Phạm Quỳnh trong dòng chảy
văn hóa dân tộc
LỜI MỞ SÁCH
Người từ lánh gót vườn hoa
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
Nhân duyên đâu nữa mà mong
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thời thôi…
Bốn câu thơ trong truyện Kiều trên đây, có thể nhiều
người đã biết. Đọc nghe xót xa ngậm ngùi thân phận nàng Kiều tài hoa bạc phận,
lênh đênh chìm nổi, hết lòng vì người yêu, để rồi bị Hoạn Thư dùng đòn ghen dập
vùi, tách nàng với Thúc Sinh. Nhưng có lẽ ít ai biết đó là những câu thơ nằm
trong bài "Cô Kiều với tôi” trong tập di cảo “Kiến văn cảm tưởng - Hoa Đường
tùy bút I” của Phạm Quỳnh viết trong những ngày ở ẩn tại biệt thự Hoa Đường - Huế.
Đó là một ngày tháng Tám năm 1945, cách đây vừa tròn 65 năm,
Phạm Thị Ngoạn con gái thứ sáu của ông đã tìm thấy trên bàn làm việc của cha tập
bản thảo viết trên cuốn vở học trò dầy gần năm chục trang. Sau bao nhiêu năm nằm
trong im lặng, trải qua những biến cố của gia đình, mới đây Phạm Thị
Ngoạn (tiến sĩ văn chương Đại học Sorbonne Paris Pháp) đã công bố di cảo này. Từ
di cảo, người đời hiểu thêm nỗi niềm thế sự của Phạm Quỳnh.
Mồ côi cả cha mẹ từ thuở ấu thơ, Phạm Quỳnh học giỏi, đi làm
công chức từ tuổi 16. Ông làm báo rồi làm quan, đến bậc đại thần triều Nguyễn…
Đương thời ông được coi là nhà văn hoá lớn có tài năng Hán Học,
Pháp văn và trân trọng tiếng Việt, “một người có cái học vừa sâu sắc vừa quảng
bác” - Vũ Ngọc Phan.
Ông tiên phong trong quảng bá chữ quốc ngữ và dùng tiếng Việt,
thay chữ nho và chữ Pháp để viết lý luận, nghiên cứu. Ông biết tiếp thu những
cái tốt đẹp của báo chí phương tây, báo chí Trung Hoa nhưng vẫn giữ được cốt
cách văn chương dân tộc. Ông là người chiến đấu không khoan nhượng cho chủ quyền
độc lập tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của triều đình Huế
trên phạm vi cả nước; chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ nghĩa quốc
gia với thuyết quân chủ lập hiến.
Ông
từng viết: “Dân tộc Việt Nam không thể là một thứ giấy trắng. Chúng tôi là quyển
sách dầy đầy chữ viết băng thứ mực không phai, từ mấy mươi thế kỷ nay. Quyển
sách ấy có thể đóng theo kiểu mới, cho phù hợp thời trang, nhưng không thể mang
một thứ chữ ngoài in lên dòng chữ cũ. Vấn đề là làm thế nào để tiếp nhận học
thuật cao thượng mà không bị mất giống, không còn quốc tính, biến thành một dân
tộc vô hồn.”
Cùng với thấm nhuần giá trị văn hoá Việt Nam, tôn vinh ngôn
ngữ nước nhà, ông rất coi trọng truyện Kiều và coi là quốc bảo: “Truyện Kiều là
cái văn tự của giống Việt Nam ta đã “trước bạ” với non sông dân tộc. Thế kỷ mới
rồi mới có một “đấng quốc sĩ”vì nòi giống, vì đồng bào, vì tổ tiên, vì hậu thế
rỏ máu làm mực viết trên một thiên văn khê tuyệt bút, khiến cho giống An Nam được
đích đáng làm chủ cõi sơn hà gấm vóc. Quốc sĩ ấy là Nguyễn Du, thiên văn tuyệt
bút ấy là Truyện Kiều, nó kết tinh từ giọt máu, giọt lệ mà ra…”.
Và: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước
ta còn".
Thế nhưng Phạm Quỳnh cuộc đời đầy sóng gió và chịu nhiều búa
rìu dư luận, nghiệt ngã. Những cuộc tranh luận, phẩm bình về ông rất trái ngược
nhau như hai mảng tối sáng trong một bức tranh thuỷ mặc.
Có người gọi ông là tên tay sai phản động, ôm chân
Pháp. Có người khen ông là nhà báo có hạng, văn sĩ tài danh. Ngay từ năm 1933,
nghĩa là chỉ sau một năm ông thôi chèo lái con thuyền tạp chí Nam Phong,
thì trong cuốn “Phê bình và cảo luận”, Thiếu Sơn đã ghi công cho Phạm Quỳnh:
”Những công trình về văn học, triết học của Âu châu và nhất là của nước Pháp,
ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng thật hay, vừa biết tôn
trọng cái nguyên ý của tác giả, lại vừa lựa theo cái giọng điệu của quốc
văn...”.
Con người tài hoa mà chịu nhiều oan nghiệt ấy, chứa
trong mình khối mâu thuẫn, ẩn chứa bao nhiêu nỗi niềm trăn trở trước thời đại
và đất nước, dân tộc và gia đình, trước tình riêng và nỗi chung…
Nghiên cứu về ông trước nay đã có nhiều tác giả và tác phẩm,
và quả là một việc khó khăn.
Với tấm lòng trân trọng một học giả uyên thâm nhiêu lĩnh vực,
lại được bạn bè khích lệ, chúng tôi viết cuốn sách này để góp thêm thông tin về
một danh nhân văn hoá, nguồn cội từ mảnh đất xứ Đông văn hiến anh
hùng.
Cuốn sách không kỳ vọng đi sâu phẩm bình sự nghiệp
trước tác của Phạm Quỳnh, chỉ chắp nối các sự kiện của cuộc đời ông, giới thiệu
về mảnh đất quê hương, gia đình, dòng họ. Từ đó mong muốn góp thêm tiếng nói để
bạn đọc phần nào hiểu thêm quá trình hình thành phẩm giá tính cách con người
ông. Cũng từ đó, sau này bước vào đời, ông có thêm sức mạnh tinh thần
vượt qua mọi gian nan khắc nghiệt đường đời.
Trong sách, chúng tôi có sử dụng tài liệu của Giáo sư Văn Tạo,
nguyên Viện trưởng Viện sử học, bài viết của tác giả Sông Hương, và Hương Giang
và một số ảnh tư liệu gia đình Phạm Quỳnh. Chúng tôi thu lượm được một số tư
liệu trong những lần đi điền dã về quê hương của ông (Hoa Đường, Lương Ngọc,
Bình Giang, Hải Dương) của bà Phạm Quỳnh (làng Nhân Vực, xã Nghĩa Trụ, Văn Lâm,
Hưng Yên). Ngoài ra còn nghe những chuyện kể đây đó của những người từng biết
chuyện gia đình Phạm Quỳnh, và những lần chuyện trò với nhạc sĩ Phạm Tuyên -
con trai Phạm Quỳnh, được cung cấp nhiều tư liệu quý. Ngoài ra, khi cần thiết
chúng tôi có tham khảo một số tài liệu các tác giả ở nước ngoài...
Mặc dầu vậy, chắc chắn cuốn sách này vẫn không tránh khỏi
thiếu sót. Mong rằng sẽ được bạn đọc lượng tình và chỉ giáo, để bổ
sung sửa chữa, có dịp tái bản lần sau phục vụ bạn đọc tốt hơn.
Vẫn nghe câu: bể học không cùng, sức người hữu hạn.
Khúc Hà Linh
Chương I. Hoa Đường - đất cố hương
Hiệu
là Thượng Chi, bút danh Hoa Đường, Hồng Nhân, Phạm Quỳnh sinh ngày 17 tháng 12
năm 1892, mất ngày 6 tháng 9 năm 1945. Tuy sinh ra trên đất Hà Thành, nhưng quê
quán ông lại là làng Lương Ngọc, nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh
Hải Dương, một làng nổi tiếng khoa bảng, có truyền thống hiếu học.
9 tháng tuổi tang mẹ, 9 tuổi tang cha, Phạm Quỳnh côi
cút được bà nội nuôi ăn học. Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đậu thủ khoa Trường
Thông ngôn, 16 tuổi đã đi làm ở Trường Viễn Đông bác cổ - Hà Nội.
Làm việc được 8 năm, tham gia viết báo cho một số tờ có uy
tín đương thời, tháng 7 năm 1917 Phạm Quỳnh đứng ra làm chủ bút tạp chí Nam
Phong. Hai năm sau (ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng
thư ký Hội khai trí tiến đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội.
Với tư cách là hiệp hội tư lập, Hội nhằm giao lưu văn hóa truyền thống Việt Nam
với văn hoá phương Tây. Hội có trụ sở ở phố Hàng Trống. Tại đây có diễn thuyết,
triển lãm tranh, hội thảo… và trao giải thưởng văn học, tổ chức truy
niệm các danh nhân…
Năm 1922, với tư cách đại diện Hội Khai trí tiến đức, Phạm Quỳnh
sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa tại Marseille. Ông đã từng lên Paris ba
tháng và đăng đàn diễn thuyết nhiều lần, gây tiếng vang trong giới học giả ở
Pháp, kể cả trước Ban luận lý chính trị Viện hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.
Trở về nước, năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác
ngữ học, Văn học, Ngữ ngôn Hoa Việt ở Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo
France-Indochine.
Những năm 1925-1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội trí
tri Bắc Kỳ; năm 1926 ông là nhân viên Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được
cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương. Năm 1930 Phạm Qùynh đề xướng
thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ
ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt nam và chính quyền bảo
hộ. Năm 1931 ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội địa dư Hà Nội, sang năm sau
1932 giữ chức Tổng thư ký Uỷ ban cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
Khi Pháp đưa Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ngày 11
tháng 11 năm 1932 Phạm Quỳnh được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham
chính. Ông trở thành vị quan đại thần dưới thời vua Bảo Đại.
Ban đầu ông giữ chức Ngự tiền Văn phòng, Thượng thư Bộ
Học, rồi Thượng thư Bộ Lại (1944-1945). Phạm Quỳnh đã cùng với Bảo Đại sang
Pháp xin Pháp trả lại Bắc Kỳ cho triều đình Huế theo Hiệp định 1884 nhưng không
thành. Ngày mổng 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, ông từ nhiệm về ẩn dật
ở biệt thự Hoa Đường bên sông đào Phủ Cam, Huế. Tổng khởi nghĩa tháng Tám nổ
ra, ông bị bắt ở Huế ngày 23 tháng 8 năm 1945 rồi ít ngày sau qua đời
ở làng Hiền Sĩ, tỉnh Thừa Thiên.
* Từ Hoa Đường - Huế đến Hoa Đường - Xứ Đông
Những người sống ở Huế trước năm 1945 vẫn còn nhớ bên
sông An Cựu có ngôi biệt thự gắn chữ Hoa Đường. Đây là nơi ở cuối cùng
của Phạm Quỳnh, từng là chủ bút báo Nam Phong, là Ngự tiền văn phòng
rồi Thượng thư bộ Lại dưới triều vua Bảo Đại. Từ đây ông đi vào cõi
vĩnh hằng để lại cho gia đình, bè bạn và hậu thế.đằng sau bao điều
uẩn khúc
Cách Huế khoảng tám trăm cây số về phương Bắc, tại
huyện Bình Giang thuộc xứ Đông xưa, cũng có một làng cổ Hoa Đường..Kỳ
thay, đây chính là cố hương của Phạm Quỳnh.
Từ Quốc lộ số 5, rẽ vào thị trấn Kẻ Sặt, rồi từ tỉnh
lộ số 38 đi đến ngã ba Cống Tranh thì quặt trái vào một con đường nhỏ, ven theo
một dòng sông uốn lượn mềm mại tựa như một đoạn chỉ màu xanh trải ra trước mặt
khách. Hai mép bờ sông bập bềnh nhiều đám bèo tây mà người dân quê gọi là lục
bình. Tuy đường rải bê tông, có bóng dáng của nhịp sống công nghiệp, hiện đại
hoá nông thôn, nhưng vẻ mộc mạc, bình dị của một làng quê Việt Nam vẫn
còn như căn bản. Ấy là khi làm đường, người ta không nắn uốn, cứ mặc nhiên theo
dấu vết đường làng cũ từ những thế kỷ trước. Vì thế, con đường vào
làng cứ chập chờn, uốn lượn, chênh vênh tựa như chiếc dải yếm cô con gái bay
theo chiều gió nội đồng. Lại một ngôi đền hoang vắng nằm sát con đường, như một
dấu chấm trên trang vở. Đó là đền thờ Huyền Du Phạm Sĩ, một danh tướng được
phong làm Hải Dương đạo Tiết chế bình Nguyên Thượng tướng quân. Khi ông qua đời
được vua Trần Nhân Tông cho trích công quỹ ba nghìn quan tiền để xây
dựng đình thờ gọi là “Sĩ công đại vương từ”, mà người ta truyền rằng đấy chính
là thầy dạy của anh hùng Phạm Ngũ Lão thời Trần. Một cụ già chắc là thủ từ đang
phơi mấy quyển sách bị mưa ướt. Mái tóc cụ phất phơ bay trong ngọn gió từ ngoài
sông thốc vào, càng tăng thêm vẻ không gian cổ kính ngôi đền.
Hỏi ra đây là đất Châu Khê, trước khi vào làng văn hoá Lương
Ngọc, một trong 7 thôn của xã Thúc Kháng: Tranh trong, Tranh ngoài, Châu Khê,
Ngọc Cục, Ngọc Tân, Tào Khê và Lương Ngọc, thuộc huyện Bình Giang, xứ Đông xưa,
nay là tỉnh Hải Dương -Lương Ngọc có cánh đồng rộng. Vào mùa lúa chín, cánh đồng
phẳng như một tấm sân phơi khổng lồ, choàng lên những tấm khăn tằm tơ óng vàng,
xen kẽ những ô màu lá gừng hoặc những ô xanh biếc.
Gọi Lương Ngọc là gọi tên mới. Xa xưa đất ấy có tên Hoa Đường.
Chữ Hoa
( ) có
nghĩa là đẹp, tinh hoa chứ không phải nụ hoa. Tháng 3 năm 1841 Hoa Đường phải đổi
là Lương Đường, vì kỵ huý một trong 43 bà vợ vua Minh Mạng là Hồ Thị Hoa, người
sinh ra vua Thiệu Trị, nối ngôi tháng 1 năm 1841. Cứ tưởng chỉ con người mới
long đong lận đận, thay tên đổi họ. Ai ngờ đất Lương Đường cũng không được yên
thân. Gần 5 năm sau, nghĩa là từ tháng 12 năm 1885, Lương Đường lại một lần phải
đổi thành Lương Ngọc, vì phạm vào tên của vua Đồng Khánh huý là Ưng Đường! Bởi
thế khi đọc sách báo, người ta thấy vẫn chỉ một làng, nhưng lại có ba tên gọi
khác nhau: Hoa Đường, Lương Đường, Lương Ngọc.
* Phong thổ: Hoa Đường
Làng Hoa Đường hình thành bao giờ không thấy sách nào ghi
chép. Trong Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ (1768- 1839) danh sĩ làng Đan
Loan quê phủ Bình Giang, có viết: “Còn như làng Hoa Đường, nguyên trước là thôn
Bông, thuộc xã Ngọc Cục sau Lê trung hưng mới phân ra làm xã riêng...”.
Theo Vũ Thế Khôi (trong Vũ Tông Phan với văn hoá Thăng Long-
Hà Nội) thì thôn Bông tách khỏi Ngọc Cục, lập xã riêng và tên Hoa Đường chắc chắn
có từ đầu nhà Mạc, cụ thể là từ trước năm 1537. Còn nhớ, năm 1527 khi Mạc Đăng
Dung vừa lên ngôi, muốn xây dựng căn cứ địa chống Lê - Trịnh, đã đặt Hải Dương
làm Dương Kinh. Nhà Mạc có ý bành trướng thế lực của mình đã cắt phủ
Thuận An của Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình của
Sơn Nam cho thuộc về Dương Kinh. Nhân cơ hội ấy cho phân định lại địa giới các
phủ, huyện, xã trong phạm vị Dương Kinh và lập nên những đơn vị hành chính mới.
Trong quyển Phả họ Vũ, cũng viết: “Đến khoảng đời Trần, đất
Ngọc Cục trở nên thịnh vượng, dân cư chen chúc… Sau hồi quân Mông Cổ xâm lăng đất
nước, có một nhóm người họ Vũ, và họ Phạm rời khỏi luỹ tre làng tới sinh cơ lập
nghiệp trên một khoảng gò đống, phá đất hoang để làm ruộng nương. Chỉ trong một
thời gian mà ở đó mọc lên một thôn trang có vườn, giàn hoa cây cảnh
trông có vẻ an cư lạc nghiệp. Do cảnh vật mà thành tên, người trong vùng liền đặt
tên là thôn Bông”.
Khi đã trở thành đơn vị hành chính độc lập, thì làng phải đổi
tên nôm thành tên chữ để giao dịch cho chính xác. Bởi thế mà thôn Bông được gọi Hoa
Đường.
Xem ra đất Hoa Đường có từ đầu nhà Mạc, được khai phá
và có người đến cư trú sinh sống từ thời Trần (thế kỷ XIII-XIV)
nhưng phải đến đời Lê sơ (thế kỷ 15) thôn Bông cùng xã Ngọc Cục cũng như lân cận
xã Mộ Trạch mới thực sự phát triển trù phú về vật chất và văn hóa…
Nằm ở phía tây phủ Bình Giang và khu cực tây tỉnh
Hải Dương, Hoa Đường phía bắc giáp Kẻ Sặt và làng Châu Khê; đông và nam giáp
các làng Mộ Trạch, Hoạch Trạch và Ngọc Cục; ranh giới phía tây là con sông
Nghĩa Giang, gọi là sông Cửu An, ngăn cách Hoa Đường với làng Phù Ủng.
Mấy trăm năm trước, nó còn là con cừ nhỏ, có những cầu tre vắt
ngang, nơi chàng trai Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt, mải mê suy nghĩ về thế sự, về
hiểm hoạ quân giặc Mông Nguyên kéo vào Đại Việt…đến nỗi quân lính của Quốc công
Tiết chế Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn chọc giáo vào đùi không
hay biết. Người Hoa Đường vẫn còn truyền tụng câu chuyện tiền nhân kể lại:
Chính con cừ này là con đường thám báo từ Đại bản doanh Kiếp Bạc, Chí Linh qua
Hoa Đường, Phù Ủng về tận kinh đô Thăng Long trong thời Trần đánh
quân giặc Mông Nguyên.
Hoa Đường là vùng đất cổ nên còn tiềm ẩn nhiều dấu vết. Qua
những tấm bia khắc bằng chữ Hán đặt rải rác trong làng, người đời sau biết
được một phần về cuộc đời cụ cống Phạm Hội(Anh Sơn giáo thụ Dưỡng Am), về cụ tú
tài Phạm Hữu Điển, thân phụ Phạm Quỳnh. Ở đây còn ngôi đình thờ
thành hoàng là tiến sĩ Tam giáp Vũ Thiệu, người thôn Bông- Hoa Đường với những
chuyện lưu truyền. Vũ Thiệu là vị khai khoa cho bản xã, đỗ khoa Quý Sửu 1493 đời
Lê Thánh Tông. Sách Đại Nam thần lục có ghi rõ việc này”Trung đẳng thần Chí Đức
Ngọ Lang Vũ. Thần họ Vũ, lấy hiệu là Ngọ Lang cư sĩ, đỗ tiến sĩ khoa 1493 triều
Lê, làm quan đến Giám sát ngự sử. Khi nhà Mạc cướp ngôi vua, ông không muốn làm
tôi nhà Mạc, bèn về ở ẩn nơi ruộng vườn. Về sau Mạc triệu ra, ông nhảy xuống
sông tự tử. Lâu năm tích tụ thành linh thiêng, dân Hoa Đường lập đền thờ
cúng”.
Thì ra thành hoàng làng Hoa Đường là một người có công mở
mang thôn xóm, lại là một kẻ sĩ “uy vũ bất năng khuất” thà chết để giữ trọn khí
tiết. Thần hiệu của ngài là CHÍ ĐỨC - giữ đức hạnh đến cùng, thần miếu là TIẾT
NGHĨA - chết vì nghĩa lớn.
Hoa Đường còn có 3 ngôi chùa cổ. Một làng có tới ba ngôi chùa
cũng là hiếm. Nhưng đến nay chỉ có một
chùa Sùng Nghiêm vẫn còn, mới được tôn tạo khoảng đầu thế kỷ 20. Từ
tấm bia Sùng Nghiêm tự lập năm 1702 nhân dịp trùng tu ngôi chùa cũ, mới ước lượng
rằng ngôi chùa xưa đã xuất hiện từ nửa sau thế kỷ 17. Khoảng hơn chục
năm nay, thôn Lương Ngọc đã dựng nhà văn hoá trên nền trường Tổng sư xưa, do
thượng thư Phạm Quỳnh cho đặt ở nguyên quán mình.
Hoa Đường có ngôi đình ở bìa làng, xanh rợp bóng cây
và thơm ngát ao sen. Nhưng qua chuyện kể của ông Chủ tịch xã Vũ Đình
Năng lại càng cảm động, bởi vì làng Hoa Đường xưa, còn có một
ngôi đình vọng, cách đây gần sáu mươi cây số.
Ở Hoa Đường không biết từ bao giờ lưu truyền một câu chuyện nửa
hư nửa thực. Một lần thầy địa lý Tả Ao đi qua Hoa Đường, khen đình làng đẹp,
nhưng chẳng biết vì đâu mang xây ngoài luỹ tre, mới phán rằng”Đất này đãi ngoại,
ai ra khỏi làng làm ăn mới phát”. Chẳng biết thật giả ra sao, nhưng bao đời
người dân Hoa Đường đã tiếp nối nhau ra khỏi làng để lập thân lập nghiệp. Từ
trấn Sơn Tây, xứ Kinh Bắc, rồi đến Hà Thành... đều có mặt người Hoa
Đường. Nhưng đông nhất vẫn là ở Thăng Long đô hội. “Dân đâu thần thánh đó”.
Thành ra ở Hà Nội có hẳn một “Lương Ngọc xã thuộc Hà”có đến ba nghìn nhân khẩu.
Đình vọng Lương Ngọc ở số nhà 68A phố Hàng Bông, Hà Nội. Các
thế hệ người dân Lương Ngọc xa quê đã cùng nhau góp công sức lập nên đình này để
thờ cúng thành hoàng, khi mà từ thời Tự Đức giặc giã liên miên, binh đao khói lửa,
đường đi cách trở, không thể về làng thờ phụng được. Đình vọng này là khu đất
gia cư, được mua lại vào tháng 5 năm Thành Thái thứ 2(1890) có bề ngang 16 thước,
bề dài như trong địa đồ. Hai năm sau, tức tháng 5 năm 1892 niên hiệu
Thành Thái 4 đình được dựng lên. Trên tường ngôi đình có gắn tấm bia kể rõ lịch
sử tân tạo. Có điều lệ trông coi, thờ cúng khá tỷ mỷ rành mạch. Thế là từ đấy cứ
xuân thu nhị kỳ, từ quan đến dân, các sĩ tử, các vị chức sắc sinh sống
ở Hà thành tới đây thờ vọng. Việc cúng tế phải tiến hành theo nghi
thức đúng như ở đình nơi nguyên quán.
Cái đình ấy trở thành sở hữu của đồng hương Lương Ngọc, là một
di tích lịch sử, là nơi thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người dân Lương
Ngọc tha hương. Thế rồi chẳng hiểu từ đâu, vào cuối năm 1969 đầu năm 1970, mảnh
đất thiêng ấy đã bị nhượng lại cho một hợp tác xã, để họ phá đi làm chỗ kinh
doanh!?. Rồi HTX nọ lại sang tên cho một tư nhân khác vào năm 1990-1991. Điều
khổ tâm nhất là toàn bộ đồ thờ tự thiêng liêng trong đình không cánh mà bay đi
hết. Con cháu làng Hoa Đường - Hà Nội bàng hoàng lo lắng,
cùng với địa phương bản xã Lương Ngọc vất vả ba năm trời (1993-1996), bằng mọi
cách mới chuộc được các đồ thờ tự, gồm Ngai vị bản ấp thành hoàng Chí Đức Ngọ
Lang đại vương, thần vị Lịch triều Tiến sĩ Lập Trai tiên sinh, quả chuông đồng
đúc từ năm Thành Thái (1891) và vài đồ bát bửu bằng đồng còn sót lại.
Cũng may người mua lại đình cũng có tâm, họ đã đem đồ thờ cúng này
vào Đền Bạch Mã gửi, nên mới còn. Tết Đoan Ngọ năm Bính Tý 1996 Ban liên lạc đồng
hương Lương Ngọc - Hà Nội đã tạm mang đồ thờ về để nơi quê gốc.
Hoa Đương là đất văn chương, chữ nghĩa. Vũ Thiệu là người
khai khoa như đã nói phần trên. Trong làng trước sau có 12 vị đỗ tiến sĩ. Trong
đó 4 hoàng giáp, 8 tiến sĩ văn và võ. Nếu tính cả các cử nhân, thì Hoa Đường có
thời kỳ trong khoảng hai trăm năm, trung bình cứ 5-6 năm lại có một đám khao vọng
và vinh quy bái tổ. Năm Kỷ Hợi 1779 Hoa Đường phát cả đường văn (Tiến sĩ Phạm
Quý Thich), cả đường võ (Tạo sĩ Vũ Tá Cảnh). Điều lạ là tuy Mộ Trạch
khai khoa sớm trước chín mươi năm(khai khoa cho làng là 2 người họ Vũ đậu hoàng
giáp năm 1304), nhưng từ sau năm 1754 thì cạn kiệt mạch đại khoa. Còn Hoa Đường
dẫu mở khoa muộn hơn, mà nối dài như nguồn nước sông Cửu An, cứ đều đặn tuôn ra
cho đến tận năm 1901. Vì thế những năm ấy hình ảnh Hoa Đường trong
thi cử sáng ngời lên rực rỡ khiến cho Mộ Trạch bị nhạt mờ…
Sự nghiệp khoa bảng của Hoa Đường bước sang thế kỷ XVIII
thăng hoa không phải ngẫu nhiên. Một phần do ảnh hưởng của phong thuỷ. Người
xưa nói: Nhất cận thị, nhị cận giang - thứ nhất gần chợ, thứ nhì gần
sông. Đất Hoa Đường thuận lợi cho giao thông và sinh hoạt. Đây
là vùng sóng giao thoa của mảnh đất võ Phù Ủng và đất khoa bảng Mộ
Trạch, từng được mệnh là trung tâm văn hiến cổ đại ”Tiến sĩ sào” (cái tổ sinh ra
tiến sĩ)
Sách cũ chép: “Mạch đất từ Mộ Trạch qua Ngọc Cục dẫn vào địa
phận Hoa Đường”. Họ Vũ ở Hoa Đường chiếm đại bộ phận dân số trong làng, lại chiếm
nửa phần khoa cử, có họ hàng từ họ Vũ Mộ Trạch chỉ cách một cánh đồng. Với danh
hương Phù Ủng, người Hoa Đường cùng uống chung một nguồn nước sông, họp cùng một
phiên chợ tết. Con gà cất lên tiếng gáy, gọi bao ngọn lửa bừng lên mỗi bếp nhà.
Đến thời vụ nông nhàn, tiếng hát trống quân tha thiết ở đôi bờ sông Cửu
An đã gắn bó bao nhiêu lứa đôi kết thành chồng vợ, cũng
chứng kiến bao nhiêu tiếng than thở nhớ mong?.
Người Hoa Đừơng chỉ quen làm nghề có nguồn gốc là chữ nghĩa.
Học hành hiển đạt, chỉ có cách đi làm thơ lại. Sách Lịch triều hiến chương loại
chí tập I của Phan Huy Chú đã ghi các ngành nghề truyền thống như sau: Làng Hoa
Đường quen việc tính toán, thông hiểu việc làm thông lại ti thuộc, ở các vệ
trong kinh, ngoài trấn. Truyền thống và phong tục làng quê lại buộc phải vinh
quy bái tổ, thăm viếng phần mộ tiên liệt. Đi đâu, làm gì người dân vẫn tự hào
mình là người quê gốc Hoa Đường, hình ảnh làng quê đã ăn vào máu thịt con người.
Có lẽ vì thế mà những năm bốn mươi thế kỷ hai mươi, khi quan thượng thư Phạm Quỳnh
thất sủng bị gạt ra khỏi chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật, ông đã về sống ẩn
dật tại một biệt thự bên dòng sông đào Phú Cam, vùng An Cựu - Huế, biệt thự
mang tên Hoa Đường, cố hương của họ Phạm?
Chương II. Họ Phạm ở Hoa Đường
Trong các dòng tộc ở Hoa Đường chỉ có hai họ lớn thay phiên
nhau đoạt kim bảng ở các khoa thi Hội. Ấy là họ Vũ và họ Phạm. Năm Quý Mùi 1763
Phạm Dương Ưng đỗ tiến sĩ Tam giáp, thì khoa sau Nhâm Thìn 1772 Vũ
Huy Diệm đỗ ngay đại khoa. Lại khoa sau Kỷ Hợi 1779 Phạm Quý Thích đậu Tam
giáp, sau đó ít lâu khoa Bính Tuất 1782 lại có Vũ Tông Phan vinh quy bái tổ. Những
tiến sĩ nho học làng Hoa Đường ra làm quan, cống hiến tài năng phụng sự đất nước,
làm vẻ vang dòng họ và quê hương, được ghi vào bảng vàng bia đá, lưu danh đời đời.
Nhưng ở Hoa Đường có một người chỉ đậu cử nhân, chưa từng
thi Hội, không vào hàng đại khoa, vậy mà tên tuổi ông chẳng kém gì các
ông nghè, ông bảng. Hơn thế, ông được xã hội và giới sĩ tử Hà thành
ngưỡng mộ, và kính trọng. Đó là Dưỡng Am Phạm Hội
(1791-1854) - nhân vật có ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình Phạm Quỳnh sau này.
Như những văn thân người Hoa Đường, thấy Hà thành là nơi
đô hội, Phạm Hội dời quê ra vùng đất thuộc làng Tự Tháp, xưa là tổng Tiêu
Túc sau đổi thành Thuận Mỹ huyện Thọ Xương tìm kế mưu sinh, lập nghiệp.
Khoa Quý Mùi niên hiệu Gia Long 12 thi đỗ tú tài trường Sơn Nam. Gián đoạn,
6 năm sau mới lại một phen lều chõng, trúng cách cử nhân kỳ thi Hương
khoa Kỷ Mão, trường Bắc thành khi đã 29 tuổi. Có một học vị
nhất định, hai năm sau Phạm Hội được bổ chức Hàn lâm viện biên tu rồi
sung làm Quốc sử quán biên tu dưới triều vua Minh mạng 2. Năm 33 tuổi
được bổ vào chức Giáo thụ phủ Anh Sơn.
Phạm Hội lúc còn nhỏ là học trò của Hộ bộ Thiêm
sự Đỗ Hòe Am ở Nhân Mục, Thanh Trì, sau học ông thầy người làng Hoa
Đường là Thị trung học sĩ Phạm Quý Thích (hiệu Lập Trai). Phạm Hội là
người thuần hiếu, từ trẻ đến già lấy việc thờ cha mẹ làm trọng,
coi tước lợi làm nhẹ, lấy đạo đức mà dạy học trò..
Dưỡng Am mồ côi cha từ khi lên 11 tuổi. Nhà có ba chị
em, hai gái một trai. Thương em, hai chị không chịu xuất giá, ở nhà
nuôi em ăn học. Phạm Hội kính mẹ và thương chị, nên khi mới đi làm
Giáo thụ phủ Anh Sơn được trọn một năm, 34 tuổi, đã lấy cớ mẹ già
xin cáo quan về quê thờ mẹ. Bà mẹ ngày một già yếu, rồi quy tiên.
Dưỡng Am dạy học, thờ hai chị như mẹ, một lòng hiếu thảo trên đời
ít ai bì.
Cáo
quan về quê mở trường dạy học. Trường Dưỡng Am thuộc loại lớn đầu
tiên ở Hà Nội dười thời nhà Nguyễn. Cụ cũng là thầy đồ
hoàn toàn sống bằng nghề dạy học, không có bất cứ nguồn nào khác.
Các thứ học trò cho, thầy cũng đủ sống cho bản thân. Cụ dạy học với
phong cách riêng, hướng cho các môn sinh: văn thể phải hồn hậu, không
nên ham thích việc quái đản. Viết chữ phải ngay ngắn, không viết tắt,
thế mới là người tĩnh tâm. Dạy xong thì ngồi
uống trà một mình, hay cùng con cháu, bạn bè, học trò bàn luận.
Tiếng lành đồn xa, học trò cụ từ xa tìm về đông tới vài trăm người.
Chí Đình tiên sinh là bạn cụ làm thơ tặng, có câu: “Bỏ quan vì thờ
chị, ôn cũ nên làm thầy”.
Năm 21 tuổi, Dưỡng Am thành thân với một người thôn nữ
là Trần thị. Sáu năm hương lửa nồng nàn thì Trần thị qua đời. Thương
nhớ người bạn trăm năm giữa đường đứt gánh, Phạm Hội tang vợ, sống
cô độc 9 năm trời rồi mới tục huyền với người họ Lưu. Năm sau thì
thân mẫu từ trần.Muộn màng, 40 tuổi Phạm Hội mới làm cha,
sinh con trai Phạm Ngạch. Năm 48 tuổi, Phạm Hội một lần nữa
thất nội trợ. Vài năm sau cụ tìm người thiếp họ Phạm, sinh thêm bốn
con gái.
Năm Giáp Dần 1854 niên hiệu Tự Đức 7, Anh Sơn Giáo thụ
Dưỡng Am Phạm Hội qua đời. Mộ cụ được táng tại Hương Viên, Thọ Xương.
17 năm sau, tức là khoảng 1871 gia đình, dòng tộc và học
trò đã đưa hài cốt của cụ về táng ở xứ Đình Môn làng Hoa Đường-
Lương Đường - Lương Ngọc, nơi cố hương của họ Phạm.
Chúng tôi đã về Lương Ngọc và đến viếng thăm mộ Dưỡng
Am. Nghe kể: Ngôi mộ ban đầu nằm giữa cánh đồng, phía đông bắc làng
Hoa Đường. Trải hơn một trăm năm biến đổi, xê dịch, các làng xóm cứ
phình ra dần, thành ra bây giờ mộ cụ Dưỡng Am nằm ở bìa làng, chứ
không còn giữa đồng như trước nữa. Một con đường rải bê
tông chạy từ cánh đồng giáp đất Mộ Trạch, lao thẳng ra
đường liên xã. Ngôi mộ cụ Dưỡng Am được xây cất cẩn thận, nằm yên ả
dưới bóng một cây cao có thể tỏa bóng mát quanh năm. Trước mộ là con
mương nhỏ dẫn nước tưới tiêu rộng ước gần hai mét, người khỏe mạnh
có thể nhảy qua. Con mương nước chảy liu điu, cỏ dại mọc lòa
xòa hai mép bờ và dưới lòng mương có mấy bông hoa trang
trắng nở, con chuồn chuồn kim nhỏ như cái tăm tre, chấp chới đậu rồi
bay lên, như một ánh lửa chơi vơi giữa một nền xanh thăm thẳm..gợi vẻ
nội ngàn dân dã, khiến cho người đi qua bỗng nao nao nhớ tới một câu
thơ cổ tự thưở xa xăm...
Cụ Dưỡng Am mất rồi, học trò ở Hà Nội mới quyên
góp tài lực xây nhà thờ thầy ngay trong khuôn viên đất căn nhà số 1
phố Hàng Trống - Hà Nội. Ông Phạm Ngạch con trai duy nhất của Dưỡng
Am có hai người con trai. Nhưng cả hai mệnh yểu không qua được tuổi 17.
Đến khi Phạm Ngạch qua đời, thì mảnh đất ấy giao cho ông nội Phạm
Quỳnh thừa tự.
Theo gia phả họ Phạm mà nhạc sĩ Phạm Tuyên đang giữ,
thì cụ ông Phạm Hợp và cụ bà (húy Hảo) sinh hạ được ba trai hai
gái. Trong đó ông Hai là Phạm Tốn, tức Thịnh. (Nhưng một
vài tài liệu viết là Phạm Chu hay Phạm Chuyên và gọi là cụ Cả). Có thể
cụ Phạm Tốn ban đầu là thứ hai, nhưng người anh trên mình mất đi, thì
được đôn lên làm Cả. Và dân làng, hoặc gia quyến quen gọi cụ Cả thành tên.
Chúng tôi mang ý này ra trao đổi với nhạc sĩ Phạm Tuyên, ông cũng
đồng tình.
Cụ Phạm Tốn (nay gọi là cụ Cả cho dễ theo dõi) sinh ra
Phạm Hữu Điển.
Cụ Cả làm nghề dạy học, sống thanh đạm như những ông đồ làng
quê, nhưng rồi mất sớm. Cụ bà ở với bà tú Ngạch vì ông tú Phạm Ngạch cũng đã mất
rồi. Theo nghiệp cha, Phạm Tú Điển cũng dùi mài kinh sách. Nhưng học tài thi phận,
hẩm hiu. Lần ấy anh khóa lều chõng thi Hương. Thi Hương bấy giờ vẫn còn có 4
trường. Thi xong trường một ra ngoài quán trọ đợi kết quả mới vào được
trường hai. Vượt cửa ải trường hai vào trường ba. Trúng cách trường ba đỗ tú
tài mới vào trường tư để thi lấy bằng cử nhân. Tại trường ba, khi tất cả các lều
đã nhổ cả, người ta nghi ngờ không rõ vì sao có một chiếc lều vẫn
còn để yên không động đậy. Quan trường đến nơi thì người thí sinh đã mất. Trên
ngực còn đeo ống quyển. Trong ống quyển có tập bài làm xong gọn ghẽ,
có ý chuẩn bị mang nộp thì đột ngột qua đời. Cảm động trước nghị lực của thí
sinh, quan trường cứ đưa lên và chấm. Bài xuất sắc được trúng cách
tú tài.
Người xấu số ấy chính là Phạm Hữu Điển. Học vị tú tài đến với
ông khi ông về với đất. Lúc còn sống ông chưa được nghe xóm làng bạn hữu gọi
mình bằng một tiếng anh tú, hay ông tú. Có
lẽ nơi suối vàng, ông cũng an lòng biết rằng nơi trần thế, người vợ
ông được dân quanh vùng trân trọng gọi bà tú, mặc dù bà đã mất trước ông gần
sau năm. Bà tú tên là Vũ Thị Đoan, con gái cụ Chiêu Tư Vũ Như Lâm, cháu nội cụ
nghè Vũ Tông Phan, người làng Lương Đường - Lương Ngọc, Hoa Đường phủ Bình
Giang, cư trú ở phường Báo Thiên huyện Thọ Xương Hà Nội. Bà tú chính là thân
mẫu Phạm Quỳnh…
Di hài ông tú Điển được đưa về an táng tại làng Hoa Đường,
quê hương của Phạm tộc. Đó là một khu đất nằm ở phía tây làng tiếp
giáp cánh đồng làng Mộ Trạch. Những năm sau này, khi Phạm Quỳnh vào Huế làm
quan, có dịp về quê, ông đã cho xây lăng mộ phụ thân theo phong cách lăng mộ
trong cố đô Huế. Giữa cánh đồng bằng phẳng, hai trụ trước mộ như hai cánh tay
thẳng giơ lên bầu trời. Trên trụ đều có những dòng chữ Hán do năm tháng bào gọt
bây giờ không đọc được. Mấy năm gần đây gia đình anh em giáo sư Phạm Khuê và nhạc
sĩ Phạm Tuyên đã về Hoa Đường sửa sang, tu tạo khu mộ cụ Tú Điển, ông nội của
mình. Bây giờ có đường vào lăng mộ được lát xi măng trời mưa
cũng không sợ lầy lội, toàn cảnh được khang trang rộng rãi
hơn trứơc.
Cuối
năm Canh Dần 2010, các con, cháu, chắt Phạm Quỳnh đã cùng nhau quyên góp tiền
và công sức tôn tại tạo lại mộ tổ Phạm tộc chỉ cách mộ cụ tú Điển một trăm mét
tại cánh đồng làng Lương Ngọc. Trước mộ có dựng một tấm bia đá trắng,
trên bia không có một chữ nào. Đây là phiến đá tìm thấy khi tôn tạo
lại mộ này, nằm chìm sâu dưới mặt đất. Phải chăng người
xưa dùng phiến đá có ngầm ý, bốn đời họ Phạm, từ Dưỡng Am Phạm Hội,
Tú tài Phạm Ngạch, rồi Phạm Tốn và sang đời Phạm Hữu Điển sống cảnh hàn nho, dạy
học, thanh bạch, và cương trực giữa cuộc đời?
Công trình tôn tạo do Phó giáo sư Tiến sĩ kiến trúc Tôn
Thất Đại, cháu ngoại của Phạm Quỳnh thực hiện, được chính quyền địa phương
và nhân dân sở tại giúp đỡ, đã hoàn thành trước tết Tân Mão…
Dưỡng Am Phạm Hội tuy không phải trực hệ với ông cha
Phạm Quỳnh, nhưng lại là người đồng tộc, chắc có mối quan
hệ thâm hậu từ đời trước. Dưỡng Am Phạm Hội mất, con là
Phạm Ngạch lại không còn lưu hậu, hương hỏa nguy
cơ tuyệt tự. Bởi thế, khi ông Phạm Ngạch qua đời, thì ông
nội Phạm Quỳnh, (tức cụ Phạm Tốn - tức Thịnh) ăn thừa tự. Cũng
chính ở ngôi nhà này, một sinh linh đã ra đời. Và không ai
ngờ sinh linh bé nhỏ cất tiếng khóc chào đời ngày 17 tháng
12 năm Nhâm Thìn 1892, sau này trở thành Chủ bút
tạp chí Nam Phong, một nhà văn hóa lớn, đóng dấu son trong
lịch sử văn hóa nước nhà đầu thế kỷ 20.
Chương III. SỐ PHẬN MỘT CON NGƯỜI.
* Nơi tiếng khóc chào đời.
Phạm Quỳnh cất tiếng khóc chào đời giữa lúc đất nước đầy biến
động. Triều đình nhà Nguyễn đã vào thời kỳ suy vong, không còn đủ sức lực chống
đỡ trước con bạch tuộc thực dân Pháp đang thả vòi ra toàn cõi Đông Dương.
Năm 1858 Pháp bắt đầu nổ súng tấn công Nam kỳ, triều đình nhà
Nguyễn co rúm lại trước súng đạn và tàu chiến Pháp, và chẳng bao lâu đã lần lượt
bị mất ba tỉnh miền đông. Rồi khi nuốt chửng được sáu tỉnh, Pháp đơn
phương tuyên bố lục tỉnh là lãnh địa của chúng. Từ đó Nam kỳ trở thành thuộc địa,
đứng đầu là một thống đốc Pháp. Không chỉ thế, tháng 10 năm 1888 vua Đồng Khánh
thò bút ký chỉ dụ cắt đất Hà Nội cho Pháp làm nhượng địa. Thế là mặc nhiên mảnh
đất Hà thành phải sống dưới ngọn roi da của chế độ thực dân.
Lúc bấy giờ Hà Nội mới có 63 phường. Từ Hồ Tây lên Bưởi, vòng
về Cầu Giấy, dọc đê La Thành qua Khâm Thiên đến hồ Thiền Quang quành sang làng
Lương Yên... người từ các trấn phủ xung quanh dồn về Hà Nội tìm kế mưu
sinh ngày thêm đông đúc và các phố nghề hình thành phát triển rộng
ra..
Trong ba mươi sáu phố cổ Hà Nội, phố Hàng Trống bắt đầu từ
Hàng Gai, đến lối rẽ vào phố Bảo Khánh, dài ước chừng bốn trăm mét. Phố ngắn mà
có nhiều nghề truyền thống tinh hoa. Như tên gọi, ở đây nhiều nhất là nghề
bưng trống. Có thể nói hầu như các loại trống đều có đủ. Từ những
chiếc trống đại, trống con, trống nhà trò cho các phường hát, đến loại trống bỏi
cho trẻ em chơi rằm trung thu ở đây đều có bán. Rồi tàn, tán, võng lọng
phục vụ triều đình, cho các quan lại, cho việc thờ cúng ở miếu đền, xuân thu nhị
kỳ lễ hội..tất cả đều không thiếu. Ngoài trống, phải
kể đến một loại sản phẩm văn hóa đặc sắc, đó là tranh. Tranh Hàng Trống từng
vang lừng trong nước và thu hút sự chú ý của người phương Tây. Ấy là
tranh dân gian, vẽ thủ công, lấy gia truyền làm bảo bối, có sức truyền
cảm giản dị mà cao sang, dân dã mà trí tuệ. Không chỉ là tranh vẽ nhân vật anh
hùng, liệt nữ, điển tích lịch sử mà còn có những bộ tranh
tứ bình, tứ quý, tranh tố nữ tài hoa. Tranh đề thơ chữ Hán, nét bút tao nhã như
một loại thư pháp, rất quyến rũ những bậc văn nhân tài tú, những gia đình quan
lại thượng lưu. Ví như bức tranh miêu tả cảnh đánh phách, gõ sênh, múa quạt uyển
chuyển với màu sắc dịu dàng của bốn tố nữ, được phụ đề bằng một bài
thơ Lý Bạch:
Thùy gia ngọc địch ám phi thanh
Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành
Thử dạ khúc trung văn Chiết Liễu
Hành nhân bất khởi cố viên tình
(Nhà ai tiếng sáo thật mơ màng
Theo gió xuân vào khắp Lạc Dương
Văng vẳng đêm nay bài Chiết Liễu
Ai người chẳng chạnh nỗi cố hương)
Phố Hàng Trống là đất cũ của mấy thôn Cổ Vũ, Khánh Thuỵ và
thôn Tự Tháp huyện Thọ Xương xưa. Ở đấy có đền Hàng Trống, thờ một cô đào sắc
tài làm chao đảo hồn vía chúa Trịnh, được chúa yêu, vời vào phủ chúa. Cũng bởi
quá tài sắc nàng đã bị các phi tần đem lòng ghen ghét đố kỵ. Họ đã tìm cách
chôn sống nàng. Người đời cảm thương đã lập đền thờ. Cũng phố này còn nổi tiếng
về trường học của ông nghè Vũ Tông Phan, người làng Hoa Đường, tỉnh Đông có nhiều
học trò thành danh, làm quan hiển đạt..Thời thuộc Pháp, hàng Trống có một dinh
của tướng Môlie, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp mà bây giờ là Trụ sở báo
Nhân dân- 71 hàng Trống..
Cái phố ngắn ngủi ấy có ngôi nhà số Một,
vốn là điền sản mà cụ Phạm Tốn(Thịnh), tức cụ Cả được
thừa tự từ gia đình ông tú Phạm Ngạch như đã nói phần trên. Từ khi cụ
Cả qua đời, ông bà Phạm Hữu Điển - Vũ Thị Đoan vẫn ở chung nhà với bà cụ tú
Ngạch. Bà tú Điển sinh con trai cũng ở ngôi nhà ấy. Bấy giờ đàn bà chưa có thói
quen đến nhà thương sinh nở.
Thời ấy Hà thành đang trong quá trình hình thành đô thị dưới
chế độ thực dân. Ngay cả hồ Gươm ở trung tâm thành phố mà xung quanh hồ còn những
túp lều chen chúc nham nhở. Dưới ngòi bút của một nhà báo Pháp, năm 1894(tức là
hai năm sau khi Phạm Quỳnh ra đời), hình ảnh về hồ Gươm, chỉ cách ngôi nhà số 1
hàng Trống có mấy trăm mét về phía đông, chẳng khác một cái đầm làng: Muốn tới
được bên hồ, phải bỏ những lối qua lại rất bẩn để len lỏi vào những ngõ hẹp,
loanh quanh giữa những mái nhà tranh lụp xụp của người nghèo khổ, nhảy lò cò
qua những vũng nước hôi hám, những đống rác, có khi đi hàng tiếng đồng hồ rồi lại
trở về nơi bắt đầu. Thảng hoặc có ai đã nhìn thấy góc hồ ở cách đó rất gần thì
cũng chẳng còn tâm trí đến. Thật ngán ngẩm, họ phải vấp vào một bãi lầy bẩn thỉu
ở một đầu ngõ hoặc ở sau những túp lều tối om. Nhưng cũng từ đó Hà thành nhen
nhóm hình thành các phố nghề thủ công. Các nhà bên đường hầu như làm theo một
kiểu nhà hình ống: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang phố khác.
Bên trong các ngôi nhà bố trí cũng gần giống nhau: Gian ngoài là nơi bán hàng
hoặc làm hàng, tiếp theo là sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Quanh sân có trồng
cây ăn quả, hoặc trồng cây cảnh giàn hoa. Gian nhà trong mới là nơi ăn ở và tiếp
theo là khu phụ cho sinh hoạt khác.
Nhà ông Phạm Hữu Điển có khác một chút. Gian ngoài cùng là
phòng khách, phòng nghỉ, rồi tiếp đến cái sân. Đi sâu vào trong là chỗ buồng
ở của cụ tú Ngạch. Tiếp đến một cái sân nhỏ và phía trong là một gian thờ
cúng. Cuối cùng là một cái sân có vườn, cây bồ hòn, vài cây táo gai.
Mảnh vườn nhà số Một - Hàng Trống là nơi chôn
rau cắt rốn của Phạm Quỳnh. Từ đây đã cất lên những tiếng khóc chào đời của một
con người, mà gần hai chục năm sau trở thành chủ bút tờ tạp chí nổi tiếng, chủ
bút Nam Phong. Và cái phố ấy còn có thêm một địa chỉ văn hoá nữa, đó là trụ sở
Hội Khai trí tiến đức do Phạm Quỳnh làm Tổng thư ký.
* Côi cút tuổi thơ
Thuở bé Phạm Quỳnh yếu ớt, sài đẹn. Chín tháng tuổi, đang
tập bò đã chịu phận mồ côi mẹ. Bà Vũ Thị Đoan mắc chứng bệnh
hiểm nghèo mà thời ấy chẳng có phương thuốc nào chữa được. Nhiều đêm, tiếng
khóc Phạm Quỳnh đến cơn khát sữa nghe như xé vải thật tội nghiệp. Bà nội
nuôi cháu thay người con dâu xấu số của mình. Hàng ngày bà với bà cụ tú Ngạch
thay nhau đi xin sữa cho cháu, có khi bế cháu đi bú chực. Tháng ba mùa hoa
xoan rụng, ong muỗi bay như nắm cát tung lên, đứa cháu mắc chứng bệnh
đậu mùa. Nóng, sốt và những mụn nước sưng dộp rồi vỡ ra mang theo một mùi tanh
nồng. Hai người đàn bà nghèo khó mặc dù hết lòng chạy chữa, nâng niu đứa cháu
mồ côi, nhưng tình yêu thương của họ chỉ có thể làm cho những mụn nước xẹp dần,
chứ không thể lấp đầy được những nốt rỗ hoa rải rác trên khuôn mặt cậu bé thơ dại.
Phạm Quỳnh cứ thế lớn lên trong vòng tay của hai bà, của người
cha, và từ những quả táo vườn, những nắm rau tập tàng bòn mót trong chiếc vườn
đất làng Tự Tháp (tức phố Hàng Trống bây giờ). Tiếng là đất Hà thành, những năm
cuối thế kỷ 19, đây vẫn còn hoang sơ dáng dấp một cái làng nghèo khó.
Đoạn tang vợ, ông Phạm Hữu Điển tục huyền, sau ba năm sống
cảnh gà trống nuôi con. Người vợ kế sinh con trai đặt tên Phạm Bái.
Hai anh em cùng cha khác mẹ sống với nhau chưa được mấy năm thì giông
bão dồn dập ập xuống gia đình họ Phạm. Vào khoảng năm Tân Sửu 1901,
Phạm Quỳnh mới chín tuổi đầu thì cha mất. Chiếc khăn tang trắng lạnh
thít chặt mái tóc xanh của hai đứa trẻ. Rồi ít sau Phạm Bái còn bé dại mắc
bệnh nan y cũng đi theo cha. Thế là người mẹ kế đã mất chồng bây giờ lại
mất con, giữa lúc tuổi xanh, biết không thể đứng vững trước cuộc đời xô đẩy.
Bà xin phép mẹ chồng đi bước nữa. Bước chân ra khỏi nhà họ Phạm, bà như
cánh chim đơn lẻ giữa chạng vạng trời chiều..
Ngôi nhà số 1 Hàng Trống lúc này chỉ còn ba con người,
một đứa trẻ và hai cụ già. Ba cái chấm nhỏ nhoi giữa cảnh ồn ào
nhộn nhạo của cuộc sống phương Tây, cứ ngày một tới gần. Những năm
tháng gieo neo ấy dần qua đi. Hai người đàn bà góa bụa nương tựa nhau,
đều coi Phạm Quỳnh là niềm an ủi để di dưỡng tuổi già. Họ ngày đêm ước
mong sao cho đứa cháu mạnh khoẻ để đi học, học giỏi sau này thoát cảnh khốn
khó. Sớm nhận ra phận nghèo, Phạm Quỳnh ngay từ nhỏ đã biết vâng
lời, ngoan ngoãn, chăm chỉ chẳng bao giờ làm phiền lòng hai bà. Cũng
vì hiền lành thật thà nên thuở bé có tên “anh lý nhà quê”. Đối với Phạm
Quỳnh, đó không chỉ là những người bà kính yêu, mà còn như người mẹ
hiền từ. Tiếng hát ru ngập tràn tình thương yêu từ hai bà đã bù đắp
phần nào thiếu hụt của tuổi thơ mất đi hơi ấm từ lòng mẹ.
Siêng năng, ham học, Phạm Quỳnh học giỏi. Ban đầu học chữ
Hán nhưng không vào, vất vả lắm mới viết được hai chữ tên mình Phạm Quỳnh. Một
lần nhân ăn giỗ tại nhà thờ họ Vũ, bà nội (tức cụ Cả bà) thắp hương khấn
gia tiên cho cháu được theo Tây học để sau này ấm vào
thân. Thoạt tiên Phạm Quỳnh học trường tiểu học Pháp - Việt phố Hàng
Đào gần nhà, không phải học phí. Rồi được vào học Pháp văn ở trường Thông ngôn,
gần bờ sông Hồng. Năm 1908 trường này hợp với trường Thành chung Nam Định lập
thành trường Thành chung Bảo hộ, đóng ở làng Bưởi, trong khuôn viên chùa Bà
Đanh cũ. Thời ấy quen gọi trường Bưởi, (nay là trường Chu Văn An)
cũng không phải đóng tiền, còn được học bổng, đỡ người bà trong những tháng
ngày túng thiếu.
Năm 1908 Phạm Quỳnh thi tốt nghiệp, đỗ thủ khoa.
Người dân Hà thành trầm trồ khen: Người gốc Hoa Đường có khác, thời nào cũng
hay chữ. Xưa Nho học đỗ ông nghè, ông bảng, nay Tây học thì lại làm ông phán
ông tham... Mà thực. Phạm Quỳnh có năng khiếu học Pháp văn. Hầu như tất cả các
môn tiếng Pháp đều đạt điểm tuyệt đối, nhưng Hán văn lại rất kém.
16 tuổi còn rất trẻ, Phạm Quỳnh đi làm, giữ chân thủ thư và
thông ngôn ở Trường Viễn Đông bác cổ, cùng thời với Nguyễn Văn Tố và Nguyễn Bá
Trác. Đi làm, có tiền lương đã giảm đi một phần nào gánh nặng của bà
nội. Hằng ngày, đi bộ từ Hàng Trống vòng qua hồ Hoàn Kiếm đến công
sở làm việc, Phạm Quỳnh thường phải đi qua một cửa hiệu đồng hồ. Không biết đã
bao nhiêu lần ngắm nghía chiếc đồng hồ bày trong tủ
kính, mà không dám nghĩ đến chuyện mua. Sau này, khi nhận thêm việc
dạy tiếng Việt ở trường, thu nhập khá hơn, mới dành dụm tiền
mua và giữ luôn bên mình như một vật báu, cho tới khi đã trở thành
Thượng thư, để nhớ một thời khó nghèo.
Đi làm được hơn một năm, đang độ thanh xuân, Phạm Quỳnh
hăm hở như con chim xoải cánh bay vào trời rộng. Lúc bấy giờ bà nội
tuy còn khỏe nhưng tuổi cao, còn bà cụ tú Ngạch đã già yếu lắm, vẫn
chưa được an nhàn. Vốn là người hiếu thuận, Phạm Quỳnh nghĩ tới chuyện
phải lấy vợ sớm để có điều kiện giúp đỡ hai bà bớt phần
khó nhọc vì mình. Rồi Phạm Quỳnh kết hôn với
một thôn nữ, thuần hậu chất quê, người làng Nhân Vực cách Hà
thành khoảng hai mươi cây số.
Làng Nhân Vực (có sách chép là Thọ Vực) thuộc tổng Xuân Cầu,
huyện Văn Giang xưa thuộc đất Bắc Ninh. Đấy là một vùng quê văn hiến
lâu đời, có làng nghề, làng buôn và nổi tiếng về truyền thống khoa cử.
Trong làng có đình, chùa, văn chỉ, giếng cổ. Vào làng phải qua cổng xây, kiến
trúc trên lầu dưới vòm giống như lối kiến trúc Trung Hoa.
Sách ”Biên niên sử cổ trung Việt Nam” (NXB Khoa học xã hội, xuất
bản năm 1987) thì Xuân Cầu xuất hiện từ thế kỷ thứ VII. Sử cũ chép, khi nhà Đường
xâm lược nước ta, đã đưa dân Trung Hoa lưu vong trên đất Đại Việt đi khai khẩn
đất hoang hóa để lập hương ấp mới. Ban đầu làng có tên là Tân Kiều, nghĩa là
khác nước ngoài mới đến cư trú, sau đổi là Hoa Cầu. Từ đời Trần về trước, Nhân
Vực - Xuân Cầu thuộc huyện Tế Giang, đến đời Lê niên hiệu Quang Thuận mới đổi
là Văn Giang. Đời Nguyễn, Mimh Mệnh thứ 13(1831) Xuân Cầu là một trong 6 xã của
tổng Hoa Cầu: Bảo Vực, Vĩnh Bảo, Hoa Cầu, Đồng Tỉnh, Khúc Lộng, Đông Khúc… thuộc
huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Xuân Cầu được thế giao thông thuận tiện. Đi bộ chỉ non nửa
ngày đường đã ra đến Thăng Long Hà Nội. Mà từ trong làng ra đường cái quan đi
ngược về phía đông, trấn Hải Dương cũng chỉ trọn một ngày đường. Trong làng chủ
yếu thuần nông, có pha chạy chợ. Vì gần chợ Vải của người Hoa nên làng có nghề
nhuộm thâm và nghề buôn phát triển. Hàng vải thâm ở Xuân Cầu là sản
vật quý, từng được chọn đem đi cống nạp ở Trung Quốc:
Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu (tức Hoa Cầu - Xuân Cầu)
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Những ngày hội làng, có hát chèo, chơi chọi gà, đấu vật, chơi
đu, rằm tháng Tám có múa sư tử, hát trống quân. Nhưng con trai con gái thích rủ
nhau lên tận Nội Duệ, cầu Lim vui hát quan họ với liền anh liền chị hàng mấy
ngày giời mới trở về. Xứ Kinh Bắc có nhiều làng hát quan họ dân dã, nổi tiếng kỳ
diệu đắm say, có thể làm nghiêng cả tháng ngày lễ hội mùa xuân…
Làng Nhân Vực là một trong ba làng thuộc xã Thọ Vực (Thủ pháp,
Nhân Thục và Nhân Vực) thuộc tổng Xuân Cầu. Thời ấy trong làng có trên mười dòng
họ cùng nhau sinh sống như: họ Nguyễn, Lê, Tô, Đào, Đặng, Phạm, Vũ, Hoàng,
Chu… Họ Lê đến Nhân Vực ít nhất cũng từ đời vua Lê, niên hiệu Chính Hòa 1680, tới
nay ngót bốn trăm năm. Trong làng có đền thờ bà Đào Thị Ngọc Liễu, mẹ vua Lê Cảnh
Hưng, tức là vợ vua Lê Thần Tôn, lại có đình do một người con rể họ Lê trong
làng là Nguyễn Công Kính vợ là Lê Thị Tĩnh cung tiến.
Ông Nguyễn Công Kính người làng An Định, huyện Thuỵ Anh, tỉnh
Thái Bình thuộc loại thương gia cự phách Hà thành. Ông kinh doanh thuốc lào, lấy
tên hiệu là Giang Ký, vì thế thời ấy trong dân gian đã có câu ca:
Thuốc lào Giang Ký,
ăn một tý cũng say,
chồng hút vợ say
biết ngay thuốc lào Giang Ký.
Cho đến bây giờ người làng vẫn còn nhớ và truyền lại câu chuyện
ông Kính có đầu óc kinh doanh. Bấy giờ trong làng ai cần tiền chi
dùng việc lớn thường tới nhà ông Giang Ký vay tiền. Ông nhìn mặt những nhà có
ruộng mới cho vay, kiểu giống như thế chấp thời bây giờ. Đến hạn,
người có tiền đến trả, ông Kính chỉ cười: tôi chưa cần, cứ để mà dùng. Tiền vào
nhà khó như gió vào nhà trống. Thế là lại vay tiếp. Khi ông cho người đến đòi
thì cũng là lúc con nợ không có tiền trả. Không có tiền thì gán ruộng.
Nhẽ đời là vậy. Thành ra có chuyện: một hôm người làng Nhân Vực đã mục sở thị tại
sân đình, một lúc ông Kính được sang tên tất cả 16 mẫu ruộng. Nhưng, rồi sau
này số ruộng đó ông lại giao cho chùa, đình lưu hậu làm việc công ích. Các cụ
già làng Nhân Vực còn hỉ hả kể rằng: Năm ấy ông Kính muốn làm đình để công đức
cho làng, dân không nghe, vì ông chỉ là con rể. Làng còn thách nếu ông đóng thuế
đinh đủ cho làng một năm, thì mới tin. Ông Kính bỏ tiền đóng đủ.
Giao ước làm đình xong, ông Kính bắt đầu sửa từ năm 1929-1930
đến 1932 hoàn thành, chi phí hết 15.000 phơ răng Pháp (thời giá năm 1930). Dân
làng Nhân Vực nhớ ơn ông bà, đã lập một tấm bia công đức, một mặt bia viết bằng
chữ quốc ngữ và mặt kia ghi chữ Hán có dòng “Bảo Đại Giáp Tuất cửu niên trọng
xuân sóc đán bi thành” (Hoàn thành tấm bia năm Bảo Đại thứ 9, ngày 1 tháng 2 năm
Giáp Tuất - 1934).
Mặt bia khắc chữ quốc ngữ, do Lý trưởng Đào Triết soạn thảo,
có đoạn nghe rất tha thiết thế này: “Ôi, cùng một ngôi đình xưa thì lan can xộc
xệch, bốn mặt gió mưa, nay thì quy mô rực rỡ, một lớp lâu đài, thật là một công
cuộc lớn lao, mà các tấm hằng tâm hằng sản của Nguyễn quân (tức Nguyễn Công
Kính - KHL chú) kia biết là nhường nào vậy. Dân thôn mong được báo đền, xin lập
ông bà làm hậu thần, nhưng ông cố từ. Nên chi dân thôn mới tôn bà Lê Thị Tĩnh
làm hậu, dựng bia bên tả đình, nguyên đán, xuân, thu kỳ lạp, bốn mùa hưởng tự để
tỏ không quên...”.
Làng Nhân Vực ngày ấy có ông Lê Văn Chấn, hiệu Đào Hùng (có lẽ
vì thế một số tài liệu chép là ông Lê Văn Hùng), vợ họ Hoàng (có tài liệu chép
là Hoàng Thị Ký). Tuy chỉ là một gia đình gốc nông dân, nhưng kinh tế khá giả.
Ông Chấn làm ký lục ở làng, gia đình mát mặt, chẳng ai bắt nạt, vẫn
có người còn phải cậy nhờ. Ông bà sinh được bốn người
con, ba gái một trai. Cô gái lớn Lê Thị Vân, vào tuổi mười lăm tóc dài tha thướt,
nhuộm răng đen hạt huyền, xinh xắn được tiếng đảm đang. Người con
gái quê, có vẻ đẹp thầm kín, sớm khuya tảo tần đã làm
gương cho ba đứa em để mẹ thày không phải bận lòng. Tốn, cậu em trai út được
chiều chuộng lúc nào cũng làm nũng và quấn lâý chị. Sau Vân là Hợp còn gọi là
Nhỡ rồi đến Mai. Chẳng hiểu nhân duyên thế nào cô Mai lại vào nương
nhờ cửa phật ở chùa Cầu Bây, còn lại ba chị em vẫn ở làng với cha mẹ. Chị Vân lớn
lên thắm tươi như một bông hoa đồng nội, nhiều chàng trai con ông nọ bà kia để
mắt. Nhưng rồi do duyên trời sắp đặt, nên nhận lời lấy chàng thanh niên đồng tuế,
tuổi Nhâm Thìn ở Hà thành, mồ côi cả cha mẹ. Không ai ngờ rằng, hơn hai chục
năm sau trở thành vị đại thần, thượng thư triều đình Huế, trước đó từng là
chủ nhiệm một tờ báo nổi tiếng của nước Nam.…
CHƯƠNG IV. PHẠM QUỲNH VÀ TẠP CHÍ NAM PHONG
Nam Phong tạp chí ra mắt bạn đọc ngày 1-7-1917
và đình bản tháng 12-1934. Trụ sở toà soạn ban đầu ở nhà số 1 Hàng Trống- tức
cùng nhà của Phạm Quỳnh, rồi sau này có thời kỳ (khoảng năm 1926) chuyển đến
nhà số 5 phố hàng Da.
Nam Phong mỗi tháng ra một kỳ, khổ lớn, dày 100
trang, có sức cạnh tranh với các báo khác. Về lực lượng họ có hơn ba chục
người làm biên tập, có kinh nghiệm, tài ba từng là những cây bút
nổi tiếng lúc đó như Nguyễn Hữu Tiến, (1875-1941); Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn
Trọng Thuật (1883-1940); Nguyễn Bá Học (1858- 1921); Đông Hồ (1906-1969); Nguyễn
Mạnh Bổng (1897-1951)…trong đó Nguyễn Bá Trác(1881-1945) giữ phần
chữ Hán của Nam Phong;
Về hình thức, nội dung bài vở của tạp chí cũng phong
phú và nghiêm túc. Tạp chí thiên về biên khảo văn học, triết học, khoa học, văn
thơ Hán-Nôm, tiểu thuyết dịch thuật từ Pháp văn, thời sự về chính trị và xã hội
đương thời, luận thuyết về vấn đề có liên hệ đến dân chúng Việt Nam. Nam Phong
tạp chí có tác động mạnh mẽ đối với đời sống xã hội và chịu không ít lời chê
bai, ngược lại được nhiều học giả đương thời hết lời tôn vinh, ca ngợi. Thật hiếm
một tờ báo lại tạo ra dư luận xã hội trái ngược nhau như thế.
Hoạt động liên tục 17 năm, Nam Phong tạp chí có một đời sống
khá sinh động, đã in dấu ấn trong làng báo chí nước ta ở thập niên ba mươi
của thế kỷ trước.
Tại số 1, chủ bút Phạm Quỳnh đã có nhời đầu tiên
với bạn đọc:
“Cái mục đích của bản báo là muốn gây lấy một nền học mới để
thay vào cái nho học cũ, cùng đề xướng lên một cái tư trào mới hợp với thời thế
cùng trình độ dân ta. Cái tính cách của sự học vấn mới cùng cái tư trào mới ấy
là tổ thuật các học vấn tư tưởng Thái tây, nhất là của nước Đại Pháp mà không
quên cái quốc túy trong nước
Quả thật, mục đích của Nam Phong là biên tập những
bài bằng quốc văn, Hán văn, Pháp văn, để giúp cho sự mở mang trí thức, giữ gìn
đạo đức, bảo tồn quốc hồn quốc túy, trong quốc dân Việt Nam. Đồng
thời truyền bá các môn khoa học Tây phương, nhất là học thuật tư tưởng
Pháp, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp, và người Nam trong trường kinh tế.
Bên cạnh đó đã chú ý đến sự tập luyện, trao dồi văn quốc ngữ, để người Việt
Nam sớm có một nền quốc văn riêng biệt.
17 năm, với 210 số, tạp chí đã trải qua
các thời kỳ gian nan khó nhọc: thành lập và mở rộng,
đề cao mục đích giáo huấn, khai hóa quốc dân. Nó phát triển mạnh và có tiếng
vang, truyền ra nước ngoài, đặc biệt từ sau khi Phạm Quỳnh đi
diễn thuyết ở Pháp trở về.
Vì nhiều nguyên nhân, càng về sau giá trị của tạp
chí càng giảm dần. Kể từ tháng 11- 1932, Phạm Quỳnh được triệu
vào Huế, để Nguyễn Trọng Thuật rồi Lê Văn Phúc đứng ra làm chủ
bút. Và cuối cùng Nguyễn Tiến Lãng kế thừa, gắng gượng xoay xở lo toan... những
cũng chỉ sau hai năm Phạm Quỳnh rời khỏi Nam
Phong, tính đến cuối năm 1934 tạp chí Nam Phong bị đình bản.
Vậy Nam Phong (luồng gió nước Nam) đã ra đời trong hoàn cảnh nào?
* Bối cảnh ra đời
Xã hội Việt Nam trước khi Nam Phong ra đời là một thời kỳ có
nhiều biến đổi sâu sắc về lịch sử chính trị văn hóa giáo dục.
Năm 1858 Pháp nổ súng tấn công Nam kỳ và chiếm xong ba tỉnh
miền đông năm 1862, nhưng phải mất 11 năm sau (tháng 11 năm 1873) Gacniê mới
có thể mang quân ra đánh Hà Nội. Năm 1874 sáu tỉnh miền Nam trở thành thuộc địa
Pháp. Mười năm sau, Trung kỳ và Bắc Kỳ bị Pháp bảo hộ. Riêng Bắc Kỳ,
từ năm 1897, viên thống sứ Pháp trực tiếp nắm quyền cai trị, nên Bắc Kỳ theo chế
độ bảo hộ trực tiếp.
Ngay khi Pháp chiếm các tỉnh Nam Kỳ, nhân dân Việt Nam đã
liên tiếp có những cuộc nổi dậy chống trả, nhưng đều thất bại. Năm 1884
vua Tự Đức phải ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt
Nam, Hà Nội bước vào thời kỳ thuộc địa.
Sang đầu thế kỷ 20, những nhà yêu nước Việt Nam thay đổi chiến
lược, mở cuộc vận động văn hóa chính trị. Từ đó, gần như cùng một lúc xuất hiện
hai phong trào Đông du và Duy tân năm 1904. Phong trào Đông du do Phan Bội Châu
lãnh đạo. Phong trào Duy tân do Phan Châu Trinh đề xướng. Cả hai phong trào cuối
cùng đều bị Pháp dẹp năm 1908 sau những cuộc biểu tình chống thuế của dân chúng
miền Trung và cuộc đầu độc lính Pháp ở Hà Nội xảy ra năm 1908.
Vào tháng 4-1913, Việt Nam Quang Phục hội đã tổ chức hai cuộc
tấn công tại Hà Nội, đều bị Pháp triệt tiêu ngay.
Năm 1914, đại chiến thế giới lần thứ I bùng nổ. Cái
miệng lò lửa chiến tranh đã hút vào đó bao nhiêu nhân lực và tiền
của nhân dân thế giới. Người dân Việt Nam phải chia sẻ gánh nặng chiến
tranh với Pháp. Thanh niên trai tráng bị đôn quân bắt lính phải đi làm
bia đỡ đạn cho Pháp ở châu Âu.
Ở Việt Nam, Phan Bội Châu bị bắt ở Trung Hoa cho mãi tới
1917 mới được thả. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Thượng Hiền, các chiến sĩ Việt
Nam Quang Phục hội đánh đồn Pháp ở Tà Lùng - Cao Bằng, bị thất bại. Tại miền
Trung bấy giờ hai nhà lãnh đạo của Việt Nam Quang Phục Hội là Trần Cao Vân và
Thái Phiên đã liên lạc với vua Duy Tân (ở ngôi 1907-1916) tại hồ Tịnh Tâm để
cùng nhà vua lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp.
Cuộc khởi nghĩa bùng nổ đêm mồng 3 rạng ngày 4 tháng 5 năm
1916 bị thất bại vì Nguyễn Văn Trứ phản bội. Pháp truất phế và lưu đày vua Duy
Tân đến đảo Réunion cùng với vua Thành Thái.
Pháp khép tội những nhà cách mạng và xử chém Thái Phiên cùng
Trần Cao Vân hòng đè bẹp ý chí phản kháng của dân Việt. Ít
sau, năm 1917, tại Thái Nguyên, Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn khởi
nghĩa. Lương Ngọc Quyến là con trai Lương Văn Can (nguyên hiệu trưởng Đông kinh
Nghĩa thục). Trịnh Văn Cấn là đội Khố đỏ. Hai ông đã cùng các binh
sĩ ở Thái Nguyên nổi lên tối 30-8-1917. Pháp phản công và chỉ sau 5
ngày cuộc khởi nghĩa thất bại.
Sau khi dẹp những cuộc khởi nghĩa, Pháp bắt đầu ổn định nền
thống trị mới. Toàn quyền Albert Sarraut có một vài động thái để tỏ ra
có nới lỏng cai trị với dân bản xứ. Ông ta cho mở các trường học để
mở mang dân trí, như: Trường Cao đẳng Thú y Đông Dương (15-9-1917), Trường
Cao đẳng Sư phạm Đông Dương (15-10-1917), Trường Cao đẳng Nông Lâm nghiệp
(10-12-1917)... Chính trong khoảng thời gian này, thì tờ tạp chí Nam Phong
ra đời. Ấn phẩm đầu tiên ra mắt bạn đọc ngày 1-7-1917, nghĩa
là trước Cách mạng Tháng Mười Nga có bốn tháng. Cũng trong khoảng
thời gian đó tình hình văn hóa giáo dục ở Việt Nam có một số điểm
lưu tâm. Đó là khi đã chiếm Nam Kỳ rồi bảo hộ Trung và Bắc Kỳ, người Pháp
có ý định thiết lập hệ thống giáo dục tân học bằng việc bãi bỏ học chữ Nho
và các kỳ thi Nho học. Pháp có ý đào tạo một lớp nhân viên mới cho
chế độ mới, cắt đứt những ảnh hưởng tư tưởng của người Việt với văn hóa dân
tộc cổ truyền, rộng hơn là đoạn tuyệt với văn hóa phương Đông, để áp đặt
nền văn hóa Pháp và văn hóa Âu tây. Người Việt không muốn bị đồng
hóa, mà hòa nhập văn hóa Việt Pháp hay văn hóa Á - Âu, như họ
từng hòa đồng tôn giáo vốn có (người Việt vừa thờ cúng gia tiên,
thờ Phật, thờ Khổng Tử). Họ lựa chọn, chứ không để áp đặt, và đặc
biệt là vẫn lưu giữ được những tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa Á đông. Đồng
thời tiếp thu những nét hay, vẻ đẹp của văn hóa Âu tây, để làm
phong phú văn hóa dân tộc.
Nam Kỳ là thuộc địa, nên sự hòa nhập văn hóa cũng sớm hơn. Tại
Trung kỳ và Bắc kỳ, phong trào Duy tân do Phan Châu Trinh đề xướng từ năm
1905, kêu gọi cải cách văn hóa, được giới trí thức cấp tiến hưởng ứng mạnh mẽ.
Phong trào Duy tân chú trọng nhiều đến những vấn đề chính trị, nên khi những biến
động chính trị năm 1908 xảy ra, Pháp nhân cơ hội đó, bắt giam và lưu đày hầu hết
những nhà trí thức cấp tiến trong phong trào Duy tân.
Chính trong giai đoạn giao thời ấy, tạp chí Nam
Phong đã xuất bản bằng hai thứ chữ: chữ Nho và chữ Quốc ngữ, làm
trung hòa trên con đường hòa nhập văn hóa Á Âu, như lời của Phạm Quỳnh đã
kính cáo cùng bạn đọc đã nêu.
Nhiều tài liệu đã cho biết rằng đây chính là thời điểm
chữ Nho, văn tự chính thức của triều đình Nam Triều sử dụng hàng ngàn năm qua,
sắp bị thay thế.
Còn nhớ khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay Pháp năm 1862,
chỉ hai năm sau, kỳ thi Hương năm 1864 vẫn còn tổ chức ở Cần Thơ. Nhưng sau
đó ba tỉnh miền Tây rơi nốt vào tay Pháp, thì cả Nam kỳ không còn thi Nho học
nữa. Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định: kể từ 1-1-1882, ở Nam Kỳ, tất cả các giấy
tờ như công văn, nghị định… đều phải viết bằng mẫu tự la tinh (tức chữ Pháp hay
Quốc ngữ), đồng nghĩa với việc chữ Nho chính thức không được sử dụng!
Tại Trung kỳ và Bắc kỳ, ngày 21-12-1917, toàn quyền Albert
Sarraut công bố “Quy chế chung về ngành giáo dục công cộng ở Đông
Dương” (Règlement général de l’instruction publique en Indochine), quy định rằng:
Các trường chữ Nho của tư nhân hay của triều đình, kể cả Quốc tử giám, đều được
xếp vào loại trường tư và phải tuân theo quy chế của chính quyền Pháp?!
Nói cách khác, giáo dục không chấp nhận chương trình Nho
học. Chữ Nho bị xếp xó. Ông tú Vị Xuyên đã viết câu thơ đầy ai oán:
Nào
có ra gì cái chữ Nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm thầy phán
Tối
rượu sâm banh sáng sữa bò.
(Thơ Trần Tế Xương).
Sau khi quy chế này ra đời, thì kỳ thi hương tại Nam Định
năm 1915 được coi như kỳ thi Nho học cuối cùng ở Bắc Kỳ. Nhưng
ở Trung Kỳ, các khoa thi Hương năm 1918 và thi Hội năm 1919 mới
là số tận.
Về báo chí thời kỳ này cũng có những điểm khác trước.
Khi ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường ở miền đông Nam
kỳ bị nhượng cho Pháp bằng hòa ước năm 1862, thì ngày 15-4-1865,
tờ báo Gia Định được phát hành tại Sài Gòn. Đây là tờ báo quốc ngữ đầu tiên
trên toàn quốc, mỗi tháng ra một số, vào ngày 15 hàng tháng.
Như con gà đầu tiên cất lên tiếng gáy, tức thì hàng
loạt tiếng gà xung quanh cũng rộ lên giống như phản ứng dây
chuyền. Hàng loạt báo chí ra đời nở rộ như nấm sau mưa: Nhật
Trình Nam kỳ (1883), Phan Yên báo (1898), Nông Cổ mín đàm (1901), Nhật Báo tỉnh
(1905), Lục Tỉnh tân văn (1907), Nam Kỳ địa phận (1908, Ky-Tô giáo), Nam Trung
nhật báo (1917), An Hà báo (1917 ở Cần Thơ). Trong đó, Trương Vĩnh
Ký, Huỳnh Tịnh Của, Diệp Văn Cương… là những nhà báo nổi tiếng
như cồn, thu hút sự chú ý của công chúng và những tên trùm cáo già
người Pháp tất nhiên thường xuyên để mắt tới.
Báo chí Bắc kỳ ra muộn hơn. Tờ đầu tiên tại Hà Nội là
Đại Việt tân báo, vừa chữ Nho vừa quốc ngữ, thành lập năm 1905 do Đào Nguyên Phổ
làm chủ bút. Hai năm sau tờ Đăng Cổ tùng báo do Đào Nguyên Phổ lo phần chữ Nho,
Nguyễn Văn Vĩnh phụ trách phần quốc ngữ, ra đời.
Đặc biệt là Đông Dương tạp chí, một tờ
báo thuần túy quốc ngữ đầu tiên ở Bắc Kỳ ra mắt ngày 15-5-1913, do
Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút.
Trước khi tạp chí Nam Phong được xuất bản, ở Bắc Kỳ chưa có
tiểu thuyết. Sau khi tạp chí Nam Phong xuất hiện, thì mãi đến 8 năm sau, tức
là năm 1925, cuốn tiểu thuyết đầu tiên là Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách mới được xuất bản. Cuốn sách đã gây chú ý mạnh mẽ giới độc giả
lúc bấy giờ vì sự mới lạ trong đời sống văn học.
Như thế nhìn một cách toàn cục thì Nam Phong tạp chí ra cùng
năm với Nam Trung nhật báo và An Hà báo. Thế nhưng tạp chí này có một sức mạnh
vô cùng và đã tạo ra một màu sắc tươi tắn tân kỳ trong bức tranh báo chí Việt
Nam đương thời.
Sau thời gian làm việc ở Trường Viễn đông bác cổ được gần 9
năm, Phạm Quỳnh đứng ra làm chủ bút kiêm chủ nhiệm Nam Phong tạp
chí, khi vừa 25 tuổi. Từ những số đầu tiên, chủ bút Phạm Quỳnh đã tỏ ra một tay
lái vững vàng để chèo lái con thuyền Nam Phong đi theo phương hướng
của mình đã vạch sẵn. Đó là mở rộng khảo sát các đề tài lịch sử xã hội,
văn hóa văn minh Việt Nam và thế giới. Về văn học: đi vào biên khảo, dịch thuật,
và giới thiệu sáng tác mới. Ở đây có 8 chuyên mục, trong đó văn uyển, tiểu thuyết,
văn học bình luận… cung cấp cho bạn đọc kiến thức khái quát về văn học triết học,
lịch sử, địa lý và bước đầu giới thiệu văn học cổ Việt Nam bằng chữ Hán qua các
triều đại, dịch ra quốc văn những tác văn học có giá trị như văn thơ Lý Trần;
Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ; Thượng kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông- Lê
Hữu Trác, vân vân..
Với ý tưởng Nam Phong là ngọn gió nước Nam, ngay từ đầu tôn
chỉ của tờ nguyệt san đã nêu rõ:
1. Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật đông tây
kim cổ.
2. Luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ
phong phú, uyển chuyển, sáng sủa và gẫy gọn.
3. Lấy đó làm nền tảng dân tộc rồi phát triển tinh thần dân tộc.
Dưới sự mềm dẻo và thâm thúy của Phạm quỳnh, các tôn chỉ đó
được thể hiện sinh động trên cơ sở 8 chuyên mục của tạp chí, như:
Luận thuyết, Văn học bình luận, Khoa học bình luận, Triết
học bình luận, Văn uyển (tức là chọn những áng thi ca đẹp, khai thác
trong dân gian, những thể ngâm, ca trù, phú đối, thơ lục bát, trường thiên). Rồi
mục Tạp văn, Thời đàm, Tiểu thuyết…Những chuyên mục này thường xuyên có 30 cây
bút lành nghề biên tập. Vì thế tờ Nam phong tạp chí được coi là một ấn phẩm
sang trọng lúc bấy giờ đã thu hút nhiều nhà văn, nhà trí thức tham gia gửi bài
cộng tác.
Quan điểm của tạp chí Nam Phong là: Truyền bá chữ quốc ngữ
vào Việt Nam để nâng cao trình độ ngôn ngữ có thể so sánh với tiếng Pháp và chữ
Nho. Rất nhanh chóng, ảnh hưởng của Nam phong đã đi vào đời sống tinh thần xã hội.
Nó đã truyền bá, bảo tồn những điều cốt yếu văn hóa Việt Nam (như văn chương, lễ
nghi, phong tục). Nhà học giả Dương Quảng Hàm bấy giờ đã đánh giá: Phạm Quỳnh
có công lao to lớn trong việc du nhập nhiều danh từ triết học, khoa học mới và
luyện cho chữ quốc ngữ thuần thục tới mức diễn đạt được thuật ngữ mới.
Quả nhiên Phạm Quỳnh có công lao to lớn. Nếu không có tài
ứng xử khéo léo của người đứng đầu cơ quan ngôn luận khi mới 25 tuổi,
làm sao ông có thể tồn tại mười lăm mười sáu năm, trong xã hội thực dân để
thực hiện khát vọng mở mang dân trí, tự tôn dân tộc, phụng sự người
nước Nam trong vòng cương tỏa ngoại bang? Với tài năng quyền biến của
một trí thức trẻ, Phạm Quỳnh đã lãnh đạo một cơ quan văn hóa, xuất
bản, thu phục tài năng, lực lượng, kể cả bậc lớn tuổi như Nguyễn Bá
Học (60 tuổi), Nguyễn Hữu Tiến (43) hay bậc đàn anh khác, như Phạm Duy
Tốn, Trần Trọng Kim, Tản Đà... vẫn thuận tình cộng tác.
Hơn 40 năm sau, năm 1972 giáo sư Thanh Lãng trong cuốn Phê
bình văn học, thế hệ 1932 đã viết “… Muốn hiểu văn học Việt Nam vào hồi này
(1913 - 1932) không gì tốt hơn cho bằng nhìn vào Nam Phong. Nam Phong là linh hồn,
Nam Phong là tất cả văn hoá thế hệ 1913 - 1932… Bởi vì, từ 1932 trở về trước,
các nhà văn của chúng ta chưa có thói quen viết sách xuất bản sách mà chỉ có
thói quen viết văn trên báo chí. Vậy Nam Phong hầu như là cơ quan ngôn luận duy
nhất (Đông Dương tạp chí đã đình bản năm 1919) đã liên kết tất cả các cây bút
có thế giá đương thời, đến nỗi nếu đem đốt hết Nam Phong đi, thì nền văn học thế
hệ 1913 - 1932 có thể nói là bị bóc lột rỗng tuếch... Thực vậy trong mười mấy năm
trường Nam Phong hầu như giữ vai trò của một Viện Hàn Lâm. Điều gì Nam Phong viết
ra đều hay, văn Nam Phong viết ra là đẹp, ý kiến Nam Phong bàn là được tôn trọng,
luật lệ Nam Phong đặt ra mọi người tuân theo, chữ Nam Phong chế mọi người dùng…
Người ta coi Nam Phong là bực thầy.” (Sđd trang 16-17).
Nam Phong tạp chí ra đời năm 1917, tồn tại 18 năm, là một cơ
quan ngôn luận chính trị và văn hóa trong đó có văn học. Mặc dù xã hội
có những phẩm bình khác nhau, thậm chí khắc nghiệt rằng: Nam Phong
có khuynh hướng chịu sự chi phối của đường lối chính trị và văn hóa của thực
dân Pháp, đó là tuyên truyền cho một nền văn hóa, văn học nô dịch. Nhưng trải
qua thời gian, nhìn lại suy ngẫm thấu đáo hơn, thì mới thấy không
nên đồng nhất khuynh hướng của nó với những gì đã được in trên tạp chí đó.
Trước hết, hãy nhìn lại quan điểm của họ
về văn chương.
Mãn Châu trong bài Văn chương (số 30-1919) đã tuyên bố “văn
chương là một vật quý trọng. Người làm văn phải sao cho từ nghiêm nghĩa chính.
Mỗi khi cầm lấy quản bút thì trước hết phải nghĩ đến những điều ích lợi cho quốc
gia, tạo phúc cho xã hội, quan hệ tới nhân tâm thế đạo, sao cho được hết cái
năng sự của nhà văn. Như thế thì mới đáng gọi là một người văn sĩ cho đời được
cậy nhờ”.
Phạm Quỳnh trong bài Văn chương Truyện Kiều (số 35-1920) cũng
viết: “Phần văn chương hay là thứ nhất ở lời văn điêu luyện, thứ nhì ở ý tứ
thâm trầm. Có ý tứ hay mà lời văn không đạt thời ý tứ cũng không biểu đạt ra được.
Có lời văn đẹp mà không có ý tứ gì thời khác nào có vỏ mà không có ruột, có xác
mà không có hồn”. Nam Phong còn có công sưu tầm, bảo lưu văn học
cổ của dân tộc. Từ các số đầu tiên 1917 cho đến các
số in năm 1932, hầu như liên tục có phần đăng tải
thơ văn cổ được sưu tầm, dịch thuật. Đa số người Việt Nam thuở đó,
bắt đầu biết đến Hồng Đức Quốc âm thi tập của Lê Thánh
Tông, Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ văn Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, cùng nhiều tác
phẩm tác giả khác, chính là nhờ Nam Phong tạp chí đã sưu tầm, dịch
thuật. Không chỉ thế, Nam Phong còn giới thiệu các
tác phẩm mới. Tính từ số 1 ra năm 1917 cho đến 1932 họ đã liên tục
đăng các sáng tác của nhiều cây bút đương thời, với đủ thể loại: truyện
ngắn, tiểu thuyết, ký, kịch, thơ… Mới ra được 6 số, thì số 7 (1-1918),
Nam Phong tạp chí đã quyết định tổ chức một cuộc thi sáng tác
truyện ngắn mà điều lệ ghi rõ: “Tiểu thuyết phải làm theo lối Âu
châu… phải dùng phép tả thực. Trọng nhất là tả được cái tâm lý người ta cùng các tình trạng xã hội. Không nên đặt những truyện có thể
phương hại đến luân lí và tôn giáo, hoặc quan hệ đến chính trị”.
Nam Phong đã đăng gần 60 truyện ngắn, trong đó có tác phẩm
gây dư luận mạnh mẽ trong đời sống, như Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, Câu
chuyện một tối của người tân hôn của Nguyễn Bá Học… Rồi tiểu thuyết như Quả dưa
đỏ của Nguyễn Trọng Thuật cũng được in gây tiếng vang. Còn thể ký thời
Nam phong tạp chí quả là mới mẻ và sâu sắc. Những cây bút Nguyễn Văn Kiêm, Nguyễn
Thế Xương, Tương Phố đã gây xôn xao trong lòng bạn đọc đương thời. Và chủ bút
Phạm Quỳnh vừa cầm cờ tờ tạp chí, vừa xông pha viết nhiều bài nổi tiếng,
như Một tháng ở Nam Kỳ, Pháp du hành trình nhật ký.
Đó là chưa kể về thể loại thơ, kịch bản sân khấu: chèo tuồng
cũng được lần lượt giới thiệu với một số lượng khá lớn và phong phú với nhiều đề
tài lịch sử văn hóa.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú trong một tài liệu nghiên cứu đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu văn học-số 2-2005, đã phát hiện rằng: tạp chí Nam
Phong trong lĩnh vực dịch thuật và giới thiệu văn học thế giới, bề
thế hơn các giai đoạn trước rất nhiều. Tính ra từ số 1 (năm 1917) đến số
179(năm 1932) đã có hơn 200 tác phẩm của hơn 100 tác giả nước ngoài được dịch
in, trong đó văn xuôi chiếm 66%, thơ chiếm 34%, chủ yếu thuộc văn học Trung Quốc
và văn học phương Tây mà Pháp là chính. Giáo sư cho rằng: đó là một khuynh hướng
“muốn mở rộng nhãn quan nghệ thuật cho độc giả Việt Nam và phần nào cũng là muốn
hướng văn học Việt Nam đi theo con đường mà văn học thế giới, đặc biệt là văn học
phương Tây trong đó có văn học Pháp đã có thành tựu nổi trội”.
Rất đúng, chính Nam phong tạp chí khi cho ra đời mục Tiểu
thuyết trên tạp chí đã tuyên bố: “Trong sự kén chọn những tiểu thuyết Tây để dịch,
chúng tôi sẽ chú ý nhất một điều là chọn những sách văn chương hay, nghĩa truyện
cao, kết cấu khéo, khá lấy nền cho cái lối tiểu thuyết của ta về sau này…”
* Người gieo hạt giống quốc văn
Trước khi làm báo Nam Phong, Phạm Quỳnh đã viết cho Đông
Dương tạp chí, một tờ báo sang trọng thời ấy. Khi trở thành chủ bút tờ báo
riêng, Phạm Quỳnh vẫn không dời công việc sáng tạo. Ông viết nhiều thể loại, với
các bút danh khác nhau.
Nói về Phạm Quỳnh chủ bút Nam Phong, giáo sư Huệ Chi
cho rằng ”Ông có thiên hướng thích loại văn chương nghị luận hơn là văn chương cảm
hứng”. Quả thế, là người biên khảo, Phạm Quỳnh lần đầu tiên cho người đọc nước
ta có khái niệm bước đầu về mỹ học nói chung cũng như về thơ và tiểu thuyết nói
riêng. Huệ Chi còn xác nhận “ông là người rèn luyện câu văn quốc ngữ
sao cho kịp trình độ văn chương quốc tế, diễn đạt những phạm trù trừu tượng,
như tư tưởng, tâm lý, triết học...”. Có lẽ vì thế có người nhận xét ông có dáng
một học giả, nhà văn hoá hơn nhà văn. Thế nhưng văn Phạm Quỳnh đầy chất suy tư,
bộc lộ nhân sinh, tư tưởng và quan điểm về văn hoá. Ông muốn sống dung hoà cả
trên thực tại và chữ nghĩa văn chương. Phạm Quỳnh không ít lần nói ý rằng nếu
một dân tộc mới có thì tây hóa cũng được. Nhưng đằng này dân tộc Việt Nam
không phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì lên đó cũng được. Nghĩa là vẫn
kiên trì bảo vệ quan điểm giữ gìn bản sắc dân tộc, để không bị đồng
hóa hoàn toàn.
Có người tỉ mỉ cho rằng Phạm Quỳnh viết khá tạp,
nghĩa là không có công trình to tát, đồ sộ và thuần nhất như người
khác. Chúng tôi lại nghĩ rằng nếu có, thì Tạp ở đây phải hiểu là sự phong phú
đa dạng, chứ không phải tạp chất hỗn độn. Vì thế khi tổng hợp hàng nghìn bài viết,
rồi phân loại như kiểu phân ra thể loại ngày nay, người ta thấy giật mình bởi
những vấn đề ông nêu ra bình phẩm, bàn thảo quá xúc tích đến mức uyên bác.
Với quan niệm như thế, quả là Phạm Quỳnh viết có tạp. Ông viết
tất cả các vấn đề mà ông biết, ông quan tâm. Ông dịch thuật, truyền bá tinh hoa
tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, đồng thời giới thiệu di sản tinh thần của
ông cha phiên âm ra tiếng Việt trong kho sách của Trường Viễn đông bác cổ. Ông
nghiên cứu truyện Kiều, nghiên cứu về văn hoá, giáo dục. Từ chuyện sức
khoẻ con người, đến cái ăn cái mặc, đến chuyện thi cử học hành từ trong nước ra
ngoài nước. Ông viết từ lịch sử nghề diễn kịch nước Pháp, bàn về hý kịch của
Môlie, đến triết học Auguste Comte, triết học Bergson. Ông chọn và dịch ra Việt
ngữ 132 câu cách ngôn của vua La mã Marc - Eurele (121 - 181) sau đức
Gia Tô giáng sinh. Ông đã chọn lọc một cách có chủ ý rồi dịch những câu cách
ngôn không chỉ cho mình mà là cho bạn đọc suy ngẫm. Nói cách khác ông đang truyền
bá những tư tưởng hay của văn hóa phương tây cho người Việt Nam. Chẳng hạn như
câu số 1: “Cái gì hợp lẽ trời đất là hợp cho ta. Cái thuận với trật tự thiên
nhiên thời đối với ta không có thể sớm quá hay muộn quá được. Thời tiết thay đổi,
vật gì cũng là thời trân (vật sản quý báu trong một mùa - KHL chú) cho ta cả. Ôi
thiên nhiên, hết thảy đều tự thiên nhiên mà ra, hết thảy đều ở thiên
nhiên mà có, hết thảy đều quy nạp về thiên nhiên”.
Đây là câu 41: Xét sự vật nên xét từ nội dung; vật nào có giá
trị chân chính của vật ấy, đừng có xét lầm.
Phải chăng chọn câu này là Phạm Quỳnh có ý nhắc
khéo những người đã đánh giá ông một cách vội vàng chủ quan, không chịu xét tới
nội dung công việc của ông đang hết lòng phụng sự quốc gia dân tộc bằng cách của
riêng mình? Phạm Quỳnh có quan niệm sống rõ ràng rành mạch và hướng thiện. Dịch
những áng văn từ văn hoá phương Tây, đâu chỉ cho mình, mà cho cả nhân quần
chiêm nghiệm ”Sống ở đời đừng nên tưởng như mình sống được trăm năm nghìn năm
gì. Phải nên biết cái chết không thể tránh được, nó vẫn chờ đợi mình ở đầu đường
nọ. Vậy trong khi sống trong khi đương có thể được, nên cố mà làm người lương
thiện- câu thứ 16 - sdd". Còn đây là câu thứ 42 thì thật là thâm thúy: “Không có cách gì báo thù những kẻ làm ác với mình diệu kỳ bằng cách này: là đừng
giống họ!
Phẩm cách người quân tử là ở chỗ ấy!. Chúng tôi cho rằng ngay
cả khi trích dịch châm ngôn nước ngoài, ông cũng có ý thức tài bồi ngôn
ngữ và đạo đức cho con người
Phạm Quỳnh bàn đến cả những tác phẩm cụ thể của từng
văn nhân. Khi tác phẩm “Giấc mộng con”của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu ra mắt bạn đọc, ông đã dành thì giờ để đọc và nêu ý kiến của mình. Cả khi
ông chê bạn cũng với tấm lòng trung thực, thành tâm chứ không bốc thơm hoặc dìm
bạn của mình. Ông viết: “Chê ông lần này, mong rằng lại có dịp khen ông, khen bấy
giờ càng có giá trị… Tôi rất là hi vọng cho ông, nhưng tôi khuyên
ông đừng nên mộng mị nữa:
Xưa
nay mộng ảo cứ đâu
Bỗng
không mua não chác sầu, nghĩ nao!”
(Nam
Phong số 144 - Novembre 1929)
Ông bàn luận từ một nhà văn hào Pháp Anatole France cho đến sự
dùng chữ nho trong văn quốc ngữ(Nam Phong số 20, tháng 2 năm 1919) bằng lý luận sắc
sảo. Ông viết” Quốc văn do Hán văn mà ra, không thể bỏ chữ Hán mà không dùng được,
cũng không dời khuôn phép của Hán văn mà thành lập được… Xét cho cùng, bấy nhiêu
cái chỉ do một cớ như sau này: là trong nước ta chưa có một nền quốc dân giáo dục,
nghĩa là cái giáo dục chung cho cả dân trong nước, ai cũng phải qua đấy rôì mới
lên các bậc khác, qua đấy rồi tất thông thuộc tiếng nước mình, biết làm văn bằng
lời mình, hiểu các lẽ cương thường luân lý của tổ tiên, tỏ các công nghiệp lớn
lao của đời trước, nghĩa là trước nhất đủ cái tư cách làm dân, bấy giờ mới ra học
các tiếng nước ngoài và thâu nhập lấy những điều hay lẽ phải mình chưa biết”. Rồi Phạm
Quỳnh kết luận ”Tôi đây cũng là nhiệt thành thương tiếng nước nhà, lâu nay đã tự
nguyện hi sinh một đời để gây dựng cho cái tiếng ấy thành văn chương, cho nước
ta có một nền quốc văn đứng riêng được một cõi, cho người mình khỏi phải cái cực
đi học mướn, viết nhờ!”
Phạm Quỳnh có tấm lòng ưu thời mẫn thế, kiểu của một
trí thức xuất thân từ dòng tộc nho gia. Những năm gần về cuối trong cuộc đời
làm tạp chí Nam Phong, Phạm Quỳnh càng chín chắn với độ nhìn của người trí thức
trước nền quốc học nước nhà. Khi đã vào tuổi 40, độ tuổi tứ thập nhi bất hoặc -
không còn gì phải nghi ngờ giữa cuộc đời - trong tạp chí số 163
năm 1931, ông đã thẳng thắn viết ra những gì tâm đắc nhất, những câu
chữ như có máu thịt của mình, với nhận định về nền quốc học nước nhà: “Nước Nam
ta mấy mươi thế kỷ theo học nước Tàu, chỉ mới là một học trò khá, chưa hề thấy
dám thoát cửa thầy mà lập nên môn hộ riêng… Anh hùng ta có, liệt nữ ta có, danh
sĩ cao tăng ta cũng có, nhưng trong cõi học nước ta, cổ kim chưa có người nào
có tài sáng khởi, phát minh ra những tư tưởng mới, thiết lập ra những học thuyết
mới, đủ có cái vẻ một “nhà”đối với “nhà”khác như bách gia chư tử bên Tàu ngày
xưa… Ta học của Tàu mà chỉ học thuần về một phương diện cử nghiệp, là cái học thô
thiển, không có giá trị về nghĩa lý tinh thần cả. Mài miệt về một đường đó
trong mấy mươi đời, thành ra cái óc tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng
gì mới lạ. Nói như thế không phải bội bạc với tiền nhân (...). Ta vẫn có nước, nước
ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ta ví như một cái trường học lớn, cả
năm thầy trò chỉ cùng nhau ôn lại mấy quyển giáo khoa cũ, hết năm này đến năm
khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò!”.
Đọc đoạn văn này, chúng ta có thể liên tưởng như là một nhà
quản lý giáo dục, xã hội vừa nói ở một hội nghị khoa học giáo dục gần mới đây,
chứ không phải từ những thập niên đầu thế kỷ trước.
Hoá ra vấn đề giáo dục, vấn đề học tập để vươn lên sánh vai
cùng năm châu, bốn bể... Phạm Quỳnh đã ý thức và gióng hồi chuông từ khi đó.
Nhưng ý tưởng ấy, bị đương thời cho là xa lạ, nên không được chấp nhận, thậm
chí còn coi ông là kẻ thù, ông vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của sĩ phu cho rằng
ông lái vấn đề sang một sự mơ hồ…
Sự kiện năm 1924, suy tôn Truyện Kiều với câu nói bất hủ Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn, Tiếng ta còn, nước ta còn, Phạm Quỳnh đã gặp phải búa
rìu dư luận nặng nề. Các chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng gọi ông là kẻ gieo
rắc tà thuyết, Phan Khôi, cây bút chính luận chủ yếu của Phụ Nữ tân văn sau này
gọi ông là học phiệt và lên tiếng cảnh cáo. Nhưng, chính bạn đọc của báo này vẫn
tỏ ra công bằng, ghi nhận những đóng góp của ông trong sự nghiệp canh tân văn
hóa.
Báo Phụ
Nữ tân văn ra đời ngày 2 tháng 5 năm 1929. Kỷ niệm một năm chẵn, họ tổ chức
một cuộc thi mà báo gọi là cùng chung vui với độc giả. Họ nêu ra đề thi gồm ba
phần, trong đó có một câu hỏi xem như “trưng cầu ý kiến”độc giả. Câu
hỏi ấy như sau:
“Nếu có cuộc tuyển cử 10 vị Việt Nam Nhân dân đại biểu, mà những
vị kể tên sau nầy ra ứng cử, thì quý độc giả sẽ cử những vị nào?.
1- Nguyễn Hữu Bài, Thủ tướng Nam triều
2- Bạch Thái Bưởi, Chủ hãng tàu và mỏ than.
3- Bùi Quang Chiêu, Lãnh tụ đảng Lập hiến
4- Vương Tứ Đại, Thượng thư Lễ bộ
5- Dương Văn Giáo, Trạng sư
6- Huỳnh Thúc Kháng, Chủ báo Tiếng Dân
7- Trần Trọng Kim, Thanh tra sơ học
8- Diệp Văn Kỳ, Nhà làm báo
9- Lưu Văn Lang, Kỹ sư Sở tạo tác
10- Nguyễn Phan Long, Chủ báo Đuốc nhà Nam
11- Lê Quang Liêm, Hội đồng Quản hạt
12- Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc Hà Đông
13- Phạm Quỳnh, Chủ báo Nam Phong
14- Nguyễn Hữu Thu, Phó nghị trưởng kinh tế hội nghị
15- Nguyễn Trác, Nghị trưởng ND đại biểu viện Trung Kỳ
16- Nguyễn Bá Trác, Bố chính tỉnh Bình Định
17- Trần Trinh Trạch, Điền chủ ở Bạc Liêu
18- Lê Quang Trinh, Y khoa Tấn sĩ
19- Phan Văn Trường, Luật khoa Tấn sĩ
20- Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ báo Trung Bắc tân văn
Vì các vị ấy đều là người có danh trong xã hội cho nên bản
báo có ý tôn mà đem ra, chứ không phải lấy danh hiệu của những bực hữu danh mà
làm trò du hý đâu. Bản báo không theo đảng phái nào hết, cho nên mới chọn lựa
20 vị ở trên, là người thuộc về đủ các chức nghiệp, để chất vấn lòng khuynh hướng
của các độc giả đối với các vị ấy ra sao. Nói tóm lại, bản báo tưởng tượng ra
cuộc tuyển cử ấy là do ở thành tâm, xin các vị có phương danh trong ban ứng cử
kia, cùng các độc giả biết cho.
Cách tuyển cử thì quý độc giả phải làm như vầy:
Phải sắp thứ tự theo ý mình muốn, như ông X xứng đáng hơn hết
thì sắp đứng số 1, ông Z xứng đáng thứ nhì thì biên vào số 2; biên như vậy cho
đủ số 10 vị”
Với cách làm việc trung thực và cẩn trọng, các ủy viên của
Báo Phụ nữ tân văn ngày ấy đã công bố, kết quả cuộc trưng cầu ý kiến, có mười vị trúng
tuyển, trong số này có ông chủ bút tạp chí Nam Phong Phạm Quỳnh:
1. Phan Văn Trường 1133
phiếu
2. Huỳnh Thúc
Kháng 1062
-
3. Nguyễn Phan
Long 1057-
4. Diệp Văn Kỳ 986
-
5. Lưu Văn
Lang 910
-
6. Bùi Quang
Chiêu 885
-
7. Trần Trọng
Kim 794
-
8. Dương Văn
Giáo 788
-
9. Trần Trinh Bạch 671
-
10. Phạm Quỳnh 667
-
* Nhà báo có hạng, văn sĩ tài danh.
Chỉ tính thời gian 16 năm làm chủ bút Nam phong tạp chí và Tổng
thư ký Hội khai trí tiến đức, Phạm Quỳnh đã gây những làn sóng mạnh
mẽ trong tư tưởng và phán xét của người đương thời đầy nghiệt ngã! Mặc dù cho đến
nay hơn sáu chục năm qua đã có nhiều tài liệu viết về ông, dù có những
bất đồng ý kiến, nhưng tất cả đều ghi nhận, Phạm Quỳnh là người thông tuệ, am
tường cả Hán văn, Pháp văn, và chữ quốc ngữ. Ông tiên phong trong quảng bá chữ
quốc ngữ và dùng tiếng Việt, thay chữ nho và chữ Pháp để viết lý luận, nghiên cứu.
Ông biết tiếp thu những cái tốt đẹp của báo chí phương tây, báo chí Trung Hoa
nhưng vẫn giữ được cốt cách văn chương dân tộc. Ông là người chiến đấu không
khoan nhượng cho chủ quyền độc lập tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền
hành của triều đình Huế trên phạm vi cả nước; chống lại sự bảo hộ của Pháp và
kiên trì chủ nghĩa quốc gia với thuyết quân chủ lập hiến.
Trong “Phê bình và cảo luận", Thiếu Sơn (Lê
Sĩ Quý) đã phẩm bình: “Ông là một nhà hiếu cổ thủ cựu, xuất thân ở tây học mà lại
ưa đạo lý Khổng Mạnh, cái triết lý lãng mạn của Lão trang, cái thi vị của ca
dao nơi thôn dã, cái êm đềm của nền văn hoá cũ nước nhà. Ông cho những cái đó
là cái gia sản về tinh thần của tiền nhân để lại, ta phải phát huy nó ra, giữ lấy
nó làm căn bản cho cái văn minh nước nhà"
Ngay từ 1913 khi 21 tuổi, Phạm Quỳnh đã viết hàng loạt bài
trên Đông Dương tạp chí và được giới học giả đương thời đánh giá là
nhà báo có hạng, văn sĩ tài danh. Đến năm 1917 Phạm Quỳnh đi hẳn vào lĩnh vực
văn chương báo chí. Từ năm 1924, dù có làm giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội,
trợ bút báo France-Indochine… nhưng Phạm Quỳnh vẫn xông xáo trực tiếp viết
báo, viết sách. Ông dịch thuật, khảo cứu. Ông chắt lọc tinh dân tộc và tiếp thu
cái văn minh của phương Tây và đặc biệt đi tiên phong trong thể du ký sinh động,
sâu sắc. Đọc lại những bài ký ấy đã cách đây trên dưới chín chục năm nhưng vẫn
còn hấp dẫn. Bởi những trang văn không chỉ đầy ắp tính chân thực bộn bề chất liệu
đời sống mà ngôn ngữ miêu tả uyển chuyển, phong phú giàu chất suy tư, cùng những
quan sát tả cảnh thiên nhiên, khác xa lối văn trước đó khô cứng, khuôn phép lối
biền ngẫu. Ông đi về vùng đất phương nam, mỡ màu đang sinh thành... lấy
tư liệu viết bài và bình phẩm: Một tháng ở Nam Kỳ. Ông vào kinh đô Huế để viết
10 ngày ở Huế. Ông lên Cao Bằng, Lạng Sơn ghi chép cuộc sống vùng biên viễn rừng
núi, tràn ngập vẻ đẹp và phong tục nhân gian… Có khi đi thăm đất phật để rồi cho
ra đời tác phẩm Trảy chùa Hương và với đôi mắt tinh tế, nhạy bén luôn phát hiện
cái mới, ông có những nhận xét thật sắc sảo. Nhưng câu chữ dùng từ thế kỷ trước,
đậm đặc tính tân văn đến thời nay đọc lại vẫn mới. Ông phát hiện ra mặt trái của
những nét sinh hoạt trong hành lễ và cảnh báo, bình luận”Người ta đối với thánh
thần chẳng khác gì lũ dân ngu xử với bọn quan tham, tưởng cứ lễ lót nhiều là được
ơn huệ to”. Sau khi đi Pháp về ông có chùm bài Pháp du hành trình nhật ký
v.v... đăng tải trên tạp chí gây ấn tượng lạ lẫm cho người trong nước. Bằng cách vừa
kể, vừa tả có xen vào những đoạn bình luận sắc bén, những bài du ký của Phạm Quỳnh
đã tạo ra một sự hấp dẫn, mới lạ trong đời sống văn chương thời bấy giờ.
*
Tiếng mẹ đẻ và Truyện Kiều
Sinh
ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng từ nhỏ, Phạm Quỳnh đã sống trong vòng tay yêu
thương của bà nội, rồi khi trưởng thành sống giữa tình yêu của người vợ trẻ gốc
nông dân có năng khiếu văn chương bình dân, được nghe nhiều chuyện cổ tích... dân gian, ca dao tục ngữ, lời ăn tiếng nói dân quê, nên Phạm Quỳnh ngấm dần cái
vẻ đẹp nét hay của ngữ ngôn dân tộc.
Ngày 21 tháng 4 năm 1921 Hội khai trí tiến đức đã tổ chức một
cuộc sinh hoạt tại trụ sở Hội phố Hàng Trống. Phạm Quỳnh đã diễn
thuyết về tiếng Việt gây xúc động cử tọa - một điều từ xưa chưa từng có. Ông
nói: “Dù học tây hay tầu, ta chớ bỏ tiếng Việt là cái tiếng từ lọt lòng ra đã
nói. Và đến khi chết vẫn nói. Ta nên nhớ tới câu “Ta về ta tắm ao ta, dù trong
dù đục ao nhà vẫn hơn”. Với sự uyên thâm trải nghiệm cuộc đời, ông đặt câu hỏi
rồi tự trả lời: “Hàng ngàn năm qua người nông dân không biết chữ, vậy họ lấy gì
để tả nỗi lòng? Đó là quốc âm, tục ngữ, ca dao, phong dao, là văn chương truyền
khẩu. Chình nhớ có tiếng Việt ấy họ mới tìm thấy tình yêu, mới có
chuyện ân ái vợ chồng, mới có cảnh âu yếm lứa đôi“.
Năm 1932, tức hơn chục năm sau, ông cho xuất bản
cuốn Tục ngữ ca dao thành sách ở Nam Phong tùng thư, mà ông là chủ biên. Điều
này Phạm Tuyên từng kể rằng đại bộ phận nhờ có người mẹ thông minh, nhớ lại đọc
ra cho người cha của mình biên khảo.
Năm 1922, tròn ba chục tuổi, Phạm Quỳnh sang Pháp dự Hội
chợ triển lãm Marseille với tư cách Tổng thư ký Hội khai trí tiến đức. Ông có
bài diễn thuyết rất nổi tiếng trước Ban luận lý chính trị Viện hàn lâm Pháp về
dân tộc giáo dục. Đứng trước các trí thức thượng lưu Pháp, Phạm Quỳnh trong bộ
quốc phục, khăn đóng rất tự tin bước lên khán đài. Phạm Quỳnh đã làm rạng danh
quốc thể qua lòng tự tôn tiếng mẹ đẻ. Thực dân Pháp tuyên truyền rằng
dân Việt Nam nhược tiểu, ngu muội, tiếng ta là thứ tiếng thấp hèn, văn hóa Việt
Nam nghèo nàn. Ông chẳng e dè, nói giọng đanh thép:
“Dân
tộc Việt Nam không thể là một thứ giấy trắng. Chúng tôi là quyển sách dầy đầy
chữ viết bằng thứ mực không phai, từ mấy mươi thế kỷ nay. Quyển sách ấy có thể
đóng theo kiểu mới, cho phù hợp thời trang, nhưng không thể mang một thứ chữ
ngoài in lên dòng chữ cũ. Vấn đề là làm thế nào để tiếp nhận học thuật cao thượng
mà không bị mất giống, không còn quốc tính, biến thành một dân tộc vô hồn”.
Sang năm 1924 Hội khai trí tiến đức tổ chức kỷ niệm ngày mất
của thi hào Nguyễn Du, Phạm Quỳnh đã có bài diễn văn thật đặc sắc, trong đó có
đôi câu đối:
*
Trăm năm để tấm lòng, còn nước còn non, còn truyền cổ lục
*
Tấc thành dâng một lễ, nhớ người nhớ cảnh, nhớ buổi hôm nay.
Thấm
nhuần giá trị văn hóa Việt Nam, ông coi trọng truyện Kiều và coi là quốc bảo.
Tôn vinh ngôn ngữ nước nhà, ông nói “Truyện Kiều là cái văn tự của giống Việt
Nam ta đã “trước bạ” với non sông dân tộc. Thế kỷ mới rồi mới có một “đấng quốc
sĩ” vì nòi giống, vì đồng bào, vì tổ tiên, vì hậu thế rỏ máu làm mực viết trên một
thiên văn khê tuyệt bút, khiến cho giống An Nam được đích đáng làm chủ cõi sơn
hà gấm vóc. Quốc sĩ ấy là Nguyễn Du, thiên văn tuyệt bút ấy là Truyện Kiều, nó
kết tinh từ giọt máu, giọt lệ mà ra…”.
Với Phạm Quỳnh, truyện Kiều có giá trị xã hội cao hơn cả những
tác phẩm vĩ đại của nền văn học Pháp. Ông cho rằng, chẳng có tác phẩm nào của
văn học Pháp, lại có tính phổ thông trong đời sống cộng đồng như truyện Kiều ở
Việt Nam. Ông viết: Từ người bình dân có kiến thức thô thiển, đến bậc thượng
lưu trí thức, khi ngâm ngợi truyện Kiều đều thấy khoái trí, vui tai, tỉnh hồn,
sướng miệng.
Và kết thúc diễn văn, ông đã xuất thần một câu bất hủ: Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn.
Phạm Quỳnh giống như một loại hoa xương rồng có gai. Người
thích thì ngợi ca mang về đặt vào vị trí trân trọng thưởng lãm. Kẻ chê gai góc,
ai vô ý có thể gây chảy máu xước da. Tài năng, nhiệt tâm suốt đời đi theo lý tưởng
nhân văn, nhưng ông lại chịu nhiều búa rìu dư luận. Những cuộc tranh luận, phẩm
bình về ông trái ngược nhau như hai mảng tối sáng trong một bức
tranh thuỷ mặc.
Là một nhà báo tây học, thức thời không chịu cổ hủ, ông thích
cái mới, xô đẩy cái cũ. Không ít lần ông tỏ thái độ tôn trọng văn hoá Pháp, và
không ít lần dùng từ “nước mẹ Pháp “khi hành văn. Ấy là lúc đơn thuần ông
nghiêng về khía cạnh công lao khai hóa của Pháp. Nhưng nhìn thật công tâm lật
đi lật lại các mặt thì nó cũng chỉ là ý nghĩa giao lưu, mối quan hệ các nền văn
hoá mà thôi.
Có phải vì thế chăng mà có người phê phán ông là tên tay sai
phản động, ôm chân Pháp; có người khen ông là nhà báo có hạng, văn sĩ tài
danh. Ngay từ năm 1933, nghĩa là chỉ sau một năm ông thôi chèo lái con thuyền tạp
chí Nam Phong, thì trong cuốn “Phê bình và cảo luận”, Thiếu Sơn đã ghi công cho
Phạm Quỳnh: ”Những công trình về văn học, triết học của Âu châu và nhất là của
nước Pháp, ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng thật hay, vừa
biết tôn trọng cái nguyên ý của tác giả, lại vừa lựa theo cái giọng điệu của quốc
văn...”. Đồng thời, từ năm 1941, Phạm Quỳnh từng được giáo sư Dương quảng Hàm
đưa vào một chương trong sách Việt Nam văn học sử yếu trong phần chương trình
dành cho năm thứ ba Ban Trung học Việt Nam. Giáo sư Dương đã đánh giá rất công
bằng khi ông viết: “Cả cái văn nghiệp của ông Phạm Quỳnh đều xuất hiện trên tạp
chí Nam Phong, tạp chí ấy trong một thời kỳ, đã thành được một cơ quan chung
cho các học giả cùng theo đuổi một chủ đích với ông…”. Rồi với con mắt sắc sảo
đầy khám phá, Dương Quảng Hàm đã so sánh cặp bài trùng Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn
Vĩnh thế này: “Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu
Tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh thì có công dịch
thuật các học thuyết tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt
được các ý tưởng mới… Ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân
chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương của tiền nhân. Văn
ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông Quỳnh có tính
cách trang nghiêm của một học giả”.
Về
nhận định ấy, Dương Quảng Hàm thực là tinh tế và sâu sắc! Không chỉ trong học
thuật mà tính cách, nét sinh hoạt giữa đời thường của hai người cũng khác nhau,
mặc dù họ từng rất thương quý nhau.
Phạm Quỳnh sống giản dị, không phô
trương hình thức và thế lực. Giáo sư Phạm Thế Ngũ có lần đã trích
hai đoạn phóng sự của Đào Hùng đăng trên Phụ Nữ Tân Văn ngày 18-6-1931 và
ngày 16-7 -1931 để so sánh hai phong cách sống và làm việc của hai người:
“Hai căn phố lầu rộng lớn ở ngay đầu con đường Hàng Da,
giữa có cổng sắt làm lối ra vào, qua phía tay mặt thì thấy tấm bảng có đề hai
chữ Nam Phong bằng Hán tự, đó là nơi tòa soạn báo Nam Phong; còn qua bên tay
trái thấy có bóng đàn bà con nít - tức nhà riêng của ông chủ nhiệm Phạm Quỳnh… Buổi
chúng tôi đến thăm thì tiên sinh tuy trong người khó ở nhưng ngài cũng gắng gượng
khăn áo chỉnh tề ngồi tiếp chuyện chúng tôi trong hai giờ đồng hồ. Phạm tiên
sinh tuổi ngoài 40, vóc vạc ốm o, dáng người hoà nhã, ăn nói cử chỉ mỗi điều đều
có ý tứ giữ gìn, tỏ ra một người đã có công luyện tập tính nết cũng như câu văn
theo cái khuôn khổ mực thước riêng. Sau đôi mắt kiếng, cặp mắt vui vẻ pha với nụ
cười luôn trên miệng đã làm cho mất cái vẻ kiêu căng tự cao mà thông thường người
ta vẫn có ý trách tiên sinh…”.
Đoạn này kể về Nguyễn Vĩnh: “Tầng trên lầu là tòa soạn báo
Trung Bắc Tân văn, Học báo và L’Annam Nouveau, người làm đông đúc, tiếng máy chữ
rền tai, rõ là một nơi công việc bộn bề khác với cảnh tịch mịch trong tòa soạn
báo Nam Phong của Phạm Quỳnh. Thấy cảnh đủ biết tính người khác nhau như đen với
trắng, bên ưa hoạt động, bên thú êm đềm. Vậy thì hai bên không hợp tác được với
nhau cũng không lấy chi làm lạ và người xướng lên vấn đề lập hiến người tán
dương trực trị cũng là lẽ thường… Nguyễn Văn Vĩnh tiên sinh đang ngồi nơi bàn
giấy đọc các thư từ thì chúng tôi vào thăm. Tiên sinh năm nay tuổi đã ngũ tuần
mà người coi sức lực mạnh mẽ lắm. Diện mạo khôi ngô, đôi mắt long lanh, cử chỉ
tự nhiên, nói cười vui vẻ…”
Học giả Phạm Quỳnh trong con mắt của Vũ Ngọc Phan - tác giả cuốn
Nhà văn hiện đại xuất bản năm 1942 - là một người tài năng siêu việt. Vũ Ngọc
Phan đã dành cho Phạm Quỳnh hơn ba mươi trang sách với những lời ca
ngợi: “Một điều mà người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên tập và
trước thuật của ông là ông không cẩu thả… Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn
luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến
triết lý, đạo giáo, cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông
không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch sử văn học
hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong, vì nếu ai đọc
toàn bộ tạp chí này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả
một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư bằng quốc văn”. Vũ Ngọc
Phan khi đánh giá về văn khảo cứu của ông đã coi ông là”một người có
cái học vừa sâu sắc vừa quảng bác”.
Tạp chí Nam Phong là một phần đời của Phạm Quỳnh, và Phạm Quỳnh
có mối quan hệ máu thịt với Nam Phong tạp chí từ khi nó ra đời cho đến khi ông
vào Huế làm quan. Quan điểm, việc làm của ông về văn hóa, chính trị cũng đều được
phô bày trên tạp chí. Nó không chỉ biểu hiện ở nội dung thâm thuý mà còn trực
diện ra hình thức. Bạn đọc thời ấy còn nhớ rõ dưới tên Nam Phong có ghi một
dòng chữ Pháp L’information française (thông tin Pháp).
Có người suy luận cực đoan cho rằng: tờ báo này do người Pháp
lập ra chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của người Pháp?
Cần phải xem tất cả 210 số tạp chí, trải qua 15 năm (tính đến
khi Phạm Quỳnh thôi chức Chủ nhiệm) và hàng nghìn bài báo, đủ các loại thể loại
khảo cứu, bình luận, du ký… mới thấy có phải tờ Nam Phong chỉ là công cụ tuyên
truyền cho chính sách thực dân hay không?!
* Tháp đa diện - Phạm Quỳnh
Cần mẫn, trân trọng thời gian, Phạm Quỳnh đã nắn nót nâng niu
những ý tưởng của vua La Mã để tự răn mình”Thời gian ví như một con sông, mọi vật
ví như một cái thác cuồn cuộn chảy. Vừa mới nhác trông thấy một vậy, thời nó đã
bị cuốn trôi rồi; vật khác lại đến, lại sắp bị trôi đi nốt"…
Cũng nhờ đam mê tận tụy làm việc, Phạm Quỳnh đã để lại một sự
nghiệp văn hóa đồ sộ. Tạp chí Nam Phong ra trong 17 năm được 210 số, riêng Phạm
Quỳnh viết có tới vạn trang. Ông trở thành một nhà ngôn luận có khả
năng bàn một cách rành mạch và có sức thuyết phục về nhiều mặt. Một loạt bài
biên dịch, khảo cứu, du ký có giá trị của ông thuộc về sau đã được sắp xếp lại
để in thành sách trong bộ Nam Phong tùng thư. Riêng bộ Thượng Chi văn tập gồm
năm quyển chỉ là một phần nhỏ được chọn lọc từ hàng trăm bài báo viết ra trong
giai đoạn đầu Nam Phong (1917-1922), hầu hết có liên quan đến các vấn đề văn
hóa, ngôn ngữ, văn học, giáo dục, chính trị, kinh tế, triết học… mà bây giờ đọc
lại vẫn còn có nhiều điều bổ ích.
Cuộc đời Phạm Quỳnh có những phần được ánh sáng rọi vào và có
phần nằm trong góc khuất. Có thể ví như một toà tháp đa diện toạ lạc
giữa không gian. Nếu thiếu đi phương pháp nhìn bao quát tổng thể tất tạo ra những
nhận xét trái chiều nhau. Một quãng thời gian dài, ông bị mờ
nhạt vào dĩ vãng vì những lý do tế nhị của lịch sử. Tên tuổi ông
không được nhắc tới trong chương trình văn học của nhà trường. Nếu có nhắc đến
cũng chỉ vài dòng nhận xét cực đoan. Quyển Từ điển Văn học bộ cũ của Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội xuất bản năm 1983 của thế kỷ trước cũng không thấy có mục tên
ông. Mãi đến năm 2000, sau khi đã có độ lùi xa, nhìn lại một cách trầm tĩnh hơn
về quá khứ, tên Phạm Quỳnh mới được nêu thành mục từ trong quyển Từ điển Nhân vật
lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản Giáo Dục.
Có nhiều quan điểm, phẩm bình về Phạm Quỳnh, nhưng phổ quát
nhất người ta có mấy hướng nhìn khác nhau. Một xu hướng phủ nhận
thành tựu và cống hiến mà suốt đời ông theo đuổi.
Nhóm khác trong đó có Vương Trí Nhàn, Nguyễn Trần
Huân, và Xuân Ba thì cho rằng Phạm Quỳnh chiết trung, chiêu tuyết, có phẩm cách
yêu nước kiểu Phạm Quỳnh.
Nguyễn Trần Huân viết: “Sự xoay sở tế nhị của Phạm Quỳnh để
dung hòa đôi bên (tức Việt - Pháp, KHL chú) rút cuộc có lợi cho Việt Nam... Đó là
một sự xấu xa cần thiết tương đối bé nhỏ so với những công lao to tát mà tạp
chí đã làm cho tiếng Việt… Nhóm Phạm Quỳnh đã tạo những huy hiệu cao cả cho nền
văn chương Việt Nam trẻ tuổi đang hình thành và tìm kiếm con đường của mình”.
Còn một xu hướng khác cởi mở và thận trọng thì cho rằng: Ông
có lập trường dân tộc, chủ nghĩa quốc gia, trọng di sản văn hoá, truyền
bá dịch thuật tinh hoa của nước Pháp, chăm chút ngôn ngữ nước nhà.
Những người có tinh thần thận trọng không vội vàng kết luận ấy, tiêu biểu là Vũ
Ngọc Phan, Thanh Lãng, Trịnh Bá Đĩnh, Phạm Thế Ngũ, và Từ Điển bộ mới do Đỗ Đức
Hiểu chủ biên.
Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Ngày nay chúng ta có nghiên cứu Phạm
Quỳnh là nghiên cứu nhà báo và nhà văn của tạp chí Nam Phong, con người và tư
tưởng trước năm 1932, con người tốt đẹp đã đóng một vai trò tương đối tiến bộ trong
một giai đoạn lịch sử chính trị nhất là đã dày công xây đắp cho nền học và nền
văn mới.” (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thư
1965).
Ý kiến ấy hơn bốn chục năm trước kia đã là thoả đáng. Chẳng
ai có thể nghi ngờ. Nhưng chúng ta nhìn lại một cách toàn diện và thấu đáo hơn,
thì cả khi Phạm Quỳnh ra làm quan, tấm lòng ông với quốc dân với nền hòa bình của
dân tộc vẫn còn nhiều điểm đáng bàn, chứ không chỉ trong thời kỳ làm báo.
Gần đây, trong bộ Từ điển Văn học bộ mới (Nhà xuất bản Thế Giới,
tháng 10 năm 2004), khổ 19 x 27cm, dày 2190 trang, tên ông đã được bổ sung
trong mục Phạm Quỳnh do Nguyễn Huệ Chi viết, dài 3 trang (từ trang 1364 đến
1366), với một sự trình bày khá khách quan và trân trọng. Tác giả thừa
nhận hầu hết công lao đóng góp của ông đối với nền văn hóa nước nhà. Trong sách
thí điểm phân ban môn văn học thực hiện từ năm 2005, Phạm Quỳnh lần đầu tiên mới
được đưa vào sách giáo khoa nhà trường phổ thông. Tuy còn ít, nhưng chỗ nói về
cuộc tranh luận Truyện Kiều giữa Ngô Đức Kế với Phạm Quỳnh, tạo ra sự thú vị,
cũng là một điểm tiến bộ rất đáng khích lệ trong quá trình điều chỉnh
nhận thức.
Trước đó, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Trung
tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây cũng đã xuất bản một tuyển tập gần 30 bài viết của
ông, lấy tên Phạm Quỳnh, luận giải văn học và triết học (do Trịnh Bá Đĩnh tuyển
chọn, giới thiệu). Mấy tập du ký của ông như Mười ngày ở Huế, Pháp du hành nhật
ký cũng được Nhà xuất bản Hội Nhà văn lần lượt cho in lại tháng 4 năm 2004 một
cách trân trọng. Có thể coi vấn đề Phạm Quỳnh đến nay đã được xã hội nhận thức
lại một cách thỏa đáng, công bằng hơn.
Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng, Phạm Quỳnh là một trong những
người Việt viết tiếng Pháp hay nhất, một thứ tiếng Pháp trang nhã, sang trọng,
trong sáng và đầy âm vang”
Quả vậy, Phạm Quỳnh là một học giả có tên trong Hàn lâm viện
Pháp, tự do dân chủ Pháp, một người được giới trí thức đương thời đánh giá cao.
Nhưng ông cũng là đề tài gây ra nhiều cuộc tranh luận. Ở miền Nam trước năm
1975, trong vài sách văn học sử tiêu biểu như của Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng…, Phạm
Quỳnh và Nam Phong tạp chí được giới thiệu khá chi tiết với đầy đủ góc nhìn. Rồi
những năm đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ trước từng diễn ra cuộc tranh luận
kéo dài gọi là “Vụ án truyện Kiều”, có sự tham dự của rất nhiều nhà nghiên cứu
văn học, mà giáo sư Nguyễn Văn Trung đã tập hợp lại để giới thiệu cho các sinh
viên đại học văn khoa Sài Gòn thời đó.
Đành rằng thế, nhưng sự thật khi nói tới Phạm Quỳnh,
nhiều người vẫn e dè về quan điểm chính trị của ông. Họ cho rằng, trong khi có bao
nhiêu văn thân chí sĩ đi theo chủ kiến chống Pháp bằng con đường bạo lực, thì
Phạm Quỳnh lại theo chủ nghĩa cải lương bảo thủ, một chủ trương chính thể quân
chủ lập hiến. Rằng tìm kiếm giải pháp xây dựng một nước Việt Nam mới tự trị có
nền giáo dục và quốc học dung hòa tư tưởng đông tây. Rằng phải đào tạo
một tầng lớp trí thức mới theo những điểm tiến bộ trên cơ sở chấp nhận chế độ
thuộc địa và có sự giúp đỡ của người Pháp. Nói cách khác, nhà văn, nhà báo, nhà
giáo dục, học giả Phạm Quỳnh theo đường lối Pháp Việt đề huề?. Thật vậy, đã nhiều
lần Phạm Quỳnh tự nhận mình chỉ suốt đời vun đắp quốc văn, chứ không
làm chính trị: “Tôi vốn là nhà làm văn, nhà học vấn. Cái chủ nghĩa tôi phụng sự
bấy lâu nay - kể có trên dưới mười lăm năm trời thật là dốc một lòng, chuyên một
dạ - chính là chủ nghĩa quốc gia, nhưng chỉ mới phụng sự về phương diện văn
hóa, chưa hề chuyển di sang phương diện chính trị”. Có một điều minh
bạch là, tuy Phạm Quỳnh không làm cách mạng, nhưng ông rất kính trọng các chí
sĩ hoạt động yêu nước, chấp nhận những chí hướng riêng của mỗi người. Đối với
ông, ông có nỗi niềm riêng… Và trên thực tế ông chưa bao giờ tỏ một thái độ nào
không nể phục những người cách mạng, ái quốc.
Còn nhớ, năm 1922 khi sang Pháp với tư cách là Tổng thư ký Hội
Khai trí tiến đức, dự triển lãm tại Marseille(Pháp), cũng là lúc nhà cách mạng
Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động tại Pháp. Phạm Quỳnh đã có những tiếp xúc với
Nguyễn Ái Quốc và Phan Văn Trường. Bà Phạm Thị Ngoạn con gái Phạm Quỳnh còn giữ
được cuốn sổ của cha, ghi lại sự kiện này. Cuốn sổ ghi nhật ký năm 1922, chữ Phạm
Quỳnh ghi: “Thứ 5 ngày 13 tháng 7, ăn cơm An nam với Phan Văn Trường và Nguyễn
Ái Quốc ở nhà Trường". Một trang khác: “Chủ nhật ngày 16 tháng 7: Ở nhà.
Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi“.
Đến năm 1945, sau khi xẩy ra vụ gia biến không ngờ, khi biết
tin này Hồ Chủ Tịch đã cho thứ trưởng bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam, cử người vào Huế
đón cả gia đình Phạm Quỳnh ra Hà Nội. Người từng nói “… Tôi đã từng gặp,
từng giao tiếp với cụ Phạm ở Pháp. Đó không phải là người xấu.”
* Dũng khí và khẩu khí Phạm Quỳnh
Phạm Thế Ngũ trong cuốn “Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên - 1965” khi nói về bút pháp Phạm Quỳnh, ông cho rằng Phạm Quỳnh
“đã tranh đấu cho câu văn quốc ngữ... Nam Phong ra đời, Phạm Quỳnh viết
lách tạo cho câu văn Quốc ngữ (Việt văn) một thực chất, một sinh lực... Tạo dựng một nền văn chương Việt ngữ sống động và phong phú, thừa
sức diễn đạt những ý tưởng thâm thúy cao siêu, không kém gì văn chương
của những nước văn minh tiên tiến...”. Bên cạnh đó Phạm Quỳnh còn có bản
lĩnh của một cây bút phóng sự, nhanh nhạy và tinh tế.
Thời kỳ tạp chí Nam Phong, Phạm Quỳnh thể hiện dũng khí
và khẩu khí của một nhà báo hóm hỉnh, một cây bút ghi chép những chuyện
đáng ra phải nghiêm túc. Năm 1922 có cuộc đấu xảo thuộc địa tổ chức tại
Marseille (Pháp), vua Khải Định được Khâm sứ Trung kỳ Pasquier gợi ý đi, đã
chấp thuận ngay. Một là để ra ngoài xem nước Đại Pháp thế nào, hai là có dịp
mua sắm hàng ngoại quý hiếm. Khi tới Pháp, vua Khải Định bị dân Việt công kích
làm cho mất mặt.
Cụ Phan Chu Trinh gửi tới Khải Định một bức thư gọi là “Thư
thất điều đón giá như Tây”. Trong thư cụ Phan đã kể vua 7 tội: Tôn bậy quân quyền,
lạm hình thưởng phạt, thích chuộng sự quỳ lạy, xa xỉ quá độ, ăn mặc lố lăng,
chơi bời vô độ và chuyến đi Tây có điều ám muội.
Dân Việt ở Pháp rất hoan nghênh những điều cụ Phan kể ra. Vì
chính mắt bàn dân thiên hạ đều chứng kiến cảnh vua Khải Định ăn mặc không
nghiêm chỉnh đã làm mất quốc thể. Họ kể cho nhau nghe chuyện vua An Nam mặc áo
có gắn các bóng đèn nhỏ, màu sắc thì lòe loẹt, trong áo có gắn cục pin. Thành
ra trên vai trên cổ Khải Định đều sáng chói, trông như một anh đang làm ảo thuật.
Nhiều người ngoại quốc thấy lạ đổ xô đến xem vua An Nam. Chính thời gian này
Nguyễn Ái Quốc cũng đang ở Pháp. Để đón chào vua, Nguyễn đã kịp thời sáng tác
và cho diễn vở kịch “Con rồng tre“ rất ý nghĩa…
Chuyện ấy nhiều người biết. Có một thú vị là, chính những việc
mà Khải Định diễn ra ở bên Pháp ngày ấy có một “phóng viên” có hạng đi theo. Đó
là Phạm Quỳnh. Với tư cách là Tổng thư ký Hội Khai trí tiến đức, Phạm Quỳnh
cũng đi Pháp chuyến này. Ông cùng trở về Việt Nam trên cùng con tàu có Khải Định.
Người Việt Nam ở bản xứ dẫu xa nước Pháp nghìn trùng, nhưng tại thời ấy cũng biết
tường tận các hoạt động của vua Khải Định tại Pháp. Họ chỉ cần mua và chịu khó
đọc Nam Phong tạp chí, qua thiên ký sự Pháp du hành trình nhật ký in
rải rác gần năm chục số, bắt đầu từ số 58 tháng 4 năm 1922 kéo dài đến số 100,
vào tháng 11 năm 1925!
Từ sau ngày vua Duy Tân vì khởi nghĩa chống Pháp, bị phế truất
và lưu đầy, thực dân Pháp đã đưa hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Đảo, con vua Đồng
Khánh lên ngôi, lấy tên hiệu là Khải Định. Trước khi làm vua, Bửu Đảo ham ăn
chơi, thích sòng bạc và nợ như chúa chổm. Khải Định lại rất chuộng trang sức,
thích bình yên để hưởng những lạc thú ở đời. Các đồ dùng của Pháp, vua đều lấy
làm thích thú, cho đó là tân tiến, nước mình không thể có được. Pháp thấy Khải
Định không có ý chí, phẩm cách kém hẳn Thành Thái và Duy Tân nên rất mừng.
Quả nhiên, sang tới Pháp, hình ảnh vua Khải Định đã bộc lộ
khá sinh động, dí dỏm pha chút hóm hỉnh dưới ngòi bút Phạm Quỳnh.
Xin trích vài đoạn trong Pháp du hành trình nhật ký:
Thứ bảy, 24 tháng 6 năm 1922: 10 giờ sáng, Hoàng thượng đến
Paris… Mình không được biết thành Paris xưa nay đón các bậc đế vương
các nước thế nào, nên không thể so sánh được lần này với các lần kia khác nhau
thế nào. Nhưng nhận ra người đứng xem ít lắm. Nghe khách qua đường thấy đám lạ
dừng lại xem, chỉ thấy nói: “Ồ! họ ăn mặc hay nhỉ! kỳ nhỉ!”; có người lại hỏi lẫn
nhau: “Người nước nào vậy?”.
Đúng như nhận định của người Pháp, vua Khải Định đi Tây chủ yếu
là sắm đồ. Điều này được Phạm Quỳnh ghi khá tỉ mỉ: “Thứ sáu, 11 tháng 8 năm
1922:… Gần bốn giờ thì Hoàng thượng xuống tàu, kèn trống thổi mừng,
quân quan đứng tiễn. Ngài đi Tây chuyến này sắm được vô số đồ, chở
xuống tầu từ 2 giờ đến 4 giờ, hết kiện ấy đến kiện khác, cái cần máy trục cứ giơ
lên hạ xuống hoài mà không dứt. (…)
Có một câu chuyện Phạm Quỳnh ghi được về Khải Định mà đọc lên
ai cũng phải cười thầm. Đó là chuyện nhà vua đến thăm Hội Đông Pháp hỗ trợ, ở
đường Sommerard. Khi người ta xin chữ ký, thì ông vua cầm quản bút
ra dáng nghĩ ngợi và “cái quản bút quằn quại trên tay, mà không thấy viết chữ
gì. Năm phút, mười phút, mười lăm phút, người đứng chung quanh đã thấy thì thào
động đậy… Sau mới thấy ngòi bút chuyển động; ai nấy thở dài! Hỏi ra thì không
phải thơ ngũ ngôn tứ tuyệt gì, chỉ có một câu
chữ Hán rằng: năm ấy, tháng ấy, đức Hoàng đế
Việt Nam đến ngự nhà Hội, thế mà thôi. Ấy đức Chí tôn ngài viết một chữ một câu
cũng thận trọng như thế…”
Và một đoạn khác: Thứ ba, 29 tháng 8-1922: Cùng anh em đi
chơi phố, vào các cửa hàng bán ngọc thạch, xem được nhiều thứ ngọc xanh, biếc,
đỏ, vàng, màu sắc rất đẹp mà giá tiền cũng rẻ. Hoàng thượng cũng xuống bộ, thời
cơm với Lãnh sự Pháp, nghe đâu ngài sắm được nhiều đồ chơi và ngọc thạch.
Cũng với sự hài hước như thế, ngòi bút Phạm Quỳnh tỏ ra sắc sảo
và có dũng khí khi thể hiện trong bài “Cuộc tiến hóa của tiếng nước Nam”. Ông
đã dí dỏm kể một câu chuyện về những vị đại thần nước Việt không biết tiếng
Pháp, khi nghe tin người mới được bổ nhiệm Toàn quyền tên là Doumer (Dume), thì
coi đó là cái tên tục tĩu. Bởi theo tiếng Việt, nhất là tiếng Huế thì Dume giống
như một tiếng chửi thề tục tĩu mà thôi. Một nhà báo có khẩu khí và dũng khí như
vậy chẳng ăn nhập với cái dáng ngoài nhã nhăn và thận trọng như quan Khâm sứ
Trung kỳ nhận xét về ông.
* Phạm Quỳnh - và lòng tự tôn dân tộc.
Nhờ nhân cách và học vấn, ông đã có khả năng thu
hút nhiều trí thức vào hàng khoa bảng trong nước, trở thành cộng tác
viên của tạp chí Nam Phong: Hoàng giáp Đinh Văn Chấp, Phó bảng Hoàng Yến, cử
nhân Bùi Kỷ, cùng những quan chức như: Tuần vũ Trần Mỹ, Tế tửu Quốc Tử Giám Ưng
Trình, Án sát Nguyễn Đình Chi, Đốc học Trần Thất Phán… rồi các học
giả, nhà văn, nhà thơ: Phan Khôi, Dương Quảng Hàm, Phạm Duy Tốn, Tương Phố… vân
vân
Để đáp lại thịnh tình ấy, Phạm Quỳnh thể hiện lòng tôn trọng
và tế nhị của người gốc nho học, thấm nhuần văn hóa đông phương có sự
giao hòa văn hóa tây phương. Vì thế, trong hoạt động báo chí, làm chủ
một tờ báo có đối tượng rộng lớn và đa dạng, tránh sao những lời thị phi, đố kỵ?
Những lúc ấy, hoặc là ông im lặng, hoặc bất đắc dĩ mới nói lại một
cách xa xôi, mát mẻ chứ không bộp chạt của con người lấy kiến thức ra dạy đời.
Báo Phong Hóa số 14 ngày 22-7-1932 xuất hiện một
bài vè châm biếm Phạm Quỳnh và Nguyễn Vĩnh:
Nước Nam có hai người tài
Thứ nhất xừ Ĩnh, thứ hai là xừ Uỳnh
Một xừ béo núng rung rinh
Một xừ lểu dểu như hình cò hương
Không vốn liếng chẳng ruộng nương
Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu…
Phạm Quỳnh im lặng. Đó là thời điểm trước 4 tháng ông
vào Huế nhậm chức.
Đến khi ông đã là Lại bộ Thượng thư, thì Đổng lý Ngự tiền văn
phòng Phạm Khắc Hòe cũng không thích Phạm Quỳnh. Khi Bảo Đại sai ông
này soạn đạo dụ cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt Chính phủ Việt Nam giao thiệp
với Tối cao Cố vấn Nhật và các nhà chức trách, thì ông Hòe lại thảo tờ Chỉ
(nghĩa là thấp hơn 2 cấp trong văn bản luật hành chính - Chiếu, Dụ, Sắc,
Chỉ) cử Phạm Quỳnh tạm thời làm nhiệm vụ liên lạc giữa hai bên. Sau
này Phạm Khắc Hòe kể “Làm như vậy, tôi chắc rằng những chữ Chỉ, tạm thời,
liên lạc thế nào cũng làm cho Phạm Quỳnh căm thù mình. Ấy thế nhưng sáng ngày
14-3-1945, khi gặp tôi trong buổi lễ cáo yết Liệt thánh, Phạm Quỳnh lại tỏ ra
ngọt ngào với tôi hơn bao giờ hết. Và vào lúc buổi lễ kết thúc, ông thiết tha
căn dặn tôi chiều hôm ấy trên đường đi vào Đại Nội, ghé qua bộ Lại nói chuyện”.
Năm 1922 Phạm Quỳnh đi dự cuộc đấu xảo ở Pháp, ông có dịp diễn
thuyết ở một số trường học lớn tại Paris và đăng đàn 4 lần về các đề
tài khác nhau: Về thi ca Việt Nam, Sự tiến hóa chữ Quốc ngữ, Sự
tiến hóa của dân An Nam, và Tình trạng giáo dục của dân An Nam.
Năm sau những bài nói ấy được tập hợp in thành
sách, xuất bản ở Pháp, rồi được chuyển về Đông Dương. Có một trí thức
Pháp có bút danh Sérénus đọc, khen hay đã viết bài bình phẩm bằng tiếng
Pháp đăng trên tờ France-Indochine. Có người đề nghị ông dịch bài ấy ra Quốc ngữ
để đăng lên tờ Nam Phong tạp chí. Ông đã từ chối. Nhưng sau này nhiều bạn bè
phân tích, cuối cùng Phạm Quỳnh đã suy nghĩ lại ”Lời khen của vị quan ấy không phải
khen riêng một mình tôi, mà có ý khen cả dân tộc Việt Nam, tưởng cũng nên in lại
và dịch ra để công chúng cùng lãm” (Chú thích NPTC số 75 tháng 9 năm 1923 - theo
Nguyễn Thục Chuyên - Huế xưa và nay - số 94)
Phạm Quỳnh ý thức rằng, ”tiếng là nước, tiếng còn thì nước
còn, tiếng mất thì nước mất, mà mất đó mới thật là mất hẳn, không sao vãn hồi
được nữa”.
Tâm niệm ấy dường như đi suốt chặng đường hoạt động sau này của
ông. Phạm Quỳnh cũng từng nung nấu, trăn trở về quan niệm chính trị và văn hóa của dân tộc. Trên Nam Phong tạp chí số 107 năm 1925 ông viết bài “Văn hóa và
Chính trị” một bài luận thuyết khá sâu sắc “Chính trị và Văn hóa một đàng là gốc,
một đàng là ngọn, gốc có vững thì ngọn mới tốt được. Nước Nam ta hiện chưa được
là nước chân chính, hiển nhiên ai cũng biết. Sở dĩ chưa được là một nước chân
chính là bởi vì không có chủ quyền về chính trị, điều đó hiển nhiên ai cũng biết… Một
nước đã mất quyền chính trị mà muốn thu phục lại, thời chỉ có hai cách: Một
cách bạo động, một cách ôn hòa”
Và trong hoàn cách của Phạm Qùynh, ông đã đi theo cách thứ
hai.
Nhân cách của Phạm Quỳnh còn thể hiện ông có một cách nhìn
sâu sắc về văn hóa dân tộc.
Thời kỳ đầu, tạp chí Nam Phong sử dụng logo (biểu
trưng) trên bìa 1 có hình con gà trống Gôloa (gauloi) đứng trong hình vành khăn
với 3 từ tiếng Pháp dàn quanh vòng: Liberté (tự do) Égalité (bình đẳng) Fra
ternité (bác ái), cũng là biểu trưng nước Pháp, để che mặt nhà cầm
quyền. Nhưng ba năm sau, ông bỏ logô này thay vào biểu trưng hình bầu
dục với hai đường viền xung quanh, ở giữa có hai chữ Việt “Nam Phong”, kiểu chữ
Triện. Sự thay đổi ấy ngầm ý tự tôn dân tộc, tự hào về tổ quốc của mình. Và vào
năm 1931, khi Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp P.Reynaud nhân dịp ghé thăm Hà nội
ngày 6-11- 1931, ông đã gửi một bức thư ngỏ, nói rõ ràng, thẳng thắn
yêu cầu chính phủ Pháp ”hãy cho chúng tôi một Tổ quốc để tôn thờ, ví đối với dân
tộc Việt Nam, Tổ quốc đó không phải là nước Pháp”. Thời đó, không phải ai cũng
dám làm, dám nói.
Với
một bản lĩnh của con người trí thức, được đào tạo cơ bản, lại mang dòng máu Phạm
tộc nho gia, Phạm Quỳnh đã có những ứng xử mà sau này nhìn lại mới thấy là
nghĩa hiệp.
Chuyện
về Nguyễn Phước Bửu Đình, chắt trai của hoàng tử Tỉnh Gia, con vua Minh Mạng là
ví dụ. Tuy là tôn thất Hoàng tộc, nhưng Bửu Đình có ý thức tiến bộ
mang lòng yêu nước yêu dân tộc. Từng là chủ bút tờ Tân thế kỷ, ông đã viết loạt
bài chỉ trích thái độ khiếp nhược của quan lại triều đình, tổ chức
những cuộc nói chuyện chính trị tại tư thất của Phan Bội Châu ở Huế (1927) trước
đông người, để công kích chế độ. Ông bị bắt, bị đày đi Lao Bảo (Quảng Trị) bị
xóa tên trong hoàng phái, bị đổi thành Tạ Đình, họ của thân mẫu.
Bửu
Đình đã 2 lần vượt ngục Côn Lôn. Lần thứ nhất, ông phải trôi nổi trên biển rồi
bị nước sở tại bắt, tống vào nhà lao Xiêm. Nhà cầm quyền Thái Lan đẩy
trả ông về Sài Gòn, rồi thực dân Pháp ném vào Côn Đảo. Cuối năm 1932, ông vượt
ngục lần nữa và mất tích giữa bể khơi...
Giữa
lúc dư luận đang xôn xao hơn thiệt, thì tờ báo Phụ nữ tân văn số 225 ngày
23-11-1933 đăng tin, lại có sự đóng góp của Phạm Quỳnh:
ÔNG
BỬU ĐÌNH ĐƯỢC ÂN XÁ
Nhân
dịp vua Bảo Đại về nước, bà Nguyễn Thị Hiếu tức là bà Bửu Đình ở Gò Công có xin
ân xá cho ông Bửu Đình.
Bà
Bửu Đình có cho bản báo hay là đã được chỉ dụ ân xá; song bản báo chưa có bằng
cớ gì quả quyết, nên có viết thư hỏi ông Thượng Phạm Quỳnh. Ngày nay bản báo đã
được trả lời, xin đăng nguyên văn để làm bằng cớ chắc chắn và cảm ơn quan Thượng
Phạm có lòng tốt cùng bản báo.
Huế,
le 4 Novembre - ngày 4 tháng 11 năm 1933
Palais
Impérial (Hoàng Cung)
Cabinet
Civil de Sa Majesté (Ngự tiền văn phòng)
A
Monsieur Nguyễn - Đức-Nhuận,
Directeur
du Phụ Nữ Tân Văn
48 -
Rue Vannier - SAIGON
Tôi
có tiếp được thư của quý ông đề ngày 21 Octobre (tháng 10) 1933, hỏi thăm việc
Tạ Đình (tức Bửu Đình) được Hoàng Thượng ân xá và có đính theo bản sao lục Chỉ
Chuẩn về việc ấy.
Tôi
sức cứu bản sao lục ấy quả y như nguyên bản và Tạ Đình đã được Hoàng Thượng gia
ân cho huyền án tha về giao cho phủ Tôn Nhân kiểm cố, đợi ngày sau xét ra thiệt
có lòng hối quá, thời phủ Tôn Nhân sẽ tâu xin cho phục hồi Tôn tịch.
Vậy
xin phúc lại để quí ông biết.
Nay
kính phúc
PHẠM
QUỲNH
Mới
hay, dù đã vào Huế làm quan trọn một năm, Phạm Quỳnh vẫn giữ nguyên tác phong
nghề nghiệp và phẩm chất của một nhà báo. Ông coi trọng và thấu hiểu tâm
nguyện của công chúng là khát khao tin tức. Ông không hề né tránh cái việc vốn
tế nhị có liên quan đến Hoàng gia và thế lực cầm quyền, có thể gây
ra rắc rối cho mình, đã gửi công văn phúc đáp cho báo Phụ nữ tân văn. Mặc
dù chỉ mươi dòng chữ, nhưng thể hiện trách nhiệm của mình trước sự
quan tâm của xã hội.
* Những tác phẩm tiêu biểu:
Theo sách Lược truyện các tác gia Việt Nam - (NXB KHXH - năm
1972) thì Phạm Quỳnh đã xuất bản nhiều tác phẩm, với nhiều lĩnh vực văn hoá và
triết học. Đó là những bản dịch về triết học, văn học, cách ngôn, ngụ ngôn, tuồng
hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt. Nhiều bài nghiên cứu in trong Đông Dương tạp
chí, Nam Phong tùng thư, Thượng chi văn tập, tạp chí của Trường Viễn Đông bác cổ,
Nha học chính Đông Dương, Tạp chí Thái Bình dương, Tạp chí Pháp Á v.v…Trong đó
phải kể đến 18 tác phẩm lớn bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Những tác phẩm in bằng
tiếng Việt đáng chú ý: Chính trị nước Pháp, Lịch sử thế giới, Phật giáo đại
quan, Ba tháng ở Paris, Văn học nước Pháp, Nhân nguyệt vấn đáp, Văn minh luận,
Tài liệu bách khoa đại từ điển v.v…
Những tác phẩm của Phạm Quỳnh phần nhiều là những
bài viết đăng trên báo chí. Năm 1942, làm quan ở Huế đã được 10 năm
ông mới để tâm tập hợp một số bài có giá trị và in thành hai bộ sách: “Thượng
Chi Văn Tập”và “Nam Phong Tùng Thư”. Ngoài ra các bài viết chính yếu khác của
ông vẫn còn rất nhiều đang nằm rải rác trong 210 tập báo Nam Phong. Ngày nay,
muốn tổng quát những gì ông đã viết, người ta cần phải làm liệt kê
phân loại khá phức tạp. GS. Phạm Thế Ngũ, (tác giả sách Việt Nam Văn
học sử giản ước tân biên), có ý kiến cho rằng văn phẩm Phạm Quỳnh có thể chia gọn
ra 3 loại:
* Dịch thuật:
Bao gồm các tác phẩm luận thuyết, phương pháp luận, sách cách
ngôn, kịch bản và thơ văn…
* Khảo luận:
- Về Tây học, như:Văn minh luận, Chính trị nước Pháp. Lịch sử
thế giới, Luận lý học thuyết Thái tây, Lịch sử và học thuyết Rouseau,
Montesquieu, voltaire; Triết học Auguste Comte, Triết học Bergson, Văn học sử
Pháp, Khảo luận về tiểu thuyết, Bình luận tác phẩm của P. Bourget, H. Bordeaux,
G. de Maupassant, Alfred de Vigny.
- Về Đông học và Quốc học: Phật giáo lược khảo, Người quân tử
trong đạo Nho, Tục ngữ ca dao, Việt Nam thi ca, Khảo cứu về truyện Kiều, Bàn về
thơ Nôm, Hát ả đào, Khảo về chữ quốc ngữ, Chữ Nho với văn quốc ngữ, Hán Việt
văn tự, Bàn về quốc học, Quốc học và quốc văn.
* Văn du ký:
Gồm những bài Trảy chùa Hương, Mười ngày ở Huế, Pháp du hành
trình nhật ký, Du lịch xứ Lào…
Từ thế kỷ trước cho đến nay, giới nghiên cứu phê bình trong
và ngoài nước đã có nhiều công trình bình phẩm phê bình, với đủ cả giọng điệu
khen chê với nồng độ đậm nhạt khác nhau. GS.Trịnh Vân Thanh, tác giả sách
“Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển”nhận xét Phạm Quỳnh là một kiện tướng:
“Trên lãnh vực văn hóa, Phạm Quỳnh xứng đáng là một kiện tướng có đủ năng lực,
tài ba để điều khiển một cơ quan ngôn luận và có công rất lớn trong việc phát
huy những khả năng tiềm tàng của Việt ngữ và xây dựng một nền móng vững chắc
cho quốc văn, bằng cách tô bồi với những tinh hoa mà ông đã rút tỉa trong những
tư tưởng và học thuật Âu Tây”. Các giáo sư Lê Kim Ngân, Võ Thu Tịnh, và Nguyễn
Tường Minh, tác giả sách “Văn học Việt Nam Thế kỷ 20”, lại cho rằng
Phạm Quỳnh có công lao to lớn đối với xã hội về việc dịch thuật,khảo cứu vun đắp
chữ quốc ngữ, có ý nghĩa xã hội sâu sắc ”Phạm Quỳnh là người chiếm
công đầu trong việc vun đắp chữ quốc ngữ. Nhờ ông mà chữ quốc ngữ đã từ thời ấu
trĩ bước sang giai đoạn trưởng thành. Cái công dịch thuật và khảo cứu của ông
thật đáng kể. Nhờ đó mà các thanh niên tân học hiểu được nền cổ học Đông
Phương, các người cựu học thấu rõ nền Tây học và cũng vì vậy họ thông cảm nhau
được, học hỏi được nhiều cái hay của cả hai nền học vấn để đi tới chỗ dung hợp
mà xây dựng nền văn hóa nước nhà”. Trong khi đó giáo sư Phạm Thế Ngũ, lại đi sâu
vào khía cạnh tư tưởng dung hoà và bảo tồn của Phạm Quỳnh và khẳng định Phạm Quỳnh
đóng góp về mặt văn học. Phạm Thế Ngũ viết “Về đường tư tưởng, Phạm Quỳnh là
tiêu biểu cho một giai đoạn bán cựu bán tân ở nước ta trước 1932. Với một căn bản
tham bác Á Âu, ông đã đưa ra cái giải pháp dung hòa và bảo tồn làm thỏa mãn được
nhiều khuynh hướng trong xã hội bấy giờ. Cái chủ nghĩa quốc gia của ông về đường
chính trị đành rằng không đưa tới đâu, nhưng về văn hóa không phải không nuôi
được một tinh thần dân tộc làm nơi trú ẩn cho nhiều tâm trí băn khoăn thời ấy
và có thể để lại hậu quả tốt về sau nữa... Về đường văn học, hiển nhiên ông đã
làm nhiều việc cho công cuộc xây dựng văn học mới....”.
CHƯƠNG V. PHẠM QUỲNH GIỮA CUỘC ĐỜI
Phạm Quỳnh trong cuộc đời văn chương là thế, mẫn cảm nhạy
bén, khẩu khí và dũng khí, hóm hỉnh và sâu sắc. Sống giữa những người thân yêu,
ông càng đa cảm đa tình.
Từ khi bước vào cuộc sống gia đình, được người vợ nết
na thuần hậu, Phạm Quỳnh trong lòng phơi phới như ngọn cỏ
gặp mưa xuân. Thanh niên dòng dõi nho học, tốt nghiệp trường Thông ngôn tây học,
nhưng vợ không biết chữ, mới nghe chẳng mấy người tin. Mà thật. Lê Thị Vân tuy
con ông ký, nhưng thời ấy do lề thói cũ, con gái nhà quê không được đi học.
Bù lại, bà thông minh và có trí nhớ đặc biệt, mỗi khi nghe và thuộc nhiều
truyện nôm, truyện cổ tích dân gian mà người cha thường kể. Bà
thuộc ca dao tục ngữ, những câu chuyện về trung hiếu tiết nghĩa, ca ngợi vẻ
đẹp quê hương... Những câu hát ví, hát đúm, hát quan họ tràn ngập tình
yêu đôi lứa, tình yêu làng xóm ruộng vườn cứ bám riết lấy tuổi thanh xuân.
Thuở ấu thơ, Phạm Quỳnh mồ côi mẹ, đã từng được nghe bà hát những
bài ru con trong những đêm hè, đã thấm sâu vào tâm trí. Bây giờ đây,
những khi ở công sở đi làm về, lại được nghe những lời ca, những
câu dân ca giàu tiết tấu giai điệu từ người vợ thảo hiền, Phạm Quỳnh thấy lòng
mình thư thái. Những bữa ăn, bên mâm cơm, bà cháu, vợ chồng chuyện trò
thân thiết, mời chào, nghe những câu chuyện vợ kể, Phạm Quỳnh càng thấy ngôn
ngữ tiếng mẹ đẻ thật sống động. Sự phong phú tiếng Việt cứ ngấm dần trong máu
thịt Phạm Quỳnh có dịp tuôn trào nơi đầu bút càng làm tăng thêm giá trị của
văn chương.
Làng Nhân Vực, tổng Xuân Cầu cách Hà thành cũng chẳng
bao xa, từ ngày chiếc cầu sắt mới xong bắc qua sông Cái, làm cho quê vợ như gần
lại. Những ngày được nghỉ hoặc có công việc ở quê, Phạm Quỳnh thường đưa vợ về
thăm cha mẹ vợ và các em. Phạm Quỳnh bước đi trên con đường làng,
hai bên là cánh đồng xanh ngắt lúa ngô, ra đồng thăm cảnh ruộng vườn, chứng kiến
người nông dân hát những câu ví, hát giao duyên hát trống quân, được nghe họ
trò chuyện với nhau có pha nhiều dân ca tục ngữ... Cứ như những giọt
mưa thấm dần vào đất, trong tâm hồn mình bao vẻ hay nét đẹp của tiếng Việt đã
thấm thía tự lúc nào. Thời ấy, Lê Thị Mai cô em vợ đã nương nhờ cửa Phật chùa Cầu
Bây, Phạm Quỳnh ít khi gặp mặt. Nhưng mỗi lần gặp, hai anh em chuyện trò thân mật
trong tình cảm gia đình. Những ngôn ngữ nhà Phật mà Phạm Quỳnh nhận được từ em
cũng góp thêm nhiều trong vốn kiến thức phật gia mà sau này ông có dịp đưa vào
sử dụng. Có lẽ vì thế mà trong cuộc đời hoạt động văn hoá, những tinh hoa của
tiếng mẹ đẻ, của quốc văn vừa phong phú lại có dịp xuất thẩn?
Ngôi nhà số 1 Hàng Trống đã có bốn người sinh sống: Hai bà cụ
đã già yếu và đôi vợ chồng trẻ đang dào dạt sức xuân. Ngày đó người hàng phố đi
qua nhìn vào căn nhà hình ống, mà tưởng như nhìn vào một vườn hoa sau những
ngày đông ảm đạm, bắt đầu có dương khí xuân về. Lấy nhau năm trước, thì năm
sau, tức 1911, họ sinh con đầu lòng. Tiếng khóc chào đời của một bé trai bụ bẫm
báo hiệu một thời kỳ sung mãn của gia đình họ Phạm. Đứa bé ấy được cha mẹ nâng
niu và đặt tên là Giao. Cha Quỳnh, con Giao là ước mong có gia đình đầm ấm, quấn
quýt bên nhau để xua tan những tháng năm đứt đoạn, tẻ nhạt giữa đường đời.
Căn nhà bắt đầu bừng lên sức sống mới. Phạm Quỳnh đã đi làm ở
Trường Viễn đông bác cổ, thấy cuộc đời như dào dạt men say. Hai năm
sau lại một bé gái nữa ra đời, đó là Phạm Thị Giá, sau này trở thành hôn thê của
Tôn Thất Bình, là quan đốc học Trường Thăng Long Hà Nội. Lại một năm nữa qua
đi, ngôi nhà phố hàng Trống thêm tiếng khóc bé thơ. Ấy là Phạm Thị
Thức, mấy chục năm sau trở thành người bạn đời của giáo sư Đặng Vũ
Hỷ.
Tính ra ông bà đã sinh hạ được 16 người con, 11 gái, 5 trai.
Nhưng bỏ mất ba gái lúc mới sáu đến tám tháng tuổi. Còn lại 13 người.
Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên, thứ tự anh chị em của ông như sau:
- Anh cả Phạm Giao sinh năm Tân Hợi 1911
- Chị thứ hai Phạm Thị Giá sinh năm Quý Sửu 1913
- Chị thứ ba Phạm Thị Thức sinh năm Ất Mão 1915
- Anh thứ tư Phạm Bích, tiến sĩ luật, sinh năm Mậu Ngọ
1918,
- Chị thứ năm Phạm Thị Hảo sinh năm Canh Thân 1920, dược
sĩ sinh sống tại Hoa Kỳ
- Chị thứ sáu Phạm Thị Ngoạn sinh năm Tân Dậu 1921, tiến sĩ
văn chương, vợ nhà văn Hán Thu - Nguyễn Tiến Lãng, có thời kỳ quản lý tờ Nam
Phong tạp chí, lại có thời kỳ làm việc với tướng Nguyễn Sơn ở Thanh Hóa.
- Anh thứ bảy Phạm Khuê sinh năm Ất Sửu 1925, sau
này là giáo sư, Nhà giáo nhân dân, Chủ tịch Hội người cao tuổi Việt Nam, Chủ
tịch Hội Lão khoa và Hỗ trợ người tàn tật Việt Nam, Đại biểu Quốc Hội khóa X, ủy viên ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ủy viên ủy ban về các vấn đề Xã hội của
Quôc hội.
- Chị gái thứ tám Phạm Thị Hoàn sinh năm Mậu Thìn
1928 là ca sĩ một thời.
- Người thứ chín là Phạm Tuyên sinh đầu năm 1930 -
Kỷ Tỵ, nay là Chủ tịch Hội âm nhạc Hà Nội.
- Em gái thứ mười là Phạm Thị Diễm
(Giễm) sinh năm Tân Mùi 1931, định cư tại Pháp
- Em gái thứ mười một là Phạm Thị Lệ, sinh năm Giáp Tuất
1934, định cư tại Pháp.
- Em trai thứ mười hai là Phạm Tuân, sinh năm Bính Tý 1936,
định cư tại Mỹ.
- Em út thứ mười ba là Phạm Thị Viên, sinh năm Mậu
Dần 1938, định cư tại Pháp.
16 tuổi đi làm, rồi lấy vợ, Phạm Quỳnh bước vào đời khá suôn
sẻ. Bao nhiêu gian nan khốn khó đã lùi về phía sau. Sống với người hiền
thê gần ba mươi sáu năm, nhưng mới 27 năm đầu ông bà Phạm Quỳnh có
13 người con đều trưởng thành và hiển đạt theo cách tư duy của người gốc Hoa Đường.
Người con trai trưởng Phạm Giao (sinh năm 1911) cách cô gái út Phạm Thị Viên
(sinh năm 1938 - Mậu Dần) tính ra đến 27 tuổi!
Tuy đông con như thế nhưng ông yêu thương từng người một,
không hề phân biệt. Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên, người con thứ 9 thì trong nhà các
con gọi cha mẹ bằng tên âu yếm: thầy, me.
Năm 1922 Phạm Quỳnh sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa với
tư cách Tổng thư ký Hội Khai trí tiến đức, ông đã có sáu người con (Phạm Giao,
Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức, Phạm Bích, Phạm Thị Hảo, Phạm Thị Ngoạn).
Xa quê nhớ vợ con là lẽ thường tình, nhưng cái chuyện
vốn tế nhị ấy, Phạm Quỳnh lại thích chia sẻ với mọi người. Ấy
cũng là cái riêng của người trí thức thức thời, giao hòa văn hóa
đông tây. Ông đến thăm và ăn cơm nhà bạn, thấy con người khác lại liên
tưởng đến con mình. Ông ra hiệu ảnh chụp hình gửi về cho vợ cho con.
Hình như làm từng ấy việc ông cảm thấy bớt đi nỗi nhớ thương. Đi
diễn thuyết, báo chí nước ngoài đã xin đăng bài, còn xin đăng
ảnh người thân của ông trên báo, ông cũng không từ chối. Chính vì thế
bây giờ gia đình ông mới còn được tấm ảnh cha bế con rất thú vị. Sống nơi
đất khách quê người, hình ảnh đất nước quê hương Việt Nam vẫn không
phai mờ trong tâm trí. Ông nhớ tết trung thu cổ truyền dân tộc; nhớ tới
những người con đang tầm tuổi vui chơi nhí nhảnh dưới ánh trăng mát
rượi của quê nhà. Bây giờ đọc lại những trang nhật ký mới thấy
rằng, Phạm Quỳnh là người cha chu đáo. Ngay từ 24 tháng 6 năm 1922
dương lịch, tức là ngày 29 tháng 5 âm lịch, còn cách xa rằm trung trung
thu hai tháng rưỡi, ông đã nhớ đi mua quà, đồ chơi gửi về cho con: “Thứ bảy,
24-6: cơm trưa rồi đi chơi cửa hàng Bon Marché ở đường De Sèvres… Nhân vào khu
bán các đồ chơi trẻ con, mua mấy thằng phệnh, con thú, cái xe để gửi về lũ trẻ ở
nhà cho vừa kịp tết tháng tám. Nhà hàng nhận gói, gửi cẩn thận, chỉ phải chịu
thêm tiền bưu phí mà thôi. Lũ trẻ nhận được mấy gói này chắc là mừng lắm. Nghĩ
đến chúng nó lại càng thêm nhớ.”
Năm ấy sáu đứa con yêu còn rất nhỏ: Phạm Giao lớn
nhất mười một tuổi, Phạm Thị Ngoạn nhỏ nhất mới được một năm. Bây giờ chúng làm
gì, ăn sáng, đi học, hay vui chơi? Có ai đưa con đi xem xinê? Ông nhớ những bữa
ăn trong gia đình, con trai ngồi bàn với cha, các con gái ngồi sập với mẹ. Tiếng
bát đĩa, muôi thìa va chạm lách cách vui tai, thảng hoặc có lần chúng sơ ý làm
vỡ, ông chỉ nhìn mỉm cười độ lượng. Những hình ảnh ấy bây giờ chỉ còn trong tưởng
tượng mà thôi. Chính vì thế, khi đến chơi nhà bạn bè, nhìn những đứa con vui
cùng cha mẹ, lòng ông lại dạt dào niềm thương nhớ.
Cuộc đời ông cũng từng trải qua những giây phút thương đau, ấy
là sau này có ba lần chứng kiến cảnh phải xa lìa những đứa con dại. Cả ba lần đều
là những con gái mệnh yểu. Đứa thì chín tháng đã bỏ cha mẹ mà đi, có đứa năm
tháng, đứa sáu tháng đều mắc bệnh hiểm nghèo, thuốc thang chạy chữa đều vô hiệu.
Sau những lần ấy ông trở nên thảng thốt, hay nhìn vào khoảng không ngẫm nghĩ
mông lung. Yêu quý con, ông nói vui rằng mình có 5 chú voi và 8 nàng tiên(5 con
trai và 8 con gái). Ông cũng có thú riêng là tự tay chăm
sóc các con nếu như có thể làm được. Ông pha cà phê cho con, mua dầu cá cho con
bồi bổ, mà tự tay ông rót từng thìa đưa cho từng đứa uống, để sau đó chúng ăn
xôi rồi đến lớp. Ông biết vợ mình cũng vất vả nuôi con, nên có điều kiện ông
có thể giúp bà. Được cha yêu quý, những người con cũng gần gũi với cha.
Phạm Quỳnh biết lo toan trước công việc, ở nhiệm sở làm chưa xong lại mang về
nhà làm tiếp. Những đêm viết lách tới khuya, cô con gái lớn thức dậy thấy cha
căm cụi đèn sách, nhẹ nhàng đẩy cửa vào phòng, Phạm Quỳnh âu yếm bảo con chép
sách hộ. Rồi ông nằm trên ghế xích đu mở sách ra dịch. Ông dịch và đọc thẳng chẳng
cần nháp, giống như một người đọc cho người kia chép lại. Càng khuya, ông càng
tỉnh và say mê, đến khi chợt nhận ra con đã mệt, ông mới bảo con dừng lại. Ông
cũng vui bảo vào sờ túi áo xem có gì, ông thưởng. Ấy là vài hào lẻ. Những
kỷ niệm ấy các con ông đều ghi nhớ và kể lại với một tấm lòng
thành kính người cha. Năm 1932, cô con gái cả ấy lấy chồng rồi sinh cháu gái
đầu lòng. Năm ấy ông chuẩn bị vào kinh thành Huế nhận chức quan của triều đình
Bảo Đại. Ông nói rất vui ”Sang năm con cho cháu về Huế chơi, thì đủ cả bên nội
bên ngoại“. Con rể ông là người gốc Huế.
Ông có bệnh kinh niên đau dạ dày, chỉ ăn thứ mềm như xôi với
ít thịt kho. Bữa ăn bao giờ cũng để dành cho con trai một ít giữa đĩa. Người
con trai ấy sau này là nhạc sĩ Phạm Tuyên, hiện là Chủ tịch Hội âm nhạc Hà Nội,
người có gần 700 ca khúc được phổ biến hơn nửa thế kỷ qua.
Hỏi về ký ức của mình những năm tháng sống ở biệt thự Hoa Đường
với cha mẹ mình, nhạc sĩ Phạm Tuyên thoáng một chút bâng khuâng… khi xem lại tấm
ảnh đại gia đình năm 1942, khi ấy Phạm Tuyên tròn 12 tuổi.
Biệt thự Hoa Đường nằm bên bờ sông An Cựu - Huế. Đây là tổ ấm
của Phạm Quỳnh. Một lần đi Quảng Trị, ông mua một ngôi
nhà gỗ lớn, tháo dỡ về lắp trong biệt thự làm nơi sinh hoạt của gia đình. Xung
quanh biệt thự, chạy một hàng hiên tráng xi măng xanh. Tiếp là dãy phòng xinh xắn
bao quanh một hội trường nhỏ. Giữa cảnh thiên nhiên thoáng mát, ngôi nhà là nơi
sinh hoạt vừa dịu dàng và trong sạch. Ngay phía sau biệt thự là một bến tắm. Một
cây sung già ngả sát xuống mặt nước như thể một chiếc ô che cho những người
đang khoả mình giữa dòng nước trong veo... Sau những giờ làm việc hoặc những ngày
đi công cán, lúc trở về đây, ông trở thành một con người thật giản dị và chan
hoà với tất cả thành viên trong đại gia đình. Các con ông mỗi người một phòng
riêng, và độc lập suy nghĩ theo sở thích riêng. Nhưng họ có một niềm đam mê
chung, một đặc thù của gia đình Phạm Quỳnh là hầu như ai cũng biết vẽ,
và ham đọc sách báo, thơ, văn. Phạm Tuyên người con thứ chín (con trai thì đứng
hàng thứ tư) say mê cả ghi ta lẫn phong cầm, sau này suốt đời gắn bó với âm nhạc.
Những sở thích riêng của các con, bao giờ ông cũng tôn trọng,
không gò ép. Họ có thể chơi trò chiếu phim, hoặc đan len, chơi thể thao, bơi lội, chơi
quần vợt… câu cá, săn bắn. Gia đình ông có một thư viện với hàng vạn
cuốn sách, lại có tờ báo riêng của gia đình gọi là Gia đình tuần báo. Lại có hẳn
một ban nhạc, ai đó cất giọng lên, thì mọi người hoà âm theo. Ông
còn mời thầy đến dạy các con, cháu nhỏ học thêm các buổi chiều và buổi
tối. Ông tìm thấy niềm vui giữa đàn con cháu thuận hoà
ngoan ngoãn hiếu học và sớm có ý thức tự lập. Những việc ông làm là tất cả cho
tương lai của các con sau này. Sâu xa hơn là vì xã hội cộng đồng. Vì thế ông cứ
lặng lẽ làm việc, làm những việc theo tiếng gọi của lương tâm, mà sau này càng
tìm hiểu, các con mới biết rằng ông không muốn các con liên luỵ tới công việc của
ông và người đời càng thấu hiểu ông!
Phạm Quỳnh tuy là viên quan đại thần, nhưng trước hết ông là
một nhà báo có hạng, một trí thức tân học. Ông hành xử trong cuộc sống có nhiều
điểm khác với các bạn đồng liêu. Các con ông đều tự tìm người mình yêu thương,
không hề có cảnh cha mẹ ép đặt, và ông cũng không quá câu
nệ phải “môn đăng, hộ đối” trong việc hôn nhân của các con. Phạm Thị
Giá là con gái lớn mang lòng yêu một thanh niên nghèo người
Huế nhưng có chí, ông cũng không cản ngăn. Khi trở thành mệnh quan triều đình,
có ông thông gia là quan huyện thanh liêm, về hưu sớm, mang quà mừng
sinh nhật ông chỉ là một buồng chuối tiêu cắt ở vườn nhà, ông vẫn đưa
hai tay đón nhận lễ với một niềm trân trọng. Cũng vì thoáng như thế,
nên cũng có khi ông khổ tâm, vừa giận vừa thương con. Đó là chuyện Phạm Giao
người con trưởng đã có vợ, có hai con trai, lại yêu thương và lấy cô gái Huế.
Anh chị dẫn nhau vào Sài Gòn sống khi ông bố đương là quan đại thần. Ông
biết vậy, cũng không nỡ phạt con, chỉ âm thầm chịu đựng rồi tìm mọi cách giúp đỡ
tận tình các con dâu, các cháu nội, những giọt máu của mình. Ông yêu
quý các con, và không hề phân biệt các cháu nội cháu ngoại. Ông cho lập quyển sổ
ghi tên từng người con, lúc sinh cân nặng bao nhiêu, bệnh tật thế
nào, tính tình, đến khi trưởng thành lấy vợ gả chồng, nghĩa là rất tỉ
mỉ, y như một bản trích ngang lý lịch vậy.
Phạm Quỳnh yêu thương các con, và các con một niềm kính yêu
cha, khâm phục vì tài năng đức độ. Chỉ kể chuyện người con dâu út Hoàng Hỷ
Nguyên, nữ sinh trường Đồng Khánh - Huế (vợ Phạm Tuân) đối với ông cũng thấy. Năm
2000, trong lần giỗ Phạm quỳnh, con dâu đã viết một bài văn khấn vô
cùng xúc động: “đời thầy là cả một cuộc hành trình dở dang, đầy phiêu lưu, gian
truân... Từ thuở tấm bé thầy đã sớm lìa xa bậc sinh thành, lầm lũi đơn độc
trong bàn tay nuôi dưỡng bao bọc của bà nội. Tình nội tổ thay cho tình mẫu tử.
Thầy đâu được biết thế nào là tuổi thơ. Thần định mạng đã đoạt đi tuổi thơ ngây
vô tư lự ở thầy!. Thầy miệt mài học tập, ngày thì theo đuổi nền tây học, giữa
buổi giao thời Đông Tây… Đêm tối sắp xuống lại vùi đầu vào sách vở
thánh hiền.
Lạy thầy! Con kính yêu thầy không chỉ ở phận dâu con. Người
thiếu nữ đất Thần kinh (đất kinh đô, Huế - KHL chú), tầm thường nhất trong nhiều
thế hệ nữ sinh sáng chói ở ngôi trường Đồng Khánh - như
con đây, là chỉ vì có cơ duyên được đọc đầy đủ hàng nghìn trang báo ở toàn tập
Nam Phong và nhiều tác phẩm của thầy in ra khiến con bàng hoàng, hết
lòng nể trọng… Chữ nghĩa quả là có hồn. Nó biểu lộ tư tưởng. Và từ tư tưởng dẫn
đến truyền cảm… Lời nói, có thể theo gió bay đi. Nhưng tư tưởng được khắc bằng
chữ cứ còn mãi. Nó là bằng chứng trung thực, trơ trơ cùng tuế nguyệt".
Thương quý con, chăm sóc nâng niu con, Phạm Quỳnh càng yêu vợ,
một lối yêu của người Á đông sâu sắc mà kín đáo. Vào thời điểm năm 1909 Phạm Quỳnh đã
được Trường Viễn Đông bác cổ Hà Nội cử sang Pháp làm chức trợ giáo ở khoa tiếng
An Nam trường Đông Phương bác ngữ (Ecole des Langues Orientales), quả là một điều
đặc biệt đối với một người Việt Nam, là khát vọng thời ấy của trí thức. Vậy mà
ông đã không đi chỉ vì không muốn xa vợ, khiến cho nhà trường phải cử Phan Văn
Trường đi thay. Sau này, năm 1922 có dịp sang Pháp thăm trường ấy, ông không hề
tỏ ý tiếc…
Người phương Tây có một quan niệm về thẩm mỹ
riêng. Họ thường bình phẩm đàn bà Việt Nam nhuộm răng đen, giữa đôi môi nhỏ nhắn
hồng tươi là một màu tối thẫm mỗi khi cười là xấu. Ngược lại, ông cho như thế là
đẹp. Phạm Quỳnh đã không hề dấu diếm khi tỏ nỗi lòng nhớ vợ qua một bài báo cho
đăng trên Nam Phong tạp chí. Ông viết: “Tôi xin thú thật rằng, tôi không thể
trông được một người đàn bà An Nam để răng trắng, dẫu đẹp mười mươi mà xem bộ
răng đủ chán ngắt rồi. Vì người đẹp là người thế nào? Là một người hệt với hình
ảnh một kẻ “ý trung nhân” của mình. Kẻ “ý trung nhân” của người An Nam ta là một
người đàn bà da trắng, tóc dài, hình dáng yểu điệu… mà phải có bộ răng đen nhay
nháy mới được. Nếu răng trắng thời hỏng toẹt, không hệt với người
trong mộng nữa”.
Ngày được gọi là ý trung nhân trong đoạn báo này, chắc là
hình ảnh bà Lê Thị Vân - vợ ông. Rồi từ nước Pháp xa xôi, Phạm Quỳnh cắt tóc, bỏ
hẳn búi tó củ hành, mặc bộ đồ jaquette, vào hiệu ảnh chụp ảnh gửi về
nhà cho vợ. Thời ấy Phạm Quỳnh quan niệm về cái đẹp như vậy.
Ông cũng biết khéo léo gợi ý để bà đọc cho nghe nhưng
câu ca dao, hò vè những lời ca từ các làn điệu quan họ hoặc những câu thơ trong
truyện nôm mà bà thuộc khi còn sống với cha mẹ ở làng Nhân Vực tổng
Xuân Cầu. Ông còn biết tạo ra không khí đầm ấm trong gia đình những buổi chiều
sùi sụt mưa dài xứ Huế. Để đáp lại, bà Lê Thị Vân một mực thương quý chồng, với
một tình cảm nồng nàn thiết tha người đàn bà Kinh Bắc.
Với gia đình nhà vợ, Phạm Quỳnh là chàng rể hiếu thảo, kính
yêu cha mẹ và nhường nhịn, chăm lo các em. Có phải vì từ ấu thơ đã chịu sống
côi cút thiếu mẹ, rồi mất cha nên bây giờ có dịp sống gần gũi với mẹ vợ với các
em, dù chỉ ít ngày ông vẫn cảm thấy hạnh phúc đầm ấm của một gia đình? vẫn cảm
thấy mình được bù đắp. Sau này các em nhiều lần sang Hà Nội chơi thăm anh chị
và các cháu, vợ chồng ông đều tỏ lòng quý mến, thắm thiết đon đả mời chào, níu
kéo. Sợ các em ở nhà quê ra tỉnh e dè, bao giờ anh rể cũng chủ động hướng dẫn để
các em không thấy xa lạ, ngượng ngùng. Khi cuộc sống khá hơn, ngày còn ở Hà Nội,
Phạm Quỳnh mua lại một chiếc nhà ở ấp Thái Hà mời mẹ vợ đến ở với em trai Lê
Văn Tốn, còn gia đình ông vẫn ở chỗ cũ, thỉnh thoảng tới thăm...
Tháng 9 năm Kỷ Sửu chúng tôi về Nhân Vực, được nghe nhiều mẩu
chuyện về Phạm Quỳnh và tấm lòng của ông với quê vợ. Sau khi vào Huế làm quan,
mùa đông năm Đinh Sửu (1937), với tư cách Ngự tiền văn phòng, Cơ mật đại thần
kiêm thượng thư bộ Học, Phạm Quỳnh đi kinh lý Bắc Hà. Ông đã tranh thủ về thăm
quê vợ, làng Nhân Vực. Lần ấy các bô lão trong làng chứng kiến trước việc làm của
ông quan Thượng thư, cũng là giai tế của làng, trịnh trọng cung tiến đình làng
một đôi câu đối và bức hoành phi. Đôi câu đối đến nay đã hư hỏng, chỉ còn bức
hoành sơn son thếp vàng với bốn chữ đại tự”Thông minh chính trực”. Bên phải bức
hoành còn rõ dòng chữ Hán chạy dọc: Bảo Đại Đinh Sửu đông(Mùa đông
năm Đinh Sửu 1937, triều vua Bảo Đại - KHL chú). Bên trái có 2 dòng:
“Tả đại học sĩ lãnh giáo dục bộ thượng thư sung Ngự tiền
văn phòng Tổng lý cơ mật đại thần Phạm Quỳnh bái". Bức hoành phi của ông
Thượng thư Bộ học (tương đương Bộ trưởng Giáo dục thời nay) có nội hàm thâm
thúy: Thông minh và chính trực, đó là ước vọng của trí thức thời nào cũng vậy
trên con đường học vấn để sau này nhập thế. Bức hoành phi được treo trang trọng
gian giữa đình. Đã qua hơn bẩy chục năm trải qua bao nhiêu biến cố, những sự đẽo
gọt của thời gian, rồi chiến tranh, giông bão mà tấm hoành phi vẫn còn đó vàng
son như lòng người.Và mỗi lần làng quê vào đình đám, mỗi lần thắp hương, ngước
trông lên tấm hoành phi, lại nhớ tới người con rể của làng, thấy tự hào, và
bâng khuâng...
Các cụ già trong làng kể, đấy là lần cuối cùng Phạm Quỳnh về
quê vợ.
Cùng tuổi Nhâm Thìn với chồng (bà sinh đầu năm, còn ông sinh
cuối năm), bà Vân là người phụ nữ có số “vượng phu ích tử”. Lấy chồng năm 18 tuổi,
thì chỉ một năm sau bà sinh con trai. Hai năm sau, lại một bé gái Phạm Thị Giá
chào đời. Tiếp năm sau bé gái Phạm Thị Thức được sinh ra. Qua 5 năm, nhà số 1
phố Hàng Trống - Hà Nội đã thêm ba nhân khẩu, suốt ngày rộn rã tiếng trẻ thơ... Tuy
không biết chữ, nhưng có trí nhớ tuyệt vời. Khi còn ở Hà Nội, bà từng
tham gia làm thủ quỹ cho Hội tế sinh, chuyên làm từ thiện, trông con nhỏ cho những
người lao động đi làm ban ngày. Hội Tế sinh do cụ Cả Mọc là cháu của người thiếp
của Dưỡng Am Phạm Hội sáng lập. Hội mở trại dưỡng lão ở Phúc Yên, gúp các cụ
già neo đơn không nơi nương tựa. Nhiều khi đi làm trở về, Phạm Quỳnh lại giúp vợ
làm thư ký, ghi chép tiền nong, và chưa bao giờ sai lệch…
Bà Vân sống trong một gia đình có chồng là công chức,
nổi tiếng một nhà báo có hạng, văn sĩ tài danh và hơn một chục năm, trở thành mệnh
phụ phu nhân đầy uy quyền… nhưng bà Vân vẫn chỉ là một người vợ đảm đang và một
người mẹ hiền từ. Tất cả hy sinh cho chồng con thi thố tài năng với cuộc đời với
bao nhiêu sóng gió. Bà sinh nở theo quy luật tự nhiên, hình như thiên định sắp
bầy.
Phạm Quỳnh là người cởi mở và tâm lý. Một người khiêm
nhường chu đáo như vậy khiến cho trong nhà, ngoài xóm, cả những người giúp việc
đều tỏ lòng kính phục. Thời ở Hoa Đường, có những buổi chiều mát có
một người làng An Cựu bán chè đậu quen vào nhà, biết tin các con
cháu xô lại. Họ thi nhau ăn chè, chẳng mấy chốc đã hết cả gánh hàng
của bà cụ. Người bán hàng vui lắm, quý gia đình ông quan Thượng sao mà giản dị
thân tình. Có khi bà cho cả con cháu vào Hoa Đường chơi với các cậu ấm cô chiêu
như người nhà chẳng mảy may e ngại.
Phạm Quỳnh thân thiết với những người giúp việc gia đình hằng
ngày như người nhà. Sau này khi gặp cảnh gia biến, họ vẫn tận tình
thuỷ chung, gắn bó. Ngược lại, con cháu Phạm Quỳnh cũng coi họ như người trong
nhà thân quý, tôn trọng, tuyệt đối không hề bạc đãi. Theo Phạm Tuyên, đến mấy
chục năm sau có người giúp việc từ trần, gia đình ông vẫn coi như người thân lo
hậu sự đủ đầy hương khói chu đáo.
Năm
1917, có người thanh niên Nguyễn Văn Hạt, tuổi Nhâm Thìn, quê Đức Triêm, Kim Động,
Hưng Yên, chỉ vì nơi quê nhà bệnh dịch, mất mùa, đói khát, người thân chết dần,
còn sót lại một mình, anh theo người cùng quê kéo lên Hà Nội kiếm sống.
Anh mệt lả, nằm ở trước cửa nhà Phạm Quỳnh tự lúc nào không biết.
Thương
cảm, Phạm Quỳnh gọi người nhà chăm sóc cho hồi sức, rồi tìm việc làm
cho anh Hạt ở tòa báo Nam Phong, giao cho việc đưa bài vở đến nhà
in. Nhưng anh Hạt không làm được, bởi tuy thật thà, nhưng thường đãng trí.
Rồi
anh thành người giúp việc trong nhà. Năm tháng trôi đi, cái tên anh
Hạt, ông Hạt, rồi cụ Hạt, rồi bác Già trở nên thân quen
trong đại gia đình Phạm Quỳnh suốt mấy thế hệ
Năm
Phạm Quỳnh đưa cả nhà vào Huế, thì ông Hạt đã 40 tuổi, được ở lại
nhà số 5 phố Hàng Da - Hà Nội, sống cùng gia đình bà Giá. Ông đã chứng kiến bao
nhiêu thăng trầm, gian khổ cùng gia đình tản cư trong thời kỳ đầu
kháng chiến chống Pháp, những thiếu thốn chắt chiu trong những ngày hòa bình,
lao động khôi phục hàn gắn vết thương chiến tranh, nơm nớp lo sợ trong những
ngày máy bay Mỹ bắn phá Hà Nội. Nửa thế kỷ bao niềm vui
và những không thiếu giọt nước mắt buồn đau.
Năm
1972, cụ Hạt - bác Già vào tuổi bát tuần, đổ bệnh phải nằm bệnh viện
Bạch Mai, được bác sĩ Phạm Khuê và con cháu bà Giá tận tụy chăm sóc. Nhưng Bác
đã ra đi vào mồng bốn tết giá lạnh. Từ đó, gia đình bà Giá, con cả Phạm Quỳnh
có thêm một cái giỗ vào mùng 4 tết hàng năm…
Con người Phạm Quỳnh như thế, nhưng rất nhẫn chịu, điềm tĩnh
và sâu sắc.
Cuộc đời ông, ông chỉ coi mình là người cúc cung tận tụy tài
bồi cho quốc văn, cổ động cho quốc văn, gây dựng cho quốc văn thành một nền văn
chương đích đáng. Khi bị công kích vì quan điểm yêu nước và mục đích dấn
thân theo phong cách riêng mình, Phạm Quỳnh tỏ rõ là người có
phẩm cách đàng hoàng, lòng vị tha đến lạnh lùng. Xuất thân từ một
gia đình nho học, được cách tân theo xu thế thời đại, Phạm
Quỳnh mang trong mình đức tính điềm đạm. Bình tĩnh và điềm đạm, nên khi ứng
xử với đồng nghiệp báo chí Phạm Quỳnh tỏ ra thật nhã nhặn. Tưởng cũng nhắc lại
chuyện Phan Khôi có một bài”Cảnh cáo các nhà học phiệt”đăng trên báo Phụ nữ tân
văn, công kích Phạm Quỳnh. Tạp chí Nam Phong, có đăng bài Phạm Quỳnh trả lời và
kèm theo lời toà soạn như sau: “Nhân báo Phụ Nữ tân văn gần đây có đăng một bài
của ông Phan Khôi bình phẩm về cái thái độ của kẻ học giả nước ta ngày nay mà
có đả động đến bản chí chủ bút, vậy bản chí chủ bút có gửi bài trả lời cho báo ấy.
Nay lục đăng ra đây để công đồng lãm - NP”. Phạm Quỳnh thận trọng
bình tĩnh cả khi bị lên án là đã suy tôn quá đáng truyện Kiều năm 1924 thành thậm
xưng, có dụng ý xấu. Ấy là khi ông đối thoại với ông nghè Ngô Đức Kế trên mặt
báo. Những lời lẽ sau đây có thể gọi là rất khiêm nhường đúng mực“Họ Ngô đối với
tôi vốn không hiềm khích gì. Ông là người quốc sự phạm cũ, vì việc nước mà long
đong chìm nổi trong bao năm, dẫu người không đồng tư tưởng, đồng chánh kiến với
ông, cũng phải kính trọng cái thân thế của ông. Tôi cũng vậy, thủy chung vẫn
coi ông như bậc đàn anh”.
Phạm Quỳnh chưa bao giờ coi mình để chí vào việc chính trị,
ông chỉ chuyên chủ về một việc tài bồi quốc văn. Ông viết “ai bình
phẩm tôi về chính trị là bình phẩm sai cả. Tôi cho là bất túc kính trọng, nên
không hề đối đáp, không hề cải chính bao giờ”. Và cứ thủng thẳng giãi bày cái
chí cúc cung tận tuỵ “là cổ động cho quốc văn, tài bồi cho quốc văn, gây dựng
cho quốc văn thành một nền văn chương đích đáng, có thể dùng làm cái lợi khí để
truyền bá văn minh trong nước”tuỳ cho đối thủ suy ngẫm: “Tôi vốn là nhà làm
văn, nhà học vấn. Cái chủ nghĩa tôi phụng sự bấy lâu nay - kể có trên dưới mười
lăm năm trời thật là dốc một lòng, chuyên một dạ - chính là chủ nghĩa quốc gia,
nhưng chỉ mới phụng sự về phương diện văn hóa, chưa hề chuyển di sang phương diện
chính trị. Tôi thiết nghĩ rằng muốn cho nước nhà được độc lập, thì phải gây lấy
cái hồn độc lập cho quốc dân. Muốn gây lấy cái hồn độc lập cho quốc dân thì phải
có khí cụ để tuyên truyền giáo dục. Cái khí cụ để tuyên truyền giáo dục là ngôn
ngữ văn tự trong nước… Các bạn đồng chí trong Nam ngoài Bắc cũng đã công nhận
cho cái công phu ấy không phải là vô ích.
Phạm Quỳnh đã nói thực lòng.Trước khi đứng ra làm chủ
bút và chủ nhiệm Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh từng là một trong những cây
bút trụ cột, xuất sắc của Tạp chí Đông Dương, do Nguyễn Văn Vĩnh làm
chủ bút. Ngay từ thời đó, Phạm Quỳnh đã có ý tưởng rằng làm sao để chữ
quốc ngữ sớm trở thành một nền tản văn hóa nước nhà. Đến khi làm chủ bút tờ
Nam Phong, trên số 67, ra tháng 1 năm 1923 trong bài Làm văn, Phạm
Quỳnh đã bộc bạch:
“Tôi còn nhớ năm sáu năm về trước, hồi tôi mới lập ra báo Nam
Phong này, ngoài mấy anh em làm báo, không thấy mấy người làm văn quốc ngữ. Có
lẽ không ai nghĩ đến rằng chữ quốc ngữ có thể làm thành văn chương được. Trước
tôi, ông Nguyễn Văn Vĩnh từ hồi báo Đăng Cổ đã hết sức hô hào, ông thường nói:
“Hậu vận nước Nam hay dở thế nào là ở chữ quốc ngữ”. Vì ông với tôi trước sau vẫn
có một chủ nghĩa là biết rằng ở nước ta chữ Nho không thể giữ được hết, chữ Tây
không thể học được khắp, muốn dùng để phổ thông giáo dục cho quốc dân, duy chỉ
có chữ quốc ngữ, nhưng muốn cho chữ quốc ngữ dùng được việc thì phải rèn tập
cho mỗi ngày mỗi hay hơn lên. bởi thế nên chúng tôi gia công gắng sức trong bao
nhiêu năm, không quản công phu khó nhọc, không quản có kẻ chê bai, chỉ ước ao
có một điều là có ngày người mình cũng “làm văn”được như người, nghĩa là làm
văn bằng tiếng mình, không phải mượn tiếng người. Ngày ấy có lẽ đã tới đây...”.
Gan ruột của nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã thể hiện rõ
trong chữ nghĩa và trong cuộc đời.
CHƯƠNG VI. BƯỚC ĐƯỜNG HOẠN LỘ
Ngày mồng 8 tháng Giêng năm 1926, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy được
tôn lên làm vua, lấy niên hiệu là Bảo Đại, thay vua cha Khải Định từ trần.
Nhưng ông lại bay sang Pháp để học tập tiếp, mãi 6 năm sau - 1932 mới hồi loan
và chính thức ở ngôi. Bảo Đại là ông vua Tây học, cho nên khi lên ngôi việc đầu
tiên là tìm cách cải tổ triều đình, bằng cách thay thế người già, và sắc phong
cho bốn vị thượng thư vốn là học giả và thuộc diện hành chính: Thái Văn Toản, Hồ
Đắc Khải, Ngô Đình Diệm và Phạm Quỳnh.
Tháng 11 năm 1932 Phạm Quỳnh vào Huế tham
chính. Đây là bước ngoặt trong lịch sử cuộc đời ông. Làm
báo Nam Phong, ông đã gặp phải những lời chê bai đàm tiếu. Bây giờ
làm quan lại phải chịu nhiều búa rìu dư luận. Trong lòng ông vẫn chỉ
một niềm vì quốc dân đồng bào, vì quốc văn và quốc học, vì tiếng
mẹ đẻ, rộng hơn vì văn hóa của dân Việt. Ban đầu ông làm
Ngự tiền Văn phòng, rồi từ 2-5-1933 làm Thượng thư bộ Học, và từ năm
1942 làm Thượng thư bộ Lại. Trong thời gian làm quan, Phạm Quỳnh cùng
Bảo Đại sang Pháp, xin Pháp trả Bắc Kỳ cho triều đình Huế cai trị
nhưng không đạt mục đích.
Nhận chức chỉ sau 2 tháng 7 ngày, với tư cách một quan Ngự tiền
văn phòng, Phạm Quỳnh đã làm một việc có thể coi là mạo hiểm với ông trên chốn
quan trường. Sự việc như sau: Nguyễn Công Nghi mười tám tuổi, em
ruột Nguyễn Công Kính, là con rể làng Nhân Vực, bị Pháp coi là một chiến sĩ Cộng
sản, bắt giam tại nhà tù Hỏa Lò - Hà Nội, chờ ngày đi đầy viễn xứ. Phạm Quỳnh
đã viết bức thư đề ngày 18-1-1933 gửi Louis Marty, Giám đốc Vụ
chính trị phủ Toàn quyền Đông Dương nhờ can thiệp xin khoan hồng giảm án cho
anh.
Tiêu đề góc bức thư ghi rõ bằng tiếng Pháp: Palais
impérial Cabinet Civil de Sa Majesté (Có nghĩa là: Hoàng
cung, Ngự tiền Văn phòng) và dòng chữ Hán viết theo chiều dọc: Ngự tiền Văn
phòng dụng tiên (nghĩa là: giấy viết thư dùng trong Ngự tiền Văn phòng). Không
biết kết quả sự can gián của Phạm Quỳnh đến đâu, nhưng chỉ một việc
làm ấy cũng đủ thấy tấm lòng ông trước con người...
6 năm sau, (ngày 15 tháng 2 năm 1939), Phạm Quỳnh còn có
một việc làm mà bây giờ ở thế kỷ 21 này, trong hoàn cảnh lịch sử
hiện tại của đất nước, chúng ta càng phải đáng trân trọng.
Đó là Tờ tâu trình lên Bảo Đại phê chuẩn tặng huân chương
Long Tinh đệ Ngũ đẳng cho đơn vị lính khố xanh lập đồn phòng thủ ở đảo Hoàng
Sa.
Tài liệu quan trọng này vừa được báo Lao Động
đưa tin và ảnh ngày 29-6-2009. Theo đó, ngày 26-6-2009 tại văn phòng UBND
Thừa Thiên Huế nhà nghiên cứu Huế - Phan Thuận An - vừa trao cho Bộ
Ngoại giao nước ta Bản tâu của quan Ngự tiền văn phòng Hoàng đế, Phạm
Quỳnh với nhà vua, để khen thưởng cho những người lính có công bảo vệ
chủ quyền đảo Hoàng Sa.
Nguyên văn bản tấu như sau:
"Huế, ngày 27 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13
(15 Février 1939)
Ngự tiền văn phòng kính tâu:
Nay văn phòng chúng tôi có tiếp thơ số 177s-sp, ngày 10 tháng
2 năm 1939 của quý Khâm sứ đại thần thương rằng, ngạch binh thanh khố Trung Kỳ
có nhiều công lao trong việc dẹp yên các miền man di dấy loạn và việc lập đồn
phòng thủ ở đảo Hoàng Sa, nghĩ nên thưởng Ngũ hạng Long tinh cho hiệu kỳ ngạch ấy
và nhờ chúng tôi tâu lên Hoàng đế ban chuẩn. Phí ngân cấp chỉ và thiệt chất huy
chương ấy sẽ do ngân sách Trung Kỳ đài thọ. Chúng tôi có phụng nghĩ dạng bản dụ
ngữ ban chuẩn huy chương ấy cho ngạch binh thanh khố Trung Kỳ, kính tâu lên
Hoàng đế tài định, như mông du doãn, hậu chỉ lục tuân.
Nay kính tâu.
Tổng lý đại thần
Thần
(Ký tên: Phạm Quỳnh)
Bên lề trái của bản tâu, có chữ ”Chuẩn y” và ký tắt hai chữ
BĐ (Bảo Đại) bằng mực đỏ của nhà vua triều Nguyễn.
Theo ông Phan Thuận An,Tờ châu bản nói trên được ông tìm thấy
tại tủ sách gia đình ở phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn ở đường Nguyễn Chí Thanh,
thành phố Huế. (Công chúa Ngọc Sơn là con Vua Đồng Khánh, em Vua Khải Định và
là cô ruột vua Bảo Đại, là bà nội của vợ ông Phan Thuận An). Phủ thờ Công chúa
Ngọc Sơn hiện cũng là nơi sinh sống của gia đình ông Phan Thuận An. Tờ châu bản
được viết trên một mặt giấy, có cỡ 21,5x31cm, với nội dung như trên. Có thể nói
đó là một tài liệu quý, không chỉ đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ nước nhà mà
đối với chúng ta, có thêm một thông tin để làm rõ tấm lòng ái quốc của Phạm Quỳnh.
Không phải chỉ đến khi làm quan trong triều đình Huế,
Phạm Quỳnh mới có những việc làm có tính động trời như vậy.
Thời còn làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam
Phong, ông đã có việc làm gây chấn động trong báo giới. Năm 1925 nhà chí sĩ
cách mạng Phan Bội Châu bị Toà đề hình Hà Nội xử kết án tử hình. Phạm
Quỳnh đã viết bài bằng tiếng Pháp trên báo”Indochine Républicaine” (Đông Dương cộng
hòa) để bênh vực Phan Bội Châu”chỉ có một tội là tội yêu nước như bao anh hùng
liệt sĩ Pháp chống giặc ngoại xâm”và yêu cầu được khoan hồng. Cùng với làn
sóng đấu tranh trong nước, nhà cầm quyền phải giảm án thành quản thúc Cụ Phan ở
Huế, và Cụ trở thành ”Ông già bến Ngự” trong trái tim dân Việt.
Một chuyện khác cũng thể hiện tấm lòng của Phạm Quỳnh sống
rất vị tha. Đó là ngày 7-12-1926, ông đã viết thư gửi thống sứ Bắc kỳ Robin về
việc từ chối nhận một khoản trợ cấp của Chính phủ Pháp dành cho mình và xin
chuyển món trợ cấp ấy cho một đồng nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính là nhà
báo nổi tiếng Nguyễn Vĩnh.
Tiêu đề bức thư ghi rõ bằng tiếng Pháp: Revue Nam Phong
Directeur - Rédacteur En Chef: Pham Quynh - direction: 5. Rue des Cuirs, Hanoi
(Có nghĩa là Tạp chí Nam Phong - Chủ nhiệm kiêm chủ bút: Phạm Quỳnh, địa chỉ: 5
phố Hàng Da, Hà Nội.)
Năm 1945 tháng 3, sau vụ Nhật đảo
chính Pháp, ông không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim, cũng không chạy theo
Pháp, về sống ẩn dật trong biệt thự Hoa Đường, ông dành thời gian dịch những
bài thơ Đường tâm đắc nhất.
Tháng sáu năm 1945, nhà báo Nguyễn Vạn An, đại diện nhóm Tri
Tân, được cụ Nguyễn Văn Tố, người đồng sự với ông ngày trước ở Trường Viễn Đông
bác cổ, giới thiệu đến thăm ông. Sau này, khi viết bài Khi danh vọng về chiều:
Tôi đã gặp Phạm Quỳnh ở biệt thự Hoa Đường, ông An có thuật lại những lời ông
nói bấy giờ: Hiện thời, tôi phải tĩnh dưỡng trong ít lâu, rồi tôi sẽ trở lại hoạt
động cho văn học… Tương lai nước ta sau này là do ở chữ quốc ngữ… Trong một thời
gian ra làm quan, tôi tự nhận thấy thâu thái học hỏi thêm được “nhân tình thế
thái”rất nhiều. Ngày nay, trở lại nghiệp cũ, có lẽ ngòi bút của tôi sẽ được dồi
dào, phong phú hơn xưa… Suốt một đời tôi đã phụng sự cho văn học, thì ngày nay
không vì lẽ gì tôi lại không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời gian bỏ
dở”.
Theo nhà báo Phạm Tôn, thì lần ấy Phạm Quỳnh đã nói với nhà
báo Nguyễn Vạn An “Trong trường hợp nào, chúng ta cũng phải đặt quốc
gia lên trên hết, dù trong địa hạt văn hóa cũng vậy.
Phạm
Quỳnh mất đi là cú sốc với giới trí thức và bạn bè. Gia đình
càng tiếc thương.
27 năm sau ngày Phạm Quỳnh mất, chính quyền Việt Nam cộng hòa đã đặt tên cho một con đường mang tên Phạm Quỳnh. Đường dài 900 mét, rộng 8
mét, nối liền đường Bến Lò gốm với đường Lê Quang Hiển (Quận 6 Sài
Gòn). Sở cảnh sát lưu thông có công văn số 450/13-1-1972 gửi tới
các cấp để ”phổ biến đến thuộc viên am tường tên đường mới, hầu hướng dẫn dân
chúng. Riêng phòng Nghiên Kế cho sửa lại tên đường mới trên bản đồ".
Hơn năm chục năm sau khi ông mất, vẫn còn người nhớ và
khóc thương. Nhà giáo Nguyễn Phúc Vĩnh Ba ở Huế đã có bài Văn tế
Nam Phong chủ bút Phạm Thượng Chi tiên sinh. (Xem ở phần phụ lục).
CHƯƠNG VII. NHỮNG NGÀY ẨN DẬT
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với sự kiện phe
phát xít Đức - Ý- Nhật đầu hàng vô điều kiện phe Đồng minh. Ở Việt Nam, quân đội
và chính quyền thân Nhật tan rã hoang mang tột độ. Nhân dịp ấy, dưới sự lãnh đạo
của Việt Minh, nhân dân cả nước vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về
tay người lao động.
Ngày 23-8-1945 tại thành phố Huế, hàng ngàn vạn
người dân lao khổ, cùng thợ thuyền, học sinh xuống đường cầm cờ,
vũ khí hô vang khẩu hiệu ủng hộ cuộc khởi nghĩa. Gia đình Phạm Quỳnh
hầu hết đều hòa trong khí thế cách mạng của quần chúng, ủng hộ
cách mạng. Riêng Phạm Quỳnh và mấy người con gái hôm ấy ở biệt
thự Hoa Đường không ra ngoài.
Từ 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp đến bấy giờ, trong
thời gian gần nửa năm trời, Phạm Quỳnh đã xa rời chốn quan trường,
về ẩn dật và sống cùng con cháu. Ẩn dật là ở ẩn mà tự vui. Ông chẳng
nuối tiếc những tháng năm tuy mang trên người phẩm phục triều đình,
mang danh đại thần mà lực bất tòng tâm trước cảnh non
sông bị ngoại bang thao túng.
Trước đó, thấy tình hình trong nước có nhiều biến động, có lần người
em vợ là ông Lê Văn Tốn (Cửu Xuân) gợi ý là: “Lúc này, anh nên lánh đi xa một
thời gian. Có thể sang Lào, vì vua Lào mến mộ anh lắm, để tránh những rắc
rối có thể xảy ra”. Người anh rể nói rằng: “Chính lúc này mới càng cần ở trong
nước, để có cơ giúp nước”. Phạm Quỳnh ở lại và từ quan.
Những ngày tháng từ quan ấy, ông tập trung
vào suy ngẫm sự đời, viết sách và chọn dịch lại thơ Đường, mà chỉ
là thơ Đỗ Phủ... Rồi, một nhóm người vào biệt thự, xưng là người
của chính quyền cách mạng đến, mời ông đến tòa Khâm để làm việc.
Ông bình thản, tự tin, ôn tồn như tính vốn có từ thời còn làm Chủ
bút Nam Phong, từ giã vợ con người thân trong gia đình ra đi.
Phạm Quỳnh có bệnh dạ dày, người con gái đưa cho cha mấy
viên thuốc dự phòng, ông không cầm, nói: “Thầy đi rồi lại
về, không cần đâu”. Cũng giữa buổi giao thời, cảnh nhà bối rối, lòng
người ngơ ngác như vậy, Phạm Thị Ngoạn, con gái
thứ 6 của Phạm Quỳnh đã tìm thấy một cuốn sách ngoài bìa có dòng
chữ “Kiến văn cảm tưởng- Hoa đường tùy bút I”. Biết là tài liệu
của cha, người con gái đã kín đáo dấu đi, và giữ được cho đến bây giờ
trở thành báu vật, một di cảo quan trọng của thân phụ.
Tập
sách ấy có 47 trang là một cuốn vở học trò. Bên trong Phạm Quỳnh đã
viết và đánh số 11 bài với những tiêu đề riêng, như: Thế thái nhân
tình, Văn học và chính trị, Muốn sống, Con người hiểm độc, Anh chàng
khoác lác, Lão Hoa Đường, Thiếu Hoa Đường...
Đây là mấy dòng trong phần Thế thái nhân tình - Mùa hạ năm
1945: “… Đã để mình trong vòng danh lợi, mới biết rõ những trạng thái ô uế ở đời.
Kẻ xu nịnh mình buổi sáng là người phản bội mình buổi chiều… Kẻ tâng bốc mình
hôm qua, là người thoá mạ mình hôm nay… Mà kẻ hàm ơn nhiều nhất lại là người
quy oán hơn cả. Không kể phần nhiều thời lợi gió theo chiều, thấy không có lợi
đến gần nữa, liền linh lỉnh lảng xa ngay...”.
Những dòng chữ ngay ngắn, thẳng thăn, rõ rành, nghiêm
cẩn của Phạm Quỳnh như là lời tự sự, những nỗi niềm ông ghìm giữ
từ đáy lòng muốn chia sẻ cho người sau. Bìa ghi Kiến văn cảm tưởng -
Hoa đường tùy bút I, như thế có phải chăng ông muốn viết
tiếp... nữa?
Mấy chục năm sau khi đã ra nước ngoài, năm 1992 tiến
sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái ông mới công bố 10 bài (bỏ một bài Chuyện
một đêm một ngày) cho rằng đó là một trang nhật ký, ghi chép không
có tính văn học. Riêng bài “Cô Kiều với tôi”chỉ có ba trang viết dở.
Đấy là bài thứ 11 và ở chính cái trang dở dang ấy bên trên có một
chiếc bút máy nhãn hiệu waterman còn chặn ngang. Bài tùy bút thứ 11
dang dở, cũng là bài văn cuối cùng của đời ông. Bởi vì sau
cái ngày 23-8-1945 ấy, ông ra đi và không trở về nữa! Âu cũng là số
phận đã sắp bầy?
Bài viết “Cô Kiều với tôi “coi như một tự
sự. Phạm Quỳnh vô tình hay cố ý chọn những câu thơ thế
này:
Người
từ lánh gót vườn hoa
Dường
gần rừng tía, dường xa bụi hồng
Nhân
duyên đâu nữa mà mong
Khỏi
điều thẹn phấn tủi hồng thời thôi..
Đây
là bốn câu thơ từ 1925 đến 1928 trong đoạn nói về nàng Kiều bị Hoạn Thư
đọa đày và đưa vào cửa Phật.
Phạm
Quỳnh chép lại mấy câu Kiều như gửi nỗi niềm tâm sự với cuộc đời,
với người thân bầu bạn? Hình ảnh nàng Kiều phải chăng có mối giây
giàng buộc hai con người với nhau?
Và ông bình luận: Sao mà truyện Kiều có lắm câu thiết
tha, thấm thía như vậy! À tưởng giá tự mình than thở cũng than thở
như thế mà thôi. Mà bất cứ câu nào đoạn nào; hễ ngẫu nhiên thích
hợp là có có cái âm hưởng lạ lùng như thế à”.
Ngay từ khi còn trẻ, đọc truyện Kiều Phạm Quỳnh đã say mê và
liên tưởng đến nhân tình. Trong”Tuỳ bút Hoa Đường”, ở bài cuối cùng viết dở, có
đoạn, nghe day diết: Hồi tưởng từ thuở nhỏ, mỗi khi nghe đọc một câu thơ Kiều,
dù chưa hiểu nghĩa, đã thấy cái âm hưởng lạ lùng nó vang động trong lòng. Rồi từ
đó nó văng vẳng luôn bên tai, càng ngày càng tha thiết, thấm thía, có khi âm thầm
não ruột như tiếng gọi xa xăm của một âm hồn tri kỷ tự chín suối đưa lên”.
Phạm Quỳnh đề cao truyện Kiều còn một lẽ nữa đó là cuốn tiểu
thuyết bằng thơ, mỗi câu đều chan chứa tình đời tình người được diễn tả bằng tiếng
Việt, tiếng dân tộc. Ông viết: “Có tiếng mới là nước, có quốc văn mới có quốc
gia. Quốc văn ta thời tuyệt phẩm là truyện Kiều, trước sau chỉ có truyện Kiều,
may có truyện Kiều, đáng quý vô cùng. Cho nên năm 1924, lần đầu tiên kỷ niệm cụ
Tiên Điền, trước hai nghìn người họp ở sân Hội Khai trí, tôi trịnh trọng tuyên
bố một câu: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn.”
Trong số 11 bài của tập di cảo Kiến văn cảm tưởng - Hoa Đường tùy bút 1, có một bài ngắn”Lão Hoa Đường- Thiếu Hoa Đường". Mới nghe không
ai hiểu được. Hóa ra Phạm Quỳnh kính trọng và nể phục Phạm Quý Thích tự là Dữ Hạo,
hiệu Lập Trai, người Hoa Đường, cố hương của ông, nhưng sinh sống ở phường Báo
Thiên, huyện Thọ Xương. 20 tuổi cụ đỗ Tiến sĩ Tam giáp, khoa thi Kỷ Hợi niên hiệu
Cảnh Hưng 40(1799) đời vua Lê Hiển tông. Gia Long lên ngôi triệu cụ vào Phú
Xuân bổ chức Thị trung học sĩ, tước Thích An hầu, sau cáo quan về nghỉ và mất ở
quên nhà. Phạm Quỳnh có viết ra, mới hiểu vì sao ông lấy bút hiệu Hoa Đường:
Tôi mộ cái tài danh học danh tiết. Một bậc tiền bối, lại vừa là một
vị chân nho ôn hoà thuần túy, cũng lạm lấy tên Hoa Đường làm biệt hiệu. Tên cụ
là "Lão Hoa Đường", mà cho mình là "Thiếu Hoa Đường” vậy.
Cùng với việc viết tuỳ bút, thời gian về ẩn dật bên dòng
sông Phú Cam, Phạm Quỳnh đã để tâm vào dịch thơ Đường. Ông đã chọn
và dịch xong 51 bài thơ của Đỗ Phủ, một ông quan nhà Đường nhưng chán
ghét chiến tranh lý tan, lê dân điêu linh, tha hương.
Đỗ Phủ người huyện Củng, tỉnh Hà Nam, là hậu duệ dòng
quan lại quý tộc đã sa sút. Thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ nhưng đỗ đạt
muộn mằn. Năm 40 tuổi mới làm chức quan nhỏ. Ông là một thi sĩ thiên
về tả thực, nghiêng về trường phái nghệ thuật vị nhân sinh. Ông thương
đời, thấm thía nỗi đau đời thể nguyện muốn cứu dân khỏi lầm than
khốn khổ. Phạm Quỳnh chọn Đỗ Phủ hay là tìm sự đồng điệu của tâm
hồn và giãi bầy sẻ chia? Ông dùng thời gian tĩnh lặng ấy mà chép
lại chữ Hán, rồi bình chú tỷ mỷ và dịch từng bài, theo kiểu một
chọi một. Nghĩa là thơ nguyên tác theo thể ngũ ngôn, thất ngôn, tứ
tuyệt, hay bát cú, hay trường thiên Phạm Quỳnh thủy chung giữ nguyên
không hề thêm câu thêm chữ. Ông từng trải, lịch lãm thông thuộc sử Tàu, với
vốn Hán ngữ tự học, (mà tự học là truyền thống gia đình)
ông đã làm công việc chuyển ngữ thơ Đỗ Phủ sang tiếng
Việt. Âu đó cũng là cách giãi bầy nỗi lòng bấy nay ấp ủ của ông?
Ông làm việc cẩn trọng như thế, rồi gửi cho người
bạn văn chương là Đông Hồ Lâm Tấn Phát, trước từng là cộng tác viên thân
thiết của Nam Phong, người mở trường Trí Đức học xá chuyên dạy chữ quốc ngữ. Một
con người có vốn hiểu biết sâu sắc và một thi sĩ tài năng ấy đã được
ông ký thác. Rồi cuộc đời dâu bể tang thương... Đông Hồ mất, bản thảo ấy
được thi sĩ Mộng Tuyết, người bạn đời của ông gìn giữ, nâng niu.
Trong khi đó ở Pháp, người con gái của Phạm Quỳnh là Phạm Thị Ngoạn
làm luận án Tiến sĩ tại Paris năm 1972 với đề tài “Tìm hiểu tạp
chí Nam Phong”, vẫn chẳng hề biết gì về sự trôi nổi của tập thơ
dịch của cha, vẫn dè dặt viết: “Hình như Phạm Quỳnh có dịch thơ Đỗ
Phủ”. Hóa ra, tập dịch viết tay ấy đã chịu số phận lăn trải từ
biệt thự Hoa Đường - Huế vào Đồng Nai - Gia Định để tới tay Đông Hồ,
và cuối cùng Mộng Tuyết đã trao lại cho Phạm Thị Ngoạn.
Bây giờ đây, di cảo ấy đã xuất hiện với bạn đọc. Qua
một tài liệu của gia đình Phạm Tuyên, chúng tôi đã có được
bản sao nguyên chữ Hán viết tay của dịch giả Phạm Quỳnh, để
có thêm một góc nhìn về một nhà báo có hạng, văn sĩ tài
danh..Mới hay Vũ Ngọc Phan khi viết Nhà văn hiện đại năm 1942, rất tinh
tường nhận định về Phạm Quỳnh thế này: “Ông dịch nhiều đoạn văn vừa
có duyên vừa sát nghĩa, đáng làm khuôn mẫu cho những nhà dịch
truyện”. Hoặc: “Đọc những đoạn văn trước thuật của ông, người ta phải
nhận là đủ giọng: Nhẹ nhàng vào chỗ nhẹ nhàng, có duyên vào chỗ
cần có duyên, chua chát cần phải chua chát...”.
Vẫn theo Vũ Ngọc Phan: “Ông đọc Tây để thâu thái lấy
tư tưởng, lấy tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền quốc văn còn
khiếm khuyết, để chọn lấy cái hay của người mà dung hòa với cái hay
của mình, ngõ hầu giữ gìn cho cái học của mình không mất bản sắc
mà còn có cơ tiến hóa được”.
“Ít khi người ta thấy dưới ngòi bút ông những bài
phù phiếm có giọng tài hoa bay bướm và chỉ có một tính cách thuần
túy văn chương...”.
Phải đặt vào tình cảnh ấy mới thấy cái tài
chỉ huy, và sức lôi cuốn của Phạm Quỳnh. Chẳng thế mà văn Vũ Ngọc
Phan cũng phải bình phẩm: “Văn ông ai cũng phải nhận là hùng, là dồi
dào, thường thường lại có cái giọng thiết tha kêu gọi”... Đến cái
công của Phạm quỳnh đối với quốc dân, thì ai cũng phải nhận là một
công lớn... Nam Phong tạp chí rực rỡ như thế cũng vì được người chủ
trương là một nhà văn, học vấn uyên bác, lại có biệt tài, có lịch
duyệt..
Gần đây Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây có cuộc giao lưu
về con người và tập tiểu luận bằng tiếng Pháp được dịch ra tiếng Việt do Nhà xuất
bản Tri thức xuất bản. Cuốn sách này được một nhóm là những dịch giả,
nhà nghiên cứu văn học, như Phạm Toàn, Nguyên Ngọc, Nguyễn Xuân Khánh, Phạm
Xuân Nguyên, Ngô Quang Chiến thực hiện. Nguyên là, năm 2000 nhạc sĩ Phạm Tuyên
khi sang Pháp thăm chị gái là tiến sĩ văn học Phạm Thị Ngoạn đã mang về tập bản
thảo của thân phụ. Đó chính là khởi nguồn của tập sách quý khiến dịch giả Phạm
Toàn phải kinh ngạc: “Phạm Quỳnh tiêu biểu cho một trí thức có nền Hán học, Việt
Nam học uyên thâm trước khi ông tiếp thu phương Tây học. Tôi kinh ngạc về
phương Đông học của ông...”. Trong khi đó Nguyên Ngọc thì khẳng định: “ là người
uyên thâm cả Đông lẫn Tây, mỗi tiểu luận của ông đều có giá trị như một công
trình nghiên cứu hoàn chỉnh (.,.) Con người Phạm Quỳnh là hiện thân của quá
trình giáp mặt Đông Tây, đó là số phận phương Đông nói chung và của Việt Nam
nói riêng”.
Cũng trong cuộc giao lưu, người ta thấy giáo sư Nhà giáo nhân
dân Nguyễn Đình Chú đã thành thực nhận rằng, từ năm 1960 ông đã là một trong những
người nhìn nhận Phạm Quỳnh quá bất nhẫn. Sau khoảng thời gian có độ lùi suy
nghĩ lại, giáo sư coi “Phạm Quỳnh là người mở đầu cho văn hóa Việt hiện đại.
Ông có cả một lý thuyết hẳn hoi về độc lập và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa dân tộc
(quốc gia) và nhân loại, thế giới. Đó chính là hạt nhân của lý thuyết hội nhập
hiện đại. Nhờ lý thuyết đó, Phạm Quỳnh không bị văn hoá phương Tây áp đảo, ông
dõng dạc tuyên bố bằng tiếng Pháp cho người Pháp đọc vào năm 1931: Người An Nam
không thể coi nước Pháp là tổ quốc được, vì chúng tôi đã có một tổ quốc”.
Với giám đốc Nhà xuất bản Tri thức, giáo sư Chu Hảo tỏ ra rất
tự hào khi xuất bản cuốn sách này, vì đã làm sang trọng cho Nhà xuất bản. Vì nó
uyên thâm về học vấn, rất hay về văn chương.Rằng, đây là cuốn sách gối đầu giường
về văn hoá nước ta...
Trong khi đó ở Mỹ, tháng 6 năm 2009 vừa rồi đã có một sự kiện
đáng chú ý xung quanh Phạm Quỳnh và Tạp chí Nam Phong.
Cũng vì trân trọng tài năng nhà văn hóa lớn Phạm Quỳnh, Viện
Vịêt học(Instittute of Vietnamese Studies, CA. 92683 - USA) sau 6 năm hợp tác với
gia đình Phạm Quỳnh mà người đại diện gia đình là Phạm Tuân con út của học giả,
đã hoàn thành bộ DVD Tạp chí Nam Phong. Ông Phạm Tuân đã đưa cho Viện toàn bộ
những số Nam Phong tạp chí mà gia đình giữ được sau nhiều năm chiến
tranh ly tán. Các số tạp chí này có ghi chú, nhận xét của chính học giả Phạm Quỳnh,
ngay sau khi báo mới ra, viết bằng bút chì. Những phần quá mục nát, mất mát ông
Tuân đã báo cho anh ở Hà Nội là nhạc sĩ Phạm Tuyên, nhờ Viện Văn học Việt Nam bổ
sung đầy đủ.
Nghe kể, hơn 50 chuyên gia điện toán, sống rải rác khắp các
bang nước Mỹ tình nguyện thực hiện. Bây giờ họ đã thu gọn trong 6 đĩa với các
chủ đề sau: Đĩa 1 giới thiệu bộ DVD-ROM có mục lục phân tích tạp chí Nam Phong
1917-1934 của Nguyễn Khắc Xuyên, Trung tâm học liệu Bộ giáo dục Sài Gòn. Tìm hiểu
tạp chí Nam Phong 1917-1934, Phạm Trọng Nhân dịch từ Introduction au Nam Phong
của Phạm Thị Ngoạn, Ý Việt, Yerres (Pháp) và số tết báo Nam Phong năm 1918,
cũng là báo tết đầu tiên của nước ta. Đĩa 2: Từ số 1 đến số 42. Đĩa 3: Từ số 43
đến số 84. Đĩa 4: Từ số 85 đến số 124. Đĩa 5: từ số 125 đến số 163.
Đĩa 6: Từ số 164 đến số 210.
Ngày 28-6-2009 hơn một trăm văn nghệ sĩ, nhân sĩ đã tham dự
buổi ra mắt công trình này và đầu tháng 9 năm 2009, những DVD toàn bộ 210 số Tạp
chí Nam Phong đã có mặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đó là những bản đặc
biệt gửi tặng gia đình học giả Phạm Quỳnh ở trong nước.
CHƯƠNG VIII. ẨN TÌNH
Dẫu là người hết lòng vì công việc, lý tưởng; chân thành với
người thân đến mức có thể giãi bầy gan ruột… nhưng từ sâu thẳm đáy lòng, Phạm
Quỳnh vẫn có ẩn tình mà ông giấu kín…
Sinh thời Phạm Quỳnh và Nguyễn Vĩnh có mối quan hệ gắn bó đặc
biệt trên con đường canh tân văn hoá, phát triển chữ quốc ngữ và sự nghiệp báo
chí.
Nguyễn Vĩnh, Phạm Quỳnh cùng học trường Thông ngôn, nhưng mỗi
người tốt nghiệp mỗi khoá khác nhau. Từ năm 1913 khi Nguyễn Vĩnh làm chủ bút
Đông Dương tạp chí, tuần báo xuất bản vào thứ năm, thì Phạm Quỳnh mới 21 tuổi,
đã trở thành một trong 11 biên tập viên có danh phận của tạp chí. Tuy hơn Phạm
Quỳnh 10 tuổi, nhưng Nguyễn Vĩnh vẫn coi ông là một người
cộng sự tin cậy có tài năng sánh vai với các bậc đàn anh như Tản Đà, Nguyễn Văn
Tố..
Năm 1922, họ cùng nhau có duyên may đi tham dự Hội
chợ Quốc tế (đấu xảo) ở Macxây (Marseille) Pháp. Trong chuyến này Nguyễn Vĩnh
đã lái xe ô tô cho Phạm Quỳnh đi thăm nhiều nơi nội thành và ngoại
vi đất Pháp, tạo cho ông điều kiện thâm nhập đời sống thực tế, để sau này có những
bài Pháp du hành trình nhật ký đăng tải trên Nam Phong rất
sinh động.(trên Nam Phong số 23-7-1922, Phạm Quỳnh đã nói việc này)
Năm 1932, Nguyễn Vĩnh gặp rủi ro nghề nghiệp. Ông
bị vỡ nợ trong vụ vay tiền dựng toà soạn báo An Nam Nou veau (nước An Nam mới).
Ông phải phiêu dạt sang Lào đào vàng….
Năm
1936, sau khi vào Huế làm quan được 4 năm, biết tin sửng sốt đau thương
Nguyễn Vĩnh chết đột ngột bên sông giáp biên giới Việt Lào, Phạm Quỳnh
thương tiếc làm thơ khóc bạn.
Tháng 9 năm 2009, giáo sư Nguyễn Đình Chú gửi cho Phạm
Tuyên con trai Phạm Quỳnh một bài viết ngắn. Bài viết với
hàng tít: “Cụ Quỳnh khóc cụ Vĩnh”, bên dưới có dòng chữ
nhỏ: Về một bài thơ bây giờ mới được biết.
Bài viết có đoạn: “Quỳnh, Vĩnh, Tốn, Tố (Phạm
Quỳnh, Nguyễn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố) một thời được dư
luận xã hội tôn là 4 học giả sáng giá nhất của đất nước. Nguyễn
Văn Vĩnh chủ bút Đông Dương tạp chí, Phạm Quỳnh chủ bút Nam Phong tạp
chí. Cuộc đời hai Cụ mỗi người một vẻ, nhưng số phận lại có chỗ na
ná nhau, với người đời, kẻ đặt lên cao, người hạ xuống thấp. Có
điều là thời gian xem ra đang ủng hộ hai cụ. Chẳng biết sinh thời hai
cụ gắn bó với nhau tới đâu, nhưng cứ vào bài thơ cụ Quỳnh khóc cụ
Vĩnh năm 1936 thì tình bạn của hai cụ chắc là thắm thiết
lắm. Bài thơ này còn được hôm nay là do cụ Nguyễn Đình
Khang quê Nghi Lộc, Nghệ An làm thư viện ở Huế trước cách mạng tháng
Tám năm 1945 và từng tham gia việc biên tịch gia sản cụ Quỳnh hồi
tháng 9 năm 1945 tại Huế, nhân đó mà thấy bài thơ trong tập bản thảo
của cụ Quỳnh, nay đọc lại cho chép (chúng tôi nhấn mạnh - KHL). Bài thơ thất
ngôn bát cú luật Đường “Khóc Nguyễn Vĩnh”của ông nghe xót xa, mà như có chứa
cả ẩn ức nỗi niềm:
Vừa mới nghe tin vội giật mình
Thôi thôi thôi cũng kiếp phôi sinh
Trăm năm sự nghiệp bàn tay trắng
Bảy thước tang bồng nắm cỏ xanh
Sống lại như tôi là sống nhục
Chết đi như bác chết là vinh
Suối vàng bác có dư dòng lệ
Khóc hộ cho tôi nỗi bất bình.”.
Quả
là một bài thơ mới tìm thấy! Bởi chỉ có người biết thuộc nhập tâm đọc lại chép
ra thì người ngoài mới biết. Nếu không nó vẫn nằm trong yên lặng mà thôi. Cứ
như bài thơ này, người đời mới càng hiểu thêm về nỗi lòng cụ Phạm.
Từ khi Nguyễn Vĩnh mất, 9 năm sau nhà họ Phạm mới xảy ra
chuyện gia biến, nhưng hình như có linh cảm mà Phạm Quỳnh khóc bạn
vẫn phảng phất nỗi niềm ẩn ức riêng mình. Hết sức bình sinh đem tài
năng ra phụng sự cho một nền văn hóa, giữ gìn tiếng mẹ đẻ, nâng cao
vị thế tiếng Việt mong sao không bị thua kém ngôn ngữ Âu Tây,
vậy mà vẫn bị mỉa mai, châm chọc. Người đời đâu có biết ông đang đi
dưới hai làn đạn. Một làn là sự soi mói rình mò của kẻ ngoại bang,
và một làn là miệng lưỡi nhân gian, có khi lại còn ác độc hiểm nguy
hơn nhiều. Nỗi bất bình ấy, Phạm Quỳnh nín nhịn, và chịu đựng nỗi
khổ tâm, dày vò cho đến sau cái ngày mồng 13 tháng 3 năm 1945, khi đã
thành lập được chỉnh phủ Trần Trọng Kim thân Nhật, ông về ở Hoa
Đường, suy ngẫm thế cuộc, suy ngẫm thế thái nhân tình. Nhưng đó là
chuyện sau. Bây giờ khóc bạn, cũng là giải tỏa nỗi cay đắng trong
lòng.
Cả đến khi thất sủng, về ở ẩn, ông vẫn đau đáu khôn nguôi về
kỷ cương xã hội. Trong bài “Chỉ buộc chân voi", Phạm Quỳnh còn da diết: Tục
ngữ có câu ”Chỉ buộc chân voi". Chỉ mà buộc được chân voi, một cái hãm rất
mong manh mà cầm được một cái sản rất to mạnh… Nền nếp gia đình, trật
tự trong xã hội, kỷ luật của cá nhân phần nhiều cũng chỉ căn cứ ở mấy sợi chỉ
vô hình do đạo đức tôn giáo đời đời dùng để ngăn chặn cái thị dục vô
nhai (không bến bờ - KHL chú) của người ta, ngăn sự ngu xuẩn vô ý của
quần chúng. Nếu sợi chỉ ấy mà chùng, mà đứt thời có nguy hiểm đến văn minh loài
người".
Có lẽ vì thế mà sau này có lần Phạm Quỳnh tự
vấn”Tôi là một người của buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm
thông. Tôi là giao điểm giữa Đông và Tây, giữa quá khứ và tương lai (...) Là một
người ái quốc Việt Nam, tôi yêu nước tôi với tất cả tâm hồn tôi, thế mà người
ta buộc tôi, bảo tôi là phản quốc, đã cộng tác với kẻ xâm lược và phụng sự
chúng!... Là một thân hữu chân thành của nước Pháp, một đằng khác, người Pháp
trách cứ tôi đã che đậy một tinh thần quốc gia cực đoan chống Pháp dưới một bề
ngoài thân Pháp!”
Những đoạn trích trên đây thật bất ngờ được trích từ một thư
riêng của Ngự tiền Văn phòng đại nội Phạm Quỳnh gửi ông Louis Marty, Giám đốc
chính trị vụ Phủ toàn quyền Đông Dương. Thư đề ngày 30 -12-1933. Thư được giữ trong
gia đình Louis Marty, do bà quả phụ Marty gửi cho bà Phạm Thị Ngoạn
con gái Phạm Quỳnh để sao y năm 1960. Lúc đó bà Marty sống tại Cahors,
Département du Lot (Theo tài liệu gia đình Phạm Tuyên).
Phạm Quỳnh là người yêu nước, trân trọng nền văn hoá dân tộc
đặc biệt tiếng Việt, thể hiện qua việc tôn vinh áng thơ bất hủ truyện Kiều. Thời
kỳ làm quan, dưới vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, ông chống Pháp một cách
không khoan nhượng, theo kiểu của trí thức nho học bấy giờ. Ông dám trách cứ
Pháp trưng dụng lúa gạo để cung cấp cho Nhật, và đòi Pháp trả quyền
cai trị Bắc Kỳ cho Nam triều. Ông bị tên cáo già thực dân theo
dõi, liệt vào đối tượng đối địch bất khả quy.
Theo một tài liệu mật ở Bảo tàng Pháp Ai xen Provene được
công bố, ngày mồng 8 tháng Giêng năm 1945, trong báo cáo gửi đô đốc
Decoux và cho Tổng đại diện Mordant, Thống sứ Trung Kỳ khi ấy là Healewyn đã viết
về Phạm Quỳnh như sau: "Vị thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời
mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí chống sự bảo trợ
của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc,
Trung, Nam) và cho việc người Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của chính mình...
Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự trị
hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ (Trung kỳ và Bắc kỳ) khước từ chế độ thuộc địa ở
Nam kỳ và thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài một điều là, dưới
vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyển
nổi cho nền độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu
nước chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một cương
vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới nay đó là một địch thủ thận
trọng nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước Pháp và ông ta có thể sớm
trở thành một kẻ thù không khoan nhượng.
Lần khác, trong một mật thư của Khâm sứ Trung Kỳ gửi Toàn quyền
Đông Dương Đơcu, có đoạn “Ông Phạm Quỳnh trách cứ Pháp trưng dụng lúa gạo để
cung cấp cho Nhật, và đòi Pháp trả quyền cai trị Bắc Kỳ cho Nam triều...”.
Phạm Quỳnh có thể sẽ trở thành kẻ đối địch bất khả quy của
chúng ta(tức Pháp - KHL chú).
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp. Phạm Quỳnh từ
nhiệm về ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường, không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim
thân Nhật, cũng không chạy theo Pháp. Ông để tâm đến văn học mà mấy chục năm
ông say mê tâm huyết. Có nhà báo phỏng vấn ông, rằng sắp tới ông làm gì, ông trả
lời “Một đời tôi hoạt động văn học, nay tôi trở lại văn học”. Nhưng trớ trêu
thay, một cái chết đến với ông trong những ngày đầu cuộc khởi nghĩa Tháng Tám.
Nhà thơ Huy Cận, người từng thay mặt chính phủ lâm thời vào Huế thu ấn tín và
chứng kiến lễ thoái vị của vua Bảo Đại khi trở về kể chuyện Phạm Quỳnh với Hồ
Chủ Tịch. Nghe xong, Người đã nói với Huy Cận “Việc đã lỡ mất rồi”.
Khi tìm hiểu về Phạm Quỳnh, không ít người đặt câu hỏi: Vì
sao nhà văn hóa lớn đầy uy tín và nhiệt tâm như Phạm Quỳnh lại nhận
lời làm quan cho triều đình Huế, một triều đình thực chất bị thao túng của thực
dân Pháp?
Phạm Quỳnh mất năm 1945, sau đấy 26 năm nhà văn Nguyễn Công
Hoan đã có lời chia sẻ "... Bấy giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan không phải
vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam Triều. Mà cũng
chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam Phong, Phạm Quỳnh được cấp 600 đồng một
tháng. Món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ đổi lấy danh
nghĩa Chính phủ Nam Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884 (nghĩa là Pháp chỉ đóng
vai trò bảo hộ còn công việc trong nước thì để vua quan người Nam tự đảm nhiệm
lấy. Trên thực tế Pháp đã lấn quá sâu vào nội bộ triều đình Huế - KHL). Vậy là một
người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng
qua là một việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm
việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không đau đớn ai không
khóc thầm. Thế là tôi nghĩ ra được truyện Kép Tư Bền tả một anh kép nổi tiếng về
bông lơn đã phải vì giữ tín nhiệm với khán giả mà lên sân khấu nhà hát làm trò
cười ngay cái tối cha mình đang hấp hối" (Đời viết văn của tôi - NXB Văn học
Hà Nội năm 1971).
* Khoảng trống Phạm Quỳnh
Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện sử học, trong bài ”Phạm
Quỳnh - chủ bút báo Nam Phong", đăng trên tạp chí Khoa học và Ứng
dụng Hải Dương, số tháng 2 năm 2005, có đoạn: “Còn xét về hành động, Phạm Quỳnh
không có hành vi nào tàn ác với nhân dân, không đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông
dân như nhiều quan lại thời Nguyễn, không ra lệnh bắt bớ tù đầy các nhà yêu nước (…)
Nhưng mặt khác ông lại có công chuyển tải văn hoá Đông - Tây trên văn đàn, báo
giới Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ, văn hoá dân tộc Việt
Nam thời đầu thế kỷ XX, công lao đó đáng được ghi nhận. Nếu không xảy ra việc
ông qua đời năm 1945 thì có thể ngày nay chúng ta dễ dàng đánh giá ông
hơn"
Vậy sự việc "qua đời”của Phạm Quỳnh mà giáo
sư Văn Tạo nói là thế nào? Giáo sư Văn Tạo viết:
“Năm 1945, sau khi Bảo Đại vừa thoái vị, trao ấn kiếm cho
Chính phủ lâm thời, thì Pháp thả dù biệt kích và gián điệp xuuống ngoại vi
thành phố Huế, mang theo chỉ thị mật của chính phủ Đờ Gôn là phải tiếp xúc cho
kỳ được với Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh. Lúc đó Bảo Đại đã được đưa ra Thanh
Hóa, còn Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh vẫn ở Huế nên có lệnh cấp tốc
phải di dời hai nhân vật này ra khỏi Huế. Chuyến di dời đó có 4 người là Ngô
Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm), Phạm quỳnh, con trai Ngô Đình Khôi (tức Ngô
Đình Huân - KHL chú), và Nguyễn Tiến Lãng - con rể Phạm Quỳnh. Nhưng phương tiện
dời đi chỉ có chiếc ô tô cũ, ọc ạch đưa được ba người là Phạm quỳnh và cha con
Ngô Đình Khôi cùng du kích áp tải.… Chẳng may du kích áp tải đến một quãng rừng
cách xa Huế thì xe bị hỏng, lại có tiếng ì ầm như tiếng máy bay biệt kích Pháp
thả dù. Các chiến sĩ du kích bí quá, sợ không hoàn thành trách nhiệm di dời, đã
tự động thủ tiêu ba người, không chờ chỉ thị cấp trên".
11 năm sau, vào đầu năm 1956, bấy giờ Ngô Đình Diệm đã lên
làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, cho người nhà đi tìm di hài và cải táng anh
ruột và cháu mình là cha con Ngô Đình Khôi. Khi ấy hai người con của Phạm Quỳnh
là Phạm Tuân và Phạm Thị Hảo đi theo nhận di hài cha. Tại đây họ mới
biết thêm nơi giam giữ cuối cùng của thân phụ. Đó là xưởng ép dầu tràm cách
làng Văn Xá chừng 5 cây số về phía Tây, cách Huế khoảng 15 cây số về phía bắc,
trên đường Huế - Quảng Trị.
Ngày 9 tháng 2 năm 1956 di hài Phạm Quỳnh được cải táng. Khi
đào lên người ta nhận ra ông nằm dưới cùng, bên trên là cha con Ngô Đình Khôi.
Các con nhận ra người cha kính yêu nhờ chiếc kính cận nằm trên hai hốc
mắt. Phạm Quỳnh sinh thời bị cận nặng. Chiếc kính luôn thường trực trên mặt
ông. Nếu mất kính, ông chỉ có thể sờ soạng như người mất phương hướng và không
thể làm gì được. Vì thế, trong sinh hoạt, làm việc, đăng đàn diễn thuyết kể cả
chụp ảnh … kính chẳng khi nào rời.
Mộ ông được đặt trong chùa Vạn Phước - Huế. Chùa Vạn
Phước nằm trên đường Điện Biên Phủ (xưa là đường Nam Giao) bên phải chùa Từ
Đàm. Khi còn sống, Phạm Quỳnh thường lui tới chùa này đọc sách, nghỉ ngơi hoặc
suy ngẩm nên rất thân tình với Hòa thượng trụ trì. Nhà chùa dành cho ông một
gian nhỏ để làm thư phòng. Ông thích nghiên cứu đạo Phật và đã viết cuốn Phật
giáo lược khảo. Sát ngay cổng ngoài của chùa về phía trái là mộ được
cải táng của Phạm Thượng Chi. Hai trụ cổng vào mộ có hai hàng chữ Nôm khắc trên
đá hoa cương “Truyện Kiều còn tiếng ta còn” bên phải, và “Tiếng ta
còn, nước ta còn” bên trái, do con cháu ông trùng tu năm 1992. Mộ ông
nằm dưới một tàn cây râm mát. Tấm bia đá bên trong ghi chính giữa dòng chữ Hán
“Nam Phong chủ bút Phạm Quỳnh Thượng Chi di thể” (南 風 主 筆 范 瓊 尚 之 遺體 Thân
thể còn lại của chủ bút báo Nam Phong tức Phạm Quỳnh hiệu Thượng Chi). Nghĩa
là chức vị, họ tên và bút hiệu thường dùng của một nhà báo. Chẳng hề
liên quan gì đến ông quan đại thần. Bên phải là dòng chữ “Ất Mùi niên thập nhị
nguyệt thập bát nhật (乙 未 年 十 二 月 十 八 日 ngày
18-12-năm Ất Mùi) tức ngày cải táng ông từ làng Hiền Sĩ, Phong Điền, Thừa
thiên - Huế vào Huế. Bên trái trên bia là hàng chữ “Nam, Phạm Bích đồng đệ muội đẳng
cung chí”(男 范 璧 仝 弟 妹 等 恭 誌 Con
trai Phạm Bích cùng em trai em gái cung kính ghi).
Cái chết của Phạm Quỳnh nói theo duy tâm là do số phận, định
mệnh đã sắp bầy. Nếu không có sự tình cờ biệt kích Pháp nhảy dù, khi di dời xe
không bị ọc ạch cản trở đường đi, và dọc đường không có
tiếng ì ầm máy bay giữa cái thời khắc nhạy cảm ấy, như
giáo sư Văn Tạo kể?...
Bây giờ ở góc đồi xóm Bình An, ngoại ô Huế còn ngôi mộ Phạm
Quỳnh. Dưới vòm lá xanh hàng cây muối, mộ ông yên lặng rung rinh hoa nắng. Trước
cửa vào mộ là đôi hàng chữ Nôm, người đời sau sắp xếp lại câu nói của ông trong
đêm kỷ niệm ngày mất thi hào Nguyễn Du tại trụ sở Hội khai trí Tiến đức năm
1924, giống như hai vế đối:
• Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn
• Tiếng
ta còn, nước ta còn.
Đã có lần nhạc sĩ Phạm Tuyên, con thứ chín của
ông bàn với gia đình ý nguyện đưa ông về Lương Ngọc - Hoa Đường tỉnh
Hải Dương, để bên cạnh người cha là tú tài Phạm Hữu Điển, để con cháu chắt tiện
bề hương khói. Nhưng có người kính yêu Phạm Quỳnh khuyên, nên cứ để ông ở lại
chốn này. Tấc đất Phạm Quỳnh đang yên nghỉ có thế đất thiêng. Ở
đây ông thi thố tài năng, đem kiến văn sức lực hiến dâng cho quốc dân đồng bào,
sự nghiệp quốc học, sự nghiệp tôn vinh tiếng mẹ đẻ, mà bạn bè trong nước và
ngoài nước từng biết đến vẫn luôn ngưỡng mộ. Mấy chục năm sau, có bao nhiêu biến
đổi, nhiều khách nước ngoài tới Huế, còn nhớ và tìm đến đây thắp hương tưởng niệm
ông Chủ bút tạp chí Nam Phong.
Có nhà hoạ sĩ sinh sống ở nước ngoài trở lại Huế, nhìn bến
sông An Cựu, nghe dân chúng nhắc đến tên bến cụ Phạm, đã xúc động vẽ bức tranh
về bến nước này và trưng bày triển lãm. Thực ra bến nước còn đây, cây sung ngày
xưa xòa ra mặt nước chỉ còn trong ký ức thời gian. Ngôi biệt thự Hoa Đường sau
những ngày tao loạn, chiến tranh nay không còn nữa, chỉ là một xóm nhỏ của những
cư dân mới đến sau này. Riêng cái tháp nước thì vẫn trơ trơ cùng tuế nguyệt?.
Thật ra hiếm có một người nặng lòng với cố hương như Phạm Quỳnh.
Tổ tiên sinh ra từ đất Hoa Đường, sau đó di cư đi nơi khác sinh sống. Đối với mảnh
đất quê cha đất tổ, bao giờ cũng trĩu nặng trong trái tim ông. Phòng làm việc của
Phạm Quỳnh luôn treo bức tranh có hai chữ đại tự Trung Hiếu, như nhắc ông luôn
nhớ bổn phận với tổ quốc và gia đình. Ngay từ còn nhỏ ông có ý thức đặt bàn học
tập ở gần gian thờ tổ tiên để luôn nhớ cội nguồn mà phấn đấu vươn lên. Khi dọn
nhà từ phố Hàng Trống sang phố hàng Da, ông cũng mang theo bài vị tổ tiên và kê
bàn ghế gần đúng như chỗ cũ.
Làm văn viết báo, ngoài tên thật, ông còn bút hiệu Thượng
Chi, Hồng Nhân, Phạm Quỳnh còn có bút danh Hoa Đường. Mỗi lần cầm
ngòi bút ký Hoa Đường, dường như ông nhớ về nơi nguồn cội, nhớ về cái mảnh đất
phong thổ, có hơn mười vị tiên hiền đại khoa. Nhớ về tiên liệt đã bỏ máu xương,
xây đắp. Ngày vào Huế đem tấc lòng báo đáp ý nguyện mở mang quốc văn quốc học,
ông vẫn đau đáu nghĩ về làng xưa. Với vị thế của ông, Phạm Quỳnh đã về cố hương
cho lập trường Tổng sư ngay trên bản quán. Ở kinh thành Huế vàng son, nhưng Phạm
Quỳnh vẫn nhớ tới cố hương. Đó là làng Hoa Đường bên sông Cửu An, thuộc phủ
Bình Giang tỉnh Hải Dương miền Bắc. Còn ở đây, bên dòng sông An Cựu,
trên trụ cổng biệt thự ông cho đắp hai chữ Hoa Đường, để khuya sớm hàng ngày đi
đi về về sống với vợ con, ngước nhìn lên hai chữ thiêng liêng ấy, ông có cảm
giác quê hương như ở bên mình. Ông không thể và chẳng bao giờ dám
quên mảnh đất tổ tiên. Ở đấy tuy không phải nơi ông chôn rau cắt rốn, nhưng có
mộ phần của thân phụ ông - cụ tú Phạm Hữu Điển, một sợi dây vô hình, níu ông lại
để không bị quên lãng cội nguồn.
Những tháng ngày từ nhiệm chức quan, nằm trong ngôi biệt thự
dịch thơ Đổ Phủ và viết bút ký, ông vẫn không quên Hoa Đường, và vì thế mới có
Kiến văn cảm tưởng, tuỳ bút Hoa Đường! Phạm Quỳnh nghĩ tới người cha một đời vất
vả, nằm trên đất cố hương Hoa Đường, mà vì việc nước lâu lâu ông mới có dịp về
viếng thăm.
Thế là cha ở Hoa Đường xứ Bắc và con đang ở Hoa Đường phương
nam. Vậy là hai chữ ấy cứ bám riết lấy cuộc đời Phạm Quỳnh cho đến khi ông về với
đất.
Trong khi ở Huế Phạm Quỳnh bị bắt,
thì ở ngoài bắc, sáng 23 -8-1945, Hồ Chủ Tịch mới từ Tân
Trào trên đường về Hà Nội. Trải qua những chặng đường Đa Phúc, Phúc
Xá, Từ Liêm, Gạ... chiều 25-8 Người mới vào Hà Nội. Hồ Chủ Tịch triệu
tập chủ trì hội nghị Thường vụ trung ương Đảng rồi họp Ủy ban Giải
phóng Dân tộc, đề nghị thi hành chính sách đại đoàn kết rộng rãi,
thành lập Chính phủ Thống nhất Quốc Gia, bao gồm những đảng phái,
những người có danh vọng.
Rồi Người viết Tuyên ngôn Độc lập. Khi nghe báo
cáo là Trần Huy liệu cùng phái đoàn đã vào Huế nhận ấn tín của
Bảo Đại thoái vị, người nói với Hoàng Hữu Nam: “Chú tìm một người
thay chú vào Huế gặp Phạm Quỳnh đưa thư tôi mời cụ Phạm...”. Theo tác
giả Sông Hương trong bài “Góp phần tìm hiểu và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bất
Tự Nhiên” (sách “Để tìm hiểu thêm về Bác Hồ“ - NXB Lao Động xuất bản 2009) thì
ngày 30-8-1945 Hoàng Hữu Nam thưa với Bác là ông Phạm Quỳnh đã
bị bắt, Bác nói: Thật là Bất tự nhiên - (thực ra là Bất tất
nhiên - KHL chú), tức là không nhất định phải như thế, có thể ra cách khác được.
Tác giả Sông Hương phân tích “Nếu không có tư liệu nào bổ sung, đây
có thể là câu nói duy nhất mà ta có được của Bác Hồ trong trường hợp duy nhất về
ứng xử với Phạm Quỳnh và suy ra cũng không phải chỉ với một con người, một sự
việc ấy” (trang 117).
Còn nhớ: Từ 1932 đến 1945, gia đình Phạm Quỳnh vẫn ở Huế từ khi
ông vào Huế làm quan. Lúc bấy giờ Phạm Khuê đang học đại học Y khoa
Hà Nội, ở số 5 phố Hàng Da với gia đình chị cả Phạm Thị Giá cùng chồng
là giáo sư Tôn Thất Bình, hiệu trưởng Trường Thăng Long. Nhưng khi Cách mạng
tháng Tám bùng nổ thì Phạm Khuê lại ở Huế vì đang dịp nghỉ hè. Lúc cha bị bắt
thì Phạm Khuê, Phạm Tuyên và đám người nhà trai trẻ đang đến sân vận động dự cuộc
mít tinh do Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh tổ chức. Ở nhà, chỉ còn ông bà Phạm Quỳnh, vợ
chồng Phạm Thị Ngoạn - Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Thị Hoàn và mấy em
gái. Phạm Tuân, con trai út của Phạm Quỳnh và mấy đứa cháu nội, ngoại thì chơi
tha thẩn ở sân nhà. Mấy hôm trước, biết tin Cách mạng thành
công ở Hà Nội, Phạm Quỳnh đã bảo người nhà, vợ và các con gái lấy hết vải đỏ, vải
vàng nhà hiện có, để may gấp cờ đỏ sao vàng treo khắp mặt tiền nhà. Ông bảo “Nước
ta độc lập rồi, thế là việc đáng mừng nhất”.
Chiều hôm ấy, Phạm Khuê dự mít tinh về đến nhà, tay vẫn còn cầm
cờ đỏ sao vàng, mới biết cha và anh rể vừa bị bắt.
Phạm Khuê lên tàu hỏa ra Hà Nội, báo tin chẳng lành. Cả
nhà cùng bàn để hai chị lớn là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức (là vợ Giáo sư Đặng
Vũ Hỷ) xin lên gặp Cụ Hồ, mang theo thư do Phạm Khuê chấp bút, theo ý kiến của
gia đình.
Phạm Thị Giá tìm gặp ông Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, và
hai bà được Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ trưa ngày 31- 8- 1945. Người hứa là sẽ
cho tìm hiểu kỹ sự việc đã xảy ra.
Theo Vũ Đình Huỳnh, về sau này khi nghe chuyện
về Phạm Quỳnh, Bác đăm chiêu suy nghĩ bảo: “Giết một học
giả như vậy nhân dân ta được gì, cách mạng được gì. Tôi đã
từng gặp, từng giao tiếp với cụ Phạm ở Pháp. Đó không phải là
người xấu”. Cũng qua nhà thơ Huy Cận, Bác có nhắn lại gia đình là: “Cụ Phạm
là người của lịch sử sẽ được lịch sử đánh giá lại. Con cháu cứ vững tâm
đi theo cách mạng...”.
Sự việc này được bà Thức thuật lại trong một bức thư đề ngày
28-10-1992 gửi các em bên Pháp năm 1992. Trong thư có đoạn: “Tháng Tám năm
1945 thầy tôi ra đi!! Than ôi cả thầy me tôi và các con đều không có thể ngờ rằng
thầy tôi ra đi mãi mãi!!! Chúng tôi khóc tưởng như có thể chết đi sống lại!!
Sau đó, chị tôi (bà Phạm Thị Giá - KHL chú) và tôi nhờ một anh bạn là ông Vũ
Đình Huỳnh ngày ấy làm garde corps (bảo vệ) cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm Cụ
và hỏi chuyện. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về, và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội
vã có thể có nhiều sai sót đáng tiếc!!” và tôi nghe một bà bạn tôi là nữ sĩ Hằng
Phương đến dâng cụ ít cam và một bài thơ, nhân nói đến Thầy tôi, cụ Hồ bảo: “Thật
là đáng tiếc, dẫu sao cũng là một nhà văn học…".
Vậy
mà có một khoảng thời gian dài các nhà nghiên cứu đã đánh giá về ông
thiếu phần công tâm, cực đoan, phiến diện có phần bất nhẫn: Cuốn Lược truyện
các tác gia Việt Nam, Tập 2, NXB - KHXH, 1972 viết:
“Năm
1917 Quỳnh được tên Giám đốc sở mật thám Mácty ủy cho lập ra tạp chí Nam phong,
với mục đích phục vụ cho chính sách văn hoá nô dịch của thực dân Pháp lúc ấy…
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, rồi Nhật đảo chính Pháp, Quỳnh thân Pháp,
bị chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim gạt ra ngoài…
Phạm
Quỳnh là một tên tay sai đắc lực của đế quốc Pháp trên lĩnh vực văn hóa, một
tên Việt gian lợi hại, chống cách mạng… Trong những ngày đầu tổng khởi nghĩa thắng
lợi, tháng 8 năm 1945, chính quyền nhân dân cách mạng đã xử tử Phạm Quỳnh”.
Còn
cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Bá Thể và Nguyễn
Quang Thắng, NXB Văn hóa - 1999, có lời lẽ khiêm tốn hơn, nhưng vẫn theo chiều
hướng các sách trước đó: “Ông có tài học nhưng lại cộng tác chặt chẽ với thực
dân Pháp về văn học và chính trị. Do đó năm 1917 ông được Lui Macty (Giám đốc
chính trị kiêm Trưởng mật thám Đông Dương) cho ra tờ tạp chí Nam Phong… tuyên
truyền về học thuật, chính trị cho Pháp ở Đông Dương… Hoạn lộ của ông lên nhanh
như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân… Đương thời Phạm
Quỳnh bị các nhà yêu nước, nhà văn hóa chân chính như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Khôi lên án về việc tán dương truyện Kiều với ý đồ đen tối và có
tính cách thậm xưng”.
Nhưng
lịch sử có tính công bằng.
Những năm gần đây, bình tĩnh nhìn lại quá khứ, người ta đã có
lối nhìn toàn diện, khoa học, và nhận định về con người, sự nghiệp của Phạm Quỳnh
khách quan hơn. Từ điển văn học bộ mới - 2004, của nhà nước ta có những
dòng viết về ông khá xác đáng và trung thực ”Ông là người có tinh thần
dân tộc, ôm ấp chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa lấy việc canh tân văn
hóa để làm sống lại hồn nước”. Cũng từ năm 2000 đến nay, ở Việt Nam
đã liên tiếp xuất bản những tác phẩm của Phạm Quỳnh, như: Mười ngày ở
Huế, Luận giải văn học và triết học, Du ký Việt Nam, Phạm Quỳnh - tiểu luận viết
băng tiếng Pháp, Mục lục Nam phong… Đặc biệt năm 2006 bộ sách Thượng Chi văn tập,
vừa được tái bản sau lần xuất bản đầu tiên 1943. Cách đây
63 năm nhà xuất bản Alexandre de Rhodes đã in 5 quyển, lần này Nhà
xuất bản Văn học đã in trọn bộ vào một tập dày tới 1129 trang sách, bao gồm các
bài triết học, khái niệnm làm báo, tư tưởng Đông Tây, văn hóa Việt Nam, Ngôn ngữ
Việt Nam, một số câu chuyện cá nhân...
Thực ra không phải “Phạm Quỳnh là tay sai đắc lực của đế quốc
Pháp trên lĩnh vực văn hóa, một tên Việt gian lợi hại, chống cách mạng” như các
tác giả cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam đã viết. Ông cũng không phải là
người tán dương truyện Kiều với ý đồ đen tối và có tính cách thậm
xưng như hai tác giả trong Từ Điển nhân vật lịch sử Việt Nam đã dẫn. Phạm Quỳnh
là người yêu nước, trân trọng nền văn hóa dân tộc đặc biệt tiếng Việt, thể hiện
qua việc tôn vinh áng thơ bất hủ truyện Kiều. Thời kỳ làm quan, dưới vẻ bề
ngoài nhã nhặn và thận trọng, ông chống Pháp một cách không khoan nhượng, theo kiểu
của trí thức nho học bấy giờ. Ông dám trách cứ Pháp trưng dụng lúa gạo để cung
cấp cho Nhật, và đòi Pháp trả quyền cai trị Bắc Kỳ cho Nam triều. Ông
bị tên cáo già thực dân theo dõi, liệt vào đối tượng đối địch bất khả
quy.
Có thể coi Phạm Quỳnh là con người có tầm tư tưởng khác
với xu thế chung thời bấy giờ. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ trước, ông đã
có một quan niệm chấp kinh tòng quyền, mà đến bây giờ khi đọc lên, ta tưởng là
quan niệm của Việt Nam trong thế kỷ 21. Ông viết “Chúng ta hãy khép lại quá khứ,
và bởi vì chúng ta phải chung sống, nên chúng ta hãy tránh những cuộc va chạm
vô ích và hãy tổ chức cuộc sống chung của chúng ta dưới một khẩu hiệu một cuộc
sống thực sự tôn trọng lẫn nhau”. Có lẽ với ý tưởng này mà Phạm Quỳnh bị coi là
tay sai, là thoả hiệp không dám đấu tranh, là đề huề với Pháp?
Đã có nhiều học giả để tâm nghiên cứu về Phạm Quỳnh với nhiều
tình cảm khác nhau. Tác giả bài thơ Ông đồ vang bóng thời gian, nhà thơ Vũ Đình
Liên đồng hương Bình Giang với ông vẫn có tình thắm thiết qua bài thơ cảm xúc:
Cụ Phạm Quỳnh ơi, cụ Thượng ơi!
Tài hoa như cụ có đâu hai
Truyện Kiều còn mất - dân còn mất
Ngọn gió Nam phong mát đất trời
Lưỡng quốc trạng nguyên xưa đã có
Tam bang uyên bác bây giờ ai
Lương Đường, Mộ Trạch và Chu Xá
Phạm, Vũ công danh sự nghiệp đời
28-8
– 3-9-1992
Một nhà thơ Đan Mạch từng nhiều lần sang Việt Nam và nghiên cứu
về văn hóa Việt Nam, đã có một bản trường ca “Phạm Quỳnh và câu chuyện còn tiếp
tục”. Bài thơ dài hơn 300 câu viết về Phạm Quỳnh. Tháng 7 năm
1997 nhà thơ Phạm tiến Duật đi công tác ở Đan Mạch về có tặng cho nhạc
sĩ Phạm Tuyên bài thơ ấy. Câu mở đầu thật ấn tượng: Chúng ta phải thừa nhận rằng
chúng ta đã sai lầm với Phạm quỳnh, chúng ta không nên gọi ông ta là kẻ phản bội
như trên những tờ truyền đơn hoặc bích chương. Xin hãy quan sát việc làm của
ông ta như nhận xét công việc của chính bản thân mình.
Thật vậy, đánh giá công bằng và khoa học về một nhà văn hóa lớn
Phạm Quỳnh là trách nhiệm của lịch sử. Giáo sư Văn Tạo viết về Phạm Quỳnh đã từng
nói: “Đối với quê Hải Dương tôi, nếu làm rõ được sự kiện này (tức cái chết của
Phạm Quỳnh - KHL chú) cũng có lợi cho việc thực hiện tính công minh lịch sử nhằm
đảm bảo tính công bằng xã hội, đúng với mục tiêu mà các Đại hội Đảng đã đề ra
là ”Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ văn minh"
LỜI CUỐI SÁCH
Sau ngày gia biến ở Huế, 23 tháng 8 năm Ất Dậu 1945, gia đình
bà quả phụ Phạm Quỳnh được lệnh của Ủy ban Giải phóng dân tộc Trung ương bảo vệ
và đưa ra Hà Nội sinh sống. Bà Lê Thị Vân sau những ngày đau thương đã lấy lại
được trạng thái bình tĩnh và ở với người con gái là Phạm Thị Giá tại số nhà 16
Hàng Da. Kháng chiến chống Pháp, bà theo các con đi tản cư về Xuân Trường, Nam
Định. Pháp đánh chiếm Nam Định, bà trở lại Hà Nội cư trú cho đến ngày quy tiên
vào năm 1953. Mộ bà an táng tại nghĩa trang Yên Kỳ, Sơn Tây. Thế là
chồng nam vợ bắc đôi nơi. Bà có 13 người con, thì 8 người định cư ở nước ngoài.
Họ không tham gia hoạt động chính trị, chỉ mục đích làm ăn buôn bán sinh sống.
Trong số đó Phạm Bích con trai thứ hai là tiến sĩ luật, Phạm Thị Hảo con gái thứ
ba là dược sĩ, Phạm Thị Ngoạn con gái thứ tư là tiến sĩ văn chương.
Những người ở lại trong nước một lòng đi theo kháng chiến, vững
vàng trên muôn nẻo cuộc đời, trụ vững được trên những cương vị công tác, cống
hiến những tài năng với truyền thống dòng họ và gia đình. Người con trai thứ 3
là giáo sư, bác sĩ Phạm Khuê suốt đời phụng sự đất nước. Ông là Nhà giáo nhân
dân, Chủ tịch Hội người cao tuổi Việt Nam, Chủ tịch Hội Lão khoa và Hỗ trợ người
tàn tật Việt Nam, Đại biểu Quốc Hội khóa X, ủy viên ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, ủy viên Uỷ ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội. Phạm Tuyên, con
trai thứ tư, ngày xảy ra gia biến mới 15 tuổi, đang là học sinh trường Quốc học
Huế, hăng hái đi tham gia biểu tình mừng ngày Huế khởi nghĩa, sau này tự rèn
luyện phấn đấu trở thành cán bộ của Đảng, một nhạc sĩ nổi tiếng có hơn 700 ca
khúc cách mạng, là Chủ tịch Hội âm nhạc Hà Nội, người được giải thưởng
Nhà nước về VHNT năm 2000.
Các cháu nội ngoại của ông bà cũng nối dõi truyền thống gia
đình, học hành thành đạt, trở thành các nhà trí thức, các nhà khoa học: Đặng
Vũ Minh cháu ngoại, con trai của Phạm Thị Thức và giáo sư tiến sĩ Đặng Vũ Hỷ,
hiện là giáo sư tiến sĩ, từng là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam, ủy viên ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm ủy ban Khoa học,
Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Chủ tịch Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam;
Đặng Kim Chi (em Đặng Vũ Minh) cũng là giáo sư tiến sĩ về công nghệ môi trường.
Giáo sư tiến sĩ Tôn Thất Thân, (con Phạm Thị Giá và Tôn Thất Bình) là nhà giáo
nhân dân.
Còn phải kể tới cháu nội là Phó giáo sư tiến sĩ Phạm Thắng,
con giáo sư Phạm Khuê, bây giờ cũng thay chức vị của cha làm Viện trưởng Viện
Lão khoa. Cháu nội Phạm Thị Thanh Tuyền (con gái nhạc sĩ Phạm Tuyên và Phó giáo
sư tiến sĩ Nguyễn Ánh Tuyết) là tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện dầu khí Việt Nam.
Con dâu con rể của ông bà Phạm Quỳnh đều là những người trí
thức. Đó là nhà văn Nguyễn Tiến Lãng, là Tôn Thất Bình, Hiệu trưởng trường
Thăng Long, là giáo sư Đặng Vũ Hỷ, là nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, là
Phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ánh Tuyết, là nhà giáo Hoàng Hỷ Nguyên...
Gia đình ông không chỉ lan quế sum vầy theo nghĩa
đông con nhiều cháu mà còn ở sum sê trí tuệ, phong phú nghĩa nhân văn.
Biết được con cháu, chắt trên trần gian đang sống vui vầy hạnh
phúc như thế, chắc suối vàng ông bà cũng thấy yên lòng. Ông cũng không ngờ rằng,
những đứa con mà ông yêu quý ngày nào, bây giờ lớn nhất đã suýt soát trăm tuổi (Phạm
Giao - sinh năm 1911) và người bé nhất Phạm Thị Viên (sinh 1938) nay đã quá tuổi
thất thập cổ lai hy. Đã quá nửa các con theo ông về chầu tiên tổ. Còn Phạm
Tuyên, người con trai mà ông chiều chuộng, bây giờ đã sang bát tuần.
Có thể gọi là trang vở cuối cùng ở lại trong nước giữ gìn hương hỏa. Những người
con ông bà dù ở trong hay ngoài nước Việt vẫn có một niềm đau đáu khôn nguôi là
muốn cho người cha được thanh thỏa nỗi lòng nơi chín suối.
Trong mục trò chuyện cuối tháng 10 năm 2009 của tờ báo An
ninh thế giới có bài “Trong cái rủi có cái may” của nhà báo Hồng Thanh Quang. Phạm
Tuyên người con trai của Phạm Quỳnh đã thêm một lần giãi bày tâm sự ”Khát vọng của
mình thì còn nhiều... Cái nữa là mình mong được chứng kiến(chúng tôi nhấn mạnh -
KHL) một sự giải tỏa về gia đình (ý là cái chết của Phạm Quỳnh - KHL chú). Cái đấy
gần đây mình bắt đầu thấy... Hàng nghìn trang sách của cha tôi đã được in lại rồi
nhé. Tôi rất mong sẽ có ngày ấy, mình không ảo tưởng có sự đính chính gì đâu,
nhưng chỉ cần có một... Khi phóng viên ngắt lời: Cái nhìn đầy đủ hơn và thoả đáng
hơn và nó hợp với sự phát triển hơn? thì Phạm Tuyên: Đúng thế. Quan trọng nhất
là có một chỗ đứng trong tình cảm của quần chúng".
Quả là Phạm Quỳnh đã và đang có chỗ đứng trong tình cảm của
nhân dân Việt Nam, như đã trình bày những phần trên.
Cách mạng đã đổi đời dân tộc, trong quá trình tiến hành cách
mạng, không thể không có mất mát thương đau. Trong đó có cả cái ngẫu nhiên,
ngoài ý muốn con người gây nên. Sự ra đi quá sớm của Phạm Quỳnh là một trong những
cái đau đớn ấy. Ông chưa được chứng kiến một ngày nước nhà độc lập, chưa hưởng
thành quả của các công trình nghiên cứu cho một nền văn hóa dân tộc mà ông tận
sức tài bồi. Ông mất đi nhưng vẫn còn để lại nhiều di vật quý, để người đời sau
tìm hiểu và suy ngẫm. Trong số đó vẫn còn gần chục thứ tuy nhỏ bé về vật chất
mà lại to lớn về giá trị tinh thần: Đó là đôi mắt kính cận của ông được tìm thấy
trong lần gia đình đi tìm hài cốt, mà con gái ông - Phạm Thị Hảo đang gìn giữ.
Hai bức tượng đồng đen đúc chân dung Phạm Quỳnh và bà Lê Thị Vân, được người
con gái khác là Phạm Thị Giễm cất giữ từ năm 1975 đến 1988, nay gia đình giáo
sư Phạm Khuê cúng thờ. Quyển vở học trò bìa có hình Bảo Đại mà Phạm Quỳnh dùng
ghi chép tập bản thảo Kiến văn cảm tưởng - Hoa Đường tùy bút 1, mới ghi được 47
trang, hiện do Phạm Tuân (nhà số 14017 Village Gate Drive Silver Sping, MD
20906 - 1954 - USA ) giữ làm gia bảo…
Sáu mươi lăm năm trôi qua.
Khép lại quá khứ, nhưng không có nghĩa là chôn vùi đi lẫn lộn
giữa vàng thau. Sự công minh của lịch sử, công bằng của xã hội có thể
đem đến cho con người niềm tin sức mạnh và ngược lại làm thui chột niềm tin và
sức mạnh. Với Phạm Quỳnh, thời gian là nhân chứng cao cả, trung thực nhất. Đến
tại thời điểm cuốn sách ra đời, đã chứng minh điều đó. Công chúng và giới trí
thức nước nhà vẫn đinh ninh một Phạm Quỳnh yêu nước, yêu nước bằng trái tim khối
óc bằng tình cảm của một trí thức xuất thân là nhà nho; yêu nước từ phong thái
Phạm Quỳnh, hoàn cảnh Phạm Quỳnh. Chỉ có thế mới tạo nguồn cảm hứng cho ông hoạt
động và sáng tạo
Hàng loạt tác phẩm của Phạm Quỳnh được tái bản, nhiều bộ sách
được giới thiệu và đây đó trên thế giới những ai yêu văn chương Phạm Quỳnh, họ
vẫn tổ chức kỷ niệm, tôn vinh. Có thể thấy công sức của ông tài bồi văn hóa nước
nhà cũng không vô ích. Chứng tỏ lòng người vẫn tâm phục khẩu phục. Nếu nhìn
nhận một cách bình tĩnh, thì ngay bây giờ có những đường đi nước bước của chúng
ta có những nét tương đồng từ thời Phạm Quỳnh, từ con người Phạm Quỳnh manh
nha, khởi xướng: Hãy cùng nhau chung sống! Hãy cùng tôn trọng lẫn nhau.
Có một điều ngẫu nhiên là: ngày 12 tháng 6 năm 2010, đúng vào
dịp chuẩn bị kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam 21-6-2010, Đài Phát thanh - Truyền hình và Hội Nhà báo tỉnh Hải Dương có sáng kiến đồng tổ chức một cuộc
tọa đàm về “Học giả Phạm Quỳnh và báo Nam Phong”, như để tri ân người có công
trong làng baó chí một thời…
Cuộc
tọa đàm đã thu hút một số nhà khoa học, các tiến sĩ, giáo sư, nhà văn, nhà sử học,
nghiên cứu ở trung ương và địa phương. Trong đó có giáo sư Văn Tạo -
nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam, giáo sư Huệ Chi; giáo sư, Nhà giáo
nhân dân Nguyễn Đình Chú; tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Khoan, một số cơ quan thông
tin ở Hà Nội và các cán bộ lãnh đạo, biên tập viên của 2 Nhà xuất bản Lao Động
và Thanh Niên.
Ở địa phương, các Tổng biên tập báo Hải Dương, Đài phát thanh
truyền hình, tỉnh, Chủ tịch Hội Nhà Báo, Hội Sử học, Hội Văn
nghệ, tạp chí Văn hóa thể thao- Du lịch tỉnh và các nhà báo trong tỉnh.
Bí thư huyện ủy Bình Giang, lãnh đạo xã Thúc
Kháng, quê hương của nhà báo Phạm Quỳnh, và nhạc sĩ Phạm
Tuyên, Chủ tịch Hội âm nhạc Hà Nội, con trai của học giả Phạm Quỳnh cũng có mặt
tại cuộc toạ đàm làm cho không khí càng thêm thân mật.
Bà Đặng Thị Bích Liên, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải
Dương, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh có bài phát biểu chào mừng và Giáo sư
Văn Tạo phát biểu có tính cách đề dẫn, đã làm cho không khí thêm sống động và cởi
mở của một hội nghị mang tính học thuật, mà không phải khi nào cũng tổ chức được.
Giáo sư Huệ Chi đã say sưa nói về giá trị to lớn của Nam
Phong và vị thế của nhà báo Phạm Quỳnh. Ông phân tích bối cảnh ra đời của tạp
chí Nam Phong và những tư tưởng tiến bộ của Phạm Quỳnh thể hiện trên 210 số Nam
Phong. Giáo sư Nguyễn Đình Chú rất xúc động khi nhắc lại có một thời ông nhìn
nhận tạp chí Nam Phong và vai trò của Phạm Quỳnh với thái độ chưa công bằng còn
phiến diện, ông thấy mình thật có lỗi và ngượng ngùng khi nhắc lại bài viết thời
đó.
Tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Khoan phân tích về lòng yêu nước của
Phạm Quỳnh theo cách của mình. Ông có quan điểm coi trọng thiên chức
nghề báo, đề cao giá trị của báo chí. Tiến sĩ Khoan còn phân tích quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh làm cách mạng là đổi cũ ra mới, từ xấu ra tốt,
nghĩa là không phủ định sạch trơn. Phạm Quỳnh đã dùng phương châm Thổ nạp Âu Á,
nghĩa là thu nhận cái tốt của (Âu) vào Việt Nam và phô bầy những giá trị tốt đẹp
của (Á) với bên ngoài. Đó là giao lưu văn hóa như bây giờ ta thường nói.
Các đại biểu giới báo chí Hải Dương đều có chung ý kiến đánh
giá cao sự cống hiến của nhà báo Phạm Quỳnh với báo chí nước nhà, nhưng trước
nay chưa được giới thiệu đầy đủ và thấu đáo trong giới học sinh sinh viên và xã
hội… Nhạc sĩ Phạm Tuyên tỏ ra rất cảm động trước cuộc tọa đàm về người cha của
mình, dẫu có muộn, vẫn là rất quý.
Lại thêm một sự ngẫu nhiên nữa, đó là Nhà xuất bản Thanh niên
- Hà Nội vừa phát hành cuốn sách “Phạm Quỳnh - con người và thời
gian” đầu tháng 6 năm 2010, đúng vào dịp cuộc tọa đàm diễn ra. Thế là
với 15 lượt phát biểu ý kiến của các vị khách mời dự, còn có lời giới
thiệu đầy tâm huyết về tác phẩm “Phạm Quỳnh - con người và thời gian” do tác giả
trình bày. Cuộc tọa đàm đã khẳng định: Trong sự nghiệp báo chí nước nhà, những
năm 1917 đến 1932, tạp chí Nam Phong xứng đáng được tôn vinh, và Phạm Quỳnh là
chủ nhiệm kiêm chủ bút đã rất có công trong việc chuyển tải văn hoá phương tây
vào Việt Nam và tiếp thu những giá trị văn hoá để hội nhập làm cho ngôn ngữ nước
nhà càng phong phú mà không làm mất đi vẻ đẹp của tiếng Việt. Nhà báo Phạm Quỳnh
yêu nước trong điều kiện của ông, với cách suy nghĩ của ông. Ông muốn tài bồi một
nền quốc văn quốc học theo phương pháp lấy cái tốt đẹp của phương tây, để bổ
sung vào cái tốt đẹp của phương đông, cụ thể là Việt Nam.
Nhà báo Nguyễn Thanh Cải, Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Đài Phát
thanh Truyền hình, Chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Hải Dương, cho rằng qua bẩy chục
năm, đủ để kiểm chứng, nhận định về một con người và sự nghiệp, với những trước
tác khá đồ sộ để lại cho đời sau. Nhà báo Nguyễn Thanh Cải sẽ báo
cáo với lãnh đạo tỉnh tiếp tục nghiên cứu và đề xuất có những hình thức kỷ niệm
tương xứng với học giả Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong, coi đó là sự tri ân của
các thế hệ làm báo của tỉnh với học giả, nhà văn nhà báo Phạm Quỳnh - một người
con của quê hương Hải Dương.
Cuộc Hội thảo về “Học giả Phạm Quỳnh và báo Nam Phong” được
các cơ quan truyền hình, báo chí TƯ và địa phương đưa tin, và một phóng sự dài
tới 55 phút được Đài PTTH Hải Dương sản xuất và trình chiếu trên sóng địa
phương đã góp phần làm cho người dân quê hương có thêm những thông tin về một
nhà văn hóa, một nhà báo tài năng phát tích từ đất xứ Đông văn hiến.
Năm 1932, Phạm Tuyên mới 2 tuổi đã theo cha mẹ vào Huế cùng
người thân thuộc. Hình ảnh quê mẹ, làng Nhân Vực nào đó ở Kinh Bắc với
ông cứ nhạt mờ. Rồi gia biến, người cha ông mất tích, phải 11 năm sau mới tìm
thấy thi hài.Rồi chiến tranh chống Pháp 9 năm kéo dài, gia đình phân ly, kẻ nam
người bắc. Hai anh em trai trong gia đình Phạm Khuê và Phạm Tuyên đi theo kháng
chiến, lên chiến khu Việt Bắc. Đến tin tức người mẹ và các chị ở Hà Nội cũng
không biết, huống chi là quê mẹ trong vùng tạm chiếm, ai mất ai còn… Năm tháng
cứ như ánh nắng chảy qua cửa sổ mà con người thì tất bật với bát cơm manh áo.
Cha mất, mộ táng nơi thành Huế. Mẹ mất, yên nghỉ ở Sơn Tây. Vẫn
đinh ninh ở Nhân Vực chẳng còn ai thân thích, nên bao năm nay Phạm Tuyên chẳng
nghĩ rằng sẽ có dịp thăm quê mẹ.
Rồi một hôm Tạp chí Xưa Nay (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)
đăng bài báo “Làng Nhân Vực còn lưu giữ nhiều kỷ vật của gia đình chủ bút Báo
Nam Phong”, Phạm Tuyên mới giật mình..
Sau bao lần, thấp thỏm, đợi chờ, xếp đặt… người con
trai họ Phạm, cháu ngoại họ Lê làng Nhân Vực, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang,
Hưng Yên mới biết đường về… Đó là một buổi sáng cuối năm
Canh Dần, trời se lạnh, Phạm Tuyên cùng con gái Phạm Thị Thanh Tuyền và người
cháu ruột tìm về quê mẹ. Ông bồi hồi xúc động, bước chân lên con đường về chùa
làng, và ngôi đình lịch sử. Đoạn đường xe ô tô đi chỉ khoảng
hai mươi cây số, nhưng Phạm Tuyên phải mất gần tám chục
năm?!.
Ông bồi hồi đứng trước bức hoành phi “Thông minh chính trực” treo
chính giữ ngôi đình, mà thân phụ ông - Thựơng thư bộ Học, Ngự tiền Văn phòng triều
đình Huế, năm 1937 về đây, cung tiến đình làng. Trong ngôi chùa còn lưu giữ một
chiếc khám của gia tộc họ Lê, bên trong còn 5 bài vị tiền nhân đã sinh thành ra
ông ngoại và thân mẫu của Phạm Tuyên.
Ông trưởng ban Di tích Lịch sử thôn cho biết, tại nghĩa trang
nhân dân xã vẫn còn những ngôi mộ gia tiên của họ Lê. Và chính trên mảnh đất
này, còn có cả mộ người liệt sĩ, mang dòng họ Lê - Lê Thị Tâm người
em con cậu ruột của Phạm Tuyên.
Thì ra, những năm đầu chiến tranh, Lê Thị Tâm là con gái cụ
Lê Văn Tốn, ở làng tham gia du kích, và đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu
chống giặc Pháp ngày 27-12-1946.
Trong khói hương nghi ngút, bóng người nhạc sĩ già đổ xuống
bên ngôi mộ người em con cậu. Nắng chiều vàng vọt, heo heo gió lạnh, làm cho
cái bóng cứ lung linh chập chờn. Tôi bỗng nhớ tới câu thơ của Hạ Tri
Chương đời Đường (Trung Quốc): một người phải ly hương từ nhỏ,
đến lúc tìm về quê, thì quá già. Tiếng nói không đổi, còn búi tóc trên đầu thì
rụng hết. Cháu chắt nhìn thấy mà chẳng biết là ai, lại còn hỏi cụ từ đâu đến?
nghe thật xót xa.
Phạm Tuyên về thăm quê mẹ đã giải tỏa trong lòng ông những ẩn
ức, dằn vặt của con người trước tổ tiên. Nhẽ đời, đứa con về quê mẹ,
ngọt ngào như câu hát ru in đậm tuổi thơ, với những cánh chuồn kim
sà trên ao bèo, toạc quần khi trèo cây hái quả, nhảy tùm xuống ao tắm mát trưa
hè… hay đuổi chộp con cào cào trong mưa và ngồi gốc cây sung nhai khoai sống mọc
mầm… Nhưng với Phạm Tuyên, người nhạc sĩ tài năng mà cuộc đời đầy thao thức, dằn
vặt trước nhân thế, nay đã vào tuổi bát tuần, buổi chiều tà vẫn đang ngơ ngác
tìm đường về quê mẹ, với ngổn ngang cảm xúc lạ lẫm, thì quả là tồi tội.
PHỤ LỤC
Văn tế Nam Phong chủ bút Phạm Thượng Chi tiên
sinh.
Hỡi ơi!
Trời còn nổi gió phương Nam
Đất đã khóc người xứ Bắc
Những tưởng xông xáo trường văn trận bút,
cho thỏa lòng mong muôn thuở: tiếng ta còn
Ai hay vắng hoe gò trống đồi hoang,
mà thắt ruột đau một đời: tiên sinh mất
Con trẻ Tạo sao quá đành hanh
Lão già Thiên nỡ nào quá quắt
U oa khóc, tấm dư đồ đà ba mảnh bốn nơi
Chập chững đi, đoàn dân tộc thì chín người mười tật
Buổi ly loạn can qua trùm sông núi,
người
chém giặc bắn tây, kẻ trừ gian giết đạo,
mối
hận thù ngun ngút mấy tầng mây
Thời nhiễu nhương quan cách ép lương dân,
đứa
ăn gan hút máu, thằng bóp cổ đè đầu,
nỗi
bần khổ âm thầm bao tấm cật
Xếp cẩm, xếp tù múa roi da súng lục,
ôi thôi thì bạch quỷ tung hoành
Quan văn quan võ mang áo thụng bài ngà,
ngao ngán nỗi hoàng triều bất nhất
Sóng Duy Tân đẩy cao dân trí,
ơi ngắn ngủi ơi Đông Kinh nghĩa thục,
Phan Châu Trinh gánh đứt nửa đường
Lửa Cách Mạng đòi lại nhân quyền,
hỡi thảm thiết hỡi Yên Bái Đầu Đài,
Nguyễn Thái Học đầu rơi mặt đất
Đau đớn nhìn sơn hà gấm vóc, ngày lại ngày xương máu tuôn
trào
Xót xa thương bách tính dế giun, tháng nối tháng thuế sưu cao
chất
Có phải chăng quốc vận đến hồi cùng?
Hay có lẽ tiền đồ không lối thoát
Thôi đành,
Phận dại nương phép thi thư
Tuổi thơ neo đòi nghiên bút
Giữ nếp nhà gia giáo, bền chí dùi mài kinh sử,
Trường Thông ngôn tốt nghiệp lộ tài hoa
Tiếp dòng dõi trâm anh, quyết tâm rèn luyện văn chương,
Viện Bác cổ tiếp thu thêm kiến thức
Đạo học xưa Khổng Trang Lão Phật,
với dân ta bao đời gắn bó, hiểu cho
tường để thấy được tinh hoa
Văn minh nay Mỹ Pháp Anh Nga,
cùng thế giới từng ngày đổi thay, học phải
rõ mà tiếp thêm sinh lực
Chí đã quyết nâng cao văn hoá, Thổ nạp Á Âu
ấy đúng phương châm
Lòng toan mưu lập lại thái bình, Lập hiến Hoàng triều,
chọn làm chiến lược
Yêu quốc gia phải lo quốc sự, trước tiên là xây nền quốc học,
mới toan cầu độc lập hùng cường
Nâng dân trí tất trọng dân quyền, kế tiếp phải cải tạo dân
sinh,
hầu sớm đạt an bang tự lực
Tài nào đợi tuổi, biên tu khảo cứu,
bài nối bài trau chuốt tiếng dân ta
Lực giúp cho tâm, diễn thuyết đăng đàn,
buổi rồi buổi phục hồi hồn Tổ quốc
Khai Trí Tiến Đức, với đồng môn miệt mài bản thảo:
sưu tầm, sáng tác, biên tu, khảo luận lắm môn
Tạp chí Nam Phong, cùng văn hữu ra sức tuyên truyền:
khoa học, văn chương, chính trị, canh nông đủ thức
Mực đen giấy bản, nơi Hà Nội lắm lần diễn thuyết,
Ta da vàng gan lớn lớn gan
Khăn đóng áo dài, giữa Ba Lê cao tiếng luận đàm,
Tây mũi lõ mắt xanh xanh mắt
Mộng Vị Thuỷ phò trợ minh vương
Giấc Nam Kha viễn trình bắc khuyết
Rời Nam Phong Tạp Chí,
xếp bút nghiên mà lo chuyện tế thế an bang
Nhận Lại bộ Thượng Thư,
đem tâm huyết để tính việc chấn hưng Tổ quốc
Minh quân lương tướng, biết bao lần cải cách duy tân
Bản quốc ngoại bang, đã lắm cuộc nghị hoà thương thuyết
Ỳ chí ấy, nhân cách ấy, đời trăm năm dễ có được ru!
Công lao này, sự nghiệp này, sách vạn chữ khó mà kể xiết!
Hay đâu,
Chí bình sinh sớm tắt, đành dở dang sự nghiệp văn chương
Bầu tráng chí vụt tan, vèo ngắn ngủi một đời quan chức
Rừng cờ thắm tung bay toàn thôn phố,
bao mừng vui được sức thổi bùng lên
Vành khăn tang trùm kín một gia đình,
mỗi đau xót thôi đành ghìm nén chặt
Uy vũ bất năng khuất, bút Nam Phong nay hết quét ngang trời
Lương mọc kỳ hoại hồ, gươm Văn Khúc cam đành chôn dưới đất
Ôi thôi,
Lắm đắng cay, những tưởng chỉ là mơ
Nhiều nuối tiếc, hoá ra toàn có thật
Ngậm ngùi nhớ bậc hùng tài
Xót xa khóc người đã khuất.
Hỡi ơi!
Hồn có linh thiêng
Niệm tình thượng hưởng.
Tháng 3-2009
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
* Lược giản gia phả họ Phạm
Hiện nay gia đinh nhạc sĩ Phạm Tuyên còn lưu giữ bản ghi gia
phả họ Phạm.
Chúng tôi chỉ trích trực hệ 5 đời họ Phạm Hoa Đường để bạn đọc
biết thêm về dòng họ này
Nếu coi cụ Phạm Hợp là đời thứ nhất, thì phả hệ Ngũ đại Phạm
tộc như sau:
• Đời
thứ nhất: Phạm Hợp (năm sinh chưa rõ).
* Đời thứ hai: Con trai cụ Phạm Hợp là Phạm
Tốn (tức Thịnh, tức Cụ Cả) làm nghề dạy học
• Đời
thứ ba: Con trai cụ Phạm Tốn là Phạm Hữu Điển, tú tài.
• Đời
thứ tư: Con trai cụ Phạm Hữu Điển:
• Phạm
Quỳnh
• Phạm
Bái (mất sớm)
• Đời
thứ năm: Các con cụ Phạm Quỳnh:
1- Phạm Giao
2- Phạm Thị Giá
3- Phạm Thị Thức
4- Phạm Bích
5- Phạm Thị Hảo
6-Phạm Thị Ngoạn
7- Phạm Khuê
8- Phạm Thị Hoàn
9- Phạm Tuyên
10- Phạm Thị Diễm (Giễm)
11- Phạm Thị Lệ
12- Phạm Tuân
13- Phạm Thị Viên
* Ngày tháng, nơi sinh của Phạm Quỳnh.
Tài liệu phổ biến nhất đều viết Phạm Quỳnh sinh ngày
17-12-1892. Nhưng bà Phạm Thị Ngoạn, con gái của Phạm Quỳnh, định cư và mất tại
Pháp, tác giả Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (Introduction au Nam Phong),
thì có ba “thuyết” về giấy khai sinh của Phạm Quỳnh. Bà Ngoạn cho rằng khi sinh
ra, ngày sinh của thân phụ không được khai ngay, khiến sau đó mọi chi tiết đều
căn cứ vào giấy “thế vì khai sinh” thiết lập nhờ các chứng nhân. Tuy nhiên một
điều các con ai cũng nhớ là cha mẹ cùng tuổi Nhâm Thìn.
Nhưng còn có một bằng chứng khá thuyết phục, là thẻ căn cước
của Phạm Quỳnh làm tại Hà Nội ngày 13-3-1918 (trước khi đi Pháp-1922- bốn năm, ảnh
còn giữ búi tó củ hành). Trong thẻ ghi rõ rành ông sinh ngày 17-12-1892, có con
dấu của nhà chức trách.
Thông thường để định danh một con người, chỉ cần ghi một cách
khái quát năm sinh và nơi sinh là xã, huyện, tỉnh cũng cho là đủ. Nhưng với một
nhân vật lịch sử như Phạm Qùynh không thể chỉ ghi ông sinh năm Nhâm Thìn 1892 ở
Hà Nội. Bởi xác định đúng cái tấc đất chôn rau và cái thời khắc con
người chào đời rất có ý nghĩa. Có khá nhiều tài liệu chỉ viết Phạm Quỳnh sinh tại
Hà Nội, nhưng không biết ông được sinh ra trong ngõ phố nào.
Ngược lại một chút để nói cho ngọn ngành. Cụ Dưỡng Am Phạm Hội
có một người con trai là ông tú tài Phạm Ngạch. Ông tú sinh được hai con trai
nhưng đều mất sớm cả. Cho nên khi ông Phạm Ngạch mất, người được thừa tự là cụ
Cả (ông nội Phạm Quỳnh). Ông nội sinh ra Phạm Hữu Điển, thân phụ Phạm Quỳnh.
Khi cụ Cả mất, thì cụ bà và Phạm Hữu Điển, hai mẹ con vẫn ở ngôi nhà
này, sống chung với bà cụ tú Ngạch. Đến khi ông Điển trưởng thành, lấy
vợ và sinh Phạm Quỳnh cũng tại nhà số 1 Hàng Trống. Thời xưa thường sinh
con tại nhà, chứ không có thói quen đến nhà thương.
Nhưng trong Luận văn tiến sĩ Sorbonne viết bằng tiếng Pháp, của
bà Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh (Phạm Trọng Nhân dịch ra tiếng Việt là
“Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (1917-1934)” thì bà Ngoạn viết là: “Phạm Quỳnh sinh
tại Hà Nội, số nhà 17 phố Hàng Trống”.
Tại sao người con lại có sự nhầm lẫn ấy? Có thể bà Ngoạn thấy
thẻ căn cước của cha mình lập ngày 13-3-1918, ghi: “Domicile 17 Rue Jules
Ferry - tức nơi ở 17 phố Hàng Trống” mà viết như vậy chăng?
Tháng 7 năm 1991, bấy giờ đã 91 tuổi, cụ Hoàng Đạo Thúy, một
học giả, cũng là người bà con, bạn thân của Phạm Quỳnh, đã mời nhạc
sĩ Phạm Tuyên, con trai Phạm Quỳnh đến nhà và đưa cho một sơ đồ viết tay, ghi
chú rõ ràng, có những dòng như sau: “Mỗi năm tôi chỉ đến (nhà) hai lần: mồng một
Tết và ngày giỗ cụ Giáo (tức giáo thụ Dưỡng Am Phạm Hội) nên không biết rõ. Chỉ
nhớ thế này: Khoảng 1914-1915, ở Hàng Trống, nhà thế này: “Ở sơ đồ có mấy chữ
“Đường phố Hàng Trống, nhà số 1”.
Cụ Hoàng Đạo Thúy còn cho biết: Khoảng trước hoặc sau năm
1918, cái nhà này bán cho ông Nguyễn Bá Trác để làm tòa báo, và chuyển đi chỗ khác.
Vì thế, thẻ căn cước trên của Phạm Quỳnh có thể làm khi đã đến ở nhà số 17 cùng
phố. Nhà số 1 là do học trò góp nhau dựng lên để có chỗ thờ phụng thầy, sau khi
thầy qua đời. Trong lần gặp ấy, cụ Thúy còn kể là sau này cụ có đi thăm, nhưng
đến đầu phố Hàng Trống, thì không còn căn nhà ống nữa. Thay bằng một nhà cao tầng.
Cụ hỏi ra mới biết người chủ mua nhà này, thấy bên trong có bàn thờ nên khi xây
nhà mới xong, đã chuyển lên thờ ở tầng trên dù không biết thờ ai. Cụ bảo đích
thị nhà số 1 chính là nhà gia đình cụ Cả được thừa tự.
• Về
ngày mất của Phạm Quỳnh:
Xung quanh ngày mất của Phạm Quỳnh có nhiều tài liệu
khác nhau.
* Sách Từ điển bộ mới (2004) ghi là Phạm Quỳnh sinh
17-12-1892, mất 20-8 năm 1945
* Một số tài liệu ghi là Phạm Quỳnh mất ngày 23-8-1945, đúng
ngày có người mời ông đến chính quyền mới làm việc.
* Một số tài liệu chép ông mất vào sáng
ngày 6-9-1945 (tức 1-8-năm Ất Dậu)
Nhạc sĩ Phạm Tuyên cho biết, gia đình đều làm giỗ thân phụ
ông vào ngày 1- 8 âm lịch hàng năm.
* Những mẩu chuyện về gia đình Phạm Quỳnh
*
Chuyện điểm "liệt” trong bài thi tốt nghiệp.
Năm
1908 Phạm Quỳnh thi tốt nghiệp trường Thông ngôn. Vốn là người học rất xuất sắc
các môn tiếng Pháp, cho nên tất cả bài thi đều đạt điểm cao.
Bài thi môn phụ ra đề bằng chữ Hán, yêu cầu thí sinh viết một
bài văn ngắn bằng tiếng Pháp. Điều này đã làm khó cho Phạm Quỳnh.
Cần nói thêm, cụ tú Phạm Hữu Điển là chân Nho học,
nhưng không dạy được con học chữ Hán. Ngoài hai chữ Phạm Quỳnh ra, con không nhớ
được chữ nào. Cụ tú ngao ngán lắc đầu ”Dao sắc không gọt được chuôi”
và đành để cho con tự quyết định theo học tiếng Pháp. Khi
cụ mất, Phạm Quỳnh đang học trường tiểu học hàng Đào.
Bây giờ Phạm Quỳnh thật sự lo ngại. Nhưng là người
có ý chí lại tự tin nên vẫn vững tâm. Phạm Quỳnh nhìn mặt chữ Hán và luận xem
nghĩa là gì chữ gì. Và cuối cùng đã viết một bài văn bằng tiếng Pháp rất lưu
loát.
Các thầy ban giám khảo trường thi bất ngờ trước một bài văn tự
luận rất hay. Nhưng họ ngao ngán lắc đầu bởi đề ra một đằng, Phạm Quỳnh viết một
nẻo. Bài văn bị không điểm (0 điểm).
Vị chánh chủ khảo chợt nghĩ: Nếu để điểm không, tức điểm liệt,
thì theo quy chế, học trò này bị trượt. Và sẽ bất hợp lý khi có một người xuất
sắc tiếng Pháp như thế bị loại? Ông chánh chủ khảo thấy tiếc một tài năng như
thế đã bàn với cả Hội đồng giám khảo nâng lên cho thành 0,5 điểm coi
như thưởng công viết bài văn tiếng Pháp. Thật bất ngờ, khi cộng các môn lại thì
điểm Phạm Quỳnh vẫn cao nhất, và trở thành thủ khoa kỳ thi tốt nghiệp trường
Thông ngôn năm 1908 như các tài liệu đã viết.
Chuyện
chữa điểm thi được bí mật. Sau này ông chánh chủ khảo mới nói cho biết, và Phạm
Quỳnh đã thuật lại trong “Pháp du hành trình nhật ký”trên tạp chí Nam Phong.
Trình độ tiếng Hán của ông có thể dịch thơ Đỗ Phủ, được các học giả
đánh giá cao như sau này, chính là do Phạm Quỳnh tự nghiên cứu, tự học. Nhạc sĩ
Phạm Tuyên cũng xác nhận: Tự học là truyền thống của gia đình ông.
• Nhờ
bà Lê Thị Vân, làng Nhân Vực thắng kiện
Chuyện xảy ra vào khoảng năm 1929- 1930.
Ông Nguyễn Công Kính người làng An Định, huyện Thuỵ Anh, tỉnh
Thái Bình là loại thương gia cự phách Hà thành. Ông này là con rể họ Lê, lấy bà
Lê Thị Tĩnh làng Nhân Vực tông Xuân Cầu. Vì kinh doanh thuốc lào, có cửa hiệu
tên là Giang Ký, nên thời ấy trong dân gian đã có câu ca:
Thuốc lào Giang Ký,
ăn một tý cũng say,
chồng hút vợ say
biết ngay thuốc lào Giang Ký.
Ông Giang Ký công đức cho làng bằng ngôi đình. Ông cho mời một
người trong làng là Chu Văn Bi đun gạch cho ông xây dựng. Người giao gạch nói
nhiều, kẻ nhận gạch thì cho rằng ít, thiếu. Thế là đùng đùng kéo nhau đi kiện.
Ông Bi là người dân quê không thể thắng được ông Ký giàu có, lại quan hệ rộng.
Toà Bắc Ninh xử ông Giang Ký thắng, bắt ông Bi phải đền tiền thiếu hụt. Dân
làng Nhân Vực và ông Bi không chịu, đâm đơn khiếu nại lên toà Hà Nội.
Ông Chu Văn Tỵ, năm nay đã 82 tuổi con
cụ Chu Văn Bi, kể lại: Khi còn sống, cha ông nhiều lần truyền rằng,
cái lần ra Hà Nội theo kiện, may nhờ có bà Vân vợ ông nhà báo Phạm
Quỳnh giúp đỡ, nên toà áo đỏ,(ý nói toà thượng thẩm- KHL chú) mới tận tình phúc
tra lại cho tường tận. Nếu không cụ Bi không thể thắng được. Ông Giang Ký bị
thua kiện, phải đền danh dự, và thanh toán sòng phẳng tiền cho cụ Bi.
Việc ông Giang Ký công đức cho làng là một chuyện, ông
mua lại gạch ngói của ông cụ Bi là chuyện khác, cần rạch ròi phân minh. Sau đó
hai bên lại thuận hoà, làng xóm đều vui vẻ. Công trình đình hoàn
thành, dân làng vẫn có ý tôn hai vợ chồng ông làm hậu thần, nhưng ông từ chối.
Cuối cùng thì tạc một tấm bia cho bà Lê Thị Tĩnh làm hậu, đặt trong đình làng
Nhân Vực. Thật hiếm có chuyện như thế.
Làng Nhân Vực có đình và chùa, cảnh quan thoáng đẹp. Địa điểm gần
cánh đồng, có nhiều ao chuôm xung quanh, bóng cây cổ thụ râm
mát lại thuận tiện đường đi để dân trong làng tế lễ. Chùa
thờ Phật, nhưng ở đây có điều đặc biệt là còn có một cái
khám sơn son thếp vàng. Trong khám có bài vị gia tiên ông ký Lê Văn Hùng, nhạc
phụ của Phạm Quỳnh. Bên ngoài khán còn đôi câu đối:
* Bách thế bản chi bằng ấm tí
* Ức niên hương hoả tuỵ huân cao
Tạm dịch:
* Trăm năm che chở cho con cháu
* Muôn đời nghi ngút giữ khói hương
Thấy lạ hỏi, thì được ông Đào Đình Khuynh (72 tuổi),
Trưởng ban di tích LSVH đình Nhân Vực, xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang, tỉnh Hưng
Yên cho biết: Sau ngày hòa bình lập lại 1954, gia đình
con cháu ông Lê Văn Hùng vào Nam cả, nhà cửa ruộng vườn không có chủ.
Khi cải cách ruộng đất năm 1955, chính quyền địa phương đã trưng thu. Ngôi nhà
thì làm lớp học mẫu giáo, ruộng đất chia cho nông dân. Riêng cái khám thờ của
gia đình, nhân dân đã trân trọng đưa vào chùa làng thờ phụng.
Ông Khuynh kể trong 5 bài vị đặt trong khám, chắc chắn có hai bài vị
của song thân ông Lê Văn Hùng (thân phụ bà Lê Thị Vân, tức
nhạc phụ Phạm Quỳnh).
Trong rủi có may. Tấm lòng người Nhân Vực quả là nhân hòa, trọng
nghĩa. Sau bao nhiêu năm chiến tranh lý tán, lũ lụt bão giông, nhờ có tấm lòng
người Nhân Vực mà bây giờ kỷ vật nhà họ Lê vẫn được lưu giữ. Cũng theo ông trưởng
ban, thì tại nghĩa trang nhân dân xã, mộ hai cụ được an táng tại đó, gần mộ người
con trai là ông Lê Văn Tốn, tức ông Cửu Xuân, em ruột bà Lê Thị Vân, vợ Phạm Quỳnh.
Cách đó không xa, tại nghĩa trang liệt sĩ của xã,
có phần mộ của liệt sĩ Lê Thị Tâm, con gái ông Lê Văn Tốn. Bà Tâm là du kích đã
anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu chống giặc Pháp ngày 27-12-1946.
Lương Ngọc vọng từ bi chí
(Văn bia ghi về đình vọng Lương Ngọc)
Những việc hợp với lẽ phải, quan trọng với xã hội vốn dĩ được
thần linh ban phúc, họ mạc đồng tình, kẻ hoài nhớ quê cha đất tổ lòng thường
chung một nguyện ước.
Dân ta quê gốc là làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, huyện Năng
An, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương vốn phụng thờ vị Đại Vương Thành hoàng làng
ta, triều trước đã có sắc phong, miếu thờ còn đó, nhưng dân thường ly tán cư
trú các tỉnh, mà nhiều hơn cả là Hà thành, đều đã nhập tịch thành phố, hoặc do
con đường khoa bảng mà hiển đạt, hoặc từ các chức lại mà tiến thân. Dẫu là sĩ,
là thương hay là công, tụ họp được họ hàng ở đây, nên đã lâu năm làm ăn ở đây,
từ triều trước chốn này còn là kinh đô đã vậy rồi.
Theo điều ước cũ, hàng năm các cụ vẫn về nguyên quán tế lễ.
Kíp đến đời vua Tự Đức, giặc giã liên miên, đường đi cách trở, đành bái vọng tại
nhà riêng. Do vậy các bậc phụ lão trong làng và chư vị đỗ đạt làm quan, bèn
cùng bọn chức sắc bàn nhau, chọn đất lành để lập đình thờ vọng. Vào tháng 5 năm
Thành Thái thứ hai (1890) đã mua được một khu đất gia cư - bề ngang sang phía
nam 16 thước, bề dài như trong địa đồ - toạ lạc tại thôn Hội Vũ - nay đổi gọi
là phố hàng Bông - văn khế đã trình toà Đốc lý xem xét và phê duyệt làm bằng. Lại
vâng sai thay mái tranh bằng lợp ngói. Tiếp đó đã quyên góp tiền bầu hậu, rồi lựa
chọn 4 viên chức dịch trong làng cùng với viên đương chức trung đình đốc công 4
tòa nhà - 1 tòa chính diện, 1 tòa bái đường, 1 tòa tiền đường và 1 tòa hậu điện
- đặt tên là đình vọng Lương Ngọc. Nhân công và vật liệu chi phí đến hơn 4000
nghìn đồng. Mọi người đóng góp, nhân hoà thần giúp, trải hai năm thì hoàn
thành. Ngày khánh thành toàn dân tụ tập tế lễ chiêm ngưỡng thần minh, cho khắc
điều lệ vào bia đá, lại sai ghi rõ lai lịch đình này mà gian nan có thể xem rõ
trong văn bia.
Theo như điều ước các cụ xưa cứ tuần tự xuân tế cầu phúc, thu
lễ tạ, xin thần minh giáng thế chứng giám. Để nối liền tình thân tông tộc, thỏa
lòng hoài nhớ quê hương mà làm được như thế há không phải là điều ích lợi chung
sao?
Vậy nay xin ghi lại.
Các khoản điều lệ liệt kê sau đây: phủ Tiên Hưng Lê Đình Dao;
vào tháng 5 năm Thành Thái thứ 2 (1890) trưởng nữ của tiên sinh là Lê Thị Uyển
đã làm văn khế bán đứt cho xã dân Lương Ngọc thuộc Hà thành để lập đình vọng,
có đủ chúc thư và nguyên khế đã trình tòa đốc lý phê duyệt, sau đó lại cấp một
văn khế chữ Tây và một bản địa đồ giao cho đân giữ làm bằng.
- Đình vọng xác định thuộc đất riêng, văn khế
và địa đồ - 1 bản văn khế cũ, 1 bản văn khế mới, văn khế chữ Tây và địa đồ đều
1 bản, 1 tờ chúc thư - xã ta chọn người cẩn thận trong xã giữ gìn; nếu quý toà
có việc xét đòi thì người ấy phải trình với bản xã.
- Việc tế lễ tại đình vọng vào các dịp xuân
thu bốn mùa tám tiết, các ngày sóc vọng với các điều lệ vẫn y như ước lệ cũ ở
nguyên quán -trong các đời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
- Mũ đai, triều phục đều đầy đủ và trang trọng;
hàng năm theo kết quả bốc thăm, mỗi giáp cứ luân phiên 3 tháng lại kiểm sát, nếu
sai phạm khoản nào, việc xảy ra ở giáp nào, thì xã ở giáp đó mà xét hỏi.
- Đồ tế lễ ở đình vọng là do các thái ông,
lão bà trong 3 hội 4 giáp nhiều lần cúng tiến, đều ghi trong sổ cái; nếu có sự
mất mát thì xã trách cứ người đương chức trung đình và thủ từ phải bồi thường.
- Sau đình thờ cúng các vị tiên hiền với liệt
vị gia tiên - của các vị khoa bảng và quan chức - còn một gian bên trống cho
viên coi đình cư trú để tiện việc hương đèn; viên coi đình này phải quét dọn và
giữ yên tĩnh sạch sẽ, không được cho người ngoài vào ngụ bừa bãi.
- Phía ngoài đình nên chọn người buôn bán
cho ở thuê; trích tiền cho thuê chi bổ sung hương đèn - cả năm chi cho người
coi đình 6 đồng hương đèn - và giỗ hậu- giỗ cụ Phạm Lập Trai ngày 29 tháng 3 -
chi 1 đồng; giỗ bà vợ họ Phạm của quan tạo sĩ ngày 3 tháng 4 - chi 1 đồng; các
khoảng chi việc công cả năm và tiền cho thuê nhà thu được bao nhiêu giao cho
giám chi và viên đương chức trung đình; các khoản thu chi đến cuối năm phải
công khai trình bản xã ghi vào sổ cái.
- Bản xã lập riêng một quyển sổ cái; phàm
các đồ thờ cùng tiền mua hương tân, hương bảo cho đến các khoản thu chi hàng
năm đều nhập sổ cái để tiện kiểm kê, tra cứu
- Tiền cho thuê nhà của đình vọng cùng các
khoản tiền công quỹ bản xã chọn người giữ; nếu có người nào cố tình lạm dụng
thì trên có thần minh chứng giám, dưới toàn dân làng không dung.
Ngày 1 tháng 11 năm thứ 3 đời Khải Định (1918)
trùng tu đình, khắc bia này.
Toàn dân xã Lương Ngọc thuộc Hà thành cùng ghi
Kỳ
mục làng: - Phạm Huy Phương vâng kiểm
-
Vũ Tá Chính vâng viết.
-
Vũ Thế Khôi dịch và ghi chú giải
-
Hoàng Văn Lâu hiệu đính.
* Tác
phẩm chính của Phạm Quỳnh:
• Văn
minh luận
• Ba
tháng ở Paris
• Văn
học nước Pháp
• Khảo
về tiểu thuyết
• Lịch
sử thế giới
• Lịch
sử và học thuyết Voltaire
• Phật
giáo đại quan
• Cái
quan niệm của người quân tử trong Đạo Khổng
• Thượng
Chi văn tập (gồm 5 quyển do NXB Alexande - de Rhodes Hanoi xuất bản năm 1943
Gần đây đã xuất bản:
• 10
ngày ở Huế - NXB Văn Hóa, 2001
• Mục
lục Nam Phong - NXB Thuận Hóa, 2002
• Luận
giải văn học và triết học - NXB Thông Tin, 2003
• Pháp
du hành trình nhật ký - NXB Hội nhà văn, 2004
• Thượng
Chi văn tập - NXB Văn học, 2007
• Du
ký Việt Nam - NXB Trẻ, 2007
• Phạm
Quỳnh tiểu luận viết bằng tiếng Pháp - NXB Tri thức, 2007 (gồm bài diễn thuyết, bài báo bằng tiếng Pháp từ 1922-1932)
Tài liệu tham khảo:
1- Nhà văn hiện đại
2- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam - NXB Văn hóa, 1999
3- Các nhà khoa bảng Việt Nam - NXB Văn học,
năm 1993
4- Đời viết văn của tôi - Nguyễn Công Hoan NXB Văn học 1971
5- Từ điển văn học bộ mới, NXB Thế giới - năm 2004
6- Lược truyện các tác gia Việt Nam - Tập 2, NXB - KHXH, 1972
7- Nhà Nguyễn 9 chúa 13 vua - NXB Đà Nẵng, 2001
8- Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học
Việt Nam hiện đại (1930-1954) - Vũ Đức Phúc - NXB - KHXH - 1971
9- Nam Phong tạp chí
10- Báo Lao Động
11- Tài liệu của nhà báo Phạm Tôn và Blog Phạm Tôn
12- Tài liệu của gia đình nhạc sĩ Phạm Tuyên
13- Vũ Tông Phan với văn hoá Thăng Long - Hà Nội của
Vũ Thế Khôi
14- Tài liệu của ông Vũ Đình Năng, chủ tịch UBND xã Thúc
Kháng huyện Bình Giang
15- Tài liệu điền dã tại làng Lương Ngọc và Xuân Cầu
16- Tài liệu do ông Đào Đình Quynh, (72 tuổi) Trưởng ban di
tích LSVH đình Nhân Vực, xã Nghĩa Trụ huyện Văn Lâm cung cấp
17- Tài liệu do ông Lê Xuân Sinh, nguyên bí thư Đảng ủy xã
Nghĩa Trụ cung cấp
18- Tài liệu do cụ Chu Văn Tị, 82 tuổi thôn Nhân Vực, xã
Nghĩa Trụ cung cấp.
19- Phạm Quỳnh - chủ bút báo Nam Phong, tạp chí KH&ƯD Hải
Dương 2-2005
20- Dõi tìm tông tích người xưa- tập I - Nguyễn Đức Dụ - NXB
Trẻ -1998
21- Để tìm hiểu thêm về Bác Hồ - NXB Lao Động - 2009
22- Tạp chí Khoa học và Ứng dụng Hải Dương tháng 2 năm 2005
23- Nhạc sĩ Phạm Tuyên - NXB Kim Đồng, Nguyễn Thụy Kha - năm
2008
24- Tự Điển Hán Việt, Đào Duy Anh - Trường Thi - 1938
Nguồn: Phạm Quỳnh trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Tác
giả: Khúc Hà Linh. NXB Thanh niên, 2012.
17/8/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét