Cuộc tháo chạy tán loạn 1
Phần I: MỞ MÀN
TRỞ LẠI ĐÔNG DƯƠNG
Tháng 10 năm 1972, lúc tôi trở lại Sài Gòn sau một năm vắng mặt,
cuộc tiến công của Bắc Việt Nam lắng xuống. Lời bàn tán sắp có hòa
bình loan truyền khắp nước này. Từ nhiều thập kỷ nay, lần đầu tiên,
người Việt Nam mới lại có dịp mong ước chiến tranh sớm chấm dứt.
Lúc chiếc máy bay khổng lồ của hãng hàng không
Cathay Pacific xin hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, tôi nhìn rõ con đường
dài chúng tôi và các đồng minh phải vượt qua, kể từ ngày đầu tiên, hồi
tháng 6 năm 1969, tôi đến đất Việt Nam. Ngày ấy trời mùa hè nóng bức, máy bay
phải lượn theo vòng tròn xoáy trôn ốc mới hạ được cánh để tránh những khâu pháo
phòng không của cộng sản ở chung quanh sân bay.
Ba năm sau, máy bay từ từ hạ xuống dọc theo nhưng nhà tạm lợp
mái tôn lượn sóng, được xây dựng chung quanh thành phố theo nhịp độ dân tị nạn
kẻo đến. Đằng xa, những mảnh ruộng xanh và vẫn bình yên như cảnh nông thôn miền
Louisiana.
Lúc tôi rảo bước đi qua đường bay đến phòng nhập cảnh trước
làn sóng hành khách, tôi nhớ lại người bạn đồng hành, ngồi cạnh tôi trong chuyến
bay sang đây lần đầu năm 1969. Đó là vợ một viên đại tá mới biết tin chồng sống
lang chạ với một phụ nữ Việt Nam làm chiêu đãi viên bán ba. Cho đến lúc máy bay
chạm đất, bà ta đã thố lộ với tôi đến mười lần nỗi lo sợ của bà. Mỗi lần tỏ nỗi
lòng, bà đều uống một ly Máctini. Khi bà xuống sân bay,dưới trời nắng chói
chang, bà say quá, ngã lăn ra làm cho bọn lính mỹ gác ở cổng chính cười rũ rượi.
Lần này, trong số khách đi máy bay, không có ai là vợ quân
nhân cả. Trừ tôi ra, người phương Tây duy nhất là một thợ nề Úc, bụng to, có một
phụ nữ Trung Quốc thiếu gọn gàng đi theo. Có quân cảnh Mỹ giữ trật tự cùng lính
Việt Nam nhưng họ tôn trọng cuộc sống Việt Nam hóa nên giấu mặt.
Người lái xe do đại sứ quán cử ra đón tôi nói rằng đã gặp tôi
lần trước. Anh ta dẫn tôi nhanh nhẹn lách qua đám lái xe tắc xi và xích lô đến
chiếc Chevrolet có máy đều hòa không khí. Lúc đi qua cổng chính sân bay, tôi
trông thấy bức tượng nhỏ do người Việt Nam mới dựng để tưởng nhớ người Mỹ chết
trong chiến tranh. Người ta đọc thấy hàng chữ: “Sự hy sinh cao cả của người
lính đồng minh không bao giờ bị lãng quên". Ba năm sau, sau khi Sài Gòn thất
thủ, những người cộng sản quét lên đó một lớp sơn vàng và thay bằng một câu nói
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cũng như mọi người mới đến, tôi ở khách sạn Duc, trụ sở trá
hình của Cục tình báo trung ương Mỹ CIA xây khuất vào trong, cách dinh Tổng thống
Việt Nam và sứ quán Mỹ vài trăm mét. Cho đến cuối thập kỷ 60, trong nhiệm kỳ thứ
nhất của tôi ở SàiGòn, khách sạn này chỉ hơn cái trại lính một chút, dùng để
đón "tân khách”. Ở đây, luôn luôn có không khí ồn ào của vũ hội.
Nhưng một năm trước khi tôi trở về trụ sở CIA ở Langley, miền
Virginia; có một người nào đó quyết định rằng chúng tôi đáng được sống tốt hơn,
nhất là vợ con nhân viên sứ quán cũng được phép sang ở với chồng, với cha. Do
đó khách sạn được sửa chữa lại theo kiểu Mỹ. Phòng ăn, đặt ở tầng thượng, được
sắp xếp theo tiêu chuẩn hiện đại của công ty Howard Johnson. Gần đó, có bar có
bể bơi, sân phơi nắng để người ta có thể vừa tắm, vừa uống Bloody Mary. Thức ăn
đặc biệt Mỹ và gồm toàn món ướp lạnh. Nữ chiêu đãi viên Viết Nam đều do cơ quan
an ninh của CIA tuyển lựa để bảo đảm không một ai có quan hệ với cộng sản. Những
chiếc áo dài cổ truyền trước kia làm cho các cô uyển chuyển và quyến rũ nay được
thay bằng những bộ đồ ngắn cùn cỡn theo mốt quần áo trẻ con Mỹ lúc các em bắt đầu
đến trường mẫu giáo.
Tám giờ tối, có thể xem phim mới chưa hề chiếu ở
đâu, trong phòng chiếu phim ở dưới nhà, cạnh cửa ra vào. Ngoài ra, còn có một
phòng rửa ảnh, trang bị đầy đủ máy móc hiện đại, một phòng thu thanh và một thư
viện mở cửa suốt ngày. Sáng sáng, từ sứ quán đến khách sạn, khách đi, về bằng
xe của CIA để giảm bớt số xe chạy trong những giờ cao điểm. Lúc nào cũng có xe
riêng chở đi PX, đến phòng cung cấp hoặc bệnh xá cực kỳ hiện đại của CIA, đặt ở
một phố gần đấy. Ở đó, hai thầy thuốc lành nghề, thay nhau thường trực suốt
ngày và đêm để chạy chữa cho những người say rượu hoặc mắc những bệnh khác. Hầu
hết các nhân viên CIA đều có xe riêng đặc biệt, lúc nào cũng đầy xăng được phát
không, một biệt thự hoặc một ngôi nhà, tùy theo cấp bậc, ở trong thành phố.
Điều ngạc nhiên ở CIA Sài Gòn là người ta thích lái xe Ford
Pinto và những người lái xe có thể đeo một huy hiệu ghi rõ: "Tôi làm việc
cho CIA". Thật vậy, họ là quan chức Mỹ ở Việt Nam duy nhất dùng loại xe
này.
Mọi chi tiết đều được thực hiện để bảo đảm đầy đủ tiện nghi
cho cuộc sống của ba trăm nam, nữ nhân viên CIA cho đến lúc họ trở về Mỹ, nghỉ
hè hàng năm, giải trí. Trên trái đất này, chưa thấy ở đâu, chưa thấy ở nơi nóng
bỏng nào, nhân viên CIA lại được sống sang trọng như thế. Tất cả tiền chi phí đều
đo người đóng thuế Mỹ chịu.
Một, hai ngày sau khi tôi đã yên vị ở khách sạn Duc, tôi quyết
định vào trung tâm thành phố, cách khách sạn khoáng vài trăm mét. Tôi ra đi
đúng Ngọ. Kim đồng hồ bưu điện chỉ 12 giờ lúc tôi cho khởi động chiếc xe Pinto
mượn của người khác, giữa tiếng ồn ào của người Viết Nam. Phần đông đang trở về
nhà hoặc đi qua đường đến ngủ trưa dưới bóng mát của nhà thờ Thiên Chúa Giáo.
Trong khi luôn luôn lái hãm phanh để tránh chẹt phải người đi bộ đãng trí, tôi
nhớ lại một ngày hè năm 1969, cũng nóng bức như hôm nay. Việt cộng đã đặt một
trái mìn có kim đồng hồ và làm nổ ở cửa nhà bưu điện.
Khả năng một bạo động như thế khó có thể xảy ra ngày nay. Vẫn
biết chiến tranh hãy còn. Ban đêm, trên nóc khách sạn Caravelle, người ta vẫn
còn trông thấy máy bay lên thẳng Việt Nam bắn pháo sáng vào bầu trời, tạo thành
những viên hỏa châu trên nền nhung đen. Vẫn còn nghe tiếng gầm rít của đại bác,
tiếng bom rền của máy bay B.52 ở đằng xa làm rung chuyển giường ngủ. Nhưng hàng
tháng nay, không có một vụ phá hoại nào đáng kể. Người bản xứ gần đây nhất tự
thiêu theo kiểu nhà sư hồi đầu những năm 60, là một cựu binh cụt tay, ba tuần
trước, trong lúc anh ta nằm mơ màng ở một quán bán hoa trên đường Nguyễn Huệ,
đã đánh rơi điếu thuốc lá Bastos vào người.
Tôi trở về khách sạn Duc lúc tối. Ở bar có một ông già ngồi.
Ông ta kể chuyện Sài Gòn đầu những năm 60. Đó là Paris của phương Đông với những
đường phố rộng trồng cây. Có những tiệm ăn Tàu nổi tiếng ở Đông Nam Á, những
nhà thổ sang trọng, bốn bề là kiếng chiếu kiểu Hồng Kông. Nơi đó, có nhiều trò
giải trí như tấm biển của nó chỉ rõ.
Nghe ông ta nói thì thời phồn vinh xa xưa ấy chấm dứt năm
1965, lúc trận lũ lụt đô la đổ xuống cùng với làn sóng lính Mỹ xô vào, tiêu diệt
mọi thứ ưu ái ở thành phố này. Sau cuộc tổng tiến công năm 1968 của cộng sản,
Sài Gòn trở thành một bản sao tồi của Dodge City, thời những người mới đến khai
khẩn.
Lính Mỹ, đạn trên vai, một tháng lương trong túi, trở thành
người chủ thành phố. Lối sống Mỹ tràn ngập phố phường. Một phần nhân dân địa
phương sống yên tĩnh ở nhà, chờ ngày giông tố qua đi. Phần còn lại lao vào việc
kiếm tiền bằng nhiều mánh khóe. Chất lượng các nhà chứa giảm sút. Thật vậy,
hàng dàn phụ nữ nông thôn Việt Nam thiếu kinh nghiệm, bỏ quê hương, sẵn sàng
hành nghề. Những người khỏe nhất, xinh nhất đều ở câu lạc bộ 147, đường Võ
Tánh, ở bar Con Rồng, gần đường Lê Lợi hay ở Mini's Flamboyant, một ngôi nhà tồi
tàn trên đường Nguyễn Huệ. Ở những nơi ấy, cả một thế hệ lính Mỹ đã mất cả áo
sơ mi lẫn sự ngây thơ của mình.
Tháng 10 năm 1972, lúc tôi trở lại Sài Gòn, những cảnh ấy
chưa mất hẳn. Sự khổ cực vẫn còn bám lấy thành phố như cái vẩy trên vết thương.
Bề mặt xám những ngôi nhà của người dân và những khách sạn ở trung tâm thành phố,
gần quảng trường Lam Sơn, vẫn như cũ. Từ các cống rãnh - kể cả ở những đường phố
chính - bốc lên mùi nước tiểu và rác mặc dù thường có những xe do các chương
trình viện trợ Mỹ cung cấp cho chính quyền SàiGòn, đi phun nước và hốt rác.
Giao thông hỗn độn và dễ làm chết người. Vào những giờ cao điểm, không khí trở
nên xám xịt và lầy nhầy vì khói, hơi dầu do các xe Hon da và các loại xe Nhật Bản
khác của những người Việt Nam đi, thải ra mặc dù giá xăng dầu cao. Những cây me
cuối cùng ở đường Tự Do đang chết dần giữa làn khói ấy. Và những nhà thông thái
trong xã hội thực dân Pháp cho rằng quân đội Mỹ phải chịu trách nhiệm về cái chết
của những cây me này vì họ đã sử dụng hóa chất làm trụi lá cây.
Theo sự khám phá của tôi, đời sống ban đêm ở Sài Gòn không hề
được cải thiện chút nào, về mặt thẩm mỹ hay mặt vệ sinh cũng vậy. Mấy tuần trước,
trong một lúc bốc đồng, chính quyền ra lệnh đóng cửa các bar và phòng xoa bóp
đáng nghi ở đường Tự Do và đường Nguyễn Huệ, để tỏ rõ rằng sự có mặt của người
Mỹ đã giảm sút và để giảm bớt sự lạm phát. Nhưng, cũng như mọi cải cách ở thành
phố này, việc cấm đoán đó cũng là một trò hề. Cách lam tiền mạnh bạo nhất là ra
kiếm khách ở hè khách sạn Continental. Trong quán ăn - thay các bar - vẫn những
trò giải trí như trước. Nhưng các cô gái lại mặc do blu trắng của chiêu đãi
viên và đề nghị khách dùng trước hết, rau xà lát và thịt trâu, khác với lệ thường.
Mặc dù có những cảnh xấu xa ấy, thành phố vẫn có vẻ đang thay
đổi, điều mà có thể chỉ những người Việt Nam mới đánh giá đúng. Nhưng kẻ ăn xin
và bọn nhóc lưu manh trên đường Nguyễn Huệ hình như lễ phép hơn, vị nể hơn. Có
vẻ như chúng hiểu rằng người mỹ sắp ra đi hết và phải tỏ ra ít nhiều ngoại giao
để tranh thủ những ơn huệ của những kẻ trọc phú cuối cùng! Còn lính Nam Việt
Nam thì họ tiếp tục tràn vào các cửa hàng và tiệm cà phê chiều thứ bảy. Họ lại
cầm tay nhau, cử chỉ mà họ phải bỏ từ ngày lính Mỹ tới. Những người Mỹ, không
hiểu tập quán ấy, cho rằng Việt Nam là một nước của những kẻ gian.
Một nhà buôn già, người Tàu, đã mua một phòng xoa bóp tốt nhất
ở đường Tự Do để mớ một cửa hàng bánh mì, hăng hái giải thích cho tôi: người Mỹ
ra đi đã thay đổi mọi cái cũng như người Mỹ tới, phải chịu trách nhiệm về cuộc
chiến tranh. ông ta nói: "Sự giàu có mà các anh đem đến buộc chúng tôi phải
nghĩ đến sự nghèo túng của mình và giao thiệp với các anh để trở thành những
người mà các anh mong muốn. Nay, người Mỹ trở về nước họ, chúng tôi lại cảm thấy
yên ổn hơn, tránh khỏi những ảo tưởng!".
Trừ những người Mỹ ngày càng ít đi, những nhân vật chính của
Sài Gòn vẫn thế như tôi đã biết họ lúc trước: một bọn người ngây thơ và ăn cắp
xứng đáng với tưởng tượng của Hieronymus Bosch. Dằng kia, Ở ngã tư đường Lê Lợi
và Nguyễn Huệ, một người đạp xích lô già, ngồi trên xe như con chim kền kền, đầu
đội mũ côlônhân, mắt đeo kính đen, mũi tẹt, đang theo dõi xem có khách gọi
không. Đằng này, trên đường Tự Do, một cô bé khoảng 17, 18 tuổi, vẻ đãng trí, bộ
đùi lộ rõ trên đôi dép giả da, vú độn cao cho hợp với mốt thời đại. Cô ta uống
cô ca và nói đùa tục tĩu bằng mót thứ tiếng Mỹ giả cầy học ở các bar mà cô chưa
hiếu hết, với bọn lái xe xích lô không quen biết.
Xa xa cô một cô gái nông thôn, bé nhỏ thẹn thò, nón ngang
vai, quần lụa đen phấp phới, dép râu đi kêu lách cách từ gian hàng này đến gian
hàng khác ở chợ Bến Thành. Theo sau là anh chồng: một binh sĩ Việt Nam, đôi mắt
buồn dưới chiếc mũ sắt, khẩu súng M.16 cao bằng người, lương tháng bằng 12
đô-la, nhưng phải nuôi sống một gia đình mỗi ngày một đồng, không có tương lai
nào khác ngoài việc nằm trên cáng hoặc đến tuổi giải ngũ là 37 tuổi. Lúc đó,
anh ta đã quá già để có thể làm bất cứ việc gì.
Có cả tầng lớp thượng lưu, những diễn viên chính. Buổi trưa,
thường họ ở câu lạc bộ thể thao, vết tích của thời thuộc địa Pháp. Họ vừa ăn
sáng vừa tắm ở bể bơi trong hai giờ. Đây là nhóm sán phẩm của xã hội Pháp cũ,
những tên thực dân già và những tên thanh niên lai, mạnh khỏe, da nâu. Kia một
nhóm người riêng biệt, yên lặng, nằm phơi bụng trên ghế dài, dấu hiệu sung túc
của đất nước kỳ lạ này. Đó là những người Việt Nam hay Trung Quốc quan trọng,
nói thì thầm với nhau về việc làm ăn buôn bán, về chính trị chung quanh cốc nước
chanh vắt, đủ giàu để có thể thoát khỏi mọi biến cố sẽ xảy ra.
Quá trưa, khoảng từ ba đến bốn giờ, phải đi xe tới hiệu cà
phê Givral đường Tự Do mới uống được ly cà phê Pháp, đen như mực. Ở đây, giới
thượng lưu cũng họp mặt. Nhưng đó là những người trẻ, tóc đen, dài, rất khó
phân biệt giữa nam với nữ vì thường họ đều mặc áo sơ mi thêu cành lá và quần
chèn. Những sinh viên ở Sài Gòn ghét Mỹ nhưng dành thì giờ để bắt chước Mỹ.
Cũng có thể lượn phố, dính mũi vào tủ kính những cửa hàng
sang trọng ở vòng cung E den. Ơ đây, có thể gặp những phụ nữ nữa lịch thiệp của
thành phố. Họ đi, đầu thẳng, nhìn xa, đúng mốt trên tranh, mũi và mắt được các
mỹ viện trang điểm theo kiểu phương Tây. Chiếc áo dải lụa, những chiếc bùa
Campuchia tỏ rõ họ giàu sang. Có thể bí mật mời họ đi chơi một chuyến. Nhất là
đối với những vị có nhiều tiền. Đó thường là vợ hai hoặc tình nhân của một vị
tướng quan trọng hay một nhà chính trị Nam Việt Nam. Họ nói tiếng Pháp và giao
thiệp với người Pháp. Tuy nhiên, họ bằng lòng ve vãn người Mỹ nếu việc đó có lợi
cho họ.
Giờ uống cốc tai đến . Người ta vội vàng đến hiệu Mini cầm một
cốc bia. Chắc chắn, những kẻ nịnh hót, đứa nào cũng hay nói. Nhưng đừng vội
nghĩ lầm. Người ngồi đó đang ở thời kỳ cực thịnh, là một người Mỹ quan trọng. Mặt
anh ta đỏ gay, cổ bò rừng, sơ mi kẻ ô che cái bụng phệ. Nguyên là lái xe vận tải
hoặc làm cai trong một xưởng máy, anh ta bám lấy Việt Nam, từ năm này qua năm
khác, làm tổ trướng trong một nhà hàng Mỹ. Sau mỗi trận đánh, anh ta lại được
ký hợp đồng làm đường, xây nhà. Anh ta có một vợ và một nhân tình người Việt
Nam dễ bảo. Anh ta là người báo vệ lòng tự tôn mặc cảm Mỹ. Là người sau cùng rời
đất nước này sau khi mọi người Mỹ khác đã hồi hương.
Sứ quán Mỹ nằm trên đường Thống Nhất, không có gì thay đổi
trong lúc tôi vắng mặt ở Sài Gòn. Họa chăng là trồng một ít cây hoa ở ngoài sân
vào những chỗ Việt cộng đào để đặt súng trong những ngày đầu cuộc tổng tiến
công mùa Xuân 1968. Nhưng những bức tường bê tông bảo vệ mặt trước sứ quán chẳng
đẹp đẽ gì hơn một cái cối có hình tổ ong. Về mặt kiến trúc, nơi đây giống như một
phác họa ý đồ Mỹ ở nước này, tạo cho trụ sở một cơ quan ngoại giao hình ảnh một
pháo đài, việc đó tỏ rõ hiệu quả của nền ngoại giao! Quả thật đó là một pháo
đài: 60 lính gác, một hầm tránh bom, một mái nhà làm nơi hạ cánh cho máy bay
lên thẳng, và một bức tường cao ba mét để dân Sài Gòn và khách du lịch không thể
dòm ngó được.
Đại sứ E. Bunker và ê kíp ngoại giao của ông vẫn ở ba tầng dưới
sứ quán. Ba tầng trên dành cho CIA. Bên cạnh ngôi nhà chính, là một dãy nhà phụ,
gọi là "khu Nôrôđôm dành cho nhân viên phụ động của CIA. Trong cuộc tống
tiến công của cộng sản vào sứ quán, năm 1968, một tổ đặc công Việt cộng đã đánh
tới khu Nôrôđôm. Nhưng một lính Mỹ gác ở phòng dùng để xếp bản đồ của CIA, đã lấy
súng máy chặn họ lại. Từ đó, mối xông và phá hoại cả gian phòng. Ngày cuối cùng
của chiến tranh, gian phòng đã "vui vẻ”,, cháy hết.
Một ngôi nhà ba tầng mới được xây gần khu Nôrôđôm. Hơi
xa một chút, gần nơi sân bay lên thẳng hạ cánh ngày cuối cùng để cứu chúng tôi,
đã thiết lập một nơi giải trí mới, gồm một nhà ăn theo kiểu Mỹ và một bể bơi lớn.
Như bể bơi khách sạn Duc. Tất nhiên là người dân Sài Gòn không được vào bơi ở bể
này. Sứ quán được xây dựng năm 1967, dáng lẽ là chỗ ở, nơi nương náu của Đoàn
ngoại giao Mỹ tại Việt Nam - hồi ấy đã quá đông, không thể ở trụ sở cũ, gần
sông - Nhưng với những nhà kiến trúc không được bí mật về ý đồ của chính giới
cao cấp Mỹ, nên sứ quán mau chóng trở nên chật chội đối với số nhân viên mỗi
ngày một phình ra. Một số bộ phận phải đặt tạm trụ sở ở những ngôi nhà tồi tàn
trong thành phố. Cơ quan CORDS - tượng trưng cho sự nỗ lực cua người Việt Nam
và người Mỹ để bình định nước này, gồm hai bộ chỉ huy riêng rẽ, ở cách xa sứ
quán. Quan chức cơ quan USAID được sử dụng những ngôi nhà lớn gần câu lạc bộ thể
thao. Và nếu cần phải có những dụng cụ tuyên truyền, thì phải đi qua phố Lê Quí
Đôn quá đông đúc để đến thư viện Lincoln, ở đó là trụ sở cơ quan thông tin Mỹ,
USIS.
Những ngôi nhà phụ của sứ quán ở cách đó 8 kilômét, nằm trong
sân bay Tân Sơn Nhất, trước mặt những ngôi nhà của sân bay. Ở đấy, trong những
căn phòng kín đáo, chắc chắn, gọi là "Lầu Năm Góc” phương Đông các tướng Mỹ
thuộc cơ quan MACV (cơ quan viện trợ quân sự Mỹ), từ giữa những năm 60, đã thảo
ra những kế hoạch đánh chiếm cùng với Bộ chỉ huy tối cao Nam Việt Nam,
mà bộ tham mưu cũng ở ngay đây. Thời kỳ quân Mỹ tham gia toàn bộ vào cuộc xâm
lược.”Lầu Năm Góc phương đông” là một tổ ong ồn ào, những binh sĩ bất mãn và
chán chường, hít cần sa trong buồng thay quần áo hay trong bể bơi, những sĩ
quan trẻ, vẻ bận rộn, rảo bước ngoài hành lang, làm như không trông thấy gì.
Lúc tôi trở lại năm 1972, nếu có gì thay đổi ở Nam Việt Nam thì đó là nhịp sống
ở "Lầu Năm Góc" chậm lại. Binh lính Mỹ giữ vai trò thứ yếu bên cạnh đồng
minh Nam Việt Nam. Theo tinh thần "triệt để” Việt Nam hóa, sĩ
quan Mỹ cũng không trả lời dây nói nữa.
Sau đó, khi ngừng bắn, những cơ quan ở rải rác của sứ quán đều
thay đổi và thu hẹp lại. cơ quan "Bình định và phát triển” nông thôn từ chối
không làm nhiệm vụ chống khủng bố, đổi thành "Phòng giúp đỡ đặc biệt”
Cơ quan MACV thu hẹp lại trở thành Phái bộ quân sự. Còn nhân
viên ngoại giao và quân sự Mỹ ở rải rác khắp miền Nam Việt Nam, kéo về những
trung tâm lãnh sự ở những thành phố quan trọng như Đà Nẵng. Nha Trang, Biên Hòa
và Cần Thơ. Mặc dù vậy, những cơ quan khác nhau của sứ quán cho đến
ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, vẫn gây cảm tưởng là họ ở khắp mọi nơi và
không ở đâu hết. Không có sự giúp đỡ của Chúa trời và nhất là không có sự tận tụy
của một số người lái máy bay lên thẳng thì một số khá đông nhân viên sứ quán có
thể bị bỏ quên như trường hợp nhiều nhân viên người Việt Nam.
Theo lý thuyết thì ông Đại sứ là người duy nhất chịu trách
nhiệm về cộng đồng viên chức Mỹ ở Việt Nam. Nhưng tháng 12 năm qua, trọng tâm
chính trị đã thay đổi hoàn toàn, nhiều lần khi ảnh hưởng của Phái bộ quân sự lớn
đến đâu thì các đại sứ Henry Cabot Lodge và M. Taylor bị đầu óc "Lầu Năm
Góc phương Đông" chi phối đến đấy. Năm 1967, khí ông E. Bunker vào ở tầng
gác thứ ba của sứ quán, thì ông chẳng làm gì đế thay đổi tình trạng ấy.
Nhưng hai năm sau, khi "Việt Nam hóa” trở thành chính sách của Mỹ thì những
quyền ưu tiên và trung tâm quyết định lại thay đổi một lần nữa. Bunker dần dần
trở thành người điệp viên chính trên sân khấu Mỹ ở Việt Nam. Cùng với Đại tướng
C. Abrams, người chủ "Lầu Năm Góc phương Đông", ông giao quyền chỉ
huy dần dần cho người Nam Việt Nam.
Một cuộc chuyển giao trách nhiệm như thế đòi hỏi phải có một
chế độ vững chắc, cùng với chính sách đối ngoại của H. Kissinger, Bunker có nhiệm
vụ chính là đề cao giới thượng lưu chính trị Nam Việt Nam, nhất là Nguyễn Văn
Thiệu. ông làm việc này rất vui vẻ và với nhiều trí tưởng tượng. Năm 1971,
trong nhiệm kỳ thứ nhất tôi ở Sài Gòn, tất cả các ứng cứ viên tổng thống phải
rút lui vì Thiệu chắc trúng cử. Bunker liền dàn một cảnh xảo quyệt để củng cố
"uy tín” cho Thiệu, nhất là đối với phái đoàn hòa bình Mỹ có thể cho rằng
Thiệu trúng cứ tổng thống vì không có đối thủ, Bunker quyết định, "ủng hộ"
một nhân vật ôn hòa thuộc phe đối lập, Đại tướng Dương Văn Minh, thường gọi là
Minh lớn, để ông này không bỏ cuộc đua, làm như thế may ra cứu vãn được tình thế.
Bunker hành động theo lối ngoại giao quen thuộc của ông. Mưu mô của ông có thể
thành công nếu cuối cùng Minh lớn không nói rằng ba triệu đôla người ta biếu
ông để vận động tranh cử không hấp dẫn bằng triển vọng một sự thất bại chắc chắn.
Lúc tôi trở lại Sài Gòn, mùa Thu năm 1972, tổ của tôi, một chi nhánh CIA, ngày
càng bị giới báo chí Mỹ công kích về những cuộc lạm dụng bịa đặt, nhất là trong
chiến dịch Phượng Hoàng. Không còn nghi ngờ gì, chúng tôi có thể trở thành một
tấm bia ít bị bắn hơn nếu chúng tôi tiếp tục tập trung, như những năm qua, vào
mục đích chính: thu thập tin tức. Nhưng từ những năm đầu của thập kỷ 60, CIA
ngày càng sa vào những vũng lầy khác.
Không phải chúng tôi hành động ngoài quy định của
pháp luật. Thật vậy, trong luật về an ninh quốc gia có một câu ngắn
và mập mờ như thế này: "Cơ quan CIA và các chi nhánh ở nước ngoài không được
phép làm mọi việc và mọi cách đề thu thập tin tức có quan hệ đến an ninh quốc
gia mà Hội đồng an ninh quốc gia đề ra cho nó".
Đầu những năm 60, Nhà trắng đã lợi dụng câu này để buộc CIA
phải làm những việc mà Hoa kỳ không có chuyên gia như tuyển và huấn luyện những
đội quân chống cộng. Sau đó, trong khi phái quân sự chuẩn bị một cuộc chiến
tranh ác liệt hơn, thì Tống thống Johnson quyết định để cho CIA tiếp tục hoạt động
ngoài chương trình đã định: nghĩ rằng Lầu Năm Góc không cho đó là điều quan trọng.
Được sự đồng ý của Tổng thống Johnson, chi nhánh CIA ở Việt
Nam dần dần phát triển. Đầu năm 1965, có hơn sáu trăm người thư ký, phân tích
tin tức, điều khiển gián điệp, thám báo (thường gọi là người xem xét). Trừ cơ
quan ở Virginia, trên thế giới, không có chi nhánh CIA nào có đông nhân viên
như thế. Với thời gian, nhu cầu về nhân viên trở nên cấp bách, nên các chi
nhánh khác hàng năm phải cử nhân viên tình nguyện sang Việt Nam bất kể họ có
kinh nghiệm hay không. Phần lớn tình báo tới Việt Nam đều từ Cộng hòa Liên bang
Đức hoặc Châu Mỹ la -tinh đến. Họ chưa hiểu gì về Việt Nam mà là muốn biết Việt
Nam. Mặc dù như thế, chỉ một, hai tháng sau khi đến Nam Việt Nam, chưa biết một
tiếng địa phương nào, họ cũng vẫn phải nhận nhiệm vụ ở một đồn tiền tuyến ở Tây
Nguyên hay ở vùng đồng bằng; phải tuyển mộ nhân viên, thu thập tin tức và thực
hiện một chương trình mới và mơ hồ, để cứu vãn nước này, gọi là chương trình
"phát triển nông thôn”.
Một người phân tích tin tức trước đây của CIA tên là R. Komer
đã đề ra chương trình này năm 1967 lúc ông ta là cố vấn ở Nhà trắng. Ông cho rằng,
một mặt có thể loại trừ bộ máy chính trị của Việt cộng bằng chống khủng
bố, mặt khác, có thể củng cố vị trí của chính phủ bằng những công trình lợi ích
công cộng ở nông thôn. Người Việt Nam thành lập một bộ đặc biệt. Còn người Mỹ,
thành lập cơ quan CORDS vào cuối năm 1967, phó của Komer là W. Colby, trước đây
chỉ huy những hoạt động bí mật của CIA ở Viễn Đông, thay ông ta, đứng đầu cơ
quan mới này. Cơ quan CORDS được hình thành để trở thành một hình mẫu của chủ
nghĩa thế giới quan liêu. Nhân viên hoạt động được tuyển lựa trong đội ngũ các
viên chức của phái bộ Mỹ ở Sài Gòn. CIA là cơ quan có tổ chức, giàu có nhất
trong các cơ quan dân sự của sứ quán, cuối cùng đã chỉ đạo được phần lớn những
dự kiến táo bạo của CORDS, trong đó có chương trình Phượng Hoàng.
Colby không ngừng nhắc lại, mục tiêu của chương trình Phượng
Hoàng là bắt sống cán bộ Việt cộng, hỏi cung, tiếp đó dùng họ làm gián điệp.
Nhưng chương trình ấy quá phức tạp đối với người "đồng minh” Nam Việt Nam.
Đối với những kẻ quan liêu, đó là vấn đề định nghĩa. Không ai, dù là Nam Việt
Nam hay Mỹ, có thể nói rằng mình không thể nhận ra người này, người kia, là cán
bộ Việt cộng. Đó có phải là một xã trưởng dành nửa thì giờ để phục vụ người Bắc
Việt Nam không? Hay từ Việt cộng chỉ dùng để ám chỉ những người cộng sản thật sự,
những đảng viên? Sự thiếu chính xác đó dẫn nhân viên Phượng Hoàng đến chỗ làm
việc tùy tiện, bắt bớ lung tung, bất cứ người nào có vẻ nghi ngờ. Sau đó ít
lâu, lúc các nhà tù đầy ắp người, nhân viên Phượng Hoàng tự quyết định lấy, đâu
là luật pháp.
Trước khi báo chí tố cáo sự lạm dụng của chương trình Phượng
Hoàng, CIA vội vàng tìm cách che giấu. Năm 1969, lúc chính sách Việt Nam hóa mới
được thực hiện, T. Shackley, giám đốc chi nhánh ở Sài Gòn bắt đầu rút các nhân
viên CIA làm việc ở cơ quan CORDS cho chương trình kiến thiết quốc gia về để
ông ta tập trung vào những nhiệm vụ cũ, thí dụ như lấy tin tức về những người cộng
sản và về chính phủ Nam Việt Nam. Chi nhánh có khả năng đạt mục tiêu
thứ nhất vì từ lâu, chúng tôi tin đã có nhiều nhân viên tình báo đắc lực ở ngay
trong bộ chí huy tối cao cua cộng sản(!). Nhưng Shackley, chuyên gia đầy tham vọng
chưa bằng lòng với công việc đã làm. Trong thời gian hoạt động, từ năm 1968 đến
năm 1972, ông thúc giục nhân viên "tuyển lựa tuyển lựa, tuyển lựa"
nghĩa là lôi kéo, dọa nạt, mua chuộc bất cứ ai có thể trở thành người giúp việc.
Khi ông hết nhiệm kỳ, danh sách tình báo của CIA dài một cách kinh khủng. Nhưng
chỉ một thời gian sau đó, năm 1974, chúng tôi mới thấy rõ sự tai hại do sự sốt
sắng của Shackley đem lại. Hơn một trăm "nhân viên” Việt cộng được tuyển lựa
chỉ là những nhà buôn Việt Nam láu lỉnh, chẳng biết tí gì về âm mưu của cộng sản.
Họ chỉ thu thập những tin tức đăng tải trên báo chí, hoặc những lời đồn đại, rồi
tập hợp lại một cách thông minh, đưa cho chúng tôi để đòi tiền với giá cao.
Còn cái "bia thân hữu, (như thường gọi đối với Thiệu), để
buộc hắn theo chính sách của Mỹ, chúng tôi phải có những nhân viên có chất lượng
trong chính phủ. Trong những năm sau khi Ngô Đình Diễm bị lật đổ, từ năm 1963,
miền Nam Việt Nam liên tiếp bị xáo trộn vì những cuộc đảo chính và chống đảo
chính. Có những viên tướng đầy tham vọng định lợi dụng tình trạng không ổn định
của nước này để đục nước béo cò. Năm 1967, trong một cố gắng cuối cùng để chống
rối loạn, chính phủ Hoa Kỳ quyết định ủng hộ một nhân vật mới, một viên tướng
miền Nam bình thường và nổi danh là phi chính trị tên gọi là Nguyễn Văn Thiệu.
Sau đó ít lâu, cùng năm ấy, Thiệu được đưa lên làm Tổng thống. Nhưng con người
hùng thật sự là Nguyễn Cao Kỳ, một người Bắc xuất sắc nguyên Thủ tướng trở
thành Phó Tổng thống. Đại sứ Bunker không hề lo sợ về Kỳ và phe cánh của Kỳ. Dần
dần, ông gạt được họ ra và chỉ cho Tổng thống Thiệu biết rõ các vấn đề chính trị.
Kỳ bi bỏ rơi hẳn sau cuộc tổng tiến công năm 1968 của cộng sản. Trong
cuộc tổng tiến công này nhiều bạn đồng minh tin cậy của chúng tôi đã
bị giết. Tư đó, mục tiêu chính của sứ quán là củng cố bằng bất cứ gia nào chính
phủ Thiệu, để cho nước Mỹ có thế rút quân ra khỏi Việt Nam mà không sợ nổ ra một
cuộc khrng hoảng chính trị mới. Tháng 10 năm 1972, nhằm mục tiêu ấy, chúng tôi
đã mua, ủng hộ và bán nhiều nhà quân sự, chính trị Nam Việt Nam, nhiều nhân
viên tình báo, người hợp tác với chúng tôi nằm trong chính phủ.
Shackley đã lôi kéo được tướng Đặng Văn Quang, viên cố vấn
sôi nổi về an ninh của Thiệu (Kissinger của Thiệu, nếu như bạn muốn gọi như thế)
cộng tác chặt chẽ với CIA. Shackley còn sử dụng được tướng Nguyễn Khắc Bình,
người chỉ huy cảnh sát độc ác của chính quyền Nam Việt Nam.
Cho đến ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, Quang và Bình được
coi là những nhân vật có giá tri, chắc chắn nhất của chúng tôi ở Việt Nam.
Nhưng họ được đánh giá hơi cao so với thực tế. Người này cũng như người kia,
không ai cung cấp cho chúng tôi nhiều tin tức. Chúng tôi lấy tin chủ yếu nhờ những
máy móc đặt bí mật trong dinh Tổng thống. Phòng làm việc của Thủ tướng được
nghe thường xuyên. Số ít tin tức do Bình và Quang cung cấp thường sai lệch. Thật
vậy, họ nhanh chóng hiểu rằng họ phải nghĩ đến quyền lợi riêng của họ và quyền
lợi của Thiệu, không thể cung cấp cho chúng tôi đúng những tin tức chúng tôi
yêu cầu. Hơn thế, CIA phụ thuộc rất nhiều vào họ về mặt chính trị, vì họ là những
người truyền đạt những chủ trương của người Mỹ trong chính phủ, tình hình đó
không cho phép chúng tôi đánh giá những tin tức của họ một cách khách quan hay
có phê phán. Sự tín nhiệm của chúng tôi đối với hai người này đã gây ra nhiều hậu
quả tai hại, không những cơ quan thông tin bị ánh hưởng mà cả uy tín tinh thần
và chính trị của người Mỹ đối với người Việt Nam cũng bị giảm sút. Làm cho
Quang và Bình trở thành những người giàu có và có thế lực, những điển
hình về tham nhũng và thoái hóa theo lối Mỹ, chúng tôi đã cung cấp cho cộng sản
những vũ khí có hiệu quả nhất để tuyên truyền.
Ảnh-Trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn trước Polgar: Ted
Shackley
Ảnh (từ trái sang):Ted Shackley, Creighton Abrams tư lệnh
MACV, Tom Polgar trong lễ bàn giao chức vụ trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn cho
Polgar tháng 1 năm 1972
Để củng cố chính phủ Thiệu, chúng tôi không chỉ đưa hợp tác
viên vào trong đó. Trung lập hóa phe đối lập không cộng sản cũng là một phần hoạt
động của chúng tôi. Một thí dụ đáng kể là trường hợp Trần Quốc Bửu. Đó là một
nhà chính trị chắc chắn thân Mỹ, đứng đầu Tổng liên đoàn lao công Việt Nam. CIA
đã biến Bửu thành một hợp tác viên. Chúng tôi sử dụng ông ta để thuyết phục các
công đoàn trung thành với chế độ Thiệu. Bửu cũng tuyên truyền cho chính phủ
trong những tổ chức lao công trên thế giới. Thỉnh thoảng, CIA lại giúp cả Bửu
viết thư xin ủng hộ gửi cho những đoàn viên công đoàn Mỹ.
Tất cả những người đối lập với Thiệu không phải đã hiểu tình
hình như Bửu. Khi việc mua chuộc, đút lót, tẩy chay không mang lại kết quả mong
muốn. Chúng tôi đã dùng những phương pháp mạnh mẽ hơn. Đó là trường hợp với Trần
Ngọc Châu, nhà luật học nổi tiếng, có tinh thần dân tộc, năm 1970, trở thành một
đối thủ chính trị uy hiếp Thiệu. Shackley và Colby cùng với cơ quan cảnh sát
Nam Việt Nam đã tạo cho ông ta thành một tay chân và cổ động viên của cộng sản.
Anh của Châu là cộng sản, Châu đã gặp anh theo yêu cầu của CIA. Như thế tương đối
dễ qui cho ông ta một tội, chỉ cần thêm hoặc bớt một số tài liệu về ông ta
trong hồ sơ của cảnh sát. Shackley không phải là người dựng lên vụ này. Đó là
hành động bỉ ổi của Quang, người tin cẩn của CIA. Nhưng Shackley không hề ngăn
cản mặc dù ông biết rõ sự việc. Do đó, khi chính phủ Nam Việt Nam cho đăng trên
báo chí những tội trạng giả tạo của Châu, Shackley và đại sứ Bunker lại khẳng định
là đúng. Mấy ngày sau, Châu bị bắt ở hành lang quốc hội, giữa Sài Gòn và bỏ tù
ngay. Rõ ràng là vi phạm luật pháp. Là kẻ có tội, Châu bị giam bốn năm, mới được
tha đầu năm 1975. Mấy ngày trước khi điện về bộ chỉ huy ở Langley,
Virgnia, xin phép cho Châu di tản bằng máy bay. Nhưng Shackley, lúc bấy giờ trở
thành người chỉ huy của CIA ở Viễn Đông, đã điện về phản đối, viện cớ rằng chưa
bao giờ Châu phục vụ lợi ích của Mỹ ở Việt Nam. Thế là Châu bị bỏ rơi, mặc cho
số phận.
Hoạt động khác của CIA: thu thập tin tức về trình độ của quân
đội Nam Việt Nam và tinh thần tác chiến của họ. Người giao thiệp chính của
chúng tôi với bộ chỉ huy tối cao Nam Việt Nam là cựu chiến binh dũng cảm tên là
Charles Timmes. Ông được khen thưởng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai vì
đã chỉ huy sư đoàn dũng cảm thứ 82 là đơn vị đầu tiên đã nhảy dù và chiếm đầu cầu
Noóc-măng-đi (Pháp) năm 1944. Hollywood đã giao cho một diễn viên lực sĩ đóng
vai Timmes trong phim Ngày dài nhất. Thật là một quyết định kỳ cục. Vì Timmes
người mảnh dẻ đi đứng xiêu vẹo, giống như Fred Astaire chứ không giống John
Wayne.
Từ năm 1962 đến năm 1964, Timmes là Trưởng đoàn cố vấn Mỹ Ở
Việt Nam, cốt lõi của "Lầu Năm Góc phương Đông" sau đó. Nhiệm vụ của
ông tạo điều kiện cho ông hàng ngày tiếp xúc với những sĩ quan trẻ đầy tham vọng
của quân đội Nam Việt Nam. Một số người trong những sĩ quan này, nhất là Nguyễn
Văn Thiệu, trở thành những người bạn chí cốt. Nhưng lúc hết nhiệm kỳ thì ông
cũng mệt mỏi về vấn đề Việt Nam và xin nghỉ hưu. Nếu CIA không yêu cầu thì ông
có thể dành vài năm đi du lịch khắp thế giới. Năm 1967 đề nghị với ông một chức
vụ mà ông không thể từ chối. Đó là việc ông trở lại Việt Nam, gặp lại những bạn
cũ của ông, những sĩ quan Nam Việt Nam. Timmes chấp nhận ngay. Trong suốt cuộc
đời của ông làm việc ở CIA cho đến ngày Sài Gòn thất thủ, ông đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ. Là bạn đánh quần vợt đều đặn với Minh lớn, qua từng ván một, ông
đã lượm được nhiều tin tức có giá trị về phe đối lập hợp pháp ở Sài Gòn, kể cả
về bản thân Minh lớn. Thường bay luôn vê lúc tỉnh, Timmes đã chắp nối lại những
cuộc gặp mặt với nhiều chỉ huy đơn vị Nam Việt Nam mà ông quen biết những năm
trước. Mọi người đều quý mến và coi trọng ông như người thân, họ sẵn sàng giúp
đỡ ông viết tóm tắt lại những cuộc trao đổi với ông cho chính xác. kết quả là
những bản báo cáo của Timmes gửi cho sứ quán Mỹ, nhờ ông đến tận nơi, trở thành
những bản tường trình cực kỳ đúng với những điều quân đội Nam Việt Nam đang
mong muốn.
Tuy vậy những người phân tích tin của CIA, cũng như của
Washington, của Sài Gòn đều nghi ngờ những bản báo cáo của Timmes và coi đó chỉ
là một quan điềm về một vấn đề hết sức phức tạp. Nhưng dần dần, nguồn tin về
quân đội Nam Việt Nam mỗi ngày một cạn vì quân Mỹ giảm đi (năm 1970 và 1971) và
cố vấn quân sự Mỹ ở nông thôn rút về. Lúc đó giới cao cấp Washington và SàiGòn
mới coi trọng tin tức của Timmes. Những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, đại
sứ và giám đốc CIA ở Sài Gòn đi đến mức đọc cho nhau nghe những tin tức của ông
và lấy đó làm chứng cớ thật sự cho chính những ảo tưởng của họ.
Mùa Thu, khi trở lại Sài Gòn, tôi trở thành một nhân viên kỳ
cựu của CIA và một chuyên gia thông thạo tình hình Bắc Việt Nam. Địa vị và tiếng
tăm của tôi trong chi nhánh không ngừng làm cho tôi ngạc nhiên. Có phải tôi vào
làm việc cho CIA năm 1968 là để tránh khỏi đi lính đánh nhau ở Việt Nam không?
Dù tôi có trở thành một bộ phận trong guồng máy chiến tranh của chính phủ, tôi
cũng không là đồng lõa, việc này nêu rõ nhược điểm của chế độ Mỹ.
Giáo sư gợi cho tôi ý chọn nghề tình báo CIA này tỏ ra tôn trọng
con người. Sau hai năm học ở khoa các vấn đề quốc tế trường đại học Columbia,
tôi có những kiến thức chắc chắn về chiến lược làm cho giáo sư cố vấn khẳng định
rằng tôi có đủ năng lực cần thiết để trở thành một cán bộ phân tích của CIA.
Triển vọng ấy quyến rũ tôi, không phải vì những lý do nghề nghiệp hay yêu nước.
Mùa Xuân 1968, tôi suýt bị bắt lính và tôi nghĩ cách tốt nhất để tránh khỏi phải
ra trận ở Việt Nam là gắn bó số phận tôi với một cơ quan chính phủ quan trọng.
CIA tỏ ra hiếu khách. Tôi được đào tạo một cách nhanh chóng, trau dồi lý thuyết
và bổ nhiệm sang chi nhánh châu Âu, dưới danh nghĩa chuyên gia về các vấn đề của
Otan. Chỉ mấy tháng, tôi thông thạo công việc. Người Xô viết vào Tiệp Khắc chấm
dứt chủ nghĩa cộng sản thoải mái của A. Dubcek. Các đồng minh trong khối Otan của
chúng tôi ở châu Âu hoang mang, cuống cuồng. Viên cố vấn mới của Tổng thống về
các vấn đề an ninh quốc gia, H. Kissinger, đòi chi nhánh gửi tin tức và bình luận
về cuộc khủng hoảng.
Bị chất vấn nhiều quá, tôi chạy vạy suốt mùa Đông. Còn phòng
động viên thôi không còn tìm tôi nữa, coi tôi là một người lính mất tích.
Sau đó, một số đồng nghiệp của tôi sợ tôi suy sụp vì nhiều
công việc, quyết định cho tôi đi nơi khác. Buổi sáng một ngày thứ hai, một
thông tri lấy người đi Việt Nam được gửi đến các phòng. Không cho tôi biết, bạn
đồng nghiệp ghi tên tôi, gửi về ban giám đốc CIA kèm theo những lời khen đáng
chú ý. Mấy ngày sau, tôi được biết tôi đã được chấp nhận, đến tháng 6, đổi đi
Sài Gòn làm người phân tích "chiến lược của cộng sản".
Việc chuẩn bị cho chuyến đi làm cho tôi quên những ý nghĩ buồn
nản, đen tối mà các bạn đồng nghiệp đã tạo nên. Mặt khác, chính sách mới cũng dễ
chịu hơn. Cuộc thương lượng hòa bình nửa công khai đã diễn ra ở Paris. Đầu
tháng sáu, trước khi tôi lên đường, Tống thống Ni xon đã gặp Tống thống
Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu ở Midway để báo cho ông biết 25.000 quân Mỹ ở Nam
Việt Nam sẽ rút đi. Việc giảm số quân này sẽ tạo điều kiện cho cuộc đàm phán có
thể tiến triển và chứng tỏ rằng Hoa Kỳ tin tưởng vào quân đội Nam Việt Nam. Đó
cũng là bước đầu đi đến cái gọi là chương trình Việt Nam hóa. Thật ra, đó chỉ
là việc trao cho quân đội Nam Việt Nam tiến hành phần lớn cuộc chiến tranh. Hai
năm đầu từ 1969 dấn 1971, đối với tôi không có gì đáng lo như tôi tưởng. Thật vậy,
công việc của tôi, phần lớn, làm riêng biệt, không có người ngoài biết. Chiến
tranh chỉ đến với tôi, qua trung gian, thể hiện bằng hàng lô báo cáo tình báo,
xếp đầy bàn, chuyện nguy hiểm nhất tôi gặp trong những năm ấy là một cuộc đánh
nhau trong một tiệm nhảy ở Dakao, ngoại ô Sài Gòn.
Mặc dù chương trình Việt Nam hóa tiến triển nhanh, người Mỹ
lúc bấy giờ, vẫn là chủ tấn tuồng. Trong khi đại sứ Bunker và thủ trưởng tôi,
Ted Shackley, điều khiển và xâm nhập chính phủ Thiệu, đồng thời đối phó với
phái đối lập của ông ta thì đại tướng C. Abrams phụ trách kẻ thù kia. Chiến lược
của ông ta là mau chóng bình định tiếp theo những cuộc bắn phá dữ dội và tốn
kém do tướng W. Westmoreland tiến hành từ năm 1965. Mục tiêu chính của chiến lược
mới này là phá cơ sở hạ tầng của đối phương và những con đường tiếp tế từ Bắc
Việt Nam vào. Chiến lược được tiến hành lên tới đỉnh cao hồi đầu năm 1970 khi
quân Mỹ phối hợp với quân Nam Việt Nam đánh vào đất thánh cộng sản ở miền Đông
Campuchia. Norodom Sihanouk, người lúc nào cũng phản đối sự can thiệp trực tiếp
của Hoa Kỳ, bị đánh đổ. Tổng thống mới của nước Campuchia, hoàng thân Lonnol,
không nói gì về việc này.
Cuộc hành quân vào Campuchia chỉ có một kết quả đáng kể. Nhờ
những tài liệu thu lượm được và nhờ sự hợp tác đều đặn với Lonnol, CIA và Lầu
Năm Góc ít lâu sau, thấy ngay rằng trong nhiều năm họ đã lầm. Con đường tiếp tế
cho các lực lượng cộng sản ở Campuchia và phía Nam Nam Việt Nam
không phải là con đường mòn Hồ Chí Minh chạy đến phía Nam Lào (do đó có những
cuộc ném bom dữ dội ở vùng này). Theo những tin tức thu thập ở Campuchia năm
1970 thì 80% vũ khí và dụng cụ chiến tranh là do các tàu nhỏ của Bắc Việt Nam
chở vào và bốc dỡ ở cảng Sihanoukvilte của Campuchia. Sự khám phá này làm cho mọi
người sửng sốt, nhất là đối với các nhân viên CIA để có những lập luận ngược lại.
Nhưng họ đã lầm nếu họ sợ hãi. Vì không một ai, sau đó, bị thi hành kỷ luật về
sự nhầm lẫn này. Và những người sai nhất lại trở thành thủ trưởng và phó thủ
trưởng của những cơ quan phân tích của CIA. Tháng 2 năm 1971, gần một năm sau
cuộc xâm lược Campuchia, người Nam Việt Nam muốn kiếm một thắng lợi của Abrams,
tự họ, mở cuộc tiến công vào những con đường tiếp tế của cộng sản ở Nam Lào.
Chiến dịch gọi là "Lam Sơn 749" bị sa lầy ngay từ đầu. Người Bắc Việt
Nam, chiến đấu trên một chiến trường quen thuộc, đưa bốn sư đoàn đến bao vây và
đánh cho quân đội Nam Việt Nam tan tác, mặc dù người Mỹ đã ném bom dữ dội. Cuối
cùng, công cuộc bình định, đủ cho người Việt Nam hay người Mỹ tiến hành, đều
không có kết quá. Chiến dịch Lam Sơn gây cho Hoa Thịnh Đốn sự nghi ngờ về khả
năng chiến đấu một mình của quân đội Nam Việt Nam. Mặc dù đại tướng Abrams, với
sáng kiến của ông, đã mở rộng được vùng do quân chính phủ kiểm soát ở những nơi
tranh chấp trước kia ở đồng bằng Nam Việt Nam cũng như ở dọc biên giới, nhưng kết
quả ấy vẫn báo hiệu sự sụp đổ của Thiệu. Thật vậy, lực lượng Nam Việt Nam đã
tan rã một cách hết sức nguy hiểm ngay lúc quân Mỹ chuẩn bị về nước.
Cùng với chiến dịch Lam Sơn, cuộc xâm lược Campuchia và chính
sách bình định cấp tốc, trong hai năm đầu ở Sài Gòn, tôi còn chứng kiến những
cuộc thương lượng bí mật để đưa đến một nền hòa bình giả dối ở Việt Nam. Mở đầu
cuộc đàm phán, thái độ của người Mỹ không phải là một kiểu mẫu của sự
cứng rắn.
Đầu năm 1969, những ngày đầu dưới chính quyền Nixon,
Kissinger bí mật báo cho Liên Xô biết rằng Hoa Kỳ sẵn sàng xóa sạch Hà Nội khỏi
bản đồ để bảo vệ Nam biệt Nam không rơi vào tay cộng sản. Mấy tuần sau, như là
để cụ thể hóa lời đe dọa ấy, Nixon cho mở một chiến dịch ném bom vào những cơ sở
của cộng sản ở miền Đông Campuchia.
Mặc dù bước mở đâu tồi tệ ấy,Kissinger và Lê Đức Thọ, người
thương lượng chính của Hà Nội, vẫn gặp nhau trong tháng tám đế đàm phán bí mật.
Thoạt tiên, cuộc thảo luận không có kết quả. Điều kiện tiên quyết của Bắc Việt
Nam là Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Nhưng mùa Xuân năm 1972, lúc tôi hoàn thành
nhiệm kỳ thứ nhất, tình hình quốc tế bao quanh cuộc đàm phán bắt đầu thay đổi.
Kissinger đạt được một số tiến bộ trong cuộc thảo luận với Liên Xô về vấn đề hạn
chế vũ khí chiến lược. Việc dàn xếp cho chuyến đi bí mật đầu tiên của ông ta
sang Bắc Kinh đã xong. Ớ Nam Việt Nam, số quân Mỹ từ năm trăm nghìn người năm
1969, đã rút xuống còn ba trăm nghìn người. Chương trình Việt Nam hóa với công
thức lính Nam Việt Nam cộng với vũ khí Mỹ được tiến hành. Kissinger nghĩ rằng
có cơ hội để Bắc Việt Nam tỏ ra ít “cứng rắn" hơn chung quanh bàn đàm
phán. Do đó, trong mùa Thu và mùa Đông, ông bắt đầu tỏ ra "mềm mỏng hơn”
trong các cuộc thương lượng hy vọng rằng người Bắc Việt Nam sẽ thật lòng nói
chuyện. Không đưa ra điều kiện đòi quân đội Bắc Việt Nam rút khỏi Nam Việt Nam
nữa, ông nói rõ ngày quân Mỹ rút khỏi nước này với điều kiện Hà Nội ngừng bắn
trên khắp chiến trường Đông Dương và thả tù binh Mỹ.
Lê Đức Thọ lắng nghe nhưng không hề xúc động như Kissinger hằng
mong muốn. Sự "mềm dẻo" của Mỹ được đánh giá là một sự giảm sút về ý
chí, và Bộ Chính trị Bắc Việt Nam quyết định thử nghiệm một lần cuối
cùng mở một cuộc tiến công mới vào Sài Gòn. Quyết định ấy được khuyến khích vì
sự thất bại của quân đội Nam Việt Nam ở Nam Lào hồi năm. Thất bại này cũng chứng
tỏ cho những người cứng rắn ở Hà Nội biết rằng chương trình Việt Nam hóa không
có kết quả. Trong thời kỳ ấy, tôi hoàn thành nhiệm kỳ thứ nhất ở Việt Nam. Tôi
trở về trụ sở ban giám đốc CIA mà từ đó tôi được coi là người phân tích chính về
chính sách của Hà Nội. Mặc dù có chức vụ oai vệ ấy, tôi không hề được biết những
điều bí mật trong cuộc đàm phán của Kissinger. Gần như không một ai ở CIA biết
được cả. Nhưng tôi có thể rút ra những kết luận qua những tin tức từ Sài Gòn gửi
về.
Cuối mùa Thu, luận điệu và nội dung bản báo cáo ngày càng bi
đát, nhiều bạn đồng nghiệp kết luận cùng tôi rằng một cuộc tiến công quan trọng
của quân đội Bắc Việt Nam đang được chuẩn bị. Nhưng các thủ trướng của tôi ở
CIA, luôn luôn thận trọng không đồng ý như thế và quyết định hỏi lại Kissinger
về những kết luận của chúng tôi, trước khi lấy làm quyết định chính thức của
CIA. Kissinger bận về các cuộc thương lượng và không thể nghĩ rằng Bắc Việt Nam
lại dám mở cuộc tiến công. Do đó, suốt mùa Thu và đầu mùa Đông, các thủ trưởng ở
CIA của chúng tôi, đã chặn lại và giữ bí mật hay thay đối mọi điều kiện phân
tích nêu rõ những việc Bắc Việt Nam đang làm.
Trong lúc ấy, Kissinger đòi tất cả các cơ quan cung cấp tin tức
cho biết cách làm cho Bắc Việt Nam phải nhượng bộ. CIA và Lầu Năm Góc cùng nêu
ý kiến ám sát hoặc bắt cóc một số nhân vật Bắc Việt Nam. Họ cho rằng việc đó sẽ
gây rối loạn ở Hà Nội và những người sống sót buộc phải cúi đầu tuân theo những
đòi hỏi của Mỹ. Được hỏi về triển vọng của âm mưu này, các bạn đồng nghiệp và
tôi cười phát điên. Trước đây, đã có một sự kiện tai hại. Năm 1970, quân đội đã
cho quân nhảy dù xuống một trại tù binh Mỹ ở ngoại ô Hà Nội (Sơn Tây). Không nắm
được tin tức và tình hình ở thủ đô Bắc Việt Nam nên chúng tôi không
nhảy dù đúng vào trại tù binh thì làm thế nào chúng tôi có thể đến được nơi ở của
các nhà lãnh đạo Đảng mà bắt cóc họ?
Ngày 17 tháng 2 năm 1972, trong khi Nixon chuẩn bị đi Bắc
Kinh, thì Kissinger gửi một thông điệp cho Hà Nội, trong đó, ông ta đề nghị nối
lại cuộc đàm phán bí mật ngay trong tháng. Ông muốn rằng cuộc gặp mặt lịch sử đầu
tiên giữa hai người đứng đầu nhà nước Hoa Kỳ và Trung Hoa có thể gây cho Bộ
Chính trị Bắc Việt Nam một thái độ ôn hòa. Nhưng theo cách của họ, người Bắc Việt
Nam đã bác bỏ và hẹn nối lại cuộc đàm phán vào giữa tháng 4.
Ở Sài Gòn, địa vị của Nguyễn Văn Thiệu ngày càng lung
lay. Trái với người Mỹ đầy kinh nghiệm, Thiệu không lấy làm khó chịu khi nghĩ đến
cuộc tổng tiến công mới của quân đội Bắc Việt Nam. Cuối mùa Đông, Thiệu và bộ tổng
tham mưu của ông ta đi đến kết luận rằng Bắc Việt Nam đang chuẩn bị một cuộc
đánh ồ ạt qua vùng phi quân sự, vào các tỉnh ở phía Bắc nước này. Hồi ấy, các
cơ quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn bắt đầu nghi ngờ về những điều dự
đoán của mình. Tuy nhiên, nếu họ bắt đầu cho là có khả năng Hà Nội mở một cuộc
tiến công quân sự thì họ lại nghi ngờ những điều phán đoán của Thiệu. Họ khẳng
định rằng nếu có một cuộc tiến công thì đó là ở Tây Nguyên, về phía Tây và ở đồng
bằng, về phía Nam.
Ngày thứ sáu 31 tháng 3 năm 1972, bốn sư đoàn quân đội Bắc Việt
Nam tiến qua khu phi quân sự, như Thiệu đã dự đoán rất đúng. Những người Mỹ có
trách nhiệm lấy làm bằng lòng vì đã đưa được một người sáng suốt lên cầm quyền.
Và họ quên ngay những điều tính toán sai lầm của họ trước đó.
Cuộc tiến công của cộng sản diễn ra trên khắp miền Nam Việt
Nam chỉ mấy tuần sau khi Nixon từ Bắc Kinh trở về, giữa sự chuẩn bị chu đáo cho
một cuộc gặp mặt cấp cao mới ở Mátxcơva vào tháng 5. Sự trùng hợp ấy làm cho
Nhà Trắng phái tự đặt những câu hỏi hắc búa về ảnh hưởng đối với Hà
Nội của những cuộc trao đổi giữa Mỹ và Trung Quốc.
Trong những tuần đầu của chiến dịch, quân đội Bắc Việt Nam thắng
lợi vang dội. Chính phủ Hoa Kỳ đứng trước một tình thế khó xử, tiến thoái lưỡng
nan; can thiệp thế nào để cứu chính phủ Sài Gòn mà không làm gián đoạn cuộc họp
cấp cao với Liên Xô đã gần tới. Kissinger đưa ra một chiến lược hai mặt: một mặt,
ông yêu cầu Lầu Năm Góc soạn thảo một kế hoạch ném bom dữ dội nhằm những mục
tiêu quân sự ở phía Bắc vĩ tuyến 20, đồng thời thả mìn ở cảng Hải Phòng. Mặt
khác, ông quyết định đi thương lượng với Liên Xô. Trong cuộc đi hết sức bí mật
đến Mátxcơva ngày 20 tháng 4, ông Leonid Brejnev cho rằng Hoa Kỳ đưa một số ý đồ
mới lên bàn thương lượng: Hoa Kỳ không đòi quân đội Bắc Việt Nam phải rút khỏi
miền Nam Việt Nam nữa nếu người Bắc Việt Nam từ bỏ yêu sách đòi Thiệu phải ra
đi.
Không có điểm nào trong vấn đề này được thông báo cho những
người phân tích ở CIA. Chỉ có một nhà chính trị ở Hoa Thịnh Đốn biết. Đối với
Thiệu, Kissinger không hề cho ông ta biết tin gì, nhất là tin về cuộc đàm phán
bí mật có thể thay đổi tương lai của đất nước Việt Nam.
Ngày 2 tháng 5, Lê Đức Thọ bí mật gặp Kissinger ở Paris. Cuộc
thảo luận không chấm dứt được cuộc khủng hoảng chính trị và đi vào ngõ cụt. Lúc
đó, vì quân đội Bắc Việt Nam đang làm chủ chiến trường. Kissinger rời Paris với
định kiến rằng Hoa Kỳ cần phải có một sáng kiến táo bạo mới làm cho Bắc Việt
Nam "biết điều hơn”.
Tổng thống Nixon nghiêng về những cách giải quyết của Lầu Năm
Góc như thả mìn và ném bom. Trong một loạt buổi họp của Hội đồng an ninh quốc
gia, người ta hỏi ý kiến đại diện các cơ quan ở Hoa Thịnh Đốn về hiệu quả của
biện pháp trên và ảnh hưởng của những hành động ấy đối với mối bang giao giữa
Hoa Kỳ và Liên Xô. Những cuộc thảo luận rất sóng gió về vấn đề nêu
ra đã tạo một sự rạn nứt ngay trong nội bộ CIA. Những cán bộ phân tích tại chỗ
như tôi, không thể nào hình dung được rằng việc bao vây cảng Hải Phòng lại có ảnh
hưởng lớn đến cuộc chiến tranh vì phần nhiều viện trợ của bên ngoài cho Bắc Việt
Nam đều được chuyên chở bằng xe lửa chạy qua Trung Quốc. Nhưng một số nhân viên
cao cấp CIA có quan hệ chủ yếu với giới chính trị ở Hoa Thịnh Đốn hiểu rằng
Nixon muốn đi đến đâu và họ đã ủng hộ ông ta.
Nixon, chắc chắn là người quyết định cuối cùng theo lôgic đặc
biệt kiểu Nixon. Ông giải thích với các cố vấn rằng ông không thể đi Mátxcơva nếu
không bắt đầu tỏ cho Liên Xô biết rằng Hoa Kỳ không thể để bị coi là nhút nhát.
Do đó, ngày 8 tháng 5, ông công khai báo tin máy bay lần đầu tiên từ cuối năm
1968, trở lại ném bom bên trên vĩ tuyến 20.
Tuyên bố của ông có ảnh hưởng như một quả bom nổ ở Mỹ. Nó gây
ra một làn sóng phản đối...
Cuộc gặp mặt cấp cao ở Mátxcơva diễn ra đúng lúc như đã định
và Kissinger cho rằng trong những buổi họp sau cùng, không khí có phần thuận lợi
cho một sáng kiến hòa bình ở Việt Nam. ông nói với Liên Xô: Hoa Kỳ sẵn sàng ngừng
ném bom Bắc Việt Nam trước khi các tù binh được thả nếu Hà Nội đồng ý từ bỏ việc
đòi Thiệu phải ra đi.
... Giữa tháng 7, tin tức cho biết Hà Nội có sự thay đổi trong
các cuộc thương lượng. Đôi khi, một sự đảo lộn hoàn toàn. Theo các báo cáo của
tình báo chúng tôi, quân đội cộng sản ở miền Nam Việt Nam đã bắt đầu thảo luận
kế hoạch ngừng bắn - việc truất quyền Thiệu không còn là điều kiện đầu tiên
trong các điều kiện nữa. Các nguồn tin của CIA cũng cho biết Trung Quốc mới
khuyên Hà Nội giảm bớt những đòi hỏi chính trị để đi đến ký kết hiệp định. Mặt
khác, bản thân cuộc tiến công của cộng sản cũng chậm lại vì những trận ném bom
của Mỹ vào các vùng phía Bắc nước này. Lợi dụng tình hình ấy,
Kissinger đẩy nhanh nền ngoại giao bí mật và gặp ông Lê Đức Thọ một lần nữa ở
Paris ngày 19 tháng 7 để đưa ra lập trường mới của Hoa Kỳ. Mấy ngày sau ông đi
Sài Gòn để nói cho Thiệu biết những sự kiện đã xảy ra. Nhưng, như thói quen của
ông, ông không thật thà với Thiệu cũng như không thật thà với cộng sản. Ông
không nói gì đến chủ trương của Mỹ về sự có mặt của quân đội Bắc Việt Nam ở Nam
Việt Nam, sau khi ngừng bắn.
Ở bộ tham mưu CIA, tôi và các bạn đồng nghiệp không có ai
tham gia vào quỉ kế ấy. Mùa hè qua, những tin tức thu lượm được từ bộ chỉ huy cộng
sản tiếp tục chỉ rõ rằng có một sự thay đổi trong lập trường chính trị của Hà Nội.
Một số người trong chúng tôi bắt đầu tin rằng có khả năng cuộc đàm phán đi đến
kết quả.
Nhưng một lần nữa, một số quan chức cao cấp CIA lại cho là
mình khôn ngoan hơn. Cũng như chúng tôi, họ không biết gì về hoạt động của
Kissinger nhưng họ cho rằng những cuộc thương lượng công khai tạm ngừng là một hàn
thứ biểu có thể tin cậy. Tôi tự hỏi: Thế thì người ta đào tạo cán bộ cho Nam Việt
Nam để làm gì? Thủ trưởng trực tiếp của tôi thuyết phục tôi: trên chiến trường,
quân cộng sản không thắng lợi như họ hằng mong muốn, do đó họ lợi dụng triển vọng
của nền hòa bình sắp tới để nâng cao tinh thần quân đội họ .
Không còn nghi ngờ gì là Kissinger có vẻ ngạc nhiên và thú vị
với lời giải thích ấy. Đầu tháng 8, Kissinger và ông Lê Đức Thọ đạt được nhiều
tiến bộ trong những cuộc hội đàm bí mật nên Kissinger quyết định bắt đầu phổ biến
cho Thiệu để ông ta khỏi bất ngờ. Tướng A. Haig, người đại diện cho Kissinger
được cử đi Sài Gòn báo tin lành ấy.
Theo người đã dự cuộc gặp gỡ ở Sài Gòn, Thiệu rất sửng sốt về
những điều được phổ biến, tuy Haig không nói gì về sự có mặt của quân đội Bắc
Việt Nam ở Nam Việt Nam nhưng ông nói quá nhiều về vấn đề làm cho Thiệu hiểu rằng
ông đã bị bỏ rơi.
Lúc Haig trở về Hoa Thịnh Đốn, ông báo cho Kissinger biết rằng
Thiệu phản đối giải pháp. Nhưng Kissinger không phải là con người chịu chấp nhận
sự bi quan . Rõ ràng là ông cho rằng mối quan hệ ngày càng thân thiện giữa Hoa
Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc cho ông ta thời cơ duy nhất để đưa chiến tranh đến kết
thúc tốt đẹp và ông không để cho Thiệu làm hỏng. Khi nghe Haig báo cáo, ông chỉ
nhún vai và quyết định đi Mátxcơva ngày 10 tháng 9, tiếp sau là một cuộc hội
đàm bí mật nữa với ông Lê Đức Thọ ở Paris.
Bắc Việt Nam vừa có một quyết định rất quan trọng, cuối tháng
8, Bộ Chính trị của Đảng đi đến kết luận rằng mặc dù cuộc chiến tranh dẫm chân
tại chỗ, họ có thể có lợi nếu tạo cho nền ngoại giao của Kissinger một triển vọng
và Hoa Kỳ sẽ không dành cho họ những điều kiện tốt hơn một khi Nixon được bầu lại
làm tổng thống tháng 11, điều dự đoán mà họ chắc chắn đúng. Hà Nội đưa tin công
khai và rõ ràng rằng họ chấp nhận những đòi hỏi cơ bản của Kissinger. Phát biểu
ý kiến trên đài phát thanh trong nước, thủ tướng Phạm Văn Đồng nói giống như những
người truyền tin cộng sản Nam Việt Nam hồi giữa tháng 6. ông hết sức tránh việc
nêu tên Thiệu trong bảng liệt kê những đòi hỏi của cộng sản trong các cuộc
thương lượng hòa bình.
May thay, cuối tuần ấy, bản dịch bài diễn văn của thủ tướng
Phạm Văn Đồng được đưa đến bộ tham mưu CIA, lúc ấy chỉ có tôi là cán bộ duy nhất
của chi nhánh Việt Nam đang làm việc. Sau khi đọc bài diễn văn nhiều lần, tôi gọi
dây nói đến nhà thủ trưởng trực tiếp của tôi. Tôi nói với ông rằng, đó là dấu
hiệu mà chúng ta chờ đón, ông trả lời, sẽ đến.
Chúng tôi cùng nhau phân tích toàn bộ bài diễn văn, sẵn sàng
trình bày trước hội nghị hàng ngày của tổng thống, vào hồi 16 giờ. Trong kết luận,
chúng tôi nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng không có điều kiện Thiệu
phải rút lui trong một loạt đòi hỏi của cộng sản để nối lại các cuộc đàm phán
hòa bình. Điều đó có thể là một sự thay đổi trong lập trường chính trị của Hà Nội.
Sáng hôm sau, trời đổ sụp xuống đầu chúng tôi. Nhiều quan chức
cao cấp của chi nhánh liên tiếp gọi dây nói cho tôi. Họ kết tội tôi đã lừa họ
khi tôi đưa ra tin trái với tin chiều thứ bảy mà không có một ai trong họ ở đấy
để thẩm tra. Mặc dù có thủ trưởng trực tiếp của tôi ở đấy can thiệp và nói rằng,
ông chịu trách nhiệm một phần trong việc soạn thảo báo cáo, nhưng không một ai
thay đổi thái độ đối với tôi. Vì tôi bảo vệ luận điểm cho rằng có thể mở đường
tiến tới hòa bình từ nhiều tuần qua nên tôi trở thành người chịu trách nhiệm
duy nhất về bản báo cáo.
Trong 24 giờ tiếp sau, giám đốc chi nhánh CIA ở Việt Nam ra lệnh
cấm tôi không được phân tích bất cứ điều gì và tôi sẽ phải nhận một việc khác ở
một chi nhánh khác.
Nhiều ngày sau, ngày 10 tháng 9, Kissinger đến Mátxcơva như
đã định. Ông Brejinev khẳng định với Kissinger ba ngày sau rằng bài diễn văn của
thủ tướng Phạm Văn Đồng và một bản tuyên bố tương tự của Việt cộng, sẽ chỉ rõ sự
thay đổi trong những đòi hỏi của cộng sản về cuộc đàm phán. Việc Thiệu ra đi
không còn là điều kiện đầu tiên cho việc ngừng bắn, cho việc thả tù binh Mỹ.
Tin vào những điều bảo đảm ấy, Kissinger tiếp tục cố gắng để
đi đến một cuộc dàn xếp trước cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ, được tổ chức hai
tháng sau đó. Trong hai tuần tiếp theo, Kissínger bí mật gặp ông Lê Đức Thọ nhiều
lần Ở Paris. Còn tôi, thoát khỏi công việc về Việt Nam, tôi chỉ còn được phép
biết những tin tức từ chiến trường gửi về. Tôi dành phần lớn thì giờ trong
tháng 9 để đọc truyện tình báo ở thư viện của CIA và ngắm nhìn đám trẻ con nhảy
trên đồi sau đồn điền cà phê.
Đến cuối tháng, một người bạn thân của tôi, chịu trách nhiệm
về công việc tình báo ở Việt Nam, tỏ lòng thương hại tôi: "Cậu nghĩ thế
nào về việc tạm thời ở Sài Gòn, phụ trách việc giải đáp một nhóm tù binh chiến
tranh?".
Mất đúng bốn ngày mới làm xong thủ tục khám sức khoẻ và làm
các giấy tờ cần thiết để rời phòng làm việc cũ. Ngày 2 tháng 10, tôi vượt Thái
Bình Dương đến làm việc lần thứ hai và lần cuối cùng tại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài
Gòn. Tôi bắt đầu làm quen với chức vụ mới lúc triển vọng của hòa bình đã hình
thành ở Paris. Ngày 8 tháng 10, ông Lê Đức Thọ đưa ra đề nghị mới trong đó
không có việc Thiệu rút lui. Trong gần bốn ngày, mọi vấn đề quan trọng bậc nhất
đều được giải quyết Mặc dù có một số trở ngại nhỏ, ông Thọ và Kissinger tỏ ra
tin tưởng rằng những trở ngại cuối cùng có thể giải quyết nhanh. Cuối buổi hội
đàm, ông Thọ đề nghị ngày 31 tháng 10 sẽ tổ chức lễ ký kết và ban hành lệnh ngừng
bắn, hy vọng rằng hòa bình sẽ dấn trước ngày bầu cử tổng thống Mỹ. Kissinger
bay đi Hà Nội ngày 24 tháng 10 để ký tắt dự thảo hiệp định và bảo đảm những điều
cam kết của Hoa Kỳ.
Trong những ngày sau, Kissinger gửi một thông tri cho bộ tham
mưu CIA hỏi về phản ứng của Thiệu trước cuộc ngừng bắn. Các bạn đồng nghiệp cũ
của tôi ở Việt Nam còn nghi ngờ về những điều sẽ xảy ra, vội vàng trả lời
Kissinger. Họ nói: Thiệu không bao giờ nhận một hiệp định trong đó ghi một điều
khoản thỏa hiệp chính trị với cộng sản hay chấp nhận việc quân đội Bắc Việt Nam
ở lại miền Nam. Kissinger đọc đi đọc lại bức điện trả lời, rồi để gạt nó ra một
bên với một cử chỉ nóng nảy: “quá bi quan!". Ông ta trở về nhà, sửa soạn
hành lý đi Sài Gòn định giành cho được một câu trả lời chắc chắn.
Nếu Kissinger không tỏ ra bối rối về kết luận của CIA thì
trái lại có một người ở Nhà Trắng lại tỏ ra không yên tâm: đó là bản thân
Nixon. ông càng nghĩ đến những đề nghị thỏa thuận do Kissinger đưa
ra với ông Lê Đức Thọ bao nhiêu thì ông càng khẳng định rằng những cử tri Mỹ bảo
thủ nhất sẽ coi ông là một kẻ đầu hàng. Ông không thấy lý do để phải lao vào một
cuộc tranh cử có bóng đen trên đầu mình. Ông quyết định lợi dụng sự bướng bỉnh
của Thiệu làm cớ để chỉ đưa ra những điều đã thỏa thuận vào lúc thích hợp.
Trong lúc đó, ở Sài Gòn, Thiệu kịch liệt phản đối bằng mọi
cách những người Mỹ đã che chở ông. Trong những buổi họp đầu với Kissinger giữa
tháng 10, Thiệu bác bỏ toàn bộ dự thảo hiệp định. Đặc biệt, ông tỏ ra hằn học với
điều khoản cho phép quân đội Bắc Việt Nam được ở lại miền Nam sau ngừng bắn. Điều
này, trước đó, chưa ai nói với ông ta. Mỗi ngày, Kissinger lại đe dọa một ít,
phỉnh phờ một ít mong Thiệu thay đổi thái độ. Cuối cùng ngày 23 tháng 10,
Kissinger phải công nhận trước những người cộng sản rằng không có một hy vọng
nào làm cho người Việt Nam bằng lòng ngừng bắn tám ngày sau đó như đề nghị của
Hà Nội. Kissinger gửi một thông điệp cho thủ đô Bắc Việt Nam để bỏ chuyến đi Hà
Nội và để bảo vệ những chiếc cầu chính trị ông đã xây dựng. Ông gửi cho tổng thống
Nixon một bức điện đề nghị bỏ những cuộc ném bom từ vĩ tuyến 20 trở lên, làm
cho Hà Nội có thể hiểu rằng bao giờ Hoa Kỳ cũng mong muốn hòa bình.
Trước khi Kissinger rời Sài Gòn ít lâu, một trong số nhân
viên tin cẩn nhất của CIA, đưa cho chúng tôi bản tài liệu, ghi rõ từng chữ một,
những điểm thương lượng mà ông Lê Đức Thọ đưa ra ở Paris ngày 8 tháng 10. Đó là
bản thảo bài nói chuyện tại một cơ quan chỉ huy cộng sản ở vùng đồng bằng. Khi
Tom Polgar, giám đốc mới của CIA ở Sài Gòn đưa ra bản tài liệu cho Kissinger,
viên cố vấn của tổng thống há hốc mồm, ông ta kêu lên: Làm thế nào ông có tài
liệu này? Polgar nói với ông về nguồn tài liệu và hỏi liệu tin tức ấy có đúng
không. Kissinger công nhận là "gần đúng”.
Nhờ tài liệu ấy mà phần lớn chúng tôi, quan chức CIA và sứ quán
Ở Sài Gòn, Ở Hoa Thịnh Đốn, lần đâu tiên biết được những tiến bộ mà Kissinger đạt
được trong nền ngoại giao bí mật. Không phải chỉ riêng chúng tôi biết; trong những
buổi họp sóng gió với Kissinger cuối tháng 10, những người Nam Việt Nam đã
đương đầu với ông vì nhân viên tình báo của họ cũng kiếm được các bản sao những
đòi hỏi của óng Lê Đức Thọ. Do đó Thiệu và những người cộng tác với ông ta đã
có thể biết Kissinger đã nói dối họ vào lúc nào. Họ có thể đối phó với mỗi bước
ngoặt.
Khi Kissinger nói với người Bắc Việt Nam rằng không thể hy vọng
ngừng bắn vào tháng 10, thì người Bắc Việt Nam cho ngay đó là một sự lừa đảo. Họ
quyết định công khai hóa biên bản những cuộc hội đàm để vạch rõ trách nhiệm của
Hoa Kỳ. Ngày 26 tháng 10, Đài phát thanh Hà Nội và đài phát thanh Giải phóng, đọc
toàn văn tài liệu về cuộc đàm phán ngày 8 tháng 10. Họ phê phán thái độ bất tín
của Hoa Thịnh Đốn. Kissinger nhận định ngay rằng người Bắc Việt Nam không hiểu
ông ta. Sáng hôm sau, trong cuộc họp báo Ở Hoa Thịnh Đốn, ông cố làm cho các
nhà báo hiểu rằng những điều nghi ngờ của Bắc Việt Nam không có cơ sở.
"Hòa bình đã ở trong tầm tay", ông ta khắng định với các nhà báo có mặt
như thế. Những người này hơi lấy làm ngạc nhiên. Tiếp đó, Kissinger nhấn mạnh rằng
mấy buổi họp chung quanh bàn thương lượng không thể dẫn đến một hiệp định dứt
khoát.
Trong lúc đó, Kissinger và Nixon quyết định đưa cho Thiệu một
món quà phụ để ông ta nhận thỏa hiệp, đó là một cầu hàng không tiếp tế lớn,
theo luật Rehausser. Ngoài ra, còn trang bị lại cho quân đội của Thiệu để đổi lấy
sự hợp tác của ông ta. Ngày 9 tháng 11, chỉ hai ngày sau khi Nixon thắng cử
vang dội, tướng Haig đến Sài Gòn để đòi nợ của Hoa Thịnh Đốn. Ông nói với Thiệu,
chính phủ Mỹ mong ông đồng ý ngay với bản hiệp định vừa đưa ra. Ông còn báo cho
Thiệu biết, dù ông ta có tán thành bản hiệp định hay không, Nixon vẫn ký bản dự
thảo khi Kissinger và ông Lê Đức Thọ đã hoàn thành những chi tiết cuối cùng, chắc
chắn là vào ngày 5 tháng 10.
Hai ngày sau, Nixon gửi một bức thư dài riêng cho Thiệu,
trong đó ông nhắc lại và viết một cách cứng rắn hơn những điều Haig đã nói.
Nixon viết thêm: "ông có sự bảo đảm tuyệt đối của tôi nếu Hà Nội không tôn
trọng những điều khoản của hiệp định, tôi có thể thực hiện lập tức những cuộc
trả đũa...". Câu ấy báo trước rằng Hoa kỳ không rút khỏi miền Nam Việt Nam
sau chiến tranh. Mót sự cam kết mà quốc hội Hoa kỳ chưa bao giờ được hỏi ý kiến.
Khi Kissinger gặp lại ông Lê Đức Thọ cuối tháng 11, ông khôn
ngoan đưa cuộc đàm phán đi theo một hướng khác, tất nhiên vì quyền lợi của Thiệu.
Ông đặt cho người đối thoại hơn 60 câu hỏi phụ nữa là của người Nam Việt Nam và
44 điều thay đổi của riêng ông. Ông Lê Đức Thọ hỏi lại một vài điều thay đổi
nhưng không trả lời những câu hỏi khác do Kissinger đưa ra. Thực tế, trước mỗi
điều thay đổi, ông dần dần biết rõ mưu đồ thật sự của Kissinger. Người Mỹ muốn
tranh thủ thời gian để trang bị lại cho quân Nam Việt Nam trước khi ngừng bắn.
Ngày 25 tháng 11 ông Thọ không còn nghi ngờ gì nữa, đề nghị tạm thời hoãn cuộc
đàm phán để xin chỉ thị của Hà Nội.
Ớ Nam Việt Nam, lực lượng chính phủ lợi dụng ngay việc hoãn
cuộc đàm phán để mở rộng việc lấn đất. Giữa lúc ấy, Kissinger trở lại Hoa Thịnh
Đốn để xem xét lại những đề nghị khác nhau có thể đưa đến việc kết thúc các cuộc
thương lượng. Một trong những tài liệu do Hội đồng an ninh quốc gia đưa ra là:
ý kiến lại mở một cuộc tiến công chống Hà Nội, ném bom ngay thủ đô để buộc Bắc
Việt Nam phải chấp nhận giải quyết cuộc chiến tranh. Một giải pháp cũ cho một vấn
đề cũ. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, có cái lợi là làm cho Thiệu tin rằng Hoa
Kỳ không có ý định bỏ rơi ông ta.
Đầu tháng 12, khi ông Lê Đức Thọ trở lại Paris để nối lại cuộc
đàm phán riêng với Kissinger, ông tỏ ra lạnh nhạt với dự thảo hiệp định mới của
Hoa Kỳ . Thái độ đó làm cho Kssingel càng khẳng định thêm rằng Hà Nội định kéo
dài thêm cuộc thương lượng để cho lực lượng của mình tiến công quân đội Nam Việt
Nam. Ngày 14 tháng 12, sau một cuộc tranh luận ráo riết không đi đến kết quả,
ông Thọ một lần nữa, đề nghị hoãn cuộc đàm phán để trở về Hà Nội. Mấy ngày sau
Kissinger cũng rời Paris. để cho ông phó trưởng đoàn W. Sullivan tiếp tục thảo
luận dự tháo hiệp định với những nhà thương lượng thứ yếu của Bắc Việt Nam.
Ngày hôm sau, Sullivan điện về Hoa Thịnh Đốn báo tin rằng những
cuộc thảo luận gọi là kỹ thuật ấy, đi vào bế tắc. Lúc ấy, Nixon và Kissinger nhận
định rằng thời gian để tỏ ra cứng rắn đã đến. Quá trưa, Hà Nội nhận được một
thông điệp nhạt nhẽo của tổng thống Hoa Kỳ. Thông điệp viết: nếu người Bắc Việt
Nam không nhận đàm phán một cách nghiêm chỉnh thì 72 giờ nữa, Hoa Kỳ sẽ ném bom
trở lại từ vĩ tuyến 20 trở lên.
Ngày 18 tháng 12, thời hạn do Nixon đề ra chấm dứt. Hàng loạt
máy bay B.52 bay đến miền Bắc, ném bom xuống ngay những căn cứ quân sự ở Hà Nội
và Hải Phòng. Người Mỹ nói rằng những thành phố, cho đến lúc bấy giờ chưa hề là
mục tiêu đánh phá. (Điều này không đúng. Mỹ đã ném bom Hà Nội và Hải Phòng nhiều
lần và kể cả lần này, đều ném bom xuống những vùng dân cư). Cùng lúc ấy, tướng
Haig được cử đến Sài Gòn đem theo tối hậu thư: Nếu Thiệu khăng khăng từ chối dự
thảo hiệp định ghi những nét lớn thì Hoa Kỳ cắt mọi viện trợ cho Nam Việt Nam
và ký một hiệp định riêng với Bắc Việt Nam.
Bị xúc phạm, nhưng Thiệu vẫn tỏ thái độ bất trị. Người Bắc Việt
Nam hiểu biết nhiều hơn. Sau 12 ngày ném bom, nhiều máy bay B.52 bị bắn rơi,
nhiều phi công Hoa Kỳ bị bắt và chết, miền Bắc cũng bị thiệt hại, Hoa Kỳ buộc
phải ngừng bắn và hứa thảo luận nghiêm chỉnh dự thảo cũ về hiệp định Paris.
Ngày 30 tháng 12, Nixon công khai tuyên bố chấm dứt việc ném bom bên
trên vì tuyến 20.
Bảy ngày sau, Kissinger nối lại cuộc đàm phán ở Paris với ông
Lê Đức Thọ. Mặc dù nhà thương lượng Bắc biệt Nam không còn là một nhân vật “dễ
thương” như trước khi có những trận ném bom nhưng ông vẫn tỏ ra lịch sự, đứng đắn
và nhất là thái độ của ông ở bàn đàm phán, lại trở lại như trước. Cuối cùng,
ngày 20 tháng 1, Nixon tuyên bố rõ, ông sẽ ký ngay một hiệp định hòa bình riêng
với người Bắc Việt Nam nếu Sài Gòn từ chối. Bị cô lập, Thiệu phải cúi đầu tuân
lệnh.
Ba ngày sau, như đã nhận định, Kissinger và ông Lê Đức Thọ ký
tắt bản hiệp định, thay mặt cả hai bên, chế độ Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sáng hôm sau, đại sứ Bunker mặc quần áo trắng,
tiến vào hội trường ở gác ba sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn và tuyên bố, nước mắt chứa
chan: “Đây là một ngày vĩ đại đối với tất cả chúng ta. Sắp sửa có ngừng bắn.".
Tám giờ sáng, giờ Sài Gòn, ngày 28 tháng 1 năm 1973, tiếng còi buồn bã báo động
phòng không của thành phố loan tin lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Tôi ở trên nóc
nhà khách sạn Duc và uống một cốc rượu mừng một kỷ nguyên mới bắt đầu, cốc rượu
Bloody Mary.
Mặc dù giờ đó thiêng liêng, nền hòa bình mới trở lại cũng gặp
một tai nạn nhỏ... Chúng tôi gọi là không đâu! Trong lúc vội vàng ký hiệp định,
Kissinger quên không điện cho Sài Gòn biết những thay đổi trong những ngày cuối
của cuộc đàm phán. Do đó bản tài liệu Thiệu đọc cho nhân viên Chính phủ Sài Gòn
nghe không phải là bán dự thảo hiệp định mà Kissinger và ông Lê Đức Thọ đã thỏa
thuận.
Đại sứ E. Bunker, vốn là người thường giữ gìn, khi biết sơ suất
này, chỉ kêu một tiếng: Trời ơi! Tiếng kêu đó đúng với cái gì sẽ diễn ra.
ĐẠI SỨ MARTIN
Ngày 24 tháng 6 năm 1973, năm tháng sau khi ngừng bắn, Graham
Martin được bổ nhiệm làm đại sứ koa kỳ ở Sài Gòn thay Charles Whitehouse, đại
biện lâm thời từ ngày Bunker về nước trước đó mấy tuần. Martin là người thế
nào? Ngay cả những nhân viên đại sứ mới này. Dần dần, chúng tôi biết rõ thêm.
Lần đầu tiên đến sứ quán, tôi tiếp xúc với một số sĩ quan bộ
binh, một người 32 tuổi tên là Moorefield. Anh ta đột nhập phòng làm việc của
tôi vào tuần thứ hai tháng 7. Vừa cầm tay tôi, anh vừa kêu lên: “Này, mình được
phân công làm việc gần ông Đại sứ, mình sẽ tìm hiểu xem ông ta thế nào. Người
ta nói với mình rằng, cậu có nhiều thế lực ở đây, cậu là người mình cần làm
quen.
Tóc hung, đeo kính, cương nghị, Ken Moorefield không phải thuộc
loại người gây được cảm tình ngay. Đồng nghiệp của anh ở bộ ngoại giao cho anh
là hời hợt. Nhân viên sứ quán nghĩ rằng người ta sẽ cách chức anh. Nhưng
Moorefield, người được Martin chọn giúp việc cai trị, quả quyết rằng nếu có người
nào thay được cách xử sự của anh thì đó không phải là một con người giỏi giang
như anh mà phải hơn nhiều. Tài hùng biện và sự vững vàng của anh rất phù hợp với
cách làm việc của sứ quán dưới thời Martin.
Khác với nhiều nhân viên Martin đưa sang, Moorefield không lạ
gì Việt Nam. Tốt nghiệp trường West Point, trong những năm 60, anh nổi tiếng
khi làm cố vấn ở phía Nam vùng đồng bằng và bị thương nặng ngay năm anh được bổ
nhiệm đến Sài Gòn lần đầu tiên. Chiến công rực rỡ của anh tạo điều kiện cho anh
có thế được bổ sung vào tiểu đoàn danh dự của tổng thống ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng
sự phát triển của phong trào hòa bình làm cho anh suy nghĩ. Càng ngày anh càng
chứng kiến nhiều cuộc biểu tình của thanh niên trạc tuổi anh, họ đã phản đối và
thóa mạ chính quyền mà anh đại diện. Cay đắng và chán nản, anh xin
giải ngũ năm 1971 và sống một năm trời rỗi rãi để cuối cùng trở thành một người
huấn luyện bơi lội ở bể bơi gần đấy. Ở đây, anh gặp một người trẻ tuổi tên là
Martin và trở thành bạn thân của anh này. Đó không phái ai khác mà là con út
trong ba con trai của người sau đó trở thành Đại sứ ở Sài Gòn.
Gia đình Martin đã chịu nhiều đau thương. Người con cả bị chết
vì tai nạn xe hơi. Người con nuôi, Glen, là phi công lái máy bay lên thẳng
trong chiến tranh, bị bắn rơi năm 1966. Có phải chỉ vì có kinh nghiệm về Việt
Nam mà Moorefield dành được ngay tình cám của ông đại sứ mới không. Chỉ biết rằng
sau mấy lần gặp nhau, Martin đã bảo Moorefield đi Sài Gòn làm người cộng tác
riêng của ông.
Khi chọn người cựu chiến binh trẻ tuổi này làm công việc ấy,
Martin đã bỏ qua những luật lệ của tệ bàn giấy quan liêu. Chức vụ công tác
viên, nhất là ở một sứ quán quan trọng như sứ quán Sài Gòn, được coi là một chức
vụ đặc biệt thường dành cho những cán bộ xuất sắc thuộc Bộ ngoại giao.
Moorefield không xuất sắc, không phải là viên chức ngoại giao. Có lẽ điều đó đã
thuyết phục ông Martin, vì ông là người tự học, không thích kiểu cách làm việc
của Bộ ngoại giao. Ông muốn có một người chiến đấu, có thể giúp ông làm mọi việc,
chứ không phải một viên chức! Chức vụ ấy rất hợp với Moorefield như người đấu
quyền anh có thêm găng. Nhưng, trong 18 tháng sau đó, anh không trở thành người
thân thiết của Martin như điều anh mong muốn, Martin vẫn là con người xa cách,
không thể gần được. Ông đánh giá Moorefield là một con người thông minh, và lẽ
dĩ nhiên, là con người không thật trung thành. Tuy vậy, hai người vẫn trao đổi
kinh nghiệm với nhau và qua đó, Moorefield thấy có phần nào cảm tình với thủ trưởng
của mình. Ngày Martin đến Sài Gòn, Moorefield đã cầm tay ông Đại sứ giúp ông xuống
thang máy bay. Ngày 30 tháng 4 năm l975, Moorefiefield cũng ở bên cạnh
ông đại sứ giúp ông, lần này, lên may bay lên thẳng, đưa ông đi vĩnh viễn khỏi
Sài Gòn.
Bên ngoài, Graham Martin là một người tự mãn, tỏ ra không cần
sự giúp đỡ của một ai. Con một vị mục sư, ông được nuôi dạy hết sức khắt khe
theo phương pháp giáo dục của đạo tin lành miền Nam ở tỉnh nhỏ Mars Hill, vùng
Carolina Bắc. Ông nói theo kiếu các nhân vật của thánh kinh, như một tín đồ.
Ông thường nhắc lại với bạn bè và đồng nghiệp rằng ông được như thế này là nhờ
sự giáo dục nghiêm khắc của cha ông mà ông thừa hưởng. Ông giải thích trước một
ủy ban của quốc hội: tôi tránh được phiền muộn là nhờ những điều khuyên dạy của
cha tôi: tôi quá lười biếng để có thể nói dối được. Ông cũng khẳng định rằng nếu
anh nói thật, anh sẽ không bao giờ còn nhớ những điều anh nói. Tốt nghiệp trường
Wake Forest College năm 1932, anh thanh niên Martin, năm sau, làm phóng viên ở
Hoa Thịnh Đốn cho một loạt tờ báo nhỏ ở miền Nam nước Mỹ. Sau này, ông nói: Tôi
được coi là một phóng viên khá. Năm 1933, ông bỏ nghề làm báo và hợp tác với
New Deal của Roosevelt. Ông dược làm phó cho Averell Harriman, lúc bấy giờ là
giám đốc cơ quan khôi phục lại đất nước. Người thanh niên vùng Carolinia phớt đời
và chịu đựng, tranh thủ được nhiều tình cảm của thủ trưởng. Ông này đã giới thiệu
với anh phần lớn giới thượng lưu ở Hoa Thịnh Đơn. Có dạo, anh là sĩ quan tình
báo trong quân đội dự bị. Một sự bổ nhiệm đã quyết định hẳn tương lai của
Martin. Sau này, ông kể lại: "Lúc bấy giờ, người giao cho tôi chịu trách
nhiệm cả một vùng, buộc tôi phải làm việc. Tôi chịu trách nhiệm cả vùng Đông
Nam Á. Khi chiến tranh nổ ra, sáng nào, tôi cũng phải báo cáo với bộ trưởng bộ
ngoại giao Henry L. Atimson và đại tướng George Marshall, diễn biến tình hình
chiến sự ở Thái Bình Dương trong 24 giờ qua". Nhưng công việc ấy
tạo cho Martin niềm say mê làm công việc thu lượm tin tức và "tình ưu
ái" đối với châu Á. Ông cũng trở thành người thầy trong việc tóm tắt tin tức.
Ông giải thích: "Tôi thuộc lòng những bản báo cáo nên nói rất tự
nhiên". Ông sử dụng nghệ thuật lấy một cách sung sướng trong suốt đời làm
nghề ngoại giao của ông.
Sau chiến tranh, cả nước không còn quan tâm đến chủ nghĩa
phát xít mà chú ý đến chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Bạn của Martin ở Hoa Thịnh Đốn
nhờ đến khả năng của ông, nhanh chóng đưa ông vào cuộc đấu tranh mới này. Được
Harriman và nhiều người khác ủng hộ, năm 1947, ông vào làm việc ngay ở Bộ Ngoại
giao và được bổ nhiệm ngay làm cố vấn chính trị tại sứ quán Hoa Kỳ ở Paris. Ở
đây, ông trở thành một chuyên gia về những trò ngoắt ngoéo nhưng quan liêu của
Bộ.
Về sau, ông phải trả giá đắt về sự tiến nhanh của mình ở Bộ
Ngoại giao. Mùa hè năm 1973, vừa mới đến Sài Gòn thì một nhà báo Mỹ đã tố cáo rất
đúng rằng đại sứ mới chưa hề tốt nghiệp trường ngoại giao. Bài báo đó làm
Martin tức giận. Và ông vội vàng cấm không cho thủ phạm là George Mẹ. Arthur,
viết cho tờ Los Angeles Times, tiếp xúc chính thức với sứ quán. Đó là mối bất
hòa đầu tiên giữa Martin với giới báo chí Mỹ ở Sài Gòn.
Trong tám năm làm việc ở Paris đã nâng cao năng lực làm viên
chức, nhất là sự hiểu biết về "kẻ thù". Từ năm 1947 đến năm 1956, thời
kỳ chiến tranh thứ nhất ở Đông Dương, ông nghiên cứu thái độ của Bắc Việt Nam
và đồng minh của họ, thái độ của những người cộng sản Pháp và châu Âu. Dần dần,
sự nguy hiểm của việc tuyên truyền của cộng sản ám ảnh ông và ông dành tất cả
nghị lực của mình để chống lại nó.
Từ vị trí quan sát ở Paris, ông cũng thấy một mối nguy hiểm
khác mà lúc bấy giờ ít người Mỹ thấy. Ông hiểu rằng chủ nghĩa thực dân cũ hay
biến tướng của nó, đã chết ở Đông Dương, và nếu Hoa Kỳ cố can thiệp
trực tiếp vào đế cứu nó, thì kết quả chỉ là một thất bại thảm hại. Ông trình
bày trước một ủy ban của quốc hội mấy năm sau: "Tôi đã theo dõi sự tiến
triển của chiến tranh du kích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi nghĩ rằng chúng
ta sẽ sai lầm nghiêm trọng nếu trước một làn sóng yêu nước sâu rộng, chúng ta cố
khôi phục lại chế độ thuộc địa của Pháp, nhất là ở Viễn Đông. Tôi chỉ nghĩ rằng
sẽ là một tội lỗi nếu chúng ta giúp đỡ người Pháp, và tôi đã nói rõ việc này.
Martin trở lại Hoa Thịnh Đốn giữa những năm 50. Ông làm việc
một năm ở trường không quân. “Ở đây, trong những buổi giảng dạy, tôi đã cố gắng
làm cho mọi người chú ý đến cuộc chiến tranh Đông Dương, không một phút nghĩ rằng
ít lâu sau, chúng ta sẽ phải can thiệp". Sau đó, Martin còn nhận nhiều chức
vụ khác, chủ yếu là làm cố vấn cho cho đoàn đại biểu Mỹ ở Liên hiệp quốc. Cuối
cùng, năm 1963, ông được thăng làm bộ trưởng và đợi đi làm đại sứ ở Thái Lan, một
chức vụ quan trọng mà nhiều người mong muốn. Ở đây, ông nổi tiếng là người
thương lượng giỏi của Bộ Ngoại giao. Ông cũng gặp nhiều may mắn. Một hôm, có một
ứng cử viên tổng thống khốn khổ, tên là Richard Nixon dừng lại Bangkok, Martin
cho trải thảm đỏ, đón "người công dân bình thường" ấy; và khi trở
thành tổng thống Hoa Kỳ, Nixon đã trọng thưởng Martin.
Chức vụ đại sứ ở Bangkok không chỉ là một chức vụ tốt lành,
có lợi về chính trị. Trong bốn năm ở sứ quán, Martin đã phải đấu tranh với những
nhà quân sự Mỹ muốn biến Thái Lan thành một Việt Nam nữa. Rút bài học của chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất, ông đã phản đối xu hướng này. Đến mức, ông phải
trục xuất người tùy viên quân sự của ông là tướng Wlliam Stiliwell, một con diều
hâu. Ông lấy làm tự hào về việc này. Tự hào đến mức bực mình vì thất vọng không
được David Halberstam, mấy năm sau, nêu tên trong một tác phẩm đồ sộ là The
Best and the Brightest (Những người ưu tú và xuất sắc nhất) nói về
những nhà chiến lược Hoa kỳ. Mùa Hè năm 1974, trước một ủy ban của quốc hội,
ông than phiền: "Trong cuốn sách ấy, thậm chí tôi không được nhắc đến. Tôi
biết khi người ta hỏi Halberstam vì sao lại quên tôi, tác giả đã trả lời rằng mục
đích cuốn sách là chỉ rõ khi bộ máy quân sự đã lên đường thì không có người nào
cản trở nó được. Nếu trong cuốn sách ấy, tác giả lại nói đến tôi, người đã đấu
tranh có kết quả, làm cho người Mỹ không dính líu trực tiếp vào cuộc nổi loạn ở
Thái Lan thì tác giả đã tự chống lại luận điểm của mình".
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn 1967-1973 Elsworth Bunker, người tiền
nhiệm của Martin.
Mặc dù ông chống lại sự dính líu của Mỹ ở Thái Lan, Martin
không thấy khó chịu khi phải ủng hộ sự can thiệp quá sâu của Mỹ ở Việt Nam. Năm
1974, ông trình bày trước quốc hội: "Khi tôi được bổ nhiệm sang Bangkok,
tôi tưởng rằng, thỉnh thoảng người ta hỏi tôi,"có nên để Việt Nam sụp đổ
không. Vì tôi không đủ tầm cỡ để phân tích cho mình, tôi trá lời rằng để như thế
không có lợi cho Hoa kỳ. Tôi đã nghĩ và vẫn nghĩ thế: Nếu có thể tránh được và
không phải trả giá đắt thì tốt. Chính sách tốt nhất là, nếu vì quyền lợi của
chúng ta, chúng ta không muốn một hình thức xâm lược mới thì chỉ nên viện trợ
quân sự, có thể có một số cán bộ khung, không nên đưa hắn lực lượng của chúng
ta vào.
Martin góp phần vào cuộc đấu tranh chống cộng sản mới ra đời ở
Đông Dương bằng cách thuyết phục người Thái Lan, giữa những năm 60, cho lực lượng
Hoa Kỳ thuê những căn cứ không quân lớn nhất của họ để Mỹ ném bom những con đường
tiếp tế của cộng sản ở Lào, Campuchia và Việt Nam. Mặc dù, công khai ông đã chối
không có những hiệp định này, nhưng trên thực tế, phần lớn những phi vụ Mỹ đi
ném bom ở đường mòn Hồ Chí Minh, miền Nam Lào đều xuất phát từ những căn cứ
"mượn” của Thái Lan.
Glen, người con nuôi của Martin bị giết ở vùng Tây Nguyên, miền
Nam Việt Nam khi ông làm việc ở Bangkok được ba năm. Từ đó tính tình
và ý kiến của viên đại sứ có vẻ thay đổi. Ông mất cả một ít khoan nhượng của
mình đối với công việc bàn giấy quan liêu. Năm 1967, trong khi ông không ngừng
cố gắng ngăn cản việc quân Mỹ vào Thái Lan, ông đã thố lộ sự thiếu kiên nhẫn của
mình với bộ trưởng ngoại giao. Trong một bức điện đặc biệt hỗn xược, ông yêu cầu
Dean Rusk phải ủng hộ ông. Sau này Martin kể lại: tôi bị mất chức ở Bangkok vì
có những ý kiến không đúng với phép tắc lễ nghi.
Kỷ luật ấy, tuy nhiên, không kết thúc đời hoạt động của
viên đại sứ cáu kỉnh. Một năm sau, người bạn thân của ông, Richard Nixon, trúng
cử vào Nhà Trắng, khôi phục địa vị cho ông và bổ ông đi làm đại sứ ở Rome, để đền
đáp sự kính phục trước kia. Trong lịch sử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đây là một
trong những vụ khôi phục địa vị chính trị nổi tiếng.
Trong ba năm Ở Italia, Martin xử sự rõ ràng là một đại sứ của
một nước lớn. Ông chọn những người giúp việc tận tụy và điều khiển sứ quán với
một bàn tay thép. Ông không để có một trách cứ nào đối với bản thân cũng như đối
với Bộ Ngoại giao. Cũng như ở Bangkok ông khám phá thấy chung quanh ông, có một
kẻ thù. Lần này, không phải là quân đội Mỹ, mà là chi nhánh CIA ở Italia. Tự khẳng
định rằng mình là một nhân viên tình báo còn giỏi hơn tất cả nhân viên tình báo
của CIA gộp lại, Martin quyết định kiểm tra lấy và trực tiếp giữ bí mật những
gì do Hoa Thịnh Đốn giao để điều khiển chính sách của Italia.
Trước khi hết nhiệm kỳ ở Rome, Martin đã đạt được thắng lợi
chính trị vang dội. Trước cuộc bầu cử vào Thượng nghị viện nước này năm 1972,
ông cung cấp cho đảng Dân chú thiên chúa giáo hàng nghìn đô la, nhờ đó đảng này
đã chiếm ưu thế so với những người cộng sản. Một thắng lợi tạm thời, vì những
người cộng sản tiếp tục dành được cử tri, nhưng thắng lợi trên tạo một giá trị
tượng trưng cho Martin. Ông có thể rời Rome một cách hồ hởi. Ông đã
đánh bại cuộc tiến công của cộng sản ở một trong những nước đồng minh rất gần
gũi của Hoa Kỳ.
Martin định nghỉ hắn sau khi ở Rome về. Ông đã mua một trang
trại ởToscane, như ông cho biết sau này với một vẻ hài hước nặng nề, - định ở
đó để viết một cuốn sách và ghép một cành Ô liu với một cây đỗ tùng, nhờ đó có
ngay một thứ rượu Martin không cần pha. Nhưng đầu mùa Hè năm 1972,
Kissinger đề nghị ông nhận một chức vụ mới, đặc biệt phức tạp mà một nhà ngoại
giao kỳ cựu, William Sullivan, đáng lẽ thay Bunker ở Sài Gòn, đã từ chối.
Martin có bằng lòng nhận chức vụ này không.
Martin kể lại: "Mặc dù tôi thích châu Á, và ở đấy tôi có
nhiều bạn nhưng tôi đã mất tám tháng để suy nghĩ: "Không ta không đi. Tôi
không hề tưởng đến những gì sẽ xảy ra. Nhưng khi những nhà chức trách cao cấp
nhất của nước Mỹ nói rằng: "Tôi nghĩ ở Bộ Ngoại giao, người ta nhận những
chức vụ khó cũng như những chức vụ dễ. Anh sẽ phải trả lời: Thưa vâng, đó là việc
chúng tôi thường làm. Rồi anh sẽ tìm cách giải thích cho vợ anh biết việc anh
đi Sài Gòn chứ không phải về trang trại ở Toscane. Martin cuối cùng đã trả lời
Kissinger rằng ông ta bằng lòng nhậm chức trong một năm, chứ không hơn.
Bà Dorothy Martin đã chống lại quyết định ấy cho đến phút cuối
cùng. Bà ta đã mất một đứa con ở Việt Nam và có một ác cảm tự nhiên đối với nước
này. Bà hiểu rằng chồng bà sẽ chẳng lợi lộc gì, khi nhậm chức ở đấy vì ông ta
phải bảo vệ một chính sách mà hầu hết người Mỹ đã phản đối.
Lần đầu tiên lúc tôi gặp Graham Martin, ông đang cúi xuống một
cái bàn rộng, dài trong phòng nhận tin của tùy viên quân sự ở căn cứ không quân
Tân Sơn Nhất. Mặc một bộ quần áo kẻ sọc, lưng gù, tóc xám, mặt nhăn nheo và cắt
tóc giống một bức tượng bằng gỗ, nói không ngoa, ông tựa như hình ảnh viên đại
sứ Hollywood. ông nói về sự cam kết, sự cần thiết phải làm việc, với những
từ nghe vui tai sau sáu tháng ngừng bắn mà chưa có kết quả gì mới. Tôi chú ý đến
cái nhìn của ông, xám xịt và lạnh lùng như đá. Đối với những người có đâu óc tưởng
tượng nhất trong chúng tôi, ông ta giống một con rắn sẵn sàng mổ.
Lúc nào không ra mắt, không đứng làm đại diện thì Martin là một
con người bình thản, khiếm tôn, gần như thẹn thò. ông ta có dáng đi và tư cách
của người miền Nam (nước Mỹ) hồi xưa, rất quyến rũ đối với phụ nữ. Tướng John
Murray, tùy viên quân sự một hôm nói rằng: "Thật là một con người làm mê
hoặc lòng người. Vợ tôi cho rằng không có một người nào khác đáng mê bằng ông
ta. Nhưng cái bề ngoài ấy dấu kín ý chí thép của một người không có gì làm cho
xúc động. Những nhân viên đã làm việc lâu với ông vẫn nhớ, với lòng cảm phục,
cái ngày khủng khiếp mà ông ta biết tin người con là Glen bị chết. Hai ông bà
đang chuẩn bị đến dự một cuộc tiếp kiến của vua Thái Lan. Những báo cáo đầu
tiên thu nhỏ vấn đề: "Vâng, Glen bị thương, nhưng không nặng lắm". Đến
khi biết rõ sự thật, ông chịu đựng, không nói một lời nào với vợ. Ông đưa vợ đến
dự cuộc tiếp kiến và xử sự đúng, với sự thận trọng và tư cách mà người ta chờ đợi
ở một viên đại sứ Hoa Kỳ.
Về hình thức, Martin có vóc người mảnh và cao. Ông ta còn chịu
hậu quả của một tai nạn xe hơi, chỉ hơi quay đầu được từ trái sang phải. Bệnh tật
ấy hạn chế hoạt động của ông ở Việt Nam. Ông không thể đi thăm nội địa nước này
để tự mình tìm hiểu tình hình. Thực tế, chỉ có một lần, ông ra khỏi Sài Gòn.
Mặc dù ở ẩn dật, Martin không chịu ngồi rỗi. Hút thuốc nặng,
mất ngủ liên miên, ông làm việc dẻo dai, cho tới khuya, ở phòng riêng trong sứ
quán, đọc những bản báo cáo tin tức và tình báo.
Một chị thư ký bực mình về cách làm việc đơn độc ấy. Một hôm,
nửa đùa nửa thật, chị ta so sánh ông với đức chúa trời: "Tôi biết có ông ấy
đấy, nhưng tôi chẳng trông thấy ông ấy!". Câu nói đùa ấy, cũng như nhiều
câu khác, không đúng đối với Martin. Ông ta độc lập và có uy quyền, nhưng đối với
các nhân viên phục vụ, còn dễ gần hơn nhiều so với Bunker và những vị đại sứ
trước.
Thỉnh thoảng ông ta cũng nghỉ ngơi, đi xem chiếu phim. Buổi tối,
sau bữa ăn, ông lên phòng khách, những người lính gác chiếu cho ông xem những
phim ảnh Mỹ mới nhất mà sứ quán Sài Gòn nhận được trước tiên. Tôi còn nhớ được
xem phim cùng ông vào một buổi tối năm thứ hai ông ở Việt Nam. Lúc ấy ông đang
phải chống chọi với quốc hội và báo chí.
Graham Martin, đại sứ Mỹ cuối cùng tại Sài Gòn, 1973-1975
Chúng tôi xem phim Những ngày cuối cùng của Hitler và thấy cảnh
đứng túc trực bên linh cữu của tên trùm quốc xã trong căn hầm ở Berlin. Sau cuốn
phim thứ nhất, khi đèn bật sáng, Martin đã nhìn tôi thở dài: "Anh biết đấy,
tôi bắt đầu hiểu cái đồ chó chết ấy phải bối rối thế nào". Ông rời ghế đi
lên phòng làm việc nghiên cứu những hồ sơ tình báo.
Còn như nhân cách của Martin, nó giống như một cái kính trăm
màu hiện ra một lúc, không một màu nào phản ảnh đúng. Một hôm, ông nói trước một
ủy ban của quốc hội rằng nghệ thuật đạo diễn là một phần của vốn kiến thức ngoại
giao. Trong trường hợp đó, ông thực chất là nhà ngoại giao, người diễn viên xuất
sắc có thể đóng vai bất cứ người nào trong chúng tôi. Nhưng nghệ thuật ấy đã
làm ông phải trả giá đắt vì ở ông, không có gì hoàn toàn thật, hoặc hoàn toàn
giả. Với thời gian, ông trở thành bất lực để phân biệt giữa việc đạo diễn và sự
thật. Ông tưởng rằng có thể bóp méo sự thật theo quan điểm của mình. Ông đã thất
bại trên cả hai mặt.
Một đồng nghiệp nói: "Lúc đầu, ông giống một nhân vật
lãng mạn đi chinh phục. Nếu anh có một chút lãng mạn, anh rất có khả năng làm
như ông ta". Nhiều người khác đánh giá thấp hơn tính thay đổi của
ông. Một người cộng tác với ông nói: "ông ta có đủ mọi thói xấu đã làm hại
những vị đại sứ ở Việt Nam. Một người khác nói: "ông bẩm sinh là một người
hay lật đổ. Nói chung, hay đánh lừa, hay làm cái việc bí mật. Định trị anh, ông
ta tìm nhược điểm của anh như một con cá mập tìm mồi. Thí dụ lúc ông tức giận,
tiếng nói của ông trở nên thì thầm khó nghe. Mục đích của ông làm cho anh phái
thật chú ý. Một bận giám đốc CIA ở Rome đã phải đeo máy nghe. Cứ chỉ đó buộc
Martin phải nói to. Đối với những sĩ quan quân đội Mỹ ở Sài Gòn, thoạt tiên,
Martin hình như hợp với họ. Một người ở Lầu Năm Góc nói: "Sau B.52, ông là
nhân vật ưu tú, một người khác khẳng định: ông là một người Mỹ siêu ái quốc, bất
chấp người Việt Nam. Chỉ có Hoa Kỳ là đáng kể. Và nếu ông có thể hành động theo
ý mình, tôi chắc là cờ Mỹ sẽ không còn những ngôi sao nữa, mà chỉ có một con rắn
ngửng đầu lên với những dòng chú thích: "Đừng dẫm lên tôi".
Tướng Murray, đã từng phục vụ cả ông Bunker lẫn ông
Whitehouse, cho rằng không một ai trong hai ông này có thể bén gót chân ông
Martin: đó là một con ác điểu!
Một hôm, tướng Murray nói với tôi: "Khi Martin đến Sài
Gòn, ông ta không hề hỏi tôi về tình hình tài chính hay tình hình ăn, ở, tinh
thần quân đội hay cái gì gì đó thuộc loại này. Cái ông muốn biết là chúng ta có
sắp ném bom những căn cứ cộng sản ở dọc biên giới Campuchia không? Tướng Murray
giải thích rằng máy bay B.52 không được ném bom ở đấy vì có nhiều thường dân.
Tướng Murray và tướng John Vogt chỉ huy không quân, đều nhắc cho ông đại sứ mới
biết rằng Lầu Năm Góc vẫn chưa bỏ lệnh ấy. Nhưng Martin trả lời: tôi sẽ xin
phép cho các anh ném bom". Tướng Murray nói rõ hơn. Vogt nhìn tôi, tôi
nhìn Vogt. Hai chúng tôi đều nghĩ rằng gã này là một đồ tồi! Nhưng, anh biết
không, Martin đã xin được phép ném bom 30 ngày trước khi có lệnh thôi bắn phá
Campuchia.
Nhưng khi chúng tôi cho máy bay đến các mục tiêu, đôi khi
chúng tôi cũng bảo phi công chừa ra một số khu vực. Thí dụ, tôi còn nhớ một cái
làng nhỏ có xưởng vũ khí. Martin hỏi tôi sao không ném bom xuống đấy, tôi trả lời:
ở đấy có nhiều dân lành. Chúng tôi tập trung ném bom xuống mục tiêu quân sự
Martin trả lời tôi: Anh nói với Vogt rằng tôi không cần biết ở đó có dân thường
hay không. Tôi nói lại với Vogt, Vogt bảo tôi: có lẽ ông ta bất chấp tất cả!
Theo một ý nghĩa khác, Martin đúng là Nhà Trắng của Nixon được
kéo dài thêm. Cũng như tổng thống, ông ta là một người cực kỳ chống cộng, có một
niềm tin gần như của tín đồ tôn giáo. Một anh bạn nói: "ông ta coi cộng sản
là người xấu xa nhất. Việt Nam là một chiến trường tâm lý.
Tuy nhiên, quan điểm của Martin không phải chỉ do thành kiến
mà có. Cũng như Kissinger, ông nhìn cuộc chiến tranh Việt Nam trong tình hình
chung của thế giới, tách riêng ra, nó là một nhân tố quan trọng của sự cân bằng
trên trái đất, và nhất là, là một yếu tố quan trọng của nền an ninh Hoa Kỳ.
Martin giải thích trước nhiều ủy ban của quốc hội: tôi kiên quyết khẳng định rằng
chúng ta phải chấm dứt mau chóng sự cam kết của Mỹ ở Việt Nam. Nhưng cách làm của
chúng ta vô cùng quan trọng. Tôi nghĩ rằng mục đích của chúng ta phải là rút
ra, và để lại một Việt Nam mạnh về kinh tế, đủ sức tự vệ về quân sự, có quyền tự
do để lựa chọn chính phủ và những người thủ lĩnh của mình, đủ khả năng đi đến một
sự dàn xếp với kẻ thù ở miền Bắc. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta hoàn thành tốt việc
này thì sẽ gây ảnh hưởng lớn về hình ảnh nước Mỹ, về ý chí của Hoa Kỳ và về lời
bảo đảm của Hoa Thịnh Đốn với Bắc Kinh.
Martin không những kính phục nhà ngoại giao Kissinger mà còn
coi trọng bản thân Kissinger nữa. Ít nhất cho đến khi Việt Nam sụp đổ. Một hôm,
ông ta kể một chuyện chứng tỏ sự thân thiện mà ông tưởng có giữa hai
người, Kissinger và ông ta cùng ở trong phòng rửa mặt dành cho quan chức cao cấp
trên tầng thượng Bộ Ngoại giao. Martin nói nhỏ qua vai Kissinger: ông là một thần
kỳ.. Kissinger trả lời ngay: ông Graham ạ, ông cũng là một thần kỳ theo kiểu
cách của ông.
Theo một trong những người cộng tác gần gũi với Kissinger thì
Martin chỉ là một dụng cụ có ích cho bộ trưởng ngoại giao, "một con rệp"
dùng để làm những việc bần thỉu, một ống thu lôi để hứng lấy những lời công
kích đáng lẽ là chĩa vào Kissinger và Nhà Trắng. Mặt khác, chính sách của
Kissinger đòi hỏi những sở trường mà viên dại sứ phải có. Nói cho đúng, đó
không phải là một chính sách, theo ý nghĩa thật sự của từ này, mà chỉ là bề
ngoài của chính sách. Hoa Kỳ phải quì gối mà bỏ Việt Nam nhưng phải làm sao gây
được ấn tượng là Hoa Kỳ đàng hoàng rút khỏi nơi đây. Muốn thế, phải có một thầy
phù thủy và có nghệ thuật đạo diễn. Martin là bậc thầy trong vấn đề này. Hơn thế,
một trong những mục tiêu của Kissinger là đảm bảo sự vừng chắc cho Thiệu đồng
thời vẫn làm cho hắn phụ thuộc vào Mỹ, do đó, Kissinger càng cần có ở Sài Gòn,
một con người hiểu biết và đủ sức mạnh để điều khiển người Nam Việt Nam. Martin
đã chứng tỏ có những khả năng ấy.
Lập tức, Martin hoạt động theo hướng của Kissinger. ông ta
dùng mánh khóe mua chuộc, đánh lừa làm cho quốc hội ủng hộ Thiệu, khôi phục tín
nhiệm của người Mỹ đối với Thiệu. ông tiến công ngay những người thuộc phe đối
lập có lợi cho tuyên truyền của Hà Nội vì ông cho đấy là trở ngại duy nhất cho
những mục tiêu của ông. Những người này đã làm suy yếu ý chí của người Pháp
trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Martin nghĩ rằng họ đang làm
như thế đối với những người Mỹ còn lại. Báo động với Quốc hội và dư luận người
Mỹ, tiếp tay bộ máy tuyên truyền của Hà Nội. Theo Martin, sự nguy biến không chỉ
do việc tuyên truyền của Hà Nội mà còn do một âm mưu lật đổ thật sự
của một hệ thống những người thuộc phái tà và có cảm tình trên khắp thế giới
đang giúp Hà Nội vì những nguyên nhân riêng. Một hôm, Martin tuyên bố với một
nhóm người Mỹ mới đến: Tôi đã theo dõi những sự kiện xẩy ra ở Đông Dương một phần
tư thế kỷ nay, chưa bao giờ tôi hoảng về hiệu quả, sức mạnh và sự hoàn bị về kỹ
thuật của bộ máy tuyên truyền của Hà Nội. Thật có một không hai trong lịch sứ.
Martin khẳng định rằng những nhóm hòa bình khác nhau ở Hoa Kỳ
phục vụ trực tiếp cho việc lật đổ lớn ấy. Người ta giục ông chứng minh mối quan
hệ trực tiếp giữa những nhóm hòa bình với những tổ chức cộng sản ở nước ngoài.
Ơ Sài Gòn, CIA phí công vô ích tìm chứng cứ trong hồ sơ không có gì cả. Nhưng
Martin vẫn giữ nguyên ý kiến của mình và cam đoan rằng có một mối quan hệ tư tưởng
giữa những người hòa bình và những người cộng sản, họ đều có ý muốn chung là
đánh đổ chế độ Sài Gòn. ông kết tội cả giới báo chí Mỹ đã tham gia tích cực vào
âm mưu ấy. Mấy tuần sau khi Sài Gòn thất thủ, ông viết trên tờ báo Times rằng
những đồng nghiệp cũ của ông, những người viết báo, phải chịu trách nhiệm một
phần về những sự chia rẽ ở Hoa Kỳ đã làm cho nước này co mình lại trong mấy năm
qua.
Vụ đổ vỡ Watergate làm cho ông càng củng cố thêm ý kiến là giới
báo chí vừa độc ác, vừa có nhiều ảnh hưởng. Đối với những đồng nghiệp ở bộ ngoại
giao, ông cho rằng họ chỉ là những người nhút nhát đáng xấu hổ. Trước khi đi
Sài Gòn, Martin còn nhận định là không có một ai ở Hoa Thịnh Đơn biết giữ bí mật.
Do đó, vừa đến sứ quán, ông ta đã ra lệnh hạn chế việc phổ biến tin bí mật có
thể làm hại "khách hàng mới của ông. Mọi tin tức về người Nam Việt Nam phạm
sai lầm đều được xếp ngay vào hồ sơ tối mật để hạn chế việc gửi sang Hoa Thịnh
Đốn. Đôi khi, ông chỉ nói là cấm phổ biến, rất đơn giản. ông cũng đòi những bản
báo cáo của sứ quán phải rõ ràng, ngắn gọn, để sau nay dễ loại bỏ những phần
không có lợi. Thí dụ muốn thành lập một hồ sơ về một nhân vật Nam Việt Nam tham
nhũng, phải có nguồn tin thật chính xác. Nhân vật càng ở cấp cao, nguồn tin
càng phải thật chính xác. Do đó, Hoa Thịnh Đốn ít khi biết được những việc lạm
dụng của giới lân cận Thiệu. Martin củng cố ngăn ngừa việc làm cố chấp của các
nhân viên trước đây đã từng làm hại đến sự nghiệp của Hoa Kỳ. Trong một bức điện,
ông nói rõ rằng; yêu cầu mỗi người trong sứ quán và những bạn đồng nghiệp ở Hoa
Thịnh Đốn, không nên quá để tâm vào những nhận xét về tư cách các nhà chính trị
Nam Việt Nam. Theo ông, phải chấp nhận cái xã hội này với mọi thói xấu của nó.
Ít lâu sau, trong một thông báo gửi Hoa Thịnh Đốn, ông đã viết nhẹ đi rất nhiều
về những tội lỗi của giới cầm quyền và chỉ huy quân đội Nam Việt Nam. Ông viết:
mức độ tham nhũng phổ biến ở Nam Việt Nam cũng gần giống như mức độ tham nhũng ở
bang Massachusetts và thành phố Boston trong những thập kỷ của đầu thế kỷ này.
Chúng tôi đã đối phó, nhưng không thể chấm dứt sớm được. Sự lạc quan của
Martin, quan điểm riêng của ông trở thành quan điểm nổi bật của sứ quán. Đại sứ
biết Việt Nam rất ít. Một mình làm việc trong phòng, ông dành hàng giờ để
nghiên cứu những tập hồ sơ rồi rút ra kết luận của mình. Trừ tổng thốngThiệu,
ông gặp một vài lần vào cuối tháng, còn ông ít đến thămnhững người Nam Việt
Nam. Một người bạn ông nói: Graham cóvẻ coi những người Nam Việt Nam như những
con tốt trên bàn cờ.
Một hôm, ông nói với tôi: "Tôi là một người theo
Jefferson. Chúng ta phải đối xử với người Việt Nam như Jefferson đã dạy chúng
ta cách đối xử với đồng bào. Xen vào công việc của họ càng ít càng tốt Nhưng
sau khi Sài Gòn thất thủ, ông đã thổ lộ với một đồng nghiệp ở bộ ngoại giao:
Chưa bao giờ ông tin người Nam Việt Nam cả, làm như họ thua trận là họ đã phản
lại ông.
Martin triệt để lợi dụng sự tín nhiệm của tổng thống Nixon để
tỏ rõ quyền lực. Ông từ chối chưa đi Sài Gòn vội chừng nào mà Nhà Trắng chưa
dành cho một máy bay riêng. Trong những buổi họp hoặc thảo luận với nhân viên,
ông không ngừng nhắc lại rằng cấp trên duy nhất của ông là Kissinger. Do đó,
khi đón tiếp vị bộ trưởng ngoại giao, ông ta để ông này ngồi bên trái mình.
Việc bất chấp phép tắc lễ nghi đã nhanh chóng gây nên nhiều
cuộc xung đột với giới ngoại giao và quân sự. Trước và khi đến Sài Gòn, ông đã
bất hòa với đô đốc Noel Gayler, tổng chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương. Ông cho rằng
lão già ở biển này chưa thật kính trọng ông. Tướng Murray cũng có vấn đề phép tắc
lễ nghi với Martin. Mỗi tháng một lần, tướng Murray tổ chức một buổi họp ngắn với
các quan chức cao cấp của sứ quán và một buổi họp với nhân viên CIA. Murray nói
lại với tôi: "Martin chỉ đến dự phiên họp đầu tiên, sau đó không đến nữa.
Một người cộng tác với tôi cho biết lý do là vì trong khi tôi
làm chủ tọa buổi họp, tôi lại mời Martin ngồi bên phải tôi. Tôi nói với
Francis: trời ơi, lần sau tôi sẽ mời ông ta ngồi lên ngai vàng. Nhưng Martin
không đến dự nữa!
Martin chú trọng đến phép tắc lễ nghi chủ yếu vì chiến thuật.
Ông ta đang có một đồng minh lúc nào cũng lo lắng và cần được sứcmạnh và uy tín
của Hoa Kỳ che chở. Vì viện trợ tài chính và quân sự ngày càng giảm nhiều, nên
Martin muốn tỏ rõ sự ủng hộ của nước mình, không có cách nào khác là nêu bật
oai quyền riêng.
Bản thân sứ quán cũng cần có một thủ trường vững vàng và
không khoan nhượng. Khi Martin đến, vẫn còn 9.000 viên chức Mỹ ở Việt Nam. Làm
thế nào để điều khiển một khối nhân viên đông và hỗn tạp như vậy, nếu không phải
là ý chí và uy tín!
Trong tất cả các bộ phận của sứ quán, bộ phận khó điều khiển
nhất là Phái bộ quân sự (Lầu Năm Góc phương Đông trước kia), với 400 nhân viên
quân sự, 50 cựu sĩ quan quân đội Hoa Kỳ và 2500 viên chức dân sự Mỹ làm hợp đồng.
Mùa Hè năm 1973, Nhà Trắng định giảm số nhân viên ở đây xuống mức thấp nhất.
Nhưng mặc dù có ngưng bắn, Martin đã phản đối kịch liệt ý kiến này. Ông cho rằng
văn phòng của tùy viên quân sự rất cần cho sự sống còn của chế độ Sài Gòn và cơ
quan thông tin của nó sẽ bổ sung và đối chiếu với cơ quan tình báo CIA. Ông
cũng cho rằng phái bộ quân sự rất cần đối với ông để kiểm tra người Nam Việt
Nam. Tuy chắc chắn là sẽ điều khiển được Thiệu và bộ sậu của hắn. Nhưng ông vẫn
cho rằng nhà binh thường kính trọng nhà lính nên ông đề nghị với tướng Murray
và bộ tham mưu của tướng này nắm chặt giới quân sự Nam Việt Nam.
Dưới sự chỉ đạo của Martin, phái bộ quân sự giữ nguyên sức nặng
của nó, ít nhất là trong 18 tháng đầu sau khi ngưng bắn. Đại sứ cũng nghĩ đến
quyền lợi bản thân và quyền lợi của bọn tay chân người Nam Việt Nam. Nhưng việc
đó chỉ đem lại hậu quả tai hại. Do sự phụ thuộc quá nhiều của sĩ quan bộ chỉ
huy tối cao Nam Việt Nam vào các cơ quan của tướng Murray nên quân đội Nam Việt
Nam không thể có một sáng kiến nào, ngay dù chỉ là một sự cảnh giác đơn giản.
Trong những tuần đầu Ở Việt Nam, Martin dành nhiều thời gian tìm hiểu Murray.
Những khó khăn ông gặp phải ởThái Lan với tướng Stillwell làm ông nghi ngờ các
tướng lĩnh.
Về mặt nghiệp vụ, Murray có vẻ là người tinh thông. Anh ta có
vóc nhỏ bé, khô khan nhưng ham làm việc như viên đại sứ.Trong nhiệm kỳ trước ở
Việt Nam, Murray đã chứng tỏ là người có tài. Một hạ cấp của ông cho ông là người
sử dụng giỏi vũ khí nặng, chuyên gia về nghệ thuật cung cấp, trong một thời
gian kỷ lục có thể tiếp tế đủ vũ khí đạn dược của Mỹ vốn đã thiếu, cho một đơn
vị Nam Việt Nam cũng thiếu. Đó là đặc tính cần thiết, đối với đại sứ, vì sự sống
còn của chế độ Sài Gòn tùy thuộc vào làn sóng tiếp viện không ngừng từ Hoa Kỳ
sang.
Nhưng do tình hình nên tướng Murray chưa phải là người lý tưởng
của đại sứ. Một cộng tác viên của đại sứ nhận định: tướng Murray không phải là
một con người kiên trì. Chịu lắng nghe người khác, tinh thông nghiệp vụ, uyên
bác. Bậc thầy trong nghệ thuật trình bày có hình ảnh nhưng thiếu kiên trì. Do
đó, Martin không tin ông ta lắm nhưng đã làm ngơ trước khuyết điểm đó để sử dụng
mặt ưu điểm vào một công việc đang cần. Để cho tùy viên quân sự khỏi quên rằng
chính Martin mới là thủ trưởng nên đại sứ đã dùng mọi mánh khóe ông ta sàng lọc
được ở Bangkok. Sau khi đến Sài Gòn ít lâu, ông cử một trong những cộng tác
viên trung thành đến làm việc ở Bộ tổng tham mưu tại Tân Sơn Nhất để theo dõi
tướng Murray. Sau này, Murray nói: "Martin cho rằng tôi viết nhiều báo cáo
mà không cho ông biết. Martin luôn luôn làm cho người này chống lại người kia,
để không một ai có thể đủ uy quyền về một vấn đề nào. Ông ta chỉ nói chuyện
riêng với tôi, không có vấn đề gì khác. Không khi nào tôi biết được chuyện gì
đã xảy ra ở sứ quán trừ việc tôi báo cáo với Martin điều ông ta nói với tôi.
Giữa cơ quan của Murray và cơ quan CIA, hai tổ chức trụ cột của
sứ quán, Martin mau chóng phân công rõ ràng để cơ quan này không giẫm chân lên
cơ quan kia.
Để kiểm tra Murray tốt hơn, đại sứ tuyển nhiều người trung
thành ngay trong giới thân cận viên tướng này. Một trong những người ấy là viên
sĩ quan tình báo đại tá Bill Legro, sau trở thành người chỉ huy mọi hoạt động của
cơ quan. Từ bộ binh đến, đã chiến đấu ở Việt Nam, Legro là một người bình tĩnh,
kín đáo. Trước hết đó là một người lính tốt, tôn trọng kỷ luật, thi hành kỷ
cương chu đáo. Dần dần, Martin dành được lòng tin của Legro và sử dụng anh ta để
gây ảnh hướng, điều khiển cả Phái bộ quân sự.
Chỉ huy tình báo Legro cững là người lý tưởng để chống lại
CIA. Khi quan điểm của CIA khác xa quan điểm cưa đại sứ, bao giờ Legro cũng
theo ngay quan điểm của đại sứ và gửi báo cáo về Hoa Thịnh Đốn theo tinh thần ấy.
Nhận định tình hình của Legro cũng giống như nhận định của đại sứ. Là cựu chiến
binh, Legro biết rõ khả năng của người Bắc Việt Nam. Do đó, anh ta có xu hướng
công nhận và còn đánh giá cao sức mạnh của họ. Những điều phân tích của anh đã ủng
hộ mạnh mẽ những đơn vị xin viện trợ quân sự bổ sung của Martin trình lên Quốc
hội. Mấy tuần sau khi Martin đến Sài Gòn, Legro đã dự đoán cuộc tiến công ồ ạt
của quân đội Bắc Việt Nam trong những tháng sắp tới. Việc đó làm cho Martin hết
sức vui lòng.
Ngoài những diều phân tích của Legro, Martin còn đòi Phái bộ
quân sự phải có một màng lưới tình báo dân sự ở khắp trong nước để cung cấp tin
tức về quân đội Nam Việt Nam. Màng lưới này do đại tá Ai Weidhas chỉ huy, chỉ
được Lầu Năm Góc ủng hộ và phần lớn dẫm chân lên công việc của CIA. Đó đúng là
mục đích của Maltin. Nhiệm vụ của Weidhas cũng như của Legro là làm trái với
giám đốc CIA.
Martin đào tạo nhân viên dân sự, nhằm những mục đích tương tự
như đào tạo nhân viên ở Phái bộ quân sự. Ông ta không muốn chung quanh mình có
người có thể nói trái ý ông hoặc cản trở ông. Những người dưới quyền phải là
Martin con, nhất là những tùy viên hay cố vấn.
George Jacobson, 62 tuổi, một người còn lại của ê kíp Bunker,
đã phục vụ ông hết sức trung thành. Là quan chức đã làm việc dưới bốn thời đại
sứ khác nhau ở Việt Nam, "Jake" là máy nhớ của sứ quán. Trong 15 năm
trước ở Sài Gòn, ông đã góp công sức vào việc thực hiện chương trình bình định.
Ông quen biết hầu hết người Việt Nam quan trọng trong chính phủ.
Martin cử ông ta làm người giúp việc, hoạt động thực tế. Với
một ê kíp nhỏ. Ông chịu trách nhiệm về những nhà canh nông ở rải rác khắp nước
này. Không phải là một chức vụ quan trọng vì ông cùng chịu trách nhiệm với 4
lãnh sứ quán ở ngoài Sài Gòn – nhưng ông đã tỏ ra rất có ích cho đại sứ. Bao giờ
ông cũng theo lệnh của Martin, bao giờ cũng phải cúi đầu trước ý kiến của
Martin.
Trong nhiều buổi họp với các nhân viên hoặc nghe báo cáo, tôi
quan sát Jacobson: ông ngồi yên lặng, lắng nghe không chút phản ứng, đại sứ nói
một cách ngây thơ về nền an ninh đã được khôi phục ở đồng bằng. Chuyên gia về
bình định, Jacobson biết rõ tình hình ấy. Nhưng sau này, ông phải trả giá đắt
vì tiếp tục làm việc dưới quyền Martin.
Một nhân viên kỳ cựu ở Việt Nam, Josiah Bennett cũng được
Martin che chở. Đó là một người mảnh như sợi chỉ, đã tỏ ra dũng cảm trong cuộc
tiến công năm 1968 của cộng sản, hồi anh ta làm cố vấn ở tỉnh. Một số người biết
anh cho rằng đại sứ không thích anh lắm, nhưng họ quên rằng Martin rất chú trọng
đến quyền lợi riêng. Khi những người cộng sản chiếm được Trung Quốc cuối những
năm 40, Bennett là một viên chức trẻ của bộ ngoại giao ở Trùng Khánh. Hoàn cảnh
đó tạo cho anh trở thành người chống cộng kịch liệt. Không những Martin đánh
giá cao thái độ ấy mà còn định khai thác tối đa khả năng của Bennett. Ông ta
cho anh làm cố vấn chính trị, tức là người thứ ba trong bộ tham mưu của ông và
ông ủy quyền cho anh duyệt lại nội dung và hình thức những báo cáo của sứ quán.
Trong 18 tháng tiếp theo, Bennett làm tròn nhiệm vụ đúng như yêu cầu của
Martin. Anh dành phần lớn thì giờ để sắp xếp lại những bản báo cáo về tội ác,
đưa cho Martin gửi cho một số đại biểu quốc hội và cất giữ ở bộ ngoại giao, nơi
ra chỉ thị cho chính phủ Nam Việt Nam. Anh cũng hiểu nhanh ý định của đại sứ. Đầu
năm 1974, một viên chức ngoại giao trẻ định xin phép gửi về một bản báo cáo tố
cáo tệ tham nhũng trongchính phủ Thiệu, Bennett phản đối vì, như anh viết trong
lời giải thích: "Tôi không biết Hoa Thinh Đốn sẽ làm gì với tài liệu ấy,
nhưng nó có thể rơi vào tay nhà báo Jack Anderson, ông này có thể cho đăng ngay
không cần biết hậu quả".
Cơ quan khó điều khiển nhất sứ quán chắc chắn là cơ quan chịu
trách nhiệm về báo chí, “hắc thú” của Martin. Sở thông tin Hoa Kỳ (USIS) đã cử
nhân viên của mình sang Sài Gòn. Thủ trưởng cơ quan này là Alan Carter, không
phải là người của Martin và hơn thế, không đồng ý với nhận định xấu xa về giới
báo chí của đại sứ.
Vui vẻ không nói nửa miệng, khác với Martin, Carter tán thành
việc tiếp xúc thật thà và trực tiếp với các báo và phản đối việc coi báo chí là
kẻ thù. Nhanh chóng anh bị bỏ rơi, không được dự các buổi họp nội bộ do đại sứ
chủ tọa, không được xem các điện gửi đến. Còn đại sứ thì ra lệnh tất cả các câu
hỏi của giới báo chí, đều phải đưa cho John Hogan, một nhân viên kỳ cựu dưới thời
đại sứ Bunker. Hogan được giữ lại làm việc vì đã tâng bốc những ý kiến của
Martin. Chính Hogan - nghề chính là viết những bài hát - được giao nhiệm vụ thảo
những bài đả kích cay độc của đại sứ chống giới báo chí.
Trong tất cả các nhân viên ở sứ quán, người nguy hiểm nhất đối
với Martin là Tom Polgar, thủ trưởng của tôi. Ông có những nguồn tin độc lập và
điều khiển một cơ quan mạnh và tự trị, không có gì để phải sợ bản thân đại sứ.
Ông cho rằng chi nhánh CIA đã cung cấp những tin tức rất có lợi cho Martin và
chính Martin nợ Polgar chứ không phải ngược lại.
Tuy vậy, trong các nhân viên cao cấp ở sứ quán, chính Polgar
lại là người tỏ ra kính trọng và phục Martin nhất. Ông có những lập luận như đại
sứ, cũng chống cộng và ham thích việc nghiên cứu, phân tích tin tức. Mặc dù hai
người có nhiều điểm không giống nhau và có khi chống đối nhau nhưng cuối cùng,
hai người trở thành hai con ngựa của một cỗ xe, rất hợp nhau.
Nhận xét đầu tiên của tôi đôi với Polgar vẫn còn in trong trí
nhớ: Về hình thức, ông không phải là người có thể làm lu mờ tiếng tăm của đại sứ:
bé, lùn, có dáng đi của một người bán thịt với những cánh tay lực lưỡng, ông giống
như một đứa bé lớn quá khổ chứ không phải là "người giúp việc riêng cho đại
sứ" như chức vụ của ông. (Tôi đã viết như thế trong cuốn sổ tay sau khi
tôi gặp ông). Mặt tròn, xoa kem, mũi dày, đeo kính gọng to, vuông, tóc thưa dựng
đứng trên vành tai như những cái gai. Khi vào phòng làm việc của ông, cái đầu
tiên phải chú ý là cái bàn bằng gỗ sến rất rộng kê ở đầu gian, giống như một
con rùa đang mơ màng.
Ở phòng này có đủ đồ đạc đành cho các vị thủ trưởng, một ghế
xô pha, mấy ghế tựa kê rải rác. Trên tường, có một bức tranh đáng chú ý. Đó là
bức phác họa một Việt cộng đâm ngọn giáo vào một con voi trong khi có một Việt
cộng khác đang giơ cao một cái búa lớn định đập nát đầu con thú. Dưới bức
tranh, có chú thích: "Cuộc tiến công cuối cùng của Việt cộng: pháo binh nặng".
Một tượng trưng về sự châm biếm của Polgar.
Nhân vật kỳ cựu này không bao giờ tiếp cộng tác viên của mình
ở cửa phòng làm việc. Người ta nói với tôi, thỉnh thoảng, có một người quan trọng
đến thăm, ông lẳng lặng đi vào phòng, giơ tay ra, không nói một lời. Đối với
chúng tôi, cuộc đón tiếp được qui định như một cuộc vũ ba lê và làm cho chúng
tôi phải hiểu thứ bậc trên dưới. Thoạt tiên, vào phòng đợi, chờ mỏi mắt. Ở đây,
có hai thư ký luôn luôn chế nhạo sự sốt ruột của chúng tôi. Sau đó mới được vào
gặp thủ trưởng. Nhưng phải đứng khúm núm, cách xa bàn giấy, giống như một con
rùa. Lão ta đang chúi đầu vào nghiên cứu một hồ sơ cực kỳ mỏng. Lão ngẩng mặt
lên, nhìn anh bằng một ánh mắt ngờ vực. Lưng ghế tựa bao phủ lên vai tròn của
lão như những cánh chim bằng da. Sau một lúc chờ đợi - buổi tiếp nào cũng diễn
ra như thế - lão thở một cái lấy tay xoa mũi rồi lên giọng: "Ông muốn
gì?". Những tiếng ấy được nói với giọng người Trung Âu (bắt chước đúng giọng
nói của Kissinger) nhằm vào anh như một lời trách móc. Anh cố giải thích. Lão cắt
lời anh: "Ồ, phải, tôi biết rồi, ồ, phải, tôi có nhớ”. Rồi lại ngừng. Mắt
nhìn đăm đăm vào tập hồ sơ, lại thở, lại xoa mũi. Sau cùng lão đứng dậy. Mắt
nhìn vào tập giấy cầm trong tay, lão đến chiếc ghế dài. Ngồi chắc chắn đâu đấy
rồi lão mới ra hiệu cho anh ngồi xuống một ghế tựa thẳng đứng. Cuộc nói chuyện
bắt đầu.
Tom Polgar sinh Ở Hunggari, trong những năm 20, gốc nông dân.
Như nhiều người đồng hương của lão, lão thích ruộng đất. Nhưng vì là người Do
Thái và nói giọng lơ lớ nên khi thấy bóng nước Đức của Hitler bắt đầu tỏa sang
phía Đông, lão quyết định xây dựng tương lai ở nơi khác. Đầu những năm 30, trốn
sang phương Tây và đi Mỹ. Trong những chuyến đi này, lão bập bẹ học nhiều thứ
tiếng nhưng không thành thạo một thứ tiếng nào và không giấu được giọng
Hunggari. Nhưng trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Mỹ tuyển tình báo
viên, đã đồng ý chấp nhận Polgar vì nói được nhiều thứ tiếng. Nhập ngũ rồi, lão
được đổi đến cơ quan tình báo Office of Strategic Service, được đào tạo để trở
thành một nhân viên phản gián, được thả dù xuống sau hàng ngũ quân Đức, trong
túi chỉ có một tấm thẻ đảng viên Đảng Nadi để tự vệ.
Sau chiến tranh, nhờ trẻ và hăng, Polgar leo rất nhanh trên bậc
thang cấp bậc của cục tình báo Trung ương Mỹ CIA lúc ấy đang phát triển. Nhờ biết
nhiều thứ tiếng, rất nhanh, lão được bổ nhiệm là người phó chính cho tướng
Lucian Truscett, một vị anh hùng của chiến tranh thế giới thứ hai, trong những
năm đầu của thập kỷ 50, trở thành giám đốc CIA ở Cộng hòa Liên bang Đức. Đây là
một chi nhánh rất quan trọng, có tới 1000 nhân viên. Làm việc với Truscett,
Polgar trổ hết tài năng tổ chức và nhờ đó, đã thành đạt một cách vẻ vang. Sau
nhiệm kỳ ở Cộng hòa Liên bang Đức, lão nhận nhiều chức vụ khác, ở đâu cũng được
cấp trên chú ý. Cuối những năm 60, Polgar được làm giám đốc CIA Ở Achentina. Ờ
đây lão gặp một bước ngoặt tàn nhẫn và không ngờ. Một bọn người Mỹ ăn cướp máy
bay, hạ cánh xuống sân bay Buenos Aires để lấy dầu. Người ta đề nghị Polgar
thuyết phục chúng thả những con tin. Polgar kể lại với tôi việc ấy như sau:
"Rất đơn giản. Những kẻ cướp máy bay bắt đầu nóng nực vì ở trong ấy không
có máy điều hòa không khí. Tôi cho đem côca côla đến, trong đó tôi đã bỏ thuốc
mê. Chúng uống xong, nằm lăn ra, thế là tôi lên máy bay, tước hết súng".
Trước nhiều bạn đồng nghiệp và thủ trưởng, Polgar được coi là một anh hùng. Ít
lâu sau, người ta cử lão đến một trong những nơi quan trọng và khó khăn nhất của
CIA, đó là trùm CIA ở SàiGòn. Trước đó, lão chưa hề bước chân đến châu Á.
Do giọng nói và nguồn gốc nên Polgar lúc nào cũng cảm thấy xa
lạ đối với các nhân viên CIA và lúc nào cũng phải tỏ ra hiểu biết nhiều về kiến
thức cũng như trên thực tế. Theo lão, nhân cách của Kissinger đứng về một mặt
nào đó, cũng quan trọng như chính sách của ông vì giọng nói và nguồn gốc của
Kissinger cung cấp cho Polgar đủ chứng cớ để tỏ rõ rằng người nước ngoài có thể
thành đạt trong giới thượng lưu của nền ngoại giao Hoa Kỳ.
Polgar lúc nào cũng giữ gìn, cố gắng tránh xa những người
khác, có lẽ vẫn mặc cảm mình là người nước ngoài. Nhưng lại thoải mái với các đồng
nghiệp dưới quyền vì họ không thể làm hại lão được. Còn ngoài ra, ít gần ai.
Do những đặc điểm riêng ấy, Polgar giao thiệp dễ dãi với những
người Việt Nam. Trong xã hội Sài Gòn, những vị tướng và chính trị gia giữ chức
vụ nổi tiếng chỉ có khoảng độ 12, 13 người. Polgar lấy làm thú vị đến chơi với
họ. Có lẽ với giới này, lão được nể nang hơn là với những người Mỹ. Người Việt
Nam cũng lấy làm hãnh diện được Polgar đến thăm. Nhưng có phải vì thế mà quyền
lợi của Hoa Kỳ được bảo vệ tốt hơn không? Đó là một vấn đề khác. Đến thăm những
người có thế lực ở Sài Gòn. không hiểu Polgar có phần nào giảm mất đầu óc nhận
xét không, hay lại tin những điều họ nói. Ngay cả khi Polgar biết rằng họ chỉ
nói vì lợi ích của họ mà thôi? Những bản báo cáo của Polgar gửi cho HoaThịnh Đốn
về những nhân vật này, chưa bao giờ đúng tới mức như lão tưởng.
Cách đối xử của Polgar, cũng như tính châm biếm của lào đều nặng
nề như nguồn gốc của lão. Có lần lão bỏ một buổi biểu diễn hài hước rẻ tiền; nếu
có người dám phê bình và tỏ ra nghi ngờ ý kiến của lão thì lão thẳng tay bác bỏ.
Polgal thường bảo chúng tôi, khi nói về những đại biểu tự do trong quốc hội.
"Không bao giờ nên đấu với những con lợn. Chúng thấy thích thú trong cuộc
đấu ấy nhưng còn các anh thì chỉ làm bẩn mình".
Nếu có thể tin được một trong những người đã cộng tác lâu với
Polgar thì theo anh ta, Martin và Polgar bí mật ghét nhau cũng vì những nguyên
nhân nói trên. Polgar là một người Hunggari di cư, về mặt xã hội, lẽ đương
nhiên là ghét cái mà Martin đại diện. Còn Martin luôn luôn tỏ ra là con người
quí tộc miền Nam nước Mỹ, có vẻ khinh bỉ Polgar về nguồn gốc và tham vọng của
lão. Martin một hôm nói với tôi: "Sai lầm lớn nhất của Polgar là sự kiêu
căng quá đáng của anh ta". Không còn nghi ngờ gì Polgar cũng có một nhận
xét như thế đối với Martin.
Tuy vậy, Polgar cũng phục Martin về nhiều tài năng của ông
này - nhất là về nghệ thuật viết và nói văn hoa. Polgar vốn thường dùng lời nói
như một vũ khí, một cái mộc, đã khen ngợi đại sứ là người khéo chơi chữ hơn ai
hết.
Trong những buổi họp vào chiều thứ năm, Polgar thường thích
thú đọc to những bức điện của đại sứ. Đọc xong những câu lão cho là hay nhất,
lão bình luận: con người này là một khẩu súng. Một khẩu súng!"
Polgar làm việc đúng như điều người ta dạy lão. Được đào tạo
làm phản gián cho nên lão quan niệm hoạt động chính trị nghĩa là sử dụng tin tức
và con người. Việc đó lão làm rất thoải mái, tự nhiên. Nhưng cũng như nhiều tay
tình báo chuyên nghiệp khác,lão có vé quá thuộc những bài học. Tài năng trở
thành bản năng và do những nhân viên của Martin thúc đẩy nên lão dã sử dụng tài
năng của mình đối với bất kể mục tiêu nào, dù đó là HoaThịnh Đơn, Hà Nội hay
Sài Gòn.
Mấy tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, trong khi sứ quán cố gắng
xin quốc hội chuẩn y một viện trợ bổ sung, một trong những cộng tác viên của
Polgar gửi cho lão một bức thư, trong đó anh ta phàn nàn về giọng văn ngày càng
gay gắt của những bản báo cáo của CIA trái với ý định tốt của chúng tôi là cung
cấp cho Martin tài liệu tuyên truyền mà đại sứ cần dùng để gây ảnh hưởng trong
cuộc bỏ phiếu của quốc hội. Polgar thảo một thư trả lời tỏ rõ quan điểm của lão
về trách nhiệm: "Tôi đã biết lời phê phán của ông và muốn nói rõ thêm để
tránh mọi sự hiểu lầm có thể xảy ra đối với tôi là giám đốc chi nhánh. Tôi chỉ
huy một trong những cơ quan của tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Đại sứ là người đứng đầu
phái bộ và theo ý kiến của tổng thống Kennedy và những tổng thống khácnối tiếp
sau, đại sứ phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Mỹ ở nước này. Nếu đại sứ,
dù là ông Martin hay ông khác, bảo tôi cung cấp cái gì, tôi cố gắng thỏa mãn với
ông điều kiện là cái đó không có gì là không hợp pháp và không ảnh hưởng đến
trách nhiệm của tôi".Theo Polgar, không một ai trong chúng ta được vượt
quá mức mà chính sách, sự liêm khiết, sự biết điều và phần nào sự khôn ngoan
đòi hỏi. Về phần tôi, tôi không tán thành ý kiến giấu giếm sự thật viện cớ rằng
sự thật có thể bác bỏ một số nhận xét của chúng ta. Sự thật đôi lúc có thể gây
ra tranh cãi không thể buộc chúng ta không cung cấp nó.
Nhận xét ngắn này tóm tắt tất cả triết lý về nghề nghiệp của
Polgar và nhiều quan chức cao cấp của CIA. Không phải đơn thuần là một người
thu lượm tin mà là người tìm cách thuyết phục và hành động, cố gắng gây ảnh hưởng
đối với những người có quyền quyết định, dù họ là những ủy viên Bộ chính trị của
Hà Nội hay là những người to tiếng nhất trong quốc hội ở Hoa Thịnh Đốn. Đó là kết
quả lôgic kinh nghiệm của Polgar về những cuộc chiến tranh dù lạnh hay không,
trong ba thập kỷ qua, đồng thời đó cũng là một triết lý được Martin tán thành
hoàn toàn.
Quá khứ và nguồn gốc của Polgar cũng giữ một vị trí trong tác
phong làm việc của lão ở Việt Nam. Mặc dù chống cộng kịch liệt, lão cũng nhớ đến
Tổ quốc quê hương. Lúc phái đoàn Hunggari trong đoàn quốc tế kiểm soát quân sự
đến Sài Gòn, Polgar chú ý ngay đến phái đoàn này, như nghe tiếng gọi của dòng
máu.
Mới đầu, người ta ra lệnh ngay cho lão tiếp xúc với những người
Hunggari. Theo một qui tắc ngoại giao, tổng thống Thiệu chưa bao giờ công nhận
đại sứ Hunggari trong Đoàn đại biểu quốc tế. Martin cũng từ chối không cộng tác
với phái đoàn, mà để cho Polgar tiếp xúc, làm việc.
Người Hunggari có vẻ mừng. Họ biết rõ Polgar là giám đốc chi
nhánh CIA và họ quyết định khai thác triệt để mối liên hệ đặc biệt ấy, kể cả những
tin tức của Mỹ. Một năm sau ngày ngừng bắn, họ cử sang Sài Gòn nhiều cán bộ đặc
biệt dưới quyền điều khiển của Anton Tolgyes. Bề ngoài lấy danh nghĩa là cố vấn
chính trị của phái đoàn, thực tế, Tolgyes, 52 tuổi , là sĩ quan tình báo xuất sắc.
Là người Do Thái Hunggari, ông gia nhập Đảng Cộng sản. Ở Sài Gòn, ông có nhiệm
vụ chính là tranh thủ được trùm CIA.
Theo một nhận định phổ biến trong những cơ quan tình báo, những
người Đông Âu di cư thường là những người nhớ quê hương nhiều nhất, đặc biệt
hay xúc động trước những lời kêu gọi của tổ tiên. Tolgyes biết rõ điều
đó và ông đã lôi kéo Polgar. Thỉnh thoảng ông mời Polgar đi chơi, đi uống, trao
đổi kỷ niệm vế nước Hunggari thời xưa. Nhờ đó, dần dần, ông khám phá được nhược
điểm của Polgar đằng sau tấm áo cứng rắn: đó là tính kiêu căng mà ông có thể
khai thác triệt để một cách bền bỉ và khéo léo làm cho Polgar tin rằng lão và
Kissinger, nhờ quan điểm và quyền lợi giống nhau, có thể giải thích được vấn đề
Việt Nam không vui này.
Ở bộ tổng tham mưu CIA, những chuyên gia về vấn đề Liên Xô rất
cảnh giác đối với Tolgyes, đã báo cho Polgar biết phải cẩn thận. Nhưng hình như
Polgar đã quên mất cả ý nghĩa của việc dè chừng. Hoặc là lão không tin rằng một
người Hunggari lại định đánh lừa lão. Hay là Polgar tưởng mình cao tay hơn, có
thể đánh thắng Tolgyes trong trò chơi của ông. Dù sao, tháng này qua tháng
khác, quan hệ giữa Polgar và những người Hunggari ngày càng chặt chẽ. Một mối
tình hữu nghị đã ngăn cản Polgar dự đoán nhưng sự kiện sẽ xảy ra.
Những cuộc giao thiệp giữa tôi với Polgar cũng xoay quanh vấn
đề cá tính và nguồn gốc lão ta. Đúng hay sai, lão đều cho rằng tôi cũng có khả
năng sử dụng lời nói như đại sứ. Có thể lão coi tôi là một cái đệm trong quan hệ
giữa lão với Martin. Dù sao, tôi cũng là người miền Nam nước Mỹ quê ở Carolina
Bắc, như đại sứ, cùng nói một giọng giống nhau. Tôi còn là bạn thân với con gái
của Martin và có một kiểu cơ hội chủ nghĩa như ông. Một hôm Janet Martin thổ lộ
rằng tôi làm cho cô ta nhớ đến bố, tôi cho lời tâm sự ấy là một lời khen cực kỳ.
Cương vị của tôi đối với Polgar được qui định đầu tháng
8/1973. Ted Shackley, trùm chi nhánh CIA Sài Gòn trước Polgar, nay trở thành thủ
trưởng của Polgar vì được bổ nhiệm làm giám đốc ở Viễn Đông. Ông đến kiểm tra
Sài Gòn. Từ lâu, Shackley được coi là người vừa đáng sợ, vừa đáng yêu vì ông có
xu hướng viết rất cẩn thận, đúng như một máy tính và cách lập luận của ông làm
cho người ta tưởng ông sâu sắc. Thực tế ông không được như vậy.
Tôi đã làm việc dưới quyền ông trong nhiệm kỳ trước đó ở Sài
Gòn, tôi biết rõ ý thích của ông. Do đó, khi người ta bảo tôi báo cáo với ông
thì tôi bắt chước ông, dùng nhiều sơ đồ đường cong và những câu văn hay điểm
thêm những thống kê. Polgar xúc động đến mức quyết định dùng tôi ngay và phân
công tôi chịu trách nhiệm về việc tổng hợp tin.
Trong 18 tháng sau khi ngừng bắn, chính tôi đã viết tất cả những
bản báo cáo công tác của Polgar (hai bản ông ta viết lấy đều bị bộ tổng tham
mưu CIA vứt bỏ) và hầu hết những bàn thông báo riêng của ông gửi Hoa Thịnh Đốn.
Người ta cũng giao cho tôi chịu trách nhiệm về một trong những hoạt động tình
báo khó khăn của CIA ở Bắc Việt Nam. Và tôi có toàn quyền hỏi cung tù binh, những
kẻ đảo ngũ, những nhân viên tình báo để góp phần vào việc tìm hiểu thấu đáo hơn
ý đồ của Bắc Việt Nam. Tôi là người phát ngôn, cái bóng và cái chắn gió cho
Polgar, là một trong ba, bốn cộng tác viên mà Polgar có quan hệ mật thiết nhất.
Một số đồng nghiệp tưởng tôi trở thành con nuôi của ông ta.
Ê kíp nhỏ những người phân tích tin, trong đó có tôi dần dần
thay đổi, và công việc của tôi cũng khác đi, có tầm quan trọng hơn. Một số bạn
đồng nghiệp năng suất kém được trả về Hoa Kỳ và Polgar bắt đầu lựa chọn, tuyển
những người thay, theo đúng sự đòi hỏi của nghề nghiệp. Người được bổ nhiệm đầu
tiên là bà Pat Johnson, một phụ nữ tóc hung, vợ một quan chức cao cấp trong chi
nhánh. Không phải là người biết phân tích, cũng không phải là chuyên gia về Việt
Nam, Pat có một nghề chuyên môn làm cho Polgar phải chú trọng. Là nhân viên CIA
20 năm nay, bà ta biết mọi cái về cóng tác phản gián. Đối với Polgar, đó là một
mưu sĩ.
Thoạt tiên, Pat và tôi không hiểu nhau. Theo tôi, bà ta quá bảo
thủ. Còn bà, xoi mói công việc của tôi hơi nhiều. Tuy vậy, bà có một đức tính
giúp ích rất nhiều cho cả hai chúng tôi: lòng chính trực không lay
chuyển. Những lời trách mắng, phê phán của bà làm tôi luôn nhớ đâu là sự thật
và tính ngay thắng, trong khi đó, càng ngày tôi càng bị thu hút vào luồng gió
cuốn của đại sứ Martin.
Sống nhờ viện trợ
Lúc Quốc hội Mỹ bỏ phiếu đình chỉ ném bom Campuchia, giữa mùa
hè 1973, thì Thiệu không hiểu nổi cái gì đã và sẽ xảy ra.
Mấy ngày sau phi vụ B.52 cuối cùng, một vị khách đến an ủi
Thiệu, đó là Sir Robert Thompson, một chuyên gia kỳ cựu chống cách mạng của nước
Anh, đước Nhà Trắng cử đến Sài Gòn. Không úp mở, ông khẳng định với Thiệu rằng
Nixon sẽ tìm cách thay đổi quyết định của Quốc hội về việc đình chỉ ném bom.
Tin tưởng, một lần nữa, Thiệu quyết định, tỏ rõ cho người Mỹ
biết ông là người xứng đáng được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Mùa Hè sắp đến. Thiệu cho mở
nhiều cuộc hành quân rộng rãi để đuổi những đơn vị Bắc Việt Nam ra khỏi căn cứ
của họ ở vùng đồng bằng và dọc biên giới Campuchia, phía Bắc Sài Gòn.
Nhưng mục đích chính của cuộc hành quân ấy là xóa bỏ những mối
nghi ngờ mà người Mỹ có thể có đối với khả năng của ông ta.
Trước sự lấn chiếm vùng giải phóng một cách trái phép của
quân đội Sài Gòn, vi phạm những qui định của hiệp định Paris về Việt Nam, Hà Nội
quyết định mở những cuộc tiến công một cách khôn khéo. Trong mấy tháng sau,
quân Bắc Việt Nam không đánh quân Nam Việt Nam mà nhằm tiến vào những vùng yếu
nhất, có nhiều quyền lợi tài chính. Đánh chớp nhoáng, đánh chiến thuật để làm yếu
nền kinh tế và gây hoang mang trong những người định bỏ vốn ra kinh doanh. Ngày
6 tháng 11, sau quyết định trên ít lâu, khoảng một sư đoàn quân đội Bắc Việt
Nam mở cuộc hành quân chiến thuật đầu tiên, tiêu diệt ba vị trí tiền tiêu ở
phía Tây Bắc Sài Gòn. Nixon có cho máy bay B.52 ném bom không? Lệnh cấm ném bom
có được duy trì không? Hai mươi bốn giờ sau ai cũng biết.
Có sự trùng hợp là lúc ấy quốc hội Mỹ đang tranh luận gay gắt
về việc hạn chế quyền của tổng thống sử dụng lực lượng quân sự. Ngày 7 tháng
11, hạ nghị viện cũng như thượng nghị viện đều bác bỏ phủ quyết của tổng thống
và thông qua luật đặc biệt nói rõ những hạn chế. Luật về quyền trong thời chiến
nói rõ rằng: không được quốc hội chuẩn y thì tổng thống không được cho lực lượng
Hoa Kỳ tham chiến quá 60 ngày. Người Bắc Việt Nam biết rất rõ quyết định này và
chính sách bất lực của Nixon.
Trong khi đó, các cơ quan tình báo Mỹ theo dõi chặt chẽ những
người chịu trách nhiệm chính trị của Hà Nội. Trong một hay hai tuần sau khi họ
mở cuộc tiến công chiến thuật, chúng tôi nhận được hàng lô báo cáo của nhân
viên. Những người này đều nói rằng quân đội Bắc Việt Nam ở miền Nam không thể
nhận được đủ vũ khí đạn dược trong sáu tháng tới để có thể mở một cuộc tổng tiến
công trên khắp nước.
Tuy chỉ là thắng lợi vừa phải, nhưng cuộc tiến công chiến thuật
đã nhằm đúng gót chân Achille của Sài Gòn, đó là nền kinh tế. Trong những tháng
sau ngừng bắn, trên thị trường Nam Việt Nam, giá cả tăng 65%, số người thất
nghiệp tăng lên vùn vụt, sau khi người lính Mỹ cuối cùng ra đi. Viện trợ kinh tế
của Hoa Thịnh Đốn giảm nhiều do lạm phát trên thế giới. Điều bi đát sắp tới nữa
là do chiến tranh ở Trung Đông, do cấm vận dầu lửa nên giá vàng đen của các nước
A rập tăng gấp bốn lần. Điều làm phức tạp thêm vấn đề là viện trợ quân sự của Mỹ
cho Sài Gòn giảm đi. Cuối tháng 12, tướng Murray, tùy viên quân sự ở Sài Gòn,
được Lầu Năm Góc báo là quốc hội đã hạ số tiền viện trợ mới đây cho chính phủ
Sài Gòn xuống còn khoảng một tỷ đôla, nghĩa là ít hơn nhiều với số tiền xin.
Thất vọng, Murray đề nghị Martin cho phép cho người Nam Việt
Nam biết việc giảm bớt viện trợ để cho họ tiết kiệm hơn, Martin phản đối, ông sợ
rằng lời thú nhận ấy sẽ làm nản lòng Thiệu và các tướng lĩnh của hắn và giảm
sút quyền lực chính trị của ông đối với bọn họ.
Trong khi Sài Gòn ngày càng lún sâu vào Cuộc khủng hoảng tài
chính thì Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao lại lo những vấn đề rất chung. Tháng 9, giữa
làn sóng ngầm Watergate, Kissinger thắng William Rogers và làm bộ trưởng ngoại
giao. Tháng sau, chiến tranh ở Trung Đông tái diễn, Kissinger bận túi bụi trong
một cuộc khủng hoảng lớn. Mặc dầu ông làm cho hai bên đi đến chỗ ngừng bắn
nhưng còn phải dàn xếp, mở những cuộc thương lượng tiếp theo để tránh một cuộc
cấm vận dầu lừa A rập. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề Việt Nam có vẻ chỉ là một cốc
bia nhạt.
Nhưng về phía mình, Graham Martin không để yên, ông liên tiếp
gọi dây nói cho Hoa Thịnh Đốn. Ông kêu cứu, đòi phải giải quyết cuộc khủng hoảng
tài chính ở Sài Gòn. Đặc biệt, ông nêu ý kiến Hoa Kỳ nhờ nước Pháp giúp đỡ, có
thể đi đến ngừng bắn ở Campuchia bằng cách khôi phục lại cựu hoàng đế Norodom Sihanouk
đang tị nạn ở Bắc Kinh sẽ bắt buộc phải giúp đỡ Campuchia, nhờ đó, ngân sách Mỹ
dành cho nước này sẽ được chuyển sang Nam Việt Nam.
Kissinger không đồng ý. Ông ta ghét Sihanouk, sợ rằng nếu giảm
viện trợ cho người cai trị Campuchia lúc này là LonNol thì sẽ bị thế giới hiểu
lầm đó là một dấu hiệu yếu đuối của Mỹ.
Martin đề nghị mở những cuộc thương lượng mới với Bắc Việt
Nam để chấm dứt những cuộc đụng độ ngay trong việc ngừng bắn, Kissinger tán
thành ý kiến đơn giản này . Ngày 20 tháng 12. ông bay đi Paris, có Martin đi
theo để mở những cuộc đàm phán bị mật với đối thủ cũ, ông Lê Đức Thọ. Kissinger
bỏ ra hai ngày đêm trình bày với ông Lê Đức Thọ rằng tình hình hiện nay đang bế
tắc, hai bên phải tìm một thỏa hiệp thì có lợi hơn, không những phải định rõ những
vùng do mỗi bên kiểm soát ở miền Nam, mà còn phải thành lập ủy ban bầu cử ba
bên như hiệp định Paris qui định.
Ông Lê Đức Thọ lắng nghe, nhưng từ chối không cam kết điều gì
vì việc đó vượt quyền ông.
Sự vững vàng của ông Lê Đức Thọ không làm nguội lạnh sự phấn
khởi của Martin. Đại sứ cho rằng một hiệp định kiểu như thế rất cần thiết để cứu
vãn sự sống còn của chế độ Sài Gòn đã bị Mỹ giảm viện trợ. Do đó, trong những
tuần và tháng sau đó, ông cố thuyết phục Nam Việt Nam nhượng bộ trên cơ sở những
đề nghị của Kissinger với Bộ Chính trị Hà Nội.
Đồng thời, được Nhà Trắng cho phép và nhờ những người Ba Lan
làm trung gian, ông nói với người Bắc Việt Nam nghiên cứu lại những đề nghị
trên. Ông cũng đến thăm đều đặn các phái đoàn Ba Lan và Hunggari trong ủy ban
quốc tế hy vọng sẽ ủng hộ những dự kiến của ông. Do mối quan hệ hữu nghị giữa
Polgar và người Hunggari, nên Polgar được giao nhiệm vụ trao công hàm đại sứ.
Tình hình ở miền Nam Việt Nam vẫn đứng tại chỗ, giải pháp duy nhất tốt là cộng
sản ngừng gây sức ép.
Suốt mùa Đông, Martin cũng nói về việc uy hiếp quân sự để
giành cảm tình của quốc hội. Luôn luôn, ông nhắc nhở Hoa Thịnh Đốn rằng Hà Nội
có ý định xâm chiếm. Ông khuyến khích Murray và Polgar nhấn mạnh những điều kể
trên trong báo cáo của họ, việc này không dễ, vì những tin tức gần nhất cho biết
rất rõ là chiến dịch những trận đánh chiến thuật chỉ có tính chất hạn chế. Những
con diều hâu ở bộ phận tình báo phái bộ quân sự bỏ qua tin tức này và viết theo
điều mong mỏi của Martin. Mới đầu, Polgar có vẻ cũng định làm như thế. Nhưng
sau đó, theo những lời khuyên trong những cuộc gặp mặt với Ủy ban quốc tế kiểm
soát, Polgar đã thôi. Ủy ban đã gây cho Polgar niềm tin rằng không có một cuộc
tiến công lớn nào trong năm 1974. Những bản báo cáo của CIA đều được thảo ra
theo tinh thần đó.
Nhưng những nhận định như vậy của CIA trái lại với mục tiêu của
Martin. Để ngăn ngừa Polgar và chúng tôi có quan hệ với giới báo chí Mỹ, ông
quyết định chỉ để người con đỡ đầu của ông là Al Francis, làm người phát ngôn
duy nhất với các nhà báo. Francis làm việc này có hiệu quả. Anh đã làm cho nhiều
nhà báo tin rằng quân đội Bắc Việt Nam sớm muộn sẽ mở một cuộc tiến công lớn.
Al Francis cũng tìm cách bịt hết tin về sự ôn hòa của những người cộng sản, hay
sự hiếu chiến của quân đội Nam Việt Nam, không cho lọt ra ngoài.
Mặc dù vậy, những sự thật khác với “sự thật" của đại sứ
thỉnh thoảng vẫn được đăng trên báo chí Mỹ. Đầu tháng 1, có một loạt bài lấy
nguồn tin không phải của sứ quán, phản đối những nhận định của Martin về nền an
ninh và nhu cầu vũ khí của quân đội Nam Việt Nam. Martin ra lệnh mở ngay cuộc
điều tra để tìm thủ phạm. Đại tá Al Weidhas, một sĩ quan tình báo của Murray được
giao làm nhiệm vụ này.
Là người nhận định phân tích chiến lược chủ yếu ở chi nhánh
Sài Gòn, tôi là một mục tiêu lý tưởng của Weidhas và ê kíp của anh ta. Nhưng thật
là mỉa mai, nhờ giới báo chí tôi mới biết việc này. Trong một cuộc điều tra
Weldhas gọi George Mc. Arthur, phóng viên báo Los Angeles Times đến và hỏi ngay
có phải tôi đã đưa ra ngoài nguồn tin mới ấy không, Mc. Arthur trả lời không phải.
Đúng như vậy. Rồi anh gọi dây nói đến văn phòng đại sứ, phản đối. Bạn tôi là
Ken Moorefield, người giúp việc Martin, nghe dây nói và báo ngay cho tôi biết,
không nói gì với ai. Khi biết Moorefield làm việc này, Martin tức giận đến điên
người. Ít lâu sau, ông cử Moorefield làm một công việc mới và từ đó anh này
không còn được Martin tin cẩn nữa.
Cuối cùng, sau những ngày dò la khắp nơi, Weldhas đã tìm ra
thủ phạm, đó là Dick Peters, một cộng tác viên gần gũi của Martin, được đại sứ
rất tin cậy. Peters có thói xấu là nói quá nhiều khi đánh golf với Mc. Arthur.
Weidhas cho một nhân viên đem theo một máy thu thanh cực mạnh
theo dõi Peters. Tất cả lời nói của Peters đều được thu lại, kể cả những lời
nói đùa, nói tục, chuyển về cho Martin. Mấy tuần sau, Peters phải đổi đến lãnh
sự quán Biên Hòa, xa những nơi ra quyết định.
Không những ngăn ngừa không cho tin tức lộ khỏi nguồn, Martin
còn trách cứ giới báo chí nữa. Đầu tháng 2, báo New York Times đăng một bài lên
án Hoa Kỳ vi phạm tinh thần hiệp định, vì đã viện trợ kỹ thuật quá nhiều cho
Sài Gòn, Martin gọi điện về Hoa Thịnh Đốn vu cáo nhà báo viết bài ấy là người
phát ngôn của Hà Nội. Trước đó, ông đã cấm sứ quán tiếp xúc với các báo Times
và Washington Post.
Martin còn gây sự với nhiều nghị sĩ quốc hội có thế lực. Một
trong những vị đó là thượng nghị sĩ Edward Kennedy, người công khai phản đối việc
viện trợ bổ sung cho Sài Gòn. Tháng 2, lúc Kennedy chất vấn bộ ngoại giao rằng
tăng thêm viện trợ có nghĩa là có sự cam kết mới với Thiệu phải không, thì
Martin nói với các đồng nghiệp ở Hoa Thịnh Đốn: sẽ là điên rồ mới trả lời đúng
và hợp lý cho viên thượng nghị sĩ ấy.
Cuộc va chạm đáng nhớ nhất giữa đại sứ với phe đối lập không
phải là với một nghị sĩ, một nhà báo mà với một linh mục, cha William Webber ở
nhà dòng thần học New York. Ông đến Sài Gòn hồi tháng 2, với một nhóm người, phần
lớn là chống Thiệu. Webber tránh không đến sứ quán trong một tuần rưỡi ở Sài
Gòn. Nhưng trước khi về nước, ông đã đến nói chuyện với Martin. Trong cuộc thảo
luận mà Martin cho thu thanh, đại sứ đề nghị Webber tiếp xúc với những bạn ông ở
phía cộng sản và can thiệp để chấm dứt đổ máu. Đại sứ cho Webber biết số máy của
Đoàn đại biểu Chính phú Cách mạng lâm thời trong ủy ban kiểm soát quân sự ở Tân
Sơn Nhất. Webber vốn đã không tin Martin, lại thấy đại sứ có thể nghĩ rằng ông
có một ảnh hưởng nào đối với những người cộng sản nên ông cho đó là một sự láo
xược và từ chối không gọi dây nói. Hôm sau, ông giải thích với đại sứ: số dây
nói ấy không đúng.
Mấy tuần sau, khoảng một trăm trẻ con bị giết chết trong một
trận máy bay Mỹ ném bom xuống một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Martin gửi cho
Webber, lúc bấy giờ đã về Mỹ, những bức ảnh chụp một số em cụt chân, cụt tay
kèm theo một thư viết: "Không ai có thể nói chắc rằng nếu ông can thiệp
thì những trẻ em này sẽ được cứu sống. Nhưng ông sẽ phải sống quãng đời còn lại
với sự hối hận ám ảnh. Những trẻ em này, đáng lẽ còn sống, không bị cụt chân, cụt
tay nếu ông không quyết định là không gọi dây nói!".
Đầu tháng 2, tướng Murray đã hiểu rằng những trò bi kịch ấy
không có giá trị làm thay đổi ý kiến của quốc hội. Mặc dù có sự phản đối của đại
sứ, ông quyết định báo gấp cho người Nam Việt Nam biết cần phải thắt lưng lại.
Các tướng lĩnh Sài Gòn biết rõ rằng nhu cầu của họ về dụng cụ
chiến tranh chưa cấp bách như Murray tưởng. Nhưng đáng lẽ nói thật hay đẩy lùi
tham nhũng đang hoành hành, gặm dần dự trữ, họ quyết định nghe theo lời tướng
Murray và ra lệnh cho bộ binh thực hiện trước.
Trong những tháng sau, họ ra lệnh càng phải hạn chế hơn việc
sử dụng súng ống, đạn dược. Những quyết định ấy làm tê liệt gần như toàn bộ
quân đội. Cả bốn quân khu đều hạn chế như nhau, không còn kể đến sự khác nhau
và không còn kể đến tầm quan trọng của những cuộc đụng độ đang xảy ra. Những cuộc
ném bom và bắn phá tiêu hao phải chọn những mục tiêu cụ thể rõ ràng. Gần một phần
năm lực lượng không quân Nam Việt Nam phải nằm dí ở dưới đất.
Trong khi đó, Thiệu thấy rõ Martin ngày càng có xu hướng
thương lượng nên quyết định lúc này cần củng cố địa vi chính trị của mình. Giữa
tháng 2, ngay lúc phải thực hiện việc hạn chế súng ống, đạn dược, lương thực,
Thiệu ra lệnh cho bộ chỉ huy tối cao của ông ta mở một cuộc hành quân mới, tốn
kém, để giành lại đất và mở rộng thêm quyền hành của chính phủ ở phía Nam miền
Nam.
Mấy tuần sau, Thiệu lại tìm ra một cớ mới để nâng cao quyền lực.Vị
trí tiền tiêu nhỏ, Tống Lê Chân, ở phía Bắc Sài Gòn, bị quân dội Bắc Việt Nam
bao vây hơn một năm nay, Thiệu cố giữ vì kiêu ngạo chứ không phải thực sự vì
tính tiêu biểu của vị trí đó. Nay Thiệu cho rằng để vị trí ấy ra vào tay cộng sản
thì sẽ rất có ích. Hắn hy vọng sẽ khơi được mối lo ngại, kéo được tình cảm của
Hoa Kỳ và nhiều nước khác, đồng thời có thể nhân đó hợp lý hóa cuộc phản công
mà hắn định tiến hành chống Chính phủ Cách mạng lâm thời. Và cũng có thể, hắn
kêu gọi được quốc hội Mỹ ủng hộ hắn. Hai trăm quân đang giữ vị trí được báo tin
bằng radio. Ngày 11 tháng 4, chúng bỏ chạy tán loạn với 62 tên bị thương.
Hôm sau, chính quyền Sài Gòn nói ầm lên rằng vị trí Tống Lê
Chân bị một biển quân đội Bắc Việt Nam tràn ngập và vị trí đã bị san bằng. Rồi
Thiệu, theo đúng những lời của bộ ngoại giao Mỹ, phản ứng về chính trị. Từ lâu,
ông ta từ chối không họp tay đôi với Chính phủ Cách mạng lâm thời ở Paris, nay
bãi bỏ luôn những quyền lợi dành cho đại biểu của họ ở sân bay Tân Sơn Nhất đã
được hiệp định bảo đảm. Cắt dây nói, bỏ những cuộc họp báo, bỏ những chuyến bay
hàng tuần đi Lộc Ninh, ở phía Bắc Sài Gòn, nơi đóng trụ sở của Chính phủ Cách mạng
lâm thời.
Nhờ những báo cáo của các cơ quan tình báo, sứ quán biết ngay
trò hề này từ lâu. Nhưng Martin cũng như Thiệu, một đồng một cốt, hy vọng có thể
làm quốc hội Mỹ xúc động. Ông cũng bóp méo sự thật trong tất cả các báo cáo, trừ
bản gửi về Hoa Thịnh Đốn. Thành công của Thiệu vượt quá điều mong muốn của ông
ta. Để phản đối, Chính phủ cách mạng lâm thời không tham gia ủy ban quân sự hỗn
hợp Sài Gòn nữa và được sự đồng ý của Hà Nội, thôi không dự cuộc đàm phán về số
phận những binh lính Mỹ mất tích. Họ tẩy chay cuộc thảo luận này cho đến ngày
cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Đầu tháng 3, cân nhắc mọi nhân tố rồi, các nhà quân sự Hà Nội
thống nhất quyết định mở những cuộc tiến công chiến lược. Lực lượng cộng sản
không những tiếp tục phá hoại các cơ sở kinh tế miền Nam (đường sá, kho tàng,
căn cứ không quân) mà còn đánh chiếm lại đất bị mất từ ngày ngừng bắn.
Ít lâu sau, trong khi Thiệu chuẩn bị bỏ vị trí Tống Lê Chân,
thì quân đội Bắc Việt Nam bắt đầu thực hiện ý đồ của họ. Một sư đoàn tiến công
những vùng biên giới phía Tây và Tây Bắc Sài Gòn, trong khi đó, những đơn vị
khác hành quân làm cho sư đoàn 18 của Thiệu phải đóng nguyên tại chỗ, ở phía
Đông Sài Gòn. Một sư đoàn khác hành quân sâu vào nội địa khu tam giác sắt, một
vùng rừng rậm ở phía Bắc Sài Gòn để bẻ gãy những cuộc tảo thanh của quân đội miền
Nam. Một lần nữa, chiến tranh lại diễn ra.
Những cuộc đụng độ càng mở rộng thì tướng Murray càng tỏ ra
chán nản. Ông không còn tin ở sự sống còn của chế độ Sài Gòn nữa. Ông chắc chắn
rằng giảm viện trợ nữa về tài chính, về dụng cụ chiến tranh thì sẽ là đòn quyết
định đối với Nam Việt Nam. Do đó, đầu tháng 6, khi Lầu Năm Góc cho ông biết rằng
năm sau, quốc hội sẽ giảm ngân sách viện trợ cho Nam Việt Nam, ông phản ứng lại
như người đã nhìn thấy sự đổ vỡ. Trong một điện gửi đầu Năm Góc, ông giải thích
là: nếu số tiền viện trợ giảm xuống dưới một tỷ đôla, thí dụ như chỉ còn 700
triệu, thì Nam Việt Nam chỉ còn đủ khả năng bảo vệ một phần lãnh thổ thôi, nếu
giảm xuống nữa thì có nghĩa là xóa tên nước Việt Nam Cộng hòa và cho nó vào sổ
lãi, lỗ. Giải pháp duy nhất đối với chính phủ Nam Việt Nam chỉ còn là bám lấy
Sài Gòn và vùng đồng bằng".
Dự đoán lạ lùng! Thật vậy, không có ai trong giới lân cận
Murray hay ở Hoa Thịnh Đốn có thể biết rõ dự trữ chiến lược của Nam Việt Nam.
Nhưng Murray kiên trì khẳng định rằng không có viện trợ quân sự, ít nhất là một
tỷ đôla thì Nam Việt Nam chỉ còn là một cái bóng của họ.
Tháng 6 và tháng 7, Murray và nhiều sĩ quan tham mưu của tổng
chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương, đô đốc Gayler, tổ chức ở Honolulu một hội nghị
vạch rõ luận điểm này bằng những bản đồ và sơ đồ. Martin rất thích thú được biết
sự việc này. Tuy ông không quá bi quan như Murray, nhưng ông hy vọng đánh đu với
tình hình, làm cho quốc hội có thể tăng thêm viện trợ cho Sài Gòn.
Dựa vào những tin tức Murray gửi đến, những sĩ quan chịu
trách nhiệm ở Sài Gòn cũng tổ chức một cuộc nghiên cứu tương tự và cũng đi đến
nhận định là phải bỏ đất đai nếu quốc hội Mỹ cắt viện trợ nữa. Thiệu không tin
vào chuyện ấy. Nhưng, cũng như Martin, ông cho rằng đó cũng là một cách để làm
cho quốc hội hiểu sự cần thiết phải tăng viện trợ tài chính cho Nam Việt Nam nếu
không sẽ mất đất. Thiệu bảo tướng Viên đưa cho ông ta bản báo cáo của hội nghị
Honolulu và đưa ra trình bày mỗi khi có một nghị sĩ quốc hội Mỹ nào đến Sài
Gòn. ông ta buồn rầu nói với họ: Nếu quốc hội không sáng suốt thì đến như thế đấy!
Sự lố lăng của Thiệu làm một số cộng tác viên của ông ta khó
chịu. Họ có cảm tưởng là Thiệu không biết rõ tương lai gì chờ ông ta, không hiểu
rằng ông ta sẽ phải bỏ nhiều vùng đất đai quan trọng nữa. Họ có lý, theo một ý
nghĩa nào đó, nhất là về điểm Thiệu bất lực không hiểu được sự trầm trọng của
tình hình. Lo lắng về việc giảm viện trợ mới nhất, Thiệu không thấy rằng sợi
dây ràng buộc của Mỹ đã mong manh. Nhưng việc đó không hoàn toàn do lỗi của ông
ta. Để cho Thiệu giữ được bình tĩnh và can đảm, nhấn viên sứ quán tiếp tục gặp
Thiệu và nói với ông ta rằng vẫn còn có thể gây ảnh hưởng với quốc hội, và
Nixon sẽ giải quyết được những việc bối rối về chính trị. Đầu tháng 6, trong một
tiệc rượu, Polgar tuyên bố với một nhóm quan chức chính phủ Nam Việt Nam: cái
bí nhất trong vụ Watergate đã qua!
Thường vào mùa Hè, Martin Ở Hoa Thịnh Đốn để cầu cứu viện trợ.
Để bảo vệ quan điểm của mình, ông nhấn mạnh sự viện trợ của các nước trong phe
cộng sản cho Hà Nội, khẳng định rằng nó lớn hơn nhiều so với viện trợ của Mỹ
cho Sài Gòn. Để làm cho người ta hiểu một cách chắc chắn, ông phân phát cho các
đại biểu quốc hội một bị vong lục do tôi thảo một mình theo ý ông. Bản tài liệu
này căn cứ vào những tin tức tôi nhận được từ Bắc Việt Nam.
Trong khi Martin vật lộn ở phủ tổng thống thì Polgar và nhiều
đồng nghiệp ở Bộ Ngoại giao cố thuyết phục các phái đoàn Ba Lan và Hunggari
trong ủy ban kiểm soát ở Sài Gòn rằng chia lãnh thổ là có lợi cho mọi người. Về
phần tôi, tôi nhận được lệnh là trình bày tình hình cho phái đoàn Hunggari, để
qua họ, có thể cho Hà Nội biết rõ chúng tôi nắm được ý đồ của Bắc Việt Nam, Bắc
Việt Nam phải ngừng ngay những cuộc hành quân.
Bản báo cáo ấy hết sức thật và nói thẳng. Tôi nhấn mạnh điểm
chúng tôi đã biết được những quyết định gần đây nhất của Bắc Việt Nam và làm
cho các thính giả ngạc nhiên bằng cách nêu rõ lực lượng của đôi bên đang giáp mặt
nhau. Đó là loại tin mà Bắc Việt Nam có thể trả giá đắt để có. Như Martin mong
muốn, thông điệp của chúng tôi gửi ủy ban quốc tế giám sát không phải là không
được xem xét đến. Cuối tháng 7, đại diện Ba Lan và Hunggari báo cho chính phủ họ
biết quân đội Nam Việt Nam đang thực hiện chiến dịch cắm cờ lấn đất để giành ưu
thế. Người Bắc Việt Nam thì tích cực đối phó với những cuộc càn quét của quân
Nam Việt Nam và chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu ác liệt trong những phút cuối
cùng.
Martin không gặp may trước quốc hội. Cuối tháng 7, thượng nghị
viện và hạ nghị viện thông qua luật qui định một tỷ đôla là mức tối đa về mọi
chi phí quân sự ở Việt Nam trong 11 tháng tới. Ngày 5 tháng 8, Nixon ký luật
này. Đó là một việc làm chính thức cuối cùng của tổng thống. Bốn ngày sau, ông
xin từ chức. Tuy nhiên, cuộc tranh luận về viện trợ cho Việt Nam chưa chấm dứt.
Chỉ một hay hai ngày sau khi Nixon ra đi, hạ nghị viện lại quyết định giảm số
tiền viện trợ xuống chỉ còn 700 triệu đôla.
Giữa sự rối ren về ngân sách ấy, tổng thông mới của Hoa Kỳ
Gerald Ford, gửi cho Thiệu một thư riêng, cam kết với hắn sự ủng hộ của Mỹ, và
tỏ lòng tin tưởng vào chính sách Việt Nam của Kissinger. Thiệu phản ứng đúng
như Martin mong muốn. Ông ta coi bức thư đó là một dấu hiệu chứng tỏ chính quyền
mới ủng hộ mình. Tướng Murray coi bức thư ấy là một trò hề bi thám. Sau này,
ông ta nói: một bức thư ngớ ngẩn phán đoán tương lai. Lại còn nêu tên Kissinger
lên, một tác giả đạo đức của nền ngoại giao!
Là người ngay thẳng và dễ xúc động, tướng Murray nhanh chóng
đi đến chỗ bi quan. Giữa tháng 8, ông trở nên cay đắng và không còn ảo tưởng gì
nữa như ông thường nói. Sau đó thấy mình không có tên trong danh sách những người
được đề bạt, ông quyết định rút lui khỏi quân đội. Biết rằng mình cũng chẳng mất
gì, ông nói với Lầu Năm Góc rõ ý nghĩ của ông đối với việc giảm viện trợ và những
biện pháp tiết kiệm. Trong một buổi trả lời phỏng vấn các nhà báo, cũng không
được phép, ông khẳng định rằng Việt Nam buộc phải thay đạn dược bằng "tính
mạng, xương và máu” và ông gọi những người chịu trách nhiệm về ngân sách là những
con "rệp ngân khố.
Những lời tuyên bố của Murray làm Martin lúc bấy giờ ở Hoa Thịnh
Đốn tức giận. Giám đốc cơ quan liên lạc Lầu Năm Góc điện cho Murray biết sự thật
thà của ông không có lợi. Ông không hề bối rối. Sau khi tuyên bố với giới báo
chí, ông quyết định nói với người biệt Nam. Ngày 16 tháng 8, trong buổi họp cuối
cùng với bộ chỉ huy tối cao của Nam Việt Nam, Murray và một số sĩ quan Mỹ khác
đề nghị họ bỏ một số đất đai và thực hiện chiến thuật củng cố để tiết kiệm dự
trữ. Tướng Cao Văn Viên và những viên phó tướng của hắn trả lời rằng ý kiến ấy
tốt về mặt quân sự, nhưng về mặt chính trị, không thể thực hiện được.
Trên đường trở về Mỹ, Murray dừng lại ở Honolulu và hội kiến
ngắn với đô đốc Gayler. ông không giấu giếm sự thất vọng. Khi Gayler hỏi ông Mỹ
nên thay đổi chính sách ở Việt Nam như thế nào, ông trả lời không đắn đo: Trước
hết đuổi đại sứ về, sau đó giảm số máy bay của Nam Việt Nam xuống đến mức họ có
thể bảo quản được và làm cho quốc hội hiểu được hậu quả của việc giảm viện trợ.
Lúc ông sắp rời khỏi bộ tổng chỉ huy của Gayler, Murray nhận được dây nói của
tướng Homer Smith, thay ông làm tùy viên quân sự ở Sài Gòn. Smith đang ở
Honolulu để tìm hiểu về công việc mới của mình và bắt đầu thấy những chuyện
kinh khủng đang chờ đợi. Ông nói với Murray: "Tôi đã nghiên cứu hai ngày,
trời ơi, tôi cảm thấy như một con thỏ rừng trong ngày khai mạc mùa săn bắn".
Murray trả lời bằng một giọng bi thảm: "ông càng xa Hoa
Thịnh Đốn, càng gần đến sự thật.
Những điều Murray nói với người Nam Việt Nam lúc ông ra đi đã
có một ảnh hưởng sâu và tinh tế. Dù họ không quyết định bỏ đất đai, nhưng những
lời căn dặn của tướng Murray, sự đánh giá về tương lai của ông làm cho họ suy
nghĩ lại, nhìn tương lai như một thứ định mệnh, nhận định này sẽ giúp họ đối
phó với những thử thách sẽ xảy ra: Người chỉ huy quân sự Mỹ nói rằng họ không
thể sống sót được nếu viện trợ của Hoa Kỳ rút xuống dưới một tỷ đơm. Điều bi thảm
đã trở thành sự thật, càng ngày họ càng thấy rõ tương lai họ mờ mịt.
Họ hoàn toàn phụ thuộc vào sự ủng hộ và can thiệp của người Mỹ.
Tinh thần họ trở nên mong manh cũng như sự cam kết của Mỹ. Trong khi những nhà
chỉ huy quân sự Nam Việt Nam đang lo sợ về những dự đoán đen tối của tướng
Murray thì chiến tranh trở nên ác liệt. Trong tháng 8, những cuộc đụng độ diễn
ra khắp nơi. Những người cộng sản muốn thăm dò ý đồ của tổng thống Ford. Cuối
tháng, quân đội Bắc Việt Nam tiến công chung quanh Huế, Đà Nẵng và những tỉnh
phía Bắc, hơn bảy trăm nghìn người phải tản cư. Trên Tây Nguyên, lực lượng cộng
sản kéo dài đường tiếp tế ra bờ biển phía Đông. Ở phía Bắc và phía Đông Sài
Gòn, quân đội Bắc Việt Nam tiêu hao các sư đoàn 18 và 5 của Nam Việt Nam. Dưới
phía Nam, trong vùng đồng bằng, lực lượng chính phủ bối rối trước lực lượng cộng
sản đang cố gắng giành lại những vùng do quân đội Sài Gòn chiếm trái phép hồi đầu
năm.
Điều đáng sợ nhất: khoảng 26.000 binh lính chính phủ bị giết
trong những cuộc chiến đấu, kể từ tháng 1 năm 1973. Con số đó nêu bật sự thất bại
của cuộc ngừng bắn.
Một cuộc thăm dò dư luận tiến hành cuối mùa Hè cho thấy rõ uy
tín của chính phủ giảm xuống mức thấp nhất kể từ sáu năm nay. Tinh thần quân đội
cũng tan rã. Thực phẩm và đạn dược ngày càng khan hiếm. Người lính Nam Việt Nam
chưa bao giờ khổ vì chiến tranh như lúc này. Thêm vào những khổ ải đó là giá hầu
hết những nhu yếu phẩm đều tăng gấp đôi so với lúc mới ngừng bắn, trong khi đó
thì lương thực chỉ mới được tăng 25%.
Cuối tháng 8, sự lo ngại trong quân nhân và nhân dân càng
tăng. Những nhóm đối lập xuống đường biểu tình, tranh thủ sự bất bình của quần
chúng, có người kết tội Thiệu chỉ huy việc buôn ma túy trên khắp đất nước và
giàu sụ một cách bất hợp pháp.
Những cuộc biểu tình ấy làm Martin rất lo ngại. Ông sợ Thiệu
càng mất thêm uy tín trước người Mỹ. Ông thúc giục người Nam Việt Nam làm mọi
biện pháp để dập tắt. Cuối tháng 10, Thiệu mới quyết định đuổi bọn nhân viên
trong chính phủ, giáng chức 400 sĩ quan tình nghi tham nhũng, và thuyên chuyển
ba trong bốn chỉ huy quân sự cấp quân khu.
Nhưng Thiệu đã phải trả giá cho những biện pháp ấy. Thiệu củng
cố, siết chặt việc kiểm duyệt báo chí và báo cho những nhóm đối lập biết, nếu họ
tiếp tục đấu tranh, họ sẽ phải chịu hậu quả. Martin cố giải thích cho các phóng
viên Mỹ rõ là những biện pháp nói trên rất cần thiết để giữ vững nền an ninh
trong nước. Nhưng bên trong, Martin rất khổ tâm. Ông thấy rõ là phải dùng những
biện pháp quá khích này để giữ trật tự thì không lợi cho việc giao thiệp công
khai của ông.
Tuy nhiên, đại sứ cũng có một nguồn an ủi, ông đã thuyết phục
được Thiệu thôi không dùng Hoàng Đức Nhã, bộ trưởng thông tin trẻ của ông ta,
người thường nói năng bừa bãi và không chịu nghe ai. Nhã từ chức, không còn ai
đối lập với thủ tướng Khiêm. Vừa khéo léo loại trừ được kẻ thù duy nhất trong
chính phủ Nam Việt Nam, Martin vừa cố gắng giấu giếm những sai lầm và nhược điểm
của chế độ Sài Gòn trong những bản báo cáo của ông gửi về Hoa Thịnh Đốn và những
thông báo báo chí. Sự suy sụp về tinh thần của quân đội trong mùa Thu và đầu
mùa Đông, tình hình rối loạn ở nông thôn, và sự tham nhũng triền miên trong nội
bộ chính phủ - những vấn đề làm cho Sài Gòn trở thành một thành phố bất an lung
lay - được bỏ qua, không hề nhắc đến. Văn phòng tùy viên quân sự - mặc dù không
cần thiết - cũng tham gia vào việc che đậy này. Do đó, ngay trong văn phòng của
Polgar cũng diễn ra những hoạt động rối ren, lúng túng.
Phương pháp thường dùng của Polgar nay được áp dụng theo sở
thích của giám đốc chi nhánh CIA. Chắc chắn không có tin sai, nhưng Polgar vẫn
đòi kiểm tra thật kỹ chất lượng tin: một cộng tác viên của ông gọi đó là những
tia sáng tạo". Người chỉ huy chi nhánh CIA ở đồng bằng sông Cửu Long chuẩn
bị gửi một bản báo cáo về tình hình mất an ninh, tham nhũng ở khu vực anh ta,
Polgar đòi đọc được khi công bố và yêu cầu những tin này phải đạt đủ chất lượng,
do đó rất ít tin được phép phổ biến.
Polgar cũng bắt xóa bỏ tất cả những yêu sách của phe đối lập
trong các bản báo cáo. Chẳng may, có những tin không lợi cho chế độ Thiệu được
gửi đi mà Polgar không phát hiện kịp thời thì ông lập tức gửi điện đính chính
cho các "khách hàng" ở Hoa Thịnh Đốn.
Đầu chiến dịch chống tham nhũng, tháng 8, một nhân viên lão
luyện, thu lượm được nhiều tin của CIA, đến nói chuyện với nhiều chính trị gia
có tầm cỡ ở Nam Việt Nam. Họ ủng hộ Thiệu từ lâu, nhưng nay nghi ngờ chính sách
của ông ta. Một người trong họ, một nhà ngoại giao trước đây, kể lại câu chuyện
tham nhũng kinh khủng trong quân đội và nói: Binh lính không thể nuôi được gia
đình, không còn ý chí chiến đấu, họ mất tinh thần vì sĩ quan cấp trên họ bóc lột
họ một cách đáng xấu hổ... Nếu Thiệu tiếp tục cầm quyền, dựa vào những người
tham nhũng và bất lực thì rất khó cho Nam Việt Nam chiến đấu chống những người cộng
sản dù về mặt quân sự hay chính trị cũng vậy.
Đó là một ý kiến quan trọng, nhất là của một cựu nhân viên
chính phủ. Không tôn trọng những cái gọi là tiêu chuẩn chất lượng tin của
Polgar, người thu được ý kiến này gửi thẳng báo cáo về Hoa Thịnh Đốn, làm mọi
người sửng sốt.
Sự phản ứng của Polgar hơi khác một ít. Khi ông biết mình
không được đọc báo cáo mà Hoa Kỳ đã nhận được rồi, lập tức ông gửi một điện phản
đối tới CIA. ông viết: "Tôi cho rằng điều đó không có gì lạ. Tôi không
nghĩ rằng quan niệm của bản báo cáo có thể có một ảnh hưởng gì trong tương lai
trước mắt, đối với sự phát triển của những sự việc ở đây.
Nhưng Polgar không chỉ gửi bức diện riêng ấy cho CIA. Ông muốn
phổ biến rộng rãi trong các giới chính thức ở Hoa Thịnh Đốn. Do đó, tự ông làm
một bản báo cáo chống lại. Ông viết: "Không có một chứng cớ đúng đắn nào
chứng tỏ tinh thần chiến đấu cửa quân đội Nam Việt Nam sa sút. Trái với điều
báo chí bi quan đăng, những nhiệm vụ chính của chính phủ tiếp tục được thực hiện.
Cảnh sát quốc gia duy trì đầy đủ trật tự công cộng, không có bãi công, thư từ
chạy đều, đó không phải là tình hình của một số nước phát triển hơn.
Cũng rất rõ ràng là phần lớn nhân dân tiếp tục sống bình thường
và trong cái xã hội độc ác này, họ biết xoay sở. Mỗi ngày, họ cũng tỏ ra chịu đựng,
dễ bảo và tháo vát. Số dân tăng 3% mỗi năm, điều đó chứng tỏ sức sống và sự tin
tường vào tương lai của họ. Ở Việt Nam, không phải chỉ có những kẻ nghèo, kẻ dốt
mới sinh đẻ".
Sự phân tích về mặt chính trị của Polgar thật quá mức và buồn
cười đến nỗi bộ chỉ huy CIA, thượng cấp của ông ta, từ chối không gửi bản báo
cáo của ông đến những vị khách hàng cao cấp như Kissinger và tổng thống Nixon
và nhiều người khác. Đó là lần thứ nhất trong nghề nghiệp của tôi, tôi thấy người
ta không đếm xỉa gì đến việc nghiên cứu tại chỗ những tin tức.
Nhưng cả Polgar lẫn Martin đều không nản lòng. Họ cho in bản
báo cáo, thảo một điện gửi bộ ngoại giao và phân phát cho các đại biểu quốc hội
và các nhà báo không may gặp họ trên đường. Trong khi Martin và Polgar cố bưng
bít tội lỗi của chế độ Sài Gòn thì người Bắc Việt Nam ra sức khai thác... Họ
cho rằng việc giảm viện trợ của Mỹ là sự bất tín nhiệm của Mỹ đối với Thiệu và
một lời thú nhận về sự bất lực của lực lượng quân sự Sài Gòn. Họ còn lợi dụng cả
việc từ chức của Nixon. Họ nhận định là dù Ford có muốn hòa hoãn hơn thì sự lộn
xộn ở Hoa Thinh Đốn cũng lợi cho họ và phải làm cho người Nam Việt Nam mất tinh
thần hơn nữa.
... Tháng Chín, chiến dịch chống tham nhũng ở Nam Việt Nam
phát triển. Người Bắc Việt Nam chắc chắn ràng đó là dấu hiệu chế độ Thiệu lung
lay tận gốc. Cần phải làm cho quan hệ giữa Sài Gòn và đồng minh Mỹ, rạn nứt
thêm. Tháng Mười, Bắc Việt Nam quyết định chưa đánh những mục tiêu cụ thể mà giải
phóng vùng nông thôn, chiếm hai phần ba thu hoạch mùa màng ở đồng bằng sông Cửu
Long, bao vây Sài Gòn. Mục tiêu của họ là tạo nên một sự rối loạn lớn không những
ở miền Nam Việt Nam mà cả sự bất hòa giữa Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn và lật đổ
Thiệu. Chắc chắn những người nối tiếp ông ta sẽ buộc phải nhận điều kiện một cuộc
ngưng bắn mới.
Dựa vào những tài liệu thu lượm được, tôi làm một bản báo cáo
giải thích gửi về cho các giới chính trị ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng tôi mâu thuẫn
ngay với Polgar. Thủ trưởng tôi, vì thuốn thuyết phục những người có thể ủng hộ
việc viện trợ cho Thiệu, gán cho ý đồ của Hà Nội những điều ghê gớm, đáng sợ.
Còn tôi, trái lại, tôi nhấn mạnh, mục tiêu Hà Nội là tổ chức thận trọng những
trận đánh để đi đến thương lượng.
... Khi tôi nói rõ nhận định của tôi cho Polgar thì ông ta
không nghe và nói rằng nguồn tin của tôi không nắm được ý đồ của Hà Nội. Giữa
lúc ấy, bộ chỉ huy CIA ở Hoa Thịnh Đốn cho công bố bản báo cáo của tôi, coi đó
là đúng đắn.
Tháng 11, có nhiều nguồn tin báo Hà Nội sắp mở nhiều cuộc tiến
công, Kissinger quyết định đi một chuyến cuối cùng để tránh điều bi đát nhất...
Nhưng Kissinger đòi hỏi nhiều điều vô lý nên Liên Xô không nghe Kissinger.
Đầu tháng 12 năm 1974, mọi cái đều sẵn sàng để mở rộng chiến
tranh Đông Dương trên hai mặt trận: ở Nam Việt Nam và ở Campuchia.
Phần II: TAN RÃ
TIẾN CÔNG
Về mặt quân sự, từ lâu Việt Nam Cộng hòa là một cộng đồng nhiều
địa phương mâu thuẫn nhau. Ở Sài Gòn, bộ tổng tham mưu có vẻ nắm được quyền tối
cao. Nhưng Thiệu đã tạo những chỉ huy các quân khu thật sự thành những tên vua,
chúa. Những quân khu ấy không giống nhau về mặt khí hậu và địa lý. Cái duy nhất
gắn chúng với nhau là quốc lộ số 1, chạy dọc bờ biển, qua nhiều đoạn, nối Sài
Gòn với Huế. Năm tỉnh của Quân khu I nằm ở phía Bắc đất nước, có nhiều đồi núi
và khó ở. Phần lớn nhân dân ở đây sống tập trung chung quanh những thành phố
chính là Huế và Đà Nẵng. "Uy quyền" của chính phủ không ở bên ngoài
những vùng đồng bằng thấp ven biển. Cho đến mùa thu Thu 1974, cộng sân tôn trọng
con đường ngừng bắn thực sự, dọc sông Thạch Hãn, phía Bắc Huế. Nhưng hiệp định
đã bị vi phạm vì sự cướp bóc của quân Nam Việt Nam.
So với Quân khu I, Quân khu II ở giữa Nam Việt Nam là một
vùng đất có nhiều miền rất khác nhau. Quân khu này bắt đầu từ những trảng cát
trắng nóng bỏng ở bờ biển miền Trung, chạy qua những đồi, rồi lên đến cao
nguyên ở phía Tây, giáp giới Campuchia. Thành phố Qui Nhơn đất đai chẳng khác
phía Bắc miền duyên hải Nha Trang. Trung tâm chỉ huy Phan Thiết ở phía Nam.
Trên cao nguyên, các thành phố Pleiku và Kontum ở phía Bắc, và Buôn Mê Thuột ở
phía Nam. Trên núi có những làng nhỏ, thưa thớt. dân là người thượng, da đen.
Trong Quân khu II, chiến tranh phụ thuộc vào những cuộc hành
quân. Chung quanh Quy Nhơn, quân cộng sản vừa giữ đất, vừa đánh du kích, họ kiếm
soát nhiều khu vực rộng ở tỉnh lân cận. Nhưng ở phía Nam, chung quanh Nha Trang
và Phan Thiết, do đường tiếp tế của Bắc Việt Nam không có nên quân du kích thường
đánh lẻ tẻ và ít hiệu quả. Ở phía Tây, trên Tây Nguyên, những đơn vị Bắc Việt
Nam được tiếp tế dễ dàng thường qua lại rừng núi tới chung quanh các thành phố
chính, sẵn sàng nã pháo hoặc xung phong mỗi khi quân chính phủ phân tán, lơ là
canh gác.
Quân khu II, vùng quanh Sài Gòn, nằm giữa cao nguyên và đồng
bằng, có nhiều đồi, rừng và đồng bằng. Ở phía Bắc thủ đô, từ nhiều năm nay, phần
lớn quân Bắc Việt Nam đã đóng ở trong rừng. Ở đây, từng thời kỳ một, họ đánh
phá và tích trữ lương thực, đạn dược để chuẩn bị tiến công vào Sài Gòn. Ơ phía
Nam và phía Đông thủ đô, từ cuối những năm 60 và đầu những năm 70, quân Mỹ và
quân Nam Việt Nam đã tảo thanh, đánh đuổi quân du kích cộng sản về những vùng đầm
lầy.
Thị xã chiến lược quan trọng nhất của quân khu II là thị xã
Tây Ninh, gần biên giới Campuchia. Từ lâu, Tây Ninh là mục tiêu tiêu hao và
đánh phá của quân đội Bắc Việt Nam. Thị xã tiểu công nghiệp này gồm 40.000 dân,
là chìa khóa mở những con đường tiếp viện chính của cộng sản vào Sài Gòn. Ai giữ
được thị xã này, đồng thời giữ những đồng bằng phì nhiêu chung quanh, thì kiểm
soát được cả những con đường đi Campuchia. Cách thị xã 30 kilômét về phía Tây Bắc,
quân cộng sản đã đặt trụ sở Bộ Tư lệnh của miền Nam Việt Nam.
Phía Nam Sài Gòn, quân khu IV gồm một vùng đất đai màu mỡ nhất
và đông dân nhất, vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hơn một phần ba nhân dân miền
Nam Việt Nam, sống ở đây thu hoạch 80% , lúa gạo. Đồng bằng là nơi thèm muốn của
cả đôi bên đối thủ. Nhưng do khí hậu ẩm thấp, đất đai sình lầy nên những đơn vị
quân đội có thể định đoạt được tương lai của chiến tranh, không thể đóng được.
Từ lâu, quân cộng sản đã ở đây, gồm những đơn vị nhỏ - tiểu đoàn hoặc đại đội -
không có pháo binh, xe bọc thép, thường chỉ đánh kỳ tập thể dành mục tiêu. Hệ
thống bảo vệ của quân chính phủ dựa vào mấy thành phố lớn và những vị trí tiền
tiêu xa nhau, rất khó giữ được nếu không có sự yểm trợ của máy bay lên thẳng,
không quân và pháo binh cua người Mỹ. Sở chỉ huy phía Nam đóng ở Cần Thơ, sở chỉ
huy phía Bắc đóng ở Mỹ Tho Trong những tháng gần đây, quân cộng sản uy hiếp
ngay ở cửa ngõ hai thành phố này và từ một năm nay, đường số 4, con đường chạy
từ Bắc xuống Nam vùng này, bị cắt đứt trong một thời gian dài.
Đó là tình hình Việt Nam khi những nhà chiến lược Hà Nội đề
ra "mục tiêu năm 1975". Công việc chuẩn bị của họ thật ra không hẳn
là một chiến dịch mà là một loạt cuộc hành quân riêng rẽ tùy theo địa thế và
khí hậu từng vùng. Cuộc tiến công chưa được chuẩn bị tốt. Mười lăm ngày trước
khi mở màn, vào giữa tháng 11 năm 1974, có rất ít quân tiếp viện Bắc Việt Nam
trên đường mòn phía Nam Lào. Cuộc tuyển quân và lớp huấn luyện kéo dài tới cuối
tháng. Đó là điều không bình thường đối với người Bắc Việt Nam. Họ thường chuẩn
bị rất kỹ - bỏ ra hàng tháng - trước khi mở cuộc tiến công. Lần này, họ gây cảm
tưởng nứa muốn đánh nữa không.
Thật ra, họ không thể làm khác được. Thời tiết lại xấu. Mưa,
gió mùa rất quan trọng đối với những căn cứ Bắc Việt Nam ở phía Nam Lào. Việc
đưa quân và vũ khí vào miền Nam rất vất vả. Đi bộ tám trăm kilômét trong bùn lầy
ngập tới đầu gối.
Giữa tháng 12, đúng như ngày đã định, quân Bắc Việt Nam mở
giai đoạn đầu chiến dịch Đông - Xuân. Họ đánh chiếm hai thị xã phía Đông - Bắc
Sài Gòn . Ở phía Nam, trong vùng đồng bằng sông Cửu Long họ chiếm nhiều vị trí
tiền tiêu ven đường số 4. Mục đích những cuộc chiến đấu ấy đã rõ. Quân cộng sản
định cô lập Sài Gòn bằng cách cắt mọi đường quan trọng đi vào thủ đô ở phía Bắc
và phía Nam, việc mà trước kia họ thường định làm. Ở sứ quán, mọi người dễ thống
nhất về mục tiêu chung của kẻ địch nhưng không đồng ý với nhau về mục tiêu phụ.
Martin cho là quân cộng sản sẽ đánh Tây Ninh, Polgar và tôi ngã về phía Phước
Long, phía Tây Bắc Sài Gòn.
Quân Bắc Việt Nam cũng đang đắn đo giữa hai nơi, việc này
chúng tôi không biết. Chính Đại tướng Văn Tiến Dũng, người đưa quân đội Bắc Việt
Nam đến thắng lợi đã kể lại chuyện này trong tập hồi ký ông viết sau chiến
tranh. Đầu tháng 12, lúc giai đoạn đầu cuộc tiến công đang diễn ra, Hà Nội quyết
định thay đổi chủ trương. Từ nhiều ngày, tướng Dũng và bộ tham mưu đã nghiền ngẫm
kế hoạch, đến ngày thứ tư, một sự kiện xảy ra, làm họ chú ý.
Một nhân viên tình báo của họ nằm ngay trong giới lân cận gần
nhất của Thiệu gởi cho họ một báo cáo tuyệt mật về nhận định của chế độ Sài
Gòn. Đó là biên bản một hội nghị quan trọng diễn ra trong hai ngày 9 và 10
tháng 12 ở Sài Gòn nhằm tìm hiểu ý đồ của Hà Nội. Sau hói nghị, Thiệu và các sĩ
quan của ông ta thống nhất nhận định rằng, trong những tháng sắp tới, quân cộng
sản sẽ mở cuộc tiến công quan trọng hơn vào năm 1974 nhưng chưa lớn bằng cuộc
tiến công năm 1968 (đúng như tin do Polgar và tôi báo cho quân Nam Việt Nam 15
ngày trước). Nhân viên tình báo ấy cũng báo tin là Thiệu đã đi đến kết luận rằng
quân đội Bắc Việt Nam không thể đánh chiếm và giữ những thành phố quan trọng được,
họ nhằm hướng chính là Quân khu III, chủ yếu là Tây Ninh (dự đoán của đại sứ
Martin) và họ chỉ tiếp tục tiến công cho đến tháng 6, hết mùa khô. Sau đó, họ
ngừng để lấy lại sức và củng cố; vẫn theo nhân viên tình báo này, Thiệu cũng
căn cứ vào sự phân tích của bản thân, quyết định không gửi quân tiếp viện cho
Quân đoàn 2 ở Tây Nguyên, mà trái lại tập trung lực lượng dự trữ ở phía Nam đất
nước.
Không khó khăn gì để nhận ra sự mừng rỡ của Hà Nội khi được đọc
biên bản nói trên. Mục tiêu 1975 của họ gồm đủ mọi vấn đề, mỗi thứ một ít và
không có vấn đề gì đáng kể. Nhưng nay, họ đã rõ Thiệu nhận định như thế nào, họ
có thể thảo được kế hoạch. Vì Thiệu cho là muốn đánh Tây Ninh thì phải đánh Phước
Long, Thiệu không tin là muốn tiến công được ở Tây Nguyên thì phải đánh mạnh ở
đây, Thiệu cho là không thể đánh chiếm và giữ được những thành phố quan trọng thì
cứ hướng ấy mà tiến. Tỉnh Phước Long là mục tiêu đầu tiên của họ, tiếp đến là
Buôn Mê Thuột, trên Tây Nguyên thuộc quân đoàn 2...
Ông Đinh Văn Đệ, điệp viên chiến lược trong vai Chủ tịch
UB quốc phòng Hạ viện Sài Gòn. Theo chỉ thị của ông Phạm Hùng, ông Đệ từng sang
gặp chuẩn tướng Trần Đình Thọ TP3/BTTM VNCH để tìm hiểu khả năng VNCH có ý định
chiếm lại Phước Long hay không
Về mặt tâm lý, mất Phước Bình (Thị xã Phước Long) là một đòn
đau đối với chính quyền Thiệu. Chưa có một thị xã nào bị đánh chiếm kể từ ngày
thị xã Quảng Trị phải đầu hàng năm 1972. Nhưng sau đó, thị xã Quảng Trị được
chiếm lại. Nhưng đau nhất là chưa bao giờ Hoa Kỳ tỏ ra thờ ơ như lúc này. Đối với
Thiệu cũng như đối với Bắc Việt Nam, trận Phước Long là trận thăm dò chính sách
của Mỹ...
Trong khi nhiều tin xấu được loan truyền ở thủ đô thì lực lượng
chính phủ lại bị thất bại nữa, lần này ở Tây Ninh. Sau năm ngày bị bao vây,
không cái ăn, không thuốc uống đội quân giữ vị trí núi Bà Đen ở phía Bắc tỉnh
phái bỏ chạy. Thế là mất một vị trí quan sát tiền tiêu! Nhân dân Tây Ninh kẻo
nhau chạy về Sài gòn... Chiến thắng liên tiếp ở Quân khu III của cộng sản khuyến
khích Hà Nội leo thang. Họ lại được tin chắc chắn là Hoa Kỳ không can thiệp để
cứu vãn đồng minh. Hội nghị Bộ Chính trị phân tích sự suy yếu của địch báo hiệu
một thời cơ mới đang đến. Ngày 8 tháng 1 năm 1975, hai ngày sau chiến thắng Phước
Long, ông Lê Duẩn đề nghị với hội nghị một chiến lược quân sự táo bạo đưa đến
việc thảo ra một kế hoạch chính thức và quyết tâm dành thắng lợi trong hai năm
1975 - 1976: "năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo
điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng
hoàn toàn miền Nam Việt Nam". Ông Lê Duẩn còn đề nghị một phương án khác
và một phương hướng hành động cực kỳ quan trọng là: "nếu thời cơ đến vào đầu
hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng Miền Nam trong 1975"... ông
cũng để cửa mở cho những cuộc thương lượng, ít nhất với Hoa Kỳ. Việc người Mỹ
không can thiệp để cứu Phước Long có thể nghĩa là họ sẵn sàng mặc cả cho việc
ra đi của Thiệu.
Ông Lê Duẩn cho viết một bài xã luận đặc biệt, in trong số
tháng giêng trên báo của Đảng (Tạp chí Cộng sản). Bài xã luận trình bày tóm tắt
và rõ ràng quan điểm của ông và kế hoạch của Hà Nội. Nếu ở Sài Gòn, chúng tôi
có sẵn bài báo ấy, chúng tôi có thể dễ hiểu hơn cái gì đang được chuẩn bị.
Nhưng có nhiều sự chậm trễ trong việc nhận thư từ, báo chí theo đường dây quốc
tế nên mãi đến tháng 3, sứ quán mới nhận được, tờ báo đăng bài xã luận. Như thế
là quá muộn mất rồi!
Bộ Chính trị còn một vũ khí mới nữa, sự ủng hộ của đồng minh
duy nhất, quyết định thắng lợi hay thất bại. Lần đầu tiên kể từ ngày ngừng bắn,
Liên Xô, đồng minh lớn của Hà Nội, sẵn sàng ủng hộ một chính sách tiến công giải
phóng miền Nam.
Cuối tháng 12, trước khi tiến công Phước Long, người đứng đầu
lực lượng vũ trang Liên Xô, đại tướng Viktor Kulikov, bay đến Hà Nội. Polgar và
tôi báo ngay cho ban giám đốc CIA biết. Chúng tôi không làm thế nào mà nắm được
những vấn đề Kulikov thảo luận với chủ nhà. Điều quan trọng đối với chúng tôi
(tôi nhấn mạnh điểm này trong một bức điện) là cuộc viếng thăm Bắc Việt Nam
tương tự như trước đây của một vị tướng Liên Xô hồi năm 1971, diễn ra đúng trước
cuộc tiến công lớn của Hà Nội. Thật vô ích nếu nói rằng Polgar bắt buộc phải nhắc
lại cho Hoa Thịnh Đốn biết tình hình hiện nay có thể giống như trường hợp trước.
Nhưng những người phân tích tin của CIA và Bộ Ngoại giao quá
báo thủ, không đồng ý với nhận định trên. Họ cho là cuộc viếng thăm của Kulikov
chỉ là một cuộc viếng thăm thường lệ.
Sau này họ thấy rõ chúng tôi lập luận đúng. Những tuần sau
khi Kulikov đến thăm Việt Nam, khối lượng thiết bị quân sự Liên Xô chở bằng đường
biển tới Bắc Việt Nam tăng gấp bốn lần, Mátxcơva đã ủng hộ hết mức cuộc tiến
công cuối cùng của Hà Nội...
Giữa tháng Giêng năm 1975, Bộ Chính trị họp ở Hà Nội để xây dựng
kế hoạch đánh chiếm Buôn Mê Thuột, trong vùng núi phía Tây. Chiến dịch này đặc
biệt khó khăn. Các ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ quyết định phải có một ủy viên Bộ
Chính trị chịu trách nhiệm hoàn toàn. Người được chọn là Đại tướng Văn Tiến
Dũng.
Đại tướng Dũng khoảng 58 tuổi, người trẻ nhất trong Bộ Chính
trị, người duy nhất có thể giành danh hiệu quí giá: "người lao động”. Thật
vậy, là nông dân nghèo ở tỉnh Hà Tây, ông trở thành thợ cả trong một xưởng dệt ở
Hà Nội giữa những năm 30. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong vùng giữa
Hà Nội và Hà Tây, và cũng như nhiều đảng viên quan trọng khác, ông bị người
Pháp bắt bỏ tù trong cuộc khủng bố chống cộng năm 1939. ông vượt qua một cách
can đảm và bốn năm sau, ông vừa tham gia chiến đấu ngoài mặt trận, vừa rèn luyện
học tập quân sự. Kinh nghiệm quân sự thực tế của ông bảo đảm cho ông làm tròn
nhiệm vụ chính ủy cao cấp trong quân đội của Việt Minh. Thoạt đầu, ông Dũng làm
việc dưới bóng của người thủ trưởng tài ba, Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng
Giáp là người chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng Đại tướng Dũng, Tổng tham mưu trưởng,
cũng là người tổ chức đưa vũ khí đạn dược đến bao vây tập đoàn cứ điểm ấy cho đến
khi quân Pháp đầu hàng. Trong khi các ông Giáp và Trường Chinh, một ủy viên Bộ
Chính trị khác, dành thì giờ để nghiên cứu, viết ra những bài lý luận về chiến
tranh du kích và chiến tranh nhân dân thì tướng Dũng, trở thành thành viên của
đoàn đại biểu Bắc Việt Nam bên cạnh ủy ban quốc tế kiểm soát, tập trung vào việc
nghiên cứu trực tiếp kẻ thù để tìm cách đánh thắng chúng.
Khi ông trở ra Hà Nội, cuối những năm 50, ông đã có trong đầu
phương án tốt, một cuộc chiến tranh du kích phải có lực lượng chính qui dẫn dắt.
Chính từ phương án ấy và từ phương án của các ông Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh
mà Bộ Chính trị định ra chiến lược đưa họ đến thắng lợi. Ông Dũng được bầu làm ủy
viên dự khuyết Bộ Chính trị năm 1960. Cụ Hồ Chí Minh rất thích ông. Sau cuộc tiến
công năm 1972, ông trở thành ủy viên chính thức cùng với ông Trần Quốc Hoàn,
người đứng đầu Bộ Nội vụ của Hà Nội, trùm công an mật... Ông Dũng là một vị tướng
chiến đấu, một loại Ulysse hay Grant của Bắc Việt Nam. Một đầu óc thực tế không
phụ thuộc vào một lý thuyết nào. Nếu công việc có thể tiến hành, ông làm ngay,
cố hết sức nhanh và cố hết sức đạt hiệu quả. Nhưng bao giờ cũng chấp hành theo
ý kiến của Bộ Chính trị.
Trong hồi ký của mình, ông Dũng viết "được ra trận chiến
đấu là một niềm vui lớn", "được đi thực hiện một nghị quyết quan trọng
của Đảng là một hạnh phúc”. Và ông thổ lộ với người bạn già, tướng Trần Văn
Trà, nhà chỉ huy quân sự vùng Sài Gòn và đồng bằng như sau: "Kỳ này vào
đánh Tây Nguyên cho đến mùa mưa, đánh xong tôi sẽ vào Nam Bộ cùng với các đồng
chí nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị để đánh lớn trong mùa khô 1975 -
1976", ông Dũng tỏ ra hết sức lạc quan. Thực tế, chỉ ba tháng sau, ông đi
tìm ông Trà, ở Nam Bộ.
MỘT ANH BẠN HẨU
Trong khi quân đội Bắc Việt Nam mở chiến dịch mùa khô thì
Quân Khmer đỏ tiến công Campuchia. Chẳng mấy chốc, họ chiếm mọi con đường đi đến
Phnôm Pênh. Rồi họ nhanh chóng cắt con đường thủy độc nhất sông Cửu Long, nối
thành phố với thế giới bên ngoài. Cùng lúc ấy, Ở phía Bắc Phuôm Pênh, họ đặt
súng cối và pháo binh gần sân bay Pochenton, để chặn cầu hàng không Mỹ.
Ngày 7 tháng 1, Kissinger cấp tốc họp với nhân viên ê kíp nhỏ
đặc biệt, nhóm "đặc biệt hành động Hoa Thịnh Đốn" để tìm cách dập tắt
đám cháy ở Đông Dương. Giải pháp đầu tiên để giải quyết cuộc khủng hoảng ở
Campuchia bị bác bỏ ngay: người Pháp đề nghị đưa Sihanouk trở về và mở màn cuộc
thương lượng giữa Sihanouk với Hoa Kỳ. Kissinger phản đối để bảo vệ uy tín của
Mỹ, bạn đồng minh không thay đổi của Lon Noi.
Hôm sau, chính phủ Mỹ báo tin sẽ xin quốc hội viện trợ quân sự
bổ sung để cho các khách hàng Đông Dương có thể vượt khó khăn cho đến tháng 6,
ngày chấm dứt năm tài chính.
Đề nghị ấy chắc chắn không được đáp ứng. Lạm phát và thất
nghiệp lan tràn ở Hoa Kỳ. Ý định dùng tiền đóng thuế của nhân dân để duy trì một
cuộc chiến tranh ở xa, đáng lẽ đã được chấm dứt, làm cho hầu hết các đại biểu
quốc hội và nhà báo tức cười.
Tình hình càng rối ren và chính phủ Mỹ phải chịu nhiều hậu quả
của vụ bê bối Watergate. Sau khi đánh đổ một tổng thống, quốc hội quyết định
chú trọng chính sách đối ngoại. Việc thượng nghị sĩ Jackson phản đối dự thảo hiệp
định thương mại Mỹ - Xô là một thí dụ điển hình của chiều hướng ấy. Cuộc khủng
hoảng mới nhất ở Chypre cũng cùng chung một số phận. Mùa hè trước, sau khi quân
Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đảo, quốc hội đã cắt viện trợ quân sự cho Ankara. Quyết định ấy,
mặc dù đúng, nhưng có những hậu quả tai hại đối với chính sách chung của chính
phủ, nhất là đối với sự hoạt động của Kissinger ở Đông Dương. Làm sao mà quốc hội
có thể phạt một hội viên của Otan khá quan trọng như nước Thổ trong khi đó lại
tiếp tục ủng hộ Campuchia và Nam Việt Nam.
Nếu tính tất cả những dữ kiện đó thì chính phủ phải dũng cảm
xin tiền bổ sung. Đối với Kissinger không có lựa chọn nào khác. Theo ông, cuộc
tranh luận về tiền sẽ gây ra tiếng vang, dội cả ra ngoài bản thân cuộc xung đột
Dông Dương. Cũng giống như hiệp định thương mại Mỹ - Xô và vấn đề Chypre, vấn đề
Đông Dương sẽ trở thành nguyên cớ một cuộc đấu tranh triết lý và chính trị giữa
Nhà Trắng và cơ quan lập pháp. Một cuộc thử thách sức mạnh về chức năng của hai
cơ quan này trong chính sách đối ngoại.
Đối với Kissinger, những cuộc tranh luận này sẽ làm phai mờ
hình ảnh nước Mỹ thường tỏ ra là một nước bảo vệ bạn bè gặp khó khăn. Người ta
sẽ nghi ngờ điều đó. Không nên để như vậy, nhất là lúc này, Kissinger đã cam
đoan rằng Hoa Kỳ sẽ cố đem sức nặng ra để tìm giải pháp cho cuộc xung đột
Ixraen - A rập. Những bên tham chiến ở Trung Đông đã tin tưởng Kissinger. Có
nên để lòng tin bị lung lay khi quốc hội Mỹ quay lưng lại các bạn Đông Dương
không?
Ngoài những điều phân tích về địa lý, chính trị ấy, đại sứ
Martin có những lý lẽ riêng của ông để đòi tiền bổ sung. Theo ông, điều có lợi
cho Sài Gòn lúc này, chưa quan trọng bằng cuộc đấu tranh của ông chống bọn
"nổi loạn Mỹ, bọn vô chính phủ "trí thức điên rồ" đang nhận làm
những kẻ tuyên truyền cho Hà Nội trong hạ tầng của giới chính trị như Tom Hay
den, Fred Branfman và Don Luce, cổ động viên của ủy ban giúp đỡ Đông Dương.
Martin quyết định đánh bại những người này... đồng thời dành được tiền bổ sung
cho Sài Gòn.
Hoàn cảnh lúc bấy giờ cũng buộc ông phải có một thái độ như
thế. Giữa tháng 12, lúc quân Bắc Việt Nam đang chuẩn bị mở chiến dịch mùa khô,
một nhóm những nhà tu hành Mỹ cho lưu hành một bức thư về Việt Nam. Dựa vào những
tin tức do ủy ban giúp đỡ Đông Dương cung cấp, họ tố cáo người Mỹ phải chịu
trách niệm chính trong cuộc đổ máu ở Việt Nam.
Giọng viết và nội dung bức thư làm cho Martin tức giận đến mức
ông phải trả lời. Nhất là bộ ngoại giao lại không muốn làm. Trong một bức điện
gửi cho Hoa Thịnh Đơn ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh, ông giơ gươm nổi giận lên:
"Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với bộ ngoại giao nỗi sợ hãi hiển nhiên về những
điều công kích định bôi tro trát trấu vào người. Những điều công kích này chĩa
vào bất cứ ai, phải nói rằng nội dung bức thư của các nhà tu hành chỉ là những
điều nói dối, từ đầu đến cuối... Tuy chúng tôi chia sẻ với nỗi sợ hãi ấy nhưng
chúng tôi không đồng ý với những lý lẽ cho phép bộ ngoại giao thôi, không nói
rõ sự thật với nhân dân Mỹ. Hình ảnh Ponce Pilate còn trong trí nhớ mọi người,
nhất là gần đến ngày lễ Noel”. Cuộc tranh luận về viện trợ bổ sung, đối với
Martin, là một dịp để kéo những bạn đồng nghiệp của ông ở bộ ngoại giao vào cuộc
đấu tranh chống những người "nổi loạn”. Nhưng bộ ngoại giao còn nhiều điều
mắc mớ. Một năm sau, Martin nói với tôi: "Tôi biết rõ là Việt Nam đi đời rồi
nhưng tôi không thể làm gì hơn là cố kẻo chậm lại". Nhưng ông cũng không
gánh nổi gánh nặng ấy. Cuối cùng, sau nhiều lần bộ ngoại giao can thiệp, quốc hội
bỏ phiếu chuẩn y một món tiền bổ sung là ba trăm triệu đôla. Trong lúc đó, quân
đội Bắc Việt Nam tăng sức ép. Cuối tháng 1 ở Quân khu I, ba sư đoàn đóng ở phía
Tây Huế và Đà Nẵng và nhiều trung đoàn từ miền Bắc vào luồn của khu phi quân sự,
đến yểm trợ. Ở Tây Nguyên thuộc Quân khu II cũng có quân tiếp viện. Ở phía Nam,
trong vùng Sài Gòn, một trong những sư đoàn đã đánh chiếm Phước Long, hành quân
vê phía tỉnh Tây Ninh, để phối hợp cùng với nhiều đơn vị khác đã sẵn sàng tiến
công. Chẳng mấy lúc, lực lượng cộng sản như một vòng cung cắt biên giới phía Bắc
của Quân khu III.
Bề rộng của đất đai cần bảo vệ lớn đến mức làm cho các đơn vị
của Sài Gòn phân tán rải rác, nhiều đơn vị xa hẳn căn cứ. Họ không có cách nào
hơn là rút về vị trí, cố thủ và chờ cuộc tiến công mới nếu họ không muốn giữ đất.
Về phía ông, Đại tướng Văn Tiến Dũng chuẩn bị đi Nam. Tuần cuối tháng 1 năm
1975, ông đến chào ông Lê Duẩn. Họ chúc nhau gặp may mắn và ông Lê Duẩn nhắc lại
cho Đại tướng câu nói ngắn gọn về kế hoạch chiến lược của ông: "Nên suy
nghĩ nhiều và có cách đánh đúng. Chiến trường Tây Nguyên có thể làm ăn to được,
đánh thắng có thể dẫn đến khả năng ta dự kiến là trong năm nay giải phóng miền
Nam".
Ngày 5 tháng 2, Tướng Dũng tới Hà Nội, đáp máy bay đi Đồng Hới.
Tại đây, ông lấy xe hơi đi Quảng Trị, ở phía Bắc Quân đoàn I. Chuyến đi về phía
Nam bắt đầu. Từ đó, ông đi xuồng máy, xe hơi, theo đường đi của quân đội Bắc Việt
Nam, chạy từ phía Tây Nam Việt Nam đến phía Nam Lào. Chuyến đi của ông được giữ
hết sức bí mật. Ông Dũng kể lại: "Mọi việc đều được chuẩn bị để đánh lạc sự
theo dõi của địch. Sau khi tôi đi, báo chí tiếp tục phản ảnh những hoạt động của
tôi, coi tôi như vẫn ở nhà". Việc đánh lừa ấy đạt kết quả. Một năm sau khi
Việt Nam sụp đổ, lúc ông Dũng cho phát hành tập hồi ký của mình, chúng tôi mới
biết ông chỉ huy cuộc tiến công cuối cùng, đánh tổng hành dinh, ngay sau phòng
tuyến của chúng tôi.
Bao nhiêu điều phụ thuộc vào nhiệm vụ của tướng Dũng... Ngày
3 tháng 2, trong một bài diễn văn nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng, ông nhấn
mạnh những mục tiêu chính trị được đề lên trên mục tiêu quân sự, gây chút hy vọng
cho việc thương lượng. Nói về những điều kiện chủ yếu cho cuộc đàm phán, ông cẩn
thận không nhắc đến việc Thiệu phải ra đi, đòi hỏi thường lệ trước đây của Bắc
Việt Nam.
Đọc xong một lần nữa bản dịch bài diễn văn, tôi càng chắc chắn
rằng mục tiêu trước mắt của cộng sản là nối lại cuộc đàm phán chứ không phải là
chiến thắng quân sự. Mấy ngày sau, một nhân viên CIA gửi cho tôi một bản báo
cáo gần đúng như nhận định của tôi. Anh ta dự kiến sẽ có những cuộc tiến công mới
và mạnh ở phía Bắc Sài Gòn (Buôn Mê Thuột không được ghi cụ thể) nhưng anh lại
nói rằng khi trận đánh xong thì Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ đề nghị họp lại
tay đôi. Anh ta cũng nói không họp ở Paris mà họp trong một thành phố ở miền
Nam Việt Nam. Bài diễn văn của ông Duẩn có hai ý nghĩa. Tôi làm một bản phân
tích cho Polgar, trong đó tôi trình bày những điều tôi rút ra từ những cam kết
chính trị và quân sự của ông. Bực mình, Polgar quyết định kiểm tra lại những nhận
định của tôi qua phái đoàn Hunggari trong ủy ban quốc tế kiểm soát. Ông đưa bản
phân tích của tôi cho họ, đề nghị họ góp ý kiến. Mấy ngày sau, họ trả lời rằng
những kết luận cua tôi gần đúng. Nói một cách khác, chúng tôi vẫn có hy vọng đi
đến một cuộc thương lượng mặc dù, chắc chắn, hoạt động quân sự sẽ phát triển
trong mấy tuần tới.
Polgar diện ngay cho Hoa Thịnh Đốn một bản tóm tắt nhận định
của người Hunggari. Nhưng người này cũng báo cho Hà Nội những tin tức cần thiết.
Biết rõ sự đánh giá của chúng tôi, Bộ Chính trị có thể sửa cho đúng kế hoạch và
chiến lược của họ. Với những ý định tốt nhất thế giới, Polgar đã gửi đi một bản
tin vô giá đối với người Bắc Việt Nam.
Nhưng hướng mới về một giải pháp chính trị không làm mất sự
băn khoăn của Polgar về việc uy hiếp quân sự. Ông vẫn đề nghị quốc hội cấp thêm
tiền viện trợ và tự mình làm việc này. Suốt mùa Đông, ông yêu cầu tôi phải tỏ
ra bi quan trước những vị khách đến thăm, trước nhân viên sứ quán và không được
nêu vấn đề về ý đồ chính trị của Hà Nội, một vấn đề vừa khó khăn vừa rối tinh.
Sau một buổi trình bày hết sức rõ ràng của tôi, một đồng nghiệp
CIA giơ tay lên trời, kêu lên với vẻ sợ sệt: "Trời ơi, mấy tuần trước, anh
nói là không có gì nguy cơ cả. Nay, hình như, chúng ta đang đứng trước buổi xử
án cuối cùng!”
Cảm tưởng ấy lan rộng nhanh chóng khắp sứ quán và nhiều đồng
nghiệp tôi bắt đầu bi quan và giấu vũ khí, đạn dược để phòng khi phải tự vệ.
Cùng lúc ấy, phái đoàn quân sự và các cơ quan hành chính trong sứ quán, tự họ,
cho biết kế hoạch di tản, một bản tài liệu gồm 400 trang (mỗi sứ quán Mỹ trên
thế giới đều có một bản, thật là một kiểu làm việc cổ lỗ). Đại tá Garvin Mc
Curdy, tùy viên không quân, đại tá Cornelius Carmody, tùy viên hải quân được
giao phụ trách việc này. Được một ê kíp nhỏ giúp việc, họ thảo ra một kế hoạch
cụ thể di tản những người Mỹ ở các quân khu và cuối cùng là ở Sài Gòn. Phần lớn
sự thay đổi của họ thuộc mặt hình thức chứ không phải nội dung. Từ tài liệu gốc,
họ chỉ còn giữ lại một số người di tản không quá 6.800 người, phần lớn là người
Mỹ.
Polgar cũng được giao nhiệm vụ thảo một kế hoạch di tản những
nhân viên tình báo và những nhân viên quan trọng nhất của Chính phủ Sài Gòn.
Nhưng ông từ chối. Mặc dù tình hình quân sự quá xấu, ông vẫn không tin rằng một
ngày kia ông phải bỏ nước này.
Còn đại sứ Martin, ông trở về Hoa Thịnh Đốn đầu tháng 2, để bảo
vệ chủ trương của chính phủ trong cuộc thảo luận về viện trợ bổ sung. Vừa đến bộ
ngoại giao, ông đã đưa ra một dự án mà ông rất thiết tha, đó là một chương trình
giúp đỡ khống lồ làm cho Sài Gòn có thể độc lập về kinh tế trong ba năm. Đề nghị
của Martin bị bộ ngoại giao cũng như quốc hội bác bỏ. Người ta kết tội ông là cố
làm cho vấn đề Việt Nam bị lãng quên trong cuộc bầu cử sắp tới. Nhưng Martin phản
đối là ông đấu tranh cho việc thành lập một ủy ban gồm nhiều thượng và hạ nghị
sĩ sẽ đi Nam Việt Nam để nghiên cứu tại chỗ dự án cửa ông. Được chính phủ đồng
ý nhưng dự án của Martin không được chấp nhận vì những cuộc xung đột cá nhân và
giá dầu lửa. Cay đắng và thất vọng, Martin trở lại Sài Gòn.
Giữa lúc ấy, nhiều quan chức chính phủ Mỹ cũng định cứu vãn
tình hình. Họ dùng mánh khóe cũ và kêu cứu lần này ở Campuchia. Họ trình bày với
quốc hội. Mấy tuần nữa, Chính phủ LonNol sẽ đổ nếu quốc hội không chuẩn ngay viện
trợ bổ sung cho Campuchia. Nhưng không có lý lẽ gì thuyết phục được quốc hội, CỈA
vừa hoàn thành bản báo cáo vạch rõ chính phủ Phnôm Pênh bất lực, không thể chủ
động về mặt quân sự trong thời gian gần nhất, dù được viện trợ bổ sung. Colby,
giám đốc CIA, trình bày thành thật và chi tiết kết luận ấy với một ủy ban của
quốc hội, và không còn vấn đề viện trợ cho Carnpuchia nữa.
Ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu theo dõi việc ấy cẩn thận và rất
ngạc nhiên. Những lời đường mật của Hoa Kỳ về viện trợ cần thiết cho sự sống
còn của ông ta đã làm ông mất lòng tin và kẻ thù của ông ở Hà Nội, chắc chắn
cũng được khuyến khích nhiều. Hơn thế, kẻ thù của Thiệu ngay trong nội địa cũng
ngóc đầu dậy. Họ kết tội Thiệu là chỉ chăm lo tài sản riêng chứ không nghĩ đến
quyền lợi quốc gia... Thiệu phản ứng lại. Năm tờ báo phải đóng cửa, 18 nhà báo
viết những điều không có lợi cho chính phủ bị bắt vì hoạt động thân cộng sản.
Giữa cơn bão táp chính trị ấy, Thiệu tiếp tục trị phái quân sự
sau khi mất Phước Long, ông ra lệnh chỉnh đốn lại Quân khu III và chỉ định tướng
Nguyễn Văn Toàn làm tư lệnh Thiệu cũng quyết định "trẻ hóa" một ít
chiến lược. Tướng Cao Văn Viên, người tổng tham mưu trưởng tươi cười, từ nhiều
tháng nay, đã cố vận động Thiệu chấp nhận ý kiến: một Việt Nam thu hẹp. Ý kiến
này từ một năm nay cũng được thủ tướng Khiêm và thỉnh thoảng được người Mỹ nghĩ
đến. Những quyết định của chính phủ ngày 9 và 10 tháng 12, đánh dấu bước mở đầu
rụt rè theo hướng đó: tập trung tất cả lực lượng dự trữ, nếu có thể nói như thế,
về Quân khu III, không cử quân tiếp viện lên Tây Nguyên hay ra Quân khu I. Sau
thảm bại Phước Long, Khiêm và Viên đẩy Thiệu lùi mót bước nữa: bỏ phía Bắc đất
nước, như thế có thể tiết kiệm được súng ống đạn dược, quân trang v.v...
Mới đầu, Thiệu bác ý kiến này, nhưng những tin tức từ Hoa Thịnh
Đốn gửi về ngày càng bi đát, cần phải xét lại. Đầu tháng 2, Thiệu thành lập một
nhóm nghiên cứu tình hình, đứng đầu là Viên và Khiêm, có nhiệm vụ nêu rõ thực
trạng lực lượng chiến lược, ông cũng ra lệnh cho Quân khu I gọi những lực lượng
ưu tú trong sư đoàn dù đóng ở phía Bắc Huế rút về và chuẩn bị cho lực lượng này
chuyển vào Sài Gòn.
Viên và Khiêm không bằng lòng. Họ cho là việc rút sư đoàn này
đi không đúng với sự cần thiết. Nhiều người khác trong giới lân cận Thiệu cũng
không tán thành vì những lý do ngược lại: quyết định này đối với họ, triệt để
quá. Một người kịch liệt chống lại chủ trương rút quân là tư lệnh Quân khu I,
tướng Ngô Quang Trường. Năm sư đoàn dưới quyền ông đã khá phân tán, nếu không
có sư đoàn dù thì ông cho là không khi nào ông có thể tự vệ nổi để chống lại bốn
sư đoàn Bắc Việt Nam và nhiều đơn vị khác đang đóng trước mặt ông ta.
Giữa tháng 2, tướng Charles Timmes, sĩ quan liên lạc chính của
CIA cùng với bộ chỉ huy Nam Việt Nam đến thăm sở chỉ huy của Trưởng ở Đà Năng,
để bàn tình hình như thường lệ. Trong cuộc tranh luận, Timmes rất ngạc nhiên được
biết một kế hoạch chiến lược mới đang được thực hiện nhưng Trưởng từ chối không
giải thích cho ông biết rõ vì sao cần phải có kế hoạch này. Ông dự kiến việc bảo
vệ bốn điểm quan trọng: các thành phố Huế và Đà Nẵng, Tam Kỳ, tỉnh lỵ tỉnh Quảng
Tín và mỏm Chu Lai ngay ở phía Nam, ở đây có một sân bay lớn và sở chỉ huy của
sư đoàn 2 quân đội Nam Việt Nam. Nếu cộng sản cho quân tiếp viện đi qua khu phi
quân sự, Trưởng giải thích, thì ông sẽ rút về những điểm trên. Timmes, như lời
ông nói với tôi sau này, ngả theo ý kiến ấy. Ông cho là Trưởng có thể điều khiển
tốt năm sư đoàn của ông ta. Chắc chắn Timmes sẽ bớt lạc quan hơn nếu ông biết
người chỉ huy Quân khu I chỉ còn có bốn sư đoàn .
Mấy ngày sau, Trưởng đi Sài Gòn để bộ tổng tư lệnh thông qua
kế hoạch của ông ta. Trưởng rất lạ là Thiệu không sốt sắng lắm, cố quyết định
chậm lại bằng cách ngẫm nghĩ từng chi tiết một. Thực tế, Thiệu không muốn có một
sự thay đổi nào trong việc bố trí lực lượng. Tuy nhiên, Thiệu phải công nhận rằng
việc rút sư đoàn dù đi, làm cho lực lượng của Trưởng vô cùng yếu so với lực lượng
đối phương. Thiệu sợ sẽ gây cảm tưởng xấu với người Mỹ nếu cứ bỏ đất đai.
Quyết định của Thiệu rút sư đoàn dù khỏi Quân khu I là hậu quả
chiến lược bỏ vị trí Tống Lê Chân vào tháng 4 năm 1974 và thị xã Phước Bình một
tháng trước đây. Cho là có quyết định này thì có thể làm nhẹ được hậu cần, gây ảnh
hướng với quốc hội và củng cố việc bảo vệ chung quanh Sài Gòn, nên tướng Murray
đồng ý. Đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng ông thôi không thảo luận những điều dự kiến
vào mùa hè trước. Trong khi Thiệu bất đắc dĩ phải cho mình trôi xuống cái đốc
nguy hiểm này, theo cách nói của ông ta, thì phần lớn những cộng tác viên của
Martin chỉ chú ý đến viện trợ bố sung. Tuần thứ ba tháng 2, những buổi tiếp
khách diễn ra mất 24 giờ vì làn sóng những người đến thăm: đại biểu quốc hội,
quan chức ở Hoa Thịnh Đốn. Mặt khác, tôi phải chúi mũi vào việc viết những bài
tuyên truyền. Tôi không còn thì giờ để nghiên cứu những khía cạnh tế nhị trong
chiến lược của Sài Gòn hoặc của cộng sản.
Điều không may tột độ nữa là một chị nhân viên giỏi của tôi vắng
mặt hàng tuần nay. Đầu tháng, Pat Johnson, vì ăn sand- wich ôi với rau xà-lát
và tôm ở bể bơi khách sạn Dục nên phải nằm liệt giường. Lúc chị dậy được, thì
tôi đã mệt lả người và mong có những điều kiện làm việc thoải mái hơn một ít.
Nhưng không thể được. Nhân viên thứ ba trong phòng tôi quyết định nghỉ hè vì đã
làm việc lâu. Mấy ngày sau, anh bay về Hoa Kỳ và ở đó bốn tuần xem vô tuyến
truyền hình về sự tan rã của miền Nam Việt Nam với lời bình luận của Walter
Cronkite.
May thay, Polgar tìm được người thay anh này. Đó là Joe
Kingsley. Là một nhân viên CIA không có một chút kinh nghiệm phân tích tin, anh
chàng được Polgar tuyển là vì biết rõ Quân khu I như biết rõ túi anh. Anh là một
sĩ quan trong lực lượng đặc biệt chiến đấu ở đấy đầu những năm 60, và đã được một
mảnh đạn khen thưởng. Anh tiếp tục đi cà nhắc và đi như khiêu vũ sau khi uống
chén rượu Martin đầu tiên. Lần đầu gặp nhau, Joe không gây cảm tưởng gì cho tôi
cả. Tóc đen, lông mày cong, cái cười hóm hỉnh tạo cho anh một vẻ ngây thơ lành
mạnh giấu khéo cái tuổi 38 và sự hiểu đời của anh. Điều quái ác là anh quan tâm
quá nhiều đến những phương tiện tình báo - đài thu thanh, vũ khí, cốt mật - chứ
không phải thực chất tin tức. Nói cho gọn, anh là người cuối cùng tôi chọn để
cùng tôi lặn ngập trong những niềm vui phân tích, đánh giá tình hình lúc Sài
Gòn chờ cuộc xung phong cuối cùng của cộng sản.
Nhưng tôi thấy rất nhanh nhận xét đầu tiên của tôi về Joe là
sai. Anh tỏ ra là một trong những người phân tích tin cừ khôi (và vui) mà tôi
được biết. Và là người bạn hẩu đến với tôi rất tự nhiên, quả là của trời cho.
Trong những tuần cuối cùng của cuộc chiến tranh, vừa cười, vừa đùa, anh đã vượt
qua biết bao hàng rào kiểm soát ở căn cứ không quân Tân Sơn Nhất và đưa được
nhiều bạn Việt Nam của anh và của tôi đi di tản.
HOA SEN NỞ
TT VNCH Nguyễn
Văn Thiệu đã đi kiểm tra khắp 4 vùng chiến thuật. Tại QK2, mặt trận Bắc Kontum,
vùng biên giới Lào-Việt, tướng tư lệnh vùng Phạm Văn Phú, hướng dẫn Nguyễn Văn
Thiệu thăm một đơn vị Biệt động quân.
Sau cùng, cuối tháng 2, quốc hội cử một đoàn điều tra sang
Đông Dương, việc mà Martin hằng mong muốn. Đoàn gồm sáu người trong đó có hai
người "tự do" Donald Fraser ở Minnesota và Beng Abzug Ở Manhattan.
Martin định làm cho họ thay đổi ý kiến và ông không trù trừ gì dựng lên một cảnh
xiếc để làm cho họ xúc động. Mỗi cơ quan của sứ quán được giao đóng một vai trò
- họp báo, diễn thuyết, ghi tin và cơ quan tôi đã góp phần đắc lực vào chuyện ấy.
Nhiều bản báo cáo của tôi được lấy từ những hồ sơ mật ra để làm nhiều bản và
phân phát đi như những chương trình một buổi dạ hội dù việc ấy có thể gây nguy
hiểm cho một số nhân viên tình báo của tôi.
Nhưng điều đã được đoán trước, tất cả những mánh khóe ấy
không đi đến đâu cả. Martin và Polgar vì không thật thà nên đã tạo ra sự phản đối
của cả những nghị sĩ trước đứng về phía ông. Trong một buổi họp sóng gió, Abzug
chất vấn sứ quán tại sao có thể tiếp tục cho rằng tình hình chính trị ở Sài Gòn
ổn định, trong khi đó thực tế lại căng thẳng? Polgar chối cho rằng không hề có
một rối loạn nào. Khi Martin buộc phải trả lời câu hỏi về sự mất an ninh ngày
càng tăng ở nông thôn như những bản báo cáo đã phản ánh, ông trả lời là cái đó
chính phủ không đặt thành một vấn đề quan trọng. Ông trình bày các sự kiện làm
như ở 11 thành phố, thị trấn, thị xã vùng Sài Gòn và vùng đồng bằng mất trong
hai tháng vừa qua không ảnh hưởng gì đến đời sống kinh tế của nước này.
Sau đó, trả lời câu hỏi về ý đồ của quân đội Bắc Việt Nam,
ông nêu ra một tràng nhận định, lý lẽ mà tôi được nghe trong rất nhiều cuộc nói
chuyện. Tôi đã thuộc lòng những câu ấy, ông nói: "Tất cả những gì tôi có
thể nói với các ông được là tôi mong quân đội Bắc Việt Nam mở cuộc tiến công rộng
lớn trong một hai tháng nữa. Chắc chắn là thoạt đầu, quân đội Nam Việt Nam phải
rút lui. Họ thường làm thế. Nhưng cuối cùng, họ sẽ đánh cho quân đội Bắc Việt
Nam một trận thắng quyết định, như năm 1972".
Đoàn đại biểu quốc hội Mỹ càng tỏ ra không hài lòng sau cuộc
gặp mặt với tổng thống Thiệu. Thiệu từ chối không trả lời về những cuộc tra tấn
trong các nhà tù, và ông ta khẳng định rằng 18 nhà báo ông vừa cho bắt đều là
những người cộng sản đã được công nhận. Nhờ những nguồn tin của mình, sứ quán
biết rõ điều đó không đúng. Những nhà báo ấy chỉ phạm tội phê phán chính phủ
Thiệu, nhưng chúng tôi không nói gì với những vị khách.
Có lúc Fraser và nhiều đồng nghiệp của ông đề nghị gặp riêng
tôi, cùng một viên chức nữa của CIA, để có nhận định khách quan hơn về những việc
Polgar và Martin đã trình bày với họ.Trong cuộc nói chuyện này, tôi cố gắng đứng
trung gian giữa nhận định chính thức của sứ quán và sự thật mà tôi nắm được.Tôi
giải thích rằng quân đội Bắc Việt Nam gặp khó khăn triền miên và nhất là có sự
hòa dịu không chắc chắn giữa Máxcơva và Hoa Thịnh Đốn.
Tôi sắp sửa kết thúc bản trình bày thì cửa mở bất thình lình
và bà Abzug, đại diện bang Manhattan, đi vào, cái mũ panama rộng vành lắc lư
trên tai bà như một cái lầu dựng trước gió mùa. Bà kêu lên: "Làm cái gì ở
đây?". Tôi không cần người khác phải nhắc tôi, tôi nghĩ gì về CIA và
"ảnh hưởng" của nó trên thế giới. Tôi quyết định tự giới thiệu và
đương đầu với điều xấu nhất. Tôi đứng dậy nói với bà: "Tôi là một viên chức
của CIA" và thách thức, với một giọng châm biếm, tôi tiếp: "Bà hãy
coi chừng về những điều bà sắp nói!". Bà quay phắt lại tôi như thể tôi đã
ném một chiếc găng vào mặt, nhìn chằm chằm vào tôi và thét lên (không có một vẻ
châm biếm nào): "Anh hãy coi chừng những điều anh nói, cút đi!". Buổi
trao đổi thật thà, duy nhất giữa tôi với những vị khách chấm dứt một cách thiếu
lịch sự như thế.
Nếu không có sự can thiệp của cộng sản thì cuộc viếng thăm của
đoàn đại biểu quốc hội thất bại hoàn toàn. Nhưng mấy giờ sau khi họ rời sứ
quán, họ đi xe hơi đến trại David ở Tân Sơn Nhất để gặp các đại biểu Bắc Việt
Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong ủy ban
quân sự. Các nghị sĩ đã báo cho những người này biết họ muốn có một cuộc thảo
luận cởi mở, không tuyên truyền, không lên án, về 1.300 lính Mỹ vẫn mất tích.
Nhưng họ đến trại David thì ở đó đã có khoảng 76 nhà báo do người Bắc Việt Nam
mời. Phòng họp được trang trí nhiều cờ Việt cộng và một tượng Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đó không hẳn là trang trí cho một buổi họp không có dụng ý. Hơn thế hai
đoàn đại biểu cộng sản đều tỏ ra không khoan nhượng, tránh né đến mức nhiều nghị
sĩ phải ra về, quyết định sẽ bỏ phiếu cho viện trợ bổ sung Sài Gòn, đơn giản là
để tỏ thái độ phản đối.
Sự quay ngoắt này chỉ là thắng lợi ngắn ngủi của chính phủ. Mấy
tuần sau, sự tan rã của quân đội Nam Việt Nam, làm cho đề nghị cấp thêm viện trợ
thành vô lý. Sứ quán cũng phải trả giá cho sự giả dối của mình trong cuộc đón
tiếp đoàn đại biểu quốc hội. Quá chú ý bảo vệ quyền lợi của chế độ Sài Gòn,
chúng tôi chỉ làm cho các vị khách hiểu rõ sự bất lực của chúng tôi trong việc
nhận định khách quan bất cứ việc gì. Tình hình ấy làm cho công việc của chúng
tôi càng thêm khó khăn, phức tạp trong những tuần sau, khi chúng tôi cần phải
làm cho những người bạn ở quốc hội thấy rõ sự trầm mọng về mặt quân sự.
Mọi sự nghi ngờ, mọi lời phê phán đều đổ lên đầu bản thân
Martin. Ở Sài Gòn, một thượng nghị sĩ tuyên bố với phóng viên báo chí rằng
Martin là "sự phá hoại". Còn Abzug và Fraser thì quyết định làm mọi
việc để Martin phải thuyên chuyển đi.
Tất cả những việc ấy có làm Martin nản lòng không? Dù sao,
ông cũng không tỏ ra như thế. Ông vẫn tin vào địa vị của mình, vào quan hệ giữa
ông với Kissinger. Buổi chiều ngày 2 tháng 3, trong khi các đại biểu quốc hội
ra sân bay Tân Sơn Nhất về Hoa Kỳ, Martin lại làm một việc không có lợi nữa.
Ông cho đỗ chiếc xe đen của mình trước phòng khách dành cho các đại biểu, đúng
lúc các vị sắp lên máy bay. Ông bước những bước dài vào trong phòng và nói với
một nhóm người rằng muốn được cùng đi về Hoa Thịnh Đốn. Ông còn nhiều điều muốn
nói với họ về dự luật viện trợ cho Nam Việt Nam và ông rất biết ơn họ nếu họ
dành cho ông một chỗ trong máy bay. Các vị nghị sĩ tỏ ra không thích lắm. Họ
cho là đã làm việc quá nhiều với Martin, một chuyến đi dài với Martin sau một
tuần làm việc mệt nhọc ở Đông Dương quả là không thú vị tí nào. Nhưng Martin cố
nằn nì đến mức mà ông trưởng đoàn phải bằng lòng, hoàn toàn vì xã giao.
Trong chuyến đi này, Martin dành phần lớn thì giờ để xem lại
những tài liệu và điều ghi chép mật. Thỉnh thoảng để cho thoải mái, ông cầm ve
áo viên chức bộ ngoại giao đi theo đoàn đại biểu quốc hội, trách anh ta đã để một
số nghị sĩ tiếp xúc với nhân viên cấp thấp ở sứ quán như tôi chẳng hạn.
Giữa cuộc viếng thăm túi bụi của các đại biểu quốc hội, ở
ngoài mặt trận, có một sự yên tĩnh bất ngờ, điều mà Polgar cho là một sự đánh lừa
chính trị. Ông nói rằng, cộng sản làm như vậy là muốn thuyết phục những vị
khách quan trọng của chúng tôi là chiến tranh đã chấm dứt, không cần phải cấp
viện trợ mới cho Sài Gòn nữa.
Có lẽ ông ta nói đúng nhưng chỉ một phần thôi. Vì nếu sự yên
tĩnh là một sự đánh lừa thì đồng thời nó cũng là một sự cần thiết Bắc Việt Nam,
sau khi đánh chiếm được Phước Long đã đổi hướng tiến công. Quân lính của họ phải
có thì giờ thở rồi mới có thể tiến về thị xã Buôn Mê Thuột trên Tây Nguyên được.
Bộ Tổng tư lệnh Nam Việt Nam không phải là không biết những
cuộc hành quân của đối phương. Mấy ngày gần đây, sĩ quan tình báo của quân đội
Nam Việt Nam ở Quân khu II đã khám phá được nhiều dấu hiệu chứng tỏ có những hoạt
động ấy. Và, cũng lúc ấy, nhân viên tình báo của chính phủ ở Quảng Đức, phía
Nam thị xã Buôn Mê Thuột báo cho chúng tôi biết sự có mặt của nhiều đơn vị quan
trọng quân đội Bắc Việt Nam ở Campuchia, bên kia biên giới.
Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân khu II tỏ ra bối rối trước
những phát hiện ấy. Vì ông ta chẳng có đủ lực lượng ở Tây Nguyên để có thể bảo
vệ cùng một lúc tất cả mục tiêu. Sư đoàn 23; sư đoàn thiện chiến nhất của Nam
Việt Nam bị phân tán quá mỏng. Hai trung đoàn đóng rải rác ở Kontum và Pleiku,
trung đoàn thứ ba bị chia cắt trên mặt trận Buôn Mê Thuột - Quảng Đức Để đối
phó với cuộc tiến công vào Buôn Mê Thuột, tướng Phú cũng biết rằng phải gọi 2
trung đoàn về, có khi hơn thế, tùy theo lực lượng của địch.
Nhưng vấn đề đối với ông ta là chỉ có thể giải phóng những
đơn vị bổ sung khi ông ta bỏ việc bảo vệ Kontum và Peiku, việc đó ông ta không
dám làm. Hai tỉnh này rất quan trọng về mặt chiến lược. Không những nằm trên những
đường chính theo đó, quân Bắc Việt Nam thâm nhập từ Lào và Campuchia về mà hai
tỉnh đó còn là điểm tựa nhảy ra bờ biển. Con đường chính Đông - Tây của Quân
khu II, là con đường số 19, nối Pleiku với Qui Nhơn.
Nếu cộng sản định cắt nước này ra làm đôi như trước đây họ
thường định làm nhưng thất bại, thì con đường số 19 là mục tiêu lựa chọn. Do
đó, chính phủ Nam Việt Nam ra lệnh phải giữ với bất cứ giá nào con đường này -
là đường nhánh đi về phía Tây đến Pleiku.
Trước những sự kiện tối cần thiết đó, những tin tức nghèo nàn
của tỉnh Quảng Đức không thể giải thích cho một sự sắp xếp lại lực lượng quan
trọng. Nếu sư đoàn 320 của quân đội Bắc Việt Nam thật sự đã từ Pleiku kéo đi
Buôn Mê Thuột thì quân của Phú cũng phải hướng theo đó. Nếu như nguồn tin không
chính xác và Phú lại chuyển lực lượng đi thì coi như Pleiku và Kontum sẽ mất.
Phú giải thích: không, tôi không thế liều như thế được. Phải
để quân đóng yên tại chỗ. giữ đại bộ phận trong đó có hầu hết sư đoàn 23, tập
trung trên cao nguyên phía Bắc. Để bảo vệ quyết định của mình, Phú nêu ra những
tin tức thu được qua đài phát thanh của cộng sản. Những tin ấy có vẻ chỉ rằng sở
chỉ huy của sư đoàn 320 vẫn đóng ở căn cứ cũ của họ, Ở Đức Cơ, phía Tây Pleiku.
Nếu đúng như thế thì những tin tức tình báo làm cho người ta lầm lẫn và Buôn Mê
Thuột không phải là mục tiêu của sư đoàn 320.
Tình hình sau đó chứng tỏ Phú tin không đúng và nghi cũng
không đúng. Để che giấu mục tiêu tiến công của họ trên Tây Nguyên, quân đội Bắc
Việt Nam tổ chức một sở chỉ huy giả ở Đức Cơ và từ đó đánh điện đi các nơi để
làm cho quân đội Nam Việt Nam tưởng lầm rằng sư đoàn 320 vẫn ở đấy. Mánh khóe
này đã đánh lừa được cả chúng tôi. Nó gây ra hậu quả tai hại cho chế độ Sài
Gòn. Trong khi Phú đang tìm hiểu những mục tiêu của Bắc Việt Nam thì họ tiếp tục
chuẩn bị tiến công. Cuối tháng 2, Đại tướng Dũng đã hoàn thành công việc này và
đặt sở chỉ huy ở phía Tây Buôn Mê Thuật.
Để giữ bí mật sự có mặt của mình, ông không giao thiệp bằng
radio, chỉ nói chuyện với Hà Nội bằng dây nói. Việc đó giảm nguy cơ bị khám phá
nhưng có sự nguy hiểm riêng. Thiết bị cũ kỹ và điện chập, dây nói có thể gây ra
cháy trong một vùng đất hanh khô. Ông viết trong hồi ký: "Sĩ quan thông
tin liên lạc nhận một nhiệm vụ rất nặng. Mỗi khi có một đám cháy nhỏ đốt dây
nói, binh sĩ của chúng ta phải chiến đấu dập tắt lửa, đến khi dập tắt được lửa
thì người họ đen như những người khai thác than".
Đến được ít lâu thì tướng Dũng.và phó của ông, trung tướng
Hoàng Minh Thảo triệu tập các chỉ huy đơn vị để so sánh lực lượng. Họ kết luận
rằng lực lượng đôi bên trên Tây Nguyên gần như ngang nhau, nhưng quân đội Bắc
Việt Nam không có vùng đất cụ thể phải bảo vệ, có thể di chuyển và tiến công
vào bất cứ hướng nào để làm chủ tình hình. Đó là chìa khóa để tiến công Buôn Mê
Thuột, chưa kể đến mưu lược và thời cơ bất ngờ. Họ vẫn tiếp tục làm cho Phú tưởng
lầm rằng cuộc tiến công chủ yếu nhằm vào phía Bắc Tây Nguyên nên đã ngăn cản được
Phú cho quân về giữ Buôn Mê Thuột. Tướng Dũng nói với Bộ tham mưu rằng chiến dịch
này được chia làm nhiều giai đoạn. Mới đầu, chặn tất cả các đường đi lên Tây
Nguyên, tiếp sau là tiến công Buôn Mê Thuột. Có thể ồ ạt đánh chiếm thị xã
nhưng ông đã đưa ra một kế hoạch gọi là "hoa sen nở": quân đội bí mật
triển khai trước, đánh thẳng ngay vào trung tâm thị xã, nhanh chóng diệt đầu
não chỉ huy của địch rồi mới phát triển trở ra tiêu diệt địch bên ngoài thị xã.
Nhờ có nhiều nhân viên tình báo và bắt được thông điệp gửi rađio của Phú, tướng
Dũng hiểu ngay rằng Phú gặp nhiều khó khăn trong việc chống đỡ với quân của
ông. Không những bộ chỉ huy Nam Việt Nam mất dấu vết sư đoàn 320 Bắc Việt Nam
mà còn chưa tìm thấy sư đoàn 10 đúng ra phải tiến về phía Kontum và Pleiku.
Trên thực tế, sư đoàn này đang hành quân xuống phía Nam, hỗ trợ cho sư đoàn 320
ở Buôn Mê Thuột. Nhưng Phú không hề biết. Tướng Dũng quyết định làm tăng thêm mối
do dự của ông ta. Ông ra lệnh cho những đơn vị còn lại ở Pleiku và Kontum mở những
cuộc tiến công trong những vùng mà thường sư đoàn 10 vẫn hành quân, để Phú tiếp
tục đinh ninh rằng sư đoàn này vẫn còn ở đó. Trong khi đó, sư đoàn 316 của Bắc
Việt Nam đến phía Tây Buôn Mê Thuột, hỗ trợ cho trận đánh.
Cũng như tướng Dũng, sư đoàn này hành quân liền trong ba tuần, không dùng radio, từ Bắc vào. Cuối tháng 2, ba sư đoàn Bắc Việt Nam sẵn sàng tiến công thị xã. Như thế tướng Dũng có lợi thế: năm chọi một. Cùng lúc ấy, sư đoàn khác, sư đoàn 968 từ Nam Lào tới, quấy rối vùng giữa Kontum và Pleiku.
Cũng như tướng Dũng, sư đoàn này hành quân liền trong ba tuần, không dùng radio, từ Bắc vào. Cuối tháng 2, ba sư đoàn Bắc Việt Nam sẵn sàng tiến công thị xã. Như thế tướng Dũng có lợi thế: năm chọi một. Cùng lúc ấy, sư đoàn khác, sư đoàn 968 từ Nam Lào tới, quấy rối vùng giữa Kontum và Pleiku.
Ở sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, chúng tôi không hề biết Đại tướng
Văn Tiến Dũng đang ở miền Nam Việt Nam. Lại cũng không biết việc ông đặt sở chỉ
huy ở phía Tây Nam Buôn Mê Thuột, đang chuẩn bị tiến công thị xã. Quân tiếp viện
Bắc Việt Nam kéo vào vùng này không hề ai biết và không có người nào trả tiền
cho một vài người cung cấp tin nói về việc trên. Nếu đúng là cộng sản chuẩn bị
mở một chiến dịch mùa khô mới thì không một ai trong chúng tôi biết rõ mục tiêu
chính của họ.
Chúng tôi cũng không biết gì hơn về dự án của Sài Gòn. Thiệu
vẫn cho là không có lợi gì khi chúng tôi biết chủ trương rút sư đoàn dù khỏi
Quân khu I - một chủ trương vừa tai hại đối với diễn biến cuộc chiến tranh hai
tháng sau đó, vừa tai hại cho việc giữ Buôn Mê Thuột. Joe Kingsley, đồng nghiệp
văn phòng mới của tôi, chăm chú theo dõi tình hình Quân khu I. Trên tầng sáu của
sứ quán, người ta chỉ dự kiến những thay đổi nhỏ trên phòng tuyến quân đội Nam
Việt Nam, trong những tuần sau. Trong khi Joe và tôi trao đổi nhận định với
nhau thì bà Pat Johnson, nhân viên thứ ba trong ê kíp phân tích tin nhỏ bé của
chúng tôi, ngày càng phải chăm chú theo dõi tình hình ở Campuchia. Ở đây, cuộc
khủng hoảng phát triển từng giờ.
Mọi con đường tiếp tế đều bị cắt đứt, Phnôm Pênh hoàn toàn tiếp
tục phụ thuộc vào cầu hàng không Mỹ chở lương thực, thực phẩm và thiết bị quân
sự đến. Quân Khmer đỏ đã nã rốc két và đạn súng cối vào sân bay. Họ sử dụng cả
một thứ vũ khí nặng và lợi hại: đại bác 105 milimét, loại vũ khí tìm được của Mỹ,
chắc chắn đây là quà của Bắc Việt Nam.
Ở Hoa Thịnh Đốn, Bộ Ngoại giao tỏ ra hết sức lo lắng và báo
tin rằng tàu sân bay Okinawa, chở hải quân và máy bay lên thẳng về phía Vịnh
Thái Lan, để đón bốn trăm người Mỹ dân sự ở Campuchia di tản. Ít lâu sau, bộ
trưởng quốc phòng Schlesinger, trước mặt các nhà báo, công nhận rằng có thể gửi
hải quân đến Phnôm Pênh để cứu những người Mỹ nếu không còn cách nào khác để
bào vệ sự an ninh của họ. Nhiều người phát ngôn của chính phủ lập tức phải đính
chính rằng: hải quân chỉ đến thay nhau bảo vệ sân bay Phnôm Pênh. Việc đó rất cần.
Mặc dù hiến pháp cho phép tổng thống Ford dùng nhiều biện pháp để bảo vệ người
Mỹ ở nước ngoài, nhưng người ta đặt câu hỏi tổng thống có thể đi đến biện pháp
gì ở Campuchia và Việt Nam. Luật được thông qua năm 1973 về quyền hạn lúc cấp
thiết và việc chấm dứt ném bom ở Campuchia đã cấm tổng thống nhất thiết không
được đưa quân đội đến Đông Dương nếu không có sự chuẩn y trước của quốc hội.
Trong khi quân Khmer đỏ khép chặt vòng vây chung quanh Phnôm
Pênh thì một cố gắng không đâu được diễn ra, gây thành một cuộc xung đột trên
sân khấu chính trị. Ngày 3 tháng 3, LonNol đề nghị một cuộc xuống thang để bảo
đảm hòa bình như ông đã nói hồi tháng 7 và tháng 11 năm trước. Nhưng cũng như
năm trước, việc đó không có kết quả. Quân Khmer đỏ đã gần thắng lợi hoàn toàn để
có thể chấp nhận bất cứ việc gì.
Ở Hoa Thịnh Đốn, một số người ngày càng đông, nhất là trong
quốc hội, tưởng mình là chuyên gia về Đông Dương, cho rằng chính phủ Hoa Kỳ tìm
giải pháp chưa đúng chỗ. Đáng lẽ phải nói chuyện với những người đang tiến
công, họ lại muốn Kissinger nói với Liên Xô và Trung Quốc giúp Mỹ chấm dứt chiến
tranh ở Campuchia và Việt Nam. Quan chức Bộ Ngoại giao cho biết họ không tin
vào giải pháp ấy, nhất là ở Campuchia. Lon Nol không còn gì trong tay để thương
lượng. Nhân viên sứ quán Phnôm Pênh còn tỏ ra thật thà hơn! Đại sứ John Gunther
Dean bình tĩnh nói với các nhà báo rằng, điều mong muốn tốt nhất là một cuộc đầu
hàng có điều kiện.
Kissinger, về phía ông, lại muốn thêm càng nhiều lời càng tốt
trong một tình hình xấu. Không phải ông bất đồng với Dean . Nhưng đã nhìn thấy
sự thất bại hoàn toàn, ông muốn hạn chế những hậu quả tai hại có thể có, đối với
quyền lợi của Hoa Kỳ ở các nơi khác trên thế giới. Việc này đòi hỏi, theo ý
ông, một sự độ lượng giả tạo của chính phủ Mỹ.
Trong những buổi họp mặt của ủy ban đối ngoại thượng nghị viện,
trong tuần đầu tháng ba, ông trình bày chủ trương của ông. Nếu việc đó đúng thì
chính phủ Lon Nol sắp sụp đổ, nhưng nhất thiết Hoa Kỳ cứ tiếp tục viện trợ, để
mọi người sau này, không có thể đổ cho Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về thảm họa
ấy. Tổng thống Ford công khai tuyên bố theo hướng đó và giải thích với các nhà
báo rằng: hoãn viện trợ cho Campuchia hay cho Việt Nam trong lúc nghiêm trọng
như thế này sẽ làm cho người ta nghi ngờ sự ngay thẳng của Hoa Kỳ và khuyến
khích sự xâm lược.
Một số đại biểu quốc hội cũng như các nhà báo nhận thấy trong
những lời tuyên bố trên, có việc quay trở về thuyết đomino của Johnson, nhưng
che dấu tồi. Nhưng trên thực tế, Kissinger và tổng thống Ford có trong đầu một
việc gì đó khẩn cấp hơn. Mấy ngày trước đó, tổng thống Ai Cập Anouar el Sadat
đã bí mật báo cho các ông: ông ta nhận tìm những biện pháp thỏa hiệp mới của
Trung Đông. Vì vậy, sự bảo đảm và cam kết của Hoa Kỳ cần cho công việc ấy .
Trước khi đi Trung Đóng ngày 7 tháng 3, để nối lại cuộc đàm
phán ngoại giao, Kissinger chỉ thị cho các cộng tác viên: các ông hãy làm hết mức
có thể có để quốc hội đồng ý viện trợ cho Campuchia và Việt Nam - làm việc ấy
không phải vì có thể cứu vãn được hai nước ấy mà là vì không thể cứu vãn được!
Trong khi Kissinger chú trọng đến nơi khác thì mây mù nhanh
chóng bao phủ lên Việt Nam. Cuối tuần đầu tháng 3, quân đội Bắc Việt Nam mở rộng
việc tuyển và rèn luyện quân sự. Trong sáu tháng gần đây, số quân thâm nhập miền
Nam lên tới hơn 63.000 người. Tăng gấp hai lần so với thời kỳ 1973 - 1974. Thâm
nhập nhiều nhất là trong bốn tuần qua, kể cả việc tăng cường tiếp tế vào miền
Nam.
Theo tin chúng tôi nhận được thì hơn một nửa quân tiếp viện
chúng tôi theo dõi được, đóng trong vùng Sài Gòn và vùng đồng bằng. Số còn lại
đi Tây Nguyên và ra bờ biển. Đối với Joe Kingsley, bản thân tôi và các đồng
nghiệp ở phái bộ quân sự thì đó là chứng cớ chỉ rõ cuộc tiến công chính trong mấy
tuần tới sẽ diễn ra ở nửa phía Nam nước này. Cái mà chúng tôi chắc không biết,
là ngoài 63.000 quân, còn đầy đủ một sư đoàn, sư đoàn 316 đã vào miền Nam để
tham gia cuộc tiến công thị xã Buôn Mê Thuột.
Các cơ quan tình báo của chúng tôi còn gửi nhiều tin khá lo
ngại. Trong bốn tuần qua, lực lượng không quân Bắc Việt Nam bắt đầu chuẩn bị
cho máy bay đi đánh những mục tiêu ở Quân khu I nhiều máy bay Mía được gửi tới.
Ngoài ra, một thứ trưởng ngoại giao Liên Xô cũng mới đến Hà Nội. Ở Sài Gòn,
chúng tôi không thể nhận định được cái gì họ sẽ thảo luận với nhau, nhưng thấy
viện trợ quân sự của Liên Xô cho Hà Nội ngày càng tăng, trong khi chúng tôi lại
cho là có thể vị thứ trưởng này chỉ đến thăm xã giao Bộ Chính trị.
Quân đội Bắc Việt Nam mở đầu cuộc tiến công Buôn Mê Thuột
trên Tây Nguyên ngày 1 tháng 3, bằng việc đánh chiếm làng nhỏ Đức Lập, một đồn
duy nhất của Nam Việt Nam đóng xa, giữa biên giới Campuchia và thị xã. Nhiều
đơn vị quân đội Bắc Việt Nam đánh nhiều vị trí tiền tiêu dọc đường số 19 giữa
Pleiku và bờ biển, cắt hẳn con đường này. Ngày 4 tháng 3, việc duy nhất còn lại
để hoàn thành giai đoạn đầu cuộc tiến công của ông Dũng, đó là việc đánh cắt đường
số 14 giữa Pleiku và Buôn Mê Thuột. Nhưng ông Dũng muốn hoãn lại càng lâu càng
tốt để không làm lộ lực lượng và nơi đóng quân. Một số phần tử quá sốt ruột của
sư đoàn 320 quân đội Bắc Việt Nam chặn đánh một đoàn xe nhỏ trên đường ấy, thế
là làm lộ nơi đóng quân.
Ở sở chỉ huy tướng Phú, tại Pleiku, trưởng ban tình báo nhanh
chóng nói với Phú và nhận định rằng Buôn Mê Thuột sắp bị tiến công. Phú vẫn
nghi ngờ, nhưng sau ông cũng quyết định gửi một trung đoàn đến làng Buôn Hồ,
cách thị xã 10 kilômét về phía Bắc, để chặn một trung đoàn quân Bắc Việt Nam đã
đóng ở đó.
Tình hình này làm ông Dũng xét lại kế hoạch. Nếu để đơn vị
Nam Việt Nam mới đến mở rộng cuộc đánh thăm dò thì ông mất yếu tố bất ngờ. Như
thế việc phải tiến công Buôn Mê Thuột chỉ còn là công việc trong 24 giờ.
Trong khi đó ở Sài Gòn, tôi làm xong một bản nhận định về chiến
lược của quân đội Bắc Việt Nam cho Hoa Thịnh Đốn, trong đó tôi nêu rõ tất cả những
gì chúng tôi biết về ý định của Bắc Việt Nam. Sau khi điểm lại cuộc leo thang vừa
rồi về người và tiếp tế (trước chưa hề nhiều như thế) và giai đoạn đầu cuộc tiến
công của cộng sản hồi tháng 12 năm 1974 và tháng 1 năm 1975 (mà phạm vi và mức
độ vượt quá những trận đánh từ ngày ngừng bắn đến nay), tôi nhận định cho một
thời kỳ ngắn. Tôi dự kiến, ít nhất sẽ có bốn sư đoàn Bắc Việt Nam định cô lập
Huế và Đà Nẵng trong những tuần tới, còn những đơn vị khác sẽ đánh lấn ở những
vùng bờ biển, phía Nam Quân khu I. Có thể đồng thời họ sẽ tiến công Quân khu II
vào hệ thống đường sá ở phía Nam, phía Đông các thị xã Kontum, Pleiku và chung
quanh Buôn Mê Thuột.
Mặc dù rất thiếu tin về một số vấn đề quan trọng tôi cũng đã
dự đoán được, trên nét lớn, những việc Bắc Việt Nam sẽ làm trong những tuần tới.
Có một điểm quan trọng nhưng tôi không mò ra: tôi không dự kiến được cộng sản sẽ
đánh vào nơi nào đầu tiên. Tuy có chú ý đến những cuộc chuyển quân không bình
thường ở phía Tây và phía Bắc Buôn Mê Thuột nhưng tôi nghĩ không nên vội kết luận
một cách bi quan. Đáng lẽ nói là sẽ có cuộc tiến công vào thị xã, tôi dự đoán rằng
cộng sản có ý định bao vây nó và cắt đứt mọi đường giao thông trong vùng. Đó là
một sai lầm lớn do sự dốt nát của tôi.
Khi định làm bản báo cáo, tôi nhận thấy có ít tin tức về ý định
của Bắc Việt Nam ở Tây Nguyên so với những nơi khác. Một trong những nguyên
nhân chính đẻ ra tình trạng này là do tham nhũng ngay trong hàng ngũ CIA. Mười
tám tháng trước, chuyên gia kế toán chi nhánh Sài Gòn đã khám phá thấy một
trong những viên chức chính ở chi nhánh Nha Trang đã "quản lý tồi” dùng để
xây dựng mạng lưới trên cao nguyên và những vùng khác ở Quân khu II. Viên chức
này chỉ bị phê bình và đuổi về Mỹ, nhưng việc "quản lý tồi" của ông
ta không thể sửa chữa được và những người thay ông ta không bao giờ có một mạng
lưới điệp viên làm được việc.
Mùa Hè 1974, trùm CIA ở Quân khu II quyết định một cách dễ
dãi, đóng cửa chi nhánh Buôn Mê Thuột nói là để tiết kiệm. Điều đó giải thích
vì sao, lúc tôi bắt đầu nghiên cứu tỉ mỉ tin tức trong những tuần đầu tháng 3,
tôi thấy tập hồ sơ về Tây Nguyên mỏng kinh khủng. Tôi chỉ còn biết làm một việc
mà một người phân tích tin phải chịu trách nhiệm một mình: dự đoán nhưng ý định
của kẻ thù. Và tôi đã hoàn toàn lầm lẫn.
Ngày 7 tháng 3, mấy giờ sau khi bản báo cáo của tôi được điện
đi Hoa Thịnh Đốn, tôi bay đi Bangkok để gặp một số đồng nghiệp là chuyên gia về
Bắc Việt Nam. Buổi chiều ấy, chúng tôi tìm hiểu ý đồ của Thiệu trước tình hình
mỗi ngày một nguy ngập. Một đồng nghiệp muốn biết vì sao Thiệu không tính đến
việc bỏ đất đai, nhờ đó ông ta sẽ tranh thủ được thời gian và củng cố lực lượng.
Tôi trả lời một cách tự nhiên: "quân đội của ông không chịu nổi sự khó chịu
về một cuộc rút lui chiến lược. Chúng rất vô kỷ luật và tan rã trong quá trình
rút lui.” Tôi còn ở xa sự thật quá nhiều.
Trong hai ngày nghỉ cuối tuần, tướng Dũng khép chặt vòng vây.
Chiều 8 tháng 3, quân đội Nam Việt Nam hành quân chung quanh Buôn Hồ, phía Bắc
Buôn Mê Thuột, để tiếp tục trinh sát. Tướng Dũng quyết định hành động không để
cho địch phát hiện. Ông ra lệnh cho sư đoàn 320 triển khai cấp tốc đánh vào khu
vực đường số 14 giữa Buôn Hồ và Pleiku. Vài giờ sau, đường bị cắt, quân đội Nam
Việt Nam ở phía Nam Tây Nguyên bị tách rời khỏi lực lượng của Phú ở phía Bắc.
Lúc bấy giờ Phú mới hiểu ông phải làm gì. Ông ra lệnh đưa
ngay cho một trung đoàn từ Pleiku xuống vùng Buôn Hồ - Buôn Mê Thuột. Nhưng chỉ
còn một trong bốn máy bay lên thẳng khổng lồ CH-47 bay được. Ông ta xin Sài Gòn
giúp đỡ. Không còn máy bay lên thẳng nào nữa. Sứ quán có lúc định huy động máy
bay lên thẳng của hải quân Mỹ, nhưng hải quân không đồng ý, viện cớ như thế là
vi phạm hiệp định Paris, hiệp định đã cấm mọi sự can thiệp mới của Hoa Kỳ vào
cuộc chiến tranh. Sáng ngày 9 tháng 3, tướng Dũng gửi một điện cho các đồng chí
của ông ở Hà Nội, báo cáo kết quả chiến đấu giai đoạn một của chiến dịch đánh
Buôn Mê Thuột. Phần cuối bức điện viết: ngày 10 tháng 3, ta sẽ đánh Buôn Mê Thuột.
Mọi điều kiện đều đầy đủ.
Buổi trưa cùng ngày, lãnh sự quán Nha Trang gọi Walt
Martindale, đại diện tỉnh Quảng Đức, phía Nam Buôn Mê Thuột, ra lệnh cho ông này
chuẩn bị rút lui. vì chiến tranh diễn ra ác liệt giữa Quảng Đức và Buôn Mê Thuột
nên lãnh sự quán sợ Martindale sẽ bị bắt. Nhưng viên sĩ quan trẻ này từ chối
vì, anh ta nói, nếu anh rút thì sẽ lôi cuốn theo sự rút chạy của quân Nam Việt
Nam ở Quảng Đức.
Trên phía Bắc, ngay trong thị xã Buôn Mê Thuột, Paul
Struharick, đại diện lãnh sự quán ở đây, vừa nghỉ hè về, anh cố gắng tìm hiểu
tình hình quân sự. Chiều 9 tháng 3, anh gọi lãnh sự quán Nha Trang và báo tin
đi gặp tỉnh trưởng, cách chỗ anh mấy nhà, để kiểm tra lại những báo cáo mới nhất
nói về cuộc chuyển quân của Bắc Việt Nam. Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng của
Struharick với lãnh sự quán trước khi Bắc Việt Nam tiến công.
Buôn Mê Thuột và những đồi chung quanh trông như bức tranh của
Douanier Rousseau. Bố cục và màu sắc y như bố cục và màu sắc của những bức
tranh hồi thế kỷ thứ 19, từ màu đỏ đất sét cao nguyên đến màu xanh rực rỡ của
cây cà phê rừng rậm. Vùng này từ lâu nổi tiếng yên tĩnh ở Việt Nam, sự yên tĩnh
làm cho tôi ngạc nhiên. Chiến tranh lan tới Buôn Mê Thuột từ năm 1968. Từ ngày ấy,
hầu hết 150.000 dân trong tỉnh - những người trồng trọt Việt Nam, Trung Hoa,
Pháp, Italia - đều thỏa hiệp ước với cộng sản địa phương, để giữ gìn hòa bình.
Một thú vui ở thị xã là đi thăm nhà sàn của Bảo Đại, vị vua
cuối cùng của Việt Nam. Đó là một cơ ngơi lớn bằng gỗ mái nhọn, trồng nhiều
thông, giống như một quán rượu cổ xưa. Một nơi khác được nhiều khách đến là một
bar lâu đời, cũ kỹ, ở giữa thị xã gọi là Bạch Thử. Chiều thứ bảy và sáng chủ nhật,
những người trồng trọt đến đây uống một cốc bia trong khi vợ họ đi chợ ở trung
tâm thị xã. Nếu bạn ở bar này ngày 9 tháng 3, thì bạn sẽ nghe nói ngay đến việc
chuyển quân của lực lượng cộng sản chung quanh thị xã. Nhưng những người trồng
trọt chỉ nói chuyện với nhau, không nói với nhà chức trách Việt Nam tại địa
phương. Họ sợ Việt cộng biết. Những điều họ biết không vượt ra ngoài đám người
chung quanh "bar".
Trước rạng đông 10 tháng 3, cộng sản tấn công thị xã, từ phía
Bắc và phía Tây, tập trung đánh vào sân bay và kho để vũ khí. Lúc đó, quân đội
Nam Việt Nam chỉ có hai tiểu đoàn, không đến 1.200 binh lính ở trung tâm thị xã
và hai tiểu đoàn ở phía Bắc, cùng với gần một trung đoàn và một số đơn vị dân
binh để tiếp viện. Trước đó, tướng Dũng huy động ba sư đoàn thiện chiến, 25.000
binh lính, trang bị đầy đủ, cả pháo binh. Trong những giờ đầu cuộc tiến công,
máy bay Nam Việt Nam có đến yểm trợ cho những người bảo vệ thí xã. Nhưng, cũng
như ở trận Phước Long, mấy tuần trước, những cuộc bắn phá của máy bay nguy hiểm
đối với quân Nam Việt Nam hơn là đối với quân đối phương. Như thường lệ, bay
cao 3.000 mét để tránh pháo phòng không cộng sản, phi công ném bom vu vơ, trúng
cả vào vị trí chỉ huy quân Nam Việt Nam ở trong thị xã. Sau đó, quân Nam Việt
Nam tan rã. Lực lượng chính qui cũng như quân địa phương lần lượt bỏ vị trí.
Tướng Dũng viết trong hồi ký: “Năm giờ chiều ngày 10 tháng 3,
chúng ta đã chiếm và không chế được phần lớn thị xã và chuẩn bị tiến công sư
đoàn bộ, sư đoàn 23. Ngay từ đầu, pháo binh địch đã bị tê liệt, không quân
không có hiệu lực. Sau khi chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23, ta tràn qua hậu cứ của
sư đoàn 45. Tiếp đó, giải quyết xong các khu quân cảnh, cảnh sát truyền tin,
trường huấn luyện địa phương quân. Về cơ bản, ta giải quyết xong Buôn Mê Thuột
lúc 10 giờ 30 phút ngày 11 tháng 3 năm 1975. Chúng tôi mừng rỡ không sao kể xiết.
Bộ đội hết sức phấn chấn. Một thị xã to như vậy mà đánh trong hơn 32 giờ đã
xong. Đúng là sức mạnh của ta bây giờ quân địch không tài nào chống cự nổi...".
Trong khi trận đánh kết thúc thì chính phủ Sài Gòn chưa có một
ý niệm rõ ràng về những sự kiện đang xảy ra. Không phải là trước ngày 14 tháng
3, họ biết được tin thị xã Buôn Mê Thuột đã mất. Nguồn tin duy nhất họ biết là
từ những bức ảnh do không quân Mỹ và người Nam Việt Nam chụp. Những bức ảnh ấy
gần như không nói với chúng tôi cái gì cả. Tôi nhớ có xem một vài tập ảnh một,
hai ngày sau khi Bắc Việt Nam mở cuộc tiến công: thấy khói và đổ vỡ ở sân bay,
phần còn lại trong thị xã có vẻ yên tĩnh, một vài xe tăng đỗ ở chợ chính, gần
"bar" Bạch Thử, một vài người từ từ di xe đạp chung quanh. Từ những
chứng cứ nghèo nàn ấy, chúng tôi cho rằng lực lượng chính phủ đã đẩy lùi được
đuợc tiến công. Nhưng điều ngược lại mới là sự thật. Thị xã đã ở trong tay quân
Bắc Việt Nam. Do sự bất lực của chúng tôi trong việc theo dõi diễn biến của trận
đánh nên chúng tôi đã không cứu được những người phương Tây bị vây hãm trong thị
xã; tám mục sư Mỹ, một người Úc và Paul Struharick, đại diện lãnh sự quán.
Khi tướng Dũng cho đoàn xe tăng đầu tiên vào Buôn Mê Thuột,
những người phương Tây đều trú ẩn ở trụ sở của USAID và sở chỉ huy tỉnh, ở đấy
có nhiều lương thực dự trữ. Vào khoảng tám giờ sáng hôm ấy, Struharich gửi một
điện bằng rađio cho lãnh sự bán Nha Trang báo tin anh và các bạn anh bị xe tăng
Bắc Việt Nam vây hãm. Lãnh sự quán đã cho một máy bay lên thẳng đến cứu nhưng
pháo phòng không cộng sản không cho phép máy bay đáp xuống.
Khi quân của tướng Dũng chiếm được chiến lũy cuối cùng thì
Struharick và những người trên bị bắt. Bắc Việt Nam coi họ là những tư lệnh chiến
tranh, giữ họ tám tháng, người ở Buôn Mê Thuột, người Ở Pleiku trên phía Bắc.
Struharick bị nghi là nhân viên tình báo CIA được giam riêng cẩn thận nhưng được
đối đãi tử tế. Thức ăn còn hơn thức ăn của lính Bắc Việt Nam.
Cuối cùng, đầu mùa Thu 19~5, Bắc Việt Nam kết luận rằng mười
tù binh của họ chỉ là những khán giả vô thưởng vô phạt và thả họ ra cả. Khi tin
Buôn Mê Thuột mất được chính thức công nhận thì Kissinger đang bay từ Le Caire
đến Tel Aviv. Ông vừa ngạc nhiên vừa bực mình. Theo những cộng tác viên của
ông, thì ông không có vẻ gì cho đó là bước ngoặt không may của những sự kiện
đưa đến một cuộc khủng hoảng trầm trọng của Nam Việt Nam. Theo ông, Buôn Mê Thuột
không phải là quan trọng nhất đối với nền an ninh của nước này. Thị xã được rút
bỏ có ý thức, theo một kế hoạch của chính phủ để chấn chỉnh lại mọi hoạt động
sau này!
Trong khi những hậu quả chính trị của thất bại này làm rung
chuyển Sài Gòn thì Pat, Joe và tôi bắt đầu coi mình như những người chạy trốn
dưới làn đạn liên thanh. Một làn sóng tin tức tràn đến. Sau giờ làm việc, chúng
tôi phải ở lại bàn giấy để chỉnh đốn lại những bản đồ quân sự cho kịp thời và
nhận định tình hình. Thật vậy, lúc tướng Dũng và quân của ông nhanh chóng đánh
chiếm mục tiêu quan trọng nói trên thì khắp nước này, bất thình lình, chiến
tranh lan rộng nhanh chóng.
Ngày 8 tháng 3, quân du kích Việt cộng, đánh 15 ấp rải rác giữa
Quảng Trị và Huế, ở Quân khu I. Ở phía Nam Quân khu này, quân Bắc Việt Nam bao
vây hai thị xã trong tỉnh Quảng Tín. Và trận tiến công dự kiến vào tỉnh Tây
Ninh, phía Tây Bắc Sài Gòn, bất thình lình nổ ra, trong khi đó những đơn vị cộng
sản khác lại đánh một thị xã thứ ba, ở phía Đông thị xã Tây Ninh.
Như vậy, một, hai ngày sau cuộc tiến công Buôn Mê Thuột, quân
chính phủ mất hết quyền chủ động trong cả nước và bộ tổng tư lệnh Sài Gòn rất bối
rối trong việc tìm cách thoát khỏi tình hình. Sĩ quan duy nhất có ý kiến tốt tiếc
thay lại đi vắng. Ngày 11 tháng 3, tướng Đồng Văn Khuyên, tổng tham mưu trưởng
quân đội - một người đặc biệt thân Mỹ - đi Nhật Bản thăm bố vừa phải mổ vì ung
thư. Khuyên đi vắng một tuần. Thế là không sử dụng được kinh nghiệm chiến đấu của
ông và mối quan hệ tốt giữa ông ta với Mỹ. Sự vắng mặt của Khuyên không phải là
việc duy nhất chính phủ phải giải quyết. Thiệu tự đặt cho mình nhiều vấn đề.
Bực mình về cuộc tiến công bất ngờ vào Buôn Mê Thuột, ông bắt
đầu chửi rủa các sĩ quan tình báo, cho họ đã đánh lừa ông ta, nhất là đối với đại
tá Lê Văn Lương, trưởng ban tình báo của bộ tổng tham mưu. Lương không có tội
như phần lớn chúng tôi. Nhưng Thiệu cho là Lương bất lực. Thiệu mắng hẳn vào mặt
Lương rồi không thèm nói gì với Lương nữa. Những người giúp việc Thiệu từ đấy mất
lòng tự tin và cơ quan tình báo của quân đội bị coi như không có trong những tuần
cuối cùng cuộc chiến tranh.
Chiến lược “cố thủ”
Mặc dù có những sai lầm về chiến thuật, Thiệu chưa hẳn là thột
gã giở người. Ông đã đọc chiến tranh nhân dân, đã chỉ huy quân đội đang đánh
nhau. Với nhận thức của một cựu chiến binh, Thiệu biết rằng mục tiêu cuối cùng
của những cuộc tiến công của cộng sản là cô lập Sài Gòn và phân tán quân đội
Nam Việt Nam.
Bảo vệ Sài Gòn chỉ có ba sư đoàn trên phòng tuyến thứ nhất với
hai lữ đoàn mới thành lập (một lữ đoàn lính thủy đánh bộ, một lữ dù yểm hộ) và
một nhóm quân tuần tiễu. Rất ít, trước sáu sư đoàn hiện có của quân đội Bắc Việt
Nam. Ngày 12 tháng 3 Thiệu đánh điện ra lệnh cho tướng Trưởng ở Đà Nẵng thay đổi
kế hoạch và cho ngay một sư đoàn lính dù về Sài Gòn.
Sáng hôm sau, Thiệu hợp hội đồng an ninh, phố biển mót quyết
định còn quan trọng hơn. Sau mấy tháng thảo luận và từ chối, ông ta quyết định
làm theo lời khuyên của nhiều cộng tác viên: bỏ qua những vùng cằn cỗi của đất
nước, một phần Quân khu I và Quân khu II để tập trung lực lượng vào những vùng
quan trọng nhất: chung quanh Sài Gòn. Thiệu gọi chiến lược này là chiến lược cố
thủ, quyết tâm giữ phần đất còn lại.
Thủ tướng Khiêm và chuyên gia của ông ta nghiên cứu chiến lược
này hai tuần. Thoạt tiên, chỉ là một cuộc tập dượt đế tìm giải pháp lâu dài và
xem có những khó khăn rắc rối gì trong việc rút quân từ từ như tướng Trưởng đã
làm ở Quân khu I.
Mấy ngày trước khi Buôn Mê Thuột thất thủ, bộ trưởng tài
chính của Thiệu đã gặp Dan Ellerman, phụ trách tài chính ở sứ quán Mỹ. ông đặt
một số câu hỏi mà giới lân cận ông ta đang trao đổi: Martin có đồng ý rút bỏ một
số đất đai không? Ở Hoa Thịnh Đốn đã thảo luận vấn đề này chưa? Ngày 11 tháng
3, trong khi Buôn Mê Thuột đang sống những giờ cuối cùng, Ellerman trả lời: Việc
bỏ hay không một phần lãnh thổ là việc của người Việt Nam tự giải quyết. Dù các
ông làm việc gì, thế giới cũng phải tôn trọng cách giải quyết tốt của các ông.
Bức thư không chỉnh ấy, không cam kết một điều gì. Nhưng nó
cho phép Thiệu quyết định dứt khoát. Nếu người Mỹ có thể hờ hững với một vấn đề
quan trọng như vậy thì việc ông làm sẽ không động chạm đến họ. Việc gì phải bám
lấy mảnh đất chỉ vì một lý do đơn giản là để khỏi làm mất lòng người Mỹ. Do đó,
Thiệu quyết định thay đổi chiến lược. Không cần phải giúp đỡ gì, đó là chiến lược
"Cố Thủ”.
Vì thay đổi chủ trương quá nhanh, Thiệu không còn kịp nghĩ đến
những hậu quả thực tế. Sáng 13 tháng 3, Thiệu phổ biến quyết định của ông ta
làm cho ai cũng ngạc nhiên. Khiêm và Viên thật ra muốn đặt một số câu hỏi thiết
thực nhưng tiếc thay họ lại nghĩ rằng Thiệu đã chú ý đến quan điểm của họ và
lúc này đây, không phải là lúc tranh luận. Thiệu nói: Không có ai hỏi gì à? Thế
thì sang điểm khác của chương trình họp: phản kích ngay ở Buôn Mê Thuột. Có vẻ,
ông ta đã có dự kiến về vấn đề này. Trước hết phải xem có thật thị xã đã mất
không (không một sĩ quan tình báo nào của ông có thể khẳng định việc này). Nếu
thất thủ thật sự thì làm mọi cách để giành lại. Ai giữ được Buôn Mê Thuột thì đồng
thời kiểm soát được đường vào phía Tây Sài Gòn.
Viên, khó chịu, ngồi không yên. ông ta nói chắc chắn rằng là
Buôn Mê Thuột có một tầm quan trọng lớn. Nhưng tướng Phú còn làm gì được nữa?
Sư đoàn duy nhất không bị thương vong ở Tây Nguyên của Phú đã rải ra khắp nơi. Ở
Buôn Mê Thuột, nhiều trung đoàn bị đánh tan tác coi như bị tiêu diệt. Có thể thả
dù xuống hai trung đoàn để tiếp viện nhưng như thế thì bỏ trong Pleiku và
Kontum. Không còn quân trù bị để lấp lỗ trống.
Thiệu ngồi một lúc, hai tay chắp vào nhau, để dưới cằm. Viên
nói đúng: không còn quân trù bị. Những đơn vị của Phú bị căng ra như mặt trống.
Ông ta đảo mắt nhìn chung quanh bàn họp, xem có ai phản ứng gì không. Không có.
Tất cả, rất xu nịnh, đều đồng ý với ông ta. Ở bước ngoặt lịch sử của cuộc chiến
tranh, ông ta cho tay vào túi, xoa cuống họng và trong tiếng thở dài, tuyên bố
quyết định. Ông ta nói: Phải bỏ Pleiku và Kontum thôi. Cuộc rút lui chiến lược
bắt đầu từ hai tỉnh ấy.
Gian phòng yên lặng. Thiệu nói tiếp: Một cuộc rút lui như thế
rất hợp lý và cần thiết, sẽ giải phóng được lực lượng để cứu Buôn Mê Thuột. Chìa
khóa mọi cái nằm ở Buôn Mê Thuột. Ngạc nhiên và lo sợ nhưng cộng tác viên của
Thiệu không hề phản đối. Không có cả thảo luận. Cuối cùng Thiệu còn ra lệnh cho
mọi người phải kín, không được nói cho ai biết kế hoạch mật này, nhất là không
được nói với người Mỹ, họ có cơ hội để giúp ta, họ không làm, họ đã phản bội
ta!
Xế chiều, Thiệu gặp Trưởng đi máy bay từ Đà Năng về. ông ta
tiếp Trường một cách lạnh nhạt vì biết trước rằng viên tư lệnh Quân khu I chỉ về
với mỗi lý do: xin bỏ quyết định điều sư đoàn dù về Sài Gòn. Không thể được.
Chiến lược mới cố thủ không cho phép làm việc ấy. Sư đoàn dù nhất thiết phải về
ngay Sài Gòn.
Nhưng Trưởng rất lỳ. Hàng trăm lần, ông ta giải thích rằng
quân của ông ta đang bị uy hiếp nặng. Vội vàng rút sư đoàn dù sẽ tạo cho nhiều
lỗ hổng trong phòng tuyến bảo vệ của ông ta. Ông phải thay đổi. Nói rõ hơn, sẽ
phải bỏ thị xã Quảng Trị, chiến trường đẫm máu năm 1968, mất đi rồi giành lại
năm 1972. Không thể điều sư đoàn lính thủy đánh bộ ra bảo vệ được, họ phải kẻo
về Huế và Đà Nẵng để thay sư đoàn dù.
Thiệu cúi đầu, có vẻ dễ hiểu nhưng ông ta chỉ có một nhượng bộ.
ông ta nói: Việc rút sư đoàn dù có thể chậm lại nhưng chỉ đến lúc Trưởng bố trí
lại phòng tuyến bảo vệ. Trên cao nguyên phía Tây, trong sở chỉ huy của tướng
Dũng, các sĩ quan và mọi người làm việc 24 trên 24 giờ để báo cáo kịp thời mọi
việc xảy ra trên đất nước. Sau này, tướng Dũng viết: "Vẽ bản đồ không kịp
bước quân đi. Bản đồ đầy những vòng tròn và dấu chữ thập đỏ đánh dấu những nơi
đã tiêu diệt địch và những mục tiêu chiến lược. Chuông dây nói không ngừng
kêu... Các đồng chí công tác tại sở chỉ huy yên lặng làm việc và đi lại. Các đồng
chí ấy phân phối thuốc lá hậu phương vừa gửi vào.
Chỉ hai tuần trước đây, tướng Dũng được cử vào miền Nam với mục
đích duy nhất: chỉ đạo trận tiến công Buôn Mê Thuột. Nhưng nay, các phòng tuyến
của Nam Việt Nam đều vỡ. Tướng Dũng quyết định mở rộng các mục tiêu. Trong những
tháng cuối của cuộc chiến tranh, thường những quyết định của vị tư lệnh này chỉ
do một tin tốt của tình báo tạo nên. Trong những giờ cuối của trận tiến công
Buôn Mê Thuột, quân của ông bắt sống viên phó tư lệnh sư đoàn 23 Nam Việt Nam,
một viên sĩ quan vừa nắm được tình hình vừa nói quá nhiều. Ông ta không trực tiếp
biết chiến lược cố thủ, nhưng ông biết lôgic của vấn đề.
Trong cuộc hỏi cung, ông đã nói rằng chắc chắn Thiệu phải bỏ
Pleiku và Kontum đồng thời bỏ Qui Nhơn, thành phố ven biển. Lực lượng không
quân đã tan rã và mất tinh thần, nếu sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ
thuộc Quân khu I bị đánh tan thì đó là cả quân đội Nam Việt Nam đổ sụp. Tướng
Dũng rất mừng nên ngày 11 và 12 tháng 3 ông điện ra Hà Nội cho các đồng chí của
ông những đề nghị táo bạo: không những giữ Buôn Mê Thuột với bất cứ giá nào mà
còn mở rộng cuộc hành quân sang phía Đông Bắc Pleiku để cô lập Pleiku với
Kontum và chiếm lấy Tây Nguyên. Ông đề nghị đánh chiếm phía Bắc Huế, ở Quân khu
I để Thiệu không thể điều sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ lên mặt trận
Tây Nguyên. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về những đề nghị của tướng
Dũng. Như ông viết trong hồi ký, chỉ hai ngày sau có quyết định tập thể cuối
cùng...
Theo kế hoạch mới, tướng Dũng phải hoàn thành việc tảo thanh
chung quanh Buôn Mê Thuột, rồi đánh phía Bắc, cắt các đường giao thông quan trọng
đồng thời đánh chiếm những thị xã có vị trí chiến lược.
Theo dự kiến của Bộ Chính trị, Sài Gòn phải chọn giữa việc tập
trung lực lượng ở Pleiku hay rút lui chiến lược và bỏ hoàn toàn Tây Nguyên, chắc
là bỏ Tây Nguyên. Những đề nghị của tướng Dũng về việc phối hợp chiến trường
cũng được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chuyển thành chỉ thị gửi đến các
quân khu chấp hành.
Ít lâu sau thất bại Buôn Mê Thuật, một nhân viên tình báo của
chúng tôi nghe lóm được cuộc nói chuyện giữa hai sĩ quan quân đội Bắc Việt Nam.
Một người hỏi: "Chúng ta tiếp tục tiến xa bờ biển hay dừng lại vì mùa mưa?
Người kia trá lời: Tiếp tục tiến ra bờ biển. Không thể dừng lại". Đó là dấu
hiệu báo tin quân đội Bắc Việt Nam sắp mở một cuộc tiến công rộng lớn.
Trong khi sứ quán phân tích tin mới này thì người Mỹ sống và
làm việc ở Tây Nguyên, gần chiến tuyến tìm nơi trú ẩn. Ngày 12 tháng 3, hai
ngày sau cuộc tiến công Buôn Mê Thuột, Walt Martindale, đại diện lãnh sự quán ở
phía Nam tỉnh Quảng Đức, nhận được lệnh bỏ hết để rút nhanh. Viên chức lãnh sự
quán Pleiku cũng chuẩn bị ra đi. Lúc biết tin cuộc tiến công ồ ạt vào Buôn Mê
Thuột, Earl Thieme, một viên chức 50 tuổi phụ trách cơ quan USAID ở địa phương,
vội vàng nghiên cứu lại kế hoạch tản cư mà ông thấy chưa ổn. Ông không dự kiến
được nhân dân địa phương có thể không tuân lệnh mà ở Pleiku có tới 60.000 dân,
một nửa là người Kinh, một nửa là người Thượng, thị xã này giống như một thùng
thuốc súng.
Trong khi đó sĩ quan quân đội và không quân Việt Nam đã vội
vàng cho vợ con chạy ra khỏi thị xã, càng nhanh càng tốt. Ngày 12 tháng 3,
Thieme và một số nhân viên họp bàn để hoàn thành kế hoạch tản cư mới cho phù hợp
với tình hình nóng bỏng lúc bấy giờ. Xế chiều, một nhân viên bay về Nha Trang
đưa kế hoạch cho lãnh sự quán. Sáng hôm sau, một viên chức CIA gọi dây nói cho
thủ trưởng là Howard Archer, trùm CIA ở Quân khu II. Ông này cho biết: Pleiku
đã nhanh chóng biến thành một thị xã ma, cần cấp tốc tản cư người Mỹ.
Archer đề nghị báo ngay cho tổng lãnh sự. Tổng lãnh sự là
Monrcieff Spear, một người mảnh, cao, kiêu ngạo, vẻ mơ màng, không thuộc loại
viên chức cần được quân sự hóa mà tình hình nghiêm trọng ớ Quán khu II lúc ấy
đòi hỏi. Ông không thích Việt Nam mà cũng chẳng tin cuộc chiến tranh kéo dài
này. Thực tế, ông không muốn đến đây. Trong 18 tháng ở Nha Trang ông không tỏ
ra có một năng lực gì để điều khiển công việc. Đại sứ không dành cho ông khả
năng phát huy sáng kiến. Ít lâu sau khi đến đây, Spear đã phạm sai lầm là lưu ý
sứ quán đến tình hình mất an ninh ở Tây Nguyên. Martin đã nhắc nhở ông và cho rằng
ông quá bi quan. Từ đó, Spear chấp hành nghiêm chỉnh mọi ý kiến của đại sứ.
Tuy vậy, cuộc tiến công Buôn Mê Thuột cũng bất ngờ đối với
ông. Khi biết rõ Struharich và những người Mỹ khác đã đi khỏi rồi, Spear mới tự
đặt cho mình nhiều câu hỏi hắc búa. Tiếp tục xem tình hình một cách bình tĩnh
và khôn ngoan như ý ông Martin hay đã đến lúc phải có sáng kiến riêng?
Ngày 13 tháng 3, sau khi nghe Archer và nhân viên CIA ở
Pleiku nói, Spear mới thấy rằng khôn ngoan thì đi theo câu thứ hai. Vừa nói
chuyện xong, ông quyết định cho tản cư ngay những nhân viên không cần thiết
Sáng hôm sau, Spear và cộng tác viên của ông được nguồn tin
Nam Việt Nam báo cho biết con đường chính ra khỏi Tây Nguyên về phía Nam đã bị
cắt và hàng nghìn người tị nạn đang chen chúc trên những con đường phụ đi ra biển.
Mấy giờ sau Archer báo cho sứ quán ở Sài Gòn, ông cho một máy bay lên thắng và
một đoàn phi hành đến Phước An, phía Đông Buôn Mê Thuột, để xem tình hình cuộc
rút chạy.
Những kẻ quá hăng trong chi nhánh CIA ở Sài Gòn khen ngợi
hành vi dũng cảm ấy, đúng là truyền thống của ngành mình. Khi John Pittman, phó
của Polgar hỏi ý kiến tôi, tôi không giấu được vẻ ngạc nhiên. Tôi trả lời lực
lượng Bắc Việt Nam tiến rất nhanh mà tin tức của chúng ta thì thường không kịp
thời, không hiểu lúc này Phước An có còn ở trong tay quân Nam Việt Nam không?
Cuối cùng Pittman đồng ý với tôi và cấm Archer cho máy bay lên thắng đi. Thật
đúng lúc vì mấy giờ sau, Phước An bị bắn phá dữ dội và bị bao vây chặt.
Sáng 14, trời nóng và hanh, rõ là mùa khô. Từ Sài Gòn, nếu
bay đi vịnh Cam Ranh, trên bờ biển miền Trung, mất gần một giờ. Qua cửa máy bay
có thể nhìn thấy rõ mặt trời chiếu xuống biển Đông như tấm mi ca đặt trên đá
xám. Tổng thống Thiệu, một mình đọc những bản báo cáo từ mặt trận gửi về trong
suốt cuộc hành trình. Thủ tướng Khiêm, tướng Quang và tướng Viên bình tĩnh nói
chuyện với nhau ở bên kia hành lang.
Thiệu quyết định đi Cam Ranh để báo cho Phú, tư lệnh Quân khu
II, chiến lược mới "Cố Thủ”. Thiếu tướng Phạm Văn Phú từ lâu là một viên
tướng được Thiệu ưa thích.
Binh nhì trong quân đội Pháp, ông ta đã chiến đấu trong cuộc
chiến tranh lần thứ nhất ở Đông Dương. Bị bắt Ở Điện Biên Phủ với quân Pháp,
ông ta bị giam trong trại tù binh của Việt Minh. Ở đây, theo nhận xét của cộng
tác viên của ông ta, ông ta bị yếu đi và mất vẻ bình tĩnh (bị ho lao). Những
năm sau, ông ta làm việc bên cạnh Thiệu, cùng với Thiệu tiến lên trong quân đội
Sài Gòn do người Pháp huấn luyện và được người Mỹ bảo trợ. Trở thành tổng thống,
Thiệu giao cho người bạn cũ những nhiệm vụ quan trọng trước khi bổ nhiệm ông ta
làm làm tư lệnh Quân khu II, thay Nguyễn Văn Toàn vào mùa Thu 1974.
Phú tự nhiên thấy mình chưa xứng đáng để nhận chức vụ ấy. Ông
ta không phải là cán bộ tham mưu. Được đi huấn luyện bay, được đi tập trận ngắn
ngày thì thấy dễ chịu hơn là phải ngồi nghiên cứu tính toán kế hoạch chiến lược.
Những người biết ông ta từ lâu nói rằng ông ta có một nhược điểm lớn là rất sợ
phải chiến đấu tại chỗ và bị địch bắt... Tướng Toàn, cựu tư lệnh Quân khu II là
một tên quân phiệt phong kiến, chiếm đất làm ấp, ăn của đút lót, yêu thích ai
thì cho người ấy chỗ việc làm tốt. Nay ông ta là tư lệnh Quân khu III. Phú do
đó, có dưới quyền những sĩ quan bất lực, không chăm sóc binh lính, không dấu được
vẻ khinh bỉ đối với người Thượng chiếm số đông trong quân đội Sài Gòn ở Tây
Nguyên. Những thiếu sót về cán bộ, cộng với những nhược điểm của Phú, đương
nhiên, chỉ ~ đưa đến thảm họa.
Ở Cam Ranh, Phú cố tình trình bày tình hình với chiến hữu cũ.
Ông ta nói với Thiệu: Lực lượng địch gồm bốn sư đoàn nay đang tỏa khắp vùng từ
Pleiku đến Buôn Mê Thuột. Mọi đường đi ra bờ biển đều bị cắt. Với lực lượng ông
ta có trong tay, ông chỉ giữ được Tây Nguyên trong một, hai tháng với điều kiện
được không quân yểm trợ tối đa, tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về vật liệu,
vũ khí, đạn dược, bổ sung quân số đủ bù số thiệt hại nặng vừa qua.
Nghe những ý kiến ấy Thiệu tối mắt, như nằm trong mộng. Sau
đó, ông ta nhìn Phú và lắc đầu: Không có gì hết, không có người, không có thiết
bị để cung cấp cho anh. Quân đội đang bị phân tán một cách nguy hiểm ra khắp đất
nước, lực lượng dự trữ cần được đưa về giữ những vùng cần bảo vệ. Không có
phương tiện gì để tiếp viện cho việc bảo vệ Kontum và Pleiku cho nên phải rút
khỏi hai tỉnh ấy, để bảo toàn lực lượng, lấy quân đưa về giữ đồng bằng ven biển,
tiếp tế thuận lợi hơn và từ đó phản công lấy lại Buôn Mê Thuột.
Phú không tỏ ra phản ứng gì. Có lẽ hơi gật đầu, thế thôi.
Cũng như trước, ông ta là chiến hữu của Thiệu, tận tụy và vâng lời. Thấy Phú đã
hiểu. Thiệu hỏi tiếp một vấn đề quan trọng: Rút bằng đường nào? Đường 19 chạy
giữa Tây Nguyên và đường 14 đi xuống Quân khu III đều bị chặn nhưng có thể phá
được. Giữa hai đường, Phú chọn đường nào? Đến đây, Viên nói xen vào: Không đường
nào quân đội của Phú có thể giải tỏa được. Chỉ còn đường 7B, một con đường cũ của
sơn tràng đi về phía Đông, qua cái rốn của vùng này là tỉnh Phú Bổn. Viên hỏi
Phú về khả năng rút theo đường đó. Tư lệnh Quân khu II, một lần nữa, lại sẽ gật
đầu. Hội nghị sắp bế mạc, Phú hỏi:” bao giờ phải rút?”. Thiệu tránh không trả lời.
Ông chỉ nói: Việc đó do Phú quyết định. Thiệu chỉ yêu cầu tuyệt đối giữ bí mật
quyết định cuối cùng.
Không lực lượng địa phương nào, không người Thượng nào ở
Kontum và Pleiku được biết. Sẽ có nhiều nguy hiểm. Họ sẽ phản bội. Diễn biến của
buổi họp, những vấn đề đưa ra thảo luận hết sức nông cạn và qua loa, và được giải
quyết, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của chiến tranh. Bản thân Thiệu đã nêu ra ý
kiến này và ông dễ dàng bỏ qua một việc quan trọng là định ngày rút lui và quên
hẳn số phận người Thượng là xương sống của quân đội Phú.
Còn tướng Viên, vì sao không nêu ra những thiếu sót trong lập
luận sai lầm của Thiệu? Dù sao, Viên cũng đánh một đòn hiểm vào kế hoạch rút chạy
khi ông ta chọn con đường 7B mà chưa hiểu rõ đường ấy có còn đi được hay không.
Đường ấy chắc chắn đã đưa quân của Phú đến chỗ bị tiêu diệt. Hội nghị Cam Ranh
vừa họp xong thì sĩ quan tham mưu của Phú lại họp để làm kế hoạch rút lui. Họ
quyết định để lại một phần sở chỉ huy ở Pleiku.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét