Trúng số độc đắc 2
IV. MẤY CUỘC HÀNH HẠ CUỐI CÙNG
Mãi tối hôm sau, Phúc mới về nhà.
Anh bước chân qua ngưỡng cửa gia đình với một tinh thần cứng
cáp, với cái lòng tự kiêu của một vị tân khoa áo gấm về làng, với cái sự nhũn
nhặn của một anh hùng đã chiến thắng quân giặc mà đi vào khải hoàn môn. Phúc
không còn thấy đi hát mất một đêm một ngày là phạm phải một tội rất đáng trách
mắng như mấy lần trước, mà lần này, trái hẳn lại anh ta còn cho rằng họa may bố
mẹ có vì anh chơi bời như thế mà bắt đầu biết nể cái mặt anh được chút nào
chăng. Nhất là với số tiền hai chục bạc trong túi, Phúc càng tin rằng đối với vợ
anh đã quả nhiên là một vị thần thánh bất khả xâm phạm. Chứ lại gì! Cái luân lý
đã được cải cách của cái xã hội kim thời há chẳng là có thể tóm tắt trong một
câu này: "Làm gì cũng được tuốt, miễn có tiền đem về nhà thì thôi" đó
sao!
Mà quả vậy!
Người thứ nhất anh gặp phải, khi bước vào nhà, là vợ anh…
đáng lẽ hoặc lườm chồng một cái rất khinh bỉ, hoặc thản nhiên quay mặt nhìn ra
phía khác hoặc cau mặt hỏi sẵng: "Gớm, đi đâu bây giờ mới về thế, hở bố trẻ?"
như mọi lần, bây giờ người đàn bà ngoan ngoãn ấy để nở một nụ cười âu yếm và khẽ
hỏi: "Thế nào có được không?". Không đáp bằng lời, Phúc chỉ gật đầu một
cái, và vỗ vào túi ba cái.
Đoạn anh đi thẳng vào trong nhà.
Anh hơi bất mãn vì không thấy "ông phán" và vợ con
ông ta đâu, vì anh muốn "hạng người ấy" phải biết rằng anh cũng là
người chơi bời, chẳng cần ai, chẳng sợ ai. Anh chỉ thấy cô em gái, cô Đức, lúc ấy
đương ngồi khâu một cái khăn mặt. Trông thấy anh cô này nhại ngay: "Đừng
láu". Rồi cứ nhìn anh mà cười. Đáng lẽ tức giận, Phúc chỉ cười tha thứ, vì
anh đã có những cái gì vững ở nơi anh.
Phúc lên gác, thấy mẹ thì khẽ nói: "Thưa đẻ, con đã về".
Anh chờ bà mẹ căn vặn thì anh cắt nghĩa một thể, nhưng không hiểu sao bà mẹ
nhìn anh một cách sợ hãi, và gật đầu một cái thôi, chứ không hỏi gì cả. Phúc cởi
áo the, bỏ khăn ra, lại xuống thang.
Ra cửa hàng anh ngồi bục, lấy trong túi ra một tập giấy bạc
nhỏ hai mươi lá. Lúc ấy cảm tình của anh là toan đưa cả cho vợ số tiền ấy.
Nhưng đến khi vợ anh vội vàng giơ tay ra, anh mới nghĩ lại, mới thấy rằng người
đàn bà ấy là khả ố, chẳng đáng hưởng cả cái tử tế của anh. Anh bèn giữ lại ba tờ
giấy bạc, nói:
- Đấy, cầm lấy mười bẩy đồng!
Vợ anh nhìn anh, sợ hãi, mãi mới dám nói:
- Sao cậu không cho em cả? Khổ quá, thế này thì biết vay ai
được thêm ba đồng nữa cho đủ?
Anh trừng mắt hỏi:
- Thế ngộ không vay được đồng nào thì sao?
Không biết đáp sao cả, người đàn bà ngẩn mặt ra rồi hỏi thêm:
- Nhưng cậu thì tiêu gì những ba đồng?
Đến đây, anh mới nhận ra rằng sở dĩ anh giữ bớt lại chỉ là để
tỏ cái quyền của người kiếm ra tiền, và để có cách hành hạ vợ anh cho bõ ghét
mà thôi, chứ anh có việc gì phải tiêu đâu! Anh đã toan để cho vợ cầm lấy cả số
bạc, thì mới chợt nhớ đến người phu lục lộ cùng ai anh đã hứa. Phúc giật mình,
giật ngay lại ba tờ giấy bạc, trù trừ một lúc lâu, rồi đưa thêm cho vợ một tờ,
mà rằng:
- Thôi, thế mợ tiêu mười tám đồng.
Tuy đã sung sướng hơn một chút, vợ anh cũng cau có:
- Khổ quá, thế em biết vay ai những hai đồng nữa cho đủ bây
giờ!
Đến thế thì anh không thể nào chịu được nữa! Anh gắt đã hơi
to tiếng:
- Thế ai bảo đánh mất một lúc hai chục bạc? Thế ngộ người ta
không vay được cho lấy một xu nào thì sao? Hở?
Vợ anh lấm lét nhìn vào trong nhà, tưởng chừng đã có ai nghe
tiếng, cuống quít kêu vang:
- Thôi! Thôi! Cũng được! Em đi vay vậy!
Rồi cười lẳng lơ ra ý rất hài lòng, để cho chồng cũng được bằng
lòng mình. Phúc lặng im khinh bỉ, lại cất hai đồng bạc vào túi áo, rồi quay đi.
Nhưng anh chợt thấy ngờ ngợ rằng chỉ có thế chưa đủ! Người ta
không ai đưa tiền cho vợ một cách dễ dãi quá đến thế. Anh lo rằng không khéo
mình lại vừa là một thằng chồng ngu mà thôi! Ừ, vợ mình xưa nay vẫn khinh bỉ
mình ra mặt, có lý nào mình lại tử tế với nó quá đáng, đi vay tiền cho nó chỉ vì
nó vô ý đánh mất số tiền ấy! Tất phải hành hạ, hoặc phải cái gì, cho bõ ghét,
cho cân tức thì anh nói nghiến:
- Thế rồi thì từ rày, thỉnh thoảng lại cứ đánh mất tiền một
chuyến chơi như thế, cho nó sung sướng cái thằng đi ngửa tay mắc nợ nhé?
Vợ anh hãi hùng nhìn anh rồi cúi đầu, tủi thân.
Phúc chỉ hả hê, tường lời lẽ của mình là độc địa ghê gớm lắm,
chứ không biết nói thế là làm hại mất cái phút hạnh phúc hiếm có lúc ấy, vì vợ
anh đã vì câu mỉa mai mà lấy ơn làm oán.
Lên đến phòng riêng trên gác, anh ta ngồi thừ mặt ra, không
còn biết làm gì nữa, hài lòng như người vừa làm xong một phận sự lớn lao. Thì
ra đến lúc ấy anh mới chợt nhớ rằng ngày xưa, khi còn đi làm, lần nào lĩnh
lương, anh cũng đã đưa nộp cả cho bà mẹ, còn vợ anh thật vậy, xưa nay chưa từng
tự hào được đồng xu nhỏ của anh bao giờ! Chỉ vì lẽ ấy cho nên xưa nay vợ anh mới
dám khinh anh, và lần này, được nhận tiền hẳn hoi, mới hết sức kính trọng anh,
Phúc bất kỳ có cảm tưởng tốt với vợ, thương hại vợ nữa, vì nếu không vô phúc
đánh mất tiền, thì người đàn bà ấy chẳng đời nào lại được cái hân hạnh đặc biệt
lấy của anh số tiền khổng lồ hai chục bạc. "Thật đáng tiếc quá, số tiền
như thế, mà nó chẳng được tiêu vào cái thân nó cho sướng được lấy nửa đồng!"
Sau khi nghĩ thế, anh lại thấy cái cần ghê gớm phải làm thế nào trở nên giàu
có, dầu là chỉ cốt để vợ anh được hưởng, chứ chưa nói đến những tư tưởng nhân đạo
phi thường của anh làm chi!
Thấy mệt trong người, anh lên giường nằm nghỉ. Trước khi ngủ
thật, anh đã phác họa một chương trình cho ngày hôm sau. Từ mai trở đi, anh sẽ
chẳng ra ngồi vườn hoa Paul Bert đọc sách nữa, vì như vậy đã vô ích, mà lại
gàn. Thật vậy, có thực mới vực được đạo, khi anh còn phải ăn hại người khác,
cho dẫu là bố mẹ, thì anh không có quyền vội nói gì đến đạo lý. Mà cái đạo lý tốt
nhất bây giờ, là chịu khó cầm lá đơn đi xin việc các sở tư.
Nhưng đến hôm sau, cái lòng hăng hái của anh chưa chi đã nguội
lạnh. Trước khi ra đi, anh đã tự đặt cho mình không biết bao nhiêu là câu hỏi nữa:
"Đi xin việc, chao ôi! Xin việc gì bây giờ, và xin ở sở nào? Liệu có ăn
thua gì không? Ở đâu bây giờ cũng mật ít ruồi nhiều, muốn có công việc, phải có
vây cánh, muốn có vây cánh phải có đút lót, muốn có chỗ đút lót, phải có hiểu hữu,
quảng giao… Mà muốn được hiểu hữu quảng giao, phải có một ít tiền. Thế mà xưa
nay, mỗi tháng ta chi tiêu không đến một đồng bạc, quảng giao vào chỗ nào được?"
Chưa chi anh đã hình dung trong óc cái địa vị đáng buồn của một người thất nghiệp
vác đơn đến những chỗ mà cũng sẽ chỉ nhìn mình một cách khinh bỉ hoặc sợ hãi mà
thôi. Anh đau lòng rằng một người như anh mà không có thể làm được một nghề gì
khác cái nghề cạo giấy rất tầm thường, rất đáng chán, ấy là chưa kể rằng đối với
anh hiện giờ thì có một chỗ để ngồi mà cạo giấy, sự ấy cũng chẳng dễ chút nào!
Nhưng sau bữa cơm, anh cũng khăn áo ra đi. Dù lòng anh chẳng
muốn tí nào, anh cũng không thể không đi tìm việc được. Anh đã chẳng nói khoác
với bố mẹ rằng có người bạn tốt đương kiếm việc làm cho anh đó sao? Tai hại hơn
thế nữa, anh đã cũng chẳng nói liều cả chính với người bạn tốt ấy rằng nay mai
có việc làm thì anh trả nợ cái món tiền vừa vay đó sao?
Phúc vừa đi vừa thở dài.
Bây giờ anh mới biết giá trị của lời nói, dẫu là nói dối, dẫu
là nói láo, dẫu là nói khoác. Thế mà con người ở đời hơn kém nhau chỉ ở chữ tín
mà thôi!
Qua cả hai dãy phố Tràng Tiền, trước hiệu buôn nào, anh cũng
dừng chân đứng lại bên ngoài cửa kính, và ghé mắt tận nơi để đọc rất kỹ lưỡng
những mảnh giấy yết thị nhỏ có dán tem. Trong hàng trăm cái mới có một vài cái
đề là cần người làm, còn thì toàn là những yết thị gọi thầu, gọi bán đồ cũ, gọi
cho thuê nhà v.v… Mỗi lần thấy những chữ cần người làm, anh Phúc lại thấy quả
tim đập rất mạnh, nhưng ba lần, anh đều thất vọng cả ba, vì cái yết thị thứ nhất
thì cần một người đen tây gác cổng, cái thứ hai cần một chục cu ly, và cái thứ
ba, cần một người bán hàng, nhưng lại thuộc giống đẹp. Anh khẽ thở dài. Tuy vậy,
thế cũng chưa đến nỗi hoàn toàn thất vọng, vì nếu cũng còn có một vài nhà phải
yết thị gọi người làm, thì nghĩa là nạn kinh tế khủng hoảng có lẽ đã bớt, và
dân số thất nghiệp ắt cũng chẳng quá nhiều như ta vẫn tưởng xưa nay. Anh ta cứ
vững tâm chắp tay sau đít mà ung dung như một người du sơn du thủy, và mỗi khi
bên trong cửa kính thấy có người đương bầy hàng mà ngẩng lên nhìn anh, thì đôi
mắt anh bỏ phăng những mảnh giấy yết thị. Anh vờ như chỉ khảo sát những hàng
hóa để khi nào cần phải mua thì sẽ đến mua.
Hết phố Tràng Tiền, anh qua phố Đồng Khánh, rồi rẽ về con đường
Hàng Cỏ. Thấy đồn ít lâu nay, rằng có những đại lý xe hơi mở rộng phạm vi
thương mãi bằng cách xây thêm xưởng máy, Phúc kiên tâm đi tìm xưởng ấy thôi, chứ
không quan tâm tới những nhà buôn nhỏ anh gặp ở dọc đường. Một thứ linh giác
báo cho anh rằng đến đấy, và chỉ đến đấy thôi, là anh có nhiều cái may mắn tìm
được việc. Anh lại định trước: Nếu họ chỉ mượn thợ tập sự, thì anh cũng xin.
Cái nghề cạo giấy, thư ký kế toán, thư ký đánh máy chữ, thư
ký thường, tuy anh đều biết cả, nhưng anh cũng chán nó đến bậc coi nó như không
có giá trị gì cả, coi nó như không là một nghề nữa.
Nếu được học thợ, anh sẽ rất hoan nghênh bộ áo vải xanh. Với
học thức của anh, anh dám chắc là có thể nâng cao được giá trị cho thợ thuyền,
hạng người vốn bị xã hội khinh là thiếu học. Và có mặc quần áo vải xanh, đi guốc,
xách búa, anh sẽ mới là có trong tay quả thật một nghề.
Vừa nghĩ đến đây, Phúc đã đến cửa hãng. Tìm đến chỗ có dán ít
nhiều yết thị, anh mừng rỡ vô cùng khi thấy có một tờ chưng là hãng đương cần
hai người thư ký, ai muốn xin phải qua một kỳ thi. Nhưng Phúc ta chưa vui mấy
đã phải buồn ngay tức khắc, và sự buồn rầu ở trong tâm giới anh chỉ trong nháy
mắt đã trở nên một mối thất vọng, rồi từ thất vọng mà biến chứng ra hối hận ghê
gớm nữa. Thật thế, vì hạn nộp đơn xin thi, kể đến hôm qua là vừa vặn hết. Nếu
người ta chưa bóc giấy yết thị ấy đi, có lẽ là chưa kịp nghĩ đến, có lẽ họ sắp
ra bóc đến nơi! Anh đến chậm mất hết một ngày! Than ôi! Số phận hẩm hiu làm sao
mà đến nỗi bấy lâu nay, anh cứ ra ngồi vườn hoa mà xem sách một cách vô tích sự
như thế! Người nhà vẫn trách anh không chịu mầy mò, sự ấy nào phải oan! Thôi
thôi, thật là mình làm mình chịu, anh chỉ còn cách tự mình giận mình. Nếu những
tư tưởng đau đớn, tức bực của anh lúc ấy mà phát nên lời, chắc những lời ấy đã
tàn nhẫn hơn cả những câu đay nghiến của bố mẹ anh nhiều lắm.
Và, ôi ai oán! Giữa lúc anh tần ngần đứng trước cửa kính, thì
sự mỉa mai của số phận sui khiến ra cái sự có người thư ký ra bóc cái yết thị ấy
để xé phăng nó đi!
"Ơi, ta ơi là ta ơi! Đáng kiếp cho chưa? Như thế đã đủ
là quả báo nhỡn tiền hay chưa? Ai bảo ta khinh tiền bạc xưa nay, đến nỗi thờ ơ
cả sự tìm sinh kế? Ai bảo ta cứ mải miết dùi mài kinh sử mãi như một kẻ mất trí
khôn? Ai bảo ta chỉ tập tễnh muốn làm một nhà đạo đức, một người chẳng chịu lụy
ai, không bị ai bắt nạt, áp chế? Muốn thế, họa chăng là có bậc đế vương ở cái
thời buổi ngày nay đi nữa, thì bị bắt nạt, bị áp chế, cũng chỉ là thường. Ta có
nhiều lý tưởng cao xa, khốn một nỗi, ta chót quên một điều này: có thực mới vực
được đạo! Thế thì bây giờ ta đã sáng mắt ra chưa hở ta? Nếu có chết đói, cũng
là đáng kiếp cho ta lắm! Ta tưởng ta là ai? Ta chỉ là đồ xuẩn, đồ khốn nạn, đồ
mù!".
Phúc đăm đăm nét mặt nghĩ ngợi mãi, còn muốn tìm nhiều câu
cay đắng, độc địa để tự nhiếc mình một bữa cho thỏa, vì xưa nay anh ta chỉ biết
có tự cao, tự túc tự đại, chứ chưa hề có phạm điều gì bứt rứt cho lương tâm.
Nhưng anh chỉ có tìm thấy thế thôi; nên còn đứng ỳ ra đấy, như tượng gỗ. Người
thư ký bên trong nhìn anh và tủm tỉm cười. Anh quay đi, thì thấy người ấy nói
ra: "Đẹp lắm rồi! Ngắm mãi!" Thì ra họ tưởng anh soi gương! Đến lúc ấy,
anh mới nhận ra rằng miếng kính to tát của cửa hàng ấy tốt đẹp đến mức không có
thủy ngân mà soi vào ta thấy thật mặt hơn gương nữa.
Anh bước đi cho nhanh, ngượng ngùng.
Chợt một tư tưởng bất thần nẩy ra trong óc anh, làm cho đôi mắt
anh quắc lên, cả cái mặt đăm chiêu cũng sáng sủa ra, vì một tia sáng hy vọng…
Hay anh cứ vào xin nộp đơn, dầu đã chậm một ngày? Anh sẽ nói là không may vắng
mặt Hà Thành nên không biết và cố khẩn khoản xin người ta cứ chấp đơn cho. Thì
anh cứ thử liều vào hỏi xem, được càng hay, không thì thôi chứ gì? Nghĩ thế anh
quay gót trở lại, và cũng chưa quả quyết hẳn. Là vì, ngay lối vào, có ông tây
đen gác cổng cao lớn, uy nghi như Trương Phi. Bên trong có ba người Pháp đang đứng
nói chuyện cạnh một chiếc xe hơi, ai cũng to tiếng cãi nhau, làm anh chột dạ.
Anh phải tìm một người đồng bào, Nam quốc, Nam nhân với nhau, hoạ chăng có hỏi
gì thì may cũng được họ vui lòng chỉ bảo cho. Phải dò la "binh tình"
thế nào đã. chứ hỏi ngay Tây, vừa khó nói, vừa bất tiện nhiều lẽ. Thêm nữa, chỉ
mười lăm phút nữa đã hết giờ làm rồi. Thôi ai cũng đã sắp về, chẳng nên vội, để
đến chiều là hơn. Ít ra cũng phải sẵn thời giờ thiên hạ mới có thể đáp lại anh
những điều anh xin hỏi.
Thế là anh lại quả quyết quay đi.
Để mà rất mừng rằng không vào hỏi vội là may, chứ vào kè nhè
xin nộp đơn mà đơn anh cũng chưa có thì người ta sẽ lộn ruột và Tây nó sẽ chửi
cho ấy! Chứ bỡn! Xin việc, chẳng phải trò đùa!
Anh bước nhanh về nhà, để thảo đơn đã.
Đến buổi chiều, anh trở lại với lá đơn trong tay, với nhiều
câu tiếng Pháp sửa soạn trong óc. Anh dám chắc nếu người ta sẵn lòng tiếp anh
cho anh được phép nói thì thế nào anh cũng xin được, vì cái ngôn ngữ anh sửa soạn
để ứng đối nó trôi chảy, lễ phép, tha thiết, và rất văn chương. Anh tưởng tượng:
mình chỉ xin một chân thư ký mà mình biết ăn nói như thế, có khi họ nhận ngay,
không cần bắt thi nữa.
Anh nói một câu, được người Tây đen gác cổng cho vào ngay.
Anh còn ngơ ngác tìm phòng giám đốc thì gặp một người Tây đi qua mặt, và người
này trừng trừng nhìn anh. Phúc ta liền vái chào, nói ngay cái trường hợp của
mình. Đáng lẽ cho anh biết phòng ông chủ ở chỗ nào, người Tây ấy gọi to:
- Sang! Sang!
Từ cái buồng gần đấy bỗng có tiếng đáp: "Me-xừ" rồi
thấy một người to béo, mặt mũi phương phi, chạy vội ra. Anh Phúc đoán: hẳn đó
là một tay thế lực trong sở. Người Tây trỏ Phúc, bảo người thế lực ấy đại khái:
"Hỏi cái thằng cha kia xem nó muốn xin cái gì. Nó nói lăng nhăng những gì,
tôi không hiểu gì cả… " Rồi người Tây bỏ đấy ra đi ngoài cửa làm cho một
con chó khổng lồ từ bên trong sở cũng nhẩy bổ ra, chạy theo. Nếu là người tinh
ý một chút Phúc phải biết ngay rằng ông chủ hãng chính là người Tây ấy.
- Cái gì? Hỏi cái gì thế.
Phúc ấp úng, nghĩ ngợi rồi đáp:
- Tôi muốn được vào ông chủ …
Tức thì ông kia phật ý như một người to tát mà phải gặp một kẻ
ngu dại không biết mình là ai:
- Ông chủ! Không phải ai cũng vào ông chủ dễ đến thế được!
Đến bây giờ Phúc mới để ý. Anh vội sửa chữa sự sơ xuất của
mình:
- Thưa ông, xin lỗi ông… ông có làm ơn cho tôi vào thẳng ông
chủ.
Ông kia tặc lưỡi, lừ mắt, quát:
- Thì ông chủ, ông ấy vừa đi ra đấy! Hỏi gì? Ông chủ kêu rằng
anh nói gì, ông ấy không hiểu, nên ông ấy gọi tôi ra xem sao đây!
Rồi trông thấy cái đơn trong tay Phúc, ông ấy giơ tay ra:
- Đưa đây xem! Xin gì, cứ đưa đơn đây!
Phúc thở dài đưa đơn, biết rằng thế là hỏng việc.
Anh đã thừa rõ cái lối dìm của những ông ký cựu có thế lực
trong những sở, mỗi khi thấy ai muốn xin vào làm. Cái trường hợp của anh là phải
vào thẳng được ông chủ, nếu không thì là toi công thảo đơn. Mà quả vậy, vì ông kia
đọc qua loa rồi đưa trả ngay Phúc.
- Quá hạn rồi, không chấp đơn nữa.
Phúc còn cố nói:
- Thưa ông, mới quá một ngày…
- Quá một giờ thôi người ta cũng không nhận nữa. Thôi đi về.
Phúc ta trơ trẽn, ngượng ngùng, đỏ mặt lên, toan cố hỏi một
điều nữa nhưng phải thôi, bẽn lẽn đi ra. Nhưng ra tới ngoài hè, anh lại trông
thấy ông chủ hãng lúc ấy đương miệng thì huýt còi, tay thì giơ cao lên ra hiệu
cho con chó khổng lồ phải nhảy lên liếm cái bàn tay. Phúc tự hỏi: "Hay ta
lại cứ cố nài xin một lần cuối cùng nữa? Nhục, thì còn sợ gì nhục nữa, nếu cái
nghề mà ta xin, tự nó nó cũng đủ là một cái nhục rồi!" Anh bèn đứng lại xa
xa phía sau lưng người Tây. Và anh được xem làm phúc cái trò dạy chó chồm lên
rõ cao, chắc là phải để con vật quen đi, khi gặp trộm, nó có thể nhẩy lên cắn cổ
được kẻ trộm.
Hai mươi phút trôi qua như thế, ông chủ hãng xe hơi mới chịu
thôi cho, đút tay vào quần để lững thững đi vào. Phúc ta cầm chắc lấy tất cả
cái can đảm của mình vào hai tay vái một cái, quả quyết tiến đến, không nói gì
cả, đưa lá đơn lên. Người Tây cầm lá đơn một cách bất đắc dĩ, thì chưa chi con
chó đã xông vào mặt Phúc mà sủa om lên, hình như không muốn cho ai làm mất thời
giờ của chủ nó. Thành thử người Tây đáng lẽ đọc đơn, lại phải mắng con chó của
mình một cách rất vất vả, vì mãi nó mới chịu thôi cắn và chạy vào. Thế mới biết
rằng mọi sự may rủi của con người ta ở đời đều mong manh như treo dưới một sợi
tóc, vì ông chủ kia, mắt mặt hầm hầm vì giận con chó khó dạy, chỉ đọc qua đơn của
Phúc rồi đưa trả ngay. Phúc mới kịp nói một tiếng "Monsteur"… thì ông
chủ ấy vứt lá đơn xuống đất, để mà gắt to:
- Mais foutez-moi la paix! (đừng làm rộn).
Phúc ta cúi xuống nhặt tờ giấy cuộn tròn vô duyên. Anh không
dám nhìn lại sau lưng nữa, chỉ lủi thủi đi mất. Sang tới bên kia hè, anh mới
quay lại, và thấy người Tây đứng khoanh tay nhìn theo anh, không rõ với cảm tưởng
gì trong đầu. Phúc dừng chân, thỉnh thoảng lại quay đầu lại với cái hy vọng được
người Tây thương tình, đổi ý, mà vẫn gọi mình trở lại chăng. Nhưng đến lúc anh
nhìn lại lần thứ tư, thì người Tây cũng xo vai, vào hẳn trong sở.
Phúc vừa đi vừa xé tan lá đơn thành một nghìn, một vạn mảnh vụn,
vứt xuống đất, nhìn những mảnh ấy bay theo gió. Anh đã lên tới cái đỉnh chót
vót của thất vọng, và thấy mình chóng mặt. Nếu anh cứ bị bó buộc ngất ngưởng
mãi trên cái sự cao thượng như thế, ắt có lúc sẽ té đau. Trèo cao ngã đau, xưa
nay anh trèo quá, và cái ngã này, anh thấy đau quá.
Nhưng thế, liệu đã hết chưa? Không rồi anh còn ngã nữa cho mà
xem, dẫu rằng hiện nay, anh đã từ cái cây cao thượng không tên kia mà tụt xuống
rồi, chứ phải đâu là còn dám trèo lên nữa! Phúc rùng mình. Anh thấy hình như chỉ
có cái sự này đáng gọi là chân lý: nghĩa là làm người thì không ai khác được,
và chẳng một ai là có thể được sống theo ý mình muốn. Anh đã mơ mộng đã điên rồ,
thì từ nay trở đi, anh sẽ biết cánh châm chước mình vào tới hoàn cảnh thuận tiện,
thế thôi. Đi xin việc không được việc, thế cũng chỉ là thường. Nếu bảo vậy là
nhục thì ở đời này còn chán vạn những việc đã nhục hơn thế, và vào những việc xấu
xa hơn thế.
Và sở dĩ Phúc kết luận như vậy là vì từ trong thâm tâm của
anh, anh đã bắt đầu cảm thấy nguy hiểm của tương lai, những ngày mưa gió, thiếu
thốn, nheo nhóc, mà anh đã mục đích ở những gia đình khác, nó làm cho anh lo sợ,
bỗng dưng mà giật mình đánh thót một cái, tưởng chừng như con ma nghèo khổ đã đến
gõ vào cửa phòng mình vậy.
Trông thấy một bà lão già và ba đứa trẻ rách rưới đương khom
lưng nhặt lá hàng hai bên vỉa hè, anh gật đầu, tự nhủ: "Thật thế, phải đề
phòng mùa đông… Đến con kiến cũng biết tha lâu đầy tổ, phòng xa những cảnh cơ
hàn, cớ sao ta là người, ta chẳng biết đi kiếm tiền, dẫu là không cần ngay thì
cũng để dành một chỗ?" Với những tư tưởng thực tế ấy, thế là chương trình
đi tìm việc mà anh đã phác họa, anh chẳng bỏ dở nó đâu.
Không phải ở Hà thành chỉ có một hãng ô tô ấy.
Cũng như trong đời anh chẳng phải chỉ có một ngày hôm nay.
Chẳng bữa nay thì bữa mai, chẳng chỗ này thì chỗ khác, vũ trụ
còn để thừa nhiều… Giời sinh voi sinh cỏ, hơi đâu mà lo việc man năm! Vả lại,
nghĩ cho cùng nào có ai chết?
Anh định về nhà nghỉ. Thế rồi - Ôi mâu thuẫn! Ngay đêm ấy,
anh để đèn ngồi viết cái bài đại luận ấy, cái bài báo ghê gớm mà tiên đề là
"Sự phá sản của đạo đức" với tất cả tấm lòng hăng hái, sốt sắng và
thành thực mà một người thành thực nhất đời có thể có được. Thật thế, tuy anh
đương là kẻ chẳng có một địa vị cực kỳ cao thượng song chưa ai biết, mà khi ngồi
viết bài ấy anh cũng biết dùng đến giọng đàn anh của một bậc hiền nhân quân tử
hẳn hoi, tựa hồ như một nhà triết học danh tiếng đã vang lừng khắp cả Âu, Á, để
mạt sát cái trào lưu sùng thượng vật chất, tham vàng bỏ nghĩa, của cả nhân loại,
cái nhân loại mù lòa và nô lệ của những công trình do mình sáng tác ra. Cuối bài,
anh gọi Thượng đế mau mau trị tội mọi người bằng một trận lụt quốc tế như ở thời
ông Noé 1 hay là những đám cháy kinh thiên động địa
như hai nạn thủy tai hủy hoại cả thành Sodome và thành Gomorrhe 2 ! Bài ấy thật là một thiên hùng biện. Tác
giả nó đã có cái giọng kẻ cả viết sấm truyền cửa các nhà tiên tri, và những câu
văn thì thực có cái ý vị chua chát, khinh đời vô cùng. Tưởng chừng như giả dụ
ký những tên như Cô Hồng Minh, Lương Khải Siêu, Romain Rolland, Duhaniel 3 dưới bài văn kiệt tác ấy, có khi thiên hạ
cũng phải tưởng thật.
Viết xong bài, tư vấn lương tâm, Phúc cho rằng hai việc làm của
anh hôm nay chẳng có gì mâu thuẫn nhau.
Trái hẳn lại nữa! Bởi lẽ anh đã bị cái trào lưu khốn nạn của
đại đa số xô đẩy, cũng phải vác đơn đi xin việc làm như những kẻ rất tầm thường,
cho nên anh tự cho phép mình được viết một bài tỏ lòng phẫn uất như thế, và anh
được phép hơn cả ai ai nữa. Nếu anh không thất bại một cách nhục nhã trong sự
tìm sinh kế như vậy, thì anh lại không có cái quyền phẫn uất như thế nữa. Anh
chỉ quên không căn vặn mình rằng nếu được người ta chấp nhận đơn, thì chẳng hay
anh có còn khinh bỉ cả nhân loại đến không.
Hôm sau, anh ung dung đến Đông Phương nhật báo. Khác hẳn những
lần trước chỉ bỏ bài vào thùng thơ của nhà báo rồi ra về một cách nhũn nhặn, lần
này anh đòi vào thăm ông giám đốc hoặc ông chủ bút để trao bài tận tay. Không
danh thiếp, anh phải viết tên và một mẫu giấy mà người tùy phái nhà báo đưa ra.
Thì anh được vào ngay thức khắc.
Người ta tiếp anh cũng khá long trọng và cảm tưởng đầu tiên của
anh khi vào tòa soạn một báo quán, là thấy nghề viết báo cao thượng lắm, làm
cho anh phải ao ước được bước vào con đường công danh khẳng khái ấy. Trông thấy
những núi báo chí trên cái bàn rộng, những địa đồ trên tường, những cuốn từ vựng
khổng lồ trong các tủ, và ống điện thoại, và máy đánh chữ, và hòm vô tuyến truyền
thanh, lại nghe tiếng máy in chạy sầm sầm ngay cạnh đó, lại hoa mắt lên vì sự
hoạt động chạy đi chạy lại của các biên tập viên và loong toong, anh vui vẻ tự
hỏi: "Ừ, còn nghề gì danh giá và anh hùng bằng nghề thông tin và giáo hóa
cho quốc dân, mà lại bởi những phương tiện đáo để như chửi bới Hiler,
Mussolini, công kích hết thảy những ai là to tát, từ dân chí quan, ai ai cũng
có thể bị nói mỉa, bị nói nghiến, cho chí quan Thống sứ, cho chí quan Toàn quyền?"
Bỗng dưng anh thấy ngượng nghịu, lúng túng, sợ sệt, trước mặt mấy nhà văn sĩ mà
anh vẫn nghe danh, mà bây giờ anh mới được đối diện, những người mà anh vẫn coi
như là phục anh lắm, như vậy mới danh giá cho anh chứ!
Ông chủ bút, một người má hõm, vai xo, mắt lờ đờ, trông như
là nghiện thuốc phiện - đừng láo! chắc hẳn vì làm cái nghề hao tổn tinh thần,
lo việc quốc gia, xã hội cả đêm cho nên, mới có hình dung tiều tụy ấy, trịnh trọng
nói với Phúc:
- Văn của tiên sinh khá lắm… ý kiến bao giờ cũng đặc sắc, tỏ
ra người độc lập không đời nào khuynh theo những thị dục của thế nhân, thật
chúng tôi rất hân hạnh được một người bạn như tiên sinh đó.
Phúc cung kính thưa:
- Bẩm, những bài trào phúng hằng ngày mà ngài ký tên là Mặt
Giăng, tôi đọc cũng thấy làm kính phục lắm.
Văn sĩ Mặt Giăng điềm nhiên đưa ra gói thuốc lá Hồng mai cho
Phúc, rồi gọi mấy người khác:
- Này các anh, hãy để đấy đã. Đây là Nguyễn Văn Phúc tiên
sinh, tác giả những bài luận mà chúng ta vẫn hết sức khen…
Mấy người kia đến gần Phúc, để cho anh biết rằng đó là những
tay bình bút trứ danh như: Ngọn Đèn Ló, Bất Tuyệt, Thiên Lôi, Bút Thép, và Hu
Hu tức Hi Hi.
Sau cuộc giới thiệu, bắt tay, người ta ngồi hội họp nhau để
nhã nhặn ca tụng lẫn nhau là những vị thần thánh bất khả xâm phạm, đến nỗi Phúc
dám tưởng chính anh cũng đã thạo nghề rồi.
Mãi đến lúc này, Phúc mới rút trong túi đưa ra bài văn. Anh
ngửa cổ tự do vào thành ghế, bắt chân chữ ngũ rõ cao tuy chưa để hẳn lên bàn,
vì anh không còn thấy ngượng nghịu gì nữa, cho rằng chỉ trong chỗ các nhà văn
thanh khí lẽ hằng với nhau rồi là mới hiểu nổi cái chân giá trị của anh, mặc dầu
cái khăn lượt gián nhấm, mặc dầu cái áo the ba chỉ đã bạc mầu ở hai vai.
- Sự phá sản của đạo đức!
- Ái chà! Cái tít 4 ấy hệ trọng lắm đó!
- Phải, bài của ông Phúc, bao giờ cũng đặc sắc…
- Đọc đi cùng nghe! Đọc đi, mày!
- Tiên sinh cho phép nhé?
Vừa lúc ấy có một người thô lỗ, to béo, kính trắng, răng đen,
trông như ông chủ hiệu thợ may tây, hớt hải chạy vào. Văn sĩ Mặt Giăng giới thiệu:
- Trần Học Hải, bản báo chủ nhiệm… ông Nguyễn Văn Phúc, bạn
thân của tòa soạn.
Sau khi cúi đầu chào và bắt tay Phúc, ông chủ báo cũng ngồi
xuống ghế, ngửa mặt ra trịnh trọng nghe.
Nhà văn Bút Thép, đọc bài "Sự phá sản của đạo đức"
bằng giọng lè nhè như sự đạo đức phá sản… Tuy vậy, những ý kiến lạ lùng, cách
hành văn tha thiết của Phúc cũng vẫn đắc thắng một cách rõ rệt, vì sau mười lăm
phút nghe đọc, ai cũng gật gù tấm tắc khen ngợi.
Ông Thiên Lôi phê bình:
- Đến Gandhi thì cũng chỉ viết hay được đến thế!
Ông chủ nhiệm nói rõ hơn:
- Ông thật là người có biệt tài. Để đăng trang nhất.
Rồi mời Phúc một điếu thuốc cũng hiệu Hồng mai, và gọi rót nước
ầm lên.
Sướng quá, Phúc chẳng biết nói gì để đáp sự khen lao công cộng
đó.
Bữa ấy, anh đã ngồi nói chuyện chính trị, thế giới, văn
chương với các ông nhà văn mãi đến lúc họ lấy mũ ra về.
Anh lại muốn ra về vườn hoa. Sự học hành của anh bấy lâu nay
chẳng phải vô ích cho sinh kế của anh đâu; ai dám bảo là bây giờ anh không có
hy vọng trở nên một nhà viết báo xuất sẳc, và được mời ngay vào làm cho Đông
Phương nhật báo? Rồi mà xem! Những người ngu dốt vẫn công kích anh là gàn xưa
nay! Anh cũng sẽ kiếm ra tiền, mà không phải làm nghề thầy ký, mà sẽ làm một
nghề cao thượng, danh giá, anh hùng bướng bỉnh bênh vực dân nghèo, công kích
chính phủ!
Được cái men hy vọng giúp cho anh say xưa một cách đầy thi vị,
Phúc tự hỏi một cách ngạc nhiên: "Quái sao ta cứ tưởng muốn giữ cho cao
thượng ắt không được làm nghề gì? Sao đến bây giờ ta mới nghĩ đến nghề viết
báo, ấy là xem chừng thì chỉ nghề văn, nghề báo là hợp với tâm hồn ta mà thôi?
Lạ thật! Lạ thật!".
° ° °
Chưa chi, anh đã thấy mình đến cái chốn công viên yêu quý xưa
nay. Người phu lục lộ chạy đến ngay, lễ phép nói:
- Bẩm lạy cậu, con chờ cậu mãi…
- Gì nữa thế?
- Bẩm… con trả nợ cậu và cảm ơn cậu lần nữa. Thật là nhờ cậu,
gia đình con mới yên.
- Có gì mà kể ân với nghĩa!
Người phu lục lộ đâm ra văn chương:
- Bẩm cậu, thời xưa, bát cơm Siếu mẫu 5 đáp ơn nghìn vàng nữa là! Con chưa có gì
đáp ơn, nhưng thôi, hãy cứ trả nợ cậu sòng phẳng.
Cầm đồng bạc, Phúc nghĩ đến Tấn, tự hỏi bao giờ mình mới sòng
phẳng được với bạn để cho khỏi thẹn thầm với người phu áo rách, nhất là khi làm
ơn cho mình, bạn còn cho mình được dịp hưởng "của người phúc ta".
Nghĩ đến sự nói dối bạn, anh liên tưởng tới cuộc xổ số mà anh đã mơ màng vào
cái đêm nằm dưới xóm. Anh quyết định: "sẵn tiền đây, ta phải mua vé số
ngay mới xong! Không mua ngay thì hỏng, vì ta hay quên lắm…"
Tức thì anh từ giã người phu.
Và chỉ mới đến trước tòa Đốc lý, anh đã gặp ngay một người
đàn bà bán vé số với một cái bàn nhỏ. Anh đặt ngay tiền lên mặt bàn rất mạnh mà
rằng:
- Tùy bà lựa chọn hộ đấy, cứ cái nào sẽ trúng mười vạn thì bà
xé cho tôi!
Người đàn bà cười và từ chối:
- Thôi ạ! Để ông xé lấy, vì sợ tôi không xé trúng cái vé quý
báu ấy đâu ạ?
Phúc nhắm mắt lại, giở tập vé số rồi rứt ra một cái.
Anh đã nhớ: Thần Tài vốn mù lòa 6 . Đã đánh bạc mà còn kén chọn số này, số
khác, anh cho thế là chẳng hiểu sự đời may rủi là chi. Và anh bỗng có một cái cảm
giác rất lạ lùng, là rồi anh sẽ trúng số.
Tức thì anh nghĩ đến sự về ngay nhà để lấy bút mực đề rõ tên
mình vào lưng cái vé, đề phòng sự đánh mất, hoặc mọi sự hiểm nghèo có thể xẩy
ra. Anh chợt nhớ rằng bác phu lục lộ đoán tướng mạo anh, và cam đoan là anh sau
này phải có bạc vạn. Nếu sự ấy sẽ đúng, trừ phi trúng số thì thôi, chứ còn cách
gì? Nếu đúng thật như lời đoán, anh quyết nguyện sẽ cho người phu tinh đời ấy một
số tiền rất to!
Trên con đường về nhà, anh đi ung dung nhẹ nhõm thấy thân thể
như cường tráng hơn mọi buổi, anh sung sướng như một thiếu niên mới bước chân
trên đường đời, chưa hề bị một thất bại nào đầu độc.
Anh định về nhà thì viết ngay một lá thơ cho ông chủ báo để đả
động đến quyền lợi của mình. Nếu người ta không mời ngay anh giúp việc - điều ấy
anh chưa hề dám hy vọng, thì người ta có thể đền bù công lao của anh bằng một số
tiền nhuận bút cỏn con. Phải thế không, họa chăng sự đời mới có nghĩa lý chứ?
"Con có khóc, mẹ mới cho bú" nếu bấy nay họ chẳng đả động tới số tiền
nhuận bút của anh, có lẽ chỉ bởi cớ anh không nói gì. Và có lẽ họ còn sợ rằng nếu
trả tiền anh tức là khinh bỉ anh cũng nên. "Thế thật, có thể họ tưởng mình
không cần gì đến tiền được lắm chứ? Nhưng thôi thôi, xin các ông, các ông nghĩ
cho, ai lại không cần tiền!" Thế là anh đã dám có một hy vọng rõ rệt vì
xưa nay anh vẫn nghe phong thanh rằng mỗi bài báo thì cứ tính chẻ hoe ba xu một
dòng như vậy, anh có thể được nhận của nhà báo một số tiền khá to nữa vì bài
báo của anh họ cũng đã đăng lên cột nhất trang nhất hẳn hoi.
Nhưng về đến nhà, anh không được ngồi ngay vào bàn viết thư. Ở
nhà quê, có ông Đối là người bác đồng tông với anh vừa ra chơi. Anh phải tiếp
chuyện ông ta, vì gia đình, anh để mặc ông ngồi ôm gối trên một cái phản gần
nhà bếp.
Xưa nay, Phúc rất có cảm tình với ông Đối.
Anh không bao giờ quên những thời gian sung sướng mà anh đã sống
với ông bác nghèo rất đáng yêu ấy, thuở bé, vào mấy vụ nghỉ hè. Ông Đối chiêu
đãi anh hết sức, anh muốn gì cũng đã được cả.
Ông Đối đã chặt một cây tre già nhất hàng rào của ông để uốn
cung và vót tên cho Phúc đi bắn chim. Ông lại làm cả diều, cả cần câu cho cháu
có thêm cách giải trí. Những khi đi bắn chim, đi câu, đi thả diều về vừa nhọc vừa
đói, thế nào Phúc cũng biết trước rằng bác Đối đã làm cho mình một món gì ăn rất
ngon. Nhờ những bữa nghỉ hè ở nhà quê, Phúc được biết giá trị của cua muối,
canh cua nấu bánh đa, óc đậu, bánh đúc nậm, những thứ mà Hà Thành không biết
làm cho ngon mà ăn. Nhất là con niêng niễng mà bác Đối bắt được ở ngoài đồng
đem về rang lên để phần anh hằng bát, thì anh đã ăn với cái thứ nước bọt của những
nhà sư được ăn vụng thịt chó.
Bây giờ thì ông Đối nghèo rồi. Ba năm úng thủy liền, lại một
năm đại hạn, cộng với một năm nữa có nạn dịch trâu bò, đã làm cho người nông
dân trung lưu tụt xuống cái vũng bùn lầy vô sản. Phúc còn nhớ rằng xưa kia, mặt
mũi ông Đối cũng dễ coi, sáng sủa, nếu không gọi là phương phi hẳn hoi. Xưa
kia, thỉnh thoảng ông ra tỉnh với cái áo the mới, và đôi giầy Gia Định đóng
đanh tre, cài ở cái thắt lưng mầu hoa hiên… Bây giờ mặt mũi ông trông gớm chết,
hai mắt hóa ra toét nhèm, hai má hõm lại như hai lỗ đáo, và có điều lạ lùng nhất,
không ai hiểu được là xưa kia hai hàm răng ông đều đặn hẳn hoi, thì bây giờ hốt
nhiên vẫn tướng mãi ra! Đến nỗi mồm ông lúc nào cũng há hốc mà hình như muốn
mím môi lại thì khó khăn lắm. Đến quần áo ông nữa mới lại thảm hại… Cái áo cánh
nâu, cái quần nâu mà vá cả vải thâm, cả vải trắng, thật là đeo giây buộc giúm,
khâu trùm giá lớp mà vẫn lôi thôi lốc thốc, rách rưới quá một thằng ăn mày.
Chỉ duy cái mũ trên đầu là lành lặn, nhưng đó lại là cái mũ
chào mào không biết ông nhặt được ở đâu cho nên sự vôi tội của cái mũ làm cho
quần áo ông lại tiều tụy hơn, và làm cho cả người ông thành ra ngợm, không ra
cái quái gì nữa! Từ khi ông Đối mặc áo rách, ông ra tỉnh với em ít hơn, cũng
như từ đấy Phúc cũng ít được dịp về quê. Và nhiều khi bác ra chơi thì cháu lại
đi vắng.
Trông thấy bác, Phúc vui vẻ hỏi:
- Bác mới ra đấy à, lạy bác!
Ông bác nghèo giật mình đánh thót một cái có lẽ ngạc nhiên ở
chỗ sao thằng cháu con ông em giàu có lại còn chào mình, ông đương ngồi mà luống
cuống đứng lên, chắp hai tay lại, tuy chưa vái rạp:
- À vâng! Ấy kìa anh… Lâu lắm bác mới lại gặp, vì mấy lần ra
anh đi chơi vắng cả.
Phúc ngạc nhiên ở chỗ bố mẹ mình sao lại có thể để một mình
ông anh họ đồng tông ngồi suông một mình dưới bếp thế được.
Anh bảo:
- Bác ơi, bác lên trên nhà đi.
- Thôi được, sợ có khách khứa…
Mãi Phúc mới mời nổi ông Đối lên được cái gác riêng của anh,
Phúc cảm thấy một mối buồn nó làm cho anh tưởng chừng như đến khô héo cả ruột
gan, khi thấy người ta nhàn bần khí đoản đến như thế. Thật vậy, bây giờ giữa
anh và người bác thân yêu ấy đã có một hàng rào khó vượt rồi, mà chỉ vì nhà anh
còn đủ ăn, và gia đình người bác thì đói, thế thôi. Anh ta thấy muốn khinh bỉ bố
mẹ lắm. Một lần nữa, anh lại thấy anh cần phải giầu, vì nếu anh chỉ cứ thế mãi,
thì mặc dầu những cảm tình của anh với ông Đối là tha thiết đến bậc nào đi nữa,
anh ta, kỳ chung cũng vẫn chỉ là ích kỷ, ấy nếu không biết che đậy cái ích kỷ ấy
bằng những lời an ủi hão, thương miệng thương môi suông.
- Bác ra từ bao giờ?
- Từ mười giờ ạ.
- Thế thầy đẻ cháu đã mời bác xơi cơm chưa?
- Dạ, tôi đã ăn ở nhà quê rồi ạ.
Câu đáp ấy đủ tỏ cho Phúc biết rằng bố mẹ mình tệ đến nỗi
không buồn thí cho ông ấy nổi lấy bữa cơm. Anh to tiếng gọi thằng ở, bảo nó đi
mua hai bát phở để mình ăn một bát cho người bác cũng dám ăn, tuy anh không
đói. Trông thấy ông Đối ăn nhanh đến thế, anh mới đoán chắc rằng có lẽ ông ta từ
sáng chưa có hột nào trong bụng đâu! Anh chợt nhớ ngay: một lần, mẹ anh đã nhăn
mặt khẽ nói với bố anh, cách đây ba năm, rằng chính ông Đối đã lên tỉnh lỵ Hưng
Yên hành khất chi đó, và bố mẹ anh không những chẳng động tâm thương hại chút
nào, lại còn coi sự ấy là nhục nhã cho tổ tiên, với làng nước. Phúc đau đớn
nghĩ: "Có thể chính bây giờ ông ấy cũng vẫn đi ăn mày, nhưng mà giấu giếm
mình, cũng chưa biết chừng!". Rồi Phúc nghĩ đến những bữa cơm có canh cua
nấu bánh đa khi xưa, ngon lành mà bác cháu vui vẻ có nhau… Thế là anh thấy ứa
nước mắt ra, và phải vội nói ngay:
- Chết chửa, bát phở nó cho nhiều ớt đến thế! Bác xơi bát nữa
nhé?
- Dạ thôi ạ, cảm ơn anh.
Phúc sai đầy tớ đi mua nữa, và bát thứ hai, ông Đối cũng
không từ chối. Cái đói của người bác ấy hiển nhiên lắm rồi.
- Bác ở chơi đây với cháu lâu nhé?
- Dạ, bẩm thôi ạ, có được việc thì tôi phải về ngay.
- Cái gì? Bác vội gì thế?
- Dạ thằng Tẹo nó đi chăn trâu thuê, chẳng may bị con trâu nó
nguẩy đầu đuổi ruồi, thành thử cái sừng nó đâm nát cả một bên vế đùi thằng bé.
Ông Đối nói thế một cách rất bình tĩnh, thản nhiên, hình thư
thuật chuyện một con gà bị vụt què chân mà thôi.
Phúc trợn mắt hỏi:
- Chết! Thế sao bây giờ bác mới nói! Sao sự can hệ thế mà bác
lại đợi tôi phải hỏi bác mới nói?
- Dạ, có dăm hào thôi thì đi lấy thuốc trên Cổ Loa, thì cũng
có thể khỏi què được.
- Mà thiếu dăm hào thì… là què suốt đời?
- Dạ, vâng.
- Anh Tẹo là em út con út của bác đấy à?
- Bẩm vâng.
- Tội nghiệp! Thế tiền xe từ đây đến Cổ Loa rồi từ Cổ Loa về
quê nhà ta thì độ bao nhiêu?
- Dạ! Thôi để đi bộ, chứ tôi còn đi xe để làm gì.
- Đi bộ thì lâu quá, sợ anh ấy đau nặng thêm ra.
- Dạ cũng tạm rịt thuốc lá cho nó rồi. Nghĩa là có thuốc kia
cái gân nó liền lại, khỏi sợ què. Chưa quá mười ngày, thì vẫn còn chữa được.
- Thế thầy đẻ cháu giúp bác số tiền ấy chưa?
Mãi ông Đối mới buồn rầu đáp:
- Ông Phán nhà ta thì bảo tôi đợi bà về, vì bà đi lễ vắng.
Nghe thế Phúc thở dài. Anh rất lấy làm phục cho cái tinh thần
nữ quyền ở gia đình anh. Khốn nạn, đối với một người anh họ dăm hào hay đồng bạc,
vật thử có đáng là bao, vậy mà bố anh cũng không dám tự quyết phải chờ hỏi vợ
đã! Anh tức giận nói lầm bầm như nói với thiên hạ: "Cái thằng đàn ông mà
điều gì cũng phải hỏi vợ thì còn làm nên vương tướng đếch gì nữa!" Anh thấy
có thể khinh bố như một đứa con đại bất hiếu, như ta khinh một người dưng nước
lã rất đáng khinh mà chẳng có tội gì với thiên, địa, qủy thần, chỉ là công bình
mà thôi! Muốn cứu chữa sự tồi tệ của bố mình, anh bèn bảo người bác:
- Nếu không vội lắm, thì bác cứ ở trên đến mai. Cháu cũng sắp
có một số tiền tiêu đây, để đưa bác ít nhiều, gọi là giúp đỡ anh ấy chút đỉnh.
Cái mặt buồn thiu của ông Đối sáng sủa ngay lên:
- Dạ… Vâng. Nếu anh thương còn gì bằng.
Phúc trầm ngâm nghĩ ngợi đến cái nguy hiểm của lời mình vừa hứa.
Ừ… Ngộ nhà báo không trả tiền bài anh thì sao? Anh đã dám chắc đến thế ư? Chuyện
đời đã ghi rằng bát cơm bưng đến tận miệng rồi, có khi cũng vẫn còn là chưa chắc.
Nhưng anh lại an ủi ngay anh bằng cách lý luận thế này: "Có hứa bừa đi thế
là phải ta cũng phải cần tiền, dẫu là chỉ cần cho người khác, vì nếu không phải
giữ cái danh dự, thì chẳng mấy khi ta biết thực hành cái thành ngữ "Cố đấm
ăn xôi" đâu! Và vạn bất đắc dĩ, nếu thất bại món ấy thì ta đành lại đấm
lưng thằng Tấn vậy. Thật thế, khi người ta trúng số những bốn nghìn, thì là cốt
để thỉnh thoảng giúp bạn vài ba đồng chứ gì!
Yên trí rồi, anh lại hỏi:
- Thế dạo này, bác làm ăn ra sao?
- Dạ bẩm, đi cấy hái thuê, chả gọi là đủ ăn. Mấy năm thiên
tai có tấc đất nào lại bán ăn tất cả, rồi đã có năm phải đi tha phương cầu thực…
Đến đây, ông Đối ngừng bặt, hậm hực, nuốt nước bọt đánh ực một
cái y như những kẻ bẩn thỉu ho khạc xong là nuốt luôn cả cục đờm của mình.
Chính ra ấy là ông Đối chỉ cố nuốt cái đau đớn của ông mà thôi, và nói
"tha phương cầu thực" là ông muốn nói đi ăn mày, tuy ông không làm
văn.
- Thôi được, bác cứ ở đây một vài hôm chờ tôi, thế nào bác
cũng có tiền.
Ông Đối trù trừ hồi lâu rồi đáp:
- Sợ phiền ông bà quá.
- Không! Đừng sợ! Ấy là tại bác cứ tưởng thế đấy.
Rồi tức khắc anh ngồi vào bàn để viết cái thư tống tiền. Anh
cho dùng giấy bút là thượng sách, chứ đối diện với nhau, cái chuyện tiền nong vẫn
là khó nói lắm. Đằng này, trên mặt giấy anh tha hồ tự do… Và anh đã khiến ngòi
bút khéo léo lắm cái thư tống tiền ấy cũng lại là một thiên hùng biện nốt.
Lúc đọc lại lá thơ, anh rất bằng lòng anh đến bậc sung sướng
anh nói với ông bác thế này:
- Bác ạ, chính là vì bác mà tôi sẽ có số tiền đó.
Ông Đối ngẩn mặt ra, hỏi:
- Dạ? Anh dạy thế nào ạ?
Biết ông ấy không thể hiểu được , Phúc chỉ đáp:
- Thôi, không có gì, bác nằm đấy mà nghỉ.
Rồi anh gọi thằng nhỏ lên bảo nó đem thư đến nhà báo, và đợi
trả lời nữa, nếu người ta trả lời ngay.
Xong đâu đấy rồi, anh mới cắt nghĩa:
- Lúc này, cháu muốn nói thế này: Nghĩa là muốn giúp đỡ bác
mà cháu mới gửi thư hỏi tiền người ta, và cái thư ấy, cháu viết khéo lắm. Nếu
bác được cháu giúp tiền, ấy là nhờ ở bác, mà bác vô tình lại còn làm ơn cho
cháu nữa.
Nói rồi, anh phải buông xuôi hai tay để thất vọng, vì những lời
lẽ văn hoa ý tứ ấy chỉ làm cho ông Đối phô mãi hai hàm răng vẩu ra ngoài mà
thôi.
Chợt thấy có tiếng mẹ gọi anh:
- Phúc! Phúc! Anh Phúc trên gác đấy phỏng?
Ông Đối chắp tay đứng ngay lên, như bà em đã lên tới gác rồi.
Phúc quay lại:
- Ấy, để tôi xuống đã, bác hãy cứ ngồi yên đây.
Anh tưởng có sự gì, nhưng đến lúc xuống rồi, thì bà mẹ anh chỉ
lấm lét nhìn lên, rồi vẫy anh ra tận ngoài cửa để khẽ hỏi:
- Này, lại bố Đối ở trên đấy phỏng?
Thoạt đầu, muốn rõ bụng mẹ, Phúc chỉ đáp gọn:
- Vâng.
Bà cụ chép miệng rồi than thở:
- Rõ thật cái tội cái nợ. Dễ thường mình nợ tiền kiếp ông ấy
chắc! Lại ra nã tiền đấy chứ gì?
Muốn trêu tức mẹ. Phúc điềm nhiên hỏi:
- Thế thì sao?
Bà mẹ trố mắt, ngạc nhiên, có lẽ tưởng mình nghe nhầm chứ con
mình không nói thế. Thì Phúc lại tiếp:
- Thầy đẻ giầu có thế này, bác ấy nghèo khổ thế, có đến phiền
nhiễu đôi khi thì là thường chứ gì!
Có lẽ đã lộn ruột lắm, nhưng bà mẹ cũng chỉ nói:
- Ôi chà! Của đâu mà lắm thế! Là thường… là thường thế nào được
! Hàng họ ế ẩm thế này!.. . Cho dẫu anh em ruột cũng còn kiến giả nhất phận, nữa
là anh em họ!
Phúc cứ nói thẳng:
- Con thì con cho rằng nếu bác ấy không đến đây xin chu cấp,
thì thầy đẻ còn có bổn phận đi tìm bác ấy để mà đưa tiền nữa!
Bà mẹ lườm, rồi quay đi, cao giọng mắng con:
- Thôi câm đi, đồ ngu, đồ gàn bát sách! Cha mẹ nhà mày, chứ lại
chọc gậy xuống nước với bà à! Nói thì ai chả nói được, có mất cái lông chân nào
đâu!
Một lúc lâu, chừng chưa hả giận, bà mẹ quay lại:
- Đấy, có giỏi thì bố già đấy, bỏ tiền túi ra mà cấp dưỡng! Lại
đại ngôn với bà à? Từ rày thì cứ chừa ngay cái thói của người phúc ta đi.
Tức thì Phúc cũng đứng thẳng người lên, tuyên ngôn đứng đắn,
dõng dạc, như người thông ngôn tòa án nói với dân đi kiện:
- Bẩm vâng! Đẻ không muốn ăn ở cho ra người đại nhân thì
thôi, cứ để đấy cho tôi, rồi tôi, tôi sẽ giúp tiền ông ấy.
Bà mẹ rất ngạc nhiên. Thật thế, anh mà lại có tiền. A! Anh có
công việc làm, hoặc có dịp phát tài gì đó mà còn giữ bí mật, hẳn thế Phúc trông
thấy cả cái phân vân, có lẽ sự bắt đầu hối hận nữa, hiện ra trên mặt bà mẹ anh.
Nhất là vợ anh, ngồi đằng xa kia, thì cứ bắt đầu nhìn trộm anh mãi.
- Bẩm, lạy thím ạ.
Phúc không ngờ rằng mẹ mình lại vui nét mặt tựa hồ như không
có sự gì xảy ra và giả dối vồ vập người anh họ được ngay như thế này:
- A kìa bác, bác mới ra chơi! Gớm, đã lâu lắm mới lại thấy
ông, thế thì ông bận gì thế? Ông ngồi chơi đấy… Tôi vừa đi lễ về. Để tôi vào bếp
một lát rồi tôi ra ngay nhé… Các cháu có ngoan không?
Bà cụ vừa hỏi vừa đi vào, chẳng để cho ông Đối kịp đáp nữa.
Phúc mím môi đứng nhìn theo, lấy làm ghê rợn cho cái sự thơn thớt nói cười của
thế nhân. Anh tự nghĩ: "Một người như thế có là đáng khinh không, cho dẫu
người ấy là mẹ mình". Anh lạ lùng cho anh, sao lại bây giờ mới biết rằng bụng
dạ bà cụ là như thế.
Lúc ấy thằng nhỏ đã trở về. Tay nó có một lá thư. Họ đáp lời
rồi. Nếu không có tiền ngay trong phong bì thì ít ra ắt cũng phải có lời hứa.
Anh mừng rỡ vô cùng, nháy mắt cho ông Đối một cái, bóc cái thư mà quả tim đập rộn,
mà tay run.
Nhưng mặt anh rồi dần dần tái xanh, và từ tái xanh đổi da tái
xám. Nhưng ngực anh mỗi lúc một phập phồng mạnh hơn…
Bởi có cái thơ ấy, nó như thế này:
"Kính ông Nguyễn Văn Phúc!
Chúng tôi đã nhận được thư ông. Muốn ông khỏi tổn công đợi,
nay trả lời ngay. Ông là người cũng biết viết lách qua loa đấy, nhưng ông nhiều
lòng tự ái quá. Nếu chúng tôi chịu khó đăng bài của ông, hoặc khen ngợi ông, ấy
là muốn khuyến khích ông, thế thôi. Nếu ông muốn tập viết thì cứ viết đi rồi
mươi năm nữa, may ra có lẽ cũng viết nổi vài bài sạch sẽ, hợp thời, không gàn dở…
Ông kể công lao ông, ông không biết rằng nhà báo gửi báo biếu ông hàng ngày như
thế, đã là quá phải rồi".
Kính thư,
Trần Học Hải"
Phúc thở dài, nói với ông Đối:
- Thôi hỏng rồi, người ta không sẵn tiền.
Tức thì ông Đối có ngay bộ mặt tên tử tù đã bị kết án tử hình
lúc sắp ra máy chém. Muốn che chở cho lòng tự ái của mình, Phúc lấy ví, dốc hết
tiền ở trong ra bàn tay. Thấy còn hơn tám hào, anh đưa cả:
- Tưởng nếu vay được tiền thì tôi đưa nhiều cho bác, nhưng lại
lỡ. Thôi bác cầm tạm chỗ này vậy, rồi đi ngay đi thôi… Đi ngay kẻo anh ấy đợi,
và lần sau ra chơi, thế nào bác cũng có tiền nữa.
Ông Đối nhận tiền, sung sướng và cũng hiểu cái ý muốn của
Phúc, bèn đáp:
- Vâng, đa tạ anh. Để tôi vào chào bà rồi tôi đi ngay!
Năm phút sau, ông Đối đã ra đi, và còn bị người em dâu đuổi
theo bằng những lời tử tế vuốt đuôi:
- Ơ hay, thì ăn cơm chiều đã chứ bác?
Phúc tiễn người bác ra đến bậu cửa, gượng cười và nói:
- Nếu cháu nhờ giời mà trúng số thì thế nào bác cũng được nhờ!
Và anh tưởng mình nói rất đúng đắn.
--------------------------------
Noé là nhân vật Kinh Thánh của đạo Cơ đốc, vì nhân loại vô
đạo, Chúa gây nạn lụt dìm cả thế gian, diệt hết loài người, chỉ để lại gia
đình Noé để gây lại loài người mới. |
|
Sodome và Gomorrhe là hai thành phố cổ ở xứ Palestin theo
Kinh Thánh thì vì cư dân đồi truỵ, đã bị Chúa cho lửa trời tiêu huỷ, không phải
thuỷ tai huỷ hoại. |
|
Cô Hồng Minh, Lương Khải Siêu là những nhà văn chính luận nổi
tiếng ở Trung Quốc cuối thời Mãn Thanh, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Romain
Rolland (1866-1944) là nhà văn Pháp nổi tiếng về các tiểu thuyết ca tụng chí
kiên cường của con người, không cần đến bạo lực, được giải Nobel 1915.
Goerges Duhaniel (1888-1966) là nhà văn Pháp vừa là Viện sĩ viện Hàn Lâm khoa
học Pháp. |
|
Tít là cái nhan đề nói theo tiếng Pháp titre |
|
Thường đọc là Siếu mẫu, nghĩa là bà già giặt vải, xưa Hàn
Tín (thế kỷ III trước CN) nghèo đi câu, gặp bữa đói quá được bà già giặt vải
cho ăn bát cơm, sau làm tể tướng, đem nghìn lạng vàng đền ơn. |
|
Thần Tài của người Cổ Hy Lạp và La Mã được thể hiện thành một
người đàn bà bay trên một bánh xe có cánh tay cầm một túi vàng, đến đâu rắc
ra đấy, nhưng đôi mắt có băng che kín như người mù. Ý nói rằng của cải đến với
người đời một cách tình cờ may rủi, bất ngờ, bất thường không biết đâu mà lường
được, như người mù đem cho vậy. |
V. NGÀY ĐẦU TRÚNG SỐ
Hai tuần lễ sau…
- Bốn trăm mười tám nghìn, bảy trăm sáu mươi nhăm.
Phúc vừa lẩm bẩm khẽ đọc những con số mà anh đã thuộc lòng tức
là số vé của anh, vừa điềm nhiên bóc tờ Đông Phương nhật báo.
Anh rất lấy làm kinh ngạc, khi thấy trên mặt tờ báo mở rộng,
tất cả sáu con số ấy, đứng theo cái trật tự ấy, dưới dòng chữ ghê gớm này:
Trúng độc đắc mười vạn! Hốt nhiên anh thấy như hoa mắt, như ù tai… Anh tự hỏi:
"Có lẽ nào? Có lẽ nào lại thế được? " Y như một người đứng trước một
sự quái gở nó đã xảy ra, khi tưởng rằng chẳng có đời nào nó lại xảy ra được. Tức
thì anh đứng lên, đem tờ báo theo định lên gác để lấy trong tủ ra cái vé số của
anh, rồi đối chiếu xem mình có nhớ nhầm hay không.
Giữa lúc sắp lên gác, anh gặp vợ anh, nên vội vàng làm cho
nét mặt thản nhiên như không. Vợ anh trông thấy tờ báo, liền hỏi không sốt sắng
mấy:
- A, có báo rồi đấy hả? Thế có trúng số không? Nghe đâu hôm
nay có cuộc xổ số thì phải! Cậu xem xong, tôi mượn một lát nhé! Tôi cũng có mua
một vé.
Anh rất mừng, tuy anh không hiểu vì sao, rằng vợ không để ý kỹ
đến cái tinh thần khác thường của mình, rồi thản nhiên đáp sau một cái tặc lưỡi.
- Mình thì có đời nào lại trúng số được!
Nói xong, anh thấy hối hận vô cùng. Anh biết rằng mình nói thế
có lẽ là phụ cái lòng Giời phù hộ cho mình, vì anh có trúng số thật không, điều
ấy chỉ còn đợi đem vé số ra kiểm lại, thì là chắc chắn. Mà anh đã chắc chắn
chín phần mười rồi! Nếu có còn nghi hoặc, ấy là ghi hoặc cho phải phép cái hạnh
phúc đột ngột mà thôi, chứ xưa nay, thiên kinh vạn quyển cũng vậy, nếu đọc qua
là anh nhớ như chôn trong ruột, huống hồ nay chỉ có sáu con chữ số, mà lại là
chữ số anh đọc nhẩm luôn mồm những lúc nhàn rỗi hy vọng vẩn vơ nữa! Ấy thế mà
anh cũng lo. Anh lo nói phụ thần tài như thế, thì dễ thường những con số ấy nó
sẽ thay đổi đi chăng? Tuy biết lo thế là lẩn thẩn, Phúc cũng cứ lo.
Anh mở tủ, mở hộp, tìm vé số mãi mới thấy, chân tay run bắn
lên như người bắt đầu hành động một tội ác. Đến lúc thấy sáu con số trên cái
vé, ở cả hai khung hai bên, đều đúng với con số trên báo, anh mới dám tin hoàn
toàn. Anh nhịn thở để mong trấn tĩnh cái linh hồn của anh lúc ấy nó lao đao xao
xuyến như một trận bão, anh nhìn trước nhìn sau, lo sợ có ai nhìn thấy mình
chăng, rồi lại anh cất cái tính mệnh của anh vào hộp, bỏ hộp vào tủ, khóa tủ
hai vòng. Cuối cùng anh dấu cái chìa khóa tủ vào một chỗ rất kín đáo, dám chắc
không ai sờ mó tới.
Thế rồi… anh ngồi đờ mặt ra.
Óc anh lúc ấy rối loạn quá, anh không biết biết nghĩ gì nữa,
cũng chẳng biết làm gì nữa. Mà dầu muốn thế nào cũng chẳng được, cả thân thể
anh cứ run lên lật bật, tựa hồ như anh vừa giết người vậy.
Bỗng một ý nghĩ đáng kinh hoàng đến với cái trí não rối loạn
của anh như một tia nắng lọt vào phòng tối. Hay nhà báo đã in nhầm? Anh lại
nhìn vào nhật trình 1 và
thấy con số ấy đều to bằng những ngón tay cái, anh mới thật là yên tâm. Tuy
nhiên anh cũng định cứ xuống cửa mua một tờ báo khác nữa xem cho kỹ lưỡng. Anh
nhớ đến chuyện "thằng ngọng bắt được cái đanh" ngày xưa.
Anh xuống thang bằng những bước rụt rè, chắc chắn, tay nắm
vào bao lơn rất chặt chẽ, chỉ sợ ngã chết. Nhớ khi xưa, lên xuống cũng cái
thang ấy bằng những bước từng ba bực một, anh lại rợn cả người, rồi tự nhủ, thận
trọng thiên kim 2 .
- Này mợ, cho tôi xin ba xu.
Thấy trẻ con đang rao báo như rươi, anh ra bậu cửa gọi:
- Đông Pháp! Đông Pháp!
- Có báo rồi, còn mua báo khác làm gì nữa!
- Cứ đưa tiền đây. Có một tin hệ trọng mà không thấy Đông
Phương nó đăng gì cả.
Vợ anh cố nhiên là lườm anh, rồi mới đưa ra mấy xu, và giật
ngay tờ Đông Phương ở tay anh, hình như có thế mới đỡ thiệt vậy. Mở tờ Đông
Pháp, anh cũng lại thấy dòng số quý hóa này: 418765.
Sướng đến hóa điên, bây giờ thì chắc chắn lắm rồi, anh vui vẻ,
thổn thức gọi vợ để khoe:
- Này mợ này!
Nhưng vợ anh cứ cúi gầm mặt trên tờ báo trải rộng dưới chiếu,
hỏi lại bằng giọng khó chịu:
- Gớm, lại cái gì nữa thế?
Thế là anh tức khắc muốn chém chết ngay con vợ lăng loàn, đồ
khốn nạn, đồ vô giáo dục, đồ ngu có mắt cũng như mù ấy! Anh nén giận, quay đi,
nghĩ bụng: "Nó chẳng đặng hưởng cái sung sướng của mình tí nào. Và anh lại
mừng nữa, cho rằng nếu buột mồm khoe vợ ngay là thất sách lắm.
Anh lại ung dung lên gác, nằm kềnh cái đã. "Mười vạn! Mười
vạn tức là một trăm nghìn… một trăm nghìn đồng bạc! Thế đã là nhiều hay chưa? Số
người có được món tiền ấy, ở nước ta độ là bao nhiêu, chắc là ít lắm? Anh tự hỏi
thế rồi lại giật mình, chỉ sợ số người ấy quả là nhiều lắm.
Phúc ngồi lên, kiếm một mảnh giấy và cái bút chì… "Nào
thử tính kỹ xem nào! Cứ cho là mỗi cái nhà, cả lớn lẫn nhỏ đổ đồng là năm nghìn
bạc một… mười vạn tức là con số một và năm con số không, chia ra với dòng số một
năm và ba con số không. Xem được bao nhiêu nào?… Hai mươi… Có lẽ nào? Hai trăm
chứ? Ồ không, hai mươi thôi, phải chỉ đúng hai mươi thôi!
Anh thở dài, thất vọng một cách rất thành thực. Thế này là
nghĩa lý gì? Mười vạn thì tậu được hai chục nóc nhà là cùng chứ đếch gì? Mà khi
người ta có hai chục nóc nhà thì đã đáng gì gọi là giàu? Bất quá cái nhà tậu
năm nghìn thì cho thuê mỗi tháng chỉ ba chục bạc chứ bao nhiêu? Vậy chỉ thu mỗi
cái một năm ba trăm sáu, và tổng cộng cả hai chục cái cho thuê thì được bảy
trăm nghìn hai chứ bao nhiêu! Chết chửa, thì ra thiên hạ nó ngu nó nhân bần khí
đoản 3 thật
đấy! Cả cơ nghiệp có mười vạn, mỗi năm niên bổng là bảy nghìn hai, thế thôi,
thiên hạ nó đã cho là giàu to rồi. Đấy mà xem rồi chúng nó sẽ kêu la ầm lên, nếu
mình không đem cái của hoạch phát ấy mà vứt bớt đi, thí hồ thí cháo cho chúng!
Thì chúng sẽ dài mồm ra mà chửi mình là ích kỷ, là đểu, là chó! Chỉ chúng nó đi
vay, đi xin, mới là người!
Phúc giận lắm. Anh rất lấy làm căm tức những sự ấy, dẫu là
hãy còn vào lúc mới lo những sự ấy sẽ xẩy ra mà thôi. Anh cho rằng dẫu là trúng
số đi nữa, dẫu là không phải vì bồ hôi nước mắt mà tự nhiên được hưởng mười vạn
đi nữa, thì thiên hạ cũng không có quyền được nói gì vào đấy. Anh trúng số, thế
là lòng giời muốn cho anh giàu là anh rất đáng hưởng phú quý hơn nhiều người
khác, chỉ có thế thôi.
Anh lại nằm dài ra, để tay lên trán nghĩ ngợi, lo sợ…
"Chứ lại gì! Ông đây, ông mà lại không đáng sung sướng hơn chúng mày à?
Ông, ông chưa hề làm một điều gì là tội ác, là ác. Còn chúng mày, sở dĩ mà
giàu, là vì tham lam, lường gạt, ăn cắp, bất nhân! Chúng mày có bất nhân chúng
mày mới giàu! Vậy thì đừng có tưởng ông trúng số là chó ngáp phải ruồi, mà là
không xứng đáng! Trái lại, về nhân phẩm, về học thức, có đứa chúng mày chỉ đáng
xách dép cho ông thôi, ấy là chưa kể từ lúc ông còn hàn vi nữa! Vả lại, hai chục
nóc nhà khốn nạn, có thể gọi được là giàu? Gọi là giàu thì phải thế nào kia chứ,
thì phải bằng ba đời con cháu phá của cũng chẳng hết, thì phải có những gì khả
dĩ gọi là phú gia địch quốc mới được chứ? Ta mà đã là giàu? Giàu giàu giàu
giàu…?"
Anh bĩu mồm vì nhớ rằng chính anh đã mục kích một vài người
xưa kia đã có vài chục nóc nhà, mà bây giờ cũng lại chỉ là người tự tri, biết
phận mình, dẫu mới hai bàn tay không. Anh mừng rằng anh chỉ trúng số mười vạn
mà cũng đã hiểu cái gì là lo xa chứ không ngông rởm, vì rằng mườn vạn, thế cũng
chưa gọi là có sự gì bảo đảm cho tương lai đâu, nhỡ ra thì lại có thể khổ sở,
đói khát lắm được. Thêm nữa, tuy anh sẽ có hai chục nóc nhà, nhưng mà trong
thiên hạ cái số nghiệp chủ có vài chục nóc nhà thì lại hằng hà sa số, nhiều lắm,
nhiều lắm, và số người giàu hơn thế lại cũng nhiều lắm, cho dẫu là ở xã hội Việt
Nam. Như vậy thì anh trông lên cũng chưa bằng ai, và có thể bị nhiều người cậy
của bắt nạt anh được lắm, chứ anh chưa phải là trung tâm điểm của vũ trụ đâu!
Có mười vạn thế chỉ là thường lắm, xoàng lắm, khổ lắm.
Cuối cùng, muốn được yên trí bằng mình hãy còn nghèo, anh cười
nhạt kết luận: "Chứ gì! đến cái lúc nó xuống, thì ốm một trận, hoặc vợ ốm,
con chết hoặc tai nạn, hoặc kiện tụng, hoặc buôn thua bán lỗ, hoặc bị lừa, chỉ
vài ba cái chẳng ra gì nó xảy đến, thì là tay không lại hoàn tay không ngay cho
mà xem! Đừng bặng nhặng vội!
Dẫu rằng những ý kiến của anh lúc ấy toàn là khổ sở, và chán
phèo như thế cả, nhưng tự trong thâm tâm, Phúc cũng không chối được rằng mình
không vui, không sướng. Anh chỉ nhận ra rằng sở dĩ anh đã nghĩ ra đến thế, là
vì anh khôn khoan, thâm trầm, biết nghĩ xa xôi, không rực của không có thói khả
ố của bọn giàu lòi khoe của, cậy tiền, lố lăng, nhặng xị, thế mà thôi. Chứ anh
có thể yên trí ngay từ bây giờ, rằng anh đã thế này rồi, thì anh sẽ giữ được
giàu có mãi mãi, cái lo sợ vu vơ kia chẳng qua là cái nghĩ phòng xa của con người
lỗi lạc. Chứ như anh, có khi nào mà lại nghèo khổ được như mọi người! Nếu thế,
đã chẳng hoạnh phát đến trúng số độc đắc… ắt hẳn cái số phận anh phải là một thứ
số phận quý hóa ghê gớm, ắt là mồ mả tổ tiên kết phát chi đây, hoặc là vì anh bụng
dạ cao thượng hơn đời thì là hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân, thế thôi. Người
phu lục lộ, giữa lúc anh còn hàn vi, đã dám đoán rằng tướng mạo anh là tướng mạo
của người giàu có bạc vạn, như vậy thì hẳn số anh đã giàu thì giàu bền, chẳng
còn sợ cái sự hoạnh tán nữa.
Phúc kéo điếu, hút một hơi thuốc lào thật cực kỳ dài. Anh kéo
dài quá, nên sặc ho, ho mãi. Anh ôm ngực thấy sợ hãi điều gì, sợ hãi lắm, đã muốn
định bỏ ngay thuốc lào từ đấy, kẻo mà ho lao thì chí nguy.
Rồi anh nghĩ đến sự đi lãnh cái vé số ấy. Anh bỗng thấy một mối
lo sợ, phân vân. Anh sẽ một mình đi lãnh số tiền mười vạn ấy chăng? Không phải
nghĩ ngợ xa xôi gì nữa cũng biết, cái việc ấy thì không thể được rồi. Nếu anh
chỉ đi một mình thì người ta sẽ cướp cái vé số của anh, hoặc không phát tiền
cho anh, biết đâu! Phải, biết đâu ở cái thời buổi chẳng ra gì này, sự gì mà
không có thể xảy ra được? Hoặc dẫu chẳng xảy ra sự khó khăn gì trong việc lĩnh
tiền mười vạn, nhưng còn khi đã mang số tiền mười vạn ấy đi ra? Ồ, không! Anh
không có thể dại dột thế được! Thế thì ngu ngốc lắm! Những quân kẻ cướp có súng
lục ngày nay chẳng thiếu gì. Người ta phải đã hoàn toàn mất trí khôn mới có thể
khinh suất như thế được. Vậy thì phải đi lĩnh với ông thân sinh và vợ anh mới
xong.
Phúc thở dài vì biết rằng sẽ không thể nào giấu được xã hội
và gia đình việc mình trúng số độc đắc. Nếu cố giấu giếm có gì nguy hiểm vào
thân… Anh rất tiếc sự ấy, giả dụ anh có thể cứ lĩnh tiền, cứ tậu nhà, cứ hành động
mãi trong bóng tối mà không ai biết là anh đã giàu thì còn khoái biết mấy?
Nhưng mà … Thôi! Đời bây giờ có cái báo chí rầm rĩ và tọc mạch rồi, đã chẳng giấu
được thì thà cứ khoe luôn ngay đi để cho nó ầm ĩ một thể.
Nhưng Phúc lại nghĩ: "Hay là ta cố giấu được ngày nào
hay ngày ấy? Dẫu là trong một vài bữa mà thôi? Để xem bụng dạ thiên hạ đối với
ta như thế nào?" Nghĩ thế xong, Phúc mới lại chợt nhớ ra rằng chẳng cần
bưng bít để thử lòng thiên hạ là chi nữa, thì sự đời xưa nay ra sao, vốn dĩ nó
đã đủ rành rành ra đấy!
Thế nào? Anh mà lại vẫn chưa rõ rằng chính vợ anh cũng vẫn nhờn
anh, còn bố mẹ anh mà khinh bỉ anh, điều ấy đã cố nhiên? Anh mà lại chưa hiểu rằng
anh ruột của anh, ông phán, xưa nay vẫn kính trọng anh gần bằng con chó? Anh mà
lại dám tưởng rằng không ai khinh anh xưa nay?
Phúc cười nhạt, cay đắng, thấy mình quả thật là cũng đáng gọi
là đồ mất trí khôn. Phải những sự thực xưa nay vẫn đã hiển nhiên, nếu mãi đến
nay anh mới biết, ấy là bởi xưa kia anh vẫn mù. Vậy thì chỉ còn cần làm thế nào
cho người ta mau mau biết sợ mình là hơn, và sớm phút nào hay phút ấy.
Phúc xuống thang.
Anh ngồi chễm chệ giữa sập, kéo cái điếu khảm vẫn để bầy trên
tủ chè khảm xuống để cạnh đầu gối. Anh nghĩ không biết nên báo cái tin mừng dữ
dội ấy với bố mẹ như thế nào cho khỏi xảy ra sự gì nguy hiểm : Một tin mừng như
thế đủ cho bố mẹ anh sướng đến chết ngất đi. Rồi anh khoái chí lại kéo một mồi
thuốc lào.
Ông bố lúc ấy vừa đi ra. Ông vừa thay lồng cho con chim sơn
ca xong nên hai tay ông còn ướt át dưới hai cánh tay áo vén lên. Ông nhìn con
ông, ngạc nhiên lắm, vì xưa nay, chỗ ấy vốn không phải chỗ ngồi của chính ông nữa,
và cái điếu khảm thì là để tiếp những bậc thượng khách. Nhưng con ông hỏi ngay
ông thế này:
- Thầy ơi, đẻ con đâu, thầy gọi ra đây đi!
- Có chuyện gì thế?
- Có cái này hay lắm, thầy cứ gọi đi.
Tuy chưa hiểu rõ là chuyện gì, ông cụ cũng đoán chắc hẳn con
ông sắp nói chỉ có thể là tin mừng mà thôi. Ông bèn quay sang gọi to:
- Thằng nhỏ, mời cụ ra cậu hai bảo gì ấy nhé!
Rồi ông cụ ngồi ngay xuống một cái ghế kê gần sập thấp hơn sập
nữa, không hiểu rằng sẽ có một đại sự, cụ bà bước ra đủng đỉnh như cái chĩnh
trôi sông, cụ cũng ngạc nhiên về chỗ ngồi vắt vẻo của con, và cũng im lặng ngồi
xuống ghế, y như cụ ông mà thôi. Thấy mãi ông con cũng không nói gì, hai cụ chỉ
đành đưa mắt nhìn nhau, chứ vẫn chưa dám hỏi!
Phúc tự nghĩ: "Lạ thật! Sao chưa chi ta đã hưởng ngay sự
kính trọng của bố mẹ thế này? Thần Tài có oai đến thế hay sao? Hay là vì miệng
ta vừa mới có gang có thép? Đấy, thì nào ta đã kịp nói gì đâu? Lạ thật?" Rồi
thì, chỉ vì muốn thí nghiệm, cái thứ oai linh vô hình mà có thế lực vạn năng của
kim tiền mới ban cho anh, Phúc lại nói một cách xấc lấc:
- Này thầy, thầy thử trông xem con ngồi chỗ này có xứng đáng
không?
Ông bố, mãi đến lúc ấy, cũng chỉ đáp bằng hai con mắt ngơ
ngác thôi. Ông cụ già lỗi thời này tuy đã đoán rằng con mình hẳn nhờ một nguyên
cớ gì to tát nên mới dám có thái độ và ngôn ngữ khác thường ấy, nhưng ông không
hề nghĩ đến sự trúng số, vì ông cũng chẳng biết rằng hôm nay chính là một ngày
mở sổ xố. Cũng như đa số các cụ phán cỗ đã hưu trí khác, ông không hiểu nổi một
cái tin quốc tế, cho nên chỉ dăm thì mười họa mới ngó đến tờ nhật trình. Vả lại
xưa thấy nói trúng số độc đắc toàn là những người Nam Kỳ và Cao Miên, ông cụ
tin vững ngay rằng đó là một sự đùa nhả của Nhà nước, bịa đặt ra thế để lừa bịp
lũ dân ngu Bắc Kỳ, chứ không dễ ai lại trúng được số mười vạn cả, mặc dầu ông cụ
vẫn là viên chức trung thành lắm.
Thấy mình có lẽ đã quá đáng lắm, Phúc bèn đi dần đến sự tuyên
bố việc trúng số của mình.
- Người ta vẫn bảo: Làm quan có giọng, làm dáng có hình, vậy
thì thầy đẻ trông con liệu chừng có dáng hưởng sự giàu sang hay không?
Bà mẹ không chịu nổi nữa, nói mát:
- Đúng lắm, con ạ, con sắp to nhất nhà rồi!
Vừa đến lúc đã toan đứng lên, mà thấy mẹ nói thế Phúc lại cứ
ngồi nguyên chỗ cũ và tiếp:
- Vâng, đẻ nói thế thì đúng lắm.
Phát cáu, ông bố đứng ngay lên, sừng sộ:
- Cái gì? Hở? Mày to nhất nhà đấy à?
Phúc điềm nhiên hỏi:
- Có phải thế không? Đối với bố mẹ thời bây giờ, và đối với
cái luân lý của xã hội kim thời, thì đứa nào kiếm ra nhiều tiền hơn cả, ấy là
nó to nhất nhà.
Ông bố hỏi một cách phẫn uất:
- Ừ, cho dẫu có thế đi nữa, thì như mày, mày đã làm những mà
bảo là "kiếm ra nhiều tiền hơn cả"? Ừ, thế mày đã nuôi được bố mẹ mày
bữa nào chưa, hay xưa nay vẫn báo hại cơm cha áo mẹ mãi? Mấy hôm thấy ông đơ mặt
không thèm nói, mày lại làm già à? Ông sẽ đánh dập xác mày ra bây giờ đấy!
Phúc mỉm cười:
- Vâng! Vẫn biết từ trước đến nay, con chỉ ăn hại bố mẹ mà
thôi. Con biết thế là con bất hiếu lắm, tuy rằng là con, mà ăn của bố mẹ, khi bố
mẹ vẫn có đủ cho ăn, thì cũng thế gian thường tình lắm. Nhưng mà thầy đẻ đừng
lo nữa; Từ hôm nay mà đi, thì con sẽ là đại hiếu chi tử, có thể hiến thầy đẻ một
cuộc dưỡng lão rất an nhàn, ô tô, nhà lầu, đủ các thứ. Đẻ sẽ tha hồ đánh tổ
tôm, thầy có thể lấy vợ lẽ bao nhiêu cũng được.
Đến đây, ông bố không dám nói gì nữa. Còn bà mẹ, có lẽ tưởng
rằng nhà mình đã đến lúc đổ đốn, hoặc con bà trong những khi đi lang thang các
phố xá, đã trót phóng uế vào gốc cây đa, cây đề nào đó chăng, nên đã bị
"các ngài hành" để bây giờ về nhà hóa điên hóa dại như thế, cho nên
bà lo sợ vô cùng và thất thanh hỏi:
- Phúc ơi, con … con có làm sao không?
Ông bố cũng run sợ hỏi:
- Mày nói thật hay nói đùa thế, hử Phúc?
Phúc cười, bỏ sập đứng lên:
- Chết nỗi! Con lại dám nói đùa như thế à?
Ông bố và bà mẹ lại càng không tin, chỉ biết đưa mắt lo sợ
nhìn nhau thôi. Phúc giơ tay lên dõng dạc:
- Con xin nói để thầy đẻ biết rằng nhà ta hôm nay gặp đại
phúc, nghĩa là con trúng số!
Bố mẹ anh đều thở dài, nhưng mà là cái thở dài sung sướng của
người lúc trước vẫn nhịn thở vì kinh hãi.
Rồi cả hai cùng hỏi:
- Thế à! Vậy trúng số bao nhiêu?
- Cũng chả mấy! Trúng cái số độc đắc, nghĩa là mười vạn.
Sự xúc động mạnh đến nỗi ông bố và bà mẹ cứ ngẩn cả người ra,
hình như vẫn còn chưa tin, dẫu rằng hai cụ đã hết sức vững lòng tin. Và có lẽ
vì đã hối hận về những cách cư xử với đứa con thứ mà xưa nay các cụ cũng vẫn
cho là hết hy vọng, gàn dở, vô tích sự, ăn hại ấy, cho nên cả hai cụ đều mắc cỡ,
đương ở cảnh không biết liệu ăn làm sao, nói làm sao bây giờ. Hai cụ cứ lúng
túng nhìn nhau mãi. Riêng về phần Phúc, anh mừng rằng anh đã thành công trong sự
khôn khéo báo cái tin mừng vô cùng nguy hiểm mà không đến nỗi làm cho bố mẹ
sung sướng đến chết ngất.
Muốn ngăn cho cái phản động lực của sự báo hỉ khỏi phương hại
đến cái khang cường của bố mẹ già yếu, anh đã dùng đến cách bá đạo, là báo tin
mừng sau những lời bất chính mỉa mai. Anh vẫn không nhận rằng ở sự nói năng vừa
rồi, dẫu sao, cũng là vẫn có chút tính chất báo thù bố mẹ.
Hồi lâu, ông bố mới gượng ngịu ấp úng:
- Thật là không còn cái gì đáng mừng hơn cho nhà này! Quả vậy,
cái đại phúc của gia đình nhà ta bây giờ mà có là do ở lòng giời ân thưởng
riêng cho con mà nên. Thật thế, xưa nay vốn con hiền lành, ngoan ngoãn biết
thương bố mẹ, không lêu lổng chơi bời như phần đông thiếu niên, chỉ chăm chỉ học
hành, sách vở, tưởng chừng không đi làm, không kinh doanh như thế, thì chẳng
bao giờ đủ ăn được, thế mà rồi cũng lại giàu! Giời, Phật không cho, có khi nào
lại thế được? Đấy, có phải hiếu thảo thì chẳng khi nào lại bị hoàng thiên phụ
lòng hay không?
Bà mẹ được khuyến khích, cũng hưởng ứng:
- Chứ gì nữa, còn thằng phán anh mày, thì có họa là đến chết
cũng không khá được. Gớm, rõ thật là đủ trăm nghìn tật xấu, bôi gio trát trấu
vào mặt bố mẹ, làm nên mà như thế, thà cứ ngu si cho xong! Đeo cái danh ông
phán to bao nhiêu, bố mẹ càng giả nợ đẫy bấy nhiêu, càng khổ bấy nhiêu… Ấy, may
mà có anh gỡ lại không thì thật nhà này đổ đốn. Xưa nay là tôi vẫn biết lắm chứ!
Tôi vẫn thường nói: "Thằng hai nhà ta đấy ạ? Nó chỉ phải cái chẳng may
không có việc gì làm đấy thôi… Chứ nó tốt, bụng dạ nó hiếu thảo, rồi nó phải
khá.
Nhưng cụ ông chẳng bằng lòng những lời lẽ hình như có ý buộc
tội mình. Cụ bèn hạch lại:
- Bà nói lẩn thẩn thế mà bà nghe được đấy!
Đương cao hứng bỗng bị cắt dứt như thế, bà cụ đờ người ra, miệng
tròn như chữ o. Ông cụ chẳng để phải hỏi, tức khắc hằn học tiếp:
- Bà lại đi bà nói: Xưa nay là tôi vẫn biết lắm chứ! Bà làm
như chỉ có một mình bà biết!
Vốn xưa nay vẫn biết cái quyền của vị hiền phụ chính danh là
không bao giờ lại chịu để cho chồng cãi lại bất cứ điều gì, lại sợ chồng đổ lỗi
cho mình thì chết, bà cụ nổi xung ngay lên:
- Ừ đấy nói thế thì sao? Lại không đúng ư? Chứ lại chả một
mình tôi biết mà thôi ư.
Cũng chẳng kém, lại cũng rất sợ đổ lỗi cho mình, cụ ông cũng
đáo để ứng chiến:
- Bà cứ việc nói đi, buộc tội tôi đi đổ vấy cho người khác
đi. Bà ấy à? Con quý, con hiếu tử của bà, chỉ có thằng phán, vì nó là ông phán
cho nên bà yêu nó một cách hằn học như chó ghẻ giữ con, như là con riêng của
bà! Ấy, quả thật nói không thí ngọn đèn tắt, đã có quỷ thần hai vai chứng giám,
chứ tôi vẫn phải van lạy bà để khuyên răn bà rằng: Không nên đứa yêu đứa ghét
thế, vì con nào chả là con! Bà cứ hỏi ngay bà xem có phải tôi vẫn nói thế
không?
Bà mẹ nhọn mồm lên mà rằng:
- Ừ, ừ. Rõ điêu khẩu chưa! Phải, tôi chả ghét bỏ thằng Phúc
thì còn ai ghét bỏ nữa! Cho nên khi tôi bảo ông lo ba chục cho thằng Phúc nó chạy
việc, thì ông gân cổ lên, ông sỉ nhục mẹ con tôi, nhất định để số tiền ấy cho
thằng phán nhà ông giả nợ tây đen 4 kia.
Thôi thôi, không phải bới chuyện, không phải thêu dệt, không phải ăn không nói
có!
Thấy trong nhà có tiếng to, vợ Phúc hớt hải chạy vào, thì vừa
gặp lúc ai cũng nén giận, lặng im.
Trông thấy tấn hài kịch ấy lại sắp có thêm một vai trò chính bây
giờ đây này, Phúc cười nhạt, và đến lúc đã thấy cái cần phải can bố mẹ đi kẻo bị
vợ mình khinh cho:
- Thôi, thầy đẻ nên nhịn nhau đi, con nhờ. Dẫu sao thì đó
cũng là chuyện cũ, chẳng hay hớm gì mà còn nhắc đến. Dẫu thầy hay đẻ xưa kia có
ghét bỏ con thật đi nữa, thì đã làm sao? Hay là thầy đẻ xưa nay vẫn thương yêu
con thật đi nữa, thì có gì là lạ đâu mà phải kể?
Đến đấy thôi, Phúc ngừng, anh ta đã muốn nói nốt cho gãy
nghĩa, nhưng bỗng một ác ý nảy ra trong óc anh làm cho anh thôi đi. Vừa muốn an
tâm bố mẹ xong, anh bỗng lại thấy cái hứng thú muốn làm cho bố mẹ sợ hãi anh
hơn nữa. Anh chua chát nghĩ thầm rồi nói cả những ý nghĩ ấy:
- Vả lại, xưa kia dẫu con có bất hiếu, bất mục, đáng ghét,
đáng từ đi nữa, thì bây giờ cũng thôi. Khi đứa con trúng số mười vạn cố nhiên
là bất thình lình cả bố lẫn mẹ nó cũng đều thấy nó biến hình ra là đại quý tử.
Vậy thì nói làm quái gì!
Ông bố cãi:
- Tự nhiên bà ấy lại gây sự!
Bà mẹ cãi nghe còn có lý hơn nữa:
- Ông ấy nói vô lý lắm, không ai chịu được.
Phúc nói nghiến cả bố lẫn mẹ bằng cách bảo người vợ vừa chạy
vào đứng đấy:
- Này cô ả! Tôi đây, tôi vừa trúng số độc đắc đấy, là đã có
trong tay mười vạn bạc rồi đây, vậy cô có khinh bỉ tôi hay thương yêu tôi thì
nói lại đi!
Đáng lẽ đáp, vợ anh chỉ ngơ ngác mãi, trong năm phút, để rồi
hỏi lại:
- Ô! Thật thế đấy à?
Ông bố mắng ngay nàng dâu:
- Sao mà ngu thế? Người ta nói đùa đấy à? Thế mà cũng đòi biết
chữ, cũng đòi đọc báo!
- Nào nhà con có cho con xem vé số đâu!
Cụ phán ông khoanh tay đi đi, lại lại, hốt nhiên tự thấy mình
là can hệ 5 .
Cụ nghĩ ngợi một lúc rồi giơ một ngón tay lên, ra lệnh cho tất cả:
- Bí mật! Bí mật! Nghe ra chưa? Nhất là gia nhân đầy tớ, cấm
kỵ cho chúng biết được! Chí kỳ bao giờ đi lĩnh tiền về xong đâu đấy thì thôi!
Không ngờ mà cụ phán bà, vào lúc này, lại có cái thông minh rất
đàn ông, có lẽ chỉ vì vụ thích phản đối cụ ông mà thôi:
- Việc gì phải lĩnh tiền về! Mười vạn bạc, thì phải gửi nhà
băng, chứ tủ đâu mà đựng!
Cụ phán ông bĩu môi:
- Có mười vạn bạc mà lại sợ không có tủ mà đựng!
- Nhưng mà để tiền ở nhà làm gì? Để gọi cướp nó đến nó giết
à? Sao mà ông xuẩn đến thế?
Phúc xua tay:
- Thôi, hãy cãi nhau ít chứ! Bí mật gì mà lại có thứ bí mật ầm
ĩ thế nữa! Để tôi lên lấy vé cho cả nhà xem đây.
Phúc lên gác lấy vé, và lúc xuống thang, anh vô ý để cho một
chiếc guốc lăn xuống các bậc gỗ kêu lạch cạnh. Cả ba người ở dưới cùng vội thất
thanh:
- Chết nỗi! Có hề gì không!
Anh nhớ ngay: mấy hôm trước, tưởng gẫy chân mà chẳng thấy ai
hỏi han gì cả. Bây giờ, anh cười thầm…
Rồi bố anh, vợ anh đều nhìn vào vé số, lại nhìn vào danh sách
trên báo. Cả bà mẹ, tuy chẳng biết một chữ nào, cũng châu đầu vào, len lách
xem. Rồi ông cụ nói khẽ một cách hơi to rằng:
- Phải đóng cửa hàng ngay mới được!
Thấy không ai nói gì, cụ thêm:
- Và có lẽ nên thuê lính cảnh sát canh nhà cho nữa!
Ý kiến bị ba người trong gia đình cho là quá đáng, vì mỗi người
lần lượt phê bình như thế này:
- Thưa thầy, con tưởng chẳng nên để lộ quá đến thế!
- Ông này nông nổi lắm mà lại tưởng mình khôn!
- Thuê đội sếp gác nhà, quá đáng, thiên hạ cười cho.
Cụ phán ông gân cổ lên hăng hái thuyết lý:
- Tôi nhất định thế đấy, ai không nghe cũng mặc! Tôi chỉ cần
nghĩ đến cái tính mệnh của con tôi mà thôi, còn nông nổi hay thiên hạ đàm tiếu
gì, âu là tôi cũng xin vâng! Chứ tại gì? Mà sao lại sợ lộ quá! Thà lộ hẳn cho
ai cũng biết, chả hơn kia mà chưa chắc kín hẳn, mà lại nguy hiểm à? Vả lại… giấu
mãi sao được thiên hạ!
Sau một hồi nghĩ ngợi, Phúc cũng gật gù.
- Thầy nói có lẽ phải đó! Việc giữ cái vé số ấy cho đến lúc
lĩnh được tiền, hoặc là chuyển tiền sang Nhà băng, lại hệ trọng hơn cả việc giữ
tiền nữa, nếu mình muốn đem tiền về nhà, có phải thế không? Nhất là việc làm
cho từ thiên hạ đến Nhà nước công nhận rằng mình trúng số lại hệ trọng hơn, vì
về sau, khi ai cũng biết rõ cái tin ấy rồi, thì chẳng có sự gì phải lo lắm.
Sung sướng như một nịnh thần được bạo chúa nghe theo một ý kiến,
cụ phán ông chẳng kịp kìm cương được sự lễ phép nó tốc hành ra ngôn ngữ:
- Vậy! Tôi nói thế là chí lý lắm, vậy xin cậu để cho tôi được
toàn quyền đi làm ngay mọi việc cần làm nhé!
- Phải lắm, thế hay thầy đi đi cho con.
- Dạ vâng.
- Thầy đi báo ngay sở Cẩm Hàng Trống…
- Nhịa!
- Xong rồi thì là… Thầy đi… thầy đi báo tin luôn cho nhà báo
Đông Phương nữa.
- Nhịa!
- Phải đấy, cứ việc cho cả bàn dân thiên hạ biết luôn ngay
đi!
Vợ Phúc khẽ thưa:
- Thưa cậu cho phép tôi hỏi, như thế thì có nguy hiểm gì
chăng?
Bà mẹ chồng cũng can đảm tán thành nàng dâu:
- Mợ hai lo xa thế kể cũng có lý đấy chứ?
Phúc đáp:
- Không! Chính ra thế tốt, tránh được nhiều điều nguy hiểm.
Cụ phán ông vừa chít khăn, mặc áo, vừa gọi to:
- Thằng nhỏ đâu? Vú già đâu? Chúng bây ra đây!
Khi đầy tớ từ trong bếp chạy ra, cụ truyền:
- Lên cửa! Đóng cửa hàng ngay bây giờ!
Trước bốn con mắt giương to, vì không hiểu, cụ cắt nghĩa một
cách hách dịch:
- Sắp có quan Tây lại ngay đây chơi bây giờ, chúng mày hiểu
chưa. Đóng cửa xong chúng mày phải ngồi ngoài hàng, cấm không được chúi vào bếp,
mà cũng cấm lẻn ra phố nhẩy láo, nghe chưa? Hai đứa đầy tớ sợ hãi đi ra và vô cớ,
cũng bị cụ chủ nhà lườm theo, chưa chi chúng đã bị tình nghi có thể là nội công
cho quân trộm cướp. Cụ phán lại khẽ dặn cả nhà:
- Phải để ý lắm lắm tới chúng mới được! Nếu thấy có mặt kẻ lạ
lảng vảng bên ngoài hay nhấm nháy gì chúng thì phải bảo tôi ngay, để điệu chúng
đi Xăng Tan 6 .
Không ai kịp nghĩ chín hơn nữa chỉ tán thành sự đề phòng ghê
gớm ấy bằng gật đầu và im lặng. Phúc, sau khi ngẫm nghĩ một điều khác, bèn bảo
bố:
- Thầy hãy chờ vài phút để tôi viết thơ, rồi thầy đem đến nhà
báo cho long trọng.
- Nhịa, vâng!
- Thế còn đến Sở Cẩm, thì thầy báo tin và xin thuê cảnh binh
bằng nói miệng thôi.
- Nhịa, vâng. Ngoài ấy tôi quen, ông chánh cẩm là sếp cũ!
Cụ phán bà hỏi chi ly ra để mong khỏi phải sợ đội sếp:
- Nhưng có được không? Viện lý gì để thuê gác được?
Cụ ông tức khắc cự ngay lại:
- Sao mà bà lẩn thẩn thế? Xổ số là do nhà nước mở ra, mình
trúng số tức là có bổn phận báo tin cho Nhà nước biết, chứ gì nữa! Nhà nước có
thể đến gác nhà mình, một là bảo hộ tính mệnh và tài sản lương dân, hai là để
trị an chứ sao? Theo ý tôi ấy ạ, chính mình không xin quan chánh Cẩm cũng phải
cho lính đến gác nữa, và chắc là sẽ như thế. Nếu không người ta tự xưng là
chính phủ bảo hộ để làm gì?
Không tức vì bị cự nự nữa, cụ phán bà phải im, yên tâm về chỗ
không phải sợ đội sếp. Vừa lúc ấy, Phúc cũng đã thảo xong mấy dòng để gửi cho
nhật báo Đông Phương. Anh đọc lẩm nhẩm lại lần nữa:
"Kính gửi ông chủ báo!
Tôi Nguyễn Văn Phúc, người vẫn gửi bài giúp cho quý báo, chắc
ngài nhớ lắm vì tôi vừa được ngài chửi cho một trận cách đây không lâu. Đó là một
lối khuyến khích và trả ơn khá lịch sự. Nay báo tin để ngài biết rằng về kỳ xổ
số này, vé trúng độc đắc mười vạn, may sao tôi được hưởng. Vậy xin thông tin
ngài biết, vì tôi cho rằng sự này cũng có thể hữu ích cho ngài về việc quý báo
thông tin cho quốc dân. Nhân tiện tôi muốn rằng ngài cho đem biên lai đến thu
tiền, hạn báo ngài gửi biếu không, tôi không muốn nhận.
Nay kính thư,
Nguyễn Văn Phúc"
- Đấy, thầy đưa cho chúng nó… nghĩa là vứt vào mặt cái thằng
nào là thằng chủ nhiệm ấy!
Tuy ngạc nhiên lắm đấy, người bố cũng chỉ gật đầu:
- Nhịa, thế cậu có dặn gì luôn thể nữa không?
Phúc nghĩ không thấy còn gì đáng ra lệnh nữa. Và anh thấy rằng
đã đến lúc trị tội người bố không xứng đáng ấy, người bố mà xưa kia anh oán và
không dám khinh cũng như không thèm oán nữa? Trông thấy cái thái độ khúm núm ấy,
anh lộn ruột, khó chịu cực điểm, có thể vì vậy mà cư xử như với người ngoài:
- Thưa thầy, thầy đi ngay! Và con xin dặn một lần đầu nhưng
mà cả lần cuối cùng, rằng từ hôm nay trở đi, thì phải ăn ở thế nào cho bố ra bố
con ra con, chứ cái lối dạ dạ vâng vâng ấy, là không thể chịu được.
Chẳng ngờ vì sợi hãi quá, ông bố lại gật đầu.
- Nhịa!
Rồi cụ hấp tấp đi, cố làm ra vất vả, kính cẩn và có lẽ ước thầm
đáng tội lập công với con bằng dáng điệu ấy.
Trong nhà lúc ấy còn lại năm người: hai người chủ thỉnh thoảng
đưa mắt ra dò xét ý tứ hai đứa đầy tớ, và hai đứa đầy tớ thì thỉnh thoảng - vì
chúng chưa hiểu gì cả, cũng lấm lét nhìn trộm chủ! Thành thử, càng có vẻ gian,
và càng làm cho chủ phải mỗi phút một nghi chúng thêm. Trong lúc ấy, Phúc trầm
ngâm xếp đặt trong trí cái việc hệ trọng là việc đi lĩnh tiền. Chỉ vì anh không
hiểu rằng có gửi tiền được ngay ở kho bạc không, hay phải lấy ra rồi đem sang
Nhà băng gửi sau hay có thể chỉ nói với Sở kho bạc chuyển hộ chứ mình không phải
lĩnh ra để rồi đem gửi sau mới được. Thật thế, anh biết sao được mà lại không bối
rối. Trong cả bàn dân thiên hạ có ai lại thạo được cái việc đi lĩnh tiền trúng
số độc đắc đâu! Vì vậy, anh chẳng thẹn cho cái kém thông minh của anh chút nào
cả.
Còn bà mẹ và cô vợ thì lúc ấy khoanh tay ngồi yên. Chắc hai
người lúc ấy cũng chưa được nghĩ tới cái sung sướng hưởng lấy cái phú quý nó
thình lình mới đến, vì trên hai cái mặt, đôi bộ lông mày còn nhíu lại để trợ lực
cho những nét mặt lo sợ. Có lẽ cả hai đều đương hối hận về thái độ xưa kia của
mình đối với Phúc, đứa con ăn hại, thằng chồng gàn… Bây giờ thì cái lối nhỏ ấy
trong óc hai người đã trở nên những tội mạn thượng. Nhất là sau khi thấy cụ
phán ông bị mắng, người mẹ, người vợ càng hiểu rõ rằng từ nay ắt phải rất thận
trọng trong sự thay đổi thái độ, phải làm thế nào cho cái khinh bỉ ngày trước với
các quý trọng bây giờ có một cái cầu nó nối liền một cách kín đáo, cũng như mầu
xám là cần cho sự dịu dàng của việc dung hợp trắng và đen, ấy thế mới khó, vì
nhỡ ra thì có thể chỉ sai một ly mà đi một dặm. Quý trọng, ừ thì quý trọng,
nhưng phải ra sao cho khỏi mang tiếng là nịnh thần? Vừa phải thôi ư, thì làm thế
nào cho khỏi bị buộc là vẫn khinh nhờn như trước? Đó là sự đàn bà gánh vác khó
lắm thay!
Đến đây cô Đức đi chơi đâu về.
Thấy nhà đóng cửa hàng sớm thế cô giật mình, cái mặt trát phấn
bự ra mà ta cũng có thể biết rằng nó đã tái xanh đấy.
Thấy mẹ, anh, chị, đều ngồi với nhau, sự ấy, quả thật xưa nay
cô chưa từng thấy. Cô sợ hãi hỏi đầy tớ:
- Chết nỗi! Có sự gì xẩy ra thế, nhỏ, u già?
Thằng nhỏ khẽ đáp:
- Dạ, con thấy cụ ông bảo sắp có các quan Tây đến đây, và có
lẽ ông đi gọi đội sếp đăng báo đấy ạ.
- Cái gì? Chết! Cái gì thế?
- Con cũng vẫn không biết!
Cô Đức chạy xộc vào thất thanh hỏi:
- Giời ơi! Đẻ ơi, anh ơi, có tai họa gì thế này!
Bà mẹ giẫy nẩy lên, xua tay, xỉa xói:
- Phỉ thui! Vả vào mồm ấy, làm gì mà ngậu lên thế!
Chợt nghĩ rằng mình đã là vợ một người vừa trúng số mười vạn
thì đó là một dịp rất tốt để ra oai, báo thù cô em chồng đã có với mình nhiều
điều xích mích mà xưa kia mình vẫn phải chịu lép vế, vợ Phúc cong cớn:
- Rõ cái cô này mới đoảng, chỉ ăn càn nói rở!
Phúc cười, lấy tay vẫy em bông lơn:
- Em gái quý của anh ơi, vào đây, không có gì đâu.
- Em không trông thấy thầy đâu, lại thấy đóng cửa hàng sớm thế,
em sợ quá đi mất!
- Ừ, thế là ngoan, có hiếu đấy! Nhưng mà… Ngồi xuống đây đã…
Có tin vui lắm…
Bà mẹ xua tay:
- Nói khe khẽ chứ!
Phúc nói thầm vào tai em:
- Đây này, nếu có cái gì đáng gọi là tai họa, thì ấy là việc
anh trúng số độc đắc đấy!
Không còn sự vui vẻ nào của nhân loại mà lại hiện ra cái mặt
cô Đức một cách đầy đủ như thế. Cái nhan sắc của cô bình nhật là phải chăng, thế
mà vì sự mừng rỡ trong lòng, lúc ấy trông cô đẹp hẳn, lộng lẫy như một cái động
thạch nhũ mà lại bỗng được có ánh sáng hội chợ chiếu tưng bừng. Tuy vậy cô cũng
hỏi mẹ:
- Thật thế a, hở đẻ!
Phúc cười và xua tạy :
- À, thôi, nói dối đấy.
- Thật, hay là trúng số độ mười vạn đồng xu đấy?
Bà mẹ gắt:
- Thôi đừng hỏi nữa!
- Giời ơi, thế thì "kẻng" 7 quá đi mất!
Rồi, quay lại với Phúc, cô cười ngây thơ, và điểm xuyết cái
vui ấy bằng cách khẽ thụi vào vai người anh mà cô vẫn lần khần xưa nay.
Muốn trêu em, Phúc nghiêm mặt:
- Đừng láo!
Cô em trước thì còn ngạc nhiên, sau thì sợ, sợ quá đi mất.
Phúc trêu già hơn nữa:
- Tao vẫn nhớ cái đứa nào vốn hỗn láo với tao, khinh tao, coi
tao gần bằng con chó vì tao gàn dở, ăn hại, vô nghề nghiệp.
Nói thế xong Phúc hả hê lắm, vì lời lẽ ấy, trước là đùa mà
sau là thật, duy có khác là đoạn sau nói với em nhưng mà là để cho mẹ nghe.
Thành thử, nhân thế mà anh nhớ chuyện cũ, và, vì vậy, mặt anh nghiêm nghị thật
chứ không còn là giả vờ nữa. Và sự ấy đẻ ra một cái bất ngờ là: Cô Đức bỗng có
cặp thu ba lóng lánh vì nước mắt rơm rớm chạy quanh. Thương tình, Phúc khẽ vỗ
vai em, thân yêu:
- Thôi nín đi, ấy là anh nói đùa đấy. Nín đi chóng ngoan, anh
yêu chứ anh thù làm gì! Thù ai mà làm gì!
Nói xong, Phúc đưa mắt nhìn trộm mẹ và vợ, và biết rằng lời lẽ
ấy mà té ra một giải thoát phúc đức cho hai tấm linh hồn băn khoăn, đau khổ,
tha cho người ấy được trút bỏ từ trên vai xuống hàng nghìn tấn trọng lực hối hận,
mẹ anh và vợ anh, cả hai vừa khẽ thở dài, mặt mũi đã bắt đầu tươi lên.
Cô Đức khẩn khoản khẽ nói rất đứng đắn:
- Anh, em lạy anh, em biết em có lỗi với anh nhiều lắm, anh
thương hại mà tha thứ cho.
- Được rồi, đã bảo là nói đùa mà!
Phúc khoan khoái nghĩ ngợi mãi… Thật là kim tiền quả có thế lực
vạn năng! Thật là miệng anh có gang có thép!
Thì mới chiều hôm qua chứ đâu, hai tiếng "đừng láo"
mà xưa kia anh đem ra mắng cô em hỗn, trong một phút giận thật là giận, đã bị
cô em nhắc lại để chế diễu, làm anh khó chịu đau đớn, trong khi cô em lại được
một lúc mua vui không tốn tiền, vì Đức đã đặt tên cho Phúc là "cái anh đừng
láo".
Bây giờ, chỉ đùa mà nhắc lại, Phúc đã làm cho cái người được
cười thú nhất phải lo sợ, khổ sở, kinh hoàng, hơn cả anh khi xưa. Đến cả câu
"anh thù em làm gì, thù ai làm gì" thì thường lắm, có phải thế không,
vậy mà cũng đủ cho mẹ anh và vợ anh quan tâm đặc biệt, khỏi phải lo lắng, được
hưởng hạnh phúc. Anh nhớ ngay đến một ý kiến ngông nghêng lúc chỉ mới mơ mộng
trúng số - vào bữa đi hát "che tàn" - để mà "cười một tiếng thì
hàng vạn người được sung sướng cau mặt một cái thì phải có đứa tự tử…" thì
anh lại thấy nó đã thực hiện rành rành, và từ đấy, mới lại định sẽ ghi chép cái
giá trị lời nói của anh, gọi là để rồi khảo cứu sự đời cho vui. Gớm thật, ấy là
anh, chưa lĩnh mười vạn vào tay, chưa được cho thế nhân mục kích một việc tiêu
tiền nào của mình, chưa sinh phúc hoặc gây họa cho ai đó!
Nhưng cô Đức muốn hưởng ngay một cách rất trẻ con vào cái số
tiền mười vạn ấy tức khắc. Cô nũng nịu:
- Anh ơi, thế anh phát tài thế mà anh không cho ăn nem đi ư?
Bảo nó đi mua về nhé, có phải không chị?
Phúc thờ ơ đáp sau cái cười rộ:
- Ừ, thì anh cho em ăn nem chứ sao, tuy là hiện bây giờ, lúc
này, anh hãy còn nghèo, rất nghèo, và mai kia mới thật là giàu.
Ngay lập tức, bà mẹ cởi hào bao lấy ra một đồng bạc, số tiền
đối với bà thì có giá trị rất lớn, vì ngoài những sự chi tiết thiết dụng, thì
phải có người họ hàng nào chết, bà mới chịu dễ dàng đưa ra để phúng nghĩa là
tiêu mà không gắt mắng đầy tớ.
- Này, thì đây, để cho ông anh nuông cô em gái quí!
Bà mẹ dễ dãi, vui vẻ nói thế, duy có vợ Phúc là lãnh đạm,
không cau mặt là giỏi! Vì chị ta bắt đầu thấy ở Đức cái khởi điểm của sự cầu lợi,
bòn rút, có thể nguy hiểm cho số tiền kếch xù kia.
Đức vồ lấy tờ giấy bạc, gần nhẩy lên mà gọi:
- U già! Vào lấy tráp, liễn, cốc đi mua nem, mau lên! Một chục
nem chua, một chục chả nhân cua bể nhé! Lấy nhiều rau, nhiều dấm vào! Mau y như
hôm nào ông phán về ấy!
Nghe nhắc đến anh, Phúc kém vui, Anh nghĩ thầm: "À, tí nữa
quên nó, cái thằng anh khốn nạn ấy! Được rồi! Rồi mà xem! Ai thì ta không thèm
thù hằn chứ cái mã ấy, có lẽ không thù cũng không xong đâu. Được lắm, ta phải
trị tội cái đầu óc khốn nạn, cái bụng dạ tiểu nhân, cái tư cách bất hiếu chi tử
ấy mới được!"
Bỗng thấy có tiếng máy xe hơi nổ ngoài đường. Một tiếng hầm
"két" một cái rồi ba người mặc quần áo tây chững chạc ngấp nghé vào
nhà, sau khi một anh đưa cho đứa ở một vật gì đó. Thằng nhỏ đem vào một cái
danh thiếp… Thì ra đó là ông chủ nhiệm Trần Học Hải của nhật báo Đông Phương.
Phúc bảo:
- Mày mời các ông ấy cứ vào.
Thấy vậy mẹ, vợ, em đã đứng cả lên.
Phúc xua tay:
- Được, không hề gì, đẻ cứ ngồi, bọn nhà báo mà tôi quen lắm
đấy mà.
Vào đến nơi, Trần Học Hải nói hết sức kiểu cách:
- Thưa ngài, tôi xin lỗi ngài đến phiền ngài thế này, và rất
cảm tạ ngài vì được ngài tiếp. Nhận được thư của ngài, chúng tôi vội vàng đến
ngay. Chẳng nói thì ngài cũng hiểu ngay: vì phận sự thông tin, phải chụp ảnh,
và xin phỏng vấn một bài nữa.
Ông ta quay lại, dang tay về hai người đứng sau:
- Dạ, đây là ông Bất Tuyệt, đặc phái viên bản báo và đây người
thợ ảnh.
Phúc đứng thẳng người lên bắt tay, cũng không mời họ ngồi vào
bộ ghế sa lông.
Anh hất hàm cho đứa ở:
- Mày kéo ghế mời các ông ngồi!
Chờ họ an vị, Phúc mỉm cười hỏi ông chủ báo!
- Hân hạnh lắm, thật là rồng đến nhà tôm. Vì rằng nếu để lấy
tin, phỏng vấn hay chụp ảnh, thì hai ông đến cũng đủ rồi, vậy mà chính quý báo
chủ nhiệm cũng thân chinh đến, thì tôi còn biết lấy gì mà đáp lại cái thịnh
tình ấy.
Trần Học Hải vốn đang mang sẵn vào cả sự ngượng nghịu vì cái
thư quỵt tiền tháng trước, lúc ấy cũng chỉ tỏ vẻ ngượng thêm có một tí tẹo nữa
thôi, và gượng cười, kính cẩn đáp:
- Dạ, đó là bổn phận chúng tôi mà thôi ạ, vì tin này là hệ trọng
lắm lắm.
Thấy người nhà mình ai cũng sợi hãi gì đó, Phúc vội cứu chữa:
- Nhân tiện thì tôi cũng xin giới thiệu các ngài đây là mẹ
tôi, đây vợ tôi, và em gái tôi.
- Mẹ cứ ngồi đây, em nữa, cứ tự nhiên, vì ít khi được cái may
tiếp kiến các nhà báo, thì bây giờ, nên để ý mà học lấy cái tài ăn nói của các
nhà ngôn luận.
Trần Học Hải vội nói ngay:
- Dạ, thế thì may cho chúng tôi lắm! Bẩm xin cụ và các bà cho
chúng tôi chụp ảnh đăng báo nhân thể ạ.
- Vâng, nếu có cần cho sự thông tin.
- Dạ, bẩm cần lắm ạ. Để chúng tôi xin chụp riêng ngài một
cái, rồi lại chụp cái nữa trong có ngài ngồi với người nhà. Một cái tin, một
bài phỏng vấn…
Ông đặc phái viên Bất Tuyệt hấp tấp cũng nói:
- Bẩm, về cái tin này, ngài đã nói cho các báo hàng ngày cũng
biết cả rồi hay chưa?
- Tôi mới kịp báo cho Đông Phương thôi.
Bất Tuyệt yêu cầu một cách chẳng khôn khéo mấy:
- Dạ, như vậy thì xin ngài chớ cho biết vội, và nếu vậy, thì
là ngài giúp ích cho chúng tôi nhiều lắm
Phúc ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậy?
Bất Tuyệt cũng thật thà đáp.
- Vì rằng như thế thì ngày mai chỉ có Đông Phương nhật báo
chúng tôi là thông cái tin này trước nhất cho quốc dân.
Ông chủ nhiệm lườm người phái viên trẻ tuổi và ngu ngốc ấy,
và vội vàng cứu chữa bằng một cách cắt nghĩa.
- Cái đó cũng tiện cả cho ngài, vì đồng thời họ biết cả một
lúc thì họ sẽ xô nhau tới đây lấy tin chụp ảnh, phỏng vấn, ngài sẽ bị phiền nhiễu.
Vậy mai ngài hãy cho tất cả các nhật báo khác biết tin là hơn.
- Vâng, thế cũng được.
- Xin ngài ngồi ngay ngắn lên để chụp ảnh.
Vợ Phúc bảo:
- Cậu nên đội cái khăn vào cho đứng đắn.
Cô Đức cũng vui vẻ dặn:
- Anh nên cười cho cái ảnh nó tươi nhé?
Nói rồi cô chạy vào phía trong lấy gương, phấn son, tô điểm lại
cái mặt, sửa soạn chụp ảnh, và làm cho người chị dâu cũng phải chạy vào bắt chước
em. Hai chị em trang điểm cho nhau, cười rúc ra rúc rích làm cho bà mẹ ngồi ngượng
cả mặt.
- Cho tôi tý phấn nữa, mặt tôi trông như mặt bị giời đánh!
- Ấy… ấy chị hãy giữ hộ em chỗ độn khăn này?
Ngồi trước máy ảnh, Phúc điềm nhiên chỉ cứ để nguyên cái áo
trắng dài thôi. Khăn anh cũng chẳng buồn đội. Anh như nghĩ đến cái tên "cậu
áo trắng dài" mà bọn ma cà bông đặt cho anh. Trước anh ghét cái tên ấy lắm.
Bây giờ anh lại lấy nó làm thích nữa. Anh biết rằng lúc ấy anh ngồi tuy là trước
một cái máy ảnh nhỏ thật đấy, nhưng mà chính là ngồi cho hàng vạn, hàng triệu
người trong thiên hạ họ xem cái bộ mặt "mày ngang mũi dọc" của anh ra
sao. Anh nghĩ thầm thế này: "Đừng coi thường cái thằng lạc đạo vong bần 8 chỉ mặc có cái áo trắng dài… ấy thế mà nó
là người giầu bạc vạn đấy!" Cho nên lúc người thợ ảnh kêu: "Xin ông đừng
động đậy nữa", thì chẳng những đã không cười như cô em dặn bảo, anh lại
hơi cau mày lại một chút, hơi vênh mặt lên một tý nữa, ý chừng muốn nói vào mặt
cái thiên hạ sẽ cúi đầu nhìn anh trên tờ báo rằng: "Chúng mày nên bắt đầu
liệu hồn đi thì vừa, nếu chúng mày xưa kia đã trót khinh thường ông"!
Mồi thuốc magnésium bén lửa cháy bùng một cái làm cho cả căn
nhà sáng lòa một ánh sáng điện quang, nó tắt ngay và để lại một ít khói xanh.
Bà mẹ giật mình, ngơ ngác. Vợ và em Phúc cũng chạy ra hỏi:
- Cái gì thế nhỉ? Cháy điện chỗ nào đấy à?
Phúc hổ thẹn mắng át đi:
- Nhà quê thế! Người ta đốt thuốc chụp ảnh mà cũng không biết
nữa!
Trần Học Hải lại giục:
- Nào còn hai bà nữa, thế hai bà xong chưa?
Giữa lúc ấy u già bưng nem về.
Người đầy tớ ngu ngốc này toan để xềnh xệch ngay ra cái bàn đấy,
và mở luôn cái nắp liễn mùi thơm ngon đưa ra ngào ngạt. Phúc gắt:
- Đem vào trong kia, đi! Sao mà vô ý thế!
Anh đã lại thấy hình như bọn nhà báo có thể đoán biết rằng vì
anh trúng số mà nhà anh mới dám mua nem ăn nữa, và nếu thế thật, thì xấu hổ quá
đi mất! Tức khắc anh lại chữa ngay:
- Đã có máu đau bụng, tối nào cũng ngốn mãi dấm, có phen thì
cũng bỏ đời! Thôi ngồi xuống đi!
Anh ta phải giục vợ và em ngồi chụp ảnh, là vì sợ hai người
này nhỡ ra cãi lại việc chỉ trích của anh, nó tuy là bịa đặt nhưng nó chỉ có
danh giá thêm mà thôi.
Cố nhiên chị Phúc, cô Đức đã bày lại bàn, ghế, lọ hoa, một
cách hý hửng, láu táu… Chụp ảnh đăng báo… Phải biết! Đó là một thứ danh giá ghê
gớm kia mà, kể trong đám phụ nữ, chỉ có hai người được hưởng mà thôi! Còn như
chụp ảnh đăng báo vì đi ngắm hoa trong các cuộc chợ phiên thì cái ấy xoàng lắm
nhé! Vợ và em gái một ông trúng số mười vạn, hỏi còn có kẻ nào dám nhìn mà bĩu
mồm?
Khi chụp xong cái ảnh thứ hai, ông chủ nhiệm Đông Phương nhật
báo đưa mắt cho đặc phái viên Bất Tuyệt láu táu hỏi:
- Thưa ngài, thế thì ngài dùng số tiền ấy làm gì?
Phúc ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao ông lại hỏi lẩn thẩn thế nhỉ?
Ông chủ nhiệm vội đỡ lời cho phái viên:
- À, vì đó chính là phỏng vấn đấy ạ. Chúng tôi cần phải biết
có số tiền ngài định bỏ vào những việc xã hội, những việc từ thiện, là bao
nhiêu… Còn như về nhân phẩm, học thức, chí hướng của ngài thì không cần hỏi nữa,
những bài báo của ngài đủ giới thiệu ngài với quốc dân nhiều lắm.
Phúc giật mình. Anh đã bắt đầu hối hận về những bài báo dại dột
của anh, viết trong lúc đáng gọi là "nhàn cư vi bất thiện" mà thôi.
Anh bèn đứng lên, dõng dạc:
- Thôi, tôi xin lỗi các ngài nhé! Để mai, kia, các ngài quay
lại phỏng vấn cũng chưa muộn gì. Tôi, tôi chưa có một ý kiến nào cả, không thể
đáp được.
Ba người kia thở dài nhìn nhau nhưng không dám nài ép gì nữa,
đưa mắt ra hiệu cho nhau cùng cáo lui. Phúc tiễn họ ra đến tận cửa, và nói dọa
cho họ sợ:
- Có lẽ tôi sẽ dùng cả số tiền mười vạn ấy để làm cái việc bồi
bổ và truyền bá quốc văn, nghĩa là lập nhà in, và mở báo!
Lúc quay vào, tức cảnh sinh tình, anh nghêu ngao ngâm một đoạn
trong cái bài Thế tục phú của Trần Văn nghĩa đời xưa: "… Khi đắc thế thì đất
nặn nên bụt, nghe hơi khá thì xăm xăm chen gót tới, đến ngỡ đàn ruồi!
"Nhỡ sa cơ thì rồng cũng như giun, xem chiều hèn thì
thênh thênh vẫy tay ra, nhạt như nước ốc!
"Chẳng biết ăn cây nào rào cây ấy, thấy bở thì đào. Chẳng
biết được lòng ta xót lòng người, cứ mềm thì đục.
"Khó giữa chợ nào ai thèm hỏi? Chẳng mua thù bán giận
cũng thờ ơ. Giàu trên non lắm kẻ đi tìm, không ép dầu nài thương mà sạo sục…"
Cánh cửa bị đẩy toang ra. Phúc nhìn ra, thấy ông bố đã về, có
hai người lính cảnh sát đứng sau lưng, ông cụ quay lại nói gì đó, rồi vào mặt
mày hí hửng:
- Không phải thuê! Quan chánh Cẩm phái lại gác đấy, chứ không
mất tiền thuê!
Cụ tìm tráp trầu, lấy một miếng nhai bỏm bẻm, rồi đưa cho thằng
nhỏ:
- Đem ra mời các ông ấy xơi, rồi đưa cả gói thuốc cho các ông
ấy. Xong đâu đấy cài cửa kỹ.
Đoạn cụ kể sự tình ở Sở Cẩm ra sao, những nhân viên hỏi thăm
cụ ra sao, quan chánh bắt tay và chúc mừng cụ ra sao, v.v…
Nhưng cô Đức sốt ruột kêu ầm lên:
- Anh ơi anh, ăn nem đi chứ!
Cả nhà ngồi vào bàn, ăn uống chuyện trò rất vui vẻ. Người ta
bắt đầu bàn nhau nên bảo anh Phúc dùng số tiền mười vạn ấy ra làm sao. Bà mẹ muốn
con tậu nhà tất cả, nhưng ông bố không hoan nghênh ý kiến ấy lắm. Vợ Phúc không
nói nửa lời, định lúc nào đi nằm với chồng mới nói nhỏ to. Cô Đức, tuy chỉ muốn
xin anh một cái vốn riêng thôi, mà cũng không dám nói, chỉ vì có chị dâu ở đấy.
Và cô nịnh anh khéo như thế này:
- Thầy đẻ không nên bàn. Tiền là tiền của anh con, phải để
tùy ý anh con, chẳng gì anh con cũng là một người tử tế, đứng đắn, con chắc anh
con đã có tiền thì phải biết dùng tiền hơn tất cả mọi người khác.
Phúc vẫn không nói gì. Tự nhiên anh đã có cái vẻ mặt lầm lầm,
cái thái độ xứng đáng của các tư bản. Anh ăn qua loa mấy miếng rồi đứng lên. Cả
nhà nài ép mãi, anh chỉ lắc đầu, kêu không ngon rồi anh bỏ tấm vé số vào túi, định
bụng lên cất trên tủ riêng. Anh lên gác, được vợ lên theo ngay để buông màn, trải
chăn cho.
Phúc nằm dài xuống giường.
Nhưng anh biết trước rằng đêm nay, anh sẽ không ngủ được.
--------------------------------
Thời trước báo ra hằng ngày thường được gọi là “nhật
trình”. |
|
Thận trọng ngàn vàng. |
|
Người ta thường nói “Nhân bần trí đoản” |
|
Người Ấn Độ da đen cho vay nặng lãi thường cũng gọi là
sét-ty. |
|
Can hệ thời ấy có nghĩa như là quan trọng thời nay. |
|
Nhà pha Hỏa Lò ngày nay, thời ấy gọi theo tiếng Pháp prison
centrale nghĩa là nhà tù trung ương, đọc chữ sau centrelera Xang – Tan. |
|
Kẻng là tiếng lóng do gọi tắt chữ Americam, đọc là
a-mè-ri-ken, chỉ cái gì thuộc về người Mỹ, nước Mỹ. Đây muốn nói là giàu như
nước Mỹ, sang như Mỹ. |
|
Vui lẽ trời, không nghĩ đến cái nghèo. |
VI. TRONG TAY ĐÃ CÓ ĐỒNG TIỀN
- Không, nếu anh không tậu ô tô thì thật là sự không thể tha
thứ được!
Thấy Phúc không đáp. Tấn quay lại hỏi cụ phán:
- Bẩm cụ, cụ dạy thế nào? Cháu nói thế cụ bảo có phải không?
Cụ phán nói ngay:
- Việc ấy là quyền ở cháu…
Vợ Phúc cũng tán thành:
- Bác ấy nói phải lắm, ở cái xã hội nhố nhăng này, lắm kẻ khốn
nạn cũng ô tô hòm kính vênh vang nữa là nhà tôi! Nhà tôi mua xe hơi là xứng
đáng lắm.
Nói xong chị Phúc sung sướng vì thấy mình đã biết ăn nói đài
các. Mua xe hơi thôi, chứ chị không thèm dùng tiếng tậu, vì sợ nó long trọng
quá. Tuy chiếc xe hơi không phải là một mớ rau thật đấy, nhưng bây giờ, vợ chồng
nhà chị đã thế rồi, thì nói đến tậu là còn tỏ ý coi cái ô tô là to. Chị ta hỏi
chồng là cốt để dùng tiếng mua một lần nữa:
- Thôi cậu ạ, vật thử nó đáng là bao mà còn phải nghĩ ngợi thế
nữa! Cứ mua phăng ngay đi! Đắt lắm thì cũng đến dăm, bảy nghìn bạc là cùng chứ
gì? Mua đi thôi.
Phúc đáp chung cho cả vợ lẫn bạn:
- Tôi chưa hề nghĩ đến điều ấy đấy.
Tấn cổ động mạnh hơn:
- Anh ấy à? Thì không những tậu một chiếc xe hơi mà thôi, mà
lại phải trong một lúc tậu hai cái nữa ấy! Tôi nói thật chứ không nói đùa!
Phúc chỉ cười hoài nghi, thì Tấn tiếp:
—Thật thế đấy, chứ bây giờ, ai còn dám nói đùa với nhà Tư bản,
mặc dầu nhà tư bản vẫn còn lòng tốt, vẫn cứ coi mình là bạn! Thế này nhé: Một
chiếc bẩy chỗ ngồi, để cả nhà cùng đi, vào những lúc đi lễ các tỉnh, đi trẩy hội
chùa Hương, đi Huế, đi Đế thiên, Đế thích, đại khái thế, mà đã đi chiếc xe hơi ấy
là có tài xế, cho mình có vẻ đứng đắn, giàu có một cách lâu bền … còn một chiếc
nữa, thì chỉ nên mua thứ xe thể thao có hai chỗ ngồi thôi, mình vặn lái lấy cho
nó có vẻ công tử bột, trẻ trung, tức là "kẻng" đấy, để đi chơi một
mình hoặc cao hứng thì đi với vợ, hoặc là, nói thể này xin bác gái tha lỗi, đi
với nhân ngãi "ăn mảnh". Có thế mới công tử vẹn cả hai bề chứ?
- Bác Tấn, tôi giận bác lắm đấy nhé? Chưa chi bác đã nối giáo
cho giặc.
Phúc khen:
- Gớm cái mồm mép anh này! Tán cái gì là tán đâu ra đấy, bánh
chưng tám góc rõ ràng lắm!
Tấn thích chí lại tán rộng:
- Chứ không ư? Đức Thánh Khổng đã dạy rằng… đã dạy rằng… Xe
hơi xứng kỳ đức! Thí dụ anh chỉ là thầy bói tân thời không mù, hoặc "vua
thuốc lậu" mới nẩy nòi mà cần bịp thiên hạ là mình đắt khách, thì tôi chỉ
khuyên anh đi mua một chiếc xe hơi cũ sơn lại, đáng độ năm trăm thôi. Đằng này,
anh trúng số độc đắc, nếu không tậu ngay hai chiếc thật cừ thì ít ra cũng phải
tậu lấy một cái vậy, và thế thì cũng đã nhũn nhặn rồi đấy. Chứ nếu không tậu một
cái nào cả, thì không sao nghe được, thế nào thiên hạ họ cũng sẽ nói xấu anh,
và anh sẽ bị công kích một cách chính đáng là giàu thế mà bẩn thỉu, keo kiệt…!
° ° °
Lúc ấy bốn người còn đương lửng thững đi trên thềm tòa nhà đồ
sộ trong đó có chứa nhiều tiền bạc nhất trong nước Nam, tức là Nhà Băng Đông
Dương… Họ vừa ở trong ấy ra, vì Phúc vừa đến lấy chữ ký của ông giám đốc Nhà
băng ký vì giữ hộ anh số tiền mười vạn mà Sở kho bạc sẽ chuyển sang sau. Phúc
cũng đã ký nhận rằng mình vừa lấy ra số tiền rất nhỏ là một nghìn để tiêu vặt.
Anh còn đương cảm động về sự tiếp đãi lễ phép của ông giám đốc, cái bắt tay rất
chặt, những câu chúc tụng rất quý hóa, cái thái độ rất ngọt ngào của một nhà đại
tư bản người quý quốc đương nắm vận mệnh nhiều nhà tư bản khác trong tay. Chưa
quen dùng đến ngân phiếu, anh quên khuấy ngay rằng Nhà băng đã trao cho anh một
số tiền ngân phiếu mà anh đã đưa cho ông bố bỏ túi. Bây giờ Tấn giục phải đi tậu
ngay ô tô, anh tưởng như phải có tiền ngay trong túi đã và muốn thế phải quay
vào lĩnh tiền, thì thật phiền cho người ta. Thêm nữa, anh cho việc ấy là không
vội gì cho lắm. Trông tới cái vườn hoa Paul Bert trước mặt, anh thấy cái hứng
thú ghê gớm lại ra ngồi đó một lát để nhớ lại những lúc êm đềm mà anh đã sống
cái đời hàn sĩ lạc đạo vong bần rất quý hóa của anh. Những phút ấy, tuy vậy mà
đối với anh, từ nay trở đi, thì thật là hết, anh chẳng có cái quyền thế gì được
sống lại nữa, mặc lòng trong đó xưa kia đã có một vài bi kịch nhỏ nhặt nó không
làm cho con người ta quên được những kỷ niệm, không quên được quá khứ, để mà biết
rõ cái giá trị của hiện tại và tương lai. Tâm cảnh lúc ấy chẳng khác chi tâm cảnh
của một ông tân khoa áo gấm hồi hương mà muốn nhìn lại nhà trường cũ tại đó
mình đã sống đoạn đời học sinh, có khi bị phạt, bị phải quì… Những cái ấy đối với
ta tuy vậy mà đã có thú vị lắm, vì nó đã đi thì không có trở lại nữa.
- Ối chà! Chẳng biết gì cả, ta hãy cứ ra vườn hoa đây ngồi
chơi một lát đã.
Vợ anh nhìn trộm anh để yên trí rằng anh vẫn còn gàn, tuy rằng
chị không dám nói ra. Cụ phán không hoan nghênh sự ấy nhưng không dám phản đối,
cái ấy đã cố nhiên lắm. Còn Tấn, thì anh này vẫn không quên lo cho cái thể diện
của bạn đột khởi có lẽ không cần lòng sốt sắng của anh mấy nữa.
—Vậy anh đã thuận chưa? Anh sợ gì nào? Sợ tốn tiền thì điều ấy
chắc không rồi. Sợ hại cho đạo đức thì đạo đức quá, vì có xe hơi thế không có
gì hại đạo đức. Còn bảo sợ không xứng đáng thì không có ý, vì tôi biết lắm, rất
nhiều người chỉ đáng làm đầy tớ anh mà cũng có ô tô rất oai. Vả lại, đức Thánh
Khổng đã dạy rằng con người ta ở đời này, đã phú quý, thì cứ việc ăn ở cho rõ
ra người phú quý, mà thanh bần thì cứ việc cư xử ra người thanh bần. Đừng có
nghèo mà đánh đu với tình, tuy toe tùy tòe, có đồng nào xào đồng ấy, mà cũng đừng
nên phú quý mà lại ăn ở ra con người bần tiện. Tiêu tiền không có gì là phạm tội
nếu mình có nhiều tiền để mà tiêu. Ấy ở đời rất có nhiều người cứ nhầm, nghĩa
là giàu có hẳn hoi mà lại cứ tiết kiệm, coi việc tiêu tiền là hoang phí, là có
lỗi đối với những người không có tiền mà tiêu. Thế là nhầm chứ! Đã giàu, mình
phải tiêu tiền thì kẻ khác mới được nhờ chứ. Cứ để đánh đống lại, sao cho tiền
tệ lưu thông, kỹ nghệ, thương mại phải chết? Dầu anh có hoang phí một chút nữa
thì cũng không có gì là trái đạo đức, vì thiên hạ chỉ là sẽ được hưởng, được nhờ,
được sống vào cái hoang phí của anh. Đây này: thằng giàu mà lại không tiêu tiền
thì tất cả những thằng nghèo chết hết, ấy cái thuyết minh kinh tế của đức Khổng
là rất phải, rất mới đó!
Phúc cười rộ lên rồi nói bông lơn:
- Quái cho cái thằng cha này! Đi hát cũng viện được đức thánh
Khổng định tậu ô tô cũng lại viện đức thánh Khổng nốt! Chỉ tiếc rằng một người
hiểu Khổng giáo đến thế thì chẳng bao giờ hành động sự gì là đạo đức, là bác ái
như đức Khổng mà thôi!
Sung sướng, Tấn cũng cười ngây thơ không biết rằng lúc ấy bố
và vợ bạn đều lấm lét nhìn trộm mình để cho mình là một đứa nguy hiểm, và có lẽ
để đương dự thảo một chương trình phức tạp và khôn khéo mà mục đích là "tẩy"
mình đi nữa. Thật vậy, lúc ấy thì cụ phán lẫn chị Phúc đều đã quên khuấy ngay rằng
vì có Tấn thạo đời mà việc đi khai trình, ký nhận chuyển tiền của Phúc được dễ
dàng, nhanh chóng, trót lọt; rằng Tấn đã vì bạn mà xin nghỉ việc từ sáng đến
chiều, cả một ngày để giúp Phúc được bao nhiêu công việc rất lớn lao. Có lẽ vợ
Phúc quên cả rằng sở dĩ mình khỏi bị mẹ chửi là vì tiền của Tấn, và cụ phán có
lẽ cũng quên nốt cả cái sự to tát tưởng chừng không bao giờ kẻ mất trí khôn nào
quên được, là con mình sở dĩ bước nên giàu, ấy cũng là vì có tiền của Tấn thì mới
có cái vé số Phúc đức ấy nữa. Còn về Tấn, sở dĩ anh giúp bạn rất hết lòng, và
có những ngôn ngữ tự nhiên, thân mật như vậy, là vì Phúc vẫn rõ cả, cho nên anh
thấy có một cái quyền, dẫu là người ta chỉ mới cho anh hưởng một cách tinh thần,
thấy rằng hạnh phúc của cả gia đình ấy mà có được là nhờ ở anh; và ai kia thì
chẳng kể, chứ chính bố và vợ người trúng số, thì chẳng đời nào chưa chi lại
quên những điều chẳng nên quên. Nếu Tấn không nói ngay ra lời những ý nghĩa đã
còn kín đáo trong óc, thí dụ như đòi hưởng một phần vào số tiền to ấy, là vì Tấn
biết rõ Phúc chẳng phải là kẻ bội bạc cho nên anh ta cứ giữ thái độ cao thượng
đã.
Bốn người ngồi xuống một cái ghế xi măng trước Nhà kèn. Trừ một
Phúc ra thì thôi, chẳng ai thấy thú vị gì ở cái sự phiếm du kỳ quái của người mới
giàu bạc vạn ấy. Nếu bảo thế là phí thì giờ thì quả cũng đúng! Nhưng thấy Phúc
ra vẻ khoan khoái nhìn khắp chung quanh một cách dễ chịu như người giang hồ khi
về cố hương nên không ai dám bình phẩm gì cả.
Chính lúc ấy, Phúc nghĩ lôi thôi như thế này: Ôi, cái vườn
yêu quý của ta, lần này thì ta đến đây có lẽ là để vĩnh biệt ngươi mà thôi! Từ
nay trở đi, cuộc đời ta đã có một cuộc thay đổi lớn lao, vì số phận đã muốn rằng
nhà hàn sĩ phải trở nên ông đại nghiệp chủ… Có ông nhà giàu bạc vạn nào mà lại
chịu ra đây ngồi chơi suông để cố tìm mà hưởng những thú vị hoàn toàn tinh thần
rất khó hiểu hay không? Than ôi, từ nhà thi sĩ, ta đã trở nên một tay tư bản rồi
sao. Ta ước ao rằng địa vị ta dẫu có thay đổi, nhưng tinh thần ta thì vẫn trước
sao sau vậy, thủy chung như nhất ngõ hầu một ngày kia, nếu có dạo gót đến chốn
này, nhớ lại cái sống thanh bần, những tư tưởng tốt đẹp mà phần nhiều kẻ nghèo
có rất nhiều để mà không thực hành được, nghĩa là những tư tưởng mà kẻ giàu thực
hành rất dễ nhưng không có được, thì ta phải khỏi âm thầm hổ thẹn với ngươi! Liệu
rồi có thế được chăng, hay là số phận đã muốn rằng địa vị ta một khi thay đổi
thì chí khí và hành vi của ta cũng theo luôn mà biến hóa, để mà tỏ rõ rằng dẫu
là thi sĩ hay là trọc phú, thì cái con người cũng đến vô dụng cho đời như nhau
mà thôi? Xưa nay ta vốn hoài nghi, ta không tin chính cả ở ta, thì ta dám biết
lòng Giời định cho ta trắng đen ra sao? Cho nên ta nguyện cố gắng được chút nào
thì hay chút ấy, chẳng dám hứa gì… Chỉ xin người chứng giám cho ta những ý nghĩ
này, bây giờ đây, đó thôi…
Có lẽ cái số anh phu lục lộ đến lúc khá, cho nên nhằm vào giữa
lúc ân nhân của anh vừa có những tư tưởng hiếm có ấy, vì cái nhớ ơn tạo vật mà
thấy nảy trong hồn cả cái thi vị lôi thôi nó như xúi giục người ta muốn tốt, muốn
làm việc thiện ấy, thì anh vác chổi chạy tới. Người phu này cố nhiên không hề đọc
báo chẳng biết sự gì, nên chỉ chào hỏi:
—Bẩm lạy cậu mấy hôm nay mới thấy cậu ra chơi. Bẩm cậu vẫn mạnh
khoẻ đấy chứ ạ?
Phúc rất vui thấy người ấy chưa biết mình trúng số, vì sự vấn
an ấy là vô cùng thành thực. Anh gật đầu giới thiệu:
- Không dám… đây, cụ tôi, và đây nhà tôi…
—Bẩm lạy cụ ạ, bẩm lạy mợ ạ.
Vợ Phúc cau mặt, và tin ngay rằng thằng này hẳn lại chỉ đến
xin tiền chồng mình. Cả cụ phán cũng cùng ý nghĩ ấy, cho nên cả hai đều gật đầu
lãnh đạm lắm. Phúc nhớ rằng người phu này, chỉ một mình người này, là dám kính
trọng anh, là dám bảo anh sẽ có bạc vạn, từ lúc anh chỉ là "cậu áo trắng
dài" thôi. Anh không quên mình đã định thưởng, từ lúc mới chỉ ao ước trúng
số. Lúc ấy anh phân vân tự hỏi: "Tuy ta phải giả lời hứa với ta thật,
nhưng biết cho hắn bao nhiêu bây giờ? Thưởng, ừ thì thưởng, nhưng một cuộc đoán
tướng, thì thưởng ra sao? Năm chục? Bốn chục? Hay hai chục?"
—Này, bác nói đúng lắm, tôi rất lấy làm phục.
Nói đến đây thôi, Phúc ngừng lại, anh toan khen ngợi người
phu ấy xem tướng giỏi, nhưng lại thôi ngay. Vì anh rất sợ rằng làm thế, tức là
xui người này sẽ đổi nghề, sẽ từ chức quét vườn hoa mà nhảy lên làm thầy bói
tân thời không thông manh, thì xã hội sẽ nguy to, thì điều thiện của anh có thể
trở nên ác mất.
Cho nên Phúc ngừng lại và rồi đổi:
- Phục bác chỗ nghèo mà công nợ trả sòng phẳng lắm, đó là một
đức tính tốt nên giữ mãi, và vì thế, nên đây tôi thưởng cho bác.
Phúc đã toan đưa ra hai chục bạc, thế mà không hiểu thế nào
lúc đưa ra thật, tự nhiên lại rút bớt đi.
- Cho bác… một chục bạc, vì cái sòng phẳng đó.
Cố nhiên người phu không hiểu, không dám cầm.
- Thì cầm lấy chứ!
Đưa xong, Phúc an ủi ngay mình ở chỗ đã bớt mất nửa số tiền:
"Một chục, phải, hãy đưa thế thôi!… Mà này, thì sao thoát khỏi đến cầu ta,
sau này, nhiều lần nữa? Cũng trả vội gì, và một chục to lắm rồi "
Vì cảm động chẳng kém bị sét đánh, người phu mãi mới ấp úng:
- Bẩm lạy cậu, con… con lạ quá… Trước kia, cậu cho vay một đồng…
cũng đã cứu sống gia đình nhà con. Bây giờ, chỉ vì sòng phẳng… tự nhiên cậu lại
cho một chục… quý hóa quá… Không lấy thì phụ lòng cậu, lấy thì tham quá… biết lấy
gì nhà báo đáp được!
Phúc đáp:
- Người ta đã cho, người ta lại mong được báo đáp à? Thôi đừng
nói lôi thôi! Tôi chỉ muốn thế này: Mai kia, khi nào có kẻ nói xấu tôi, chửi
tôi là đểu, không thương người, thì bác phải cãi lại hộ, vì tôi nhân đức thế
nào hẳn bác phải biết!
- Dạ, bẩm vâng!
Thế là Phúc sung sướng, có nói thế, có giao hẹn thế, anh mới
thật hoàn toàn không tiếc số tiền thưởng. Nhưng vợ anh tiếc của, nghi hoặc, lúc
ấy khổ sở lắm tự hỏi: Duyên cớ gì đây? Hay là em gái thằng này là con hàng mía,
là con hàng bưởi, là con vú đầm? Thằng này có là ma cô hay không, hở Đức Chúa
Giê Su?"
Cụ phán khoanh tay lại, nhìn một hòn cuội trong cái đống mấy
vạn hòn cuội. "Chết chết! Thế này thì nguy to! Con cụ, cái nhân đức ấy thì
đáng phục, nhưng mà tai hại. Thà xấu! Dại dội thế, dễ dàng thế, hỏng bét! Tốt
quá thì hại, thà xấu! Thôi thôi, phải liệu sao, chứ không thì cái lộc kia mấy
lúc mà đi đời!" Cụ khẽ thở dài.
Cho đến lúc cả Tấn nữa, anh cũng phải lấy làm lạ, mặc lòng
anh đã hiểu Phúc là người dễ thương kẻ khó.
Thấy người phu toan chắp tay nói gì nữa, Phúc đứng ngay lên
xua tay:
- Thôi, đừng cảm ơn lôi thôi nữa, bác chưa nói tôi cũng thừa
hiểu! Đây này: Tôi trúng số mười vạn, bác nghe rõ chưa? Thế cho nên tôi cho bác
chục bạc vì thương bác là con nhà lao động không có gì lạ, hiểu chưa? Bác vẫn
quét vườn hoa cho tôi ngồi kia mà. Thôi để lúc khác sẽ nói, đi làm đi!
Nói rồi, Phúc ra hiệu cho ai nấy đứng lên đi theo, mặc người
phu sung sướng ngẩn ngơ đến nỗi chưa kịp bỏ vào túi mười tờ giấy bạc nữa.
Đi đã hơi xa chỗ ngồi ấy, Phúc vội cắt nghĩa cho ai nấy khỏi
tiếc:
- Có gì đâu! Thằng cha ấy xem tướng giỏi, tháng trước dám
đoán tôi giàu to thì thưởng cho hắn đấy.
Vợ anh khẽ thở dài, đã được yên tâm.
Phúc vui vẻ hỏi:
- Đi đâu bây giờ nào? Về ăn có lẽ sớm quá.
Tấn giật tay áo bạn:
- Đi xem mấy hãng ô tô xem có cái nào đáng tậu không?
Vợ Phúc hưởng ứng:
- Bác Tấn nói phải đấy. Ta hãy đi xem cơ mà! Mua ô tô thì
cũng nên khảo xét kỹ lưỡng một chút.
Phúc gật đầu, tặc lưỡi:
- Ừ, thì đi!
Phúc chợt nhớ: Nếu tậu ngay cũng không phải trả tiền mặt. Đã
có séc kia mà, thì anh ký chơi một cái đầu tiên để xem cái mùi vị tiêu tiền lối
đại tư bản Âu Mỹ ấy nó ra sao có lẽ cũng hay hay. Đồng thời, anh lại nhớ đến
hãng ô tô mà anh đã đến xin việc tháng trước, thằng chủ đểu có con chó khổng lồ
hỗn, lão ký đê tiện, ếch nằm đáy giếng, coi trời bằng vung… "Phải đến đấy,
xem chúng tiếp đãi mình thế nào! Nào nào! Xem những cái mặt làm bộ của chúng ra
sao! Chúng đã làm mình hiểu thế nào là cái nhục, thì nay mình phải cho chúng rõ
cái gì là đồng tiền! Tậu ô tô, không phải vì cái thói rởm đời của kẻ giàu hơi,
nhưng vì muốn hiểu thêm cái chó má của loài người, để rửa một cái nhục, dẫu là
mấy nghìn bạc! Nghĩ thế, anh hả hê như đã báo thù được rồi.
- Gọi xe đi chứ? Tấn hỏi thế.
Phúc đã toan gật bỗng lại lắc:
- Ấy! Không! Không đi xe! Cuốc bộ thật xa để đi tậu ô tô, thế
mới chua ngoa! Vả lại, phải nên nếm trải cho tận cái khổ đi bộ mỏi chân ngay
bây giờ đi, kẻo rồi ra lại không còn được dịp đi bộ nữa! Có thế mới là biết hưởng
sự đời chứ?
Tấn reo lên:
—Thế thì tuyệt! Tư tưởng ấy mới thật là lỗi lạc đó.
Cụ phán khẽ nói:
—Tôi tưởng hay là về nhà nói chuyện lĩnh tiền, gửi tiền đã, kẻo
đi lâu quá, ở nhà không hiểu ra sao, sốt ruột mà đi tìm chăng.
Phúc nói ngay:
- Ấy, thế lại càng hay! Sốt ruột mãi, rồi mà vui, thì cái vui
ấy mới thật là cái vui! Biết ngay, yên tâm ngay thì còn thú quái gì? Cho nên ở
đời có kẻ chỉ có một đồng kẽm, mà phải nhắm nhắc tung hê nốt đi, để phải tìm
cho cực kỳ khổ sở, mục đích là muốn được hưởng cái sướng không đáng mất tiền.
Đi được dăm bước, anh lại nói một cách không thành thực mấy:
—Thế mới biết con người ta ở đời này toàn là hão cả! Cái chân
hạnh phúc là cái gì, nào có ai biết đâu! Thí dụ như tôi, trước kia, chẳng có xu
nào cũng đến thế mà bây giờ, trong tay có hàng vạn cũng chẳng thấy gì khác.
Thôi chí nguy, vì Phúc đã sắp sửa đổi cái bệnh nay là cái bệnh
triết lý mất rồi! Mà kể cũng lạ cho thói đời: chỉ toàn hay nói những lời trái
ngược với địa vị. Cho nên Phúc thở dài, làm ra vẻ thâm trầm lắm, tiếp:
- Cái sướng, cái khổ là những cái ta không sao nhận thấy hay
hiểu rõ được. Có thể nào quả quyết được không? Biết đâu rằng trúng số mười vạn,
đó lại không bắt đầu đi nhận một cái mầm đại họa? Ôi thôi, càng nghĩ càng thấy
khó hiểu, khó nói. Con người ta ở đời, chỉ có lúc đậy nắp áo quan, mới biết
khôn, dại, sướng, khổ…
Tấn đã lộn ruột về lời lẽ ấy, và muốn bảo ngay bạn: "Thì
anh thử đem cho thiên hạ mười vạn ấy đi xem nào! Lại phải hoài nghi gì nữa!"
Nhưng anh không dám nói gì, điều ấy cố nhiên… Cụ phán, chị Phúc, thì cứ việc lẽo
đẽo đi theo sau lưng Phúc thôi, vì tuy có nghe nhưng không ai hiểu nghĩa lý gì
cả.
Họ đi như những kẻ vô công rồi nghề.
Vào cuối mùa thu, những cây hai bên đường đều đã ngả vàng cả,
ánh sáng ban ngày hình như có mầu trắng, ta trông cảnh vật vào lúc râm mát như
qua một lần kính mỏng có chút hơi nước làm mờ đi. Kể ra, nếu vào lúc hoàn toàn
nhàn cư, óc quả thật không có bận bịu một ý nghĩ gì bất cứ là vui hay buồn, thì
người ta có thể thấy phong cảnh là đẹp mắt lắm đó. Chợt cụ phán đứng dừng lại,
nhăn nhó nói:
- Thôi để tôi xin về, kẻo ở nhà bà ấy sốt ruột. Các ngài cứ
đi!
Vợ Phúc thưa:
—Thế thầy cho con cứ đi nhé! Con muốn được chọn kiểu xe.
- Được mợ cứ tự nhiên.
Vốn biết tính bố rất sợ Tây, và do thế dễ nịnh Tây nữa, sợ
không khéo ông bố nếu cứ đến đó thì sẽ khúm núm lắm trò với cả ông chủ hãng xe,
cho nên thấy bố đòi về, Phúc rất thích chí, chẳng có nửa lời nài ép. Anh bảo:
- Thế thì thầy đi xe về cho nhanh.
Cụ phán gọi xe, mặc cả, và theo lối đa số các cụ thượng lưu
nhân vật, nhất định không chịu thua phu xe một đồng xu, làm cho Phúc phải gắt,
cụ mới thở dài bước lên cái xe. Khi xe chạy, cụ còn quay lại dặn:
- Này cậu hai! Có tậu thì tậu cái nào tốn ít dầu xăng thôi,
nhé?
Xe ông bố khuất rồi, Phúc cũng gọi xe. Cái triết lý đi bộ để
nếm tận cùng cái khổ trước khi bị hưởng cái sướng, chưa chi anh đã quên khuấy.
Nhưng vợ anh lại tưởng chồng mình đáo để, và đó là một cách kín đáo hành hạ cho
ông bố phải đi mệt xác, chán nản mà đòi về đó thôi. Chị lên ngồi xe một cách
khoan khoái vì chị cũng ghét bố chồng lắm, cũng cho rằng bố chồng vẫn khinh chồng
mình một cách quá đáng và dã man, dẫu rằng xưa kia, mỗi khi thấy bố mắng chồng,
chị cũng đã chỉ vào hùa với bố mà thôi, chứ chẳng bênh vực chồng bao giờ.
Đến cửa hàng bán xe hơi, Phúc bảo bạn và vợ:
- Đây này, xin nhớ giúp tôi là cách đây độ một tháng, tôi cầm
đơn đến xin việc sở này thì đã bị họ đãi hết sức là nhục. Vậy thì bây giờ, ta
cũng phải hách dịch và oẻ họe thế nào cho mặn này bõ nhạt ngày xưa. Ta phải là
những khách hàng rất khó khăn, mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng.
Cùng vợ và bạn, Phúc bước nghênh ngang vào tòa nhà hàng có những
tấm cửa kính vô cùng to rộng trong đó bầy mấy chục chiếc xe hơi tối tân cái nào
cũng có vẻ đẹp riêng. Người tây đen gác cổng, dễ thường vì một thứ khiếu đánh
hơi rất mầu nhiệm mà giống họ vẫn có, vội vàng đứng lên chào theo kiểu nhà
binh, vì biết ngay đó là những khách sộp chứ chẳng phải bọn người vào xin việc,
tuy y phục của ba người nhũn nhặn lắm. Phúc cũng nhận thấy rằng lần trước, cũng
đến nơi này thì anh đã sợ từ người tây đen gác cổng sợ đi, mà lần này, thì anh
có một cái linh hồn vững chãi một cách khó hiểu, tuy rằng chính thật thì dễ hiểu
lắm. Anh đi phăng phăng bằng những bước chân chữ bát sợ còn chưa đủ nghênh
ngang, rất mục hạ vô nhân. Có điều này càng đáng lấy làm lạ lắm nữa là cái con
chó khổng lồ, cái con chó giống như in con Kin tin tin, nó đã suýt nhảy lên cắn
cổ anh khi đến xin việc lần trước, thì bây giờ tự nhiên nó chạy đến ve vẩy cái
đuôi mà chạy chung quanh anh một cách mừng rỡ hết sức, đón tiếp anh một cách mặn
mà, nồng nàn mà chỉ người Tây phương văn minh mới biết. Phúc cười nhạt: "Lại
đến thế này nữa thì… Chó thật!" Và ông ký Sang cũng vừa lúc chạy ra.
Ba người đứng lại, nghênh ngang và hách dịch, rõ ra vẻ những
người khách hàng đi tậu xe hơi. Đến nỗi ông ký Sang phải lộ ra vẻ kính cẩn đến
bậc như sợ hãi, cúi chào cả ba rồi hỏi ngay:
—Bẩm… Các ngài muốn mua xe?
Phúc lạnh lùng đáp:
—Tôi muốn nói chuyện với ông chủ.
Nhưng người thầy ký nhà buôn thạo nghề ấy chẳng còn nhầm mà
coi anh đương là kẻ vác đơn đi xin việc nữa. Người ấy, sau khi nhìn kỹ anh để
cau mặt ra vẻ ngờ ngợ một phút, lại nói ngay như thế này:
- Bẩm ông, chủ chúng tôi đi vắng… Được ạ, nếu ¶¶¶¶¶ngài muốn
hôi gì thì có chúng tôi là đủ.
Phúc nói ngay:
- Ông chưa đủ, phải có chủ ông ra đây mới đủ!
Người thư ký vẫn chỉ đáp bằng một cái cười rất lễ phép mà
thôi. Rồi bỗng hỏi:
- A! Bẩm ngài… Chính ngài… Bẩm chính ngài là người vừa trúng
sổ độc đắc! Tôi đã được nom ảnh ngài trên báo..
Phúc gật đầu và nói:
- Nếu còn cái trí nhớ hơn nữa thì tôi chẳng phải chỉ người
trúng số mà thôi. Tháng trước tại đây, tôi đã có được ông tiếp một lần.
Phúc chờ ở mặt người thầy ký đê tiện ấy sự phát lộ của một mối
hổ thẹn, ngượng ngùng chi đó. Nhưng thầy ký Sáng chỉ gật đầu lia lịa, vẫn rất
vui vẻ, mà đáp:
- Dạ, bẩm vâng! Chúng tôi còn nhớ… Hình như quả ngài đã có một
lần đến đây đưa đơn, từ lúc ngài chưa được gặp cái may ghê gớm là cái số mười vạn.
- Cái lần ấy, ông chủ nhà ngài tiếp đãi tôi tốt lắm cho nên
bây giờ, tôi lại đến đây, trước là để chọn một cái xe, sau là để nhân dịp nhìn
lại cái mõm của chủ ngài thế nào! Vì vậy tôi bảo một ngài tiếp tôi, chưa đủ.
- Dạ, bẩm nếu thế thì tôi nói ông ra cho ngài lập tức.
Thầy ký Sáng hí hửng đi ngay, khiến Phúc phải ngẩn người ra.
Anh nghĩ: "Gớm, nó lại đồng ý với mình ở chỗ trả thù chủ nó đến thế được!
Nó làm như chỉ có một chủ nó là đã đểu với mình mà thôi…". Bỗng anh thấy
ngôn ngữ của anh từ nãy tới giờ mới thù hằn con trẻ làm sao! Hạng ấy, óc nô lệ
vốn có từ lúc sơ sinh, thì chấp nó mà làm gì? Cho dẫu cả chủ nó nữa, thì cũng
chấp mà làm gì? Những sự về trước đã cố nhiên thay! Đời là thế! Rồi thì là anh
định đổi thái độ.
Đến đây, người chủ tây đã ra. Với một cái cười ngoại giao,
người ấy cúi đầu chào cả ba người khách, nói liến thoắng hình như chỉ sợ bị
Phúc nói len vào mất, có người thầy ký đứng sau lưng.
- Kính chào bà, kính chào hai ông. Thưa ngài, tôi rất hân hạnh
được bắt tay nhà triệu phú mới mẻ đã được Thượng Đế công nhận là đáng hưởng sự
giàu sang ở đời. Nhân dịp tôi xin chúc quý ông và quý bà sẽ được khoẻ mạnh mãi
mãi để mãi hưởng cho thỏa thích cái phú quý ấy, vì ở đời này, ngoài tiền bạc
ra, thì sức khoẻ cũng là một thứ báu vật ít ai được hưởng một cách đầy đủ. Thưa
quý ông, thư ký của tôi vừa báo tôi thì tôi vọt ra ngay… hắn có nhắc lại câu
chuyện cũ mà tôi lấy làm hối hận, thật thế, vô cùng hối hận!…
Nói đến đây, giơ thẳng hai tay lên không khí định đỡ một vật
gì đó ở trên cao sắp rơi xuống đầu mình, sắc mặt đương vui bỗng buồn thiu. Giọng
nói trước giòn giã thế, bây giờ chỉ khe khẽ, qua những hơi thở:
- Có thể không, thưa ngài? Tại sao tôi, không đã ngu ngốc đến
bậc lại đi không biết rằng trong cái đám hàng trăm thanh niên Việt Nam đến nộp
đơn muốn giúp vào việc thịnh vượng của hãng tôi, thì có thể có một người. Ấy là
ngài, mai sau sẽ được cái may mắn trúng số độc đắc? Được một người thư ký giúp
việc mình mà trúng số mười vạn, há đó chẳng là một thứ vinh dự tột bậc cho một
kẻ như tôi hay sao? Thế mà cái cơ hội tốt ấy, tôi đã bỏ qua, cái hân hạnh ấy,
cái may mắn ấy, đã đến với tôi mà tôi không nhận! Còn biết làm thế nào? Than
tôi, tôi chỉ còn có một cách là hối hận, là tự giận nữa mà thôi. Bây giờ, ngài
lại đến đây, không phải để báo thù cái thái độ lãnh đạm của tôi khi xưa đâu
nhưng mà là để… là để….
Ông chủ hãng xe hơi quay lại sau lưng, hất hàm hỏi người thư
ký, không chờ được đáp, cũng quay lại nói tiếp:
—… Mà là để trừng phạt một cử động sơ xuất của tôi ngày xưa.
Chính thế, để trừng phạt! Thì nào tôi có dám kêu ca gì đâu! Đó cũng vẫn là một
thứ hân hạnh khi ta bị một nhà triệu phú trừng phạt! Tôi biết lắm, đáng lẽ thì
ngài sẽ đến hãng khác, tuy rằng hãng tôi bán thứ xe tốt nhất thế giới. Tôi lại
cũng biết rằng ý ngài là muốn tậu một lúc những ba chiếc xe hơi kia thì mới đủ
dùng cho các nhà triệu phú Việt Nam. Nghĩa là một chiếc 18 mã lực, 8 chỗ ngồi
cho cả nhà đi lễ Phật; một cái nữa, 2 chỗ ngồi, để quý ngài đi tự tình với các
bà nhân ngãi, và một cái thứ ba nữa, vào hạng xe xoàng nhiều chỗ ngồi, ít mã lực,
ăn ít dầu xăng, để ngài dùng để tiễn, để cho mượn những người bạn hữu hoặc họ
hàng có tính lôi thôi, họ chỉ đáng ngồi vào cái xe tầm thường ấy mà thôi. Nhưng
mà, than ôi, ngài quay lại đây để phạt tôi! Thì đáng lẽ mua ngay cho ba cái một
lúc, ngài hãy chỉ mua một cái đã… cái mốt năm nay giá sáu nghìn năm trăm bạc,
kia kìa! Và đáng lẽ cũng theo số đông các nhà giàu, các vị thượng quan, mua xe
trả làm hai mươi bận, thì ngài không thèm làm như thế, thì ngài mỉa mai tôi một
cách chua ngoa hơn nhiều, nghĩa là ngài trả tiền cả cho tôi ngay một lúc! Họa
chăng có thể, mới được một bài học xứng đáng của đời!
Nói xong, ông Tây khoanh tay, cúi đầu, lặng im, chứ không cười
một tí tẹo nào cả. Đến nỗi những mải nghe cái khúc cao làm hùng biện con buôn ấy,
cách nhập đề như thế, cách tả sự như thế, cách kết luận như thế, Phúc chỉ còn
biết ngẩn người ra mà thôi! Thật không thể tưởng tượng được!
Tấn nháy mắt bảo Phúc:
- Ấy đấy, thế có xỏ không! Nào đã biết Tây chưa! Mình đến
truy nó, để cho nó tóm cổ mình vào cho xiê!
Phúc nhìn thẳng vào mặt ông giám đốc hãng xe hơi hồi lâu, rồi
cười to vui vẻ, đoạn vỗ vai ông ta - Ông ta đây là ông Tây - mà nói chớt nhã:
- Eh bien! Je vous admire… Vraiment vousavez une gueule
formidable. 1
Ông Tây cười đủ cả 32 cái răng, so vai một cái, vòng tay sau
lưng ôm lấy Phúc một cách thân ái như ôm một nhân ngãi đẹp và bảo thư ký:
- Này, Sang! Mày dẫn quý bà, làm thông ngôn cho quý bà hiểu
những lời tao cắt nghĩa với quý ông trong khi ta đi chọn xe đây.
Quay lại Tấn ông hỏi:
- Còn ngài, xin lỗi ngài, hẳn ngài được cái hân hạnh là anh
em với nhà triệu phú?
Tấn gật đầu.
- Thế thì tôi xin chúc ngài làm thế nào giúp cho nhà triệu
phú được nhiều việc hữu ích.
Tấn cười nhạt bảo Phúc:
- Đấy, thế có cẩu không! Nước chảy chỗ trũng có khác! Nó chúc
mình hẳn hoi, vậy mà té ra nó vẫn chỉ là chúc thằng trúng số mười vạn!
Vì lẽ chính ông Tây ấy không biết tí tiếng Nam nào cho nên
ông ký Sang cũng dám góp chuyện:
- Thưa các ông, Tây này biết cả ăn mắm tôm là ngon.
Sau khi ưng ý chiếc xe tối tân 18 mã lực, 8 chỗ ngồi! hình
dáng cánh cam, đáng giá năm nghìn rưỡi bạc, Phúc bảo muốn đi thử, cố nhiên ông
chủ gọi ngay sốp phơ, rồi xin lỗi không có thì giờ cùng lên ngồi xe, chuyện trả
tiền, tịnh không đả động đến.
Chiếc xe ấy, sau khi đưa ba người dạo một vòng quanh Hà
Thành, thì đỗ lại trước cái nhà bé nhỏ ở phố Hàng Gai. Sau khi mọi người đã xuống,
Phúc bảo tài xế:
- Thôi cứ đánh xe về hiệu, nay mai tôi đến lấy.
- Dạ bẩm vâng.
- Có hề gì không?
- Dạ bẩm không .
- Không đem được khách quay lại sở, bác không sợ bị lão chủ
nó sẽ trách cứ gì à?
- Bẩm, không hề gì. Thế là thường lắm ạ!
—Thế ngộ tôi quịt mấy giờ rồi không mua?
Người tài xế cười mà rằng:
- Bẩm, thế nào rồi ngài cũng mua ạ.
Phúc cho người tài xế ấy đồng bạc, đứng nhìn theo chiếc xe tối
tân cho mãi đến lúc nó đã khuất, chẳng biết lúc ấy bà con hàng phố cũng lố nhố
đứng chen vai trong bậu cửa nhìn anh. Trước khi vào nhà, vợ anh đã nói to, có lẽ
cốt để thiên hạ cùng nghe cho vui:
- Cậu bảo thế nào, chứ tôi tưởng sáu nghìn cái xe ấy rẻ lắm!
Ba người chưa vào hẳn trong nhà, cụ phán đã lon ton chạy ra với
thái độ của người lúc nào cũng cho mình là quan trọng:
- Gớm, nhiều người đến hỏi quá!
Bà mẹ cũng chạy ra đón và hỏi:
- Khốn nạn, đã tậu ô tô ngay làm gì! Đi đâu mà cần ô tô.
Vợ Phúc hơi cong môi lên:
- Cứ như đẻ thì lại để số tiền ấy tậu thêm một cái nhà nữa là
hết chuyện!
Phúc hững hờ đáp:
- Không à? Tậu hai cái xe nữa là khác ấy!
Vào hẳn trong nhà rồi, Phúc được cô Đức bưng tới một cái khay
trong có hơn hai chục chiếc danh thiếp. Mới giàu được có hai hôm, anh chưa được
nếm cái khổ của nhà tư sản khi đi vắng về phải xem danh thiếp, xem tên họ, chức
nghiệp của những kẻ đến làm phiền. Cho nên thoạt đầu anh chỉ thấy vui vẻ, cái
khoan khoái của người mới được hiểu rõ cái chân giá trị, cái địa vị cao quý của
mình, thấy mình là to. Lòng tự ái của anh rất được thỏa mãn. Anh đọc những danh
thiếp ấy bằng cái óc tò mò của một thiếu niên lần đầu trong đời được thơ của
tình nhân vậy. Vì lẽ những người để danh thiếp lại chẳng phải là không có địa vị
to trong xã hội nên chi mỗi dòng chức nghiệp hiện ra trước mắt Phúc cũng đủ là
một cái điều khoản trong chương trình kiến thiết cuộc đời vương giả của anh.
Trước lúc ấy, anh chưa có một ý kiến rõ rệt về sự tiêu tiền. Bây giờ, ngần ấy
cái danh thiếp, đối với anh, anh đã thành một công trình tổ chức. Đó là một ông
bầu khoán, một nhà nghiệp chủ, một nhà kỹ nghệ, ba nhà buôn lớn, một kiến trúc
sư, một nhà họa sĩ, một nhà cho vay lãi, ba phóng viên nhà báo, và một ông hội
trưởng của hội từ thiện.
Phúc hỏi em gái:
- Thế cô tiếp đãi người ta như thế nào?
- Ông nào em cũng mời vào nhà, mời thuốc, mời nước hẳn hoi.
Nhiều ông không vào, chỉ đưa danh thiếp rồi đi. Ai cũng bảo để rồi sẽ quay lại.
- Ấy chết, bao giờ họ quay lại.
- Có ba ông nhà báo thì kêu bảy giờ sẽ quay lại, còn những
người khác không ai nói rõ.
Phúc đưa cho Tấn cái danh thiếp của ông hội trưởng hội từ thiện,
hỏi ý kiến. Tấn đáp ngay:
- Cái mã này thì lại đến xin tiền đây chứ gì. Hồi tôi trúng bốn
nghìn, lão này cũng đã tìm tôi mãi.
- Thế anh có cho hội của hắn đồng nào không?
- Có, đã phải quyên cho hội mất hai chục. Nhưng mà ấy là tôi
chỉ trúng có bốn nghìn thôi, mới thế. Còn anh chắc phải khác.
Phúc cau mặt giận dữ đáp:
- Cái hội này buôn… Bán cả người chết, thì còn từ thiện chó
gì. Chẳng qua một lũ quạ bay chung quanh cái thây ma! Một lũ người hiếu danh,
khọm già, đĩ lõa, hội họp nhau để loè đời, mưu việc tư lợi vì huy chương, bài
ngà, lấy việc từ thiện ra làm cớ che đậy bao nhiêu hành động bất lương, ám muội.
Phúc thấy còn có thể nói mãi, nói mãi không bao giờ hết những
lời buộc tội cay đắng, tuy rằng anh vẫn biết là bạn có thể cười anh chưa chi mới
giàu mà đã hết ngay cái lòng vị tha ngày xưa. Nhưng Tấn đứng lên cười nhạt, giơ
tay ra, kêu:
- Thôi mọi công việc thế là xong cả rồi, tôi xin phép.
Phúc ngơ ngác một lúc rồi bảo:
- Anh ở đây ăn cơm với tôi có được không?
Tấn lại lắc đầu:
- Thôi, không tiện…
- Ô hay! Sao lại không tiện?
- Đấy, rồi anh sẽ biết. Những lúc như thế này anh đối với người
nhà anh, mỗi phút họp mặt nhau đều là quý lắm, nếu tôi cứ ở lại gia đình anh sẽ
không nói được những câu chuyện riêng với anh. Thôi để lúc khác. Anh em mình với
nhau, còn lo gì?
Phúc vẫn không bắt cái tay bạn giơ ra, nghĩ rồi nói:
- Anh cũng có lý lắm đấy, nhưng mà theo ý tôi, thì tôi lại được
cần có anh ở bên cạnh tôi lắm. Rõ tức quá, bọn làm báo lại hẹn chốc nữa, bảy giờ,
sẽ quay lại.
- Tôi thấy bốn tờ nhật báo có ảnh cả rồi mà!
- Nhưng tôi chưa đáp một cuộc phỏng vấn của tờ báo.
- Vậy anh đã nghĩ rất kỹ những lời đáp họ?
- Cũng chưa.
- Nếu vậy thì nguy! Thì hãy hoãn lại còn hơn! Nói mà không
nghĩ, nông nổi, thì sẽ bị họ lung lạc, công kích, khích bác, mai mỉa, vì bao giờ
bọn làm báo cũng sẵn lời phúc đức, sẵn cái lối chọc gậy xuống nước, của người
phúc ta, cổ động giúp cho hội từ thiện.
Phúc gọi em gái bảo:
- Này, nhớ như chôn vào ruột đây này: Bảo u già, bảo thằng nhỏ
và tất cả mọi người rằng hễ có ba ông nhà báo đến hỏi, thì cứ đáp rằng tôi đi vắng!
- Mà không cứ nhà báo, bất cứ ai cũng bảo tôi đi vắng cả,
nghe chưa!
Cụ phán hỏi:
- Nhưng có cái ông gì đấy, là nghiệp chủ chi đó, đến gạn bán
một tòa nhà tây kiểu biệt thự ở đường Quan Thánh có vườn hoa chung quanh rất rộng,
xem chừng giá cả như thế thì hời lắm, vậy tưởng cậu nên tiếp ngay ông ta, nếu
ông ta chốc nữa đến đây.
- Thôi, thế thì tùy thầy. Liệu ai đáng tiếp thì tiếp, duy có
bọn nhà báo thì cứ là: Ông chủ đi vắng!
- Dạ, vâng.
Phúc nháy Tấn ra một góc nhà hỏi:
- Đêm nay anh có thích đi chơi không?
Tấn lắc đầu:
- Cũng không thấy cao hứng mấy!
- Nhưng cứ đi nhé!
- Nếu bị anh ép thì đi cũng được.
- Lại đến cái chỗ ấy.
- Được.
Phúc dúi cho bạn một tập năm chục bạc giấy, nháy mắt:
- Đấy, làm thế nào vứt hết chỗ ấy đi, nội đêm nay. Rồi tôi sẽ
xuống sau, không biết vào lúc nào, nhưng thế nào tôi cũng xuống. Anh cứ đi trước.
- Được lắm.
Tấn đi rồi, cái gia đình ấy ngồi vào bàn ăn. Bà mẹ và cô em
gái ở nhà đã hết sức trổ tài nữ công, vậy mà Phúc vẫn lắc đầu một cách tàn nhẫn,
chẳng cho món gì là ngon. Bị cái thất vọng ấy, hai người vốn nhiều lời lắm, bữa
nay nói rất ít. Ông bố cũng có hỏi Phúc mấy lần, nhưng vì Phúc không nghe thấy
nên ông lại đành ngồi ăn yên lặng theo cái lối ông bố sợ con. Sau cùng, thấy
Phúc trầm tư mặc tưởng, tất cả mọi người không dám chuyện trò gì với nhau nữa.
Người ta chỉ mời mọc nhau rất khẽ, bật ho cũng không dám ho to, hắt hơi cũng tạm
đứng lên chạy ra xa.
Phúc, lúc ấy, nếu là nhà báo, thì là đương nghĩ một cái bài tổng
công kích toàn thể các hội từ thiện. Anh thấy như có hiện ra trước mắt một lũ
người khăn áo chỉnh tề, thuộc hạng thượng lưu xã hội mà đầu óc rất nô lệ, tư
cách rất đê hèn, đương lấy cớ vì xã hội để thỏa mãn những cái danh lợi riêng
(tuy rằng những cái danh lợi ấy, Phúc chẳng rõ nó mày ngang, mũi dọc ra sao…)
Anh tin vững rằng ở cái xã hội khốn kiếp nhất là cái xã hội Việt Nam ta, chẳng
thể nào có kẻ nào làm nổi một công việc công ích gì mà không vì tư lợi.
"Phải, phải, nếu quả thật đã có một số người, dầu là số ít đi nữa, hoàn
toàn thành thực nghĩ đến đồng loại, thì xã hội này lại còn đốn mạt như thế này
hay sao? Việc gì cũng vậy, cứ đến người Việt Nam là hỏng! Tư tưởng nào ở đây
thì còn tốt đẹp, mà đến cái xứ Việt Nam, là chỉ gây rặt chuyện thối nát, những
trò nhố nhăng.."
Phúc thở dài bĩu môi.
Lúc ấy, anh ta chỉ là nghĩ rất thành thực, công phẫn một cách
chính đáng để mà tự cho mình cái quyền bi quan một cách lãnh đạm như các thánh
hiền mà thôi. Quả vậy, anh không hề ngờ ngợ rằng đó là cái lòng ích kỷ của anh
nó đã biến ra thiên hình vạn trạng trong tâm giới anh, nên chỉ anh mới không biết
rằng xã hội sở dĩ không tốt đẹp được, chẳng có người thành thực vì công ích được,
ấy chính là vì có kẻ nào khả dĩ hữu ích được thì kẻ ấy chỉ hoài nghi, bàng
quan, và chỉ biết thoá mạ như anh, thế thôi. Anh tức giận đến đỏ bừng mặt, vứt
đũa bát đứng lên lầm bầm: "Thật thế, làm chó gì có đứa nào tốt được!"
Và người nhà anh chẳng hiểu gì, thấy thế ai cũng ngay ngáy lo.
Phúc lấy tăm ngậm ở miệng, lên nằm dài trên sập, tay bắt
ngang trán. Trong thân thể anh một thứ nhọc mệt đã thấm vào, một thứ uể oải đã
chạy đi khắp tứ chi. Thì ra bộ máy tiêu hóa chạy chậm chạp vì bữa ăn quá no, đã
làm cho tư tưởng giới của anh không được minh mẫn xuất sắc như bình nhật.
"Thật thế, làm cho gì có đứa nào tốt được!.." Anh thầm nhắc một lần nữa
và thấy khoái chí lắm.
Nhưng chợt có một mẩu hồi sức bỗng nổi loạn trong lương tâm
anh! Nó làm cho anh phải giật mình, và thần vị kỷ trong lòng anh cũng không được
vui cười hả hê mãi nữa. Câu phê bình độc địa kia, Phúc thấy như là một sự khinh
tiết, một sự mạn thượng ghê gớm, nó hạ nhân phẩm anh xuống hàng hạ lưu. Ấy thế
là anh nhớ ngay đến một buổi vào thăm nhà Hội Tế Sinh ở ngõ Lý Thường Kiệt. Anh
ăn năn tự mắng mình: "Chết thật, ta đã nghĩ bậy quá đi mất! Dẫu sao thì ở
đời này tuy vậy cũng vẫn có người, dẫu là thuộc số ít - đáng kính trọng thật,
chứ sự đời chẳng đến nỗi hoàn toàn xấu cả đâu."
Bữa ấy, cách nay đã ngót một năm, anh đi dong chơi một cách
thư nhàn như số đông người thất nghiệp muốn tìm một điều lợi ích chi đó, trong
cái sự đi chơi lang thang, tình cờ đà chân vô định của anh đưa anh đến nhà Hội
Tế Sinh. Anh đã được mục kích hàng trăm trẻ con dưới mười tuổi, con nhà lao động,
vô sản, sống một cuộc đời công cộng rất có tổ chức, được ăn, học, chơi, tắm, được
thay quần áo mỗi ngày một lần, cứ thế mãi ngày nào cũng vậy, mãi cho đến khi
nào bố mẹ chúng sau khi không chết đói nữa thì lại đến xin con đem về nhà mà
thôi. Cái công cuộc xã hội ấy đã kích thích rất mạnh vào một tâm hồn giàu tình
cảm như của Phúc. Trông thấy sự tận tâm rất đáng khen ngợi của một ông giáo học,
người thư ký và của những người khác nữa thuộc nhân viên của nhà hội về sự săn
sóc lũ trẻ mà con mắt trưởng giả hẹp hòi của đời có thể coi là bẩn thỉu, khó
thương, trông thấy những phương pháp chép của Âu Tây mà bọn trẻ ấy được hưởng từ
lúc ăn, lúc học cho chí lúc nô đùa, Phúc cảm động hết sức, kính phục không biết
đến thế nào mà kể. Đến lúc được chào người hội trưởng lần nữa, thì lòng kính phục
của Phúc trở nên một thứ ngưỡng mộ có tính chất tôn giáo của người sùng đạo trước
hình tượng đấng Cứu Thế nữa. Anh đã phải vui mừng tự hỏi: "Chà! Ở cái xã hội
này mà lại có thể có được một người đáng kính trọng đến bậc này sao? Ở cái nước
Nam khốn khổ, xấu xa này, mà lại có được một sự tốt đẹp thế này hay sao?
Kể ra thì sự hoan nghênh ấy cũng là hợp lẽ lắm, vì người hội
trưởng là một bà già gần tám chục tuổi mà thiên hạ gọi nôm là cụ Cả Mộc, vẫn tận
tâm săn sóc lũ con cháu thiên hạ ấy chẳng kém con cháu của cụ và lại còn phải
lo sao cho hội khỏi đóng cửa, bầy trẻ thơ kia khỏi bị vô thừa nhận một lần nữa,
bởi có các hội viên rất hay quên đóng tiền.
Nếu quá lạc quan đi nữa, Phúc cũng không dám tưởng rằng ở đời
lại có thể có một người đàn bà góa chồng, không con, vốn giàu có, mà lại hy
sinh cả cuộc đời mình, vui lòng để sản nghiệp riêng tiêu mòn vào một công cuộc
xã hội, "miệng ăn núi lở" như thế mà vững được cho đến lúc già lụ khụ,
mà già cả như thế rồi không giảm lòng từ thiện chút nào, quên cả mình, quên cả
gia đình, chỉ vì cái vấn đề cơm áo của lũ trẻ kia.
Nghĩ thế xong thì Phúc tự thấy hổ thẹn đáng khinh bỉ không
còn để đâu cho hết. Mãi đến lúc ấy, anh mới hiểu rằng những tư tưởng hoài nghi
và bi quan mà anh vừa có, gốc tích là tấm lòng ích kỷ nhỏ nhen mà ra. Anh vội
giao hẹn ngay với chính anh rằng từ nay trở đi thì chính anh không nên tin ngay
cả anh nữa, việc gì cũng phải nghĩ đi nghĩ lại rất thận trọng mới được. Sau
cùng Phúc thở dài, vẫn còn giận mình để mắng mình "tự nhiên ta được hưởng
tới mười vạn đồng, thế mà ta đê tiện đến bạc không bằng một bà cụ già".
Nhưng ngay sau đấy, anh lại phì cười, vì nếu nói thế thì chẳng những một anh mà
thôi, trong thiên hạ, hằng hà sa số những trượng phu, tai to mặt lớn, lương đống
đại gia, khai quốc công thần, mà cũng không bằng bà cụ già ấy. Muốn cắt đứt sự
bứt rứt lương tâm, anh gật gù khẽ nói với mình:
- Năm trăm! Phải lắm, ta sẽ biếu cụ năm trăm.
Cụ phán bà thoáng nghe thấy sợ tái mặt đi, vội hất hàm cho cụ
ông vội để ý. Nhằm lúc cụ ông cũng để ý lắm, nên trông thấy cụ bà tái mặt, cụ
ông cũng đâm hoảng, cái xe điếu rơi khỏi môi và khỏi tay. Cụ sặc thuốc lào, cụ
ho một hồi rất dài tưởng chừng đến rách cổ. Chị Phúc, cô Đức cũng ngơ ngác nhìn
nhau.
Chợt lại thấy Phúc vui vẻ hỏi một cách ngây thơ:
- Thầy nhỉ, năm trăm bạc, thế đã có một số tiền to chưa?
Cụ phán ông lại giật mình một lần nữa, ngẩn người ra, không
biết đáp thế nào cả. Còn cụ bà thì không dám nói leo, điều ấy đã cố nhiên, nào
ai thèm hỏi tới mình! Cụ ông tự vấn: "Quái thật! Nó muốn cho mình năm trăm
à? Chỉ có thể rồi thôi hay sao? Minh đẻ ra nó, thì phải được hưởng vào số tiền
mười vạn ấy cho đến lúc quy tiên mới được chứ lẽ nào …! Hay nó cao hứng muốn
thưởng mình năm trăm để khai cái ngân tiền năm ngoái và rồi cưới con vợ lẽ
hơi?" Nghĩ thế rồi ông cụ chẳng ngần ngại đáp:
- Năm trăm bạc, thì có gì gọi là số tiền to!
Phúc trợn hai mắt thật to lại hỏi:
- Chết nỗi! Năm trăm bạc, "thì có gì"?
Ông bố lại ngất ngưởng cái đầu:
- Chứ không ư? Kể năm trăm đối với người nào khác thì có lẽ
cũng đủ là to. Nhưng với cậu, bỗng chốc trời cho có trong tay hàng mười vạn,
thì thế lại là nhỏ.
Phúc ngồi dậy, xỏ chân vào giầy, tuyên ngôn:
- Thôi thế thì ít ra tôi cũng phải biếu cụ một nghìn.
Bà mẹ, vẫn chưa thủng chuyện, nhưng cũng đã hơi mừng. Thôi
thì một nghìn bạc, nó cho ông ấy hay mình cũng thế, miễn có cho thì thôi. Bèn
vui vẻ hỏi:
- Phúc đức quá! Thế biếu cụ nào đấy?
Thấy bố mẹ đều vui vẻ sốt sắc như thế. Phúc chẳng còn sợ bị
ngăn trở nữa, tức thì cắt nghĩa:
- Biếu cụ ấy là cụ Cả Mộc, một bà cụ già góa chồng từ lúc trẻ,
mà đã hy sinh cho việc xã hội, làm hội trưởng một hội thiện nuôi hàng trăm con
nhà nghèo, tức là Hội Tế Sinh. Biếu cụ đây không phải là biếu riêng cụ, nhưng
là quyên cho quỹ hội mà cụ trông nom. Phải đấy, mình mà lại không bỏ nổi nghìn
bạc ra, thiên hạ nó cũng chửi.
Hai vị phụ mẫu của nhà tư bản đã bắt đầu lấm lét nhìn trộm
nhau. Cụ bà thề ngay với thiên địa quỷ thần quyết không tha thứ cho cụ ông về
cái tội dám cho năm trăm bạc còn là nhỏ. Nhưng vốn có cái óc thông minh vặt của
những viên chức trung thành không khi nào chịu ông sếp mắng dẫu là quả có tội,
cụ ông không run sợ về vẻ mặt hình như thốt nhiên mà sa chữ nãi của cụ bà. Cụ
chỉ đau đớn, xót xa, muốn ngẫu hứng nên một bài thơ cổ chửi cái thói đời đen bạc
một vố chơi.
Lại thấy Phúc sốt sắng nói:
- À, thế này thì tuyệt! Để đấy, mai kia có đem tiền xuống Hội
thì thầy đẻ cùng đi với con! Con sẽ để cho thầy đẻ được cái hân hạnh đặc biệt cầm
tiền đưa trao tay cụ Cả Mộc, và như thế là thầy đẻ đã làm được một việc từ thiện,
một việc phúc đức to tát bậc nhất, chưa có ai làm nổi.
Ông bố cố gượng cười để pha trò:
- Giả dụ con để cho thầy cái hân hạnh đặc biệt cầm nghìn bạc ấy
để trao cho thầy thì còn hơn.
Cái giọng "Kẻ Bưởi vơ vào" ấy rõ mới đáng ghét làm
sao! Phúc bị cụt hứng tức thì thấy lộn ruột lắm, không thể tha thứ được nữa.
Anh ta nghiêm nét mặt lại, đáng sợ như một vị bạo chúa, hỏi xong:
- Tôi nói đùa với ông đấy à?
Cụ phán không dám ngẩng mặt lên nữa. Cụ cầu Giời khấn Phật
sao cho cái giận của con cụ chỉ đến thế mà thôi, chỉ vùng vằng lên gác.
Bấy giờ bà vợ mới giẩu mỏ lên mắng đức ông chồng vô tích sự:
- Ừ, ừ! Rõ cái mặt kia! Đã biết sướng chưa? Ấy là người ngợm
không đáng nửa đồng xu mà khẩu khí lại to đến thế! Năm trăm bạc, có gì! Rõ nối
giáo cho giặc chửa!
Giậu đổ bìm leo, vợ Phúc cũng làm một câu:
- Thầy rõ thật là ăn không nhai, nói không nghĩ!
Cô Đức xưa nay vốn ngoan ngoãn lắm, vốn rất sợ bố nữa, thế mà
lúc ấy không thể không dám nói:
- Thầy thì rõ lẩm cà lẩm cẩm, phiền quá!
Bị tổng công kích dữ dội thế, cụ ông vẫn dịu dàng:
- Ô hay! Thì nào tôi biết đâu! Thấy cậu ấy kêu "biếu cụ",
tôi tưởng cậu ấy biếu bà, cho nên tôi cũng đỡ lời hộ, ai ngờ đâu lại đến nông nỗi
ấy!
Cụ phán bà cũng nguôi nguôi, tuy chẳng cảm ơn cụ ông. Vì Phúc
đã xuống đấy kia, nên không ai dám nói gì nữa. Đã nghe thấy cả, Phúc rất phiền.
Anh thấy cả gia đình anh không có một ai ra hồn cả. Anh hiểu ngay tại sao chẳng
có một ai làm nổi một việc gì khác thường, trong đám thiếu niên. Mà chỉ vì người
ta, ai cũng có bố mẹ, vợ, em gái. Không muốn việc của mình bị phản đối, dẫu là
ngấm ngầm, tức thì anh tuyên bố dứt khoát:
- Thôi đừng có ai sợ nhé! Thằng này đã không là thằng đểu,
thì nó không hưởng cả một mình đâu! Được được, không vội gì phải om lên! Rồi
thì ai ai cũng có phần cả! Không để ai mất phần đâu mà sợ!
Nói xong, Phúc mới thấy mình đã làm như một người phát chẩn
cho ăn mày, cho dân đói, khi thấy trật tự của hàng ngũ bị phá vỡ mà phải nói
cho đám chúng sinh đừng có xô đẩy hoặc chửi bới lẫn nhau. Thấy mặt mũi ai cũng
vui tươi sáng quắc lên, anh yên trí, cho rằng những người ấy chỉ đáng nghe thứ
ngôn ngữ ấy là cùng.
Chợt thấy vú già ngoài cửa hàng chạy vào thưa:
- Mợ, cô ra xem là ai. Có khách ạ.
Cả vợ lẫn em Phúc chạy ra. Rồi thấy lào xào:
- Thì tôi đã nói là ông ấy đi vắng! Không ạ, quả thật là đi vắng
chưa về. Vâng, không biết bao giờ về… Dạ? Vâng được, để bao giờ về, chúng tôi
xin thưa… Vâng, mai các ông đến sớm… Vâng, đúng chín giờ sáng các ông đến.
Rồi cô Đức chạy vào, hí hửng.
- Bọn nhà báo đấy, anh ạ. Em đã tống khứ họ đi cả!
Phúc rất vui, tuy rằng không biết mình đã tỏ, ở chỗ thiên hạ,
mà lại báo giới nữa, xin vào hầu anh cũng khó khăn như xin vào Quan Thống Sứ.
Anh khen cô em và hứa rộng rãi :
- Được, thế là ngoan lắm, rồi anh sẽ cho dăm nghìn.
Cô gái trẻ mỉm cười, cúi đầu tự nhủ rằng thế thì từ nay mà
đi, bất cứ ai đến hỏi cũng phải đuổi đi ngay tức khắc.
Nhưng lại thấy chị Phúc vào với một lá danh thiếp Phúc gắt:
- Rõ khỉ lắm nữa! Đã bảo đi vắng mà lại…
- Người này nên tiếp… Người này gạn bán cái… cái gì nhỉ? Cái
vila ở đường Quán Thánh đây. Cậu định mua ngay ô tô, thì có ngay biệt thự chứ?
Phúc đành gật đầu, tuy anh sợ ở dưới xóm, thực quản đã nóng
ruột.
Khách là một người đứng tuổi, vận Âu phục, có răng vàng trong
miệng, bút máy vàng ở túi áo, đồng hồ vàng ở cổ tay. Lời chào của khách là những
câu chúc rất nhã :
- Rất hân hạnh được ngài tiếp ngay thế này. Xin có lời mừng
ngài, và chúc ngài rằng với cái tài lộc tự nhiên ấy, ngài sẽ bốc lên hàng trăm
vạn nữa.
- Không dám, cảm tạ tiên sinh. Xin tiên sinh an tọa.
Được ngồi, khách vội giở cái cặp to ra, rút một đống giấy,
nói liếng thoắng:
- Thưa ngài, nếu ngài tậu ngay cho cái biệt thự này thì ngài
mua rẻ được năm nghìn bạc đấy ạ! Chẳng nói giấu gì ngài, tôi đương kinh doanh về
mỏ, gặp hồi khó khăn… Bán thế này lỗ mất năm nghìn, mà phải bán. Bẩm nhà ba tầng,
xi măng cốt sắt, kiểu tối tân. Có đủ lò sưởi, máy nước, vệ sinh máy. Bếp rất rộng,
lại thêm hai mẫu vườn.
- Ngài tha lỗi nhé, thế này thì không phải, nhưng tôi phải đi
đằng này tức khắc, mà việc này là can hệ, vậy xin ngài để sáng mai.
Người kia chẳng hiểu có điếc không nhưng cứ nói nữa:
- Vâng, hai mẫu vườn! Cứ một cái chuồng nuôi công của tôi
cũng đã đáng ba trăm bạc! Lại có bể bán nguyệt, có giả sơn cao hai thước năm
mươi. Vườn hoa đẹp mắt lắm, các thứ cây quý cả, quả đã gần ăn được… Đây là văn
tự, địa đồ, đây là ảnh tòa nhà ấy, mới chụp vì sợ ngài không thèm quá bộ đến
thăm… Bẩm giá đáng vạn rưỡi, nay chỉ xin ngài cho đúng một vạn.
Phúc cố gắt:
- Vâng, vâng thế thì đây có hai cụ tôi, ngài cứ việc nói chuyện
với hai cụ tôi xem sao. Còn tôi thì tôi xin phép ngài phải đi, mai ta lại gặp
nhau nữa.
- Bẩm, nếu thế cũng được ạ.
Cụ ông và cụ bà thấy bỗng dưng con lại cho mình cái quyền to
tát ấy thì sướng đến nở mũi. Bấy giờ cụ bà mới gọi pha chè mạn sen tiếp ông
kia. Hai con cụ thì tranh nhau cái ảnh chụp tòa nhà để xem như đồ trẻ con. Phúc
bắt tay ông chủ mỏ đương hẩm vận ấy, rồi ra đi.
Ra đến đường anh mới biết rằng người đến bán nhà cho anh cũng
đi xe hơi Ford hẳn hoi. Trông trước nhìn sau cả một phố không thấy tăm hơi một
chiếc xe cao su nào, anh rất bực tức. Phải đi bộ mất ít bước, anh cáu, nói một
mình như một kẻ phàm phu tục tử, thật xứng đáng với tư cách những quân đột khởi
thấy bất cứ sự nhỏ nhặt gì cũng là đại họa:
- Biết nông nỗi thế này thì mua mẹ nó ngay cái xe từ chiều!.
Chú thích:
1 |
Đây này tôi xin chịu ông… Thật vậy, ông có cái lưỡi lắt léo ghê gớm (V.T.P) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét