Phương Đông và phương Tây
khác biệt về âm nhạc như thế nào?
Văn minh phương Đông và phương Tây
Phương Tây luôn được nhắc đến là một trong những cái nôi văn
hóa lớn nhất của nhân loại với nền văn minh La Mã - Hy Lạp cổ đại. Người phương
Tây thường sống thiên về lý trí, đề cao năng lực phân tích và tính cá nhân. Văn
minh Tây phương thực sự bắt nguồn từ Hy Lạp. Các thể chế, các kiểu tư duy,
kể cả các kiểu tội phạm đều liên quan chủ nghĩa duy lý của tư tưởng Hy Lạp. Những
người Hy Lạp không đón nhận thế giới trên sự tin cậy mà thay vào đó, họ đưa ra
câu hỏi và tìm kiếm câu trả lời. Trong khi đó văn minh La Mã được hình thành
trên bán đảo Ý ở một dãi đất đất dài và hẹp giống hình chiếc ủng vươn dài
từ lục địa ra biển địa trung hải. Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của
người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn
minh đặc sắc riêng của mình.Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực
bao phủ toàn bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Nói đến phương Đông, người ta
không thể không nhắc đến những nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn
Độ, Ả Rập, Trung Hoa. Tóm lại, phương Đông là một khu vực văn minh có “bản sắc”
riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện đại. Ngày nay, xét trên nhiều góc
độ như lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa,... phương Đông chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng trong lịch sử thế giới. Người phương Đông thường có cách cư xử
nặng về tình cảm, đề cao tính cộng đồng và tập thể. Tiêu biểu nhất cho văn
minh phương Đông chính là hai cái nôi ở Trung Hoa và Ấn Độ mà nền văn hóa -
văn minh này thậm chí còn mang tính cổ xưa hơn cả văn minh phương Tây. Sự khác
biệt ấy được thể hiện hầu như ở mọi phương diện đời sống xã hội, trong đó có
văn hóa, nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Khác biệt về âm nhạc
Xét về tầm ảnh hưởng của nền văn minh thì Trung Hoa và Ấn Độ,
trong đó có văn hóa âm nhạc, đã chi phối, ảnh hưởng trực tiếp đến các nước
trong khu vực và nhiều nước khác trên thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đã
khẳng định bằng cả lý luận và thực tiễn rằng, âm nhạc Phương Đông nói chung, âm
nhạc Trung Hoa - Ấn Độ nói riêng có những nét đặc sắc, thậm chí còn bao
trùm các nước khác. Mặc dù vậy nền âm nhạc phương Tây từ lâu cũng đã được
định hình và đạt được nhiều thành tựu to lớn về hệ thống lý luận âm nhạc, về
phong cách sáng tác, phong cách biểu diễn, các thể chế tổ chức và diễn tấu (chẳng
hạn như những quy định trong biên chế dàn nhạc, sự phân loại và sử dụng các loại
giọng…).Phương Tây luôn dựa trên cơ sở khoa học để đề xướng các lý
thuyết cơ bản về âm nhạc và được phổ biến rộng khắp trên toàn thế giới. Đồng thời,
nó chi phối, ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ đến nghệ thuật âm nhạc của nhiều nước, kể
cả các nước phương Đông. Tuy nhiên, trong thời đại sự giao lưu văn hóa giữa các
nước ngày càng trở nên cởi mở, tôn trọng lẫn nhau và tìm ra cái hay, cái đẹp của
nhau để làm giàu thêm vốn văn hóa của dân tộc mình đây đôi khi lại là điều tốt.
Đó chính là những yếu tố không thể thiếu để làm nên cái chung, cái phổ quát của
văn hóa nhân loại, trong đó có âm nhạc và hệ thống ngôn ngữ chung của văn hóa âm nhạc đương đại trên thế giới. Những cái độc đáo, đặc sắc của âm nhạc mỗi
vùng, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc một mặt luôn được bảo tồn cùng với sự tồn vong
của từng dân tộc, một mặt lại phát triển theo hướng ngày càng tiến bộ hơn.Tạm kết
Để có thể nói về sự khác nhau trong âm nhạc giữa hai Châu lục
là điều vô cùng rộng lớn mà trong khuôn khổ một bài viết là chắc chắn không thể
đầy đủ hết. Như chúng ta đã biết âm nhạc là hơi thở của cuộc sống, bắt nguồn từ
cuộc sống lao động của xã hội loài người, phản ánh tâm tư, tình cảm, ước vọng
trong cuộc sống của con người trong mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi châu lục.
Dù được thể hiện qua câu hát - tiếng đàn, hay qua thị hiếu thưởng thức âm nhạc,
qua giai điệu, tiết tấu, điệu thức, cách thức cơ cấu nhạc cụ, phong cách biểu
diễn, phong cách sử dụng nhạc cụ... thì bản chất ấy của âm nhạc không hề thay đổi.
Chúng ta chỉ có thể nhìn vấn đề dưới góc độ nhỏ của dòng âm nhạc chuyên nghiệp
(một bộ phận của âm nhạc nói chung) và dựa vào những cách thức biểu hiện ấy để
làm cơ sở cho những so sánh về sự khác biệt giữa âm nhạc Phương Đông và âm nhạc
Phương Tây.
Thế giới rộng lớn luôn là một kho tàng đa dạng về văn hóa, tập
quán, truyền thống. Đây thật sự là một thú vui vô tận đối với các nhà nghiên cứu
trong lĩnh vực dân tộc học, xã hội học trong đó nổi bật hơn cả là sự khác biệt
giữa hai nên văn hóa nổi bật nhất là phương Đông và phương Tây, với sự khác biệt
cơ bản về bản tính tâm lý, tư duy, lối sống, tập quán, truyền thống… Có thể coi
đây là hai cái nôi văn hóa - văn minh lớn nhất của nhân loại.
Khác biệt về âm nhạc
1. Khác biệt trong việc sử dụng âm thanh
Âm nhạc Phương Đông và âm nhạc Phương Tây cùng dùng con số để
thể hiện các âm có độ cao. Tuy nhiên, cách lý giải thì có sự khác nhau:
Người phương Tây - tiêu biểu là Hy Lạp cổ đại - thường dùng tần
số làm số đo chủ yếu của âm thanh, chẳng hạn cách định âm của Pythagore (582 -
493), theo nguyên tắc định âm “vòng quãng 5” để xác định các bậc âm: Đô - Son -
Rê - La - Mi - Xi - Fa#; họ lấy cách định âm bằng sợi dây, và sự khác biệt của
âm thanh được qui định một cách khoa học theo âm chuẩn 1 cung = 9 comma. Theo
đó, âm La1 ứng với 440 Hz và âm càng cao thì con số ứng với nó càng lớn; từ âm
La1 cố định làm chuẩn, mà sau này tất cả các nhạc cụ trong dàn nhạc đều phải được
định hình theo nó và âm nhạc Phương Tây còn coi âm Đồ là âm cơ bản đầu tiên.
Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, đến thế kỷ II sau Công nguyên có trường
phái “hòa thanh học” phản đối phương pháp dùng “số học” để nghiên cứu nhạc luật
của Pythagore, họ đề ra phương pháp dựa vào tai nghe làm cơ sở và đã phát hiện
“âm sai” 5/4, 6/5, âm nhỏ 10/9 và comma 81/80. Theo một số nhà nghiên cứu âm nhạc
còn cho rằng Aristoxene (thế kỷ IV trước Công nguyên) đã phát hiện nguyên lý
thang 12 luật điều hòa. Hình ảnh Vòng quãng 5 Nhưng đối với người phương Đông thì có sự khác biệt. Âm nhạc
Phương Đông cũng theo nguyên tắc định âm quãng 5, nhưng cách giải thích hoàn
toàn khác. Âm nhạc Trung Quốc cổ đại khái quát quy luật thành "Ngũ độ
tương sinh” - tức là lấy kích thước của ống trúc (dài 9 tấc, đường tròn 9 phân
theo luật Âm Dương và theo quan niệm của Trung Quốc số 9 có vị trí đặc biệt, là
số dương lớn nhất, số đang tiếp tục phát triển) để định ra âm chuẩn, và âm đầu
tiên phát ra gọi là âm Hoàng Chung được coi như luật gốc. Từ luật gốc này, theo
một phương pháp nhất định, người ta phát triển thành 12 luật, trong đó có 6 luật
Âm: Lâm Chung (son), Nam Lã (la), Ứng Chung (xi), Đại Lã (đô thăng), Giáp Chung
(rê thăng), Trung Lã (mi thăng)) và 6 luật Dương: Hoàng Chung (đô), Thái Thốc
(rê), Cổ Tẩy (mi), Sanh Tân (fa thăng), Di Tắc (son thăng), Vô Xạ (la thăng).
Âm cơ bản đầu tiên cũng chính là âm Hoàng Chung và có sự trái ngược lại so với
âm nhạc Phương Tây ở chỗ âm có tần số càng cao thì con số tương ứng với nó càng
nhỏ. Hơn nữa, sau này âm Hoàng Chung còn được thay đổi theo từng thời đại (thậm
chí có liên quan đến cả lĩnh vực chính trị, quyền lực của từng thời). Ở Trung
Quốc cổ đại có mấy phương pháp định âm chính: “Tam phần tổn ích”, “Thượng sinh
và Hạ Sinh”, “Tám Luật sinh một Luật”. Cả ba phương pháp trên, tuy cách gọi
khác nhau, nhưng đều là phương pháp thuộc hệ thống định Luật “Ngũ độ tương
sinh”.
2. Khác biệt trong sử dụng điệu thức
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đã đối chiếu điệu thức 5 âm và 7
âm cổ đại của Trung Quốc (phương Đông) và Hy Lạp (phương Tây) đã thấy sự sắp xếp
các quãng của hai điệu thức 5 âm tương đối giống nhau, song hai điệu thức 7 âm
lại khác. Bán âm đầu tiên trong điệu thức Trung Quốc nằm giữa bậc IV và V (Sanh
Tân và Lâm Chung), còn trong điệu thức trưởng Hy Lạp nó lại nằm ở bậc III và
IV. Tuy nhiên, hình thức sắp xếp các bậc trong điệu thức 7 âm của Trung Quốc chỉ
nằm trong sách vở ở thời kỳ đầu và trong âm nhạc cung đình. Còn âm nhạc dân
gian thì quãng bán âm giữa bậc III và IV đã hình thành từ sớm (như trong âm nhạc
cổ đại Hy Lạp) và đến thế kỷ VI sau công nguyên đã thấy nó được sử dụng trong
âm nhạc cung đình.
Tên gọi 7 âm của Trung Quốc tương ứng với 7 âm Hy Lạp:
Cung Thương Giốc Biến Trủy Trủy Vũ Biến Cung Song, điệu thức trong âm nhạc Phương Đông rất phức tạp, ở mỗi
khu vực đều có những cách sử dụng điệu thức khác nhau và điều đó làm cho âm nhạc
Phương Đông vốn độc đáo, riêng biệt lại càng giàu thêm phần phong phú và đa dạng
hơn. Vùng phương Bắc Trung Quốc thường dùng điệu thức 7 âm bằng nhau, đặc biệt
là 7 âm Thương hay được dùng với sắc thái vui vẻ, lạc quan, mạnh mẽ. Vùng
phương Nam chủ yếu là dùng 5 âm và sử dụng nhiều 5 âm Trủy, tiếp theo đến 5 âm
Vũ với tính chất âm nhạc trữ tình. Dĩ nhiên, những tính chất, sắc thái, đặc điểm
âm nhạc trong mỗi vùng miền ở phương Đông khác nhau đều xuất phát từ yếu tố con
người, địa lý, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, ngữ điệu...
Âm nhạc thời cổ điển ở Ấn Độ dùng 7 bậc âm chính để xây dựng
thành 7 nốt - tiếng Ấn Độ là xva-ra (svara). Mỗi nốt có một tên riêng và tương ứng
với tiếng của mỗi con vật: Nốt thứ nhất tên là Xa-dơ-gia (Sadja) tương ứng
với tiếng chim công, nốt thứ hai tên là Ri-sa-ba (Rishaba) tương ứng với tiếng
kêu của con bò cái, nốt thứ ba tên là Gan-đơ-ha-ra (Gandhara) tương ứng với tiếng
kêu của con dê, nốt thứ tư tên là Ma-dơ-hi-a-ma (Madhyama) tương ứng với tiếng
kêu của con cò, nốt thứ năm tên là Pan-sa-ma (Panchama) tương ứng với tiếng gáy
của chim cu, nốt thứ sáu tên là Đơ-hai-va-ta (Dhaivata) tương ứng với tiếng hí
của ngựa, nốt thứ bảy tên là Ni-sa-da (Nishada) tương ứng với tiếng giống của
voi. Trong thực hành, các nốt nhạc này được đọc theo vần đầu của chúng. Do đó
mà tên bảy nốt nhạc của Ấn Độ là: Xa - Ri - Ga - Na - Pa - Đa - Ni. Tên gọi của
bảy nốt trong âm nhạc Phương Tây là Ut - Rê - Mi - Fa - Son - La - Xi cũng hình
thành theo cách này - lấy vần đầu của các câu kinh thánh. Lý thuyết âm nhạc cổ
điển đã được định hình bởi các điệu thức cơ bản Raga - là một điệu thức 7 âm
chia ra thành 22 cao độ không đều nhau trong một quãng 8 được gọi là sơ-ru-ti
(shruti), mỗi sơ-ru-mi được xác định tính chất âm nhạc khác nhau. Các điệu thức
7 âm Raga được dùng nhiều ở miền Bắc với tính chất âm nhạc trữ tình, mềm mại.
Còn trong hệ thống Siva có tới mười điệu thức 5 âm lại thường được dùng nhiều ở
miền Nam với tính chất âm nhạc nặng về lý trí.
Khác hẳn so với điệu thức âm nhạc Phương Đông, thời Hy Lạp cổ
đại sắp xếp hệ thống âm nhạc theo thứ tự từ trên đi xuống; điệu thức đó chứa
dãy bốn âm cùng một dạng thức quãng theo cách gối đầu hoặc kế tiếp. Hệ thống
hoàn thiện nhất là có bốn dãy âm và có âm gốc (gọi là Meda) nằm ở chính giữa
chia cả hệ thống thành hai phần bằng nhau. Trên cơ sở lấy hai dãy bốn âm cùng một
dạng thức quãng đem đặt kế tiếp nhau (không gối đầu nhau) sẽ được một điệu thức
có các tên gọi khác nhau như: Iolien, Eolien, Phrigien, Mixolidien,
Lidien, Dorien, Locrien.
Thế kỷ III đến thế kỷ XIV, các điệu thức vẫn được gọi tên
theo các điệu thức Hy Lạp cổ đại (còn được gọi là điệu thức nhà thờ vì được
dùng làm cơ sở cho nhạc nhà thờ) nhưng về bản chất thì khác hẳn, bao gồm các điệu
thức chính như sau:
Phrigien: C - Des - Es - F - G - As - B - C
Mixolidien: C - D - E - Fis - G - A - H - C
Lidien: C - D - E - F - G - A - B - C
Dorien: C - D - Es - F - G - A - H - C
Locrien: C - D - Es - F - Ges - As - B - C
Iolien: C - D - E - F - G - A - H - C
Eolien: A - H - C - D - E - F - G - ANửa đầu thế kỷ XVII, điệu thức âm nhạc Phương Tây chủ yếu thống
nhất gồm hai hệ thống Trưởng và Thứ mà ngày nay chúng ta thường dùng. Hệ thống
bình quân của J.S. Bach ra đời thay thế cho hệ thống tuyệt đối là một bước tiến
mới trong lịch sử âm nhạc Phương Tây, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Nhưng, như ta đã biết, cái gì đã chia đều “bình quân” bao giờ cũng chỉ giữ tính
đại thể, còn những nét độc đáo, tinh tế lại bị mờ đi. Trong âm nhạc cũng
vậy, cần có sự hài hòa, trong đó cơ sở vật lý đóng vai trò quan trọng. Song
trong âm nhạc còn bao hàm cả tính thị hiếu thẩm âm của từng dân tộc, tính địa
phương, mà những cao độ “già, non” lại là những nhân tố quan trọng. Bình quân
luật đã làm nhòa đi phần nào tính địa phương và những sắc thái tinh tế trong sự
tiếp nhận cao độ của thẩm mỹ âm nhạc tự nhiên. Do đó, khi nhạc luật bình quân
phổ biến rộng rãi, những nhà lý luận cũng như nhạc công vẫn duy trì nhạc luật
không bình quân để giữ sự hài hòa trong âm nhạc đa âm và màu sắc riêng của dân
tộc, nhất là ở các nước phương Đông.
3. Khác biệt trong sử dụng các yếu tố của âm nhạc
Giai điệu
Chất liệu giai điệu của âm nhạc Phương Đông có nguồn gốc từ một
truyền thống tập trung xung quanh giọng con người, và những nhạc khí của nó
khát khao những khả năng linh hoạt của giọng người trong âm điệu cùng sự tô điểm
cho giai điệu bằng việc sử dụng những yếu tố như: những quãng vi cung, những lối
vuốt và rung. Âm nhạc Phương Đông nặng về giai điệu, quan tâm đến giai điệu
trong việc diễn tả các trạng thái cảm xúc, các ý tưởng âm nhạc... Giai điệu
trong âm nhạc Phương Đông chủ yếu khai thác đơn tuyến chiều ngang, chuyển điệu
bằng đặc tính âm thanh, không có những tình huống xung đột gay gắt, không có được
tính triết lý nội tâm như âm nhạc phức điệu, cũng như không bị hòa âm chiều dọc
và những tiến hành hợp âm chỉ đạo chi phối như trong âm nhạc Phương Tây, mà có
liên quan tới những điệu thức giai điệu xây dựng trên những thang âm đặc biệt…
Ngược lại, âm nhạc Phương Tây không chỉ nghe giai điệu theo chiều ngang mà còn
chú ý tới hòa âm theo chiều dọc, cho nên, âm nhạc Phương Tây coi hòa âm là một
trong những yếu tố chính để diễn tả hình tượng âm nhạc, thậm chí hòa âm còn thể
hiện phong cách sáng tác, trường phái âm nhạc…
Tiết tấu
Tiết tấu, dấu nhấn trọng âm và cú pháp trong âm nhạc Phương
Đông được bắt nguồn từ thơ ca và việc cộng các phách thành hình thức những chu
kỳ nhịp liên quan tới sự phân câu, xoay quanh giọng người với sự nhấn mạnh âm
thanh chủ yếu mang tính kích động, tạo cảm giác vấp váp, quy luật mạnh nhẹ
không đều (điều này được đạt tới thông qua độ dài dàn trải của các âm). Ví dụ
như: Ả Rập có nhịp 2, 4, 6, 7, 9, 10 và đặc biệt có nhịp 120 phách; Thổ Nhĩ Kỳ
có nhịp 9 phách còn gọi là nhịp thêm (2 + 2 + 2 + 3), nhịp 8 phách gọi là nhịp
bớt (3 + 2 + 3). Quy luật phách mạnh - phách nhẹ cũng khác hẳn ở chỗ âm ngắn lại
rơi vào phách mạnh (gọi là Duma) và âm dài rơi vào phách nhẹ (gọi là Tek),
trong khi âm nhạc Phương Tây, âm dài thường rơi vào phách mạnh.
Tư duy về tiết tấu trong âm nhạc Phương Tây là thường nhân nhịp
(với nhịp 16 phách ở âm nhạc Phương Đông, họ có thể phân ra làm 4 câu, mỗi câu
4 nhịp, mỗi nhịp 4 phách). Việc chia các nhịp thành phách của âm nhạc Phương
Tây bắt nguồn từ múa, xoay quanh cơ thể con người, đồng thời liên quan tới nhịp
điệu, với dấu nhấn làm động lực là chủ yếu (gồm những sự tương phản mạnh yếu).
4. Cơ cấu nhạc cụ dẫn đến khác biệt trong việc sử dụng cũng
như phong cách biểu diễn
Các nhạc cụ ở phương Đông hết sức phong phú về chủng loại và
nhiều về số lượng, thường được chế tác từ những chất liệu gần gũi với thiên
nhiên như: trống đồng, trống da, đàn đá… Tiêu biểu nhất là nước Trung Quốc ở
khu vực Đông Á, ngay từ thời thượng cổ đại (8000 năm trước Công nguyên đến thế
kỷ 11 trước Công nguyên) đã xuất hiện một số nhạc cụ cổ sơ như: kèn Lá, sáo
Xương Chim, chuông, thanh la, não bạt… Các loại nhạc cụ phổ biến rộng rãi ở
Trung Quốc là: đàn Sắt, đàn Cầm, đàn Tranh, sáo, tiêu, chuông, khánh… Thời Tây
Chu, Xuân Thu - Chiến quốc (thế kỷ11 đến năm 221 trước Công nguyên), người ta
đã xác định được phương pháp phân loại Bát âm - tám loại chất liệu được lấy
từ thiên nhiên - để chế tạo nhạc cụ: Kim (chuông) - Mộc (mõ) - Thổ (trống đất)
- Thạch (khánh đá) - Cách (trống da) - Bào (trống bằng trái bầu) - Ti (đàn dây)
- Trúc (sáo). Phương pháp phân loại nhạc cụ này có liên quan đến Phật
giáo, liên quan đến quan niệm về Bát quái (Càn, Khảm, Cung, Ly, Cấn, Chấn,
Khôn, Đoài), và nguyên tắc Bát âm này đến nay vẫn là một trong sáu cách phân loại
nhạc cụ trên thế giới. Cách phân loại nhạc cụ theo chất liệu sẽ dẫn tới sự khác
nhau trong âm sắc của các nhạc cụ và dẫn đến cách biên chế các dàn nhạc cũng được
dựa vào chất liệu nhạc cụ. Hơn nữa, người Trung Quốc chế tạo nhạc cụ đều có ít
nhiều dựa trên cơ sở học thuyết Âm - Dương, Ngũ hành, chu kỳ tự nhiên của trời
- đất. Ví dụ như: đàn Tranh có kích thước dài 3 thước, 6 tấc, 5 phân (quan niệm
một năm có 365 ngày), ngựa đàn không cố định (bởi liên quan đến trăng sao có
lúc khuyết), thường cao 8 tấc, mặt trên cong đại diện cho mặt trời, mặt dưới phẳng
đại diện cho mặt đất, có hai chân theo quan niệm âm - dương), 16 dây (8 x 2)… SáoTại Nam Á có Ấn Độ là đại diện tiêu biểu với hệ thống nhạc cụ
riêng rất đặc sắc. Có các nhạc cụ tiêu biểu làm bằng Bầu, Bí, bộ gõ bằng Da được
vỗ bằng tay (trên thế giới các nhạc cụ làm bằng chất liệu như vậy đều có nguồn
gốc từ Ấn Độ và đã có giả thuyết cho rằng đàn Violon của phương Tây cũng có nguồn
gốc từ đàn Sudi của Ấn Độ). Các nhạc cụ tiêu biểu có ảnh hưởng đến khu vực như:
đàn Sarasvati, đàn Vina (4 dây), đàn Sitar (7 dây, đánh 1 dây còn 6 dây kia đệm),
sáo Pungi (kèn thổi cho múa rắn, có tần số rất hợp với con rắn), trống Baya (1
mặt vỗ bằng tay), trống Tabla (hai mặt vỗ bằng tay)... Đàn SitarNgoài ra, âm nhạc Phương Đông còn có cách biên chế dàn nhạc đặc
biệt mà âm nhạc Phương Tây không có như: dàn nhạc hòa tấu các nhạc cụ có độ
vang lớn (Triều Tiên), dàn nhạc hòa tấu cồng chiêng (vùng Đông Nam Á), dàn nhạc
hòa tấu Ti - Trúc…
Đương nhiên, các nhạc cụ được sử dụng trong âm nhạc Phương
Tây cũng rất phong phú, đa dạng. Các nhạc cụ thời nguyên thủy cũng bắt đầu bằng
những cây đàn gõ bằng đá, bằng ống sậy, bằng ống xương, bằng ống sừng… Sau đó,
người ta biết dùng tới sợi dây căng - chùng và dài - ngắn để tạo các âm thanh
cao thấp khác nhau. Thời cổ đại Hy Lạp có các nhạc cụ tiêu biểu như: đàn Lia
(nguồn gốc từ phương Bắc - người Phratki), đàn Kipha và kèn Aviot (nguồn gốc từ
Tây Á), sáo nhiều lỗ Xirinh… Đến thời trung cổ, âm nhạc của nhà thờ Thiên Chúa
giáo thống trị, âm nhạc dân gian phát triển không mạnh. Thời kỳ này, dàn nhạc
nhiều tổ hợp nhạc cụ được hình thành và chỉ trong nhà thờ mới có tổ chức dàn nhạc
lớn. Âm nhạc thời phục hưng ở phương Tây bắt đầu đi những bước non trẻ, song từng
bước có vị trí vững vàng. Các loại nhạc cụ tiêu biểu ở phương Tây gồm: đàn
Luyt, đàn Oocgan, đàn Clavecine, đàn Mandoline, đàn Guitare, đàn Vion, đàn
Violon, đàn Viola, đàn Violoncello, đàn Contrebass, sáo Flute, kèn Oboi, kèn
Clarinetto, kèn Fagotto, trống Timpani, trống Tamburino, trống Tamburo,…
luôn được ưa chuộng và được sử dụng thường xuyên trong biên chế dàn nhạc. Do bản
tính tâm lý, tập quán, truyền thống… nên cách phân loại nhạc cụ của âm nhạc
Phương Tây khác hẳn so với âm nhạc Phương Đông. Họ phân loại nhạc cụ theo nguồn
phát âm, cách biên chế dàn nhạc theo bộ: Dây - Gỗ - Đồng - Gõ, nhất là vào nửa
sau thế kỷ 17 - đầu thế kỷ 18 thì cách biên chế các dàn nhạc lớn nhỏ mới được
hoàn thiện như ngày nay.Đàn Luyt5. Một số khác biệt khác
Ngoài ra, còn có một số điểm khác biệt giữa âm nhạc Phương
Đông và âm nhạc Phương Tây như: âm nhạc Phương Tây thường được phân theo trường
phái, gắn liền với những tên tuổi của các nhạc sĩ; trong khi đó, lịch sử âm nhạc
Phương Đông được phân theo khu vực, phân theo đặc trưng âm nhạc của từng vùng,
từng miền, còn âm nhạc cổ điển chủ yếu là âm nhạc cung đình. Âm nhạc phương
Đông không nặng về phối khí cho dàn nhạc mà diễn tấu theo kiểu bè tòng trên cơ
sở lòng bản cho trước, tức hứng. Âm nhạc Phương Đông có hình thức biểu diễn tức
hứng trong hòa tấu cũng như độc tấu và kể cả trong thanh nhạc. Hình thức này âm
nhạc phương Tây không có, bởi khi biểu diễn, người nghệ sĩ phải chơi theo những
quy định đã được ghi sẵn trong bản phổ. Âm nhạc Phương Đông còn có kiểu hòa tấu
đặc sắc mà phương Tây không có - đó là hòa tấu nhiều nhạc cụ có độ vang lớn được
biểu diễn ở ngoài trời, các hình thức biểu diễn thường mang sắc thái nghi lễ,
tín ngưỡng thông tục.
Kết
Như vậy, rõ ràng là âm nhạc nói riêng, cũng như văn hóa nói
chung của người phương Đông và người phương Tây, ngoài những giá trị chung, sự
tương đồng và sự giao thoa văn hóa còn có những nét khác biệt nhất định. Những
nét khác biệt ấy được quy định bởi điều kiện sinh sống, những nét đặc trưng
riêng trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội, truyền thống, phong tục, tập
quán sinh hoạt xã hội và tâm lý cộng đồng… Do vậy, những quan niệm về nhất thể
hóa văn hóa, nhất thể hóa nền âm nhạc… rõ ràng là hoàn toàn không có cơ sở khoa
học. Tuy nhiên, nghiên cứu về những sự khác biệt ấy hoàn toàn không phải để kỳ
thị, đánh giá thấp - cao đối với các nền âm nhạc khác nhau, mà chỉ để nhằm thấy
được sự phát triển cực kỳ phong phú của văn hóa nhân loại nói chung, âm nhạc nhân
loại nói riêng, và điều quan trọng hơn là để chúng ta có điều kiện học hỏi cái
hay, cái đẹp của các nền văn hóa - âm nhạc trên thế giới, cả phương Đông và
phương Tây nhằm không ngừng làm giàu cho nền văn hóa, nền âm nhạc của nước nhà.
30/9/2019
Hình ảnh Vòng quãng 5
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét