu không dua nịnh người Pháp, thì cũng cho rằng người Pháp cai trị xứ An Nam là một việc dĩ nhiên, không đem ra làm một đề tài mổ xẻ chỉ trích phê bình gì nữa cả.
Duy có tụi thiếu niên học sinh là ngây thơ chưa biết gì. Chính là học trò trường Nhà Nước, học chữ Tây đã khá, nói tiếng Tây đã trôi chảy, viết chữ Tây đã thông thạo văn phạm, đã biết diễn tả những câu văn bóng bẩy, chính bọn trai trẻ An Nam ấy đang được thấm nhuần văn học và khoa học tiến bộ của Pháp lại có những nhận xét hơn người lớn. Một vài việc mà Tuấn cũng như các bạn cùng thế hệ thanh niên, được mắt thấy tai nghe rõ ràng, đã gieo trong đầu óc của các trò một ý nghĩ không tốt đẹp gì cho người Pháp cả. Như việc ông Gabriel, giáo sư Toán, đã chửi người An Nam là “giống dân bẩn thỉu “ - Sale race - là “bọn dã man“, - sauvages, - đã gây trong tâm trí các trò một mối căm hờn ngấm ngầm không dám thố lộ. Hoặc giả như vụ ông Quan Ba tàu Orénoque đã bày ra trước mắt Tuấn và mấy đứa bạn, một “trò chơi“ kỳ quái, ngoài sự tưởng tượng của tụi thiếu niên học sinh.
Một buổi chiều ngồi hóng gió trên bải biển Quy Nhơn. Tuấn nhắc lại vụ kia với mấy đứa bạn, rồi phê bình: ”Thế thì người Pháp rất văn minh cũng có những cái rất dã man đấy! Những kẻ nịnh Tây bợ Tây, có lẽ chỉ thấy bề mặt của Tây mà không thấy bề trái của Tây…”
Ðó là một vài ý nghĩ rất giản dị của các cậu học trò đã được tiếp xúc gần gủi với Tây.
Biết bao nhiêu người Pháp đã làm cho Tuấn thán phục văn chương, tư tưởng, triết lý, khoa học của Pháp. Tuấn đã nghiền ngẫm say mê những tiểu thuyết hấp dẫn của Bernardin de Saint Pierre, của Lamartine, Chateaubriand, Alphonse Daudet, những bài thơ bất hủ của Victor Hugo, Théophile Gauthier, André Chénier, Alfred de Mausset, những bản kịch thâm thúy, cao siêu, xúc động của Corneille, Racine, những thuyết minh khoa học, y học của Lavoisier, Pasteur…, những cử chỉ anh hùng, những danh ngôn thâm thúy của Danton, Mirabeau, La Fayette, Napoléon…
Còn biết bao nhiêu những danh nhân khác nữa, mà Tuấn đã học hỏi say mê trong các sách giáo khoa Pháp của lớp Ðệ Nhất niên!
Ấy thế mà chỉ có vài người Pháp, một giáo sư Toán chửi Tuấn là “giống An Nam bẩn thỉu“, ”người An Nam mọi rợ“, và một viên Quan Ba tàu thủy cởi trần truồng bảo mấy đứa học trò cầm roi đánh vào mông đít và xoa muối ớt lên những lằn roi rướm máu, hai người Tây điển hình ấy đã làm cho Tuấn tự nhiên mất hết nhiều lòng yêu chuộng say mê của Tuấn đối với cả một nước Pháp đầy rẫy những danh nhân vĩ đại!!.
Tuấn, thiếu niên nước Việt, tâm hồn còn ngây thơ, trong trắng, đã bắt đầu nhìn thấy một vài khía cạnh thực tế khả ố, khả bỉ của nước “Ðại Pháp “văn minh oai vệ kia.
Tuy thế, tụi “lắc-léo-me-dòng-lô”, vẫn lo học hành yên ổn, tính nết vẫn ngoan ngoãn giữa một xã hội đầy ngập ảnh hưởng Pháp, mà từ quan đến dân đều một loạt cúi đầu tuân theo Nhà Nước Bảo Hộ. Từ Bắc chí Nam, tuy ba miền sống trong ba chế độ và hoàn cảnh chính trị khác nhau, nhưng trên bình diện tâm lý xã hội, đại để vẫn là một xã hội trưởng giã, nửa tân nửa cựu, nửa An Nam, nửa Tây, riêng biệt hẳn, dưới một tầng thấp kém đối với các lớp “trưởng giã thuộc địa“ của người Tây.
Mọi người dân đầu an tường thủ phận, hầu như thỏa mãn trong cảnh sống thái bình, mà các cụ nhà Nho gọi là “quốc thái dân an“ dưới quyền đô hộ của “Quan Thầy Ðại Pháp“.
Kỳ nghỉ hè năm 1925, trò Tuấn về ở chơi nhà bà ngoại trong một làng ở gần giãy Trường Sơn. Một buổi chiều, mặt trời gần lặn, bổng có một ông Tây đóng lon Quan Một cỡi con ngưạ ô, với bốn người “Lính Tập“ đi bộ, từ ở đồn Huyện cách đó 10 cây số, đi thanh tra các làng gần núi. Quan Một ghé ở đêm tại nhà ông Xã. Nửa giờ sau cả làng đều biết tin.
Trẻ con hàng xóm chạy trốn hết. Vài ba đứa ẵm em, thân thể trần truồng, bẩn thỉu, mũi dãi lòng thòng, còn chơi ngoài đường, cha mẹ chúng nó liền gọi chúng vào nhà và rầy la, không cho chúng bước ra khỏi ngõ. Họ sợ ông Quan Tây. Trò Tuấn quen tánh tò mò, mặc áo cụt, mang guốc, đến nhà ông Xã để xem ông Tây làm gì. Các ông Hương chức đều đến đông đủ để chào Quan Một. Ông Quan ăn bánh mì và cá mòi hộp của ông đem trong môt cái "sac", rồi uống một tô nước trà tươi do dân làng nấu. Bà Xã và cô con gái nhỏ của bà thì vội vã làm thịt ba con gà mái và dọn một bữa cơm như mâm giổ có hai dĩa cá, ba dĩa thịt, một bánh tráng, với hai chai rượu, đãi bốn “bác lính“. Họ ăn uống say sưa, ở nhà giữa, đòi hỏi đủ thứ, trong lúc ông xã khăn đen áo dài, trải chiếc chiếu hoa trên tấm ván gỗ trước bàn thờ ông bà, để mời Quan Lớn nằm nghỉ. Ðêm ấy, ông Xã và cả gia đình nằm ngủ trên đất nhà bếp, nhường mấy tấm phản và chiếc giường tre kê ngoài hè cho bốn bác lính Tập nằm.
Vào khoảng 9 giờ đêm, có lẽ tại trời nóng nực qúa ông Tây ngủ không được, ông cưỡi ngựa ô đi lang thang trên các đường làng. Ông đi một mình, không có lính nào đi theo hộ vệ cả. Trời sáng trăng, ông đi quanh khắp các xóm, dưới bóng các bụi tre. Ông đi tới đâu, chó sủa tới đó, rồi dần dần tiếng chó sủa vang dậy khắp cả xóm trên, xóm dưới. Chó An nam cũng biết đánh hơi người ngoại quốc hay sau mà Tuấn ngồi ngoài ngõ hóng gió, nghe tiếng chó sủa náo động nhất ở xóm nào thì biết ông Tây cởi ngựa đi qua xóm ấy. Khi ông cởi ngựa ngang qua ngõ nhà bà ngoại của Tuấn, con chó Vện trong sân nhảy vồ ra sủa, bị ông Tây cầm roi cá đuối quất một cú thật mạnh trúng ngay lưng nó. Con Vện kêu ẳng ẳng mấy tiếng, vừa chạy vô bụi sủa ra càng giận dữ hơn. Tuấn cũng phẩn uất đứng dậy nói một câu tiếng Pháp:
- Vous avez fait du mal à mon chien, monsieur. (ông đánh con chó của tôi đau điếng đấy, thưa ông).
Viên quan Một quay lại ngó Tuấn, rồi gò cương ngựa hỏi cậu bé:
- Tiens! Tu parles francais? (À, mày nói tiếng Pháp?)
Tuấn đáp:
- J ’ en sais à peine quelques mots. (Tôi chỉ biết qua loa đôi ba tiếng)
Ông Tây xuống ngựa, cột ngựa vào một gốc cây rồi đến gần Tuấn. Tuấn nhìn kỹ thấy khuôn mặt của ông Tây còn trẻ và na ná giống An nam. Tuy nước da trắng, tóc quăn, nhưng đặc biệt cái mũi không cao, tròng con mắt đen và tóc cũng hơi đen. Tuấn ngạc nhiên, vì tất cả những người Pháp mà Tuấn biết được chục người, kể cả các giáo sư đều mũi cao tóc hoe, mắt thau, hoặc xanh, hoặc đục ngầu. Vả lại giọng nói của ông Tây Quan Một cũng không thật là Tây lắm.
Ông hỏi, Tuấn trả lơì bằng tiếng Pháp. Một lúc sau, có lẽ ông thích nói chuyện với một thằng học trò ở nhà quê nói được tiếng Tây chút ít, ông cao hứng bảo nó (dĩ nhiên là ông nói tiếng Pháp), nhưng đây xin chép lại bằng tiếng Việt:
- Mẹ tao cũng là người An na mít, nhưng bà không phải là một nhaque. Tuấn không hiểu hai chữ "nhaque“, và hơi thắc mắc sao tiếng Pháp lại có một chữ lạ lùng như thế. Thấy Tuấn trố mắt ngó, ông cười hỏi:
- Mày hiểu một “nhaque“ là gì không?
- Thưa không, tôi chưa thấy chữ ấy bao giờ cả.
- Mày có một quyển tự điển Larousse?
- Thưa có.
- Thế thì mày thử tra trong đó xem. Mày có tìm hết cả quyển Larousse cũng sẽ không thấy chữ ấy đâu? Nhaque là nhà quê.
Ông Quan Một nói tiếp:
- Tao, tao cũng nói tiếng an-na-mít giỏi lắm, nhưng tao không nói, bởi vì đó là tiếng nói của những người nhaque. (Ông đọc theo giọng Tây là gnak!)
Trong lúc ông nnói chuyện với Tuấn, con chó Vện cứ chạy ra chạy vào sủa mãi. Nó sủa oang oang lên, hình như muốn đuổi ông Tây đi phứt cho rảnh. Ông Quan Một cười, chỉ nó:
- Ngay như con chó của mày, nó cũng là một con chó nhaque. Chó Tây đẹp hơn, và… lễ phép hơn (les chiens Francais sont plus jolis et plus… polis).
Tuấn mắc cỡ, hết muốn nói chuyện với ông Quan Một. Bây giờ Tuấn đã biết rõ ông là Tây lai, cha Pháp mẹ An nam, nhưng ông lại khinh miệt người An nam quá. Ông cho tất cả người An nam đều là “gnak” chỉ trừ ra mẹ ông.
Tuấn hỏi lại, cũng bằng tiếng Pháp:
- Thưa ông, mẹ ông là người An-na-mít, mà bà có ghét người “nha que không"?
- Mẹ tao không phải là nhaque. Bà là con gái một vị đại thần ở triều đình An nam. Nếu tao muốn, tao có thể làm một ông Quan Lớn An-na-mít, nhưng tao thích làm ông Quan Tây hơn. Mầy cũng vậy, mầy đi học, sau này mày thi đỗ, mày cũng sẽ là một ông quan nho nhỏ của nhà nước Ðại Pháp Bảo Hộ.
Tuấn cười bảo:
- Nếu tôi thi đỗ sau này, tôi sẽ không làm quan.
- Vậy thì mầy sẽ làm gì?
- Tôi sẽ làm thằng nhà quê.
Ông Quan Một nghiêm nét mặt, tỏ vẻ giận, và mắng Tuấn:
- Imbécile! (Mầy ngốc!).
Tuấn trả lời:
- Que voulez-vous? Mon père est nhaque, ma mère est nhaque, j aimerais rester nhaque même quand je serais un licencié ou un docteur-ès-Lettres… (Ông nghĩ coi, cha tôi là nhà quê, mẹ tôi là nhà quê thì tôi cũng sẽ thích là nhà quê, mặc dầu chừng đó tôi sẽ là Cử nhân hay Tiến sĩ Văn chương Pháp…)
- Mầy còn nhỏ quá, mầy chưa biết gì hết. Nhưng mầy nên biết rằng ở Nam kỳ tất cả những người An-na-mites học ở Paris về, đỗ các bằng cấp Ðại học Pháp vô dân Tây hết.
- Mỗi người có một ý thích riêng. Tôi còn nhỏ tuổi, tôi thích học chữ Pháp, tôi rất yêu các Thi sĩ, Văn sĩ Pháp, các nhà Bác học Pháp, các bậc anh hùng Pháp, nhưng tôi vẫn yêu nước An-nam hơn, tôi thích người An-na-mít hơn, mặc dầu họ là nhà quê .
Tuấn bực mình vì con Vện nó cứ sủa hoài . Bây giờ nó lại đến đứng dựa vào chân Tuấn và nhìn ông Tây Quan Một mà sủa mãi, sủa mãi . Tuấn cười nói với ông Tây Quan Một:
- Thưa Quan Một, xin ông cho phép tôi đem con chó vào nhà cho nó ngủ, kẻo nó cứ sủa hoài. Kính chào ông.
Khi ông Quan Một lên ngựa đi và trò Tuấn cũng quay trở vô nhà, đã 11 giờ khuya, thì Tuấn thấy bà ngoại ngồi nấp sau hàng rào nghe lỏm chuyện của cháu mình đối đáp với Quan Một. Nhưng không phải một mình bà ngoại Tuấn, còn lù lù sau các bụi rậm đứng lên chín mười người đàn ông đàn bà lối xóm đi ngả sau đến đấy rình nghe tự hôì nào.
Tất cả đều trầm trồ khen Tuấn:
- Chà! Thằng Tuấn nói tiếng Tây với ông Quan Một nghe hay quá, hỉ!
Rồi họ xúm lại hỏi:
- Ông Tây nói chuyện gì vậy, Tuấn?
Tuấn cười đáp:
- Ổng nói chuyện ba-lăng-nhăng chơi cho vui, chớ có gì đâu.
Ba tháng sau, đúng một tháng sau ngày nhập trường, một buổi sáng thứ Hai, hôì 10 giờ, anh cai trường vào lớp đưa một tờ giấy cho ông giáo sư, ông giáo xem xong bảo Tuấn lên văn phòng quan Ðốc.
Ông Ðốc trừng mắt ngó Tuấn:
- Mầy là một thằng có đầu óc xấu (un mauvais esprit).
Tuấn ngơ ngác chưa hiểu gì, thì ông “Ðìa-réch-tơ“, một nhà mô phạm Pháp rất nghiêm khắc, nói tiếp:
- Trong kỳ nghỉ hè, mầy nói chuyện gì với ông F. trong khi ông đi kinh lý trong làng mầy?
Tuấn sợ hãi, ấp úng không trả lời được. Vì Tuấn không ngờ câu chuyện phiếm đối đáp với ông Tây-lai Quan Một trong đêm hè trước cổng nhà bà ngoại, đã lọt đến tai ông “Ðìa-réch-tơ“. Chắc là ông Quan Một không bằng lòng một vài lời nói của Tuấn, và viết thư mét ông Ðốc chăng?
Ông Xã trong làng đã cho Tuấn biết trước rằng, sáng hôm sau ông Quan Một có hỏi ông Xã về “đứa học trò nói được tiếng Tây đó là ai?“. Ông Xã có nói rõ cả tên họ, học trường nào, và ông Quan Một có ghi trong một quyển sổ mà ông đem theo để biên chép những điều ông nghe thấy trong các hương thôn.
Tuấn bị ông “Ðìa" mắng cho một trận nên thân.
CHƯƠNG 28
1920 - 1024
- Thầy giáo "trai gái với học trò" là một việc "động trời"! Bị hội đồng Kỷ luật nhà trường khiển trách và đổi đi nơi khác.
- Thanh niên và học sinh nam-nữ không bao giờ biết dùng câu "anh yêu em", "em yêu anh" và ít dám chơi thân vơí nhau.
- Một thầy giáo "Cộng sản" bị các đồng chí bóc lột lấy luôn cả vợ thầy làm "của chung".
1924, thầy giáo mà yêu học trò là một điều hy hữu, một việc “động trời“ không những gây ra dư luận xôn xao ở trong học đường mà “tai tiếng“ còn tràn lan cả thành phố. Không riêng gì ở Quy Nhơn nơi Tuấn đang trọ học, mà ở khắp các trường học trong nước, ở Trung kỳ cũng như ở Bắc kỳ, Nam kỳ, mặc dù Nam kỳ là thuộc địa của Tây, sống dưới một luật pháp tự do rộng rãi hơn. Tiếng thông thường chưa gọi là "yêu". Người ta bảo:
* Thầy giáo “trai gái“ với học trò - tiếng miền Trung
* Thầy giáo "phải lòng" cô học trò - tiếng miền Bắc.
* Thầy giáo "mèo" với học trò - tiếng miền Nam.
Mối tình ấy bị coi là “vô luân thường“, “vô đạo đức“, bị dư luận của các gia đình phụ huynh học sinh, dư luận của toàn thể xã hội, phê bình nghiêm khắc. Không một ai bênh vực che chở cho cuộc "tình duyên tội lỗi“ ấy.
Tuấn còn nhớ hồi học lớp Nhất ở tỉnh nhà, một thầy trợ giáo độ 20 tuổi ở Huế mới đổi tới, dạy học suốt một niên khóa mà không bao giờ dám nói một câu bông đùa với bốn cô học trò, 16, 17 tuổi trong lớp. Nữ sinh và thầy giáo không hề trao đổi một nụ cười, một tia mắt, hoặc hỏi han một câu gì ngoài những bài học trong chương trình. Các cô đề xưng với thầy một tiếng “con“ rất cung kính.
Ấy thế, mà khi Tuấn vào học trường Trung học Quy Nhơn lúc gần mãn niên khóa, bỗng dưng nghe xẩy ra một chuyện thầy giáo “trai gái“ với học trò. Không phải ở lớp Tuấn, vì từ lớp Ðệ nhất niên (1ère Année) trở lên, không có nữ sinh. Những cô thi đỗ bằng "Primaire“ ở các tỉnh đều ra Huế học trường Ðồng Khánh, trường Nữ Trung học duy nhất, lừng lẫy tiếng tăm ở Trung kỳ.
Lớp Nhất trường Quy Nhơn có 6 cô nữ sinh: Yến, Nhạn, Lài, Thục, Trâm, Anh. Trò Tuấn nhớ tên sáu cô là nhờ một đêm trời mưa, trò có đến chơi nhà trọ của bốn cô sau, và làm một bài thơ đùa nghịch tặng các cô:
Yến, Nhạn đa tình,
Trâm, Anh: duyên trinh
Thục: lưng quần đỏ,
Lài, nhỏ xinh xinh.
Yến và Nhạn là hai chị em ruột, con gái một bà Quan Lớn, góa chồng mà học trò đồn là tình nhân của ông “Ðià-réc-tơ“ và cả của ông Gabriel, giáo sư Toán. Bà rất đẹp, và hai cô cũng rất đẹp, có vẻ quí phái, trông đa tình ghê. Trâm và Anh độ 15, 16 tuổi, duyên dáng mặn mà, lại hay bẽn-lẽn, đi học cứ che nghiêng cái nón gò-găng, sợ học trò con trai nhìn mặt. Thục, nước da ngâm ngâm đen, đi rất chững chạc, và chuyên môn mặc quần trăng đầm đen mà lưng quần thì may bằng vải cầu kiều đỏ lóe. Trò Tuấn cứ chế nhạo cái mầu đỏ ấy hoài, nhưng Thục không bao giờ thay lưng quần màu khác. Cô Lài, con gái bà chủ trọ của các cô, người nhỏ bé xinh xắn, và rất vui tính, cứ theo chọc trò Tuấn hoài. Nói đúng ra, thì cô nào cũng ưa “phá rầy“ trò Tuấn, và những đêm trời mưa. Chủ Nhật, thứ Năm, Tuấn thường đến nhà trò chuyện với bốn cô. Tuấn nói chuyện đời xửa đời xưa, chuyện tam hoàng ngũ đế, chuyện rồi ngâm thơ đánh đàn, hoặc chỉ dùm các cô về Pháp văn, vì cô nào cũng ngán văn phạm. Bốn cô cứ ra phố mua kẹo thèo lèo, một xu được một gói, về lo lót cho Tuấn, để nhờ Tuấn “gà“ cho bài Luận Pháp văn.
Lần nào thầy giáo chấm bài luận của bốn cô cũng cho nhiều điểm. Tụi học trò con trai lớp Nhất cứ thua điểm bốn cô con gái, và bị thầy la rầy, tức mình đi rình các cô, nhưng không bao giờ bắt gặp các cô mua kẹo thèo lèo để hối lộ cho Tuấn . Mãi sau này, ba bốn chục tuổi, Tuấn vẫn ghiền kẹo thèo lèo, nguyên do cũng tại các cô ấy. Tuấn đánh đàn không hay, chỉ từng tứng tưng một đôi bản hành vân, lưu thủy, thơ thì tập tểnh năm ba vần cóc nhái, nói chuyện thì lung tung thiên địa, nhưng bốn cô học trò lớp Nhất lại thích chơi với Tuấn. Có lẽ vì Tuấn học lớp trên, và chỉ có Tuấn là thường đến nói chuyện vui với các cô trong những đêm mưa buồn, ơn-ớn lạnh…
Các trò khác mắc cở, đâu dám bước chân đến căn nhà trọ mỹ miều nghiêm trang ấy. Nhiều đêm trời mưa tầm tã, các cô muốn Tuấn ở lại, Tuấn kể những chuyện tình Tây phương rất cảm động, mà Tuấn đã đọc trong các bộ tiểu thuyết Pháp, Graziella chẳng hạn, hoặc Andromaque, Télémaque, La Dame aux Camélias, bốn cô hồi hộp ngồi nghe, bốn cặp mắt huyền mơ cùng uống trên môi Tuấn những lời ngây ngô thơ mộng. Cho đến hai ba giờ khuya, nghe dứt chuyện, bốn cô say sưa lăn ra ngủ trên giường, trong chiếc mùng trắng xóa. Trò Tuấn cũng buồn ngủ quá rồi, nằm chèo queo trên chiếc ghế dài, lạnh ngắt. mưa dầm dề, gió rít hiu hiu. Trò thiu thiu ngủ, nhưng vẫn cảm thấy như có mấy bàn tay dịu dàng khẽ đắp lên cho trò hai chiếc chiếu hoa. Lúc bấy giờ chưa có mền. Ngọn đèn Huê-kỳ hết dầu đã tắt ngấm từ bao giờ.
Một số đông học tr lớp Nhất và lớp Ðệ Nhất niên đồn đãi rằng trò Tuấn “trai gái“ với bốn cô học lớp Nhất, ở trọ nhà bà Mười. Nhưng đấy chỉ là lời đồn xuyên tạc, hoàn toàn “vô căn cứ“. Chứ “trai gái“ làm sao được với bốn cô một lúc, và trò Tuấn mới có 16 tuổi, các cô học lớp Nhất cũng mới có 14, 15 tuổi thì biết gì mà trai gái?
Nói có Trời làm chứng, trò Tuấn với bốn cô bạn gái có giao du thân mật với nhau thật sự, nhưng chỉ thân mật trong cái vòng lẩn quẩn loanh quanh của tình học trò, chứ chưa bao giờ họ trao đổi với nhau một lời hứa hẹn “tơ lơ-mơ“, hoặc một câu tâm tình say mê rạo rực.
Năm 1924, trong đám học sinh “An nam“, chưa ai được nghe văng vẵng câu: ”anh yêu em“ hay “em yêu anh“. Mặc dầu là những học trò đã to đầu, lớn xác, học ở các lớp Ðệ Nhị, Ðệ Tam niên, cũng chưa ai biết hôn môi, hôn má là gì. Không bao giờ người ta thấy bóng một cặp thanh niên, thiếu niên nam nữ, đi chung với nhau ngoài phố, hay bất cứ ở đâu. Con gái riêng phần con gái, con trai riêng phía con trai, gặp nhau trước cổng trường, cũng đi né sang bên, trông thấy nhau ngoài đường phố cũng không đứng lại ngó nhau cười, hay nói vài ba câu chuyện.
Chuyện “trai gái“ không phải là không có. Ở thời nào, nơi nào mà không có “trai gái“. Nhưng “trai gái“ chỉ viết một vài lá thư kín đáo gởi lén cho nhau, thêu cho một vài chiếc khăn, gởi cho một vài chiếc bánh… Thế thôi.
Dù có thề non hẹn bể cũng chỉ trên giấy mực, tuyệt nhiên không có cô cậu nào dám cắp tay nhau đi nhởn nhơ ngoài phố, hay đem nhau ra ngồi ngoài bãi biển, hay trên động cát mênh mông.
Ấy thế mà bổng nhiên xảy ra vụ thầy giáo lớp Nhì “trai gái“ với cô học trò trong lớp, làm câu chuyện đầu môi cho toàn thể mấy trăm học trò cả trường.
Thầy còn trẻ, người Huế, vào khoảng 20,21 tuổi, chưa có vợ. Cô học trò cũng người Huế, độ 14, 15 tuổi. Một buổi tối, khoảng 8 giờ, trò Tuấn đi lang thang hóng gió trên con đường vắng vẻ trước trường. Tình cờ trò thấy hai bóng trắng trong một xó tối gần một ngôi mộ vôi. Ðường này xưa có tiếng là có nhiều ma, vì trước kia là một nghĩa địa, mồ mả ngổn ngang trên một động cát hoang vắng.
Tưởng hai bóng trắng là hai con ma, Tuấn vụt chạy. Một lúc sau, một cậu học trò khác đi xe đạp ngang qua đấy, trông thấy hai bóng trắng cũng tưởng là ma, cũng cấm đầu khom lưng đạp xe thật nhanh. Hai trò gặp nhau ở trước cửa nhà Lao, cậu nào cũng hớt hơ hớt hãi nói chuyện với một người lính tập: ”có hai con ma mặc toàn đồ trắng hiện lên ở chỗ Mả Vôi ngoài gốc sân trường". Người lính tập bảo: ”Ma đâu nào? Các cậu chỉ tôi xem, tôi oánh nó chết ngay bây giờ“. Người lính mang súng đi với hai cậu học trò trở lại chỗ Mả Vôi  Hai bóng trắng đứng sát gần nhau, và yên lặng, không nhúc nhích. Người lính nạp đạn vào súng rôì hô lớn: ”Có phải ma không? Tôi bắn chết chịu đấy nhé“. Bổng “ma“ cất giọng run run: ”Không phải ma. Ðừng bắn tụi tui“. Ma nói giọng Huế. Người lính lại bảo:
- Không phải ma, thì ai? Xưng tên lên, không thì tôi bắn.
Ma tự giới thiệu:
- Tôi là thầy giáo.
Ma đủng đỉnh đi ra…
Tuấn vẫn còn lạnh xương sống, vì trò nghe người ta nói rằng ma thường giả dạng làm người. Bóng ma mỗi lúc mỗi hiện ra rõ rệt với chiếc áo dài trắng, quần trắng, tà áo phất phơ trong gió. Tuấn chăm chú nhìn dưới chân ma, nếu phải là ma thì chân đi lơ lửng trên không khí, còn trái lại nếu chân đạp trên đất thì đúng là người . Tuấn vô cùng ngạc nhiên thấy bóng trắng bước đến gần trò chính là thầy giáo lớp Nhì, thầy L.
Lễ phép, Tuấn và người học trò kia đều khẽ cúi đầu: ”Thưa chào thầy“.
Câu chuyện tò mò của bác lính tập và hai cậu học trò đáng lẽ đến đây có thể chấm dứt được rồi. Không dè bác lính tập quái ác, lấy tay chỉ một bóng trắng còn đứng yên bên Mả Vôi trong bóng tối lờ mờ ghê rợn, vì đường phố không có đèn. Y hỏi:
- Còn con ma nào kia nữa?
Thầy giáo lớp Nhì lính… quýnh, bập bẹ trả lời:
- Cô em… em của tôi đấy.
- Kêu em thầy ra đây. Sao lại đứng đó?
Bóng trắng cứ đứng yên một chỗ. Người lính hăm dọa:
- Không ra đây, tui bắn chết chịu à!
Bây giờ trò Tuấn mới nhận thấy là người lính tập hơi say rượu, giọng nói của y hơi lè nhè. Thầy giáo L. lên tiếng gọi:
- Ði ra, em!
Bóng trắng đủng đỉnh bước ra. Trời tối, Tuấn chưa trông rõ mặt, chỉ thấy thoáng qua hình dáng thiếu nữ, Người lính say rượu hỏi:
- Cô làm gì chỗ cái Mả Vôi đó?
Giọng cô thiếu nữ Huế trả lời rất nhỏ:
- Dạ… có làm chi mô…
Tuấn bước kề lại xem, bổng reo to lên:
- Tưởng ai, cô Hoa học trò lớp Nhì đây mà!
Người lính tập say, tay cầm súng lại ngó thầy giáo và tiếp tục hỏi:
- Thầy làm chi trong nớ với cô học trò nhỏ ni?
- Nó là… em… của tôi… Nó đi tiêu… nó sợ ma... tôi phải đi với nó…
Người lính phá lên một trận cười làm tan vỡ cả bầu trời vắng lặng. Anh ta quay lại ngó thầy giáo:
- Thôi, xin chào thầy, hỉ!
Giọng nói khôi hài, mỉa mai, cay đắng, điểm theo một tràng cười kế tiếp, sặc sụa, vang cả động cát và khu Học đường. Người lính đi xa xa… biến hẳn nơi mút đường tối om, nhưng tiếng cười của anh cứ còn văng vẵng… Hả! … hả!… hả!… hả!…
Hai cậu học trò cũng vụt chạy mất, để lại cho hai bóng trắng còn tần ngần giữa đường, một chuổi cười hăng hắc…
Sáng hôm sau hai cậu phao ra cái tin “động trời“ cho cả trường và cả thành phố Qui-nhơn hay: thầy giáo với cô học trò.
Mấy hôm sau, cô Hoa, học trò lớp Nhì không đi học nữa, và anh “planton“ (tùy phái), nhà trường có thóc mách cho học trò biết rằng thầy Trợ giáo lớp Nhì bị Conseil de Discipline (Hội đồng kỷ luật) của các giáo sư và ông Ðốc khiển trách nặng nề. Ít lâu sau thầy bị đổi đi tỉnh khác. Theo mấy cậu học trò ở Huế cho biết thì thầy giáo và cô học trò cả hai đều quê quán ở Ðế Ðô, đã về làm đám cưới tại Huế trong kỳ nghỉ hè năm ấy.
Thà như thế còn hơn! Vì giá như trò Tuấn không trông thấy hai bóng ma ở Mã vôi trong một đêm tối trời, thì biết đâu cuộc tình duyên vụng trộm của thầy giáo và cô học trò lớp Nhì sẽ có thể đổ bể tùm lum ra nữa mà hậu quả sẽ tai hại biết bao nhiêu.
Vụ Thầy giáo trai gái với học trò làm xôn xao dư luận ở học đường và cả thành phố suốt một tháng trời. Thỉnh thoảng về sau, người ta vẫn còn ưa nhắc lại. Nhưng riêng trong đám nữ sinh, không hề có một lời bình phẩm. Các cô mắc cỡ. Không ai bảo ai, tất cả các cô đều giữ thái độ hoàn toàn im lặng trước tai tiếng ấy. Có lần Tuấn dựa hơi quen thân với bốn cô lớp Nhất, Trâm, Anh, Lài, Thục, đánh bạo hỏi các cô:
- Sao, các cô có bênh vực con nhỏ học trò lớp Nhì với thầy trợ giáo Liên không?
Tức thì cô Anh đánh vào cánh tay Tuấn một cái đau điếng:
- Anh Tuấn kỳ quá! Hỏi chi chuyện nớ?
- Hỏi cho biết chơi!
Nhưng không một cô nào muốn trả lờì, Tuấn mới kể lại câu chuyện gặp ma (kể lần thứ ba, thứ tư…) và cười giỡn, cố ý tạo ra không khí thân mật hơn để các cô thổ lộ vài câu tâm sự. Mãi khuya gần đi ngủ, cô Trâm mới vừa ngáp vừa nói:
- Có con Hoa nó thành yêu, thành tinh như vậy, chớ con gái gì mà lăng nhăng thế bao giờ.
Cô Lài cắt ngang:
- Ối! Nói làm chi chuyện xấu xa nớ mà nói hoài!
Tuấn lại hỏi cô Thục, cô lưng quần đỏ và giây lưng đỏ. Cô này theo đạo Thiên Chúa.
- Còn cô Thục, cô nghĩ sao?
Thục đỏ mặt tía tia, hai mí mắt cứ chớp lia lịa. Cô mắc cỡ không nói, hỏi mãi cô mới trả lời:
- Chúa không tha cho những tội lỗi như vậy đâu.
Tóm lại, thân lắm mơí được nghe các cô nữ sinh tỏ bày “quan điểm“ và tất cả đều cương quyết kết tội thầy trợ Liên và cô học trò lớp Nhì.
Cả thành phố không có được một người đàn ông nào lên tiếng bào chữa cho thầy trợ giáo, hoặc một người đàn bà, một cô gái, bênh vực cho cô học trò lớp Nhì.
Trong hoàn cảnh “thuần phong mỹ tục“ của xã hôị An nam 1924 như vừa phác họa, thật không có chỗ nào cho một tình duyên tự do lãng mạn. Tôi đã nói thế hệ ấy chưa dám dùng chữ “yêu“ và chưa có ai dám thực hiện “tình yêu“ sỗ sàng công khai.
Ðôi “trai gái“ chỉ nói “thương“ nhau. Chữ “thương“ ấy có thể chứa đựng một cảm tình rất thiết tha, nhưng vẫn lén lút, gìn giữ, sợ sệt. Cho nên có câu thông dụng “thương vụng nhớ thầm“ và truyền thống tình cảm vẫn chặt chẽ ở Trung kỳ cũng như ở Bắc kỳ và Nam kỳ, ở thành thị trong đám trí thức và thanh niên Tây học cũng như ở hương thôn.
Bây giờ tôi xin kể chuyện một thầy Trợ giáo lớp Năm, thật là buồn cười. Không phải là một vụ trai gái, mà là một vụ “cộng sản“. Năm 1924, Cộng sản đã bắt đầu tuyên truyền bí mật trong các giới gọi là “trí thức“ nhất là giáo giới. Dĩ nhiên là “Quan Tây“ và “Quan An nam“ không hề biết một tí gì về các sự kiện ấy, cũng như họ chẳng biết gì về hai tờ báo Le Paria và Việt Nam Hồn (của Ðảng Ðộc Lập Việt Nam ở Pháp hoàn toàn không có dính líu gì với cộng sản cả).
Trong toàn thể đám Ðốc học (Giáo sư tốt nghiệp Cao đẳng đại học Hà nội) và Trợ giáo ở Quy Nhơn, chỉ có mỗi một thầy trợ giáo lớp Năm là theo lý thuyết Cộng sản, và thầy hiểu Cộng sản với ý nghĩa tuyệt đối giản dị là tất cả của cải đều là của chung. Chính trò Tuấn cũng được thầy Trợ giáo lớp Năm rủ đến nhà thầy chơi, và tuyên truyền. Hình như không những riêng ở nhà trường, mà kể cả thành phố Quy Nhơn, chỉ có mỗi một thầy Trợ giáo lớp Năm là theo Cộng sản, nghĩa là theo chủ trương như thầy thường tuyên bố: ”ở đời muôn sự của chung. Không có vật gì là riêng của ai cả“.
Thế rồi một hôm có một anh thợ chụp hình (tuy là người thợ chụp hình duy nhất trong thành phố, nhưng tiệm anh vẫn nghèo nàn) đến xin vô đảng, và nói: "Tôi cũng xin theo làm cộng sản đệ tử của thầy“ 
Thầy mừng quá, và khi anh thợ chụp hình đã biết trước rằng thầy có một cái máy chụp hình mới mua, anh hỏi:
- Thưa thầy Trợ, thầy đưa cho em cái máy đó để em dùng được hông?
Trung thành theo thuyết cộng sản của thầy, thầy Trợ vui vẻ đưa máy cho anh thợ chụp hình. Hai hôm sau, một thầy Thông làm việc ở sở Thương chánh đến nói với thầy Trợ:
- Tôi đến đây xin làm đệ tử Cộng sản của thầy đây.
Thầy Trợ vui mừng nhận người đệ tử mới. Nhưng thầy Thông Thương chánh biết nhà thầy Trợ có một máy hát và 20 đĩa cải lương, liền bảo: ”Thầy cho tôi cái phonographe và 20 cái Disques đó về vặn nghe hỉ?“
Thầy trợ rất sốt sắng trao máy hát và 20 đĩa hát cho người đệ tử Cộng sản mới của thầy, cũng như thầy đã trao máy chụp hình cho anh “đồng chí“ thứ nhất.
Dần dần, trong 3 tháng, số người xin “làm cộng sản“ với thầy Trợ rất đông. Mỗi người đệ tử mới đến đều xin của thầy một món đồ: từ cái đồng hồ trái quít treo tòn ten trên vách tường, đến cái đồng hồ báo thức đặt trên bàn thờ Ông Bà. Các đảng viên cộng sản của thầy lấy mà không đem trả lại, và họ cũng không đưa cho các đồng chí khác để thay phiên nhau dùng theo thầy trợ căn dặn.
Thầy trợ Tố (tên thầy) rất hãnh diện đã kết nạp được một số “đồng chí cộng sản“ khá đông. Thầy rất vui vẻ, sốt sắng, thực hành đúng theo đường lối chủ trương cộng sản của thầy, là trao hết các đồ dùng trong nhà cho các đồng chí xử dụng. Thầy thường ưa thuyết cho Tuấn và các trò khác nghe rằng: Cộng sản là như vậy đó, nếu trên đời này ai cũng chia của đồng đều cho nhau, đừng ai tham lam dành giữ làm của riêng mình thì sẽ có “thế giới đại đồng“.
Một hôm, cô Trợ than phiền rằng tất cả quần áo, chén dĩa, nồi đồng, mâm thau, thầy đã chia hết cho hang xóm mỗi người một mớ, để họ đem về nhà làm “của chung“, đến nỗi bây giờ ở nhà chỉ còn mỗi một nồi đất mà thôi.
Thầy Trợ Tố thường giảng dạy:
- Cộng là chung, sản là của. Cộng sản là của chung. Của mình tức là của chung hết thiên hạ. Vợ của tôi, ai xin tôi cũng cho.
Cô Trợ tức mình và xấu hổ, ôm mặt khóc hu hu cả một buổi chiều. Thế rồi có một anh chàng đẹp trai, con thứ bảy của một ông thầy thuốc Nam, anh ta đang soạn tuồng cải lương và định lập một gánh hát Bình Ðịnh - buổi chiều đó lò dò đến nhà thầy Trợ, xin vào đảng Cộng sản. Thầy mừng rỡ đón tiếp và nhận anh làm đồng chí, bảo cô Trợ pha trà đãi người đảng viên mới. Uống xong một tách trà nóng, đồng chí cải lương tủm tỉm cười bảo:
- Thưa thầy, thầy cho em mượn cô Trợ về ở chung với em có được không ?
Thầy Trợ cười hãnh diện:
- Ðược chớ. Của đời muôn sự của chung. Của tôi, tôi phải chia cho người khác dùng. Của anh cũng vậy. Mình là cộng sản, phải thực hành lý thuyết đó chứ… Nhưng anh mượn vợ tôi rồi phải trả lại cho tôi nghe không?
Ðồng chí cải lương cứ tủm tỉm cười:
- Dạ
- Chừng nào trả?
- Dạ, chỉ vài ba tháng, cô Trợ giúp tôi lập gánh cải lương xong rồi tôi trả lại thầy, vì nghe nói cô Trợ có giọng ca tứ-đại-oán nghe mê.
- Ừ phải, vợ tôi ca tứ đại oán thì hay kinh hồn. Anh muốn mượn vợ tôi thì tôi sẵn sàng cho mượn, nhưng ba tháng anh phải trả lại tôi nghe không?
- Dạ, Thầy Trợ nói đúng quá. Vậy mới là Cộng sản chứ hỉ!
Cô Trợ nằm trong buồng nghe rõ câu chuyện, khóc thút thít, nhưng không biết nghĩ sao, cô vùng đứng dậy, xách nón ra bảo chồng:
- Cơm chưa nấu, nghe! Cái nồi đất bể rồi. Thầy chịu khó đi ra chợ mua cái nồi khác về nấu cơm. Tôi đi với anh này.
Nói xong, người đồng chí mới của thầy Tố chào thầy rồi cùng với vợ thầy ra đi.
Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Vì sáng hôm sau thầy Trợ Tố đến nhà người đệ tử để bắt vợ về. Thế là có cuộc cải lộn rồi đánh lộn. Vợ thầy trợ Tố lại xách nón ra đi, và lần này cô đi mất biệt, không ở với anh bầu cải lương, mà cũng kgông trở về nhà ông chồng “Cộng sản“.
Kế đó, phong trào cộng sản của thầy Trợ Tố tự nhiên giải tán. Thầy Tố cũng bị đổi đi tỉnh khác.
CHƯƠNG 29 
- Thuốc hút “Mélia“, sản xuất tại Saigon, được thông dụng nhất trong nước, có hình Tây Ðầm hun nhau.
- Phong trào ca cải lương bắt đầu thịnh hành
- Một bài ca Hành vân bằng tiếng Pháp, được học sinh hoan nghênh nhất.
- Chưa có “Báo Xuân“, Báo Saigon, Hà Nội, không có báo ở miền Trung và các tỉnh xa.
- Một ông Chủ bút ở Saigon đến tỉnh, là cả một thần tượng đối với thanh niên, học sinh
- Một nhóm “học trò lớn“ dự định hùn tiền vô Saigon lập một tòa báo
- Lần đầu tiên một cậu học trò "tập tểnh“ viết báo.
Cuối năm 1924 cũng là gần hết năm Giáp Tý. Ðâu đấy đều bắt đầu sửa soạn “ăn Tết“. Học trò các trường đều được nghỉ trước ngày 23 tháng Chạp năm ấy là ngày 17 tháng giêng 1925, và nghỉ Tết được một tháng. Nửa tháng trước, hầu hết học sinh quê quán ở tỉnh xa đều nhận được “mandat“ của cha mẹ gửi vào cho để mua vé xe hơi về “ăn Tết“ ở tỉnh nhà. Trước khi tạm biệt thành phố, học trò mỗi lớp tự động rũ nhau đi chúc Tết các vị giáo sư. Tuấn bây giờ thuộc về lớp lớn, không như hồi năm trước còn đem quà bánh đến Tết thầy, và đọc diễn văn mừng tuổi thầy . Chỉ học trò các lớp Tiểu học, từ lớp Nhất xuống lớp Ba, vẫn còn giữ tục lệ tốt đẹp ấy. Học trò lớp lớn từ Ðệ Nhất niên Trung học trở lên, không đọc chúc từ và cũng không dâng Thầy các lễ vật nữa. Không phải vì không có lòng kính Thầy như xưa, nhưng vì một lý do rất dễ hiểu là hồi ở lớp Nhất chỉ có một hai giáo sư, mà bây giờ mỗi lớp có đến 4, 5 vị Giáo sư. Học trò làm gì có nhiều tiền mua sắm lễ vật đầy đủ để đi Tết tất cả ngần ấy ông giáo. Sau khi bàn tính kỹ lưỡng, trò nào cũng muốn để dành tiền mua qùa và chơi Xuân, toàn thể đều đồng ý đi tay không đến mừng tuổi suông 5 vị Ðốc học (giáo sư) An nam. Ðối với ông Hiệu Trưởng và các giáo sư Pháp thì đã có một số đại diện đi chúc Tết hôm đầu năm Tây rôì (Tết Tây).
Riêng trò Tuấn được bốn cô lớp Nhất để dành cho một món qùa không ngờ. Trước hôm xách va li lên xe hơi về quê nhà ăn Tết, Tuấn đến thăm một buổi tất niên tại nhà trọ các cô. Ngồi uống trà và nói chuyện vui đùa với nhau một lúc, cô Anh mở rương lấy ra một gói thuốc hút Mélia. Lúc bấy giờ ở Trung kỳ chỉ có mỗi một thứ thuốc gói Mélia đó mà thôi (Bastos cũng chưa có). Trong mỗi gói thuốc Mélia đều có một tấm hình chụp một cặp Tây Ðầm hôn nhau rất tình tứ - và nhiểu kiểu Tây Ðầm khác nhau, tất cả đều say mê âu yếm, chụp ở Paris và in mầu tuyệt đẹp. Học trò thích gói Mélia lắm nhưng không có tiền mua vì bán đắt đến năm cắc bạc một gói, chỉ có các ông Giáo sư và các thầy Thông, thầy Phán có tiền xài bảnh mới hút được thứ thuốc đó. Thỉnh thoảng trò nào xin được của ai một tấm hình Mélia đem khoe, cả lớp xúm kại coi coi vẻ thèm thuồng lắm. Thuốc Mélia lúc bấy giờ hút đắng nghét, còn tệ hơn các loại thuốc bình dân hiện nay, nhưng nó quí là vì có tấm hình in Tây Ðầm hôn nhau, kèm trong bao thuốc bọc giấy bóng, và nó lại là loại thuốc gói đầu tiên quấn bằng máy từ Saigon gởi ra bán mắc tiền, chỉ những người giàu sang mới mua nổi. Kể ra, nó còn quý hơn thuốc thơm Craven A hay 555 hiện nay.
Hôm Tuấn đến nhà trọ bốn cô Anh, Trâm, Thục, Lài để thăm tất niên trước hôm về quê ăn Tết, cô Anh đưa cho Tuấn gói thuốc Mélia, và cười bảo: ”Tụi em biếu anh gói thuốc để Tết anh hút chơi“. Tuấn ngạc nhiên và cảm động ngôì làm thinh một lúc Tuấn ngắm nghía tấm hình đôi trai gái Tây Ðầm hôn nhau say mê, với một câu thơ Pháp in dưới bức hình:
Bonne année, parfait amour,
A Toi seul, à Toi pour toujours.
Loại thơ rẻ tiền, nhưng đối với tuổi trẻ thời bấy giờ thật là đầy ý nghĩa thơ mộng:
Chúc mừng năm mớí, tình yêu diễm tuyệt,
Chỉ tặng Anh thôi, của Anh mãi mãi.
Tuấn nghẹn ngào nói không ra lời, nhưng cố nghĩ ra được vài câu thơ, rồi mượn bút viết trên một mảnh giấy:
Một món qùa Xuân, cảm xiết bao!
Lấy chi đền đáp nghĩa thanh cao!
Vái trời phù hộ cùng thi đậu
Lài, Thục, Trâm, Anh, thỏa ước ao!
Thơ học trò chỉ làm được thế thôi, và không biết nói gì hơn nữa. Bốn cô Lài, Thục, Trâm, Anh, cũng sung sướng ngâm thơ, reo cười rộn rã. Tuấn để dành gói thuốc Mélia để Tết hút lén, vì học trò thời bấy giờ không dám hút thuốc. Nhất là để khoe với bạn bè tấm hình Mélia hiếm có.
1924, phong trào hát cải lương ở Nam kỳ mời tràn lan ra các tỉnh miền Trung, được dân chúng hoan hô niềm nỡ. Tất cả học trò Trung học, Tiểu học, và nhiều vị Giáo sư đều thuộc lòng một bài "Hành Vân“ bằng tiếng Pháp, trích trong một tuồng Cải lương của một đoàn hát Cải lương Saigon đem ra diễn tại rạp Quy Nhơn trước hôm Tết, như sau đây:
Tiếng Pháp:
Chers enfants…
Vous êtes de jeunes gens
Travaillez
Et rappelez-vous
Que le temps qui passe
Marche vite..
Et ne se retrouve jamais
Quand on veut qu il se rattrape.
Arbres qui poussent,
Sources qui coulent,
Pierres qui roulent
Marquent le temps qui s’ écoule,
S’ écoule
Un jour fuit,
Une bourse pleine d’ or
De notre trésor
Finira alors, alors,
Tout autre bien ira encore
Nous ne devons pas
Perdre ce riche trésor.
Phiên âm ra tiếng An nam thành điệu “Hành Vân“ trong tuồng cải lương như sau đây:
Là sẹ cái dâng phần
Vu-dét đờ jơ-nơ-jâng,
trờ ra… mà ra vây đế
Ê-ráp-cái-pờ-lê-vu
Cờ lơ tân ki pạt
Mạc-sờ sờ vít .
Ê nơ xơ rờ-tờ-ru-vờ jă-me
Cân tong vờ kin sơ rất tờ ráp,
Ác-bờ-rờ-ki-pút
Xuộc-sờ ki cun
Pi-ẹ cái ki-ràn
Mạc-cờ lơ tang ki sệ cun, sệ cun,
Ùn jua fúy
Uyn-buộc-sơ-plen-dò
đờ-nốt-tờ-rê-dò
phi-ni-ra ạ-lo ạ-lo,
tú tốt tờ rờ-biển la-ra ân co
nú nơ… mà đờ-vông-pá
pec đờ-rờ xơ-rít trề-do.
Lấy đờn nguyệt đánh bài Hành Vân chữ Tây này nhịp với lời ca nghe vui tai lắm.
Mấy cô học trò con gái cũng đều thuộc lòng, và một buổi trưa thanh vắng Tuấn đã được nghe cô Lài ở lớp Nhất nằm võng ru em bài Hành vân “là sẹ cái dâng phần“…
Tết về tỉnh nhà, Tuấn lại được nghe một bạn đồng hương học ở Quốc học Huế về hát bài “Hò Sông Huơng“ như sau đây:
"Tiếng Pháp bồi":
Depuis que je te connais,
Jusqu ici six sept années
ở chàng, chàng ơi! ớ chàng! chàng ơi!
v.v…
Phiên âm ra tiếng Huế:
Ðờ-puy-cờ-jơ-tơ-cò nét
juịt-ki-xì xịt-xệt tan-nê,
ớ chàng! chàng ơi!… ớ chàng, chàng ơi…
v.v…
Thế là mấy ngày Tết, Tuấn và mấy bạn học ở Huế về, cùng nhau đánh đờn và hát toàn những bài hò và bản cải lương trên kia, coi bộ khoái lắm. Bà con cô bác trong tỉnh, trong làng, cũng nghe say mê.
CHƯƠNG 30 
1925
- Cụ Phan Bội Châu bị bắt giam ở ngục Hỏa Lò, Hà Nội, và bài thơ của cụ Phan Chu Trinh làm xáo động tinh thần Nam Nữ học sinh toàn quốc.
- Đổng-sĩ-Bình, một ông Phán Tòa, làm cách mạng.
- Thư cách mạng trao đổi giữa học sinh các trường
- Điện tín của học sinh các trường gửi Toàn Quyền Varenne xin ân xá cụ Phan.
- "Hiệp định 1925" giữa Pháp và Triều Đình Huế
- Quyển "Đông Dương Hôm Qua và Hôm Nay" phát không cho học sinh Trung Nam Bắc.
Toàn thể thanh niên trong nước, đến năm 1924, đang sống cuộc đời học sinh yên tỉnh, vô tư, chỉ lo ăn học, và vui chơi trong ngày Chủ nhật với những cuộc giải trí thông thường. Kẻ rủ nhau đi dạo về quê bằng xe đạp, người ở lại thành phố thì đá banh, tụ họp bạn bè trò chuyện, đi tắm sông, giặt áo quần, đi xem các thắng cảnh, viết thư về xin tiền cha mẹ v.v…
Hâù hết tất cả học trò sau ba tháng nghỉ hè, đều được lên lớp . Năm này Tuấn lên Ðệ Nhị Niên và đã thấy mình thành một học trò lớn, đã học được nhiều môn Giáo Khoa mới, hấp thụ được khá nhiều những tinh hoa văn học Âu tây. Học sinh đa số đều quen nói tiếng Pháp, vì bắt buộc phải nói tiếng Pháp với giáo sư Pháp, cả với giáo sư An nam, vì tất cả các môn học đều bằng tiếng Pháp chỉ trừ mỗi tuần 2 giờ Việt văn, môn này được coi chính thức trong chương trình là “Quốc văn“.
Ngoài học đường, tình trạng chung của xã hội An nam ở Bắc kỳ cũng như ở Trung kỳ và đời sống hàng ngày dưới chế độ của người Pháp, đã thành ra một sự kiện hiển nhiên, đã được chịu đựng một cách thụ động êm thắm. Không có sự chống đối Nhà nước Bảo Hộ. Ở Nam kỳ, giai cấp gọi là thượng lưu trí thức và tư bản ở Saigon và Lục tỉnh, hầu hết đều nhập tịch dân Pháp, sống theo phong tục của Pháp, tiếp xúc thường xuyên với các Quan Cai trị Pháp và các nhà tư bản Pháp.
Quảng đại quần chúng ở thành thị và thôn quê, thì vẫn có thái độ thụ động, lo an cư lạc nghiệp, cũng như ở Trung kỳ và Bắc kỳ. Không ai thù ghét Tây, nhưng cũng không sợ Tây như hôì vài mươi năm về trước.
Nhưng phải khách quan nhìn nhận rằng người Pháp đã gây được một uy tín lớn lao vô cùng và thật sâu rộng, là nhờ họ có một văn minh khoa học tân tiến và cao kỳ mà không một người “An nam“ nào chối cãi được.
Sở dĩ họ nắm vững được guồng máy cai trị 25 triệu dân An nam và thao túng được Triều Ðình Vua An nam ở Huế là nhờ uy tín một cường quốc văn minh đứng vào bực nhất nhì trên thế giới.
Bổng dưng tháng Bảy dương lịch năm 1925, gần nghỉ Hè, giữa tình thế đang yên tỉnh và bình thường ấy, một cái tin rất mới lạ, kinh dị, như một tiếng sấm sét giữa vòm trời quang đãng, nổ bùng và không biết từ đâu, và loan truyền khắp nước An nam: "Cụ Phan Bội Châu, bị Tây bắt ở Thượng Hải đem về giam tại nhà Lao Hỏa Lò, Hà Nội."
Cụ Phan Bội Châu là ai?
Lúc bấy giờ chẳng ai biết cả. Cái tên nghe thật kêu nhưng là một cái tên rất mới, lạ, từ trước đến nay chưa hề nghe nói đến bao giờ.
Một buổi chiều thứ bảy, trò Tuấn đi học về, thấy không khí của thành phố hơi khác hơn mọi hôm. Có nhiều nơi tụ hợp năm ba người nói chuyện xầm xì với nhau, trong các tiệm người An nam.
Trò Tuấn cắp sách về đế nhà trọ - nhà thầy Bửu Vinh Thông Phán sở Kho Bạc - thầy cũng vừa ở sở đạp xe máy về.
Thầy gác xe máy lên cái kệ gỗ sơn xanh xong rồi đi vô buồng thay áo. Nét mặt của thầy xem khác hơn mọi hôm. Lần nào ở sở về, trông thấy Tuấn, thầy cũng mỉm cười thay thế cho tiếng chào. Nhưng lần này, thầy Bửu Vinh không cười.
Tuấn nghĩ thầm thầy giận mình vì một chuyện chi đó chăng, hay thầy bị một chuyện gì không vui ở sở? Thầy đi tắm, vào sửa soạn ăn cơm. Tuyệt nhiên thầy không nói một câu, nét mặt thiểu não khác thường.
Cơm xong, 7 giờ tối, một bạn đồng nghiệp của thầy đi xe máy đến, coi bộ vội vàng, băn khoăn. Thầy ngoắc nhỏ thầy Bửu Vinh ra nhà sau, chỗ bàn học của Tuấn, gần bếp, và thầy đưa tay ngoắc trò Tuấn, Tuấn chạy theo.
Ra nhà sau, thầy kia rút trong lưng quần ra một tờ nhật báo tên là “Thực Nghiệp Dân Báo“ ở Hà Nội. Giữa trang báo có in hình một ông già râu xồm xoàm, mặc áo xuyến đen, đội khăn đen, đeo kính trắng. Gương mặt của ông thật là oai nghiêm. Ngay trên hàng đầu, in hai hàng chữ thật đậm, chiếm 6 cột, hết cả bề ngang của tờ báo. Tuấn trố mắt đọc:
"Hội đồng đề hình sắp đem vụ án cụ Phan Bội Châu ra xử. Hai vị trạng sư Bona và Larre sẽ bào chữa cho Cụ".
Thoạt tiên, trò Tuấn không hiểu gì cả. Cụ Phan Bội Châu là ai? Tại sao ông già này lại bị Tây bắt và đem ra xử tội? Taị sao có hai vị trạng sư Tây ra bào chữa cho cụ? Trạng sư là gì?
Thầy Bửu Vinh giảng giải cho Tuấn hiểu. Chính thầy và bạn đồng liêu của thầy cũng nhờ coi được tờ Thực Nghiệp Dân Báo ở nhà một người nào đó mới hiểu rõ vụ Phan Bội Châu, và nói cho Tuấn nghe. Tờ Thưc Nghiệp Dân Báo ở Hà nội, không biết ai đem vào tỉnh này? và đem vào hồi nào? Ai mua? Khắp cả thành phố không đâu thấy bán, thế mà một tuần lễ sau, Tuấn trông thấy nhiều nhà có tờ Thực Nghiệp Dân Báo và hãnh diện cho bà con chuyền nhau mượn coi. Coi xong phải trả lại liền cho đến khi tờ báo rách nát vẫn còn người mượn. Sau cùng, ngươì có báo phải đem giấu tờ báo trong rương, trong tủ, như một vật quý giá vô ngần, sợ ai lấy mất.
Cả thành phố xôn xao, nhưng vẫn lo sợ, chỉ xầm xì trong nhà, không dám nói lớn, không bàn tán công khai. Nhất là bức ảnh của cụ Phan Bội Châu, không dám đễ cho người lạ trông thấy.
Từ đêm đầu tiên - đêm thứ Bảy gần ngày nghĩ Hè - thấy ảnh cụ Phan Bội Châu trên tờ Thực Nghiệp Dân Báo và nghe rõ chuyện Cụ Phan Bội Châu, do hai thầy thông phán sở kho bạc kểl lại, trò Tuấn như bị một sức mạnh gì huyền bí, làm xáo trộn tinh thần. Suốt đêm, Tuấn cũng không ngủ được. "Chân dung Sào Nam Phan Bội Châu tiên sinh“, theo đúng dòng chữ in của tờ báo dưới ảnh cụ Phan, cứ ám ảnh tâm hồn còn ngây thơ non nớt của cậu học trò 16 tuổi.
Sáng chủ nhật dậy thật sớm, Tuấn ăn vội vàng tô cháo gà, rồi chạy đến các nhà bạn bè, nói chuyện cụ Phan Bội Châu. Có vài trò sợ sệt bảo Tuấn: ”Mày đừng nói chuyện đó, bị ở tù chết cha!” Nhưng phần đông đều bàn tán say sưa về chuyện cụ Phan Bội Châu, một bậc anh hùng ái quốc bị Tây bắt bên Tàu sắp đem ra xử tử. Vì moị người đều nghĩ rằng thế nào cụ Phan Bội Châu cũng sẽ bị Tây xử “chết chém“.
Kỳ nghỉ Hè ấy, Tuấn không về quê, viết thư xin phép cha mẹ ở lại học tư lớp Hè.
Sự thực, Tuấn muốn ở lại để được coi tờ Thực Nghiệp Dân Báo Hà nội cho biết chuyện cụ Phan Bội Châu. Về tỉnh nhà làm gì có báo mà coi. Mấy người đi buôn ở Ðồng Nai, cũng có đem về mấy tờ Sài Thành Nhật Báo ở Saigon, nói chuyện một bậc chí sĩ khác tên là Phan Chu Trinh, ở bên Tây mới về. Người ta đồn rằng ông này giỏi lắm, người Tây ở Saigon cũng phải sợ ông. Ông đi đâu cũng có hàng ngàn người An nam bu theo ông để nghe ông diễn thuyết chửi Tây, chửi vua An nam, mà Tây không dám bắt bỏ tù ông.
Tuấn đã viết thư về nói dối với cha mẹ là ở lại Qui-nhơn để học tư, nhưng sự thực là suốt ba tháng nghĩ Hè, Tuấn ưa lai vãng đến nhà mấy đứa bạn để đọc lén tờ Thực Nghiệp Dân Báo. Sau có thêm tờ Khai Hóa Nhật Báo, tờ Trung Bắc Tân Văn cả ba từ Hà Nội gởi vào. Từ Saigon gửi ra có tờ Sài Thành Nhật Báo, Ðông Pháp Thời Báo, một tờ Báo Tây Echo Annamite của một người An nam làm chủ bút, tên là Nguyễn Phan Long, và tờ La Cloche Félée cũng của một người An nam tên là Nguyễn An Ninh.
Tuấn không biết những tờ baó này do ai ở Saigon gởi ra, và ai ở Qui-nhơn gởi mua? Chỉ biết rằng cả Qui-nhơn chỉ vài ba người có mà thôi và được chuyền nhau mượn coi lén lút trong một nhóm học trò Ðệ Nhị và Ðệ Tam Niên.
Giáo sư An nam không dám coi báo, trừ một ông giáo người Bắc dạy Quốc văn mà học trò thường gọi là ông Ðốc Bình và thầy trợ Tố dạy lớp Năm mà trong thành phố người ta gọi là “thầy Cộng sản“ để ngạo cái chủ trương của thầy là "của đời muôn sự của chung“. Nhưng ông Ðốc Bính thường dặn dò Tuấn đừng chơi thân với thầy Tố vì thầy này là một con "mouton“ (con cừu) tiếng Pháp có nghĩa là kẻ làm do thám.
Do đó, học trò bảo nhau là thầy Tố làm mật thám cho Tây. Ở các sở Nhà Nước, hầu hết các thầy Thông, thầy Phán đều không dám coi báo công khai, trừ hai thầy Kho bạc, và một thầy ở Toà Sứ. Thầy này hăng hái nhất và còn trẻ, lối 23, 24 tuôỉ, quê quán ở Huế, và chưa có vợ, tên là Ðồng Sĩ Bình. Mặt thầy nhiều mụn, và lúc nào thầy cũng nói tiếng Tây để chửi Tây. Tuấn mê nghe thầy giảng hay, và lạ nhất là Tuấn ít khi nghe thầy nói tiếng An nam. Có lẽ tiếng An nam dùng để chửi Tây không hay bằng tiếng Tây? Tuấn nghĩ thế nhưng không dám hỏi. Cũng có lẽ nói tiếng Tây đã thành ra thói quen của những người học tiếng Tây đã giỏi . Có lần Tuấn được dự một cuộc hội hợp bí mật tại nhà ông Ðốc Bính. Suốt mấy tiếng đồng hồ, ông Toàn và thầy Ðổng sĩ Bình đều nói toàn tiếng Tây để chửi Tây kịch liệt, và hô hào học trò nên có tinh thần ái quốc và đừng làm nô lệ cho Tây.
Lúc bấy giờ những danh từ “đả đảo“, “thực dân“ “đế quốc“ v.v…chưa thông dụng. Người ta chỉ dùng một chữ thông thường nhất là “cách mạng“.
Ðêm nhóm họp đầu tiên do thầy Thông phán Ðổng sĩ Bình tổ chức, thầy bảo Tuấn chạy đi rủ thêm trò Quỳnh, trò Tố và trò Thu đến nhà ông Ðốc Bính. Lần đầu tiên Tuấn được nghe hai chữ “cách mạng“ do thầy Bình lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Nhóm hợp, để thầy và ông Ðốc Bính giảng báo cách mạng cho tụi này nghe.
Ba tờ báo Hà nội thuât chuyện cụ Phan Bội Châu. Báo Quốc ngữ Saigon thuật chuyện cụ Phan Chu Trinh. Tờ báo Pháp ngữ La Cloche Félée của Nguyễn An Ninh thì chưỉ Tây và hô hào “cách mạng“ hăng hái nhất. Mỗi lần thầy Bính trao cho Tuấn một tờ báo mới thầy đều căn dặn xem xong phải chuyền cho mấy trò khác xem. Nhưng Tuấn không bao giờ dám đem báo vào lớp học. Mỗi lần xem xong, trò đút nó dưới lớp áo dài đen, à chạy đến nhà trò Quýnh đưa lén cho trò này xem.
Một buổi tối, Tuấn đến nhà thầy Ðổng sĩ Bình, thầy ở một mình một căn nhà mướn trong một ngõ hẻm gần bờ song. Thầy chỉ cho Tuấn một bài thơ bằng chữ Nho ký tên Phan Chu Trinh, do tự tay thầy chép ra bằng nét chữ đậm và thật đẹp, lồng khung kiến treo trên tường. Tuấn không biết bài thơ này do thầy chép ở đâu ra, nhưng Tuấn học thuộc lòng ngay:
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không
Giang san hòa lụy khấp anh hùng
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương túy mộng trung
Trường thử bách niênm cam thóa mạ,
Bất trí hà nhựt xuất lao lung
Chư quân vị tất vô tâm huyết
Thích bả tư văn khán nhất thông.
Tuấn đã được học chút ít chữ Hán, nhưng lần đầu tiên nghe nhiều tiếng mới lạ: anh hùng, nô lệ, cường quyền, lao lung, tâm huyết. Tuấn chưa hiểu rõ nghĩa cho lắm. Thầy Bình ngâm từng câu, giảng từng ý, rồi thầy ngâm đi ngâm lại nhiều lần. Thầy giảng rộng ra nữa, và nói:
“ Nước An nam đã mất,
nhà An nam đã tan,
dân An nam bị làm nô lệ .
Ðồng bào như người mê ngủ
chưa tỉnh ngộ để cho Tây nó đè đầu, đè cổ, nó áp chế…
Một trăm năm nữa cũng đành chịu hay sao? “
Thầy nói bằng tiếng Tây, rất hăng hái, rất say mê. Thầy đập tay xuống bàn, thầy dậm chân xuống đất, thầy hét lên: ”Trời ơi! Trời ơi! Nưóc An nam là con Rồng cháu Tiên, mà dân An nam ngày nay là tôi, là tớ, là mọi, là rợ, bị xiềng xích, gông cùm, áp chế! Thế có tủi nhục cho Hồn Thiêng của Ðất Nước hay không?”
Bổng thầy oà ra khóc, thầy gục đầu xuống bàn khóc nức nở… Tuấn bị qúa cảm xúc, cũng rưng rưng nước mắt ngồi khóc ngây ngô. Tuấn nhìn lên bài thơ đóng khung treo trên tường, càng nhìn càng khóc.
Mỗi câu thơ như:
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương tuý mộng trung
Mà thầy Bình đọc đi đọc lại, kêu gào lên, rồi khóc, làm trò Tuấn có cảm tưởng như đây chính là tiếng nói đau khổ, tiếng rên xiết bi thương của một Hồn thiêng hiện về kêu gọi con cháu bằng giọng ai oán lâm ly.
Không khí bi thảm ấykéo dài một lúc lâu. Rồi thầy Ðổng sĩ Bình ngước đầu dậy, mắt còn dẩm lệ, bảo trò Tuấn:
-Tuấn ơi! Chúng ta là con cháu của Hùng Vương, của Lạc Long Quân, ta phải làm thế nào chứ! Làm thế nào để phá tan cái xiềng xích nô lệ, để đòi lấy Ðộc Lập Tự Do, để…
Tuấn chỉ biết ngồi cúi đầu, nghe và khóc.
Thầy Ðổng sĩ Bình đứng dậy, đôi mắt thầy đỏ ngầu, tay thầy run lên, thầy chỉ ngón tay lên bài thơ chữ Nho của cụ Phan Chu Trinh, và nói bằng tiếng Pháp có vẻ căm hận, oán than, nhấn mạnh từng câu :
- Notre grand Patriote Phan chu Trinh a dit: "nous sommes des esclaves!... Nous sommes des esclaves!"
(Nhà đại ái quốc của chúng ta là cụ Phan chu Trinh đã nói đấy: chúng ta là những kẻ nô lệ)
Rồi thầy nói liên tiếp bằng tiếng Pháp,thầy nói thao thao bất tuyệt, thầy nói đến trào nước miếng hai bên mép, đổ mồ hôi trên trán, trên má, thầy hô hào: Cách mạng! Phải làm Cách mạng! Il faut faire la Révolution! Il faut faire la Révolution! Pour que les Annamites ne soient plus des esclaves, pour que les Francais ne soient plus des oppresseurs,… des tyrans…, il faut faire la Révolution!
Tuấn đã hoàn toàn bị thôi miên bởi giọng diễn thuyết hùng hồn ai oán của thầy Ðổng sĩ Bình, Thông phán đầu tòa của quan Công Sứ Pháp, chủ tỉnh Quy Nhơn…
Ðêm hôm đó, Tuấn đến nhà trọ của mấy cô học trò lớp Nhất . Năm nay, cô Thục lưng quần đỏ đã thi đổ primaire về nhà lấy chồng làm Chánh tổng, cô Lài cũng đã thi đổ được mẹ cho ra Huế học trường Ðồng Khánh. Chỉ còn cô Trâm, cô Anh thi rớt phải học lớp Nhất trở lại một năm nữa. Tuấn đem bài thơ đã học thuộc lòng ở nhà thầy Bình đọc cho Trâm và Anh nghe. Tuấn lập lại những lời hô hào cách mạng của thầy Ðổng sĩ Bình, và Tuấn cũng đã được tiêm nhiễm những giọng say mê ai óan của thầy, nói hùng hồn như thầy, đến nỗi một lúc sau Tuấn cũng bị xúc động gục xuống bàn khóc… Trâm và Anh cũng rưng rưng khóc theo.
Ðêm ấy, Tuấn nói hết những gì Tuấn biết về hai cụ Phan bội Châu và Phan chu Trinh, cho Trâm và Anh nghe say sưa, mãi đến gà gáy sáng.
Sau kỳ nghĩ Hè năm ấy, một số đông học trò ở toàn xứ An nam khắp ba Kỳ, đều thuộc lòng bài thơ của cụ Phan Chu Trinh, bài thơ cách mạng đầu tiên đã vang dội trong đầu óc thanh niên thế hệ 1925.
Trong nhiều trường hợp, đại khái như trường hợp của Tuấn, việc cụ Phan Bội Châu bị bắt giam ở nhà lao Hà Nội, việc cụ Phan Chu Trinh về Saigon diễn thuyết cách mạng, và bài thơ của cụ “Thế sự hồi đầu dĩ nhất không…” được truyền khẩu bí mật đi khắp nước, từ Bắc chí Nam.
Học trò con gái phần đông là nghe theo học trò con trai, cũng được tiêm nhiễm tinh thần cách mạng, và sau này cũng hăng hái, cùng với bạn trai tham gia tất cả các cuộc hoạt động bí mật và công khai làm "phá rối cuộc trị an của Nhà Nuớc Bảo Hộ" .
Tuấn viết bức thư đầu tiên cho Lài ở Huế, như sau đây (Lài ở “Internat“ (ký túc xá), trường Ðồng Khánh). Thư phải để gửi cho một cô bạn cùng lớp Ðệ Nhất Niên với Lài, nhưng ở trọ nhà bà cô trong Thành Nội, nhờ cô bạn trao lại cho Lài).
Le 6 Octorbre 1925
Cô Lài ơi,
Cô ở Huế, mà việc cụ Phan Bội Châu, một bậc anh hùng ái quốc bị Tây bắt ở bên Thương Hải giải về giam trong nhà tù Hà Nội ngoài Bắc kỳ, cô có nghe tin không? Việc cụ Phan Chu Trinh, bậc anh hùng chí sĩ ở Tây về Nam kỳ, cô có biết không?
Bài thơ của cụ Phan Chu Trinh:
"Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
giang san hòa lụy khấp anh hùng.
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
bát cổ văn chương túy mộng trung.
Trường thử bách niên cam thóa mạ,
bất tri hà nhựt xuất lao lung.
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
thỉnh bá tư văn khan nhất thông"
Cô có thuộc không?
Cô trả lời cho tôi mừng kẽo tôi nóng lòng lắm. Còn cô Thục thi đỗ rồi mà không ra Ðồng Khánh tiếp tục học như cô, lại ở nhà lấy chồng, lão Chánh tổng nhà giàu, góa vợ. Tụi tui tức giận lắm đó. Tết này cô có về Quy Nhơn ăn Tết không? Nếu cô về thì tui ở lại chơi trong mấy ngày Tết. Tụi mình đến nghe thầy Bình giảng Les Droits de l Homme et du Citoyen (Nhân quyền và Dân quyền). Tôi có cái hình cụ Phan Bội Châu đẹp lắm, nếu cô không có thì tôi gửi ra cho cô.
Tôi với Anh và Trâm nhắc đến cô hoài. Cô đau mắt hột, đã bớt chưa? Tôi chúc cô học tiến bộ nhiều.
Thơ bất tận ngôn.
Au revoir, mademoiselle.
Votre ami dévoué:
Tuấn.
Hơn mười ngày sau, Tuấn được thư Lài trả lời như sau:
Huế le 18 Octobre 1925
Anh Tuấn ơi,
Em bắt được thư anh sáng thứ tư, chị Tuyền đưa vô cho em mà Tuyền đã xé coi trước. Em giận lắm. Ở Huế, mấy cô trợ giáo và học trò Ðồng Khánh cũng bàn tán lao xao việc cụ Phan Bội Châu bị bắt bỏ tù ở Hà Nội. Mấy bữa ni đang làm đơn gởi Quan Toàn Quyền để xin tha cho cụ. Tuị em theo mấy anh học trò trường Quốc Học và cũng hăng hái vận động đánh giây thép ra Bắc kỳ để xin ân xá cụ Phan Bội Châu. Còn trường Qui-nhơn của mình? Không lẽ mấy anh làm thinh để cụ Phan bội Châu bị tù sao? Anh nghĩ sao, cho em biết, em mong tin anh lắm. Cụ Phan chu Trinh diễn thuyết ở Nam kỳ, hô hào lập “dân chủ“ đánh đổ “quân chủ“. Em có một cuốn sách in bài diễn thuyết đó. Anh có không? Nếu không, thì em gửi vô cho anh... Hay hạng nhứt. Anh Tuấn ơi em đọc say mê. Làm sao em gửi lén vô cho anh? Nhưng có một trò trai bị lính của Vua bắt, vì đang ngôì dưới cầu Trường Tiền đọc bài đó. Bài thơ anh chép cho em, em cũng có rồi. Ở Huế, ai cũng thuộc lòng.
Tết, em phải về Quy Nhơn thăm mẹ em. Anh Tuấn ở lại ăn Tết với em hỉ? Em không có ảnh của cụ Phan Bội Châu nhưng em thấy trong báo “Khai Hóa“ ở Hà nội gởi vô cho cô giáo, cô giáo có đưa cho tụi em coi. Cụ đẹp qúa, oai quá, anh hỉ. Anh ơi, dân nước An nam mình bị làm nô lệ cho cường quyền, anh có buồn không? Nghe tin cụ Phan bội Châu bị tù, tụi em khóc hết.
Tuị em nhứt định xin tha cho cụ . Em đã thuộc lòng bài thơ anh làm tiễn em đi Huế, và thuộc lòng cả bài thơ của cụ Phan chu Trinh, vơí bài “Huyết lệ thơ“ của cụ Phan bôị Châu nữa. Tết em về, em đưa cho anh coi bài “Huyết lệ thơ“ em không dám viết vô đây, bài đó ghê lắm, anh à.
Em nhớ mẹ em, em khóc hoài.
Em cũng nhớ anh, em gửi lời thăm chị Trâm, chị Anh và chúc hai chị sang năm thi đỗ để ra Huế học với em.
Tết anh ở lại đừng về Quảng Ngãi, anh hỉ. Ông docteur chữa bệnh trachoma cho em đã gần bớt.
Votre affectueuse amie qui pense à vous.
Lài
Tái bút - Nếu chưa lo việc làm đơn xin tha cụ Phan bội Châu thì anh làm thiệt gấp. Ngoài Huế này, mấy chị lớp trên nói: nếu nhà nước kết tội chém cụ Phan bội Châu thì cả trường Ðồng Khánh sẽ làm lễ để tang cho cụ. Em viết tới đây em khóc vì em sợ họ không tha cho cụ đâu. Anh Tuấn ơi nếu cụ Phan bị chết chém thì anh cũng để tang nghe không anh? Anh cổ động mấy anh học trò trường mình cho đông thì sợ gì. Anh làm đơn gởi đi thật gấp. Nghe nói quan Toàn Quyền mới tên là Alexandre Varenne, gần sang An nam rôì, để xử cụ Phan Bội Châu. Chúng ta làm đơn xin ân xá cho kịp ngày, nếu để trể thì nguy tính mạng bậc chí sĩ anh hùng của nước ta. Tuị em ngoài này mấy tuần chỉ lo có một việc đó thôi. Em chờ thư anh. Au revoir anh...
Votre amie fidèle: Lài
Ðọc thư cô nữ sinh Ðồng Khánh bị xúc động về cụ Phan Bội Châu có thể bị chết chém, Tuấn vụt chạy ra sau nhà bếp ngồi khóc một mình. Cũng như những đám học trò con trai con gái khác đã bị ảnh hưởng về vụ Phan Bội Châu, ảnh hưởng tự nhiên, ngấm ngầm nhưng vô cùng mãnh liệt, Tuấn sùng bái cụ Phan bội Châu không xiết kể và cứ hồi hộp lo sợ cụ bị chết chém.
Tuấn chạy đến nhà thầy Ðổng sĩ Bình, và rưng rưng nước mắt nói thầm với thầy:
”Thầy ơi, tôi nói dại dột nếu lỡ mà cụ Phan bội Châu bị chết chém thì làm sao?“.
Thầy Bình đang ngồi ăn cơm tối, vụt ném chén cơm và đôi đũa xuống đất, tiếng kêu choảng choảng… Thầy đập bàn tay thật mạnh trên bàn và la lên giận dữ, bằng tiếng Tây: “Jamais! Jamais! Jamais les Annamites laisseront mourir ainsi le Grand Patriote Phan Sao Nam!“ (Không đời nào! Không đời nào người An nam để cho nhà đại chí sĩ Phan Sào Nam chết như thế!)
Nhưng rồi như điên như cuồng, thầy gục đầu xuống bàn khóc, vừa lẩm bẩm như cầu nguyện: "cụ Phan không chết! cụ Phan không chết!..."
Thầy Ðổng sĩ Bình, Thông Phán tòa sứ Quy nhơn, cùng một lý tưởng và một chí hướng với Bửu Ðình ở Huế, Nguyễn An Ninh ở Saigon, Nguyễn Thái Học ở Hà nội, là những nhân vật điển hình của thế hệ thanh niên trí thức cách mạng năm 1925. Một số rất đông học trò các trường Trung học Pháp Việt, Nam và Nữ, ở ba Kỳ, và sinh viên Cao đẳng ở Hà nội đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của mấy bực đàn anh kia. Chính họ đã truyền cảm cho lớp thiếu niên 1925, tinh thần ái quốc, tư tưởng cách mạng, mà hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh ở hải ngoại mới về, là hai thần tượng tuyệt đối để họ sung bái, tôn thờ, tha thiết thương yêu.
Tôi nói “thương yêu“, vâng! Vì lớp trai trẻ có gái lẫn trai của thế hệ 1925, đã để trái tim của họ rung cảm mãnh liệt lần đầu tiên bởi tình yêu Nước mà cả hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai hình ảnh thiêng liêng rực rỡ. Những mối tình khác chỉ đều phụ thuộc mà thôi. Lòng ái quốc bộc phát sôi nổi, đột ngột và hăng hái cho đến nỗi họ đã tự động để tang cho cụ Phan Chu Trinh khi cụ chết ở Saigon năm 1926, họ lập bàn thờ ở khắp nơi để tế vong linh của cụ, và họ có thể tình nguyện chết theo nếu cụ Phan Bội Châu bị án tử hình năm 1925.
Chính trong làn gió cách mạng nồng nhiệt lôi cuốn ấy, trong tình yêu nước thiết tha đầm ấm ấy, đã nẩy nở ra tinh thần hy sinh dũng cảm của cô Nguyễn thị Giang, Nguyễn thị Bắc, và trăm nghìn cô Bắc, cô Giang khác, và trăm nghìn Nguyễn Thái Học khác, trong đám thanh thiếu niên nam nữ học sinh.
Không phải riêng một thầy Ðổng Sĩ Bình điên cuồng, kêu thét vì quốc hận, không phải riêng một cậu học trò 16 tuổi như Tuấn cũng đau đớn khóc than cho “Vong Hồn Tổ Quốc“, mà hầu hết thanh thiêú niên nam nữ toàn nước “An Nam” đều bồng bột sôi nổi với tinh thần cách mạng tuy hãy còn ngấm ngầm e dè, chưa bùng ra quyết liệt.
Có điều làm vinh dự nhất cho các cô giáo và nữ sinh trường Ðồng Khánh Huế, là trường Nữ Trung Học độc nhất của xứ Trung kỳ, đã hăng hái hơn tất cả các trường khác ở toàn xứ An nam trong việc ân xá cho cụ Phan bội Châu.
Một buổi sáng thứ hai, trong giờ chơi, Tuấn được anh cai trường kêu xuống văn phòng nhận một thư bảo đảm. Tuấn mừng quýnh tưởng là thư nhà gửi măng-đa vô cho. Ra khỏi văn phòng, Tuấn xem nét chữ trên phong bì và dấu bưu điện đóng trên con tem, biết ngay là thư của cô Nguyễn thị Lài, học sinh trường Ðồng Khánh Huế, bạn thân của Tuấn. Tuấn chạy ra phía sau trường, ngôì một mình trên bãi cát, mở thư ra xem. Nét chữ của cô Lài đều đặn, tế nhị, rất dễ thương. Lài viết:
Huế ngày 14-12-1925 tức là ngày 29 tháng 10 năm Ất Sửu,
Mon cher ami Tuấn!
Em muốn viết thư này thiệt gấp gửi vô cho anh, để anh biết rằng ngày 9 tháng 12 vừa qua, các cô trợ giáo trường Ðồng Khánh và học trò tụi em, có đồng ký một giấy phép như sau đây gởi ra Quan Toàn Quyền Alexandre Varenne ở Hà Nội Bắc kỳ: Gougal Hanoi - Nous institutrices et élèves collège Ðồng Khánh, avons honneur demander à votre bienveillance grace pour patriot Phan Bội Châu.
Nhưng giấy thép đó không gởi đi được, anh biết taị sao không? Taị ông Chánh sở Giây thép không dám gởi đi và đưa trình lên ông Khâm Sứ Pierre Pasquier.
Ông Khâm sứ liền sai một ông thanh tra mật thám tới trường Ðồng Khánh ở Huế, kêu hết tất cả các cô trợ giáo và học trò tựu lại trước mặt bà Ðốc (bà Ðầm) và hỏi: "Ai viết cái giây thép này?" Tức thì có cô trợ giáo Mân bước ra đọc cho ông thanh tra mật thám nghe bản chữ Tây như sau:
Je déclare être de celles qui ont decidé l envoi du télégramme à M. le gouverneur général Varenne, et je vous présente mon amie, Mlle… qui est décidée à supporter avec moi les conséquences de notre acte collectif. Nous n’avons pas à consulter notre Directrice pour une faveur que nous demandions au Chef de la Colonie en debors du domicile administrative. Nous protestons contre le fonctionnaire de Postes qui s’est permis, après avoir recu notre argent, de détourner le télégramme remis à son guichet. Et ceci est d’ autant plus grave que ce télégramme était adressé à Monsieur le Gouverneur Général. Nous n’ avons pas à rougir de notre acte et n’avons que suivi l’exemple de nos soeurs de Hanoi qui ont arrêté la voiture du gouverneur général pour lui remettre une supplique en faveur de notre héros national et n’ avons recu aucune suggestion du dehors. Nous avons agi en femmes annamites et non comme institutrices et élèves du collège.
(Tôi xin nhận là có cùng với các bạn gái quyết định gởi giây thép ra quan Toàn Quyền Varenne, và tôi xin giới thiệu ông đây là cô X. bạn tôi, đã cùng nhau quyết định chịu hết cả những hâụ quả của hành động tập thể này. Chúng tôi vì một ân huệ mà chúng tôi gởi xin quan Toàn Quyền ở ngoài phạm vi nhà trường. Chúng tôi phản đối ông chánh sở Bưu điện đã nhận tiền của chúng tôi để đánh diện tín, mà lại không gởi điện tín ấy đi. Càng trầm trọng hơn nữa, là chính điện tín ấy chúng tôi gởi ra quan Toàn quyền. Chúng tôi không hối hận tí gì về hành động của chúng tôi, chúng tôi chỉ theo gương của các bà chị của chúng tôi ở Hà nội đã chận xe hơi của quan Toàn quyền để đưa lên ngài một bản thỉnh nguyện ân xá cho vị anh hùng dân tộc của chúng tôi. Chúng tôi không bị ai xúi giục cả. Chúng tôi hành động với tư cách là phụ nữ An nam chớ không phải với tư cách là các cô trợ giáo và các học trò trường Ðồng Khánh).
Anh à, tuị em đều lo sợ cho hai cô trợ sẽ bị bắt bỏ tù nhưng may quá, ông thanh tra đứng im lặng nghe, nghe rôì xin cái tờ khai kia để đem về trình với quan Khâm sứ. Sáng ngày hôm qua, là ngày 13.12.1925, bà Ðốc kêu cô trợ Mân bảo rằng ông chánh sở Giây thép mời cô trợ ra tòa giây thép để lấy lại số tiền gởi điện tín, mà điện tín bị giữ lại, không gởi.
Anh Tuấn à, mấy bữa rày ở Huế xôn xao lắm. Ngày vua Khải Ðịnh chết ( ác quan nói là vua băng hà) là ngày 6.11.1925, dân đế đô Huế chỉ nô nức chờ coi đám tang mà thôi. Ðám tang của nhà vua thì lớn lắm nhưng học trò và các cô trợ giaó không có chút gì cảm động, vậy mà việc cụ Phan bội Châu thì lại làm cho cả trường mất ăn mất ngủ, ngày đêm lo sợ, buồn rầu lạy Trời làm sao cứu cho nhà chí sĩ An nam khỏi chết.
Còn học trò trường Quy Nhơn mình có làm gì không anh Tuấn? Bửa trước anh có được thư của em chứ? Rôì anh có nói chuyện với mấy ảnh, có rục rịch gì không? Em chờ thư anh qúa chừng mà không thấy anh trả lời. Sao vậy? Chúc anh bình yên mạnh giỏi.
Votre amie qui pense toujours à vous
Nguyễn thị Lài
Tuấn đọc đi đọc lại thư của Lài hai ba, bốn lần. Rồì Tuấn mắc cỡ cầm thư chạy đến nhà mấy đứa bạn Quỳnh, Thu, Tố. Tuấn hỏi:
- Học trò Quy Nhơn mình dở quá! Thua xa học trò con gái trường Ðồng Khánh. Tao xấu hổ lắm, tao không dám viết thư trả lời cho Lài.
Quỳnh bảo:
-Tụi Ðồng Khánh nhờ có mấy cô trợ giáo có đầu óc. Còn mấy ông thầy giáo của trường mình ông nào ông nấy sợ Tây như sợ cọp, tối chỉ lo xổ tam hường và đánh tứ sắc, còn làm khỉ gì được.
Tố nói thêm:
-Phải có mấy ông cầm đầu thì tụi học trò mới dám làm chớ! Mầy coi, ông T., thì lo xổ tam hường, ông Thy thì ở nhà ôm vợ, ông V. thì đánh tứ sắc, chỉ còn ông đốc Bình thì không nghe ổng nói gì hết.
-Tụi mình chạy lại thầy Ðổng sĩ Bình, hỏi ý thầy xem. Học trò Huế cũng có làm đơn xin ân xá cho cụ Phan. Quy Nhơn mình ngủ gục hết trơn, hết trọi, thế này sao?
Ðêm ấy, bốn trò liền kéo nhau đến nhà thầy Ðổng sĩ Bình. Thầy Bình nói:
- Tôi đã gửi bài đăng trong báo Saigon để kêu ân xá cho cụ Phan Sào Nam. Còn về phần các học trò, phải tự làm lấy chứ! Cũng như ở Huế, trường nào làm riêng trường đó mới được.
9 giờ khuya, về nhà Quỳnh, trò Tuấn hăng hái lấy bút viết nháp giây thép để gửi ra Quan Toàn Quyền. Tố, Quỳnh, Thu, chuyền nhau xem . Ðiện tín viết bằng Pháp văn như sau đây:
Gougal Hanoi - Nous, élèves collège Quy Nhon, vous serions reconnaissants accorder grâce à notre Grand Patriote Phan Bội Châu.
Quỳnh bỏ chữ collège, Tố thêm mấy chữ “vouloir bien“ Thu thêm "très" trong câu "notre Grand Patriote". Nhưng rôì không lẽ chỉ bốn đứa ký tên? Phải có cả trường ký chớ? Làm sao lấy chữ ký cả trường? Lỡ ông Ðốc biết thì sao?
Bốn đứa bàn đi bàn lại suốt đêm. Ðến gà gáy sáng Tuấn đề nghị đừng ký tên gì cả, cứ đánh đại giây thép mệnh danh là toàn thể học trò trường Quy Nhơn, rồi lỡ xẩy ra chuyện gì thì bốn đứa mình cùng chịu tội. Nhưng giấu kín đừng cho học trò trong trường biết. Vì đa số học trò trường Quy Nhơn hồi đó còn sợ. Chính bốn đứa này tuy hăng hái làm nhưng vẫn còn ngại… vì không có người lớn đỡ đầu. Dù sao cũng nhất định gởi cái giây thép nhưng lại không có tiền. Bốn đứa đều không có một xu, chưa nào được măng đa ở nhà. Sáng tinh sương, thành phố còn ngủ, Quỳnh và Tuấn chạy đến ngõ cửa thầy Ðổng sĩ Bình, đưa thầy xem cái giây thép. Thầy gật đầu khen:
- C est très bien! C est très bien! (Giỏi lắm! giỏi lắm!)
Xong thầy móc túi áo ra cho 1 đồng bạc mới tinh. Ðồng bạc tròn chung quanh có răng cưa, trong có khắc hình “bà Ðầm xòe“ và có vòng chữ République Française (cộng hòa Pháp). Ðể đồng bạc trên đầu ngón tay, cầm cán bút bằng sắt gõ vào, nó kêu “keng!“ rất thanh.
Hai đứa học trò mừng quýnh, cầm đồng bạc chạy về đưa cho hai đứa bạn nằm nhà chờ kết qủa, 8 giờ sáng Quỳnh và Tuấn làm đơn khai dối là “malade“ xin phép Giáo sư cho nghỉ một buổi.
Hai đứa rủ nhau đi ra nhà Giây Thép. Tòa bưu điện đông người ra vào. Tuấn gấp tờ giấy điện tín bỏ trong túi áo, không dám lấy ra vội. Ðợi lúc vắng người, hai trò đến đưa cho thâỳ Thông giây thép coi, và trao luôn đồng bạc mới tinh. Nhưng thầy thông giây thép xem xong, trợn mắt lấy tay làm dấu cho hai trò đi vòng sau tòa bưu điện. Hai đứa ra đến đây thì thầy thông đã đứng đấy rồi, tay còn cầm tờ giấy của Tuấn. Thầy trợn mắt ngó Quỳnh và Tuấn và nói khẽ:
- Các trò muốn ở tù phải không? Ai bảo các trò gởi cái giây thép này?
Tuấn nhe răng cười (Tuấn có tật nhe răng cười mỗi khi lính quýnh khó trả lời).
Quỳnh bảo:
- Hết thảy học trò trường Quy Nhơn
Thầy thông bảo:
- Các trò đừng có làm bậy! Ðã có lịnh của quan Sứ dặn quan Rờ-xơ-vơ hễ có ai đánh giây thép xin ân xá cụ Phan Bội Châu thì đừng gửi, và đưa giây thép lên cho Quan Sứ coi.
Hai trò nhìn nhau, Quỳnh hỏi Tuấn:
- Sao mầy?
Tuấn nhe răng cười:
- Sao là sao ?
Thầy thông bảo tiếp:
- Tôi thương hai cậu. Con tôi cũng có học trong trường, nếu có chuyện gì nó cũng bị đuổi như các cậu vậy. Thôi tôi can hai cậu, xé bỏ cái giấy này đi. Nguy hiểm lắm. Nên kín mồm, kín miệng, tôi không có trình lên ông Rơ-xơ-vơ đâu.
Quỳnh lại hỏi Tuấn:
-Sao mầy?
Tuấn chỉ biết nhe răng cười:
- Sao thì sao, chớ sao! Thầy thông không cho gửi thì đành vậy.
Thầy thông trao tờ giấy “nguy hiểm“ lại cho Tuấn. Hai trò ra bờ biển ngồi, xé vụn từng mảnh giấy nhỏ, và vò cục lại quăng ra đợt sóng. Hai đứa vội vàng về nhà Quỳnh. Tuấn và Quỳnh đều mắc cỡ và buồn, làm thinh không nói gì với nhau. Một lúc sau, Tuấn nằm sấp xuống chiếu, khóc thút thít một mình…
Vụ án Phan Bội Châu đang sôi nổi, thì một buổi sáng sau khi vua Khải Ðịnh chết được chừng sáu bảy hôm, ông Daydier, đốc học trường Quy Nhơn, cầm một tờ giấy in, vào các lớp đọc cho học trò nghe. Lớp Tuấn đang học giờ Sử Ký Pháp. Giáo sư Mariani giảng về cuộc Cách mạng năm 1848. Với giọng hùng hồn như diễn thuyết, ông đang kể lại những sự kiện xẩy ra ở Paris, lúc thi sĩ Lamartine cầm cây cờ Tam tài đứng trước tòa Ðô Chánh hô hào dân chúng, thì ông Ðốc học Daydier đi giầy cộp cộp… từ ngoài mở cửa bước vào. Ông giáo sư ngừng nói. Ông Ðốc đứng ngay giữ lớp, với vẻ mặt trịnh trọng khác hơn mọi ngày, nhìn chăm chăm vào mặt học trò, nói chậm rãi nhấn mạnh từng câu, từng chữ để cho học trò chú ý:
- J ai une nouvelle importante à vous annonncer... (tôi có một tin quan trọng báo cho các trò biết…)
Ông ngưng một phút, rút trong túi áo ra một cặp kiếng lấy gắn vào sống mũi (ông đeo một loại kiếng trắng gắn vào sống mũi chứ không có gọng ) rôì nói tiếp, đại khái, ý nghĩa như sau đây:
- Trước hết tôi báo tin cho các trò biết rằng Hoàng Ðế Khải Ðịnh mới chết, cách đây một tuần lễ… Cái chết ấy thật là một việc đau buồn cho nước An nam và nước Pháp, bởi vì hoàng đế Khải Ðịnh là một người bạn lớn của nước Pháp (un grand ami de la France)  Con trai của Ngài là hoàng tử Vĩnh Thụy, du học ở Paris, hãy còn nhỏ tuổi qúa không thể nào thay thế Vua Cha để cai trị dân. Tuy vậy nước Pháp có bổn phận bảo vệ nước An nam không thể để trống cái ngai vàng ở Huế, vậy nên nước Pháp đã mời hoàng tử Vĩnh Thụy về để kế vị Vua cha. Ngài sẽ nối ngôi nhà Nguyễn với niên hiệu là Hoàng đế Bảo Ðại. Nhưng vì Hoàng đế còn nhỏ tuổi muốn tiếp tục việc học ở Pháp, ngài là cậu học trò rất thông minh…
Ông Daydier tủm tỉm cười với ông giáo sư Mariani, rồi quay lại nói tiếp với học trò:
-… và rất chăm chỉ, đáng làm gương cho học trò… ngài về nước để tang cho Phụ Hoàng của Ngài, rồi sẽ trở qua Pháp để tiếp tục việc học. Vì thế, Hội Ðồng Cơ Mật ở Huế mới thỏa thuận ký với nước Pháp một bản thỏa ước, gọi là “bản thỏa ước năm 1925“ (La Convention de 1925) để cải tổ việc cai trị nước An nam cho mỗi ngày mỗi mở mang tiến bộ. Ðây để tôi đọc xho các trò nghe nguyên văn bản “hỏa ước“ đã ký kết giữa viện Cơ Mật Huế, đại diện cho Hoàng Ðế Bảo Ðại, và quan Khâm Sứ Trung kỳ đại diện Quan Toàn Quyền Ðông dương.
Dĩ nhiên bản Thỏa ước 1925 làm bằng tiếng Pháp và có những điều khoản rõ ràng. Ông Daydier đọc hết từ đầu đến cuối trên tờ giấy in dài độ 1 trang rưỡi. Ðây là vài chi tiết quan trọng nhất mà trò Tuấn nhớ rõ:
1. Trong thời gian vắng mặt Hoàng đế Bảo Ðại du học ở Pháp, triều đình Huế sẽ do một hội đồng Nhiếp chính (Conseil de Régence) điều khiển.
2. Hội đồng Nhiếp chính gồm các quan Cơ Mật Ðại thần, đại diện Triều đình, vị Chủ tịch Tôn nhơn Phủ đại diện Hoàng Phái, và quan Khâm Sứ Trung Kỳ, đại diện Nhà Nước Bảo Hộ.
3. Hội đồng Nhiếp chính do quan Khâm sứ Trung kỳ chủ tọa
4. Các việc hành chính quan trọng đều do tòa Khâm sứ trực tiếp điều khiển vơí sự thỏa thuận của Hội đồng Nhiếp chính.
5. Hội đồng Nhiếp chính đảm nhiệm về việc cúng tế, việc quản trị các cung điện Hoàng gia, việc cấp phát các sắc Thần v.v…
Và các chi tiết khác không quan trọng.
Ðọc hết bản Thỏa ước, ông Ðốc học bảo:
- Các trò về nhà nói laị cho cha mẹ của các trò rõ về sự nước Pháp lúc nào cũng chăm lo mở mang và dìu dắt nước An nam trên con đường văm minh tiến bộ. Chỉ những kẻ ngu xuẩn và những kẻ bạc nghĩa vong ơn mới không biết những ân huệ của nước Pháp. Các trò về hỏi lại cha mẹ của các trò về tình hình của nước An nam trước khi nước Pháp đem văn minh qua đây, trước đây chừng mười năm thôi, rôì các trò so sánh với nước An nam ngày nay thì các trò sẽ biết người An nam mang ơn nước Pháp những gì.
Ông Daydier nói đến đây thì vừa trống đánh ra chơi, ông chào ông giáo. Học trò đều đứng dậy, đợi ông đi ra rồi mới ùa ra sân chơi . Chỉ tội cho lớp Ðệ Tam Niên, cạnh lớp của Tuấn, đến phiên phải ở lại để nghe ông Ðốc.
Học trò ra chơi, không còn nhớ ông Ðốc đã nói những gì. Bản “Convention de 1925“ bằng tiếng Pháp, họ hiểu hết nhưng rốt cuộc không hiểu gì cả. Hiểu nghĩa những câu những chữ, nhưng nào có hiểu được tại sao có cái “Convention“ ấy, và tại sao ông Ðốc đem nó đến từng lớp đọc cho học trò nghe? Chuyện đâu đâu ở Huế, chuyện Vua với Tây, có ăn thua gì đến học trò?
Ngay như vua Khải Ðịnh chết, trước đó 6,7 hôm mà hầu hết học trò cũng không hay biết gì cả, mấy anh lớn ở lớp Ðệ Tam Niên cũng vậy. Họ còn vui cười hỏi nhau:
- Ủa vua Khải Ðịnh chết hồi nào mà không nghe ai nói he? Ông Daydier không xuống lớp nói thì tụi mình cũng tưởng ổng còn sống chớ.
Rồi tất cả đều cười, như là câu chuyện diễu. Toàn thể học sinh rất là thờ ơ, không có một xôn xao nho nhỏ, cũng không có lời bàn tán về cái “Convention 1925“ - một danh từ thật mới lạ mà không ai tìm hiểu cho rõ ý nghĩa và công dụng như thế nào. Không có ai nhắc lại những lời của ông Ðốc học Daydier. Nhiều trò chỉ thích thú được ngồi chơi trong lớp hơn nửa tiếng đồng hồ, khỏi học bài Sử ký. Các trò khác bu lại từng nhóm như thường lệ, để hỏi nhau về bài toán Géométrie hay Physique mà chốc nữa vào lớp phải nộp lên cho giáo sư Gabriel.
Mấy ông giáo sư An nam đi qua đi lại ngoài hành lang với các giáo sư Pháp, nói chuyện với nhau với vẻ mặt vui thích lắm. Cái tin Vua Khải Ðịnh chết do ông Ðốc Daydier long trọng tuyên bố thành ra gần như một tin mừng, hay là một biến cố vui vẻ cho cả nhà trường. Còn bản “Convention“ thì tuyệt nhiên không ai nhắc đến.
Kế đến vài tháng sau, cũng trong một buổi học, tự nhiên ông Tổng giám thị An nam
(Surveillant général) đến từng lớp, theo sau là anh cai trường ôm một gói sách. Ông nói với giáo sư vài lơì rồi quay lại bảo với học trò một quyển sách mới tinh.
- Quan Ðốc vừa nhận được của quan Khâm sứ ở Huế gởi vô cho mỗi trò một quyển sách này. Quan Ðốc khuyên các trò không những là nên đọc hết quyển sách, rất bổ ích, mà về nhà còn phải đọc lại cho cha mẹ nghe nữa.
Nói xong, ông Tổng giám thị đi ra, anh cai trường theo sau còn mang mấy gói sách nặng chĩu để phát cho các lớp khác. Cửa khép lại, ông giáo Gabriel tiếp tục giảng bài Géométrie plane. Học trò không kịp xem quyển sách nói những gì, Ông giáo sư cũng không để ý đến.
Về nhà, trò Tuấn rút sách trong cặp ra xem. Tên sách là L’ Indochine d’hier et d’aujourd’hui (Ðông dương ngày xưa và ngày nay). Tác giả là Cucherousset, chủ báo Eveil Économique ở Hải Phòng, Bắc kỳ. Sách dày, in thật đẹp, chữ in màu sepia, mỗi trang bên trái bằng Pháp ngữ đối chiếu với trang Quốc ngữ bên phải. Người dịch Pháp ngữ ra Quốc ngữ là một nhà Nho An nam, ở Hà nội tên là Vũ Công Nghi .
Ngay nơi trang đầu quyển sách có hình ông Toàn quyền Alexandre Veranne ở giữa, phía bên tay trái là ông phó Toàn quyền Pierre Pasquier, tay mặt là “vua Bảo Ðại“, Hoàng đế Annam “phía dưới tay trái là Vua Sisowath-Monivong, Quốc vương Cao Miên, tay mặt là Vua Sisavangvong, Quốc trưởng Ai Lao. Trang trong có hình vợ góa của của Khải Ðịnh, dưới đề Pháp ngữ là “S.M La Reine Douairière“ (Bà Hoàng Thái Hậu) một thiếu phụ Huế, trạc 24 tuổi, nét mặt ngây ngô,tóc quấn, đeo kiềng vàng, mặc áo gấm thêu hoa.
Trong sách còn in nhiều thắng cảnh Ðông dương như Angkor Watt, Angkor Thom ở Cao Miên, Tháp Chàm ở Qui nhơn, cửa Ngọ Môn Huế, Hồ Hoàn Kiếm Hànội, nhà Hộ sinh Quảng Ngãi v.v…
Có điều lạ, là tuyệt nhiên không có một phong cảnh nào của Nam Kỳ và không có hình của một nhân vật nào của Nam kỳ.
Trò Tuấn đọc hết cả quyển sách. Sách chia ra nhiều chưong, tóm tắt lại là nói về Ðông dưong trước hồi Tây qua, so sánh với xứ Ðông dương năm 1925, với tất cả những cái mà tác giả cho là “văn minh tiến bộ” về các phương diện học đường, y tế, canh nông. hỏa xa, công chánh, kỹ nghệ, thương mãi v.v… Và chương cuôí, kể công ơn của nước Pháp với các xứ Ðông dương là vô lượng vô biên như trời như bể.
Mãi 10 năm sau, Tuấn ở Hà Nội, được giao thiệp nhiều với các giới trí thức và được dịp điều tra, mới biết rằng quyển L’Indochine d’hier et d’aujourd’hui (Ðông dương ngày xưa và ngày nay) của Cucherousset và Vũ Công Nghi xuất bản năm 1925 do Phủ Toàn Quyền đặt mua trên 200.000 quyển để phát không cho tất cả các trường Trung học Ðông dương, trường Cao đẳng Hà nội và các trại lính khố xanh, các Thầy Thông, Thầy Phán các sở Nhà nước. Ðó là phương pháp tuyên truyền của Nhà Nước Bảo Hộ để chống lại phong trào Ái quốc và Cách mạng do hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh ở Hải ngoại về đã gây ra trong toàn thể quốc dân. Quyển sách kia có mục đích gián tiếp nhắc nhở cho dân An nam những “công ơn của nước Ðại Pháp“ đã gây dựng xứ Ðông dương và nhất là xứ Trung kỳ rong thời gian nước Pháp cai trị. Ảnh hưởng của quyển sách L Indochine d’hier et d’ aujourd’hui đối vơí học trò hình như cũng có hiệu nghiệm một phần nào, vì có một số ca tụng nước Pháp ghê lắm.
Nguyễn Vỹ 
Theo https://isach.info/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...