CHƯƠNG 41
1930
Sau cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Thái Học.
- Tinh thần dân chúng Hà Nội.
- Ðoạn đầu đài Yên Bái
- Nguyễn Thị Giang
- Dư luận báo chí ở Huế và Saigon Hà Nội, "cuộc âm mưu của
im lặng".
Sau cuộc khởi nghĩa thất bại của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở vài
ba tỉnh Bắc Kỳ, dân chúng Hà Nội lo sợ khi biết tin viên Toàn Quyền René Robin
cho lịnh hai chiếc phi cơ Moranebay đi thả bom xuống làng Cổ Am chẳng còn một
nóc nhà.
Một gia đình đang ăn giỗ, có đông người làng đến dự, nghe tiếng
phi cơ bay rà trên các mái nhà tranh, tò mò chạy ra sân ngước cổ lên trời xem.
Hai viên phi công tưởng đó là " loạn quân “đang tụ họp, liền thả bom và bắn
súng liên thanh, giết chết không còn một mạng.
Ðây là một cuộc tàn sát đầu tiên bằng máy bay, mặc dầu lúc bấy
giờ quân đội Pháp ở Ðông Dương chỉ có vài chiếc máy bay cũ kỹ kiểu 1918 mà
thôi. Nạn nhân không phải là “ quân phiến loạn “ mà là những nông dân vô tội,
có cả ông già, đàn bà, trẻ nít.
Tàn quân VNQDÐ đã chạy trốn vào rừng núi, tìm đường sang Tàu,
về ngả Lào Kay, Lạng Sơn. Các báo Hà Nội đăng tin, nhưng không dám phê bình vụ
tàn sát dã man kinh khủng trên kia, trừ một tờ báo L’ Argus Indochinois là có
viết bài mạt sát viên toàn quyền René Robin thậm tệ. Vài tờ báo cách mạng ở
Saigon cũng nổi lên đả kích kịch liệt vụ tàn sát làng Cổ Am bằng phi cơ.
Sau vụ này, Tuấn được nghe truyền tụng trong khắp các phố phường
Hà Nội, một bài sấm mà người ta cho là rất linh ứng của Trạng Trình, Tuấn chép
lại bài sấm để học thuộc lòng :
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, rung tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Lâm giang nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy
Một ngựa một yên ai sùng bái
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay
(Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM)
Theo các cụ đồ Nho giảng dạy, thì trong bài sấm này, Trạng
Trình ám chỉ rõ ràng cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ ở Kiến An, Lâm thao, Hưng Hóa,
Yên Bái và cuộc dội bom xuống làng Cổ Am. hai chữ Vĩnh Bảo là nói về Hoàng Gia
Mô, cháu nội của Hoàng Cao Khải, làm tri huyện ở Vĩnh Bảo (tỉnh Hải Dương) bị
quân VNQDÐ giết. Tuấn nhận thấy câu thơ thứ bảy bị chữ thứ sáu thất niêm, đáng
lẽ phải là một chữ vần trắc, theo luật Ðường Thi, nhưng các cụ cho rằng đây là
một lời Sấm, không cần phải niêm luật. Trừ một nhận xét nho nhỏ ấy về kỹ thuật
thơ Ðường, Tuấn cũng như toàn thể sinh viên học sinh, giáo sư, và các tầng lớp
dân chúng Bắc Kỳ, cả Trung và Nam kỳ, đều thán phục bài Sấm thần kỳ linh nghiệm
của một bậc “Ðại Thánh “ Việt Nam.
Ở Saigon, tờ báo đầu tiên dám đăng bài Sấm của Trạng Trình và
giảng nghĩa rõ ràng là tuần báo “ Phụ Nữ Tân Văn “ của bà Nguyễn Đức Nhuận, mà
chủ bút là ông Phan Khôi.
Vụ khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Ðảng bị đưa ra xử tại Hội Ðồng
Ðề Hình ở toà án Hà Nội. Dân chúng không được vào xem. Lính canh gác cẩn mật
chung quanh Nhà Hỏa Lò (danh từ thông dụng chỉ nhà lao Hà Nội) và toà án trên đại
lộ Carreau.
Phải nói đúng sự thật rằng, trừ các giới cách mạng nằm trong
bí mật là đặc biệt theo dõi vụ án này, còn ngoài ra, công chúng, cả thượng lưu,
hạ lưu, cho đến các giới đồng bào bình dân, lao công, đều gần như lơ là, không
xôn xao, xúc động.
Lý do, có lẽ một là vì Việt Nam Quốc Dân Ðảng chỉ hoạt động
thầm lén trong một phạm vi quá nhỏ hẹp, quảng đại quần chúng chưa biết tới, hai
là cuộc khở nghĩa bùng ra quá sớm chưa được chuẩn bị đầy đủ các yếu tố tuyên
truyền và tâm lý để sách động quần chúng. Cho nên cái tin VNQDÐ nổi dậy đánh
Yên Bái, Kiến An, Lâm Thao, hầu như không có ảnh hưởng sâu rộng ở Hà Nội là nơi
trú đóng trung ương đảng bộ VNQDÐ mà lại là nơi tương đối yên tỉnh nhất. Các tỉnh
khác như Nam Ðịnh, Hải Phòng, Thái Bình, Phủ Lý, Hà Ðông, Sơn Tây, Vĩnh Yên và
các tỉnh ở thượng du Bắc kỳ hầu như hoàn toàn yên ổn, không mấy ai biết tới.
Mặt khác, sở Mật thám Ðông Dương tìm cách không cho tiếng
vang của cuộc khởi nghĩa lan rộng ra. Các báo ở Hà Nội đều hầu hết tuân theo mệnh
lệnh của Mật thám Ðông Dương và của phủ Thống sứ Bắc kỳ. Trên các tờ “Hà thành
ngọc báo, “Ðông Báo “, “Trung Bắc Tân văn“, “Thực nghiệp dân báo“, người ta
chỉ đọc được những cái tin vắn tắt, đúng 2 cột, hoặc 1 cột mà không có hình ảnh.
Ngay tờ “ Tiếng Dân “ của cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Huế, cũng không khai thác biến
cố cực kỳ quan trọng ấy.
Những gì Tuấn biết được về vụ khởi nghĩa đều do tin tức truyền
miệng của nhóm sinh viên, học sinh của Ðảng, một nhóm thiểu số mà sự tuyên truyền
cách mạng thường gặp phải sự lãnh đạm sợ sệt rất đáng chán nản của giới sinh
viên học sinh chỉ chăm lo học hành thi cử.
Tin anh Nguyễn thái Học, Ðảng trưởng và 12 Ðồng chí ở các cấp
lãnh đạo, bị toà xử trảm, là một tiếng sét đánh vào tai những cậu học sinh và
sinh viên của Ðảng, tuy ai cũng đoán trước cái định mệnh kinh hoàng đau đớn ấy.
Lúc đầu nghe nói sẽ xử bắn trong sân nhà Hỏa Lò, nhưng ngay
hôm sau đã có tin 13 nhà cách mạng QDÐ sẽ bị lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Làm sao
đi xem được. Tuấn và mấy bạn học sinh, sinh viên đồng chí đều thiết tha mong muốn
được chứng kiến cảnh tượng bi hùng duy nhất ấy, được chính mắt đọc trang Lịch Sử
Việt Nam vẻ vang ấy.
Nhưng làm thế nào? Một tin bí mật và chắc chắn cho Tuấn biết
rằng ngày quyết 13 vị Liệt Sĩ VNQDÐ, sẽ là ngày 17.6.1930 tại Yên Bái.
Phải nói rõ rằng nhóm học sinh VNQDÐ, đã được tổ chức riêng
biệt thành một lực lượng trừ bị, theo chiến thuật của anh Hồ Văn Mịch, vì hình
như Trung Ương Ðảng Bộ còn ngại sự trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm của lớp thanh
niên làm cách mạng tập sự, và không trao cho lớp này những công tác bí mật quan
trọng.
Học sinh của Ðảng chỉ biết nhau bằng bí danh, và tổ chức chưa
được chặt chẻ, chưa có hệ thống, và thật sự chỉ mới bắt đầu họat động hăng hái
thì Ðảng đã bị tan vỡ do cuộc khởi nghĩa đột ngột ở Yên Bái. Hồ Văn Mịch là
linh hồn của tổ chức học sinh cách mạng của VNQDÐ và được nhóm trẻ của Tuấn coi
như người anh cả. Mịch bị bắt, và nhờ bị bịnh ho lao nên được nằm nhà thương Phủ
Doãn. Và không bị tra tấn nhiều. Vả lại anh có rất nhiều can đảm, không hề tiết
lộ một bí mật nào của đảng. Ðó là một điều may mắn cho nhóm học sinh cách mạng
không có một người nào bị tình nghi, và mật thám không biết một tí gì về tổ chức
học sinh của Ðảng.
Tuấn và hai người bạn thân tín nhất rủ nhau đi Yên Bái ngày
15 tháng 6, hai ngày trước hôm Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Quốc Dân Đảng lên
đoạn đầu đài. Ðể tránh mọi sự nghi ngờ, ba chàng thanh niên đi bằng xe đò, chứ
không đi xe lửa.
Ðến Yên Bái đã gần khuya, Tuấn và hai người bạn lặng lẽ đi đến
nhà một cô bạn gái, con một công chức làm tham tá ở Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, ở gần
chợ. Ðến đây, công việc đầu tiên của tụi trò Tuấn là nghe ngóng dư luận …
Mặc dầu nhà cầm quyền dấu kín, dân chúng tại tỉnh lỵ Yên Bái
cũng đã thì thầm với nhau rằng “những người Quốc Dân Đảng sẽ bị hành hình lúc
6 giờ sáng hôm sau. Nhưng số người tử tội thì không ai biết rõ. Kẻ bảo là 12
người, kẻ bảo 15 người. Có kẻ làm ra vẻ thông thạo quả quyết chỉ có 9 người
tòng phạm thôi, còn hai người “ chủ mưu “, là Nguyễn Thái Học và Ký Con thì đã
bị chém trong nhà Hỏa Lò ở Hà Nội ngay sau phiên tòa. Toàn là những lời đồn đại
trái ngược, những tin tức nhiều khi mâu thuẫn mà ai loan truyền ra cũng đảm bảo
tin của mình là chính thức và đúng hơn cả.
Ðêm nay Tuấn và hai đứa bạn không ngủ được và không lúc nào
thấy buồn ngủ. Ba cậu học sinh nằm trên bộ ván, trùm trong một chiếc khăn bông.
Họ nói thầm thì với nhau những điều thầm thì với nhau những điều ước đoán theo
những câu chuyện nghe lõm và những lời đồn đãi ngoài phố.
Yên Bái đêm ấy có cảnh tượng như một thành phố chết. Những ngọn
đèn điện thưa thớt và lờ mờ đổ xuống đường những vũng ánh sáng leo lét hoang
vu. Không một bóng người qua lại. Không có giới nghiêm, không thiết quân luật,
nhưng dân chúng lặng lẽ ở nhà, không dám ra đường. Mới tám giờ tối, hầu hết các
nhà và các tiệm buôn lớn của Hoa kiều đều đóng cửa kín mít. Năm ba nhà hàng lớn
của Hoa kiều cũng để cửa hé thôi.
Bốn giờ sáng, trời còn mù mịt, thành phố Yên Bái như tê lạnh
dưới một vòm sương dầy đặc, trắng lều bều …
Ba cậu học sinh khẽ mở cửa ra đi, cố tình đi sớm một giờ để
xem tận mặt tất cả những gì xẩy ra trước giờ hành quyết, tất cả cảnh tượng bi
đát và oai hùng mà Tuấn và hai người bạn sẽ được chứng kiến trong một tiếng đồng
hồ. Không được lại gần chỗ chiếc máy chém đứng lù lù, bí mật, nghêng ngang giữa
khu đất trống. Tuấn dòm đăm đăm cái vật ghê tởm mầu xám xẩm phủ lên một lớp
sương đêm làm tăng thêm mầu láng bóng hãi hùng ghê rợn.
Năm giờ hai mươi phút, một toán lính “ Khố Xanh “ do một viên
giám binh Pháp dẫn đầu, và lính “ Khố Ðỏ “ dưới quyền chỉ huy của một trung uý
Pháp lần lượt kéo đến, sắp hàng một, bao vây pháp trường. Công chúng hiếu kỳ
kéo đến xem đông độ một trăm người, bị đuổi ra xa. Nhiều người chạy đi tìm chỗ
đứng xem cho rõ. Tuấn và hai đứa bạn cũng bị lính đuổi đi, nhưng rồi cả ba cậu
học trò vẫn tìm được một chỗ tạm nấp trong bóng tối nhưng ở đây được trông thấy
tường tận.
Sau này, có vài quyển sách và bài báo chép rằng chị Nguyễn thị
Giang, người vợ đồng chí của Nguyễn Thái Học, có đứng trong đám đông người để
nhìn thấy mặt của đảng trưởng một lần cuối cùng. Nhưng Tuấn quả quyết rằng chị
Nguyễn thị Giang không có đứng trong đám đông người, buổi sáng tinh sương mà
nhà chí sĩ trẻ tuổi vĩnh biệt cuộc đời để bước vào lịch sử. Người ta không thấy
chị Giang đâu cả. Sự thực, chị đã cải trang thành một người đàn ông, và đứng
nép bên một gốc cây, chỉ 10 phút thôi, từ lúc chiếc xe sơn đen của nhà lao Yên
Bái đưa anh Nguyễn Thái Học ra pháp trường cho đến lúc anh không còn nữa.
Nguyễn Thái Học bước lên đoạn đầu đài có hơi khác Nguyễn Thái
Học lúc hoạt động cách mạng. Lần này đầu anh bị cạo trọc, đôi mắt anh sâu hóm
như hai cái lổ thẳm. Má anh cóp và người anh gầy đi nhiều. Anh không ngó ai cả,
đăm đăm bước rất mau lên bàn máy chém, hai tay bị trói còng ra sau lưng. Anh đứng
trên bục sắt đen ngòm, la lên với một giọng run run mà những kẻ tò mò được chứng
kiến đứng ngoài vòng lính, ít người được nghe rõ. Sương còn buông xuống nhiều,
Tuấn cố lắng tai nghe tiếng anh “ Việt Nam vạn …vạn …tuế. Hai tiếng “ Việt Nam
“ và tiếng “ tuế” sau cùng thì hét lớn lên, còn hai tiếng “ vạn …vạn “ rất nhỏ,
chỉ nghe thoáng như hơi thở cuối cùng. Lưỡi dao sắc bén rơi mạnh xuống cổ anh,
kêu một tiếng “phập“. Ðầu anh rơi xuống một chiếc thùng mạt cưa kê ở dưới bàn
máy chém.
Chính trong phút đó, chị Nguyễn Thị Giang dưới lớp áo đàn
ông, chùm chiếc pardessus đen, biến đi đâu mất.
Tuấn và hai đứa bạn hình như bị nghẹn cổ, không thở được Tuấn
lấy khăn tay lau sương và nước mắt chảy ướt đẩm trên đôi má tái mét rồi nhắm mắt
đứng yên, không nhúc nhích, như một pho tượng, và không trông thấy gì nữa. Tuấn
không thấy ngững người khác lần lượt chết sau anh Học, 6 giờ 20 phút, là xong.
Tuấn và hai đứa bạn đi thật nhanh ra bến xe đò về Hà Nội.
Ít lâu sau hôm xử tử anh Nguyễn thái Học, Tuấn được tin chị
Nguyễn Thị Giang tự tử bằng súng lục ở ngay làng quê của người yêu.
Hai biến cố ấy làm đảo lộn tinh thần của đám thanh niên học
sinh có theo dõi và tham gia chút ít hoạt động của VNQDÐ. Dư luận dân chúng Bắc
Kỳ rất xôn xao, nhất là ở Hà Nội. Nhưng người ta chỉ bàn tán thầm thì với nhau
trong gia đình chớ không dám nói lớn. Các báo Việt ở Hà Nội chỉ làm nhiệm vụ
thông tin hoàn toàn khách quan. Không có một tờ báo nào viết ca ngợi các liệt
sĩ VNQDÐ hoặc tỏ tình trong lúc viết tin tức, hay bình luận thời cuộc. Thỉnh
thoảng một đôi tờ báo có đăng một bài thơ của một cụ nhà nho, nói về Nguyễn
Thái Học và Nguyễn Thị Giang, nhưng đại ý cũng chỉ tỏ lòng thương hại, hay
trách móc, chứ không có bài nào tán dương hay khâm phục việc làm VNQDÐ và Nguyễn
Thái Học, lãnh tụ của đảng.
Ở Trung Kỳ có hai luồng dư luận trái ngược nhau: đa số trong
giới quan lại của triều đình Huế, dĩ nhiên là mạt sát Nguyễn Thái Học và VNQDÐ,
lại còn cười chế nhạo là “trẻ lòng non dạ , “châu chấu đá voi“. Giới thanh
niên trí thức và trung học thì rất cảm phục lòng ái quốc hăng say và hy sinh
cao cả của Nguyễn Thái Học và Nguyễn thị Giang. Hầu hết dân chúng miền trung chỉ
nghe tin tức qua báo “ Tiếng Dân “ của cụ Huỳnh Thúc Kháng, nhưng chính cơ quan
tranh đấu độc nhất ở Trung kỳ, do nhà cách mạng nổi danh làm chủ nhiệm kiêm chủ
bút, vẫn hết sức dè dặt không hăng say mấy.
Duy có Saigon, cả báo Tây lẫn báo Việt đều nói đến nhiều nhất.
Nhưng ở đâu dư luận báo chí và dân chúng chia làm 3 phe : một phe gồm toàn các
báo thực dân Pháp và một số báo Việt của các nhà tư bản, điền chủ, đốc phủ sứ,
công kích việc “phiến loạn“ của VNQDÐ. Một phu trung lập như báo Phụ Nữ Tân
Văn, do Phan Khôi làm chủ bút, thì chỉ nhận xét vụ VNQDÐ theo bài Sấm của Trạng
Trình. Tờ tuần báo Phụ nữ tân văn cho rằng biến cố VNQDÐ chỉ là một sự kiện tiền
định của Lịch Sử, là không khen không chê.
Trái lại, có một số báo chính trị bằng Pháp văn của những người
thanh niên trí thức, thì nhiệt liệt tán thưởng cuộc Khởi Nghĩa của VNQDÐ.
Giới học sinh Hà Nội, phần đông ở hai tư thục lớn nhất, Thăng
Long (của người Việt), Gia Long (của người Pháp) và trường (trung học bảo hộ) của
Nhà Nước, xôn xao khá nhiều trong một tháng đầu. Nhưng rồi người ta thấy thấy
có nhiều tụi học sinh làm dọ thám, chuyên môn đi nghe ngóng các câu chuyện thì
thầm của bạn bè hoặc thường đi xe đạp rảo qua các nhà trọ của học sinh, hay vờ
vĩnh đến nhà bạn chơi để lục soát sách vở vì thế mà dần dần có một cuộc “âm mưu
của im lặng” theo chữ Pháp thông dụng lúc bấy giờ trong trường hợp đó “ une
conspiration du silence”.
CHƯƠNG 42
1930
- Tuần báo Phụ Nữ Tân văn, Saigon bán ra Hà nội.
- Ảnh hưởng của các báo tranh đấu cách mạng ở Saigon bằng
Pháp Văn đối với sinh viên, học sinh Hà Nội (La Lutte, La Cloche Felée, L Echo
Annamite...)
Nhà trọ của Tuấn ở 77C đường Maréchal Pétain có đến 7 trò, hầu
hết là học trường Thăng Long, Gia Long, hoặc trung học Pháp Lycée Albert
Sarraut, cũng thường có vài đứa bạn đến chơi, và thừa lúc anh em vô ý, lục soát
các sách vở và bàn học để kiếm tài liệu “ quốc sự “.
Một lần, đúng ngày 24 tháng 3 dương lịch, Tuấn và các bạn tổ
chức ở trên gác một buổi lễ kỷ niiệm cụ Phan Chu Trinh tạ thế. Các cậu đặt một
chiếc bàn thờ tạm, treo bức chân dung của cụ, có đèn hương, hoa quả, bày biện đầy
đủ trên bàn. Bảy anh em học sinh và sinh viên cùng ở trọ trong nhà, đều hăng
hái và thành kính làm lễ. Tuấn đọc một bài điếu văn kể lại tiểu sử và sự nghiệp
cách mạng của cụ và cổ võ anh em nên soi gương ái quốc của cụ, nguyện sau này sẽ
đem học vấn và tài năng của mình để phụng sự quốc gia. Xong bài điếu văn, anh
em lần lượt từng người ra lạy trước bàn thờ nghi ngút trầm hương. Buổi lễ đơn
giản, nhưng rất cảm động. Anh em ai cũng bùi ngùi, có người lạy rồi lạy nữa, ba
bốn lần.
Thình lình, một cậu học trò, chỉ quen sơ với Tuấn, cũng như
các sinh viên học sinh khác trong nhà, cũng quê quán ở Trung kỳ đi xe đạp đến,
và lật đật leo cầu thang lên gác. Hắn bắt gặp cả một đám học sinh, sinh viên
đang đứng im lặng trước bàn thờ có treo ảnh cụ Phan Chu Trinh, còn khói hương trầm,
cặp nến trắng còn đang cháy liu hiu. Hắn cười, hỏi Tuấn :
- Tụi các anh làm gì thế ?
Hắn đăm đăm nhìn ảnh cụ Phan, rồi nhún vai, bảo :
- À, hôm nay là 24 Mars, ngày giỗ cụ Phan Chu Trinh …Thế mà
tôi quên mất chứ ! Tụi các anh nhớ giỏi nhỉ !
Nói xong, nó ngoay nguẩy chạy xuống cầu thang, và ra cửa lên
xe đạp phóng một mạch về phía bờ hồ.
Tụi trò Tuấn vội vàng dọn cất chiếc bàn, tắt đèn, tắt hương,
sau khi lạy cụ Phan một lần nữa.
Trò Trần Kiên Mỹ tức giận nói to :
- Thằng khốn nạn, quê ở Quảng Nam, bạn đồng hương mà đi làm
chó săn.
Trò Long bảo bằng tiếng Pháp:
- C’est un mouton dangereux (một thằng do thám -nghĩa bóng-
nguy hiểm).
Tuấn không nói gì chỉ lấy tấm hình đem gói vào tờ giấy dấu dưới
miếng ngói ở mái nhà bếp.
Tất cả đều hồi hộp lấy bài vở ra học, và chờ mật thám đến xét
nhà, không có ai sợ trốn đi. Nhưng chờ mãi không thấy mật thám tới. Tuấn đứng
trong cửa sổ, ngó xuống đường Maréchal Pétain, chỉ thấy thằng khốn nạn đạp xe
lượn qua lượn lại nhiều lần trước nhà.
Lần cuối cùng, vào khoảng 12 giờ trưa, hắn ghé vào. Tuấn
không muốn cho hắn lên gác, vì có mấy đứa bạn, nhất là Long Lycée (thường gọi
là Long Toét) hăm đánh hắn "vỡ mặt “.
Tuấn xuống dưới nhà, gặp hắn sắp sửa lên cầu thang. Tuấn nắm
tay hắn giữ lại :
- Mi lên trên đó thế nào cũng bị mấy người đập chết. Mi ở đây
với tao. Tại răng lúc nãy mi có thái độ lạ rứa? Tao hỏi thiệt mi, mi làm
mouton cho mật thám Tây, phải không?
Hắn run sợ, bảo :
- Không có. Ai bảo với anh thế?
- Tao bảo. Vì thái độ của mi chứng tỏ rằng mi là một agent de
recherche, một thằng điềm chỉ cho Tây. Tụi tao làm lễ truy điệu cụ Phan Chu
Trinh chứ có gì bí mật đâu mà tụi bay đi rình? Mi cũng là dân Quãng Nam, răng
mi đi làm chuyện tồi bại rứa? Mi không sợ tụi bạn đồng hương của mi đập mi nát
óc à?
Hắn cười giả lả:
- Anh đừng nghi oan cho tui chứ. Tôi đâu có làm agent de
sureté cho Tây. Lúc nãy tôi đến là định hỏi anh có được mandat ở nhà gửi ra
chưa, nếu có thì cho tui mượn tạm 5 đồng để trả tiền trọ. Nhưng tôi thấy các
anh bận việc, tôi đi về, thế thôi. Tôi thề với các anh rằng tôi không làm điềm
chỉ cho Tây đâu.
Tuấn bảo :
- Mi cần tiền thiệt không?
- Thiệt. Tui định đến mượn anh 5 đồng.
- 5 đồng đây, mầy cút đi.
Tuấn lấy 5 đồng đưa cho thằng khốn nạn, nó cảm ơn rồi ra đi.
Tuấn theo dõi dư luận của một số báo chí Pháp ngữ ở Hà Nội
(L’Echo Annamite, La Tribune Indochinois, La Jeune Indochine) công kích kịch liệt
viên toàn quyền René Robin về vụ y ra lệnh cho máy bay ném bom làng Cổ Am, nơi
mà bị tình nghi dung dưõng tàn quân Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
Ở Hà Nội không có tiệm sách nào bán báo Saigon, Tuấn cùng với
một nhóm bạn thân toàn là sinh viên học sinh nghèo, góp tiền gởi vô Saigon mua
năm các tờ báo cách mạng của người “ Annam “ hầu hết là viết bằng chữ Pháp, như
tờ La Lutte của Tạ Thu Thâu (đệ tứ quốc tế), La Jeune Indochine của Vũ Đình Duy
(Phục Quốc hội), La Tribune Indochinois của Bùi Quang Chiêu (thủ lãnh đảng Lập
Hiến Ðông Dương). L’Écho Annamite của Nguyễn Phan Long (đảng Lập Hiến Ðông
Dương), Parti constitutionnaliste Indochinois v.v…
Ðiều đó không có gì lạ đối với tình thế lúc bấy giờ. Vì báo
viết bằng Pháp Ngữ, dù là của người An nam do người An nam làm chủ nhiệm, cũng
được theo chế độ tự do của báo chí Pháp. Còn báo chí Annam dù là xuất bản ở
Saigon và Nam kỳ, là thuộc địa Pháp, cũng phải theo một chế độ riêng, bị hạn chế
và bị chính quyền thuộc địa bóp chẹt.
Cho nên những tờ báo cách mạng ở Hà Nội (rất ít) ở Huế (không
có) đặc biệt nhiều nhất ở Saigon, đều viết bằng tiếng Pháp, và theo qui chế báo
chí Pháp quốc cộng hòa : tự do báo chí, tự do ngôn luận, y như các báo ở bên
Pháp vậy.
Vụ đưa lên đoạn đầu đài mười ba nhà liệt sĩ VNQDÐ ở Yên Bái
cũng như vụ toàn quyền Robin cho phi cơ ném bom làng Cổ Am, đã gây cho các báo
cách mạng Pháp ngữ ở Hà Nội và Saigon một luồng dư luận vô cùng phẩn nộ. Các
báo ấy công kích kịch liệt sự trả thù vô nhân đạo của “ bọn thực dân “ cầm dùi
cui” (des colonialistes à la trique) theo danh từ rất thông dụng thời bấy giờ.
Ðọc những tờ báo đó, những người trí thức, và đám sinh viên học
sinh “ có đầu óc cách mạng” đều khoái vô cùng. Nhưng không phải là ai cũng đọc.
Ðại đa số đồng bào không biết, hoặc không thông thạo tiếng Pháp không đọc được,
đó là lẽ dĩ nhiên và điều thiệt thòi rất lớn. Nhưng ngay trong đám trí thức và
công chức, mà học lực từ bằng diplôme (thành chung) trở lên nghĩa là đã đọc và
nói được tiếng Pháp lưu loát lắm cũng chỉ có số rất ít, trong một trăm người hoạ
may có 1 người, đọc các tở báo cách mạng bằng Pháp ngữ hoặc nếu có đọc cũng chỉ
đọc lén mà thôi. Vì họ sợ “ quan Tây, quan thầy Pháp lang Sa“. Nhà Nước Ðại Pháp
để ý đến họ, hoặc bắt bớ, giam cầm, tù đày khổ sở.
Một tuần báo Việt Ngữ bán chạy nhất lúc bấy giờ và có uy tín
nhất, không những riêng ở Saigon, Lục tỉnh mà cả Trung kỳ, Bắc kỳ nữa (như ở Hà
Nội có rất nhiều gia đình mua cả năm) là tờ Phụ Nữ Tân Văn của một bà triệu phú
người Nam, có cửa hàng tơ lụa lớn nhất ở Saigon, tên là bà Nguyễn Đức Nhuận và
chủ bút là ông Phan Khôi. Ngoài bìa in màu, có hình vẻ ba thiếu phụ Nam, Trung,
Bắc, đầu tóc riêng biệt theo mỗi địa phương, nhưng ngồi sát nhau ra chiều chị em
thân ái lắm. Dưới hình có ghi hai câu thơ đầy ý nghĩa:
Phấn son tô điểm sơn hà
Tuấn thuộc lòng hai câu châm ngôn bằng thơ ấy, mỗi tuần đúng
vào sáng thứ Hai là chàng nhận được tập báo ấy do một người bạn gái ở Saigon gửi
tặng. Hai câu châm ngôn rất mới mẻ và rất hấp dẫn kia tỏ rõ lập trường ái quốc
của tờ tuần báo duyên dáng độc nhất của Nam Kỳ. Ông chủ bút Phan Khôi là một
tay văn học cừ khôi nhất ở Saigon lúc bấy giờ. Thế mà tuần báo ấy không hề có một
bài nào phản đối việc toàn quyền Robin cho máy bay ném bom dã man xuống làng Cổ
Am.
Ðể nêu gương ái quốc của mình, và để cổ võ lòng ái quốc của
người An nam, tờ Phụ Nữ tân văn chỉ làm được hai việc có thể gọi là vĩ đại nhất
lúc bấy giờ. Một, là báo ấy mở cuộc thi “ Danh Nhân Việt Nam “. Nhà báo chọn một
danh sách không quá 25 người, tức là “ 25 danh nhân “ trong lịch sử Việt Nam,
không theo thứ tự nào cả. Mỗi tuần, nhà báo đăng tiểu sử và sự nghiệp của một
người, đại khái như : Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, Trần Bình Trọng, Quang Trung,
Trưng Trắc, Phan Thanh Giản, v.v…
Xong rồi nhà báo nhờ độc giả sắp hạng, căn cứ trên sự nghiệp
của mỗi vị danh nhân, để ai trên ai dưới, thành một bản danh sách dự thi. Những
bản danh sách nào gần giống nhau nhất sẽ được coi như trúng giải.
Cuộc thi Danh nhân Lịch Sử ấy không có kết quả tốt đẹp, vì sự
lựa chọn của độc giả rất là lộn xộn, phiền phức, không theo tiểu chuẩn nào cả.
Việc làm thứ Hai có tính cách “ái quốc “ của Tuần Báo Phụ nữ
tân văn là mở cuộc lạc quyên giúp bốn học sinh nghèo du học sang Âu châu.
Số tiền lạc quyên không có mấy nhưng tiền của ông bà Nguyễn Đức
Nhuận bỏ ra lập bốn học bổng thì cũng khá nhiều. Có rất nhiều học sinh dự thi.
Ban chấm thi cho một bài thơ Việt Nam để thi giảng giải và bình luận. Bài thơ
có năm vần như sau đây :
Lò, Mò, Lo, Cho, Trò.
Kết quả có 4 thí sinh đậu, và buổi tiệc tiễn bốn cậu lên tàu
thủy để qua Pháp rất là long trọng. Theo thể lệ học bổng cậu nào thành tài và sẽ
có công việc làm, sẽ phải đóng góp mỗi tháng một số tiền để thành học bổng cho
người lớp sau. Nhưng sau đó, các trò học đại học Pháp, cưới vợ đầm, và chẳng có
một cậu nào tôn trọng thể lệ học bổng, theo lời cam đoan danh dự trong buổi tiệc
tiễn đưa trước khi xuống tàu.
Học bổng của báo Phụ Nữ tân văn chỉ được một lần đó thôi và
không có điều kiện tiếp tục hằng năm. Tờ phụ nữ tân văn cũng phát hành trong một
thời gian vài năm rồi đình bản, sau khi ông Phan Khôi nghỉ việc.
Ở Hà Nội, sau vụ VNQDÐ, tình hình trở lại yên ổn. Nhóm sinh
viên học sinh đã có hoạt động ít nhiều trong hội kín Quốc Dân Ðảng, tiếp tục học
thi tú tài hoặc vào các ngành khác.
Ðời sống bề ngoài hoàn toàn yên tĩnh, cũng như ở Trung và Nam
Kỳ. Người ta bắt đầu quên lần vụ khởi biến VNQDÐ và ở thành thị cũng như thôn
quê, nhiều nơi dân chúng không hề nghe nói đến cái tên Nguyễn Thái Học.
Người ta lo “ làm ăn “để có tiền nộp thuế cho Tây.
Sau một thời gian, im hơi lặng tiếng, hình như một vài uỷ ban
trung ương đảng bộ bắt đầu tái lập để hoạt động trở lại, nhưng một cách hết sức
dè dặt và hãy còn rời rạc.
CHƯƠNG 43
1930
- Một cuộc du lịch qua các tỉnh Trung kỳ, vô Saigon, để xem
xét tình hình.
- Tinh thần cầu an của thượng lưu, trung lưu "An nam"
- Một xu-hướng Tân VNQDÐ.
Một buổi tối thứ bẩy, một người bạn đồng chí rất thân đến nhà
trọ rủ Tuấn đi Bờ Hồ chơi. Hai người ngồi trên ghế đá trống dưới gốc cây phượng.
Người bạn hỏi Tuấn :
- Anh có quen với ai ở Saigon không?
Tuấn nghĩ một lúc rồi bảo :
- Có một người bạn học cùng lớp ở Qui Nhơn, hiện giờ làm công
chức sở Bưu Ðiện Saigon. Có một bạn nữa, người đồng hương, hiện làm trợ bút một
tờ nhật báo lớn.
- Anh vô Saigon tiếp xúc với hai người đó được không? Thử đặt
một cơ sở kỳ bộ thanh niên VNQDÐ ở Saigon, trong giới trẻ cách mạng rồi anh trở
Hà Nội liền.
- Ði Saigon thì được. Nhưng còn tiếp xúc với hai người bạn đó
sẽ có kết quả gì hay không, tôi không dám chắc. Người bạn làm Bưu Ðiện, thì lúc
còn học ở Quy Nhơn, đã tỏ ra là một trong những đứa nhát gan nhất và sợ tây nhất.
Còn cái anh trợ bút báo Công Luận thì hoạ may …Trong vụ lễ truy điệu cụ Phan
Chu Trinh, hắn cũng khá hăng hái …Nhưng hiện giờ mình không thể bảo đảm gì cả.
Ðã mấy năm rồi mình không gặp hắn.
- Không hề gì. Anh cứ đi Saigon một chuyến xem. Thử tiếp xúc,
và dọ dẫm tình hình, rồi sẽ liệu.
- Hôm nào đi ?
- Hôm nào cũng được, tùy anh.
- Ðể tôi sắp đặt công việc học hành của tôi xem sao đã. Thời
khóa biểu của tôi tháng này nặng lắm. Nhưng tôi có thể đi một tuần lễ..
Hôm sau, người bạn của Tuấn đến trao Tuấn 200 đồng (200 đồng
hồi 1930 gía trị bằng 20.000 đồng năm 1970) và hai người thì thầm trò chuyện rất
lâu. Rồi một buổi chiều, vào lúc 5 giờ, Tuấn xách chiếc va li nhỏ ra ga xe lửa
mua vé tàu suốt Hà Nội – Saigon.
Tàu suốt cũng gọi là Tàu Tốc Hành (train-express) chạy đúng
hai ngày hai đêm, chỉ ghé những thành phố lớn, 7 giờ tối ngày sau tàu đến ga
Saigon.
Tuấn xuống một khách sạn gần ga, đường Amiral Roze (nay là đường
Trương Công Ðịnh). Ðưa giấy căn cước cho người bồi khách sạn ghi vô sổ, rồi
chàng đi tắm.
Trở lại phòng thay đồ đạc xong, Tuấn ra đi, ghé ăn qua loa
trong một tiệm cơm “ các chú “ nơi góc đường, rôì đi bách bộ xem cảnh tượng
thành phố ban đêm.
Saigon rộn rịp hơn Hà Nội nhiều. Thoạt tiên, Tuấn để ý đến
hai điểm khác nhau giữa hai thủ đô : Saigon có quá nhiều tiệm, ăn, tiệm café,
xe mì, hầu hết là của các chú và tiệm nào cũng đông đặc khách hàng. Ngoài ra
còn có hàng quà vặt của phụ nữ bình dân ngồi bán đầy các lề đường.
Dân chúng ngồi ăn ngoài đường đông đảo và vui vẻ tự nhiên.
Trái lại, ở Hà Nội, những tiệm ăn rất hiếm, các hàng quà vặt rất ít. Cả phố
hàng Long trước ga chỉ có một tiệm ăn lớn của Hoa Kiều, Nam Kinh Tửu Lâu. Phố
hàng Bông, hàng Gai dài từ chợ của Nam xuống đến chợ Cầu Gỗ, và phố lầu Gỗ xuống
đến bờ sông, không có một tiệm ăn nào cả.
Trước kia, năm 1928, có tiệm ăn : Việt Nam ở phố hàng Bông,
do Việt Nam Quốc Dân Ðảng mở ra làm nơi kinh tài bí mật của đảng, nhưng sau khi
bị bắt và đóng cửa luôn Phố Hàng Da, Hàng Cót, Nhà Hồn cũng thế. Phố Hàng Ðào,
từ Bờ Hồ lên đến chợ Đồng Xuân, qua phố hàng Giấy, lên phố hàng Ðậu, hàng Than
cũng chẳng có một tiệm ăn. Chỉ có phố Hàng Cân có vài tiệm bán chả cá, phố hàng
Nón, có độc nhất một tiệm phở Nghi Xuân. Trừ phố hàng Buồm mà đa số cửa hàng là
của Hoa kiều, có hai ba tửu lầu lớn, còn hầu hết các phố phường Hà Nội đều vắng
bóng tiệm ăn, tiệm rượu, tiệm café. Thỉnh thoảng có một vài quán quán cơm bình
dân ở ngoại ô.
Theo Tuấn, có lẽ vì người Hà Nội thích ăn cơm trong gia đình,
và không ưa đi tiệm. Chỉ khổ cho những người từ các nơi đến Hà Nội phải ở khách
sạn, tìm được chỗ ăn là cả một vấn đề. Có lẽ tại vì phong tục ngoài Bắc là
tránh những nơi “ tửu điếm trà đình “ cho nên trừ những trường hợp đặc biệt,
còn thì không có cảnh tượng ngoài phố như Saigon.
Hà Nội thời Tiền chiến, là kinh đô cổ kính, nơi “nghìn năm
văn vật đất Thăng Long” hãy còn giữ hầu hết những nét truyền thống của Nho
phong.
Saigon khác hẳn, dù là Saigon lúc Tuấn từ Hà Nội vào, ngơ
ngác giữa cảnh rộn rịp đêm ngày như tự cảm thấy mình thất lạc vào một thành phố
hoàn toàn xa lạ.
Quen nếp sống thường ngày ở Hànội, Tuấn đến Saigon và đi xem
phố xá cũng mặc áo veste và đeo cravate, Tuấn cảm thấy khó chịu ngay vì chung
quanh mình công chúng toàn mặc áo bà-ba hoặc sơ mi trần. Cho đến các cô thiếu nữ
19, 20 tuổi đi ngoài phố cũng mặc áo bà-ba, khác hẳn với Hà Nội. Tất cả đều ngó
Tuấn với cặp mắt tò mò. Tuấn ngơ ngác ngượng nghịu như một người ở tỉnh lần đầu
tiên bước chân lên đô thị Saigon.
Sáng hôm sau, để thiên hạ khỏi để ý đến mình, Tuấn mặc sơ mi
trần, không đeo cravate, ra đường gọi xe kéo xuống nhà Giây thép, có vẻ tự
nhiên như một người dân Saigon.
Ðến Bưu điện hỏi thầy N. người ta chỉ qua phòng “colis
postaux” (bưu kiện) ở bên hông.Tuấn sang phòng này, may mắn trông thấy ngay N.
người bạn học cũ ở Qui-Nhơn. Ðầu tiên, N. bỡ ngỡ hỏi :
- Ủa, Tuấn đi đâu đây?
Tuấn bảo khẽ, sợ người ngoài nghe:
- Mình ở Hà Nội mới vô hôm qua, muốn gặp N. nói chuyện chơi.
N. cười gượng:
- Ừ, nhưng bây giờ mõa đang bận việc. Ðể chiều nay được hông?
- Ðược
- Toa vô Saigon ở trọ nhà ai?
- Ở khách sạn Hồng Hoa, đường AmiraL Roze.
- Vậy thì chiều nay cơm nước xong, độ 8 giờ mõa chờ toa trước
cửa ga xe lửa. Nhớ hỉ ! Rồi bọn mình đi ra hóng gió ở Pointe des blagueurs, tha
hồ nói chuyện. Nhớ hỉ !
- Pointe des blagueurs ở đâu ?
- Chỗ cột cờ Thủ Ngữ ngoài bờ sông.
Ðúng 8 giờ tối, Tuấn kêu xe kéo ra bờ sông tìm đến chỗ Pointe
des blagueurs (bây giờ là tiệm ăn Ngân Ðình của Hoa kiều), Tây và Ðầm ăn uống
đông nghẹt. N. dắt Tuấn đi dọc theo bờ sông. Sau những câu chuyện hàn-huyên, Tuấn
kể lại cho N. nghe về cuộc khởi nghĩa thất bại của VNQDÐ. Tuấn dò ý của người bạn
cũ, thấy anh ta có vẻ rất khâm phục Nguyễn Thái Học và các đồng chí của Học
trong VNQDÐ. Anh nói hăng lắm, khác hẳn lúc còn là học sinh ở Qui Nhơn. N. ca tụng
Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, hai nhà anh hùng “ xứng đôi vừa lứa “đã đi
vào trong lịch sử.
Tuấn khấp khởi mừng thầm, hỏi N. :
- Thí dụ bây giờ có một chi nhánh VNQDÐ ở Saigon đây anh có
tham dự không ?
N. trố mắt ngó Tuấn :
- Không ! Moa làm vậy, họ bỏ tù mõa thấy mẹ !
Tuấn cười :
- Vậy sao anh vừa khen Nguyễn Thái Học với Nguyễn thị Giang
quá vậy ?
- Mõa khen họ nhưng mõa không làm như họ được, vì moã còn phải
lo giữ cái nồi gạo của mõa chớ.
Tuấn cười :
- Nếu vậy thì thôi.
Ðể N. khỏi nghi ngờ về nhiệm vụ bí mật của Tuấn, chàng nói tiếp
:
- Mõa hỏi đùa toa cho vui đấy thôi, chớ tụi mình còn con nít
quá, làm gì được đại sự như Nguyễn Thái Học!
Không hy vọng thuyết phục được người bạn công chức chỉ yêu nước
bằng lỗ miệng. Tuấn đi tìm người bạn thứ hai, trợ bút tờ báo “ Công Luận “, tức
là L’Opnion bằng Pháp ngữ, là của một công ty người Pháp, và dĩ nhiên là một tờ
báo triệt để thân Pháp.
Người bạn học cũ của Tuấn là trợ bút ở báo này chắc là phải
theo đường lối của chủ, nghĩa là của Pháp,không thích hợp với chủ nghĩa quốc
gia của người Việt Nam. Tuấn biết như thế nên rất thận trọng trong câu chuyện
tiếp xúc với người bạn cũ.
Thời bấy giờ các nhựt báo ở Saigon phát hành vào khoảng 9 giờ
đêm để bán đến sớm hôm sau, và toà soạn làm việc từ 5 giờ chiều, báo lên khuôn
lúc 7, 8 giờ tối.
8 giờ, Tuấn gặp người bạn tại trước cửa toà soạn. Anh bạn trợ
bút dắt Tuấn đi ăn “ bánh đập “ ở góc đường Frère Louis và uống xá xị. Ðường
Frère Louis nay đổi tên là đường Võ Tánh, và tiệm bánh đập ở trên một khoảng đất
trống khá rộng nay là chợ Thái Bình. Ðây là tiệm bánh đập có tiếng nhất ở
Saigon thời bấy giờ, lúc nào cũng đông khách, người tới lui tấp nập. Loại bánh
đập này là món ăn bình dân rất được dân chúng Saigon ham thích trước đây 30
năm, không hiểu vì sao ngày nay biến mất, không còn thấy ai bán nữa.
Tuấn và anh em trợ bút (nay gọi là ký giả) báo Công Luận, ngồi
riêng một bàn nhỏ ở góc sân gần trong bóng tối. Vừa ăn, vừa nói chuyện về “quốc
sự”. Một đề tài bị người Pháp cấm ngặt thời bấy giờ, nên phải nói chuyện thì thầm
lén lút, giữa đám đông người.
Câu chuyện kéo dài đến 10 giờ đêm, nhưng anh trợ bút báo “
Công Luận “ xem chừng không hăng hái chút nào đối với công việc dự định tổ chức
một kỳ bộ Thanh niên VNQDÐ Ở Saigon. Anh ta nói thì hùng hồ lắm, nhưng lại nhát
gan, không dám tham gia một cuộc phiêu lưu cách mạng nguy hiểm. Cuối cùng, anh
ta định giới thiệu cho Tuấn một giáo sư bạn thân của anh, cũng là một người có
“đầu óc “.
Tuấn gặp ông giáo sư, người Nghệ An, trước dạy trường collège
de Vinh, bị đuổi vì tham gia các cuộc bãi khóa của học sinh năm 1927. Ông trốn
vào Saigon, dạy tư tại “ Trường tư thục Phan Bá Lân “ và có tiếng là một tay “
quốc sự “ hăng hái nhất. Nhưng ông đã có chân trong một “ hội kín “ gọi là “
Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội “. Ông công kích VNQDÐ, cho rằng QDÐ, “làm
việc hồ đồ“, thiếu kỷ luật và tổ chức không chặt chẽ “. Thay vì hường ứng kế
hoạch thiết lập Kỳ bọ Thanh niên VNQDÐ của Tuấn ông giáo sư lại muốn lôi kéo Tuấn
về thành lập Kỳ bộ Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội tại thủ đô Bắc kỳ.
Tuấn từ chối và nhất định trung thành với VNQDÐ. Nhân dịp viếng
thăm Saigon, Tuấn được hân hạnh quen biết thêm một vài bạn trẻ ở “ Hội Kín Nguyễn
An Ninh” và “ Tân Việt Cách Mạng đảng “, hai Hội cách mạng mới thành lập.
Nhưng đời sống quá rộn rịp của “ Kinh đô Ánh Sáng “ không
thích hợp với Tuấn chút nào cả. Mới ở được 5 hôm, một buổi tối Tuấn đi chơi về
khách sạn, gặp anh bôì phòng ngồi trên chiếc ghế đẩu trước cửa vào. Anh bồi
phòng cho Tuấn rõ có tên lính mã tà mướn phòng ở đối diện với phòng số 9 của Tuấn,
và thừa lúc Tuấn đi vắng hẳn lẻn mở cửa phòng của Tuấn. Hắn có chìa khóa mở được
phòng của Tuấn và lục soát đồ đạc của Tuấn để trong phòng. Ðồ đạc của Tuấn thì
có chi ! Một chiếc va li cũ kỹ đựng vài bộ quần áo Tây và An nam. Ngoài ra Tuấn
có đem theo một mớ tiểu thuyết Pháp ngữ và Anh ngữ để đọc trong lúc rảnh, và một
quyển tự điển Larousse, một quyển tự điển Anh mới mua ở Saigon.
Tuấn không một chút lo ngại, và còn mong người lính mã tà
khám xét thiệt kỹ phòng ngủ của chàng để thấy rõ rằng chàng không có gì khả
nghi, và chàng là nột người hoàn toàn lương thiện. Nhưng chiều hôm sau, Tuấn hết
sức ngạc nhiên nhận được giấy gọi đến Sở Mật Thám Pháp ở Saigon.
Tại đây một viên thanh tra Pháp xem căn cước của Tuấn rôì hỏi
:
- Cậu là sinh viên ở Hà Nội, cậu vô Saigon có việc chi ?
Tuấn trả lời liền :
- Tôi vô Saigon để tìm việc làm.
- Ở Saigon không có việc làm cho cậu. Tốt hơn là cậu nên trở
về Hà Nội.
- Tôi cũng định ở Saigon vài ba hôm nữa rồi trở về Hà Nội.
Viên thanh tra Mật thám Pháp ngó thẳng vào mắt Tuấn và truyền
lịnh:
- Không, cậu phải mua vé xe lửa về Hà Nội ngay 7 giờ tối hôm
nay.
- Thưa ông, tại sao tôi phải đi tối nay ?
- Không tại sao cả. Nếu cậu còn ở lại Saigon đêm nay, tôi sẽ
cho lính mã tà đến bắt cậu.
Tuấn không có đồng hồ. Ngó lên vách tường, đồng hồ của phòng
giấy mật thám đã 5 giờ 30, Tuấn chỉ còn 2 giờ để sửa soạn hành lý và mua vé về
Hà Nội. Tuấn đi ăn cơm ở tiệm các chú, ra đến ga chỉ còn 5 phút. Tuấn vội vã
mua vé và xách va li, len lỏi đám đông hành khách ra bến tàu.
Một tên lính mã tà đứng soát giấy căn cước ngay tại chỗ cửa.
Sợ trể tầu, không muốn cho hắn xét giấy, Tuấn xách va li đi thẳng. Người lính
mã tà gọi Tuấn lại, và chạy theo Tuấn vừa gọi :
- Ê ! Cậu kia !
Tuấn chỉ kịp bước lên tầu trong lúc Tàu suốt Saigon-Hà Nội hụ
lên một tiếng chát tai và từ từ lăn trên đường sắt. Nghiêng đầu ra cửa sổ hạng
tư ngó xuống bến, Tuấn còn thấy tên lính mã tà đứng hằn học chỉ ngón tay lên Tuấn,
miệng chửi thề :
- Ð. mẹ mầy !
Trên đường về Hà Nội, Tuấn có ghé lại vài thành phố quen thuộc
ở Trung Kỳ : Nha Trang, Qui Nhơn, Tourane, Huế.
Mỗi nơi Tuấn chỉ ở hai hôm, hoặc ba hôm, và tìm lại các bạn
cũ để dọ hỏi về tình hình địa phương. Hầu hết các bạn cũ của Tuấn, cùng học trước
kia ở Quảng Ngãi, Qui Nhơn, những cậu học trò tinh nghịch, phá phách nhất, bây
giờ đã trở thành những thầy Thông, thầy Phán, thầy Ký, thầy Trợ Giáo – những
công chức Nhà Nước, oai vệ trong bộ Quốc phục, khăn đen áo dài, hoặc đàng hoàng
trong bộ âu phục theo thời trang.
Mới xa cách ba năm (1927-1930), mà không khí đã đổi khác rất
nhiều. Phong độ học trò không còn nữa trên nét mặt của những người bạn cũ. Tuấn
rất ngạc nhiên là chính những bạn hăng hái nhất trong cuộc bãi khóa năm 1927 và
các cuộc hoạt động quốc sự, một khi đã từ giã ngưỡng cửa học đưòng, đã trở
thành những người công chức hiền lành ngoan ngoãn nhất. Gặp lại Tuấn, họ rất niềm
nỡ vui vẻ, mời Tuấn về nhà dùng cơm vơí họ, ở chơi với họ một vài buổi, săn đón
hỏi han rất thành thật hăng hái về Việt Nam Quốc Dân Ðảng và cuộc khởi nghĩa ở
Yên Bái, về Nguyễn Thái Học, Nguyễn thị Giang v.v…
Với một chút hãnh diện rất tự nhiên của kẻ đã được may mắn chứng
kiến vài biến cố quan trọng của Lịch Sử hiện đại ngay trên đất ngàn năm văn vật,
ở Thăng Long huyền bí xa xưa. Tuấn thuật lại cho người bạn cũ nghe vài ba chi
tiết đặc biệt về các hoạt động của VNQDÐ trong giới trí thức và sinh viên học
sinh ở Hà Thành. Các bạn Tuấn nghe hồi hộp say mê, gần như bị kích thích mạnh bởi
những chuyện mạo hiểm ly kỳ, dũng cảm của tuổi trẻ hăng say vì lý tưởng.
Nhưng đêm đã khuya, khi Tuấn bắt đầu đưa ý kiến nên tham gia
trực tiếp vào những hoạt động cụ thể nhằm mục đích phụng sự Cách Mạng ở ngay địa
phương, thì các người bạn, kiếm cách từ chối. Họ sợ công việc sẽ đổ bễ, họ sẽ bị
giam cầm tù tội, sẽ mất “ nồi gạo “, và sợ liên lụy đến cha mẹ, vợ con.
Sự thật Tuấn rất thông cảm với thái độ hoàn toàn thụ động của
các công chức ăn lương của Nhà Nước Bảo Hộ, nên không dám hoạt động chống Nhà
Nước Bảo Hộ. Họ không thể bạt mạng như hồi còn là học sinh. Bây giờ mỗi người
là chủ một gia đình, có bổn phận và trách nhiệm đối với vợ con, nhiều khi với cả
cha mẹ, anh em nữa, vì đa số công chức Việt Nam thuở ấy làm việc để nuôi cả một
gia đình đông đảo, tuy tiền lương không được dồi dào rộng rãi.
Vấn đề lương bổng liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày
của giới trung lưu. Trách nhiệm vật chất của người công chức đối với gia đình
bên nội, bên ngoại là những trở ngại rất lớn cho lớp người trai trẻ có lý tưởng
quốc gia, có chân tâm ái quốc, có chí hướng phụng sự cách mạng và tranh đấu cho
độc lập tự do.
Hầu hết những bạn cũ có tâm huyết, đồng chí hướng với Tuấn
lúc ở nhà trường đã từng mơ tưởng những giấc mộng phiều lưu mạo hiểm, muốn noi
gương các bậc anh hùng trong Lịch sử, nuôi chí hồ-thỉ tang bồng, đều bị kẹt vào
những hoàn cảnh thực tế và nhu cầu cần thiết của gia đình. Sau khi thi đỗ mảnh
bằng Thành Chung, những thầy Thông, thầy Ký, các bạn ấy hưởng ứng sốt sắng và
nhiệt thành khuyến khích, ủng hộ, nhưng chỉ trong tinh thần mà thôi.
Học đường đã đào tạo những cậu học sinh sinh viên tuấn tú, với
một căn bản trí thức khá đầy đủ, vững vàng. Tổ quốc đã rèn đúc thành những
chành trai có chí khí, có hoài bão, nhưng khi người bạn trẻ từ giã mái trường,
thì gia đình lại đòi chàng về đễ phụng sự cho đời sống của gia đình trước đã.
Tuấn, vô tư nhận thấy rằng chính tình trạng “cầu an“ của giới
thượng lưu và trung lưu của xã hội An nam trước đây là nguyên nhân sự phát triển
chậm chạp và khó khăn của các đảng Cách Mạng Quốc gia, mà đầu tiên là Việt Nam
Quốc Dân Ðảng.
Trái lại, nhờ cuộc đi Saigon và lúc trở về ghé thăm mấy thành
phố lớn của Trung Kỳ, Tuấn rất ngạc nhiên thu lượm những tài liệu bí mật chứng
tỏ rằng Ðảng Cộng Sản Ðông Dương (Ðông Dương Cộng Sản Ðảng) đã bành trướng mau
lẹ hơn và sâu rộng hơn trong giới đồng bào bình dân. Những cán bộ tuyên truyền
Cộng sản đã chạm phải thái độ cầu an của các cấp Trung lưu, nên họ chỉ hoạt động
mạnh trong các giới Công Nông mà thôi.
Nếu Cộng sản thành công hơn các đảng phái Quốc gia, chính là
nhờ sự ủng hộ cuồng nhiệt của một số tín đồ trung kiên trong hai giới sau.
Về Hànội, Tuấn tường thuật rõ ràng cuộc du lịch vô Saigon và
qua các tỉnh Trung kỳ cho các thanh niên đồng chí nghe. Tuấn kết luận như sau
đây :
- Phải cải tổ chương trình hành động của VNQDÐ, làm cho thích
hợp không những với hoàn cảnh của các giới thượng lưu và trung lưu, mà còn với
giai cấp Công Nông nữa. PHẢI GẮT GAO TRANH DÀNH ẢNH HƯỞNG VỚI Đông Dương Cộng Sản
đảng, vì chắc chắn sau này VNQDÐ sẽ phải đương đầu với Ðông Dương Cộng Sản đảng,
VÌ HAI HỆ THỐNG LÝ TƯỞNG CHỐNG CHỌI NHAU TRÊN KHẮP CÁC PHƯƠNG DIỆN CHÍNH TRỊ,
KINH TẾ, ÐẠO ÐỨC, LUÂN LÝ, GIA ÐÌNH, XÃ HỘI.
Sự thất bại đau đớn của VNQDÐ do cuộc khởi nghĩa quá sớm mà
chưa kịp chuẩn bị kỹ càng về mặt tuyên truyền chánh trị cũng như kỷ thuật cách
mạng, là bài học kinh nghiệm cho các hoạt động kể tiếp sau này.
Nếu cần, nên giao hết cho thanh niên trí thức, sinh viên cao
đẳng và cao đẳng tiểu học, nhiệm vụ cải tổ hệ thống tuyên huấn của Ðảng.
Nhưng ý kiến của Tuấn đưa ra không được chấp nhận. Một số người
mới của VNQDÐ phần nhiều ở trong giáo giới thủ cựu, những người có thiện chí
nhưng vẫn theo mực thước cũ, không quan niệm được một sự cải tổ cấp tiến, và
nguy hại hơn nữa là họ có mặc cảm tự ái và tự tôn đối với tuổi trẻ của thế hệ
đang lên.
Xem thành phần của nhóm người mới, Tuấn không thấy một người
nào có thể so sánh được, dù chỉ được 5 phần 10, với Nguyễn Thái Học. Không có
ai vừa cứng rắn vừa sáng suốt như Ký Con. Nói thật ra không sợ mếch lòng, trong
nhóm người đứng ra tiếp tục tranh đấu cho lý tưởng VNQDÐ sau khi anh Học chết,
cho đến 1939, không có ai xứng đáng làm một lãnh tụ, một chân chính lãnh tụ.
Anh em sinh viên học sinh, thanh niên trí thức, không tín nhiệm
nơi những người này nữa. Họ phân tán, sáp nhập vào những đảng khác, nhất là vào
nhóm Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội có khuynh hướng cộng sản. Và cũng bắt đầu
từ đấy Cộng sản hoạt động mạnh hơn trước nhiều, còn VNQDÐ thì bị chìm dần cho đến
thời Nhật thuộc mới phát động mạnh trở lại. Nhưng VNQDÐ về sau sẽ bị một số người
lợi dụng và chia rẻ hàng ngũ, không còn phong độ Cách mạng thuần tuý của Nguyễn
Thái Học và Ký Con.
Ngay từ 1931, sau cuộc Khởi nghĩa thất bại, cũng như một số
thanh niên trí thức, văn sĩ, sinh viên cao đẳng, học sinh trường Bưởi, Tuấn
không muốn để ai lợi dụng lòng yêu nước thuần túy của mình.
Tuấn nhận thấy rất rõ rằng hoạt động chính trị được phát triển
chừng nào thì đảng phái chính trị lợi dụng chừng nấy. Những người lợi dụng là
những anh hùng cá nhân bất tài bất lực, chuyên dùng thủ đoạn vặt để tranh dành
nhau làm lãnh tụ, gây uy tín và quyền lợi cá nhân trên lưng các đồng chí.
Ðó là nhận xét chung của một số thanh niên trí thức đã tha
thiết say sưa với lý tưởng VNQDÐ, nhưng đã thất vọng nhiều với lờp người lãnh tụ
mới, sau 1930.
CHƯƠNG 44
1931
- Phong trào chấn-hưng Phật Giáo
- Ở Saigon
- Ở Huế
- Ở Hà-nội
- Châm ngôn " Phi cao đẳng bất thành phu phụ " của
giới " tiểu thư lãng-mạn" Hà-thành.
Một hậu quả không ngờ của sự giác ngộ về chính trị, và tinh
thần ái quốc phấn khởi của các giới chức Việt Nam, từ khi hai cụ Phan về nước
và sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng, là phong trào “Chấn hưng Phật
giáo," bộc phát ở Saigon năm 1931.
Theo dõi các biến chuyển trong đời sống xã hội của Dân Tộc,
Tuấn tìm hiểu đến tận gốc nguyên nhân cụ thể của các phong trào mới. Từ khi người
Pháp đô hộ Việt Nam ta gần một thế kỷ, đạo Thiên Chúa đã gây được một thế lực
khá rộng rãi và bành trướng khá mạnh. Ðồng thời đạo Phật bị hạn chế nghiêm khắc,
bị khinh rẻ bởi triều đình Huế và bởi các quan An nam tôi tớ trung thành của
Nhà Nước Bảo Hộ.
Nhưng từ năm 1920, ở Trung Hoa Dân Quốc đã nổi lên phong trào
“bài ngoại “ chống văn minh tây phương, do đó chống cả Thiên Chúa Giáo. Một cuộc
vận động chấn hưng Phật giáo được cổ xuý khắp nước Tàu, khởi điểm từ Nam Kinh,
do các nhà trí thức đề xướng. Cuộc vận động ấy tràn qua Việt Nam được một số
các nhà lão Nho hưởng ứng. Nhưng uy quyền của Pháp đang mạnh, thế lực Thiên
Chúa Giáo mà thực dân Pháp coi như Công Giáo, được che chở, kính nể, đang bành
trướng khắp nơi, nên các cuộc vận động chấn hưng Phật Giáo ở Việt Nam bắt nguồn
từ Trung Hoa Dân Quốc năm 1920 đều bị ngăn trở và cấm đoán.
Phải đợi đến mười một năm sau, các trào lưu cách mạng làm xáo
động tinh thần ái quốc của các giới trí thức ngấm ngầm đả kích các hình thức
văn minh Pháp, lấy câu “ bảo vệ Quốc hồn Quốc Tuý “ làm châm ngôn cách mạng, đạo
Phật mới gặp cơ hội thuận tiện để vùng dậy, bắt đầu từ Saigon, nhượng địa của
Pháp.
Ngày Tuấn vào Saigon lần thứ nhất, cuối năm 1930, phong trào
chấn hưng Phật Giáo đã được cổ động khá rầm rộ trên các mặt báo Saigon. Theo
phong trào này, Tuấn thân hành đến chùa Linh Sơn, đường Douaumont (nay đổi tên
là đường Cô Giang) là trụ sở của “ Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội “, Tuấn được
gặp vị trụ trì ở đây, Hòa Thượng Lê Khánh Hòa, vị Sư ái quốc, chủ trương chấn
hưng Phật Giáo, và hội trưởng N.K.N.C.P.H.H.
Tuấn được Hòa thượng biếu một mớ Kinh Phật mới in xong. Hầu hết
các nhân viên của Hội Phật Học này đều là cư sĩ, trí thức thượng lưu nam nữ,
như đệ nhứt Phó Hội Trưởng Commis Chấn.
Phong trào Chấn hưng Phật Giáo ở Saigon được truyền bá ra
Trung Kỳ rất mau chóng, và ngay năm sau, 1932, một Hội Phật Học được thành lập
Huế, gọi bằng tiếng Pháp là : "Société d’ Encouragement à l’ étude de la
Religion Bouddhique en Annam“, viết tắt là S.E.E.R.B.A.
Tuấn không hiểu sao người ta lại đặt cho Hội một cái tên Pháp
dài dòng như vậy: “ Hội Khuyến học Phật Giáo Trung Kỳ “. Tại sao không rút ngắn
lại thành hội Phật Học Trung Kỳ chẳng hạn, vừa giản dị vừa đầy đủ ý nghĩa hơn.
Tuấn tò mò hỏi một vài người bạn làm Tham Tá ở toà Khâm thì họ
giải thích rằng: Nhà Nước Bảo Hộ sợ có những người lợi dụng danh từ “Hội Phật
Học“ quá rộng nghĩa để phát triển mạnh mẽ phong trào Phật Giáo, cho nên bắt buộc
những người sáng lập Hội rút hẹp phạm vi hoạt động. Mục đích của Hội chỉ là
“Khuyến Học“ Phật giáo mà thôi.
Vì thế, cho nên hội S.E.E.R.B.A. chỉ được coi như là một hội
khuyến học đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẻ của Chính quyền, theo những luật
pháp bó buộc của chánh thế Bảo Hộ. Tất cả mọi hoạt động của Hội, dù là có tính
cách hoàn toàn tôn giáo đều bị hạn chế trong khuôn khổ học Ðạo, và riêng trong
lĩnh vực Trung Kỳ mà thôi.
Tuy vậy, phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ và Trung kỳ
vẫn ngấm ngầm truyền bá ra đất Bắc. Năm 1934, một số trí thức Phật tử có tinh
thần bài Pháp và chống Thiên Chúa giáo, đứng ra lập một hội Phật Giáo Bắc Kỳ và
tôn Sư Cụ Vĩnh Ngiêm ở Bắc Giang làm Pháp chủ. Hội quán của Hội được đặt tại
chùa Quán Sứ, đường Richaud, Hà Nội. Hội lại mở một nhà in và nhà xuất bản.
Tạp chí Ðuốc Tuệ của Hội được khá đông tín đồ hoan nghênh.
Hội Khuyến Học Phật Giáo Trung Kỳ cũng xuất bản tại Huế một tạp
chí Phật Học lấy tên là Viên Âm.
Tuấn học ở Hà Nội, nhận thấy rằng các phong trào Chấn Hưng Phật
Giáo không được bành trướng mạnh, một phần vì bị luật pháp của Nhà Nước Bảo Hộ
hạn chế, một phần vì chính các Hội kia không có đủ phương tiện phát triển. Ngân
quỷ rất nghèo nàn với tiền cúng dường của số ít hội viên giàu.
Song song với phong trào Chấn Hưng Phật Giáo năm 1931 ở
Saigon, một “ Thông Thiên Hội “ cũng được thành lập do một nhóm người chủ
trương, ở đường Vassoigne, Tân Ðịnh. Tạp chí Niết Bàn của nhóm ấy phát hành
cũng được giới tín đồ Phật giáo hoan nghênh.
Phong trào chấn Hưng Phật Giáo bồng bột trong những năm
1931,1932, 1933, 1934, xét kỹ ra thì chỉ thích hợp với những lớp trí thức từ 40
tuổi trở lên và có tinh thần chống Pháp tiêu cực, nhất là ngấm ngầm chống ảnh
hưởng và uy quyền của Thiên Chúa Giáo, lúc bấy giờ được Chánh Phủ Bảo hộ rất
kiêng nể. Ðồng thời các nhà Sư chủ trương phong trào ấy cũng có tinh thần ái quốc
kín đáo, khéo che đậy dưới một cuộc hoạt động tôn giáo hoàn toàn vì Ðạo Pháp.
Những nhân vật nổi bật của Phong Trào Chấn Hưng Phật giáo là
Sư Cụ Lê Khánh Hòa, trụ trì chùa Linh Sơn, Saigon và ông Commis Chấn. Hội trưởng
và đệ nhất phó Hội trưởng Hội “Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội “ – sau đổi là
“Linh Sơn Nghiên Cứu Phật Học Hội “ - Hòa thượng Thích Mật Thể và ông Lê Đình
Thám, Y-sĩ Ðông Dương (médecin Indochinois) ở bệnh viện Trung ương Huế, Hội trưởng
Hội S.E.E.R.B.A (Trung Kỳ Phật Giáo Khuyến Học Hội) và ở Hà Nội là ông Nguyễn
Văn Vĩnh và Sư Tổ Vĩnh Nghiêm.
Về sau, Chính phủ Bảo hộ muốn kiểm soát phong trào Phật Giáo
Bắc kỳ, đã tìm cách đưa ông Nguyễn Năng Quốc, tổng đốc hưu trí, vào làm Hội trưởng
Hội Phật Giáo Bắc kỳ.
Tuấn, chàng trai trưởng thành trong thế hệ Nguyễn Thái Học, đầu
óc bị kích thích quá mạnh, và tinh thần tò mò qúa độ, chuyện gì cũng muốn biết,
muốn xem, muốn học hỏi, nhân đi Saigon để tính lập một Kỳ bộ Thanh Niên Việt
Nam Quốc Dân Ðảng nhưng không thành, đã tìm hiểu về các đảng cách mạng khác, và
đồng thời cũng ghé thăm chùa Linh Sơn.
Ði ngang Trung Kỳ, chàng ghé thăm Huế và viếng thăm chùa Từ
Ðàm, chùa Bảo Quốc, chùa Linh Mụ, và gặp ông Lê Đình Thám.
Về Hà Nội, chàng tìm hiểu những hoạt động của Hội Phật Giáo Bắc
kỳ ở chùa Quán Sứ.
Chàng nhận xét hai điều :
- Một là thanh niên không tham gia vào các phong trào này. Thấy
trên bàn của chàng những tạp chí Ðuốc Tuệ (Hà Nội), Viên Âm (Huế), Niết Bàn của
Hội Thông Thiên học Saigon, và các sách Phật của Hội Nam Kỳ. Nghiên cứu Phật học,
nhiều bạn của chàng chế nhạo chàng là “ gàn“. “ 21, 22 tuổi mà muốn đi tu “ …
Vả lại, đối với đa số thanh niên không nghiên cứu đến Phật
giáo, những tạp chí trên quả thật là khó hiểu. Chúng thuộc về các loại sách mà
giới sinh viên học sinh thời bấy giờ gọi là “sách nhồi sọ” (bourrage de crâne).
Chỉ có những kẻ ương ương, gàn gàn thích những triết lý vẩn vơ, mới đọc những
sách báo nhồi sọ ấy.
Tuấn bị một số đông bạn bè liệt và hạng “ cụ non “ bất hủ.
Những ngày Rằm. Mồng Một hoặc những ngày Vía Phật, Tuấn đến
chùa Quán Sứ chỉ thấy toàn là các cụ, các ông, các bà, với vẻ mặt thành kính,
tin tưởng. Thỉnh thoảng mới có một cô thiếu nữ đi theo các bà cụ, nhưng để bưng
các quả đèn hương, oản, chuối, để cúng nhà Chùa. Trên điện thờ, tượng Phật ngồi
điềm nhiên, lặng lẽ, mắt nhắm như không muốn thấy cảnh tín ngưỡng nhộn nhịp chung
quanh.
Các nhà Sư cũng vậy, không niềm nở sốt sắng, ông nào cũng có
vẻ trầm ngâm, đạo mạo, như tách hẳn ra ngoài vòng thế tục.
- Hai, là Phật giáo như một thế giới riêng biệt, huyền mơ
trong sương khói, không trực tiếp liên quan gì đến Ðời Người. Phong trào Chấn
Hưng Phật Giáo có lẽ vì thế mà không được bành trướng sâu rộng trong xã hội.
Tuấn suy nghĩ về tình hình tổng quát của Nước Nhà, nhận thấy
rằng sau một cuộc chiến tranh, hay một biến cố rung rợn khủng khiếp như cuộc khởi
nghĩa đầy máu lửa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở các tỉnh Bắc kỳ (người Pháp
Albert de Pouvourville có viết một quyển sách nói về đêm khởi nghĩa ở Yên Bái,
nhan đề là “ La nuit rouge de Yên Bái) và cuộc xử chém Nguyễn Thái Học và 12 đồng
chí, lòng người dân Việt Nam đâm ra chán nản, tự nhiên quay về tìm Ðạo Từ Bi, Hỷ
Xã để được yên tỉnh trong tâm hồn.
Những người đến chùa lạy Phật, không có quan niệm chen đua với
đời, nên phong trào Chấn Hưng Phật Giáo chỉ có đôi chút nôn nao trong khung cảnh
lặng lẽ của Nhà Chùa, ít có tiếng vang xao động ngoài trần thế.
Phái thanh niên, cả nam lẫn nữ, ở Bắc kỳ cũng như ở Trung và
Nam kỳ, không những đã không tha thiết tham gia vào công cuộc trùng hưng Phật học,
mà trái lại họ còn hùa theo các phong trào lãng mạn vừa chớm nở, sau 1931.
Tuấn cũng theo sát những biến cố gây ra phong trào này. Nói
đúng hơn, đây là một cuộc phục hưng của phong trào lãng mạn (renaissance du
courant romantique de 1925).
1925, Tuấn còn học ở Qui Nhơn, mới 13 tuổi chưa biết gì, hãy
còn là một cậu học trò quê mùa, ngớ ngẩn, thì ở Hà Nội, trường Cao đẳng Ðông
Dương (Université Indochinois) - Ðại học “ lô can “ – đang đào tạo một lớp sinh
viên Tây học hoàn toàn theo ảnh hưởng văn học Pháp.
Một trong đám sinh viên trẻ tuổi ở lớp Sư Phạm, là Hoàng Ngọc
Phách, có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề là “ Tố Tâm “. Ðó là quyển tiểu
thuyết lãng mạn đầu tiên, do nhà sách Nam Kỳ ở Bờ Hồ, xuất bản.
Trong lúc các sinh viên trường Cao đẳng Hà Nội được trọng vọng
và phong trào các cô
“tiểu thơ “ khuê các chỉ ham lấy chồng Cao đẳng được lan tràn
trong giới Nữ Lưu (Phi Cao đẳng bất thành phu phụ) thì tiểu thuyết Tố Tâm ra đời,
vừa đúng lúc để đưa phong trào ấy lên đến tuyệt đỉnh.
Tác giả Song An Hoàng Ngọc Phách, sinh viên Cao đẳng Sư phạm,
trở thành thần tượng của tất cả các cô gái Hà Nội, Tố Tâm thành quyển truyện đầu
giường của toàn thể thanh niên nam nữ vào lứa tuổi từ 18,19 đến 30. Tố Tâm được
bạn trẻ thế hệ 1925 hoan nghênh nhiệt liệt, chính vì nó là quyển truyện ái
tình, trong đó diễn tả tình yêu của một sinh viên Cao đẳng, với một “ tiểu thư
“ khuê các, tượng trưng cho những tình yêu lãng mạn trưởng giả thời bấy giờ.
Phong trào tiền lãng mạn (mouvement pré-romantique) của Tố
Tâm còn dư âm đến những năm 1926-1930 thì bỗng dưng ngưng hẳn lại vì cuộc khởi
nghĩa đẩm máu của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở các tỉnh Bắc Kỳ, và nhất là vụ 13 liệt
sĩ QDÐ bị lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, tháng 6.1930.
Ngưng chỉ ngưng được 2 năm, thời gian Phật giáo muốn nổi lên
dưới hình thức “ chấn hưng và khuyến học “ của các nhà tu sĩ lão thành nặng
lòng vì nước muốn bảo tồn một truyền thống quý báu của Dân Tộc.
Lớp thanh niên trí thức lứa tuổi của Tuấn, chỉ theo dõi với
nhiều thiện cảm phong trào Phật Giáo, như một phong trào có khuynh hướng bảo vệ
“Quốc Hồn Quốc Tuý“. Nhưng họ không sốt sắng hưởng ứng những hoạt động tiêu cực
mà tuổi trẻ cho rằng có tính cách yếm thế, có lý tưởng quá mờ mịt cao xa.
CHƯƠNG 45
1931
- Hoàng Tích-Chu và "Le Retour de France"
- Phong trào "Tiểu thư đi bộ"
- Hai tiệm khiêu vũ đầu tiên mở ra ở Hà Nội.
- Phản ứng của báo chí và dân chúng.
- "Tiểu Thư Tân Thời" và các bài danh ca của ca
sĩ Pháp Tino Rossi.
- Hội Ái Tino, phố hàng Bún.
Giữa lúc đó, vài phần tử thanh niên trí thức du học ở Pháp về
khoảng năm 1930 nhưng có những lý tưởng khác nhau, đã biến đổi nếp sống thầm lặng,
còn đầy cổ điển của Hà Nội, thành một không khí lãng mạn hoàn toàn mới hẳn.
Tuấn tìm cách tiếp xúc với những phần tử ấy, cốt để hiểu họ.
Một phần vì tính tò mò của Tuấn, muốn học hỏi những mới lạ của những người đáng
tuổi anh mình đi du học từ Pháp mới về, một phần vì những phong trào do họ gây
ra đã làm sôi nổi dư luận của người Hà Nội. Những thanh niên du học ở Pháp mới
về, được gọi chung bằng một danh từ
“Retour de France “.
Một buổi sáng mùa hè, một tờ tuần báo mới ra đời, một lối
trình bày độc đáo, khác hẳn tất cả các báo xuất bản từ trước ở Hà Nội, Huế,
Saigon, và được giới sinh viên, học sinh hoan nghênh nhiệt liệt. Ðó là tờ Ðông
Tây mà chủ nhiệm kiêm chủ bút là Hoàng Tích Chu. Vừa trông thấy tờ Ðông Tây,
manchette in đỏ tươi, treo bán sau tủ kiếng tiệm sách Nam Kỳ ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm,
Tuấn vội vàng mua ngay một tờ (lúc bấy giờ ở Hà Nội không có các sạp báo trên lề
đường. Các tuần báo được treo sau tủ kiếng các tiệm sách và bán trong tiệm. Báo
hằng ngày, chỉ có ba bốn tờ, được tụi con nít ôm đi bán rong).
Tờ Ðông Tây không những khác biệt các tuần báo trong xứ bằng
cách trình bày các mục, mà khác cả ở lối viết văn. Ấn loát tinh vi, tiến bộ hơn
nhiều. Văn viết rất gọn gàng, câu văn ngắn chứ đựng đầy đủ ý nghĩa, không dài
lê thê như trong các sách báo hiện hành.
Tuấn say mê đọc những đoạn văn như sau đây trong một số báo
Ðông Tây, của Hoàng Tích Chu :
“Ðông Tây không gặp nhau “ Rudyard Kipling nói đúng, nhưng
không đúng hẳn. Ðông trọng về tinh thần, Tây quá trọng về vật chất. Nhưng Ðông
Tây đã gặp nhau. Tinh thần vật chất hòa hợp. Triệu chứng loài người tiến bộ
…"
Ðó, một mẫu văn của Hoàng Tích Chu. Ít khi một câu dài quá một
dòng. Những ý tưởng cô đọng trong những chấm và phết. Tuấn có đến thăm Hoàng
Tích Chu một buổi sáng tại toà soạn báo Ðông Tây, với tư cách một độc giả trẻ
tuổi có nhiều cảm tình. Cảm tình vì trong lúc hầu hết thanh niên trí thức An
nam đi du học bên Pháp đều học làm bác sĩ, trạng sư, kỹ sư, thì Hoàng Tích Chu và
Ðỗ Văn, bạn của anh, ở Paris mấy năm học nghề nhà in và viết báo. Ðỗ Văn về một
lượt với anh và cùng anh hợp tác mở tờ Ðông Tây để thi thố kỹ thuật mới về ấn
loát và văn nghệ.
Hoàng Tích Chu là một nghệ sĩ tài hoa, phong nhả. Rất tiếc đời
anh quá ngắn ngủi. Thời gian làm Chủ bút báo Ðông Tây, anh không giàu, nhưng
anh được tình yêu trung thành cảm động của một Kỹ Nữ ở Khâm Thiên, lừng danh khắp
Bắc kỳ và Trung kỳ : cô Ðốc Sao.
Cô Ðốc Sao, xưa kia, là một ả đào có giọng hát trong như ngọc,
gương mặt đẹp như tiên, nụ cười “ nghiêng nước nghiêng thành “đã làm sụp đổ biết
bao nhiêu gia tài của khách làng chơi sang trọng. Những công tử, công tôn từ
các nơi tìm đến, những Quan lớn từ Huế và những Ðốc Phủ Sứ từ Saigon Lục tỉnh
ra, say mê giọng hát và nụ cười của cô, có khi ăn dầm nằm dề ở nhà cô cả tháng.
Nhưng không bao giờ cô ban cho ân huệ tối hậu như họ thèm thuồng van lơn. Ấy thế
mà cô yêu Hoàng Tích Chu, một văn sĩ nghèo, một nhà báo kiết. Và cô say mê anh,
xin làm vợ anh, lo tươm tất cho đời sống của anh, cho cả tờ báo của anh.
Một hôm Tết, Tuấn nhận được thiệp của cô Ðốc Sao :
Madame Hoàng Tích Chu.
Chữ “Madame“ đó khiến cho Tuấn vô cùng cảm động. Khi anh
Hoàng Tích Chu đã qua đời, danh thiếp của cô Ðốc Sao đổi lại :
Mme Veuve Hoàng Tích Chu (Bà quả phụ Hoàng Tích Chu) và một băng tang trên góc.
Hoàng tích Chu là người đã tạo ra phong trào lãng mạn Văn nghệ
I -1930-1932, rồi sau đó mới kế tiếp nhóm Phong Hóa của Nguyễn Tường Tam và các
nhóm Thi Văn sĩ lãng mạn từ 1932 trở về sau.
Ðồng thời, một nhóm khác gây được phong trào lãng mạn trong
giới thể thao phụ nữ, và tổ chức rầm rộ một cuộc phụ nữ đi bộ từ Hà Nội xuống Hải
Phòng.
Một số trên mười cô, phần đông là nữ sinh “tân thời“ hưởng ứng
phong trào và được các hội thể thao các tỉnh ở dọc đường đón tiếp long trọng mỗi
khi đoàn bộ hành đi tới một thành phố nào. Từ Hà Nội đến Hải Phòng đường dài
100 cây số. Ðể chứng tỏ rằng các cô thuộc về thế hệ thiếu nữ tân tiến và đính
chánh danh từ “ phái yếu “, mặc dầu các cô chân yếu tay mềm các cô quyết định
đi bộ hết con đường thiên lý ấy. Nhưng các cô đi mất ba ngày mới đến đích.
Vài ba cô bỏ cuộc ở dọc đưòng, vì đi không nổi nữa. Các cô
khác đến Hải Phòng đều mệt lả, phải trở về Hà Nội bằng xe lửa.
Phong trào này được dân chúng và nhất là giới thanh niên cả
nam lẫn nữ theo dõi với một nụ cười chế nhạo. Người ta đặt ra danh từ “tiểu
thư đi bộ“ rất được thông dụng với ý nghĩa khôi hài. Một giáo sư Thiên Chúa
Giáo, rất giỏi về tiếng La Mã và Hy Lạp, nhưng phải tính hơi gàn gàn, Pétrus Lê
Công Ðắc, có viết ra một hài kịch nhan đề là “ Tiểu thư đi bộ “, suýt bị mấy cô
đón đánh ngoài phố.
Dư luận chung của đồng bào các giới thì chê cười rằng :
"có lẽ mấy cô tiểu thư kia, con nhà quyền quý, ít có dịp đi bộ cho nên mới
cho rằng việc đi bộ là mới lạ, và cổ động rùm beng, chứ chị em thôn nữ đi bộ hằng
ngày từ xưa đến nay có cần cóc gì phong trào tân tiến lãng mạn đó đâu."
Cuộc “tiểu thư đi bộ“ chỉ gây được một tiếng cười mỉa mai
chứ không có ảnh hưởng gì đến đời sống của các cô gái được gọi là “ tiểu thư
tân thời “.
Tuấn theo sát các phong trào của thời đại, nhận xét rằng danh
từ “ tiểu thư “ có ý nghĩa rõ rệt là chỉ có các thiếu nữ con nhà trâm anh thế
phiệt, phần nhiều là con các quan, hoặc con nhà giàu, mới tham gia các phong
trào lãng mạn mới nẩy nở, chỉ sốt sắng theo các cải cách về y phục (kiểu áo mới,
giầy cao gót v.v…). Hầu hết con gái bình dân và trung lưu đều bảo thủ nề nếp
nho phong cổ cựu.
Ðồng thời ở Khâm Thiên, ngoại ô Hà Nội, Tuấn thấy mở ra hai
tiệm khiêu vũ đầu tiên, hai thanh niên du học ở Pháp mới về. Một tiệm do người
em cô Ðốc Sao làm chủ, tên là Vũ Ðình Hải, và một tiệm do một chàng có cái tên
“lãng mạn“ là Jean Dod Khang. Những vũ nữ đầu tiên của hai tiệm này phần nhiều
là các cô ả đào.
Hai tiệm “nhẩy đầm “ vừa mở ra, lôi kéo được một số công chức
làm thông phán ở Phủ Toàn Quyền, phủ Thống Sứ, hoặc ở các công sở khác, phần
nhiều là những ông ăn lương cao, và chưa có vợ. Giới giáo sư và sinh viên chưa
muốn đến các nơi này, trừ những người du học ở Pháp về.
Các báo mở ra một trận bút chiến khá sôi nổi chung quanh đề
tài :” Người An nam có nên khiêu vũ không ?”. Một số dư luận đông đảo đều kịch
liệt công kích môn nhẩy đầm. Trái lại, có những bài rất tán thành khiêu vũ, và
tác giả đã viện ra những lý do về nghệ thuật, coi đó là môn giải trí tao nhã của
văn minh Tây phương.
Ðại đa số sinh viên, học sinh, đều công kích khiêu vũ. Nhưng
dần dần chính nhiều cậu sinh viên đã công kích hăng hái nhất lại bị lôi cuốn
mau nhất bởi cái mà trước kia họ cho là đồi phong bại tục.
Tuấn là một trong số sinh viên “ muốn tập “ nhẩy đầm thử xem
sao, và Tuấn đã thường đi nhẩy những bản Tango, Fox-trot, Valse, cùng vài người
bạn, trong những tối chủ nhật.
Phong trào khiêu vũ bị công kích mỗi ngày một kịch liệt,
nhưng nó vẫn lan tràn mỗi ngày mỗi mạnh trong giới thanh niên trưởng thành từ
21, 22 tuổi đến 40 tuổi.
Tuấn nhận thấy rằng trong vài năm đầu, vũ nữ toàn là những cô
ả đào hoặc những cô gái làng chơi. Giới nữ sinh dù là phái tiểu thư tân thời, vẫn
còn tránh xa các vũ trường. Thành kiến khiêu vũ là bất lương, là đồi phong bại
tục vẫn còn ăn sâu trong quan niệm của phụ nữ Hà Nội thời bấy giờ.
Tuy nhiên, để bù lại, các cô đã bắt đầu say mê “ nhạc cải
cách “ danh từ rất thông dụng để chỉ về tân nhạc, theo điệu những bài hát Tây.
Tài tử ca sĩ Pháp được các giới thanh niên nam nữ, nhất là nữ, mê say lúc bấy
giờ là Tino Rossi.
Khắp các thành phố Hà Nội, Nam Ðịnh, Hải Phòng, và sau đó
tràn lan vào Huế, Saigon, Mỹ Tho, Cần Thơ, ở các thành phố lớn số đông các cô “
tiểu thư tân thời “, các bài hát của Tino Rossi được phổ biến rất nhanh. Ở Hà Nội,
đi đường nào Tuấn cũng nghe các cô hát : "J’ai deux amours, mon pays et
Paris - Je t’aimerai toujours – C’est à Capri que je l’ai rencontrée,
v.v…"
Một hôm, Tuấn được một cô bạn học cùng lớp đưa đến một căn
gác trọ ở Rue des Vermicelles, nơi tụ họp của “ Hội Ái Tino“, gồm toàn các nữ
sinh viên yêu Tino Rossi, thờ Tino như một thần tượng. Các cô nhóm họp mỗi tuần
một lần, tối chủ nhật, để hát những bản của Tino Rossi, dưới một bức ảnh của
Tino đẹp trai rọi lớn và lồng kính đóng khung vàng.
Tuấn đuợc các cô cho biết rằng “Hội Ái Tino “ không nhận hội
viên đàn ông con trai, vì các cô chỉ “ thờ “ người đàn ông duy nhất là thần tượng
của họ.
Số hội viên của Hội Ái Tino không quá 20 người. Tuấn được giới
thiệu đến đây là một trường hợp đặc biệt, nhưng không nhận vào Club (thường các
cô gọi bằng tiếng Pháp lai Anh Việt Pháp là : Club Ái Tino). Vả lại, Tuấn không
thích hát và cũng không phải là một “ admirateur “ của Toni Rossi.
Quyển tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách đã mất
thời gian tính và đã bị các phong trào lãng mạn mới vượt qua. Tiểu thuyết
ái-tình lãng mạn bán chạy nhất trong thời kỳ 1930-1932, là quyển Tuyết Hồng Lệ
Sử dịch của Tàu, và quyển Mồ Cô Phượng. Ngày nay, ít ai có nhớ tên tác giả.
CHƯƠNG 46
1932
- Một vụ ngoại tình làm sôi nổi dư luận Hà nội đến cực điểm.
- Phụ nữ Huế chống phong trào lãng mạn của phụ nữ Hà nội.
- Hội kín cách mạng nẩy nở ở Trung kỳ.
- Cộng sản nổi dậy lần đầu tiên ở Nghệ An và Quảng Ngãi.
- Lính " lê dương " của Tây từ Hà nội vào, tiêu diệt
phong trào Cộng sản.
- Khác biệt giữa Cộng sản Trung kỳ, Cộng sản Bắc kỳ và Nam kỳ.
Tuấn có một người bạn thân quê ở Quảng Nam, anh Phan Thanh,
nguyên là Trợ giáo, dạy tại trường Thăng Long ở góc phố Hàng Cót (rue Takou) và
phố Cửa Bắc (boulevard Carnot). Một trường cao đẳng Tiểu học dạy thi “ diplôme
d’études primaires supérieures (trung học đệ nhất cấp) lớn nhất ở Hà Nội. Phan
Thanh giới thiệu Tuấn vào dạy trường này. Tuấn dạy mỗi tuần 2 giờ Pháp văn ở lớp
đệ nhị niên, vài giờ ở đệ nhất niên.
Tuấn mặc bộ đồ tây xấu xí bằng vải nội hóa, bị học trò chế nhạo
là “ thầy giáo quê mùa “.Tuấn lại có thói hút thuốc Mélia nhiều quá, nên bị học
trò đặt cho cái tên riêng là Monsieur Mélia. Nhưng từ hôm chàng giảng cho học
trò bài "Le petit Gavroche" trích trong bộ "Les Misérables"
của Victor Hugo, học trò hết chế nhạo Tuấn và trái lại thương Tuấn lắm.
Dân chúng Hà Nội lúc bấy giờ đang bàn tán xôn xao về vụ ông
phán sở Bưu điện ngoại tình với một bà giáo sư, vợ của một ông phán cùng sở, bạn
thân của ông. Những chuyện “ bạn và vợ “ không phải là hiếm ở xã hội An nam bất
cứ ở thời đại nào, nhưng vụ “ Th.Kh.Th “ sở dĩ gây ra dư luận vô cùng sôi nổi
không riêng ở Hà Nội, mà cả xứ Bắc kỳ, là vì bộ ba này là những nhân vật cao cấp
trong hành chánh, mà người đàn bà ngoại tình lại rất có tiếng trong giới trí thức
nữ lưu. Người chồng bắt được đôi gian phu dâm phụ trong một tòa nhà ở miền
duyên hải. Do đó, vụ tai tiếng nổ bùng ra, làm rùm beng, gây vang dội khắp các
giới trong xã hội.
Ngay trước cửa trường Thăng Long, có một nhà cho thuê xe đám
ma, chủ nhân tên là Louis Chức (ông này thời Việt Minh đổi tên là Lưu Chức). Muốn
lợi dụng cơ hội để quảng cáo cho cơ sở của ông, Louis Chức bèn tổ chức một cuộc
dàn cảnh để đả kích vụ ngoại tình “ bạn và vợ “ kia. Ðề tài của cuộc biểu diễn
là “ voi dày ngựa xé “, mà ông chủ cho thuê xe đám ma thực hiện bằng cách buộc
nơi bốn chân ngựa và voi của ông cái hình nộm đôi gian phu dâm phụ. Voi và ngựa
bước đi là hai hình nộm đó bị xé ra tơi bời. Dân chúng các đường phố đổ ra xem
cảnh “voi dày ngựa xé “ của Louis Chức, bêu xấu đôi gian phu dâm phụ của giới
trí thức Hà thành. Học trò lớp Pháp văn đệ nhị niên của Tuấn xin Tuấn cho làm một
bài luận về đề tài thời sự hấp dẫn đó. Một dịp để đám học sinh 16, 17 tuổi đua
nhau mạt sát vụ đồi phong bại tục và đề cao tinh thần đạo đức Á đông.
Bên cạnh đám thanh niên trí thức “ retour de France “ gây ra
phong trào lãng mạn 1932 được giới tiểu thư tân thời huà theo hăng hái, có một
nhóm khác gồm mấy chàng trai trẻ có óc khôi hài, tìm cách chế nhạo và mỉa mai lớp
phụ nữ gọi là “ tân tiến “ kia, và những kẻ đàn ông lợi dụng phong trào.
Họ đặt ra một câu lạc bộ “ những người ghét đàn bà “ mà họ gọi
bằng tiếng Pháp là
“club des misogynes “ và xuất bản một tờ tuần báo bằng Pháp
văn in bằng mực tím, khác hẳn các tuần báo khác về phương diện kỹ thuật, trình
bày cũng như nội dung.
Một trong đám thanh niên “ nghịch ngợm “ này cũng vừa du học ở
Pháp về, có mở một tiệm sản xuất mũ theo phương pháp Âu tây. Chàng ký tên là Ch.Mau’s,
mà Tuấn nghe nhiều người nói tên thật là Chu Mậu. Tuấn đọc tờ báo "Les
Misogynes" cảm thấy thích thú vì lời văn trào phúng theo lối Pháp khá hấp
dẫn. Nhưng tờ báo chỉ ra được một vài số rồi chết, có lẽ vì không được đa số bạn
trẻ hoan nghênh.
Tuấn theo dõi các phong trào lãng mạn bành trướng ở Hà Nội
trong lãnh vực văn nghệ, báo chí, thể thao, phụ nữ, phong tục, hầu hết đều do
đám thanh niên trí thức du học ở Pháp về đề xướng, Tuấn có nhiều cơ hội làm
quen với các bậc đàn anh này, và tìm hiểu họ. Nhưng chàng cảm thấy giữa họ và
thanh niên trí thức trong nước, kể cả sinh viên trường Cao đẳng Ðại học Ðông
dương ở Hà Nội, vẫn có một cách biệt sâu rộng khó dung hòa với nhau.
Trí thức trong nước dù có học cao học giỏi đến đâu chăng nữa,
dù hấp thụ rất nhiều văn minh Âu Tây, vẫn giữ vẹn nề nếp nho phong của dòng giống
Việt Nam. Trái lại, số đông trí thức du học ở Pháp về thường có mặc cảm tự tôn,
hãnh diện rằng họ đã sống bên Pháp, nguồn gốc của cái văn minh mà người An nam ở
“ bổn xứ “đang tìm tòi học hỏi. Họ vẫn tỏ vẻ khinh trí thức ở nhà, cho đến đỗi
một trong số bạn trẻ "Retour de France", Nguyễn Mạnh Tường, Tiến sĩ
Văn chương Pháp, viết trên một tờ báo Pháp văn ở Hà Nội đã gọi đám thanh niên
trí thức An nam là “ primaires “ (tiểu học) và đã gây ra một cuộc bút chiến khá
kịch liệt giữa Nguyễn Tiến Lãng với một thanh niên trí thức Hà Nội.
Phong trào lãng mạn bộc phát từ 1932 tại Hà Nội không được
bành trướng ở Trung Kỳ.
Khác với Hà Nội, các cô con gái nhà quý tộc ở Huế đông hơn
nhiều, và đa số xuất thân từ trường Nữ Trung Học Ðồng Khánh, nhưng vẫn giữ tinh
thần giáo dục Á đông. Họ không thích hùa theo các phong trào “ tiểu thư tân thời
“ của lớp gái mới Hà Nội. Nhiều bài thơ Ðường luật, hoặc Cổ phong, đăng trong
báo Tiếng Dân của Cụ Huỳnh Thúc Kháng, mỉa mai các “ cô tân thời rỡm “, phản ảnh
trạng thái tinh thần cổ kính ấy.
Sự hiện diện của cụ Phan Bội Châu, “ông già Bến Ngự “ mà ảnh
hưởng tinh thần hãy còn sâu rộng trong xã hội đế đô, còn bảo đảm cho đạo đức Việt
Nam. Tuy cụ không còn hoạt động gì được nữa, nhưng cụ vẫn được toàn thể dân
chúng, kể cả giới quan lại trong Triều đình An nam, coi như một thần tượng còn
sống mà mọi người, nhất là giới trí thức tân cũng như cựu, đều tôn sùng.
Vì vậy, các phong trào lãng mạn ở Bắc kỳ, không xâm nhập được
ở Huế và các thành phố lớn như Vinh, Tourane, QuiNhơn, Nha Trang.
Nếu thỉnh thoảng có một số gái mới y phục và hành động lố
lăng, thì đó là thuộc giới ít học, hoặc gái làng chơi mà thôi. Sự cách biệt giới
phụ nữ trí thức và loại gái tân thời rỡm rất là rõ rệt.
Trái lại phong trào “ hội kín “, tức là các hoạt động cách mạng
bí mật chống Pháp, lại bành trướng ở Trung kỳ, từ 1930 mạnh hơn lúc nào hết.
Phong trào này chia ra làm hai loại có tính cách khác nhau hẳn.
Loại tiểu tư sản (petite buorgeoise) gồm đa số các thầy trợ
giáo, tức là giáo sư đệ nhất và đệ nhị cấp, và thông phán (công chức các công sở
Bảo hộ). Những phần tử này có tinh thần quốc gia thuần tuý, thường gia nhập vào
đảng Tân Việt, hoặc Việt Nam Phục Quốc Hội, nhưng hoạt động dè dặt.
Trái lại, loại bình dân, gồm đa số phú nông và điền chủ, nhất
là bốn tỉnh Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, hoạt động lại cuồng nhiệt
theo đảng Cộng Sản Ðông Dương.
Năm 1930, cộng sản nổi dậy đầu tiên tại phủ Ðô Lương (Nghệ
An) và các phủ huyện Mộ Ðức, Ðức Phổ, Bình Sơn, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), thành một
cuộc nổi loạn đầy máu và lửa vô cùng khủng khiếp. Ở Quảng Ngãi, người cầm đầu vụ
này là Nguyễn Nghiêm, người anh con ông bác của Tuấn.
Thoạt tiên nghe tin này, Tuấn hết sức ngạc nhiên. Tuy học ở
Hà Nội, Tuấn không có dịp gần gũi người anh họ, nhưng biết anh từ thuở thiếu thời,
và thỉnh thoảng trong thời kỳ đi học xa Tuấn được về nghỉ hè một vài tháng ở
quê nhà vẫn thường gặp Nguyễn Nghiêm.
Chàng tuyệt nhiên không ngờ người anh họ nhà quê đó lại là một
tay cộng sản, hơn nữa, là người cầm đầu cuộc nổi loạn cộng sản Quảng Ngãi năm
1930.
Nguyễn Nghiêm là con trai độc nhất, tuy là con thứ mười của
ông Nguyễn Tuyên, Tú tài Hán học ở làng Tân Hội, huyện Ðức phổ, Quảng Ngãi. Ông
tú đã bị 5 năm tù ở Côn Lôn sau phong trào Duy Tân ở Quảng Ngãi. Mãn hạn tù,
ông về làng dạy học và làm nghề đông y.
Sau khi ông qua đời, Nguyễn Nghiêm làm nghề thuốc tập sự, nối
nghiệp cha. Anh vào trạc 30 tuổi, người mảnh khảnh, hiền lành và ít nói. Anh
hoàn toàn là một chàng trai ở thôn quê, biết chữ Hán qua loa như những chàng
trai khác ở trong làng.
Theo lối phân chia giai cấp của cộng sản thì anh thuộc về
thành phần đại điền chủ, giàu ruộng đất nhất trong làng, vì anh thừa kế hai gia
tài hương hỏa của ông nội và của cha.
Tuấn không biết Nguyễn Nghiêm theo cộng sản từ bao giờ. Chàng
chỉ nhớ rằng năm 1929 ở Hà Nội về quê nghỉ Hè, chàng được gặp Nguyễn Nghiêm một
lần khiến chàng vô cùng ngạc nhiên. Nghe Tuấn ở Hà Nội về, Nghiêm đến thăm, và
đưa Tuấn xem hai quyển sách bằng chữ Pháp :
”De L’ impérialisme” của Boukharin, và “Le Marxisme et le
problème national” của Staline.
Nghiêm không hiểu tiếng Pháp, nhờ Tuấn dịch dùm ra chữ quốc
ngữ. Sau khi đã xem hết hai quyển sách trong hai ngày, Tuấn từ chối việc dịch,
vì chỉ nghỉ ở quê nhà được có 15 ngày, không có thì giờ. Nhưng Tuấn ngạc nhiên
thấy Nghiêm có hai quyển sách cộng sản bằng Pháp văn. Ngoài ra, Nghiêm không hề
nói chuyện gì về Chủ Nghĩa Cộng Sản mà anh cho là một hình thức của Chủ Nghĩa
Quốc Gia!.
Cuộc hoạt động bí mật của Cộng sản trong toàn tỉnh Quảng
Ngãi, đặt biệt trong giai cấp tư sản nông thôn, đã thành công. Và đây là một điều
rất lạ, hầu hết những đảng viên sốt sắng tham gia vào đảng Cộng sản Quảng Ngãi,
đều là các điền chủ, các địa chủ khá giả trong thôn quê. Dĩ nhiên, thiểu số nhà
đại phú, đaị thương gia hoặc quan lại đều không tham gia vào đảng, nhưng chính
những kẻ gọi là “ bần cố nông “ nghĩa là những người cày thuê gặt mướn, nhưng
nông dân không có ruộng đất, lại cũng đứng ngoài phong trào cộng sản. Hoặc họ
chỉ ủng hộ suông mà thôi, chứ không đóng vai trò trọng yếu trong các cuộc hoạt
động của đảng. Ðây là Tuấn nhận xét khách quan về tính chất mâu thuẫn của cộng
sản Quảng Ngãi năm 1932, lúc mới phát khởi phong trào.
Một đêm không trăng, muà Hè 1930, vào khoảng giữa canh một, cộng
sản nổi dậy khắp các phủ, huyện tỉnh Quảng Ngãi. Ở huyện Ðức Phổ, cuộc khởi loạn
bùng dậy ở làng Tân Hôị, quê của Nguyễn Nghiêm, vào lúc 8 giờ đêm. Cộng sản tụ
họp hàng ngàn người tại một gò đất cao và đốt đuốc sáng rực cả một góc làng, nổi
trống và mõ inh ỏi.
Họ bắt giết, chặt đầu bằng dao và rựa, những người làm việc “
cho Tây “, trong số đó có một Phó Tổng, một người lính “ phú lít “ - cảnh sát –
đã về hưu trí, và một ngươì nữa trong làng. Mấy người này chạy trốn ra ruộng, bị
cộng sản đuổi bắt được và chặt làm ba khúc. Xong, họ kéo nhau đi xuống Huyện.
Ðường quan lộ từ làng Tân Hội xuống huyện lỵ Ðức Phổ dài đến 10 cây số, họ cầm
đuốc đi bộ, ào ạt một đoàn dài, đi lộn xộn không có trật tự, la hét om sòm.
Một cây cờ đỏ búa liềm của Nga Sô đi tiền phong. Trong đoàn
có cả một số đàn bà con gái, tất cả đều cắt tóc cụt và mặc áo quần bà ba đen. Vợ
Nguyễn Nghiêm, chỉ huy đám phụ nữ. Họ khiêng theo những thùng nước chè tươi, để
giải khát, và mang đủ thứ khí giới của nông dân : dao, rựa, mác, và những cây củi,
cây đòn xóc. Qua mỗi làng, mỗi xã, đều có những đoàn người khác gia nhập vào,
khi đến huyện lỵ thì số cộng sản nổi loạn lên đến 4 ngàn người. Họ hò hét, diễn
thuyết, xúi dục dân chúng theo họ, ùa vào đốt huyện đường, và lùng bắt ông Huyện.
Nhưng ông này đã trốn thoát.
Ở các phủ huyện khác cũng đều có xẩy ra cuộc biến loạn y như ở
huyện Ðức Phổ, do Nguyễn Nghiêm cầm đầu.
Nhưng cộng sản chỉ làm chủ tình hình được một đêm đầu đó
thôi. Mấy hôm sau, người Pháp đem lính Lê dương (Légionnaires) mà phần đông là
người Malgaches và Sénégalais chiếm đóng các phủ huyện và nhiều làng.
Tại làng Tân Hội, sau vụ biến loạn cộng sản, lính về đóng
ngay tại nhà ông Nguyễn Hiền, một vị Thượng thư đang nhậm chức ở Triều Ðình Huế.
Người anh ruột của ông này, ông Chủ Cát, một cụ già 70 tuổi, đã thoát khỏi nạn
cộng sản, nhờ ông đã trốn được kịp thời dưới bờ suối trước nhà ông trong đêm biến
loạn.
Cuộc đàn áp bắt đầu. Nguyễn Nghiêm trốn tại nhà một đảng viên
cộng sản, bị bắt và bị xử tử hình trên bờ sông Trà Khúc. Hầu hết các đảng viên
cộng sản bị đưa đi các nhà lao Ban Mê Thuột và Lao Bảo.
Ở Tân Hội, số cộng sản bị bắt lên đến hai phần ba dân số. Nhiều
nhà bị đốt.
Mấy tháng sau, Tuấn ở Hà Nội về thăm nhà và xem xét tình
hình, còn thấy lác đác đó đây những cột cháy đen thui đứng chơ vơ trên những nền
nhà hoang phế, bị thiêu huỷ tan tành. Nơi đây, trước kia, là những nhà cao cửa
rộng của những ông Hương, ông xã, đã vô tình theo cộng sản.
Tất cả các nhà trong mỗi xóm đều bị rào bít chung quanh chỉ
còn chừa một lối đi duy nhất trong xóm. Những chòi canh cao độ 10 thước, được dựng
lên trước các đình và các cổng làng. Tất cả dân làng còn sót lại đều phải đi
canh gác ban đêm.
Một tiểu đội lính Lê dương được đưa từ Hà Nội vào, đóng tại
huyện Mộ Ðức, cách làng Tân Hội 5 cây số. Viên quan Ba Pháp đóng bản doanh tại
trường Sơ Ðẳng Tiểu Học, gần huyện. Quan Ba Pháp cần giao thiệp với các hương
lý các làng đến báo cáo tin tức hàng ngày, nhưng ông không nói được tiếng An
nam và không có thông ngôn. Ông phải nhờ viên Tri Huyện sở tại nhưng ông Huyện
lại không biết tiếng Tây. Viên quan Ba liền làm giấy xin đổi viên Tri Huyện, và
đề cử thầy Trợ giáo hiệu trưởng trường tiểu học lên làm Tri Huyện. Thầy Trợ
giáo đó lại là thầy học cũ của Tuấn. Hôm Tuấn ở Hà Nội về thăm nhà, ghé qua Huyện
để vấn an thầy, lính không cho Tuấn vào. Tuấn lấy giấy viết mấy giòng: ”Tuấn,
học trò cũ của thầy, nhân dịp ở Hà Nội về thăm nhà, xin được hân hạnh vào thăm
thầy “.
Tuấn chờ ngoài cổng. Mười lăm phút sau, người lính ra bảo Tuấn:
- Quan lớn bận việc, không tiếp cậu được.
Tuấn mỉm cười, lặng lẽ quay ra đi.
Thầy Trợ giáo được viên Quan Ba Pháp chỉ huy đồn lính lê
dương, cho lên làm Tri Huyện, để làm thông ngôn cho ông luôn thể, nghiễm nhiên
trở thành một vị Quan lớn oai quyền hống hách. Cả Huyện đều khiếp sợ quan.
Nhưng, sau đó, loạn cộng sản đã được dẹp yên, đoàn lính lê dương được rút về Hà
Nội và quan Ba cũng từ giã đất Mộ Ðức, thì Quan Huyện thông ngôn của ông cũng bị
cách chức luôn. Hình như quan lớn cũng không được trở về làm Trợ giáo nữa. Nhiều
làng xã được tin, đều làm heo ăn mừng.
Bọn lính lê dương ra đi, để lại tại huyện Mộ Ðức một số khá
đông trẻ con lai, và một số
“me Tây“. Những thiếu phụ này lần lượt ẵm con đi Saigon để “làm ăn“, vì bị dân chúng ở Huyện khinh bỉ, rẻ rúng.
Ðồng thời ở Quảng Ngãi và Nghệ An, Hà Tỉnh, cộng sản cũng nổi
loạn lần đầu ở Nam kỳ tại môt địa điểm không mấy quan trọng và cũng có cuộc tàn
sát đẫm máu như ở Trung kỳ. Tuấn theo dõi biến cố với những nhận xét hoàn toàn
khách quan về tính chất của cuộc nổi loạn cộng sản.
Ở Nam Nghĩa, Nghệ Tỉnh (bốn tỉnh Trung kỳ được nổi tiếng là
có tư tưởng cách mạng xao động nhất), cộng sản tuyên truyền được trong vài giới
tiểu tư sản nông thôn, mà trái lại lớp gọi là “ bần cố nông “ thì không trực tiếp
tham gia, hoặc nếu có thì cũng miễn cưỡng mà thôi, không đóng vai chủ động. Hầu
hết những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn cộng sản Trung kỳ đều là địa chủ, điền chủ
và họ phất cờ đỏ búa liềm hung hăng nồng nhiệt hơn ai hết. Nhưng đến khi đề cập
đến vấn đề chia ruộng đất cho đám dân vô sản thì họ lại ít hăng hái nhất và còn
phản đối quyết liệt nữa.
Ở Nam kỳ, trái lại, đa số đảng viên cộng sản là nông dân và
thợ thuyền, tuy rằng những thủ lãnh của họ thuộc vào hàng ngũ trí thức tiểu tư
sản.
Nhưng, khác với Trung kỳ, ở Nam kỳ ngay từ lúc xuất hiện
phong trào Cộng Sản Ðông Dương, đã có sự chia rẽ của hai nhóm Ðệ Tam và Ðệ Tứ
quốc tế. Theo sự hiểu biết của Tuấn xem chừng mấy anh “ trotkystes” – đệ tứ -
như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, được uy tín và cảm tình của các
giới, cả lao động lẫn trí thức, nhiều hơn nhóm “ Stalinines “ - đệ tam - của
Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai.
Tất cả mấy anh này đều là sinh viên Ðại Học “ Retour de
France “ - ở Pháp về, và họ hoạt động công khai ở ngay Saigon nhờ sự che chở của
Luật Pháp Cộng Hòa. Nam kỳ là một thuộc địa, thuộc hẳn về Pháp rồi, cho nên được
sống một chế độ chánh trị theo luật pháp như công dân Pháp vậy.
Tuấn tìm thấy đó là nguyên nhân cách biệt của hai phong trào
cộng sản ở Trung kỳ và Nam kỳ, tuy họ cùng chung một mục tiêu đấu tranh. Tuấn tự
hỏi phải chăng đó là một hoàn cảnh ngẫu nhiên của Lịch sử, hay là một chiến thuật
chủ trương bởi những lãnh tụ Cộng sản Ðông Dương mà trụ sở đặt ở bên Tàu ?
Trung kỳ đặt dưới chế độ Bảo hộ, hoàn toàn theo luật pháp “
An nam “. Bộ Luật Gia Long và Luật Hồng Ðức của nhà Lê – cho nên không được quyền
tự do ngôn luận, tự do lập đảng, và phải hoạt động bí mật. Lãnh tụ Cộng sản ở
Trung kỳ không phải là trí thức “ Retour de France “, được đào tạo ở Pháp và
Nga, mà chỉ là vài ba cựu Nho sĩ ở địa phương được hấp thụ học thuyết Mác-xít
và ý thức hệ cộng sản qua những sách dịch của cộng sản Tàu, bằng Hán tự.
Tuấn có được dịp gặp tại Saigon và nói chuyện khá lâu với anh
Trốt kít Trần Văn Thạch, và anh Dương Bạch Mai, Ðệ tam Quốc tế, một người ở
trong một tiệm ăn đường Espagne (nay là đường Lê Thánh Tôn), một người ở trong
hội quán A.J.A.C (Amicale des Journalistes Annamites de Cochinchine - Hội Ái Hữu
các nhà báo An nam ở Nam kỳ), đường Lagrandière (đường Gia Long). Câu chuyện
trao đổi riêng biệt với mỗi người kéo dài đến vài tiếng đồng hồ. So sánh hai
lãnh tụ Cộng sản ở Nam kỳ với Nguyễn Nghiêm, lãnh tụ cộng sản ở Trung kỳ, thật
khác nhau một trời một vực.
Nguyễn Nghiêm tuy hăng say nhưng quê mùa chất phác, hiểu chủ
nghĩa cộng sản quốc tế qua các sách tuyên truyền bằng Hán tự của cộng sản Trung
hoa, và chỉ nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của thượng cấp mà thôi. Anh đã không
hiểu được rõ rệt ý nghĩa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, mà anh, một đại điền
chủ, đứng ra lãnh đạo ở tỉnh nhà, với một số đông đồng chí vài ngàn người toàn
là ở giai cấp tư sản và địa chủ, phú nông.
Tuấn nhận xét rằng có lẽ Ðảng Cộng Sản Ðông Dương chủ trương
đường lối đấu tranh khác nhau ở mỗi "xứ “, tùy theo trình độ chính trị của
mỗi địa phương. Cho nên cuộc nổi loạn của Cộng sản Trung kỳ (Quảng Ngãi, Nghệ Tỉnh)
trong thời kỳ 1930 -1932 không có thành phần vô sản, bần cố nông.
Ở Bắc kỳ, trong thời gian ấy cộng sản chưa hoạt động. Một
nhóm đảng viên lãnh đạo, hầu hết là trí thức trung lưu như Võ Nguyên Giáp, Ðặng
Xuân Khu, Trần Huy Liệu (anh này nguyên là Việt Nam Quốc Dân Ðảng, rời bỏ hàng
ngũ quốc gia để gia nhập cộng sản) chỉ hoạt động trong lãnh vực tuyên truyền mà
thôi. Võ Nguyên Giáp vừa đỗ tú tài toàn phần Pháp và ghi tên vào Cao đẳng Luật
khoa năm thứ nhất. Ðồng thời, anh dạy môn Sử ký tại trường Trung Học Thăng
Long. Ðặng Xuân Khu đỗ bằng Thành Chung và tham gia vào Hội Truyền Bá Quốc Ngữ
mà hội trưởng là ông Nguyễn Văn Tối, phó giám đốc trường Viễn Ðông Bác Cổ,
Hànô5i. Trần Huy Liệu viết báo.
Ở Bắc kỳ cũng như ở Trung kỳ, Cộng sản Ðệ tam thuần nhất
không có Ðệ Tứ. Mãi đến năm 1936 họ mới có vài ba tờ tuần báo làm cơ quan tuyên
truyền công khai. Và cùng lúc đó, người ta mới thấy xuất hiện ra một nhóm Trốt-kít
nhưng không quan trọng bằng nhóm Ðệ Tứ ở Saigon.
Tuấn được tiếp xúc với đám thanh niên lãnh tụ cộng sản ở
Saigon, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Hà Nội, đặc biệt rất quen thân với nhóm Cộng sản
Hà Nội. Nhưng nặng về tinh thần quốc gia, chàng không chấp nhận lý thuyết
mác-xít và hoàn toàn không tán thành những hoạt động của phái cộng sản.
Dù sao, sau cuộc khởỉ nghĩa thất bại của Việt Nam Quốc Dân Ðảng,
cộng sản hoặc bí mật như ở Bắc kỳ, hoặc công khai như Nam kỳ, vẫn tỏ ra những dấu
hiệu hoạt động hăng hái hơn cả đảng phái Quốc gia.
Nhưng phong trào Ðông Dương Cộng Sản chỉ nổi bùng lên ở Trung
và Nam kỳ trong hai năm 1932-33 rồi bị đàn áp gắt gao không còn hoạt động công
khai được nữa.
Ðảng viên cộng sản bị bắt rất nhiều ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, và bị đày đi Côn Lôn, Ban Mê thuột, Lao Bão.
Trong thời kỳ này xuất hiện ra cái “một“ của người Cộng sản
viết chữ F thay Ph (thực dân Fáp, fản đối, fê bình) và DZ thay vì D (tự dzo,
dzân chủ…) bằng cách nhấn mạnh chữ d thật nặng, như chữ z của Pháp.
Ngoài ra, quảng đại quần chúng ở thành thị cũng như ở thôn
quê, khắp ba kỳ Trung Nam Bắc, rất thờ ơ với những vấn đề “quốc sự“ mà ngày nay
chúng ta gọi là “vấn đề chính trị “.
CHƯƠNG 47
1932
- Tuần báo " Phong Hoá " chế nhạo ông nhà quê
" Lý Toét ".
- Người Pháp đưa Bảo Ðại (du học ở Paris) hồi hương về làm
vua ở Huế, tạo ra mầm mống " lãng mạn chính trị ".
- Hai phong trào Tân tiểu tư sản và phong kiến lãng mạn
(néo-bourgoise et Feodalité-romantique) đi song hàng để tiêu diệt các khuynh hướng
cách mạng.
Sinh viên Cao đẳng Hà Nội và học sinh Trung học có đầu óc Quốc
gia ở cả ba kỳ đều chán nản vì các phong trào “ cách mạng “ bị liên tiếp thất bại.
Không còn gì làm phấn khởi tinh thần thanh niên nữa. Trừ một thiểu số vẫn giữ vững
lý tưởng ái quốc của mình, còn hầu hết lớp trẻ lớn lên sau thế hệ Nguyễn Thái Học
và Nguyễn An Ninh, đều đổ xô vào các phong trào lãng mạn do lớp thanh niên trí
thức “ Retour de France “đề xướng trong các lãnh vực xã hội.
Hai biến cố sôi nổi nhất vừa xẩy ra trong lúc này : tờ tuần
báo “ Phong Hóa “ của một Cử nhân Khoa học ở Pháp mới về tên là Nguyễn Tường
Tam, xuất bản ở Hà Nội, và Bảo Ðại đỗ Tú tài Pháp ở Paris cũng vừa về Huế để
làm Vua, lên ngôi nhà Nguyễn, kế vị phụ hoàng Khải Ðịnh.
Tôn chỉ đầu tiên của tuần báo “ Phong Hóa “ là đả kích những
gì cũ kỹ của xã hội Việt Nam, và chủ trương một đời sống trưởng giả mới, thích
hợp với phong trào lãng mạn của thời đại.
Cái khôn khéo tuỳ thời của Nguyễn Tường Tam, chủ nhiệm báo
Phong Hóa, là biết lợi dụng đúng lúc sự chán nản của tinh thần thanh niên và
dân chúng sau các vụ “ Hội Kín”, liên tiếp thất bại, gây ra máu lửa hãi hùng và
tang tóc, của Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Cộng sản nổi dậy, để phát hành tờ báo
Phong Hóa, chuyên về hài hước, cốt làm cho độc giả cười, thành một trò vui nhộn.
Nhưng ông còn lại dùng giọng cười trào phúng đó để đả kích
cái phong hóa cũ kỹ của xã hội Việt Nam. Do đó ông đặt ra hai nhân vật lố bịch
mà ông gọi tên là “ Lý Toét “ và "Xã Xệ “để tượng trưng cho tất cả những
gì hủ lậu, “quê muà“ ngơ ngẩn, của người An nam trước cái văn minh tân tiến của
Pháp.
Ngay từ những số đầu, tờ báo Phong Hoá đã bán chạy như tôm
tươi, chính là nhờ những tranh vẽ Lý Toét đầy cả mấy trang báo, và những mục
khôi hài chê cười nhân vật điển hình ấy. Lý Toét là nguyên nhân chính của tờ
Phong Hoá.
Tuấn là một độc giả siêng năng của tờ báo ấy. Dù trong túi
không còn tiền, Tuấn cũng mượn người này người nọ để mua cho được tờ báo phát
hành mỗi tuần một lần. Nhưng Tuấn nhận xét khách quan thấy phản ứng của độc giả
báo Phong Hoá chia làm hai loại. Các giới trí thức bảo thủ và cách mạng cực
đoan đều không tán thành cái chủ trương người Việt Nam công khai kích bác và mỉa
mai chế nhạo người Việt Nam trong lúc người Pháp đã khinh rẽ người An nam mình
nhiều quá rồi. Họ gọi người An-nam bằng một danh từ xuyên tạc đểu giả “nhaque”
(nhấc cờ), do chữ nhà quê không bỏ dấu. Nhà văn và nhà báo có trách nhiệm giáo
hoá dân chúng, đưa dân chúng lên con đường văn minh, tiến bộ, chứ không có quyền
châm biếm, chê cười những phong tục cổ truyền của dân tộc. Người ta kết án cái
chủ trương của báo Phong Hoá ở điểm đó.
Nhưng phản ứng thứ hai, của thanh niên và các giới bình dân
thì có tính cách tiêu cực, dễ dãi hơn. Họ chỉ biết vỗ tay cười, cười vô ý thức,
như khi họ xem một chú hề làm trò cười trước khán giả.
Báo Phong Hoá trong mấy tháng đầu đều đã gây ra hai luồng dư
luận như thế trong dân chúng. Nhưng nói tổng quát về kỹ thuật làm báo, thì Nguyễn
Tường Tam và bộ biên tập của ông đã gặt được kết quả rất khả quan.
Tờ Phong Hóa lúc đầu in lem luốc, sơ sài trên 4 trang, sau đó
một năm đã sáng sủa hơn nhiều và tăng lên số trang.
Nguyễn Tường Tam với bút hiệu Nhất Linh, hồi đó chưa thành lập
nhóm Tự Lực Văn Ðoàn, và thật sự báo Phong Hoá chưa có tham vọng đó. Mục đích của
Phong Hoá chỉ là
“cải cách phong hoá Việt Nam “.
Mãi một thời gian sau, khi số độc giả đã đông đảo, các nhà
văn trong toà soạn đã sản xuất một vài tiểu thuyết được hoan nghênh, nhóm Tự Lực
Văn Ðoàn mới ra đời và xoay chiều hướng về Văn Nghệ. Những trận cười vui nhộn
chung quanh Lý Toét, Xã Xệ nhạt dần, người ta bắt đầu chán ngấy lối cười vô ý
thức đó, thì các tiểu thuyết của Khái Hưng bắt đầu lôi kéo được một số đông độc
giả. Người ta khao khát một lối sống tình cảm lãng mạn phóng đạt hơn để thoát
khỏi những khắc khe của thành kiến.
Ðồng thời báo Phong Hoá làm cả công việc “ lancer “ các “mốt“
áo tân thời cho phụ nữ. Một chàng thợ may tên là Cát Tường vẽ trong Phong Hóa mỗi
tuần một kiểu áo mới, rất được các cô “ tiểu thư tân thời “ hưởng ứng.
Phong trào áo “ Lemur “được các cô vũ nữ hoan nghênh trước nhất.
“ Le Mur “ là do chữ “ Tường “ dịch ra tiếng Pháp (tiếng Pháp Le Mur là bức tường).
Các kiểu áo Lemur được báo Phong Hóa phổ biến rầm rộ đúng theo chủ trương của
nhóm Nguyễn Tường Tam đả kích và chê cười cái cũ, đưa ra cái mới theo trào lưu
văn minh Pháp.
Trên phương diện chính trị, chính phủ thuộc địa Pháp, và thực
dân Pháp ở An nam nhìn các hoạt động rộn rịp của Nguyễn Tường Tam và nhóm Phong
Hoá, với cặp mắt đầy thiện cảm. Vì sau những vụ bùng nỗ đẩm máu của Việt Nam Quốc
Dân Ðảng của Nguyễn Thái Học, ở Bắc kỳ và Ðông Dương Cộng Sản Ðảng của Nguyễn
Ái Quốc ở Trung Kỳ, chính phủ thực dân Pháp rất bằng lòng thấy đa số thành phần
trí thức, thanh niên thiếu nữ An nam chạy theo các phong trào lãng mạn của nhóm
Nguyễn Tường Tam và các mốt áo quần mới do nhóm Phong Hoá cổ động.
Nhạo báng người An-nam-mít lố bịch tên là Lý Toét, Xã Xệ, vừa
gây ra trận cười vui nhộn khắp các từng lớp dân chúng, vừa để quên các biến cố
cách mạng vừa xẩy ra, và thờ ơ lãnh đạm của tất cả các vấn đề “ quốc sự “, đó
là rất hợp với chánh sách thực dân Pháp thời bấy giờ.
Ðồng thời, người Pháp vội vàng cho Bảo Ðại hồi hương, để cho
phong trào thanh niên lãng mạn được cụ thể hoá một cách tưng bừng náo động hơn,
hấp dẫn hơn.
Lúc vua Khải Ðịnh chết năm 1925, thì Bảo Ðại mới có 12 tuổi,
được kế vị lên ngôi hoàng đế. Nhưng viện lẽ Bảo Đại còn nhỏ tuổi nên chính phủ
Nam triều được Pháp ủy nhiệm cho một “ Hội Ðồng Phụ Chánh “ (conseil de
régence) dưới quyền của Nguyễn Hữu Bài, Phụ chánh đại thần, và Tôn Thất Hân, chủ
tịch Tôn Nhân Phủ.
Bảo Ðại được chánh phủ thuộc địa cho đi du học bên Pháp từ hồi
8 tuổi, năm 1925 về để tang cho vua cha, rồi lại được trở qua Pháp tiếp tục việc
học.
Năm 1932, vua Bảo Ðại, 19 tuổi, vừa thi đỗ tú tài liền được
người Pháp cho về Huế để cầm quyền cai trị. Về phương diện lịch sử thì như thế.
Tuy nhiên những kẻ theo dõi sát tình hình biến chuyển trong nước, thì nhận thấy
sự hồi hương của vị vua hào phóng ấy có một tác dụng chính trị khôn khéo và sâu
rộng hơn.
Tuấn còn nhớ rõ năm 1921, Tuấn còn học lớp Ba trường “ Ecole
de Plein-Exercice de Quang Ngai “, một buổi chiều toàn thể học trò phải đứng sắp
hàng hai bên đường từ Cửa Tây đến cổng Toà Sứ, để phất cờ (cờ Pháp) cho Hoàng
Thái Tử Vĩnh Thụy, một cậu bé 8 tuổi. Vào khỏang 4 giờ, một đoàn xe citroen 5
chiếc, đen bóng, từ Huế vào (chắc có ghé Tourane) định nghỉ đêm ở Toà Sứ Quảng
Ngãi để sáng hôm sau tiếp tục cuộc hành trình vào Saigon, đáp tàu thủy qua Pháp
du học.
Tuấn thấy rõ cậu bé Hoàng Tử ngồi trong chiếc xe thứ hai, và
theo lệnh thầy giáo, học trò phải phất cờ khi đoàn xe qua.
Chiều tối, sau buổi học, Tuấn lúc đó 10 tuổi, còn đứng lảng vảng
trước cổng Toà Sứ, dòm thấy cậu bé Hoàng tử mặc áo gấm thêu, đứng trên bao lơn,
rỡn cười với một vị triều thần. Ngoài y phục hào nhoáng của con Vua, cậu bé
Hoàng tử không có gì đặc biệt hơn các cậu học trò thường. Tuấn hỏi thầy Trợ
giáo được thầy cho biết “ Hoàng tử “ mới học đến chương trình lớp Ba. Tuấn tự
an ủi con Vua không giỏi gì hơn mình.
Năm 1932, Tuấn đã thi đỗ Tú tài ở Hà Nội, xem báo Pháp thấy
hình của Bảo Ðại đăng nơi trang nhất, khuôn khổ 24x18. Lần này Bảo Ðại vừa thi
đổ tú tài ở Paris, hồi hương về Huế để cai trị dân. Tuấn biết rằng tuy Bảo Ðại
mang danh hiệu “Ðại Nam Hoàng Ðế “, và các báo Pháp - Việt ở Hà Nội đăng bài đề
cao nhà vua trẻ ấy (19 tuổi).
Nhưng Bảo Ðại chỉ làm vua ở Trung kỳ mà thôi. Nam kỳ đã bị
vua Tự Ðức ký hiệp ước nhường hẳn cho Pháp làm thuộc địa, “ Cochinchine
Francaise “, không còn dính líu mảy may gì với Triều đình Huế.
Còn Bắc kỳ, tuy rằng theo hiệp ước 1884, vẫn là đất của triều
Nguyễn, chính thức vẫn gọi là “ Protectorat du Tonkin “ như Trung kỳ, nhưng về
thực tế, từ lâu rồi, đã hoàn toàn đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của người
Pháp. Tuấn đã nhận thấy điều cách biệt đó ngay ở danh từ chỉ vị thủ hiến Pháp ở
Trung kỳ, Résident supérieur en Annam, là Khâm sứ, mà vị Thủ hiến Bắc kỳ,
Résident supérieur du Tonkin lại là Thống sứ.
Trước kia, đại diện ở Bắc kỳ là một vị Kinh lược như Kinh lược
Hoàng Cao Khải. Nhưng từ ngày Khải Ðịnh chết, chức vụ Kinh lược An nam cũng bị
người Pháp chiếm đoạt và giao cho Thống sứ Bắc kỳ, chức vị Thống sứ Ðại thần,
cũng như ở Trung kỳ là Khâm sứ Ðại thần vậy. Theo sự thay đổi ấy, trái với hiệp
ước 1884, tất cả các quan An nam ở Bắc kỳ, Tổng đốc, Tuần vũ v.v…đều trực thuộc
uy quyền của “ Cụ Thống Sứ “ Pháp, chớ không còn tuỳ thuộc về Triều đình Huế và
Hoàng đế An nam nữa.
Năm 1932, chính phủ thuộc địa theo đề nghị của viên Toàn quyền
Pasquier, cho Bảo Ðại hồi hương, với dụng ý để vị “ hoàng đế “ trẻ tuổi và dễ
sai khiến ấy đóng một vai trò chính trị, mà mục đích là phản ứng lại những hoạt
động chống Pháp của các “ Hội Kín “ cách mạng ở trong nước, và gây phong trào
lãng mạn sùng kính một “ thần tượng mới “ở Pháp về.
Giới thanh niên có tư tưởng quốc gia cách mạng, Tuấn đều nhận
thấy rõ những cuộc vận động giả tạo của chính sách thực dân Pháp. Nếu đòn chính
trị tâm lý ấy thành công được đôi phần mong manh trong các giới quan lại và
thanh niên lãng mạn, thì trái lại nó không có chút ảnh hưởng nào đối với giới
trí thức cách mạng, và quảng đại quần chúng.
Nói một cách khác, Bảo Ðại đã đóng rất đúng một vai trò “
Hoàng tử đẹp giai “ở Tây mới về. Một thần tượng hợp thời nhất của các cô tiểu
thư Hà Nội mặc áo “ Lemur “ của báo Phong Hoá, cũng như các cô gái phong kiến của
núi Ngự, sông Hương, và của đám thanh niên quan lại và trác táng, sẵn tiền sẵn
địa vị, chỉ lo hưởng thụ ăn chơi.
Trái lại, vai trò lịch sử trên trường Chính trị của “Ðại Nam
Hoàng đế “ con nuôi của người Pháp, trông thấy ngớ ngẩn làm sao, vô duyên vô vị
làm sao!
Bảo Ðại về nước lên ngôi Hoàng đế chưa được bao lâu thì Phủ
Toàn Quyền Ðông Dương dàn cảnh một cuộc “ ngự du Bắc hà “ rất tưng bừng náo nhiệt.
Ðể đón tiếp “ Hoàng Thượng “, Phủ Toàn Quyền Bắc kỳ bắt buộc tất cả dân chúng
Hà Nội phải treo cờ “ An Nam “ trước cửa nhà suốt trong tuần lễ mà “ Hoàng đế Bảo
Ðại “ viếng kinh đô xứ Bắc.
Cờ An nam là gì? Dân chúng Hà thành từ trước đến giờ chỉ
treo cờ tam tài của Pháp, có thấy bóng dáng lá cờ An nam bao giờ đâu ? Bỗng
dưng toà Ðốc lý Hà Nội ra lịnh dân chúng hãy may gấp rút lá cờ mới để đón mừng
Hoàng đế Bảo Ðại : hai sọc đỏ, ba sọc vàng.
Dân chúng gọi luôn là “ Cờ Bảo Ðại “ …
Thủ đô Hà Nội thật là rộn rịp ngay từ hôm đầu tiên Bảo Ðại đi
chuyến xe lửa tốc hành từ Huế ra. Tuấn và hai người bạn ở Cao đẳng Luật khoa đi
xe máy khắp ba mươi sáu phố phường để xem bộ mặt Hà Nội đổi mới. Cờ Bảo Ðại mới
may, bay phất phới trước cửa nhà, rực rỡ mầu vàng màu đỏ.
Riêng ở Hội quán Khai Trí Tiến Ðức, thường được gọi bằng tiếng
Pháp là AFIMA (Association pour la Formation Intellectuelle et Morale des
Annamites) càng rộn rịp hơn cả. Hội quán được tạm dùng làm nơi hành cung để các
Quan An nam cai trị ở khắp các tỉnh Bắc kỳ sẽ tề tựu đông đủ nơi đây để làm lễ
bái triều hoan nghênh Hoàng Thượng.
Tuấn được mục kích các lễ phong kiến kiểu cách ấy đầy màu sắc
rực rỡ và nhạc bát âm. Bảo Ðại, đẹp trai với thân hình thể thao, mập mạp, gương
mặt tròn và duyên dáng, rất hào hoa phong nhã, với y phục Hoàng đế : chiếc áo gấm
dài thêu rồng, quần lụa trắng, giày dừa thêu rồng đỏ, và chiếc khăn vàng chit
trên đầu, đã làm cho các cô tiểu thư tân thời Hà Nội say mê mơ ước, và các cậu
trai lãng mạn thèm thuồng.
Người ta biết rằng Bảo Ðại là một ông vua “ Bù nhìn “ do người
Pháp đào tạo ra, và hoàn toàn hấp thụ văn minh Pháp, nhưng thân hình trai trẻ,
mập mạp và lộng lẫy của ông vua mới ấy vẫn gây được cảm tình của một số thanh
niên. Số ấy tin tưởng rằng biết đâu ông sẽ là một ông vua tiến bộ, sẽ thực hành
một chánh sách thân dân, tân tiến, hợp thời, hơn các vị hoàng đế tiền triều.
Hôm ông đi thăm thành phố, ghé vào nhiều tiệm buôn lớn của
người An nam ở các hàng Bông, hàng Gai, hàng Ðào, hàng Da, hàng Bạc, hàng Nón,
v.v…dân chúng bu lại xem đông nghẹt, để chiêm ngưỡng long nhan. Bảo Ðại mỉm cười
thoải mái.
Nguyễn Văn Vĩnh không ưa Bảo Ðại mà cũng đã phải viết trong
báo L’ Annam Nouveau, của ông : “ J’ ai vu dans les tribunes des jeunes
Hanoiennes se pâmer d’ extase…” (tôi đã thấy trên khán đài những cô gái Hà Nội
đê mê đắm đuối …) Bảo Ðại đến dự cuộc đua ngựa long trọng ở Trường Ðua.
Có thể nói một cách rất khách quan rằng Hànội đã sống một tuần
lễ Hoa đăng tưng bừng hoan hỉ trong dịp Bảo Ðại “ ngự du “ thủ đô Thăng Long
tân thời. Nhưng các phần tử thanh niên trí thức cách mạng thì rất thờ ơ lãnh đạm,
nếu không nói là khinh rẻ, coi Bảo Ðại chỉ là một món đồ chơi của người Pháp ở
Ðông Dương.
Cuộc “ Bắc tuần “ của Bảo Ðại tuy được phủ Toàn Quyền tổ chức
rền rang tại Hà Nội, nhưng ngoài phong độ khá hấp dẫn của một Hoàng tử trẻ tuổi
và đẹp trai đối với một số thanh niên và thiếu nữ lãng mạn, Bảo Ðại không gây
được một ảnh hưởng chính trị sâu rộng nào trong quảng đại quần chúng cũng như
trong các giới trí thức ở Bắc kỳ. Ngươì ta thấy rõ rệt một cuộc dàn cảnh của
người Pháp, và ai cũng biết rằng Bảo Ðại là một thiếu niên được người Pháp đào
tạo và che chở, hoàn toàn theo Pháp, chứ không được là một vị vua ái quốc như
các Hoàng đế Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.
Phủ Toàn Quyền đưa Bảo Ðại ra trình diện với dân chúng Hà Nôị
với mục đích gây lại phong trào tôn quân, phục hưng ý thức quân chủ đã bị chánh
sách bảo hộ xoá mờ từ lâu.
Phạm Quỳnh, Học giả nổi tiếng, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí
Nam phong, được triệu vào Kinh (kinh đô Nam triều) làm Ðổng lý văn phòng cho Bảo
Ðại. Ông là một người thân Pháp, và bảo hoàng phong kiến. Ông viết Pháp văn
cũng như Hán văn và Việt văn. Dù là bạn hay là thù của ông, ai cũng phải công
nhận ông có công lớn trong việc bồi đắp nền văn hóa Việt Nam trong khỏang 15
năm đầu thế kỷ, từ 1915 đến 1930.
Nhưng trên lập trường chính trị, ông đã tỏ ra quá trung thành
với “ Nhà Nước Ðại Pháp “. Ông đã đem ngòi bút văn hoa của ông phụng sự chính
sách thực dân chống lại các phong trào ái quốc. Ông là một nhà trí thức thông
thái, một nhân tài hiếm có (mặc dầu ông là một người tự học - autodidacte –
không có một bằng cấp đại học nào cả), nhưng các nhà cách mạng lão thành cũng
như thanh niên, của phái Nho học cũng như Tây học, đều coi ông như là một kẻ
tôi tớ của người Pháp không hơn không kém.
Bảo Ðại không phải vì phục nhân tài mà triệu Phạm Quỳnh về Huế,
làm “Ðổng Lý Ðại thần “. Phạm Quỳnh không hẳn là người của Bảo Ðại. Ông là người
của Toàn Quyền Pierre Pasquier và của Khâm Sứ Yves Châtel. Người Pháp rút kinh
nghiệm ở Hai vị Hoàng đế trẻ tuổi Hàm Nghi và Duy Tân, sợ rằng Bảo Ðại sẽ có thể
chịu ảnh hưởng thầm kín cúa các đảng phái cách mạng đang hoạt động lén lút khắp
Bắc kỳ và Trung kỳ, và ngay ở trong đám quan lại của Triều đình Huế. Bộ thuộc địa
Pháp ở Paris cũng như Phủ Toàn quyền Ðông Dương ở Hànội và toà Khâm sứ của Huế
không tin tưởng hoàn toàn nơi vị vua 19 tuổi ấy, chưa trưởng thành về chính trị
và thiếu kinh nghiệm trong nghệ thuật trị quốc, dù đây chỉ là một nghệ thuật “
tài tử “ (amateur).
Cho nên bên cạnh Bảo Ðại, người Pháp muốn để một kẻ thân tín
của họ, và kẻ ấy không thể ai hơn là Phạm Quỳnh. Tin đồn Phạm Quỳnh sẽ về Huế
làm quan, giới trí thức Hà Nội và Huế biết đã lâu rồi. Có hai luồng dư luận đều
không tốt cho nhà học giả của Nam Phong tạp chí. Ðám quan lại đã có dòng dõi mấy
đời làm quan ở Triều đình Huế, vì ganh ghét, chê Phạm Quỳnh là một kẻ “bạch
đinh“ được “ Nhà nước Bảo Hộ “ cân nhắc lên ngang hàng với họ, và chắc chắn là
sẽ còn lên cao hơn họ nữa. Trong đám này, có Ngô Đình Diệm, con của cựu thần
Ngô Ðình Khả, và đương thời làm Tuần Vũ Phan Thiết, vừa được Bảo Ðại triệu về
Kinh làm Thượng Thư. Tư tưởng chống đối Phạm Quỳnh của gia đình họ Ngô chính là
mầm mống sự chống đối Bảo Ðại.
Luồng dư luận thứ hai cũng không có thiện cảm với nhà học giả
Nam phong, là ở trong các giới trí thức và cách mạng. Con người tài ba lỗi lạc,
mà họ gọi là Kiến Trắng tiên sinh, có phong độ nho nhã của một triết gia Ðông
phương, luôn luôn khăn đen áo dài, giầy escarpin, và đôi kiếng trắng chễm chệ
trên đôi mắt nho nhỏ đầy tinh ranh và kiêu ngạo, con người ấy đã dùng văn học
làm bàn đạp để nhảy lên hoạn trường, làm “tay sai“ cho chế độ thuộc địa.
Sự thật, Phạm Quỳnh không đếm xỉa gì đến thái độ chống đối của
phe quan lại ganh ghét nhỏ mọn, và Ngô Đình Diệm đã phải từ chức Thượng Thư vì
tự thấy mình không đủ uy tín và thế lực để đương đầu với địch thủ họ Phạm.
Nhưng trước dư luận chê cười của giới trí thức độc lập, và
khinh rẻ của giới cách mạng, Phạm Quỳnh đã đưa ra một quan điểm chính trị để tự
bào chữa cho lập trường của mình. Trong “ France – Indochine “, một tờ nhật báo
của Pháp ở Hà Nội, Phạm Quỳnh có viết một loạt bài bằng Pháp văn để trình bày
chương trình “tranh đấu“ chính trị của ông.
Tuấn có đọc hết những bài báo ấy, và cả những bài của các đối
thủ đăng trong báo khác chống lại quan điểm của Phạm Quỳnh. Quan điểm ấy có thể
tóm tắt như sau :
- Cần phải trở lại Hiệp ước 1884, và thi hành đứng đắn những
điều khỏan của hiệp ước ấy. Nghĩa là phải trao trả lại Trung Kỳ và Bắc kỳ cho
Hoàng đế An nam, và chính phủ Nam triều. Nước Pháp chỉ đóng vai trò bảo hộ mà
thôi, không nên xâm phạm đến chủ quyền của Hoàng đế.
Trong một bài báo, Phạm Quỳnh có kết luận bằng một câu :” Ce
que les Annamites demandent, c’ est une Patrie à servir (Cái mà người An nam
đòi hỏi, là một Tổ quốc để phụng sự). Cái “ tổ quốc “đó, theo ý của Phạm Quỳnh,
là một xứ An nam kết hợp lại Trung kỳ và Bắc kỳ, đặt dưới quyền hành thực tế và
đầy đủ của Ðại Nam Hoàng Ðế Bảo Ðại với tất cả những yếu tố của một vương quốc
lập hiến (Monarchie constitutionnelle), đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp quốc cộng
hòa.
Phê bình loạt bài của Phạm Quỳnh trong France – Indochine với
một nhóm bạn hữu, Tuấn bảo :” Với giọng nói văn hoa và tha thiết, lại muốn tỏ
ra có trí óc tinh ranh, Phạm Quỳnh chìa tay ra xin người Pháp bố thí cho một “
Tổ quốc để phụng sự “. Nhưng vì ông phụng sự quá trung thành với người Pháp nên
ông đã quên rằng người “ An nam “đã có một tổ quốc mà người Pháp đã cướp mất.
Bây giờ chỉ phải làm cách mạng, người An nam mới thu hồi được Tổ quốc của mình,
chứ không phải đi ăn mày tổ quốc theo kiểu Phạm Quỳnh."
Vả lại, lập trường của Phạm Quỳnh cũng không được người Pháp
tán thành, Phủ Toàn Quyền đặt Phạm Quỳnh bên cạnh Bảo Ðại, chính là để kèm vị
cua non nớt ấy chứ đâu phải để ông làm xáo trộn cái “ trật tự “ mà người Pháp
đã sắp đặt đường lối thực dân của họ.
Phạm Quỳnh - với sự hợp tác tài chánh của Phạm Lệ Bổng, nhà
buôn pháo ở phố hàng Nón, và hội trưởng hội Dân biểu Bắc kỳ - mở ra tại Hà Nội
một tuần báo Pháp văn nhan đề là “ La Patrie Annamite “ (Tổ Quốc An nam), mà chủ
bút là Tôn Thất Bình, người rể của Phạm Quỳnh, một trong những sáng lập viên
trường trung học Thăng Long …
Phong trào Bảo Ðại hoàn toàn do người Pháp tạo ra, được sôi nổi
một thời gian hai ba năm sau khi vị “ hoàng tử đẹp giai “ở Pháp về lên ngôi
Hoàng đế, nhưng rồi dần dần bị chìm trong sự lãnh đạm của toàn dân vì danh hiệu
“ông vua bù nhìn “ mà các phe cách mạng đã gán cho ông.
Sự ông lấy vợ, tôn lên ngôi Hoàng hậu nước Nam, cô Henriette
Nguyễn Hữu Hào, một bạn gái của ông cùng du học ở Paris, con một đại điền chủ ở
Nam kỳ, vẫn không tăng uy tín của ông một chút nào. Bởi lẽ, Nam Phương Hoàng Hậu
(danh hiệu này do Phạm Quỳnh đặt ra) là một cô gái đầm (có quốc tịch Pháp) lại
dòng dõi đạo Thiên Chúa, mà nghiễm nhiên được suy tôn lên bậc “mẫu nghi thiên hạ“,
khiến cho dư luận của đại đa số dân chúng theo Phật giáo và Khổng giáo chỉ
trích gắt gao.
Các báo ở Saigon và Hà Nội lại bắn tin rằng, trước khi nhận lời
cầu hôn của Bảo Ðại, cô Henriette Hào có đưa ra một điều quan trọng, là một khi
cô được lên ngôi Hoàng hậu, cô phải được quyền tham gia việc nước, giúp Hoàng đế
trị dân, chứ cô không chịu đóng vai trò Hoàng hậu trong cung cấm chỉ có chức vị
mà không có quyền hành.
Các báo không có nói là Bảo Ðại có chấp nhận “điều kiện “ đó
hay không, vì chính Bảo Ðại cũng chưa biết mình có quyền hành gì trong việc trị
quốc, nhưng dư luận dân chúng rất xôn xao, nhất là trong các thôn quê và các giới
quan lại bảo thủ. Họ xầm xì với nhau :” Nếu một cô gái dân Tây và theo đạo
Thiên Chúa lên làm Hoàng hậu, mà đòi nắm quyền trị quốc, thì vận nước An nam sẽ
như thế nào ?"
Nhưng đó chẳng qua là dư luận thầm kín, lén lút, và sự đòi hỏi
chính trị của cô gái Nam kỳ cũng chỉ là một điểm danh dự mà cô nêu ra để làm
quà cho “ quốc dân An nam “ đó thôi, chứ không có chi là quan trọng, thực tế cả.
Vì sau khi cô Henriette Nguyễn Hữu Hào được tôn lên ngôi
Hoàng hậu An nam, điện Thái Hòa ở Huế đô vẫn chỉ có một ngai vàng độc nhất của
hoàng đế, và theo phép nước, Nam Phương Hoàng Hậu không được một chỗ ngồi bên cạnh
chiếc ngai của Nguyễn triều.
Dân chúng biết rằng vì khác tôn giáo, cô Henriette Nguyễn Hữu
Hào muốn thành hôn với Bảo Ðại đã phải xin phép đức Giáo Hoàng ở La Mã, và cố
nhiên điều đó không khó gì. Giáo hoàng Pierre XI đã ban cho cô cái đặc ân ấy.
Nhưng đồng thời, có tin do triều đình Huế loan ra để dân chúng khỏi thắc mắc,
là con trai của Bảo Ðại và Nam Phương, hoàng tử An nam sẽ không được theo đạo
Thiên Chúa, để đúng với thủ tục nghi lễ đối với các vị tiên đế Nguyễn triều.
CHƯƠNG 48
1932-1933
- Các đảng cách mạng ở Saigon phát động mạnh hơn ở Bắc và
Trung.
- Các báo loan tin Nguyễn Ái Quốc chết ở Hồng kông.
- Hà Nội và Huế : Cộng sản hoạt động ngầm, VNQDÐ hoàn
toàn im lặng.
- Bửu Ðình, người Hoàng tộc làm cách mạng, bị Hội Ðồng Tôn
Nhân Phủ bắt đổi tên họ là Tạ Ðình.
Trong lúc ở Trung kỳ và Bắc kỳ, phong trào Bảo Ðại bắt đầu lắng
xuống, Phủ Toàn Quyền Hà Nội cũng như tòa Khâm Sứ Huế không làm gì hơn để tăng
uy tín của ông vua, thì các Hội Kín Cách Mạng vẫn âm thầm hoạt động : Thanh
Niên Cách Mạng đồng chí Hội (gọi tắt là thanh niên), Tân Việt Cách Mạng Ðảng (gọi
tắt là Tân Việt), và Ðông Dương Cộng sản Ðảng. Một số đảng viên Thanh niên Cách
Mạng đồng chí hội lại tách ra lập riêng một đảng có khuynh hướng cộng sản, lấy
tên là An Nam Cộng Sản Ðảng.
Một số đảng viên của Tân Việt, trong đó có Võ Nguyên Giáp và
Ðặng Thái Mai, cũng tách riêng ra, lập một đảng gọi là “Ðông Dương Cộng Sản
Liên Hiệp“. Ba đảng cộng sản trên đây đều theo chủ nghĩa Mác Lê (Marx-Lénine),
nhưng khác nhau trong các chi tiết tổ chức, và chống chỏi nhau, không hợp tác với
nhau trên đường lối đấu tranh.
Vả lại, An nam cộng sản đảng và Ðông Dương cộng sản Liên Hiệp
chỉ hoạt động ở Trung kỳ. Ðông Dương cộng sản đảng có kỳ bộ ở Trung Nam Bắc,
nhưng hoạt động mạnh nhất ở Trung kỳ. Chính Ðông dương cộng sản đảng đã tổ chức
hai phong trào nổi loạn riêng biệt : Ðồ Lương (Nghệ An) năm 1931, và Quảng Ngãi
- 1932.
Theo dư luận của các đảng quốc gia chống cộng, căn cứ trên một
vài tin tức của một số đồng chí bên Tàu về, thì hai cuộc khởi loạn trên kia “Soviet Nghệ An“ và “Soviet Quảng Ngãi “đều do lịnh của Nguyễn Ái Quốc, là người
chỉ huy Ðông Dương cộng sản đảng mà tổng hành dinh được đặt bí mật ở Trung Hoa.
Một số bạn bè trong giới thanh niên sinh viên Hà Nội có rủ Tuấn
vào đảng Cộng sản Ðông Dương, lúc bấy giờ vẫn được gọi bằng tiếng Pháp là Parti
Communiste de L’ Indochinois. Tuấn do dự chưa nhận lời vì thấy chủ trương Mác
Lê không thích hợp với lý tưởng thuần tuý quốc gia của Tuấn.
Kế đó, Tuấn có dịp nghĩ hè về miền Trung, một hôm ghé chơi ở
Qui Nhơn lại gặp một bạn cũ rủ Tuấn vào “ An nam cộng sản đảng “ (Parti
Communiste Annamite). Tuấn ngạc nhiên và tìm hiểu sự bất đồng quan điểm giữa
hai đảng cộng sản, và sự xuất hiện mới nhất của một đảng cộng sản thứ ba là
Ðông Dương Cộng Sản Liên Hiệp, mà người bạn cho biết là Tổng bộ chỉ huy ở bên
Xiêm (Thái Lan).
Trước những mâu thuẫn đó, Tuấn từ chối khéo và hứa chỉ hợp
tác trên một vài điểm chung có tính cách tranh đấu cho quốc gia dân tộc mà
thôi. Tuấn cương quyết không gia nhập một đảng cộng sản nào riêng rẽ ở Trung,
Nam, Bắc.
Cuộc nổi dậy của cộng sản Quảng Ngãi, nhất là đêm máu lửa hãi
hùng ở Ðức Phổ, Mộ Ðức, năm 1932, do anh Nguyễn Nghiêm cầm đầu, khiến cho Tuấn
suy nghĩ nhiều, và càng củng cố lập trường quốc gia thuần tuý của chàng, tránh
những hành động đấu tranh giai cấp của cộng sản.
Cuối năm 1933, Tuấn đọc mấy tờ báo Pháp và An nam xuất bản ở
Saigon và Hà Nội, thấy ở trang 4, trong một cột chữ nhỏ, một tin vắn tắt đại
khái như sau đây :
Nguyễn Ái Quốc đã chết tại Hồng Kông vì bịnh lao
"Tin người Anh cho biết vừa rồi Nguyễn Ái Quốc, kẻ phiến
loạn cách mạng An nam (agitateur révolutionnaire annamite) bị chết vì bịnh lao
phổi trong ngục thất ở Hồng Kông. “
Cái tin ngắn chỉ có mấy dòng chữ nhỏ như thế, đăng ở cuối
trang tư như một tin vặt không mấy quan trọng, nhưng đã gieo vào đầu óc của tất
cả những người An nam làm cách mạng hồi đó, Quốc gia cũng như Cộng sản, sự tin
chắc rằng cái tin kia là thật.
Ðối với thanh niên sinh viên như Tuấn trong trí óc nẩy ra ý
nghĩ thực thà rằng Nguyễn Ái Quốc đã thuộc về thế hệ tiền bối như các cụ Phan
Chu Trinh, Phan Bội Châu thì sự chết về tuổi già là lẽ thường. Huống chi cụ
Nguyễn Ái Quốc lại bị bịnh lao phổi, cụ chết vì bịnh đó cũng là lẽ tất nhiên.
Nói đúng ra, thời bấy giờ ở An nam ít có ai biết rằng Nguyễn
Ái Quốc là cộng sản. Cái tên “Ái Quốc “ của cụ để cho các lớp người thanh niên
yêu nước tưởng rằng cụ là một nhà cách mạng quốc gia lão thành, ở hải ngoại lâu
năm như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh vậy thôi.
Cái tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông đã
làm xôn xao các giới cách mạng một thời gian rồi cũng chìm trong quên lãng. Dần
dần không ai nói đến Nguyễn Ái Quốc nữa.
Mãi đến tháng 8 năm 1945, nghĩa là 12 năm sau, cũng như tất cả
những người Việt Nam trong nước và hải ngoại, Tuấn nghe thấy lần đầu tiên cái
tên Hồ Chí Minh và dư luận trong giới cách mạng quả quyết rằng “ Hồ Chí Minh “
chính là Nguyễn Ái Quốc. Tuấn hoàn toàn ngạc nhiên !
Vài năm sau đó, Tuấn được đọc ba bốn quyển sách ngoại quốc :
· Le VietMinh của Bernard Fall (Paris)
· Cinq hommes et la France của Jean Lacouture (Paris)
· From colonialism to communism (New York) của Hoàng Văn Chí.
· Le Mystérieux Hồ Chí Minh (Paris) của Hồ Văn Tạo.
mới biết rõ sự thật.
Sau khi Tưởng Giới Thạch tuyệt giao với Nga, năm 1927, Nguyễn
Ái Quốc, nhân viên sứ quán Nga, theo lãnh sự Nga là Borodine phải từ giã Trung
quốc trở về Moscou, để Hồ Tùng Mậu (tức là cố Mậu, T.S 40 “ xến xáng “, bị giam
ở trại an trí Trà Khê (Phú Yên) từ năm 1940 đến năm 1945) ở lại thay thế làm Tổng
Bí Thư Ðông Dương Cộng Sản Đảng.
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc được lịnh trở lại (từ Nga) Hồng
Kông tiếp tục hoạt động, nhưng bị người Anh bắt bỏ tù ngày 6 tháng 6 năm 1931.
Bắt rồi được tha, Nguyễn Ái Quốc lẻn đi Singapore, nơi đây ông lại bị người Anh
bắt lần thứ hai, đưa về Hồng kông, vào bịnh viện vì bịnh lao phổi.
Cuối năm 1933, Nguyễn Ái Quốc bổng dưng biến mất. Nhà cầm quyền
Anh ở Hồng Kông không hề cho biết Nguyễn Ái Quốc mất tích trong trường hợp nào.
Có lẽ ông thoát ngục trốn đi chăng ?
Dù sao họ cũng đã loan tin rằng Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh
lao ở ngục thất Hồng Kông. Tờ báo Daily Worker, của đảng Cộng Sản Anh ở Luân
Ðôn, cũng đăng tin xác nhận rằng Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ Cộng sản An nam, bị bịnh
lao phổi đã từ trần trong ngục thất Anh ở Hồng Kông.
Ðồng thời bộ Thuộc địa Pháp ở Paris và Phủ Toàn Quyền Ðông
Dương ở Hà Nội cũng nhận được tin ấy. Trong hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc tại sở Mật
Thám Pháp cũng có ghi rằng Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông năm
1933.
Sự thật, chỉ có một đôi người quan trọng của Komintern(cơ
quan đầu não của cộng sản Ðệ Tam – Nga ), là biết Nguyễn Ái Quốc ở đâu và làm
gì trong thời gian từ 1933 thoát ngục Hồng Kông, đến năm 1941, năm mà ông lại
xuất hiện đột ngột ở Moscou.
Ngoài ra, chính những đảng cộng sản ở Moscou và ở khắp thế giới,
và toàn thể đảng viên cộng sản An nam đều tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bịnh
lao ở ngục thất ở Hồng Kông, như nhà cầm quyền Anh đã tuyên bố, và báo Daily
Worker của đảng cộng sản Anh ở Luân Đôn đã đăng tin xác nhận.
Theo các tài liệu chính xác mới được tiết lộ sau nầy, thì
Staline rất bất bình Nguyễn Ái Quốc vì ông chủ trương cuộc nổi loạn quá sớm của
cộng sản Nghệ An năm 1931, và Quảng Ngãi năm 1932, gây thất bại lớn lao cho đảng
Cộng sản Ðông Dương trong thời kỳ phôi thai.
Do đó, năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đang ở Hồng Kông được lịnh của
Staline triệu về Moscou và bí mật bị đày đến miền Ðông Sibérie. Mãi đến mùa
xuân năm 1941, Nguyễn Ái Quốc mới được Staline gọi về Moscou và được lịnh cùng
đi với Nguyễn Khánh Toàn sang gấp Yenan, nơi đây Mao Trạch Ðông giúp Nguyễn Ái
Quốc những phương tiện trở về biên giới Hoa - Việt, lập mặt trận Việt-Minh với
các phần tử cách mạng ở Trung Quốc.
Lần đầu tiên, năm 1941, xuất hiện nơi đây tên “ Hồ Chí Minh
“, vì Nguyễn Ái Quốc vẫn còn dấu bí mật lai lịch và tên tuổi thật của ông. Mãi
đến năm 1958, vài tờ báo của chính phủ Hà Nôị mới được phép chính thức đăng rõ
ràng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.
Tạp chí tranh ảnh “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa“ do Thông tấn
xã Việt cộng phát hành, số tháng 8 năm 1960, đăng ảnh Nguyễn Ái Quốc với câu đề
phía dưới “Ðồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) lúc 30 tuổi đang hoạt động ở
ngoại quốc. “
Nhưng năm 1933, Tuấn đọc báo Hà Nội và Saigon, cứ yên trí rằng
Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông. Chính một số đông lãnh tụ
cộng sản ở Hà Nội lúc bấy giờ là Võ Nguyên Giáp, Ðặng Xuân Khu (Trường Chinh),
Trần Huy Liệu, cũng đều tin chắc như vậy.
Các phong trào hội kín chỉ còn hoạt động bí mật và đa số thuộc
về thành phần trí thức, hoặc gọi là trí thức. Ở Saigon, vài đảng hoạt động công
khai theo chế độ công hòa Pháp, vì Nam kỳ là đất Pháp, người Nam kỳ là dân
Pháp. Nhưng không nên lẫn lộn : ở đây người Pháp vẫn đặt ra sự ngăn cách giữa
hai hạng người dân Nam kỳ thuộc Pháp.
Dân Pháp (Sujets francais) không được hưởng đầy đủ quyền lợi
tinh thần và vật chất như “ dân nhập tịch Pháp “ (sujets naturalisés francais).
Những người này cần phải có địa vị và thích nghi xã hội khá cao mới được chính
quyền Pháp chấp nhận ngang hàng với người Pháp như ngững công dân Pháp, cùng
theo dòng dõi của họ, được hưởng những quyền lợi ưu tiên như họ. Dĩ nhiên trước
pháp luật, họ mất hẳn quốc tịch “ An nam “. Họ không còn là người An nam nữa.
Trái lại, “dân Pháp“ (sujets francais), là tất cả những người
dân Nam kỳ, sinh trưởng trên đất Nam kỳ, được hưởng đôi chút luật lệ tự do của
Pháp - (citoyen francais) – trên nhiều phương diện, Nhưng họ không được hưởng
những quyền lợi ưu tiên đặc biệt của người nhập tịch Pháp.
Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, chỉ có một số rất ít, có thể nói là rất
hiếm, người An nam nhập tịch Pháp. Những người này cũng được hưởng quy chế công
dân Pháp (statut de citoyenneté francaise), như những người có quốc tịch Pháp ở
Nam kỳ.
Ngoài ra, tất cả người dân Trung kỳ và Bắc kỳ đều là “ thần
dân của Hoàng đế An nam – sujets de sa Majesté l’ Empereur d’ Annam, - và phải
theo chế độ bảo hộ và pháp luật Nam triêù, luật Hồng Ðức của nhà Lê và luật Gia
Long của nhà Nguyễn.
Nhưng theo danh từ thông dụng nhất,thì người Pháp gọi người
Trung kỳ là Annamites de Centre, người Bắc kỳ là Annamites de Nord hay là
Tonkinois, người Nam kỳ là Cochinchinois hay là Annamites de Cochinchine.
Hậu quả của chế độ cách biệt ấy, là những kẻ “ phạm tội “ở
Trung -Bắc kỳ đều bị xử theo luật Nam triều. Sau đây là hai thí dụ rõ rệt nhất
lấy trong trăm nghìn thí dụ.
Một người dân Trung kỳ, vừa là người trong “Hoàng tộc “ tên
là Bửu Ðình, vào Saigon viết báo đối lập chống chính phủ Bảo hộ, vào khỏang năm
1925-26-27, và bị trục xuất về Trung kỳ. Toà án Nam triêù chiếu theo luật Gia
Long xử ông 9 năm tù khổ sai, đày đi Côn lôn, và đổi họ “ Bửu “ thành ra họ “ Tạ
“. Bửu Ðình bị xóa tên trong sổ Hoàng tộc, đổi ra thành Tạ Ðình, một kẻ bạch
đinh thuộc về hàng “ bá tánh “.
Một người khác quê ở Huế, Ðồng sĩ Bình, nguyên làm Phán sự
tòa sứ Qui Nhơn, có làm một bài thơ chữ Hán dán trên mộ bia của cụ Mai Xuân Thưởng,
một nhà kháng chiến chống Pháp ở Bình Ðịnh. Bài thơ ấy có những câu hăng hái chống
Pháp, bị toà án Nam triều xử vầ tội “ tạo yêu thư, yêu ngôn “, và bị 9 năm tù
khổ sai, lưu đày đi Ban Mê Thuột. Một tội như thế nếu thủ phạm là người Nam kỳ,
dân Tây, được xử tại toà án Pháp thì chỉ bị 6 tháng tù treo là quá lắm. Có thể
được trắng án cũng nên.
Sự cách biệt của hai quy chế tư pháp là nguyên nhân do các đảng
phái chính trị được hoạt động công khai và các báo chí đối lập được xuất bản tự
do ở Saigon, và Nam kỳ, "terres francaises “, trong lúc ở Trung kỳ và Bắc
kỳ tất cả các đảng phái đều là “ hội kín “, hoạt động lén lút trong bóng tối.
Các báo đối lập cũng không được xuất bản tự do.
Tuy nhiên ở Saigon, dưới chế đô tự do của Pháp, chỉ có hai
khuynh hướng chính trị đáng kể mà thôi.
Một là đảng Lập Hiến Ðông Dương (parti constitutionnaliste
Indochinois) gồm toàn những địa chủ, điền chủ có nhiều ruộng đất ở các tỉnh Nam
kỳ, các nhà kỹ nghệ, các công chức cao cấp “ trí thức thượng lưu, đốc phủ sứ
v.v… " hầu hết là có quốc tịch Pháp. Ngoài Bùi Quang Chiêu, Kỹ sư Cầu cống
là chủ tịch, và Nguyễn Phan Long, nghị viên và nhà báo, đảng Lập Hiến còn có những
đảng viên danh tiếng như Nguyễn Phú Khai, Trương Văn Bền, Lê Quang Liêm, tự Bảy,v.v…
Tờ báo của họ là La Tribune Indigène sau đổi lại là La
Tribune Indochinois. Nguyễn Phan Long còn làm chủ nhiệm tờ L’ Echo Annamite, từ
sau năm 1945 được đổi lại là L’ Echo du Vietnam.
Chương trình hoạt động của đảng Lập Hiến chỉ nhằm mục đích bảo
vệ quyền lợi tinh thần và vật chất giới tư bản Nam kỳ.
Hai, là nhóm Cộng sản Ðệ Tam và Ðệ Tứ Quốc tế, tranh đấu cho
giới thợ thuyền.
Hai nhóm cộng sản này là đôi anh em thù địch lẫn nhau, thường
chống nhau quyết liệt trên các báo ngôn luận của họ. Họ tố cáo lẫn nhau là tay
sai của đế quốc, và trong các cuộc tranh luận Hội đồng thành phố, họ bút chiến
và đấu khẩu rất kịch liệt, gây ra không khí vô cùng sôi nổi. Giới thợ thuyền thấy
bên nào nói hay, nói khéo là họ theo.
Ngoài ra, “ Hội kín Nguyễn An Ninh “ là một phong trào tuy
cũng khuynh hướng về thợ thuyền và nông dân, nhưng có tính chất quốc gia hơn là
quốc tế. Một phong trào cách mạng địa phương mà cả Ðệ Tam lẫn Ðệ Tứ quốc tế đều
cố tìm cách khai thác và thu phục để lợi riêng cho họ. Tờ báo của Nguyễn An
Ninh là La Cloche Fêlée mà sáng lập viên là một người Pháp tên là Dejean de la
Batie, và quản lý là một người Pháp gốc Nga.
Từ khi Nguyễn An Ninh bị tù, hội kín của ông bị tan rã. Hội
kín Nguyễn An Ninh cũng như đảng Lập Hiến Ðông Dương đều hoạt động riêng biệt
trong giới hạn Nam kỳ của Pháp và hoàn toàn bị cấm ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Tất cả các hoạt động chính trị ở Saigon đều náo nhiệt hơn ở
Hà Nội và Huế, vì thủ đô Nam kỳ được hưởng chế độ tự do hơn, nhưng chỉ ở trên bề
mặt mà thôi. Như những đợt sóng xao động trên mặt biển, không có sóng thần vùng
dậy ở bể sâu.
Thỉnh thoảng có những trận bão lớn làm cho biển động, nhưng
không có “ lames de fond “. Quảng đại quần chúng không được tổ chức mạnh mẽ,
cho nên sau những ngày sôi nổi, rầm rộ, hầu như giả tạo, do một vài nhóm trí thức
tiểu tư sản gây ra mà không có sự hưởng ứng nồng nhiệt của các từng lớp nhân
dân, người ta thường thấy không khí nguội dần và tẻ ngắt.
Vì thế nên người Bắc kỳ và Trung kỳ thường phê bình người Nam
kỳ là “ lửa rơm “.
Cho đến năm 1945, thành kiến đó vẫn còn.
Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, thì là “ lửa than “, nhưng không có cơ
hội cháy bùng lên, cho nên cứ âm ỉ dưới lớp tro nóng. Phải công nhận rằng sau
năm 1945, không khí đã đổi hẳn, ở "Nam bộ “ cũng như ở “ Trung bộ “ và “ Bắc
bộ “.
CHƯƠNG 49
- Thực lực của quân đội thuộc địa Pháp chiếm đóng ba xứ Bắc
Trung Nam.
- Cuộc diễn binh ngày 14-7-1939.
- Trong lúc đó, lực lượng quân sự của người Pháp ở Ðông Dương
như thế nào ?
Lúc Tuấn còn là một cậu “ lắc léo mè dòng lô “ ở trường tỉnh,
mà “ Nhà nước Bảo Hộ “ gọi là “ Ecole Franco Indigène “ (trường Pháp - bổn xứ),
thì Tuấn thấy trong tỉnh chỉ có một đồn lính Khố Xanh, tiếng Pháp gọi là La
Garde Indigène, dịch đúng nghĩa là Lính Bổn xứ. Ðây là toàn là lính An nam đặt
dưới quyền một viên chỉ huy Pháp, L’ Inspecteur de la Garde Indigène (quan Giám
Binh). Những người lính Bổn xứ ấy cũng thường được gọi là “ les miliciens “, mà
không biết ai dịch ra thành danh từ chính thức rất vô nghĩa, là “ Lính Tập “.
Danh từ "Lính tập" lại rất thông dụng trong dân gian hơn là “ Lính Khố
Xanh “.
Nhận thấy rằng trong tỉnh chỉ có ba hạng lính, lính “ Phú lít
“ (Police, cảnh sát), lính Lệ (lính của các quan An nam), lính Khố Xanh, mà hai
hạng lính trên khỏi phải tập luyện gì cả. Tuấn nghĩ rằng có lẽ vì chỉ riêng có
lính Khố xanh của Tây khi mới vào làm lính là phải tập đi, tập bước, tập nhẩy,
tập bắn, nên người ta gọi là Lính Tập chăng ?
Tuấn đã chứng kiến việc mộ lính Khố xanh như thế nào ở Trung
Bắc Kỳ.
Thí dụ mỗi làng nhận được giấy của Phủ, Huyện gởi về truyền lịnh
phải tuyển chọn 2 người nông dân để đưa ra tỉnh làm lính Tập. Thường ông xã kiếm
hai người tình nguyện trong đám dân nghèo không có ruộng đất, nhưng khoẻ mạnh.
Sự lựa chọn không khó khắn lắm vì đám dân nghèo khá đông. Hoặc
có những gia đình khá giả nhưng đông con trai, thì một người tình nguyện ra
lính Tập, vì tính phiêu lưu, vì có tham vọng làm thầy Cai, thầy Ðội, hoặc vì một
lý do nào khác.
Có những thanh niên tuấn tú đã học giỏi chữ Nho, thuộc làu
kinh sử, nhưng vác lều chõng đi thi mấy lần đều rớt, hoặc những chàng thất vọng
vì tình duyên, hay uất hận vì gia đình, họ tình nguyện đi lính tập với tin tưởng
sẽ được nhiều an ủi. An ủi nhờ công danh, quyền uy, chức tước, tuy là làm lính
Tập cho nhà nước Bảo Hộ, nhưng vẫn được hưởng địa vị và phẩm hàm của triều đình
An nam ban cho.
Từ một chú lính trơn lên được lon Quyền (lon vàng bằng một
ngón tay), rồi lên chức :
- Cai nhì (lon vàng bằng hai ngón tay)
- Cai nhứt (lon vàng bằng hai ngón tay, kèm theo một rẻo) được
hưởng hàm Chánh cửu phẩm của Triều đình.
- Ðội Nhì (lon bạc bằng một ngón tay) được hàm Tùng Bát phẩm
của triều đình.
- Ðội Nhứt (lon bằng bằng hai ngón tay) được hàm Chánh Bát phẩm.
- Quản (hai lon bạc) được hàm Tùng Thất Phẩm.
Một người cậu của Tuấn, họ Bùi, chữ Nho khá, chữ Quốc Ngữ thạo,
con thứ mười của một gia đình Phú Nông, tình nguyện đi lính tập để lập công
danh. Hôm đầu tiên ra tỉnh, cậu mặc áo dài đen, quần vải trắng, đầu bới tóc,
đúng như con nhà Nho giáo, theo nề nếp Nho phong. Nhưng vào đồn, cậu được lãnh
bộ áo quần kaki của lính Tập, hớt tóc và bắt đầu tập bước với các tân binh khác
dưới sự huấn luyện hùng hồ oai vệ, của một thầy Cai :
- Ấc, đơ ! … Ấc, đơ ! … Ấc, đơ! …(Một, hai ! …)
- Ất-xoong…Han tờ ! (Coi chừng …đứng lại !)
- A oách ! …oách ! (quay bên phải) !
- Rơ pô (Nghỉ)
- Ga-ra-vu ! (nghiêm)
- Ăn-na-văng …mạc ! …(bước tới)
- Ấc, đơ ! Ấc, đơ ! Ấc, đơ ! …
Một năm sau, cậu lính Tập Bùi được đóng lon Quyền. Hai năm
sau được đóng lon Cai Nhì, và được gọi là thầy Cai Nhì …Rồi lên thầy Cai Nhứt
…Bị phạm tôị thiếu kỷ luật, bị xuống lon Cai Nhì. Hai năm sau mới được lên lại
lon Cai Nhứt.
Về làng, thầy Cai Bùi được “ăn trên ngồi trưóc “ và được gọi
là “ thầy Cửu “, Cửu phẩm của Triều Ðình.
Toàn tỉnh chỉ có ba bốn đồn lính Tập đóng những nơi hiểm yếu
mà thôi. Nhiều Phủ, nhiều Huyện, không có đồn lính Tập, nghĩa là không có lính,
trừ năm bảy chú lính Lệ, của Phủ, Huyện, để hầu hạ ông quan An nam. Lính này
không có tập luyện, không có súng, không có khí giới gì cả. Thỉnh thoảng chú ra
chợ, tay cầm một chiếc roi tre hay roi mây, để bắt nạt mấy chị bán hàng và mấy
anh “culi” xe kéo.
Theo lời ông ngoại của Tuấn kể lại cho Tuấn nghe, thời kỳ
Nguyễn Thân đi đánh giặc Phan Đình Phùng, ông ngoại của Tuấn lúc bấy giờ là một
nông dân vào hạng trung lưu, bị tuyển mộ vào đoàn quân của Nguyễn Thân. Ðây là
một cơ binh riêng biệt của Triều đình An nam, lính mặc áo kẹp nẹp đỏ, bên cạnh
đội Lính tập chính quy của Nhà Nước Bảo Hộ Phú Lang Sa.
Lính khố xanh của Bảo hộ bị Nghĩa quân cách mạng của Phan
Đình Phùng và Cao Thắng bắn chết khá nhiều trong nhiều trận oanh liệt.
Lúc Tuấn ra Huế, ở Huế một tháng, Tuấn thấy một đồn lính Khố
Xanh ở đường Jules Ferry (nay là đường Lê Lợi) gần trường nữ trung học Ðồng
Khánh.
Một đồn lính Tây, dân chúng gọi là lính Sơn đá (do chữ Soldat
của Pháp = lính), đóng ở Mang Cá, để đề phòng những cuộc khởi nghĩa ở Huế, hơn
là để bảo vệ Kinh đô.
Ngoài ra, trong Thành Nội, vua An nam “Ðại Nam Hoàng Ðế “ có
riêng một đội lính Khố Vàng, để hầu vua.
Dưới thời Khải Ðịnh, triều đình An nam có 6 Bộ (Lục Bộ) : Bộ
Lại, Bộ Lễ, Bộ Học, Bộ Hình, Bộ Công, Bô Binh. Nhưng các bộ ấy không có nhiệm vụ
nào thực tế, hay quan trọng. Như Bộ Công (công chánh) chỉ lo gìn giữ những con
đường trong Thành Nội cho sạch cỏ. Còn quan Thượng Thư Bộ Binh, Binh Bộ Ðại Thần,
thì chỉ huy lính Khố Vàng mà phận sự là khiêng kiệu, cầm cờ cầm quạt, che lọng
cho Vua khi Vua đi tế Trời Ðất trên Ðài Nam Giao.
Sau khi Khải Ðịnh chết (động từ dành riêng cho Vua là “ băng
hà “), viên Khâm Sứ Huế, thủ hiến của Nhà Nước Bảo Hộ, bỏ hẳn Bộ Công và Bộ
Binh.
Quan Binh Bộ Thượng Thư cuối cùng của triều Nguyễn, một cụ
già đáng kính, có chòm râu bạc phất phơ hiền lành và nho nhả, không hề biết số
lính của Triều đình là mấy chục hay mấy trăm người.
Bảo Ðại về lên ngôi, “ cải tổ nội các”, cũng bỏ luôn bộ Binh,
và đổi danh từ cho vài Bộ khác :
- Bộ Giáo dục thay vì Bộ Học.
- Bộ Tư Pháp (Hình)
- Bộ Nghi Lễ (Lễ).
Ở Hà Nội, Tuấn để ý đến đồn lính Khố Xanh (ở Bắc kỳ không gọi
là Lính Tập, chỉ gọi lính Khố Xanh), ở đường Ðồng Khánh.
Ngoài ra còn nhiều đồn lính Khố Ðỏ mà người Pháp gọi là
Tirailleurs Tonkinois ở Hà Nội, Ðáp cầu, Tống (Sơn Tây), Lạng Sơn.
Lính này theo một quy chế khác hẳn lính Khố Xanh.
Ngoài hai hạng lính Bổn xứ ấy mà cấp bực chỉ đến chức Quản
(Adjudant) là hết, và đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp cũng ở cấp bực
nhỏ, quân đội chính quy Pháp ở Ðông Dương gồm có Lục quân thuộc địa (Infanterie
Coloniale) và “ Lê Dương “ (Légion Étrangère). Binh chủng này gồm đa số là người
của các thuộc địa Phi châu của Pháp, nhiều nhất và nổi tiếng dữ nhất là người
Sénégalais (quê ở Sénégal), Marocains (quê ở Maroc), Malgaches (quê ở
Madagascar) và bọn phiêu lưu ngoại quốc Đức, Áo, Tiệp v.v…
Chính phủ thuộc địa dùng các đạo quân này để đánh dẹp các
phong trào khởi nghĩa quốc gia, hoặc các cuộc nổi loạn của cộng sản.
Về vũ khí, có thể nói là chẳng có gì đáng kể. Hầu hết là các
khí giới kiểu cũ đã dùng trong trận Thế chiến 1914-1918 còn ứ đọng lại, đem
phân phối cho lính thuộc địa ở Ðông Dương. Thông dụng nhất là loại súng
Mousquetons, được gọi là “ súng trường “, và một số ít súng liên thanh kiểu cũ.
Súng đại bác, có thể nói là rất hiếm. Một vài khẩu 75 đã xưa mà hỏa lực chỉ mạnh
hơn chút ít loại súng “ thần công “ của các vua An nam thời Tự Ðức. Xe tăn được
5, 7 cái loại 1918. Tầu bay lỗi thời kiểu Morane và Potez độ vài chục chiếc với
một động cơ, không bao giờ dám chở đi xa các vị thượng cấp, Toàn quyền, Khâm sứ,
Thống đốc, hoặc Hoàng đế, Thượng thư. Các vị này đi đâu dù là từ Saigon ra Hà Nội
cũng chỉ đi bằng xe lửa mà thôi.
Tuấn có đi xem cuộc diễn binh lớn nhất ở Hà Nội, nhân dịp lễ
Quốc khánh của Pháp, ngày 14 tháng 7 năm 1939. Lúc này chiến tranh sắp bùng nổ ở
Âu châu, do những lời hăm dọa thường xuyên của Hitler. Ở Ðông Á, Nhựt Bổn cũng
lăm le dòm ngó thuộc địa Ðông Dương của Pháp.
Có lẽ vì tình thế khẩn trương, nên chính phủ thuộc địa nhân
ngày “Quốc Khánh “
14-7-1939, muốn tổ chức một cuộc diễn binh vĩ đại, để phô trương
lực lượng quân sự của Pháp ở Hà Nội trước mắt người dân bổn xứ.
Cuộc diễn binh đặc biệt này được cử hành long trọng trên Quai
Clémenceau (đường Bờ Sông) dưới quyền chủ tọa tối cao của đại tướng Catroux.
Toàn quyền Ðông dương. Dân chúng xem rất đông, đứng chật cả bờ đê sông Hồng Hà,
theo một khoảng dài trên một kí lô mét và trên lề đường Clémenceau và đường Thống
chế Pétain.
Sau cuộc nghi lễ quân sự, cuộc diễn hành bắt đầu lúc 9 giờ.
Theo tiếng nhạc hùng tráng của đội quân Lê dương, các đơn vị binh chủng sắp hai
hàng dõng dạc qua trước khán đài danh dự. Nhưng quân số rất ít, tổng cộng cả
lính Khố Xanh, Khố Ðỏ, Lục quân thuộc địa, Lê dương, Thiếu sinh quân không quá
1000 người.
Ðội quân cơ giới không quá 5 chiếc xe thiết giáp nhỏ, và 4 xe
tăn (người Bắc gọi là tàu bò) cũ kỹ mà hai cái vừa bò ì ạch đến trước khan đài
thì bị panne, nằm chình ình giữa đại lộ. Năm chiếc tàu bay Morane một động cơ,
cánh dài hình chữ nhật, sắp thành chữ V bay chậm chậm trên trời xanh, được một
vòng rồi biến mất về phía phi trường Gia Lâm.
Xem xong cuộc diễn binh, dân chúng ra về, mỗi người phê bình
mỗi cách, nhưng tựu trung không aí có cảm giác hào hứng lắm.
Nói về hiệu quả tâm lý, thì cuộc biểu diễn của quân đội thuộc
địạ Pháp ở Hà Nội ngày 14-7-1939 là một thất bại lớn trái với dự tính của nhà cầm
quyền Pháp.
Năm giờ chiều, Tuấn trở lại đường Bờ Sông, thấy hai chiếc “
tàu bò “ hỏng máy còn nằm vạ nơi đó, do hai người lính Pháp hì hục sửa mãi chưa
xong.
Hai tháng sau, ngày 3-9 -1939, Thế giới Chiến tranh bùng nổ ở
Âu châu.
Hà Nội cũng như tất cả thành phố Ðông dương, bị đặt vào tình
trạng báo động. Dư luận tổng quát của dân chúng là biết trước rằng ở Âu châu
Pháp đánh với Ðức thì Pháp chắc sẽ thua. Ở Á Đông, nếu Pháp chống lại Nhật thì
thế nào Pháp cũng sẽ bị bẹp. Dân chúng không tin tưởng nơi lực lượng quân sự
Pháp ở thuộc địa này.
Với một lực lượng quân sự có thể gọi là yếu ớt và sơ sài như
thế, tại sao người Pháp nắm vững được thuộc địa của họ và đàn áp được tất cả
phong trào chính trị, các mưu toan khởi nghĩa của các đảng phái quốc gia ở Bắc
kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, và các cuộc nổi loạn cộng sản ở một vài địa phương Trung
kỳ và Nam kỳ?
Chúng ta tìm hiểu nguyên nhân ở chương sau.
CHƯƠNG 50
1933-34-35
- Thực lực và khuyết điểm của các đảng cách mạng Bắc Trung
Nam.
Nghiên cứu về tình hình riêng của mỗi “xứ , và tình hình
chung của toàn thể lãnh thổ Việt Nam, Tuấn nhận thấy rõ rệt sự kiện say đây, là
thiếu hẳn đoàn kết giữa các đảng phái quốc gia hoạt động cách mạng.
Tất cả các đảng phái đều tranh đấu cho những mục phiêu chung:
- Ðộc lập của Tổ quốc.
- Chủ quyền của quốc gia.
Tất cả các chương trình hoạt động của đảng phái, trừ đảng cộng
sản - đều dựa trên ba yếu tố đó làm căn bản. Ðó là nhu cầu của thực trạng một
dân tộc vong quốc từ cuối thế kỷ trước mà chưa có một vị anh hùng, chí sĩ nào
thực hiện được suốt 50 năm dưới quyền thống trị Pháp. Thay vì một đảng cách mạng
duy nhất, tổ chức trên bình diện rộng rãi có sự tham gia hăng hái và trung
thành của đại đa số nhân dân ở khắp các từng lớp xã hội, thay vì môt lực lượng
tranh đấu đoàn kết được các phần tử ái quốc của ba Kỳ, các đảng phái thành lập
dưới hình thức “hội kín“ lại thích hoạt động riêng rẽ với một số hội viên hiếm
hoi, tuyển mộ trong vòng bạn hữu, quen thuộc, chứ không lan rộng được ra quảng
đại quần chúng.
Một vài “ lãnh tụ “ làm cách mạng theo lối tài tử nhiều hơn
là chiến sĩ chân chính. Họ nói rất hùng hồn nhưng hành động không có phương
pháp thực tế.
Bậy nhất là họ có nhiều tự ái, có tác phong anh hùng cá nhân,
không chịu chấp nhận những lời phê bình đứng đắn của các đồng chí, hội viên.
Do đó mà “ Hội kín“ nào hay “Ðảng“ nào cũng chỉ sống được một
thời gian ngắn, dần dần bị các hội viên bỏ rơi, chỉ còn lại vài ba anh “lãnh tụ“ hoạt động trong phạm vi lý thuyết suông mà thôi. Sự kết hợp long trọng của một
vài đảng cũng chỉ có trong lý thuyết, vì thực tế rất trống trãi nghèo nàn.
Tuấn có đưa một vài anh bạn xem quyển “Le Réveil de l Asie“
của René Grousset, xuất bản ở Paris năm 1925.
Bạn xem xong, trả sách, Tuấn bảo:
- Nếu Việt Nam ta có một Ðảng Cách Mạng duy nhất như đảng
Swaraj (parti de Congrès) của Ấn Ðộ, và một lãnh tụ duy nhất có đầy đủ uy tín đối
với quốc nội và quốc ngoại như Mahatma Gandhi, hoặc đảng Warfd của Ai Cập, hoặc
đảng Jeunes Turcs của Thổ Nhĩ Kỳ dưới quyền lãnh đạo cương quyết và sáng suốt của
Mustapha Kemal, thì người Pháp phải kiêng nể dân tộc ta.
Nếu các “Ðảng phái“ của chúng ta hợp nhất lạị thành một đảng
duy nhất mà tầm hoạt động được lan rộng khắp 3 kỳ đặt dưới quyền lãnh đạo của một
Phan Bội Châu, hay một Nguyễn Thế Truyền, thì cách mạng Việt Nam mới có thể
tranh đấu công khai và đi đến thành công được.
Nhưng đám bạn trẻ của Tuấn và Tuấn nhận thấy tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc, và hợp nhất đảng phái quốc gia không thể nào thực hiện được,
vì óc “lãnh tụ“, “anh hùng cá nhân“ đầy lòng tự ái của mấy người anh làm “cách mạng tài tử“, là một trở ngại lớn lao không thể nào đả phá được.
Ðó là một định mệnh vô cùng tai hại cho ý chí quật cường của
dân tộc Việt Nam.
Phải đợi đến 1945, nhờ hoàn cảnh thuận tiện cả trên lãnh vực
quốc gia và quốc tế. Việt Minh (Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh) lên nắm chính quyền
mới thực hiện được cuộc tranh đấu toàn diện, trên toàn thể lãnh thổ quốc gia.
Nhưng ngay trong hệ thống tổ chức của Việt Minh, các đảng
phái quốc gia cũng không hợp nhất nhau lại thành một khối, không đoàn kết lại
thành lực lượng, để cho cộng sản lợi dụng và tiêu diệt dần dần các hình thức
cách mạng dân tộc, và các lãnh tụ quốc gia phải trốn hết qua Tàu.
Vài ba năm sau họ trở về quy thuận dưới bóng cờ Bảo Ðại.
Nhưng đó là chuyện khác.
Trở lại tình trạng chính trị của nước An nam trong những năm
1933-34-35.
Như chúng ta đã biết, lực lượng quân sự của chánh phủ thuộc địa
Pháp lúc bấy giờ ở đây rất sơ sài yếu ớt, không đáng kể. Nhưng sở dĩ người Pháp
vẫn nắm vững được tình hình, chính trị vì lực lượng chính trị và quân sự của
nhân dân Việt Nam là con số không.
Trở về những năm 1933-34-35, có thể nói rằng không có hoạt động
chính trị nào đáng kể từ Bắc đến Nam, và dân tộc Việt Nam sống rất “yên ổn“.
Sau những đêm máu lửa hãi hùng ở Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên (Bắc kỳ) năm 1930 của VNQDÐ, và ở Hóc Môn, Cai Lậy (Nam kỳ), Quảng Ngãi, Nghệ An, Hà Tỉnh (Trung
kỳ) năm 1932-33 của cộng sản, toàn cõi Ðông Dương sống trở lại phong cảnh thanh
bình mà thực dân hãnh diện gọi là “La paix francaise“ (thái bình của Pháp ban
cho).
Tuy nhiên dân chúng vẫn không quên được vài hình ảnh ghê tởm
nhất của những năm tao loạn vừa qua. Như việc dân chúng Nam kỳ đồn rằng Ðốc Phủ
Tâm ở Cai Lậy mỗi khi bắt được các dân biểu tình Cộng sản, thì ông sai lính lấy
sắt nhọn nung lửa cho thật đỏ, dùi thành lổ giữa những bàn tay của phiến loạn,
rồi lấy giây kẽm xỏ vào, cột thành từng chùm bốn năm người, chở ghe ra xô trọn
xuống sông.
Như chuyện lính Lê dương đốt nhà và hiếp dâm các thôn nữ ở Quảng
Ngãi, Nghệ An, như chuyện viên Toàn quyền René Robin cho hai chiếc phi cơ đến
ném bom xuống làng Cổ Am ở Bắc kỳ, giết chết toàn dân lành, ông già bà cả, trẻ
con để trả thù cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ.
Ngoài mấy chuyện rùng tợn dã man như thế mà dân chúng truyền
khẩu cho nhau, cuộc sống hàng ngày rất là yên tỉnh, không có biến cố nào xao động
nữa.
Hội chợ Hà Nội được tổ chức ba năm một lần, tại Khu Hội Chợ rộng
rãi, huy hoàng với sự tham dự đông đảo của các tỉnh Trung, Bắc kỳ và ba xứ Nam
kỳ, Ai Lao, Cao Mên.
Có cả gian hàng trưng bày rất Mỹ thuật, đầy đủ hàng hoá của
các nước láng giềng: Nhật, Xiêm (Thái Lan), Trung Hoa, và nhất là các hãng kỹ
nghệ lớn của Pháp. Ðây là một dịp để cho các từng lớp thanh niên thiếu nữ chưng
diện bảnh bao, nô đùa nhởn nhơ suốt một tháng, đêm nào cũng đông nghẹt. Họ ném
lẩn nhau lên tóc những nắm confettis (hoa giấy), quấn vào nhau những giây
serpentines, tặng cho nhau những que kem 1 xu của hãng kem Bờ Hồ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét