Hình ảnh mùa thu trong hồn thơ dân tộc
Trong bốn mùa của thiên nhiên
trời đất, mùa thu có lẽ dễ đem đến cho lòng người nhiều cảm xúc vấn vương, bâng
khuâng nhất. Cái se lạnh, hanh hao đầu mùa, những chuyển động tinh tế của thiên
nhiên qua từng ngọn cây, kẽ lá; màu vàng óng của nắng, của lá vàng mùa thay lá…
Tất cả đã mang lại nguồn cảm hứng vô tận để các văn nghệ sĩ thốt lên tiếng lòng
trước vẻ đẹp diễm kiều của thiên nhiên.
Biết bao bài thơ, nốt nhạc của những tác giả đã thêu dệt nên
những bức tranh thu đẹp, song động cho đời. Tuy nhiên, qua mỗi chặng đường lịch
sử, bức tranh của đất nước, mùa thu lại được tô vẽ thêm những sắc màu mới lạ với
những cung bậc cảm xúc phong phú, nói lên nỗi niềm của thi nhân trước thiên
nhiên, vạn vật và lòng người. Nói đến hình ảnh mùa thu trong thi ca Việt Nam,
chúng ta có thẻ hình dung ra hai chặng đường sáng tác của các nhà thơ, đó là
màu thu trước và màu thu sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, khi cả dân tộc còn chìm
trong cảnh lầm than, nô lệ, nước mất nhà tan. Vì vậy, bao trùm lên các bài thơ
thu trong thời gian này là tâm trạng của người dân mất nước, sầu tư.
Thi sĩ Tản Đà miên man, cảm thu với một nỗi ngậm ngùi, buồn
bã, chán nãn thế sự nên có tư tưởng thoát ly thực tại:
“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nữa rồi
Cung quế có ai ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trong xuống thế gian cười”
(Muốn làm thằng cuội)
Những biến đổi, mai một của cuộc đời khiến Tản Đà đeo mang
trong lòng nỗi buồn man mác mỗi độ thu về. Người buồn nên nhìn cảnh vật
đâu đâu cũng buồn, cũng nhuốm màu thê lương. Trời thu ảm đạm, lòng ngổn ngang
trăm mối muộn phiền.
Còn dưới con mắt của thi sĩ Huy Cận, mùa thu đến thật chậm rải,
nhẹ nhàng như chưa hề đến. Chỉ một cơn gió thoảng, chỉ một đám mây trôi, một buổi
chiều lá rụng, với nắng vàng hiu hắt cũng đủ gieo vào lòng nhà thơ nỗi buồn tê
tái, não nề:
“Sắc trời trôi dạt dưới khe
Chim bay, lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu thu lên vút, song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buổi chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia”
(Thu rừng)
Nhà thơ xuân Diệu rung cảm trước vẻ đẹp của mùa thu bằng cái
nhìn tinh tế, giàu chất Tây nhưng đượm buồn, chia ly, tang tóc, có vẻ mềm yêu,
cô đơn, hoang tái:
“Rặng liễu dìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”;
“Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?”
(Đây mùa thu tới)
Bằng những cảm hứng lãng mạn, các nhà thơ mới đã vẽ lên những
bức tranh thu thật đẹp, đầy màu sắc. Tuy nhiên, mùa thu trong thơ của các thi
nhân thật buồn. Nỗi buồn bàng bạc, u hoài, nỗi buồn của người dân sống trong cảnh
lầm than, mất nước, mất tự do. Nỗi buồn ấy qua cái nhìn nhuốm màu đau thương,
chán nản nên khi thổi vào thơ càng thêm não nề, xót xa hơn.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa ra đời, “giọt mưa thu” buồn của người dân nô lệ được làm chủ cuộc đời, được
thay bằng “Mùa thu nay đã khác rồi” , đó là mùa thu của cách mạng. Bước
ngoặt lịch sử của đất nước, của dân tộc đã tạo cảm hứng mới mẻ cho các nhà thơ.
Trong niềm hân hoan, đầy tự hào, phơi phới, Xuân Diệu đã viết
nên những dòng thơ đầy hào sảng, cháy bỏng:
“Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng/
Những ngực nén hít thở ngày độc lập
Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp
Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca
Bốn nghìn năm trông mặt mẹ không già”
(Ngọn quốc kỳ)
Với Tố Hữu, lá cờ đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam, cách
mạng tháng Tám là luồng gió tươi mới thay đổi lớn lao vận mệnh dân tộc. Ông viết
về ngày vui của cả nước, của nhân dân bằng những vần thơ hào hứng, sôi nổi, yêu
đời, ngất ngây:
“Thơ ta ơi! Hãy cất cao tiếng hát
Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta
Mùa thu đó, đã bắt đầu trái ngọt
Và bắt đầu nở rộ những vườn hoa”
(Mùa thu mới)
Một vẻ đẹp hồi sinh trỗi dậy. Không tươi vui, không náo nức
sao được khi mà từ đây, từ mùa thu cách mạng tháng Tám, mỗi ngọn cỏ dòng sông,
mỗi câu hò, điệu hát, mỗi bước chân ta đi thênh thang trên dải đất hình chữ S
này đã là của ta, do ta làm chủ:
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi).
Của ta đó những cánh đồng thơm ngát, cả những dòng sông đỏ nặng
phù sa. Những cái mà cách đây không lâu nó vốn là của ta mà đâu phải của ta:
Thu nay có gì đó thật quyến rũ, lôi cuốn lạ thường. Con người
giờ đây đứng trước mùa thu nghe âm thanh véo von của cuộc sống, lòng ngập tràn
niềm tự hào, hoan hỉ. Không còn cái buồn lẽ loi, không còn cái “run rẩy”, cái
“đìu hiu”, cái “xao xác hơi may”. Mùa thu giờ đây được khoác lên màu áo mới.
Thiên nhiên dường như cũng biết “nói cười”. Nguồn vui nối tiếp nguồn vui được
thể hiện trong từng lời thơ, câu chữ. Mà đó đâu chỉ là niềm vui của riêng thi
sĩ, đó còn là niềm vui vô bờ bến của dân tộc, của nhân dân ta sau ngày cách mạng
tháng Tám thành công. Thời gian trôi nhanh qua hơn nửa thế kỷ, nhưng cảm hứng về
mùa thu cách mạng, mùa thu hòa bình vẫn luôn được thế hệ các nhà thơ tiếp tục
khai thác, làm nên những tác phẩm có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc.
Giữa tiết trời mùa thu len nhè nhẹ, đọc lại những tuyệt phẩm
thơ mùa thu, ngắm nhìn đất nước thân yêu trong sắc thắm trời xanh, từ đồng ruộng,
nhà máy, sông biển, núi đồi, chúng ta càng thêm thấm thía những thành quả lớn
lao mà cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mang lại. Ôi. mùa thu, mùa của những
kỷ niệm, hồi ức không quên, mùa no ấm đang về.
28 Tháng Năm, 2020
Trần Thanh Xem
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét