Trúng số độc đắc 1
LỜI GIỚI THIỆU
Trong cuộc đời ngày nay, trúng số độc đắc là một biến cố, thường
đem đến những thay đổi thật lạ lùng. Cái ngày trúng số như chia cuộc đời con
người gặp may ra hai phần, mà bao nhiêu thứ đều trái ngược nhau đến mức bi đát.
Cuốn "Trúng Số Độc Đắc" này đã vẽ lại con đường rất biện chứng, biến
một anh ký kiết ra một tay cự phú, với các hoàn cảnh gia đình, xã hội vây quanh
anh ta.
Thất nghiệp, anh Phúc ngày ngày ra ngồi vườn hoa đọc sách
"để tu thân sửa chí" thì bị vợ sỉ vả đủ thứ. Bố mẹ thì nói ra nói
vào, chửi Phúc là "ăn hại, đái nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bưng
bát cơm lên mà ăn". Nhẫn nhục đi xin một chân thư ký hãng buôn thì lão chủ
Tây ném đơn xuống đất. Viết bài báo được đăng lên trang nhất, nhưng khi hỏi tiền
nhuận bút thì bị tòa báo nhục mạ để quỵt.
Chưa đầy nửa tháng, nghe tin Phúc trúng số thì các nhà báo
kéo đến chụp ảnh, phỏng vấn, cung
kính vô cùng. Bố mẹ thì thay đổi như có phép thần thông, khiến
Phúc "phải cay đắng nhận ra rằng khi đứa con trúng số mười vạn cố nhiên là
bất thình lình cả bố lẫn mẹ nó cũng đều thấy nó biến hình ra là đại quý tử".
Cái số độc đắc không chỉ làm sinh ra hài kịch gia đình mà còn làm nổ ra những
bi kịch ghê gớm nữa: bố và anh cả Phúc tranh nhau năm trăm bạc của Phúc cho
"như hai con ác thú trước một miếng mồi". Cả cái lão Tây, chủ hãng
buôn ô tô, thấy Phúc đến là cúi đầu chào rất thấp, nịnh hót liên hồi, xin lỗi tới
tấp, thú nhận là "lấy làm hối hận. thật thế, vô cùng hối hận", khiến
Phúc phải chớt nhả một câu: "Xin phục ông đấy ông có cái mõm khiếp
quá".
Nhân tình thế thái, thì ra cái số độc đắc là giọt rượu quý đủ
ma lực làm cho nó đỏ hay xanh trước mắt người đời. Và như kết luận về cái khoản
ấy. Vũ Trọng Phụng đã để cho Phúc "tức cảnh sinh tình, nghêu ngao ngâm một
đoạn trong cái bài Thế tục phú của Trần Văn Nghĩa đời xưa:
«Khi đắc thế thì đất nặn nên bụt, nghe hơi khá thì xăm xăm
chen gót tới, đến ngỡ đàn ruồi…
Khó giữa chợ nào ai thèm hỏi, chẳng mua thù bán giận cũng thờ
ơ; giàu trên non, lắm kẻ đi tìm, không ép đâu, nài thương mà sục sạo».
Thói đời đổi trắng thay đen. Đúng thế, nhưng mà lòng người
cũng thường thay đổi theo thói đời.
Anh Phúc, "Vốn có óc một nhà triết lý" Phúc thấy
trong xã hội loài người ngày xưa tranh nhau mồi, "ngày nay tranh nhau tiền,
thế thôi". Nhân nghĩa, bác ái, vị tha nào ai quý mà còn bài bác nữa, nên
anh quyết chí "phải làm một người khác hẳn mọi người, quyết tu thân sửa
chí để lên được địa vị một hiền nhân quân tử ở đời". Vốn có bụng thương
người, tuy bản thân mình chi tiêu mỗi tuần lễ chỉ vẻn vẹn có năm xu diêm thuốc,
anh ta vẫn tìm cách giúp bác phu quét vườn tiền để chạy cho cai, khỏi phải mất
việc như mình, nhưng nhân thế mà thấm thía nhận ra một điều là "nhân bần
khí đoản", mình coi khinh tiền bạc cứ an bần lạc đạo thế này thì làm nổi
việc gì có ích cho người khác được vì "không có tiền thì không làm gì được".
Anh ta cam đoan với bạn là sẽ quyết chí làm giàu, để dùng đồng tiền làm phương
tiện làm nhiều việc tốt đẹp, "là nhân đạo, là bác ái, nói tóm lại thì để
cho người ta được nhờ". Anh nghĩ ra cả một chương trình "thực hành những
tư tưởng cao thượng vẫn sôi nổi trong óc", anh ta sẽ đem tiền cứu chữa
"những sự bất công, ngang tai, chướng mắt, thương tâm, đáng chán đời mà
nguyên nhân là chữ bần và chữ phú".
Nguyễn Văn Phúc của Vũ Trọng Phụng không thể không làm ta
liên tưởng đến Raxkonnikov của F. Doxtoievxki trong Tội Ác Và Hình Phạt, cùng một
lứa tuổi thanh niên, cùng một cảnh nghèo khổ, nhất là cùng biết thương người,
thấy những nỗi bất công trong xã hội là muốn cứu giúp những kẻ khốn cùng, và nhất
là cùng đi đến một nhận định như nhau: Muốn làm được việc ích lợi là phải có tiền.
Nhưng muốn có tiền thì việc đầu tiên là Raxkonnikov đã giết người, một mạng
thành hai, đã gây "tội ác" để rồi phải chịu "hình phạt".
Phúc của ta bình thường hơn, hiền lành, không có ý nghĩ gì về bạo động, chỉ mua
cái vé xổ số, tin rằng sẽ trúng số độc đắc, và y như rằng, đã trúng thật. Và
anh ta đã thực hiện chương trình từ thiện, lý tưởng giúp đời như thế nào khi
"trong tay đã sẵn đồng tiền?".
Đối với gia đình, người quen kẻ thuộc, anh ta đều giúp đỡ. Về
cứu tế xã hội, anh ta kính phục cụ Cả Mọc, một người có thật, tám mươi tuổi, suốt
đời tận tụy, hy sinh hết sản nghiệp để nuôi hàng ngàn trẻ con thiên hạ mà bố mẹ
nghèo đói bỏ cầu bất, cầu bơ, "lòng kính phục của Phúc trở nên một thứ ngưỡng
mộ của người sùng đạo trước hình tượng đấng Cứu Thế" và Phúc liền cúng tiền
vào hội Tế sinh của cụ Cả Mọc. Đến thăm lại vườn hoa Nhà Kèn, cái khung cảnh
cho quãng đời thất nghiệp vừa qua khi mấy đứa trẻ ma cà bông đã gọi anh là
"cậu áo trắng dài", Phúc không tránh khỏi than thầm: "Từ nhà thi
sĩ, ta đã trở nên một tay tư bản rồi". Và hiểu lòng mình lắm, anh ta chỉ
"nguyện cố gắng được chút nào thì hay chút ấy…".
Vừa nghe tin Phúc trúng số tức khắc có tay tư bản cần tiền, đến
bán tòa biệt thự sang trọng. Bố mẹ, vợ, bạn thúc giục tậu nhà, sắm ô tô. Bắt đầu
sống cuộc đời trưởng giả, Phúc cũng trác táng. Được khen là trước kia hiền
lành, đứng đắn, đạo đức, Phúc thật thà tự nhận xét "xưa kia tôi đạo đức là
vì chưa đủ tiền để hư". Anh đã thú nhận là nay anh không chống lại nổi
hoàn cảnh. Và cái triết lý của anh ngày ấy, nào là khinh của cải sống thanh
cao, có tiền thì để giúp đỡ người nghèo khổ… đó chỉ là triết lý của người ta
lúc còn nghèo, là triết lý của những người nghèo, lập luận theo hoàn cảnh của họ,
ước mong của họ.
Bây giờ giàu rồi, anh ta được bao nhiêu người nịnh hót, tạo
cơ hội cho anh ta lao mình hẳn vào con đường doanh thương của những tay tư bản
đến nỗi thỉnh thoảng chợt nhớ lại những tư tưởng cũ của mình, anh lại lấy làm
ngạc nhiên. Anh ta cũng đi theo cái mà Vũ Trọng Phụng gọi là "vết xe thiên
hạ" thôi. Cái số độc đắc đã đưa anh từ một thế giới lý tưởng, nhưng không
tưởng, sang một thế giới phũ phàng mà cá lớn nuốt cá bé, mà người là lang sói với
người. Và anh ta, dù có mang theo bao ý nghĩ, dự định, quyết tâm tốt đẹp, rồi
cũng dần hồi bị "cuốn theo chiều gió" không đi ngược lại được, vì
nghĩ cho cùng thì anh ta cũng chỉ là "một con người như tất cả mọi người".
Viết "Trúng Số Độc Đắc", Vũ Trọng Phụng đã tập
trung tất cả bút lực để theo dõi, phân tích, mô tả những thay đổi trong đời và
trong lòng của chỉ một nhân vật, nhất là trong lòng. Điều rất đáng chú ý là hơn
ba trăm trang của cuốn tiểu thuyết, không trang nào là không có Phúc. Các nhân
vật khác mà có mặt là chỉ để đối thoại với Phúc hay là để làm nền cho cái vai
trò của Phúc nổi lên mà thôi. Tìm đâu thấy một cuốn tiểu thuyết dài mà chỉ tập
trung vào tả có một nhân vật như thế. Mà nào có tả ngoại hình gì đâu? Về hình
dong của Phúc, người đọc chỉ được biết đó là "cậu áo trắng dài", theo
cái tên mà mấy đứa trẻ cầu bơ cầu bất cùng đóng trụ sở với cậu ở Vườn hoa Nhà
Kèn đã đặt ra để gọi cậu đó thôi. Nhưng mà trong một năm trời Phúc đã học gì,
nghĩ gì, yêu gì, ghét gì, suy luận gì về việc đời, dự định làm gì, tính toán lợi
hại ra sao, quyết định hành động như thế nào, Vũ Trọng Phụng đã cho người đọc
trông thấy theo dõi cụ thể, tường tận và sinh động vô cùng.
Từ khi xây dựng ra Long trong Giông Tố, rồi Huyền trong Làm
Đĩ, Liên và Quỳnh trong Lấy Nhau Vì Tình, phương pháp tả người của Vũ Trọng Phụng
đã phát triển mạnh theo cái hướng rất khó này: Cho nhân vật suy nghĩ nhiều hơn
nói năng nhiều, rồi nói năng nhiều hơn hành động nhiều. Tả nhân vật mà qua hành
động nhiều hơn ngôn ngữ thì sẽ thành ra những nhân vật như kiểu Tôn Ngộ Không
trong Tây Du Ký hay ít ra là như Trương Liêu, Trương Cáp… vân vân trong Tam Quốc
Chí, để cho nhân vật nói nhiều, hơn làm thì các nhân vật thành ra… cụ cố Hồng
"Biết rồi khổ lắm nói mãi". Để cho nhân vật nghĩ nhiều, nói ít, làm
càng ít hơn thì mới có được Julien Sorel trong Đỏ Và Đen, Raxkonnikov trong Tội
Ác Và Hình Phạt. Nhưng Stendhal đâu có cho Julien Sorel chiếm hết toàn bộ cuốn
Đỏ Và Đen, và Đoxtoievxki đâu có để Raxkonnikov xuất hiện từ đầu chí cuối cuốn
Tội Ác Và Hình Phạt. Vũ Trọng Phụng thì không lúc nào là không tả diễn biến nội
tâm của Phúc; đến cái tai nạn ô tô đã làm cho Phúc lệch cả nghiệp, mất toi vạn
bạc - một phần mười số tiền trúng số độc đắc - cũng chỉ được tả vẻn vẹn có hai
câu: đúng ra là thông báo cho bạn đọc biết, chứ không phải kể lại cho người ta
nghe, chưa nói đến tả lại cho người ta thấy. Viết tiểu thuyết kiểu ấy khác nào
làm một việc thách đố, thế mà Vũ Trọng Phụng đã thành công. Người ta thường
nghĩ là trong văn học Việt Nam phải chờ đến Nam Cao, bước sang những năm 40 mới
có nhà tiểu thuyết đi sâu vào phân tích tâm lý: từ giữa những năm 30, Vũ Trọng
Phụng đã là người khảo sát lòng người, thực sự bậc thầy rồi, rõ ràng như vậy; rồi
đến năm 39 với tác phẩm cuối cùng này của đời mình, Vũ Trọng Phụng đã đạt đến đỉnh
cao của nghệ thuật phân tích tâm lý.
Tả Phúc, tác giả đã có cái nhìn rất sáng suốt, tính nhạy cảm
thật tinh tế, không những trông thấy những tình cảm được biểu lộ mà cả những ý
muốn sơ phát còn tiềm tàng, những ký ức bị quên đi bỗng hiện về, những cảm giác
từ lâu bỗng sống dậy; tác giả lại phải có những trực giác, những khả năng tưởng
tượng dồi dào và tinh vi, và có quan niệm biến chứng về các hiện tượng tâm lý,
không chỉ xác định các biểu hiện của tâm trạng tách rời ra trên một cái nền cố
định, mà còn nhìn chung toàn bộ tính cách trong sự thay đổi liên tục. Nhờ thế
mà ánh đèn khảo sát của Vũ Trọng Phụng mới rọi đến tận những chốn sâu thẳm của
tiềm thức, chiếu rộng ra mọi chốn ẩn khuất của lòng người, để mà tả lại đầy đủ
mọi nét tinh vi, huyền diệu.
Ngoài ra lại còn điều đáng phục là dựng lên một anh Phúc hay
triết lý. Vũ Trọng Phụng đã cho anh ta nói đến nhiều học thuyết triết học, nhiều
quan niệm về cuộc đời, về hạnh phúc mà ngày nay không ít người có học hàm, học
vị cao đã biết được đâu. Vũ Trọng Phụng không những rất giàu về "những điều
trông thấy" trong đời, mà còn biết rất nhiều tri thức trong" di sản
văn hoá của loài người, từ Khổng Tử sang Horatius, Senecus đến Montaigne,
Shakespears. Và những tri thức đó không phải chỉ trình bày khô khan, mà kết hợp
với diễn biến của cốt truyện thật nhuần nhuyễn và phù hợp với tâm trạng của
nhân vật thật hữu cơ.
Nhưng trong "Trúng Số Độc Đắc" không phải Vũ Trọng
Phụng chỉ tả thành công có anh Phúc; bên cạnh Phúc thường có Tấn mà tác giả đã
đặt ở đấy như để làm bạn đường và làm đối trọng cho Phúc, khi thì phụ họa với
Phúc, khi thì cãi lại Phúc, cốt làm cho Phúc phải bộc lộ hết tình cảm, ý nghĩ của
mình ra. Và Tấn đã được tả hư thân mất nết lúc mà Phúc rất hiền từ, nghiêm chỉnh;
nhưng rồi Tấn lại tu chí, sửa mình và cố gắng khuyên can Phúc hãm bớt cái đà hư
hỏng lại. Điều ấy cũng dễ hiểu: Tấn trúng số có bốn nghìn, phải đâu mười vạn
như Phúc, Tấn "Chưa đủ tiền để hư" như Phúc đã nói.
Được tả rất khéo nữa là gia đình của Phúc: Bà mẹ ác khẩu với
con đến thế, khinh bạc chồng đến thế là cùng; chị vợ thì đủ vành và khi mới bốc
lên giàu có thì kệch không để đâu cho hết. Nhưng chẳng có nhân vật nào mà đáng
tởm đến như bố và anh của Phúc, hai ông phán: Phán bố, phán con; bố thì đê tiện
đến cùng cực vì là sản phẩm hoàn hảo của chế độ nô lệ, cả đời sợ Tây, nịnh Tây,
rồi quen thói lại sợ con, nịnh con; đến khi thay bậc đổi ngôi thì mắng chửi con
đến tối hạ cấp. Những cảnh họ xung đột nhau đã để lại cho bạn đọc những ấn tượng
ghê người là nhờ tác giả đã cho họ nói ra những lời lẽ thật khủng khiếp nhưng
mà đúng mười mươi đối với những hạng người như thế. Ngôn ngữ các nhân vật của
Vũ Trọng Phụng bao giờ cũng rất linh động, cứ xanh như rau mới hái, thắm như thịt
còn tươi. Câu nào cũng như là nhân vật tự mình nói ra, tác giả không hề gọt dũa
lại cho văn vẻ chút nào cả. Nhân vật của Vũ Trọng Phụng mà sống, mà có màu, có
sắc thì phần lớn nhờ lời ăn tiếng nói của họ cả: Ông phán Tích mở mồm là chửi
như kẻ vô học nhất đời; anh Tấn thì không bao giờ nói cái gì mà không viện dẫn
Đức Thánh Khổng ra. Nhưng có một nhân vật rất đậm nét, khó quên nhờ ngôn ngữ của
nó là lão Tây, chủ hãng buôn ô tô, và những ai không thông thạo tiếng pháp đều
phải công nhận rằng lời ăn tiếng nói của nhân vật ấy thật đúng là của người
Pháp: con buôn, cầu kỳ, kênh kiệu, cao đàm hùng biện đến cùng cực mà cứ tự
nhiên như không. Ngày trước trên đất nước ta nhiều người Pháp như thế, các nhà
văn có mấy ai tả Pháp, nhất là tả họ nói năng; Vũ Trọng Phụng thì hầu như trong
cuốn tiểu thuyết nào cũng có tả người Pháp: từ kẻ doanh thương gian ngoan về
chính trị trong Giông Tố, quan cai trị thuộc địa cáo già trong Vỡ Đê, đến miệng
lưỡi con buôn và mồm mép thầy kiện trong "Trúng Số Độc Đắc" này.
Nhưng không những lời ăn tiếng nói của nhân vật, mà cả ngôn
ngữ của tác giả cũng tự nhiên vậy thôi.
Qua những việc đã kể lại, những cảnh đã tả ra trong
"Trúng Số Độc Đắc" ta thấy Vũ Trọng Phụng đã lên án thế gian và người
đời nghiêm khắc lắm đấy chứ, thế mà giọng văn kể chuyện, tả cảnh, tả tình cứ hồn
nhiên, vui vẻ, và có dịp là không quên hài hước một chút. Nhưng chính những lúc
hài hước ấy lại là lúc quật những đòn đau nhất.
Hài hước có khi là do diễn biến bất ngờ nhưng rất hợp lý của
sự việc, của suy nghĩ, nói năng của nhân vật. Phúc đang say sưa triết lý như
Alfred de Viguy rằng: "chỉ có sự yên lặng là đáng kể mà thôi" thì chị
vợ vô học nhưng thiết thực bẻ luôn: "Không phải chỉ có sự im lặng là đáng
kể, nhưng mà sự đi làm mới đáng kể". Thấy chồng cho bác Phu lục lộ tiền vì
mới trúng sổ thì chị vợ nghĩ ngay: "Hay là em gái thằng này là con hàng
mía, là con hàng bưởi, là con vú đầm… hở Chúa Giê Su?". Phúc toan khen bác
Phu lục lộ xem tướng giỏi lại thôi ngay, vì rất sợ như thế là xui bác ta bỏ nghề
quét vườn "mà nhẩy lên làm thầy bói tân thời không thong manh thì xã hội sẽ
nguy to, thì điều thiện của anh trở nên ác mất".
Phúc lên ngồi chễm chệ trên sập để long trọng tuyên bố tin
mình trúng số độc đắc thì bà mẹ tưởng là con mình đi lang thang phố xá "đã
trót phóng uế vào gốc cây đa, cây đề nào đó" nên đã bị "các ngài
hành" mà hóa điên hóa dại nên bà hỏi thất thanh: "Phúc ơi, con… con
có làm sao không".
Bình luận việc làm của con người, lắm khi Vũ Trọng Phụng nói
ngược lại sự thật một cách rất buồn cười mà tự nhiên như không: ông phán già mặc
cả xe kéo thì "theo lối đa số các cụ thượng lưu nhân vật, nhất định không
chịu thua phu xe một đồng xu". Thấy ông phán không dám lấy dăm hào giúp
người anh họ nghèo khổ phải chờ hỏi vợ đã, thì Phúc "rất lấy làm phục cho
cái tinh thần nữ quyền ở gia đình". Bà vợ thì "vẫn biết cái quyền của
vị hiền phụ chính danh là không bao giờ lại chịu để cho chồng cãi lại bất cứ điều
gì". Nhắc lại việc anh mình coi khinh mình gần như con chó, Phúc bình luận
là anh muốn cho mình trở nên tốt "và đó là chính sách của Dương Lễ đối với
Lưu Bình vậy!". Thật là mỉa mai. Lắm khi Vũ Trọng Phụng chỉ dùng có một chữ
mà sự thật bật ra ghê gớm vô cùng: Ông Phán già sợ con quá, ấy là "sợ mất
hiếu với con".
Thần tình nữa là các cách ví von của Vũ Trọng Phụng. Thường
là những ẩn dụ mà tác giả ghép lại với nhau, hai việc ngó thì giống nhau nhưng
thật chẳng có gì đáng sánh với nhau cả, như cái váy của vợ bác Phu lục lộ thì
"sù sì như tờ giấy giáp số bốn". Phúc bằng lòng lấy vợ do bố mẹ xếp đặt
thì như người ta được bằng lòng vì bố mẹ làm quà cho mình một xâu tôm he hay một
cặp cá thu vậy. Vợ Phúc lăng loàn quá thì Phúc nghĩ rằng "nếu Đức Thánh Khổng
xưa kia phải bỏ vợ, ắt hẳn vì vợ ngài cũng giống như vợ anh mà thôi". Vợ
Phúc mua được nhẫn kim cương sướng quá chạy vội vào nhà khoe "Sầm sầm như
Tây Đoan đi khám rượu lậu, nói nhanh như cãi nhau". Phúc thì biết tin
trúng số độc đắc "cả thân thể cứ run lên lật bật tựa hồ như anh vừa giết
người vậy". Bọn ác khẩu thì nói Phúc "ngồi trong ô tô mặt cứ vác mãi
lên như có mấy chục cái chân sào đỡ dưới". Có khi Vũ Trọng Phụng ghép với
nhau những yếu tố so sánh thật bất ngờ gây tác dụng đả kích thật ghê gớm. Con
chó Nhật "cứ cắn ngậu như một nhà báo vô ý thức dã tâm". Nhưng lắm
khi lại để Phúc cứ ngọt như mía lùi, bảo mẹ và em "ít khi được cái may tiếp
kiến các nhà báo… Nên để ý mà học lấy cái tài ăn nói của các nhà ngôn luận".
Vũ Trọng Phụng viết "Trúng Số Độc Đắc" một mạch cho
đến khi hoàn thành, trái với lối thường viết các tiểu thuyết khác.
Cứ đến ngày báo ra mới viết một chương, đưa in, xong hết mới
thành sách. Viết xong "Trúng Số Độc Đắc" lại tự tay đóng lấy thành
quyển, ngắm nghía mân mê như không muốn rời tay, mãi rồi mới đưa cho nhà xuất bản,
và người bạn cố tri là Ngọc Giao kể lại rằng mấy hôm trước khi qua đời, Vũ Trọng
Phụng đã nhờ mình dìu đến tận nhà in, xin mấy tờ bản thảo đã xếp chữ rồi, lấm
lem mực in và dấu tay thợ in dặn Ngọc Giao giữ lại để lót đầu cho mình khi đặt
thi hài mình vào áo quan.
Tác phẩm cuối đời của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm tuyệt mệnh ấy,
quả thật là một tuyệt tác về thật nhiều phương diện.
Hoàng Thiếu Sơn
Trừ những ngày mưa không kể, sáng nào cũng vậy, cứ đúng chín
giờ là anh Phúc đã ngồi trên một cái ghế xi măng trước nhà Kèn, trong vườn hoa
Paul Beri 1 .
Đã tám tháng nay nhàn cư như vậy cho nên từ người phu lục lộ
quét vườn hoa cho đến mấy đứa sống cầu bơ cầu bất bằng đủ các nghề như trèo me,
trèo sấu, câu cá, bắt tổ chim, có khi ăn cắp, giật khăn nữa: nói tóm lại là bọn
ma cà bông vẫn lấy nhà Kèn làm khách sạn, đối với anh Phúc, đều đã trở nên ít
nhiều thân thuộc. Hễ anh cứ ngồi vừa nóng ghế được năm phút, thì người phu gát
đến chỗ chân anh. Mà lần nào cũng vậy, hễ anh co chân lên để tránh những hòn sỏi
nhỏ do cái chổi tre hắt bắn lung tung, thì người phu cũng thản nhiên khẽ chào
anh: "Cậu chơi!" để cho Phúc vui vẻ đáp: "Không dám! Ấy kìa
bác…". Độ nửa giờ sau, người phu ấy lại quay lại với Phúc, giơ cái điếu
thuốc lào quấn bằng lá chuối mà bác ta vẫn gài mang tai khiến Phúc phải gập
sách lại, ngừng đọc. Anh ta bèn lôi ngay ở túi áo ra bao diêm và gói thuốc lào.
Bao giờ Phúc cũng để người phu hút trước, mình sau. Bao giờ người phu cũng để
cho Phúc cái hân hạnh mời mình cả diêm lẫn thuốc, và sự ấy, Phúc coi là một thứ
thuế đánh chỗ ngồi của chàng, không phải đóng thẳng cho Nhà nước nhưng đóng cho
một người thay mặt Nhà nước vậy. Sau cuộc thù tạc nhỏ mọn ấy, Phúc lại đọc
sách, người phu lại vác chổi ra đi.
Còn bọn ma cà bông, giao thiệp với anh ta thì khác. Chúng gọi
anh là "cậu áo trắng dài" chỉ vì cái lẽ rất dễ hiểu là xưa nay chúng
không thấy Phúc vận gì khác ngoài cái áo trắng dài.
Thoạt đầu, chúng cũng ngạc nhiên không hiểu sao trong đời lại
có người vô công rỗi nghề đến bậc ngày nào cũng ra ngồi vườn hoa như thế, nhưng
khi thấy Phúc bao giờ cũng đọc sách, chúng bèn đoán hẳn đó là một người học trò
sửa soạn đi thi. Đối với bọn ấy, Phúc rất dè dặt. Có đứa đã đến ngồi cạnh chân
anh ta, và sau khi hỏi chuyện mà không được đáp lời đằm thắm, đã ngồi ra nghịch
những hòn cuộn dưới chân anh hàng nửa giờ mà chưa đi cho. Lại có đứa đã từng có
lần moi trong một cái tay nải ra những quả me xanh hoặc sấu chín nó có thể làm
cho Phúc nhớ lại cái thời học trò thơ ấu nữa, nhưng Phúc đã trả tiền, sợ ăn
không thì thành ra thân mật quá, và thân mật với cái hạng hay văng tục ghê gớm,
hay chửi ỏm tỏi, là rất nguy hiểm. Những khi bị bọn quỉ sứ ấy hỏi chuyện, Phúc
chỉ đáp thế nào cho phải phép, cho khỏi là đáng ghét mà thôi. Tuy vậy, anh ta
cũng đã nhớ tên và hiểu rõ cả tâm tính từng đứa một: thằng Bí Sến Vườn hay đánh
chửi nhưng thẳng và tốt, thằng Tẹo mắt híp miệng nói leo lẻo nhưng mà gian, thằng
Bôn Tây Lai có cả những tánh xấu của hai thằng kia, nghĩa là vừa hay bắt nạt vừa
ăn gian, thằng Sáu Vẩu mềm nắn rắn buông, khôn ngoan đủ khoé, vân, vân…
Những lúc ngừng đọc sách, Phúc tình cờ được quan sát một phần
tử kỳ lạ của cái xã hội mà bất cứ ai, nếu không thừa thời giờ như anh ta thì
không tài nào được biết lấy mảy may.
Đối lại, bọn kia coi Phúc là một cái đồng hồ. Bởi lẽ chúng dậy
trưa như những ông hoàng, nên khi phải đánh thức nhau, chúng đá vào mạng mỡ của
nhau mà la: "Tiên sư mày, có dậy không, "cậu áo trắng dài" đã đến
rồi kia kìa! Hoặc là: chính thế, "Cậu áo trắng dài" vừa về xong, đã bốn
giờ chiều sao được". Sự đắc dụng ấy chẳng đủ cho Phúc lấy làm vinh, điều ấy,
đã cố nhiên. Nhưng mà, vốn có óc một nhà triết lý, anh ta vẫn cố lý luận thế
nào để lường mình là không khổ. Nói cho đúng ra hiện đời anh ta đương trải qua
một giặng đường luẩn quẩn không vinh hiển nghĩa là lúc ấy, mọi sự nhịn nhục và
phục tùng số phận đã khiến anh có một tâm hồn thanh bạch của nhà đạo đức và khiếu
lý luận của bậc triết nhân hiền giả; nói tóm lại, nghĩa là những điều kiện đầy
đủ để hun đúc anh ta trở nên một kẻ lẩn thẩn vả gàn dở, đến bậc cái người chép
truyện này đối với các quý độc giả, chỉ vì nói tới cái giặng đường ấy, mà cũng
hóa ra lảm nhảm, ba hoa, chẳng đâu vào đâu.
Trước khi hóa ra lẩn thẩn, Phúc cũng đã có đi học, có đi làm,
có lấy vợ như trăm nghìn người khác, chớ nào có kém gì ai? Tại sao anh ta mất
việc? Anh ta không để ý, chỉ nhún vai, thản nhiên đáp: "Nó đểu, nó xoay tiền".
Tại sao ngót một năm nay, anh ta chưa có việc? Anh ta lại so vai: "Thời buổi
khó khăn!" Tại sao ngày nào anh cũng ra ngồi ở vườn hoa Paul Bert rất đúng
giờ, và rất nhiều giờ? Đến điều này Phúc không đáp gì cả, lờ như không nghe tiếng.
Anh ta sợ rằng nếu trả lời minh bạch, ắt sẽ bị kết tội là khoe khoang. Và anh
muốn tức khắc hỏi vặn lại cái kẻ vừa hỏi anh đại khái rằng: "Tại sao tội gì
tôi lại không ngày ngày ra ngồi vườn hoa, nếu tôi đủ tư cách hưởng cái thú ấy?"
° ° °
Anh Phúc rất ghét hai tiếng "thất nghiệp", cho dẫu
là "trí thức thất nghiệp"! Khi những bạn hữu của anh - số ấy cũng hiếm
- phàn nàn cho anh, thì anh khẽ đáp ra ý không bằng lòng: "Cái đó có hề
gì!" Anh ta cho rằng hạnh phúc ở đời chẳng ở chỗ kiếm ra tiền cũng như chẳng
phải vì có chức nghiệp, nhưng là học hành và tu thân sửa chí thế nào cho mỗi
ngày một giỏi thêm và đạo đức thêm. Đã bao lâu nay, anh không kiếm ra tiền… Những
cái đó có hề gì, nếu anh không cần phải nuôi bố mẹ, và trái lại còn được bố mẹ
nuôi? Ông cụ Phán mỗi tháng có số lương hưu năm chục, bà cụ Phán buôn sơn cũng
khá phát tài, nếu sau này chia gia tài cho anh Phúc, anh cũng sẽ dự một phần tư
vào cái nhà phố Hàng Gai, vợ anh phải vừa trông hàng vừa lo công việc nội trợ của
người nàng dâu út, như vậy hai vợ chồng anh cũng chả có gì đáng gọi là ăn hại bố
mẹ, và anh dẫu có ăn hại đi nữa, thì cũng chẳng ăn hại gì mấy tý. Anh không kiếm
được việc làm là phải lắm, bởi cái lẽ rất dễ hiểu rằng, nhờ được cha mẹ có của
ăn của để như thế, anh có một địa vị hiếm có của những người muốn tìm một cái
nghĩa lý cao thượng cho sự sống còn.
Chứ gì? Thời buổi khó khăn này, trong khi cả bàn dân thiên hạ
lầm than tranh nhau miếng sống một cách tàn nhẫn như thế, thiết nghĩ anh cũng
nên vượt khỏi sự tầm thường của đời bằng cách đứng lánh hẳn cho rõ xa ra ngoài
cái vòng tục lụy, cái đám đông người xô đẩy nhau, vì miếng ăn. Cho nên anh thường
đáp những ai hỏi anh sao không kiếm việc gì mà làm đại khái rằng: "Thôi,
nhờ giời mình ngồi không cũng đủ ăn, thì cũng nên để công việc cho người khác
làm". Anh rất không bằng lòng rằng thiên hạ lại ô trọc đến bậc hoài nghi tấm
lòng thành thực của anh trong câu nói ấy, và đã chê anh là gàn dở hoặc nói đểu
hơn nữa, nghĩa là ra ý cười rằng: "Cái thằng ấy không làm gì được thì nói
phét như thế cho nó vui tai" … "Honni soit qui mal y pense! 2 …" anh bĩu mồm cay đắng, thầm nhắc
câu cách ngôn phương Tây. Chính trong những lúc bực mình như thế là anh lại tự
thấy rất đáng kiêu ngạo với đời. Thì ra loài người, cái loài người khốn nạn,
cái loài người dã man, mặc dù đã tồn tại cho đến thế kỷ thứ hai mươi, mặc dù đã
bày vẽ ra thiên hình vạn trạng của vật chất để mệnh danh những cái ấy một cách
điêu trá là tiến bộ và văn minh, thì chẳng qua cũng vẫn còn giữ nguyên cái bản
tính của kẻ ăn lông ở lỗ đời xưa, nghĩa là vẫn chỉ biết, xưa kia tranh miếng mồi
ngày nay tranh nhau tiền, thế thôi. Cái văn minh tinh thần, cái gì là bác ái,
là vị tha, là đạo đức, là nhân nghĩa, thì không những họ chẳng khuyến khích thì
thôi, lại còn bài bác kịch liệt là khác nữa.
Nhưng không! Anh Phúc nhất quyết chẳng để cho dư luận ấy, một
thứ dư luận ấu trĩ và khả dĩ đánh đổ được. Dẫu sao đi nữa, anh cũng phải làm một
người khác hẳn mọi người. Dẫu sao đi nữa, anh cũng tin vững rằng một kẻ quyết
tu thân sửa chí để lên được địa vị một bậc hiền nhân quân tử ở đời thì rồi ít
ra cũng phải được thiên hạ kính trọng như một tay thầy lang "vua thuốc lậu".
Do cái nhân sinh quan ấy, anh Phúc đã trở nên một người không
ai có thể chịu được, kể từ bố, mẹ, vợ, cho đến họ hàng và bạn hữu của anh. Vì
những tội gì? Vì từ sau khi mất cái việc thư ký nhà buôn, anh không chịu mầy mò
tìm việc làm nào khác nữa, chỉ đi sạo sục mượn sách của những người thân thuộc
rồi ngày ngày ra ngồi đọc sáu giờ liền ở vườn hoa Paul Bert. Dẫu rằng anh ta
không hề làm gì tốn tiền của cha mẹ: ăn thì ngày hai bữa cơm rau, mặc thì cái
áo trắng dài, đôi giầy ta cũ, cái mũ trắng cũ. Không ai tha thứ được cho anh một
cuộc đợi thời đại đến như thế và đã vội vàng tuyên bố rằng anh Phúc như thế là
"đời bỏ đi". Đối lại, cứ vững như quả núi Thái Sơn, Phúc cố im lặng để
tỏ vẻ khinh bỉ.
Và tìm sự an ủi, cái quên, cùng là cái lý tưởng đời người ở
trong những sách cổ điển.
Hôm nay, ngồi xuống ghế, anh sung sướng vì trời mát, nhất là
mùa thu vừa về được vài ngày, với những đoạn gió hiu hắt của nó, đã gieo xuống
mặt đất những mảnh lá vàng, và gieo vào lòng người một chút lòng thơ. Anh đưa mắt
nhìn chung một lượt, dẫu rằng nhà Bưu Điện, phủ Thống Sứ, bức tượng nhà triết học
Renan, nhà ngân hàng Đông Dương, sở Kho bạc, tòa Đốc lý, 3 tượng ông Paul Bert, và xa xa. mặt nước lấp
lánh những sóng bạc gợn lăn tăn của hồ Hoàn Kiếm, những cái ấy vì nhìn đã quen
mắt quá, nên chẳng khiến anh có một chút cảm tưởng gì nữa. Cũng đôi khi những
luống hoa bọc trong những bồn cỏ tóc tiên mà người ta thay đổi giồng mùa nào thức
ấy, làm cho anh phải triết lý vẩn vơ một chút, nhưng đã tuần lễ nay, vườn hoa bị
để trơ trụi, và cảnh vật cũng không có gì lạ nữa. Thỉnh thoảng, chung quanh
anh, vèo đưa mấy chiếc lá bàng.
- Cậu chơi!
- Không dám, ấy kìa bác!
Anh co chân lên, những ngọn chổi tre. Và khác hẳn mọi ngày, lần
này người phu lục lộ, khi lôi xuống cái điếu lá chuối vẫn gài trên tai, lại đưa
luôn cả bao diêm và gói thuốc lào mời mọc nữa. Phúc cũng hơi ngạc nhiên vội
nói:
- Ấy, tôi đã có diêm thuốc đây.
Người phu gãi đầu gãi tai như trong cửa quan, mà rằng:
- Thì cậu cứ chiếu cố cho cháu một mồi nào.
- Vâng, cảm ơn bác lắm.
Sau khi hút thuốc, người phu nhăn nhó đôi hàm răng cải mả hỏi
Phúc một cách thân mật:
- Cậu thư nhàn sung sướng lắm nhỉ?
Đó là lần đầu Phúc thấy có kẻ ngợi khen mình; Bao nhiêu nỗi uất
ức vì bị hiểu nhầm và khinh bỉ bấy nay chỉ vì một lời khen suông ấy, mà hầu như
tiêu tán hết. Phúc ta thấy người phu lục lộ ấy quả thật là một tay tri kỷ độc
nhất vô nhị của mình, tuy anh ta không ngỏ lời cảm ơn. Và đáp:
- Có gì đâu mà sướng với khổ!
- Con dám chắc rằng được như cậu là ít có lắm, vì phải giầu mới
thế được. Vả lại "vạn sự bất như nhàn" cổ nhân đã có câu…
Phúc ngạc nhiên thêm chút nữa ở chỗ người phu ấy xưng con, và
nói năng được như thế, ắt cũng phải có chút ít chữ nho. Người phu nói thêm:
- Con xem cậu đứng đắn tột bực! Phải chi như ai, thì ra đây
chỉ vì việc giai gái mà thôi. Vậy mà cậu, con thấy cả ngày chỉ đọc sách, lại vừa
nhằm lúc các cô vú đầm dắt trẻ con tây ra đây chơi thì cậu đã cắp sách về. Thật
người có một. Thế cậu sắp đi thi có phải không? Sao giầu có như cậu lại ăn mặc
nhũn nhặn như cậu được, thế thì đứng đắn thật!
Phúc mỉm cười:
- Tôi cũng may đủ bát ăn thôi, gì được là giầu có.
- Ừ, ừ cậu cứ nói. Giấu giầu chứ ai giấu nghèo. Trông tướng cậu,
con biết.
- Sao
- Cái tai của cậu ấy à? Cái mũi của cậu ấy à? Cậu mà không có
bạc vạn trong tay thì cậu cứ chém cổ con đi.
Phúc cả cười:
- Nếu tôi không có bạc vạn trong tay mà lại còn chém cổ bác nữa
thì lấy đâu ra tiền chạy chọt cho khỏi tử hình.
Đáp xong, anh nhìn xuống trang sách vừa bắt đầu đọc, ý muốn tỏ
cho người phu hiểu rằng mình không muốn mất thì giờ chuyện lăng nhăng nữa. Anh
ta lại bắt đầu khinh bỉ nốt người phu, cho câu nói kia là có ý mỉa mai.
Thế này là nghĩa lý gì? Những người thân thiết của anh ta đều
đã xẻo thịt anh ta về những chuyện hôi tanh những hơi đồng, hết kiếm việc làm lại
kiếm tiền rồi, nay đến người phu này, một kẻ qua đường tưởng là không có giây
mơ rễ má gì với nhau như thế thì thôi chứ, vậy cũng lại nói đến cái chuyện ấy nốt
nữa hay sao? thì bao giờ anh ta mới được yên đây. Thấy người phu còn ngồi xổm
chồm chỗm đấy, Phúc đuổi một cách nhã nhặn:
- Thôi bác đi làm việc.
Nhưng trái hẳn ý muốn của Phúc, cái anh chàng vô duyên ấy lại
gãi tai nhăn nhở:
- Con nói thế này thì không phải… Nhưng quả thật là bần cùng
lạy cậu, cậu thương cho.
Phúc giật mình biết rằng sắp có tai biến chi đây, anh ta trừng
mắt nhìn người phu, ý muốn cho hắn đừng nói nữa. Nhưng than ôi, "cậu áo trắng
dài" không có đủ oai quyền trong con mắt, và người phu kia cũng đã nhất định
không tha cho cái cậu "không có bạc vạn trong tay không xong".
- Bẩm cậu, quê con ở Thái Bình, con ra đây làm ăn một thân một
mình tứ cố vô thân. Tình cảnh con khổ lắm nếu cậu không thương con thì chẳng
con ai thương con nữa.
Đến lúc hiểm nghèo Phúc mới chịu nhận ra rằng cái chức
"trí thức thất nghiệp" mà mình vẫn muốn chối xưa nay bây giờ nhận lấy
là đắc dụng và hợp thời lắm. Anh ta bèn đáp:
- Bác dẫu sao đi nữa, thì hiện cũng đương có công việc, mà lại
là người nhà nước nữa. Còn tôi, tôi đương thất nghiệp, thì còn ích gì được cho
bác?
Trả lời thẳng, trong ngôn ngữ, lắm khi là mắc cỡ. Cho nên người
phu lục lộ lờ hẳn câu ấy đi, cứ tiếp theo:
- Dạ, vâng, bẩm nếu cậu không thương con, thì rồi con cũng sẽ
đến mất việc, vợ con sẽ chết đói, mà con, chính con thì đến phải tự tử mất!
Vốn giàu tình cảm, lại thấy cái mặt nhăn nhở ấy bỗng buồn rầu
một cách thành thực lắm, Phúc sốt sắng hỏi ngay:
- Chết nỗi! Làm sao?
- Bẩm cậu, khốn nạn, nào có gì đâu. Nguyên lúc xin việc làm
thì con đã đút lót ngay người cai rồi, nhưng cũng vẫn thiếu của hắn một số tiền…
Đã ngót năm nay con chưa chạy được, vì lương không đủ ăn, mà hôm qua hắn đe rằng
nếu ba ngày nữa mà không đưa nốt thì hắn cho việc người khác làm mất… Con hỏi đến
cậu là người cuối cùng, nếu lại cũng không được nốt, thì thôi thôi!
- Thế thiếu mất bao nhiêu?
- Dạ, bẩm những đúng một đồng bạc ạ.
Phúc thở dài khoan khoái, tựa hồ như chính mình được lúc trút
xuống đất một gánh nặng trên vai, cho dẫu lúc ấy anh ta cũng không có số tiền.
- Một đồng… ba ngày, thôi được, cứ khất đi, để rồi tôi cố chạy
hộ cho.
Cái bộ mặt buồn rầu thảm đạm kia bỗng lại nhăn nhở như trước:
- Lạy cậu, nếu thế thì thật cậu cứu sống cả gia đình nhà con!
Bẩm cậu, cậu không ngại, thế nào rồi con cũng trả cậu sòng phẳng! Dạ, bẩm số
con đây này, không có chạy đi đâu mà sợ.
Người phu chỉ tay vào cái băng dạ tím có năm con số đỏ dưới
hai chữ T.P 4 Phúc nhìn qua gật gù:
- Bẩm thể độ bao giờ ..?
- À, nay mai… Nhưng tôi đã nói thì rồi phải có.
- Bẩm lạy cậu, con cắn rơm cắn cỏ cảm ơn cậu. À, nhưng mà bẩm
nhà cậu ở đâu?
- Hỏi làm gì nữa?
- Sợ mưa, cậu không ra đây chăng?
Dầu rằng xưa nay chưa từng hứa và thực hành giúp đõ tiền nong
cho ai. Phúc cũng bực mình như Mạnh Thường Quân khi bị nghi là sai lời hứa. Anh
ta khẽ gắt:
- Dẫu có mưa thì khi tôi đã nói, tôi cũng phải ra đây đưa tiền
cho bác chứ sao?
Trước sự giận dữ ấy, người phu sợ tái cả mặt. Tuy nhiên hắn
cũng vẫn cứ giao hẹn:
- Bẩm lạy cậu, ấy con chỉ chắc vào cậu, cậu tha lỗi cho, nếu
không thì con chết đấy!
- Được rồi! Được rồi!
Phúc nhăn mặt khó chịu, lườm sau lưng người phu khi hắn xách
chổi ra đi. Anh ta lại nhìn xuống trang sách, nhưng than ôi! Những chữ đen đã bắt
đầu biết nhảy múa trước mắt anh. Một đồng bạc, trong ba ngày! Thế rồi làm thế
nào đây mà dám hứa bừa đi như một người ra tranh nghị viện như thế? Thật vậy, một
đồng bạc, làm thế nào có được, dẫu chỉ là một đồng? Phúc ta thở dài, biết dại
thì đã quá muộn. Mãi đến lúc ấy anh mới thầm hiểu cái giá trị của lời hứa, vì lẽ
nếu người phu kia mai đây có bị trắc trở gì về sinh kế, lỗi ấy trách nhiệm
chính là ở anh!
"Ôi, người phu kia ôi, mi có biết đâu rằng ta đây, khi
ta phải chờ tới chín giờ rưỡi sáng mới ra được đến đây, chính là gia đình nhà
ta không có bữa lót dạ cho nên phải ăn cơm sớm, và khi ta về trước bốn giờ chiều,
ấy cũng chỉ vì bữa ăn? Mi có biết rằng mỗi tuần lễ ta chỉ tiêu tốn mất có năm
xu diêm thuốc, và ta không bao giờ ngửa tay xin ai tiền hay vay ai tiền, bởi lẽ
đã ngót năm nay, ta chẳng kiếm ra tiền. Vả lại chuyện tiền là chuyện bẩn thỉu,
ta đã bị khinh bỉ mãi rồi, ta không thể đả động được đến chuyện tiền, sợ lại bị
khinh hơn. Vậy mà mi lại còn vay ta một đồng, sau khi bắt ta phải sẽ có bạc vạn!
Quân gian ngoan! Thôi nhưng mi đã khốn khổ. Âu ta cũng đành phải liều hy sinh
cái thanh khiết của ta đi để đào ngoáy xoay sở ra tiền cho mi mà thôi!!!
Sau khi nghĩ ngợi một cách chua chát và rất khôi hài như thế.
Phúc ngồi thừ người ra tựa hồ như bậc vĩ nhân đương nắm cái vận mệnh của cả Tổ
quốc phải đương đầu với một sự nghiêm trọng của thời cục mà chưa thấy cách giải
quyết. Và anh ta bắt đầu thấy rằng mình là nghèo, là rất nghèo, nghèo đến mức
không có nổi lấy một đồng bạc trong tay để làm một việc phúc đức, cũng như anh
giác ngộ rằng ở đời này, không tiền thì chẳng làm nổi công việc gì cả, mặc đầu
óc ta đầy dẫy những tư tưởng nhân đạo duy tha.
Nhưng khốn thay, cái bệnh lý luận của anh đã thành ra một thứ
bệnh nan y, bởi lẽ anh mắc phải nó đã quá lâu ngày. Cái phút tỉnh ngộ kia chẳng
qua cũng chỉ là ngắn chẳng đầy gang, cho nên Phúc ta cũng không vượt nổi cái luật
chung của những kẻ trác táng khi biết hối hận thì lại đâm đầu vào tửu sắc một
cách hăng hái hơn nữa, của những kẻ nạn nhân của thần đổ bác khi biết dại rồi
thì máu thua quay gỡ dáo lại bồng bột trong huyết quản hơn nữa, của những con
dâm phụ khi biết sám hối rồi thì lại có nhiều tình nhân hơn nữa.
Một vài vấn đề túng kiết bị đặt lên tấm thảm xanh của lý trí
là một lần lòng tự ái của anh bị kích động để mà cố công cùng sức triết lý thế
nào cho tìm ra kỳ được sự an ủi, sự tự túc về cái thanh bần của anh vốn bị cổ
nhân nhồi sọ, nay anh cố nhiên, ngoài cổ nhân ra, không thèm cầu cứu ai khác nữa.
Anh rút trong túi áo cuốn sổ tay, trong đó anh đã có ghi chép những danh ngôn
kim cổ về cái sự nghèo kiết mà bậc hiền nhân quân tử chỉ nên gọi là thanh bần.
Vừa bắt đầu nghiền ngẫm lại mấy câu anh đã gật gù khoan khoái hầu như quên khuấy
ngay mất cái vấn đề thiển cận là nội trong ba ngày phải có đồng bạc cho người
phu kia.
Anh ta, tự mình với mình, vừa đọc vừa nói lảm nhảm:
- Nghèo có phải đâu là sự đáng hổ thẹn nếu hạnh phúc của con
người ta chẳng phải cốt ở giầu hay nghèo. Cho nên có người đã dạy rằng: Nếu của
cải chẳng đủ làm cho kẻ giầu được cả một đời sung sướng thì với cái đống vàng
súc tích ấy, kẻ giầu ấy chẳng sướng bằng cái anh chàng nghèo xác mỗi ngày đi kiếm
đủ ăn thôi. Bởi thế cho nên ông tổng thống Garfield 5 đã nói rằng: "Cái phần gia tài quý
báu nhất mà một thiếu niên có thể được hưởng của cha mẹ ấy là sự thanh bạch…",
Vì sao? Vì rằng như Lucien Descaves 6 đã dạy: cái cảnh thanh bạch của người ta
chỉ là đáng ghét, không phải vì mọi sự thiếu thốn nó bắt người ta chịu, nhưng
mà vì những tư tưởng xấu xa nó xui cho người ta có. Như vậy, riêng về phần ta
chẳng hề vì không lắm tiền mà thèm thuồng ham muốn điều gì, đến nỗi không đạt
được thì phải có những tư tưởng xấu xa. Trái lại, chính bọn giầu, có khi lại phần
nhiều có những tâm hồn ô trọc. Nếu không thế sao một người đàn bà như Colette Yver,
mà đã dám viết rằng: "Hạnh phúc vẫn có… Nó ở trong cái cảnh thanh bần mà
người nào muốn giữ, hoặc vui lòng cam chịu, nó ở cái tự do của một khối óc
trong sạch không bị sự bịn dịn đê hèn, ô trọc hay đắc tội, đến khuấy rối, nó ở
trong cái nghèo! Muốn nói cho gẫy nghĩa hơn nữa thì đây, lại một câu danh ngôn
của Lucien Descaves: Cái nghèo mới là một điều kiện tối cần không có khôn được,
của sự đạo đức và của hạnh phúc vậy. Cho nên Pasteur 7 cũng phải bực mình hạ bút: "Các người
chưa đáng mặt hiền nhân quân tử, nếu các người không biết rằng chẳng cần gì phải
giầu có, ta cũng có thể sung sướng được lắm", ừ, cái đó thật lắm chứ, nếu
không sao trong phong dao tục ngữ của Tây Ban Nha cố hữu lại có câu này:
"Con ếch trần trụi, con ếch nhẵn nhụi, con ếch không len, không sợi, con ếch
cũng vẫn ca hát huyên thuyên.
Đến đây Phúc ngừng đọc, lim dim nhắm mắt, thấy câu tục ngữ ấy
thú vị lắm, vì muốn hưởng cho hết nghĩa lý câu ấy, anh ta cần phải lơ mơ như
người nghiện hưởng cái du dương của khói thuốc phiện. Năm phút qua như thế, thì
một chiếc lá bàng rơi vào đầu gối khiến anh ta choàng mở mắt ra, anh dở những
trang sách khác, muốn khối óc được vẫy vùng trong tư tưởng giới thêm một khoảng
nữa, điều ấy cũng dĩ nhiên thay bởi cớ nếu không cốt cho tinh thần được hoạt động,
ắt Phúc đã chẳng ra công viên ngồi ỳ hàng ngày. Anh lại càng vui hơn, khi thấy
rằng hôm nay không thể có mặt trời được, và như vậy là tốt lắm. Anh khỏi phải đổi
chỗ, khỏi phải chạy từ ghế này sang ghế khác như mọi bận để tránh nắng.
"Người khách lữ hành nghèo, trên dậm trường dấn bước
giang hồ vẫn cứ tự do nghêu ngao ca hát mà chẳng sợ thủ đoạn của đám đạo tặc".
Đó là một câu của Rojas. Tầm thường thay và cũng sâu xa thay! Vì rằng loài người
ngày nay điêu đứng trăm chiều, khổ vì danh lợi, cho nên lắm khi đã quên khuấy mất
những chân lý rất thông thường như hai với hai là bốn. Nhưng ta đây một người
khác hẳn nhiều người, ta quyết khám phá cho được hạnh phúc, ta chỉ quyết tìm thấy
cho được Tân Thế Giới, mà cũng chỉ bằng cái cách rất tầm thường như cách để đứng
quả trứng của Kha Luân Bố 8 mà thôi. Kẻ nào đã thâm hiểu được cái chân
giá trị của sự thanh bạch thì cũng phải muốn rằng: thà chỉ có một căn nhà nhũn
nhặn và chỉnh tề còn hơn là có một tòa lâu đài đồ sộ để cho thiên hạ khao khát.
Ấy đó, Horace 9 đã thay thế. Nhưng đây rồi, câu này còn gẫy
nghĩa hơn nữa, câu của Shakespeare: "Người ta thiếu thốn quá đã khổ, mà thừa
thãi quá lại càng khổ, lắm hạnh phúc là ở cái thường thường bực trung, người thừa
của thấy tóc bạc quá sớm, người đủ ăn họ thấy lâu hơn nữa". Cho hay nghĩa
lý thánh hiền nhập điệu với nhau một cách kỳ khu, vì chúng Sénèque 10 đây, đã nối theo câu trước "Những
bông lúa sai quá thường làm gẫy mất ngọn cây; cái cành phải rơi, khi những quả
chĩu chịt là quá nặng cho nó, cây quá sây thì quả không kịp chín nữa, ấy cũng
in như thế cho nên sự cực kỳ khoái lạc đã hại mất bao nhiêu tấm linh hồn. Hại
người khác và hại cả mình, nhất là hại mình".
Cái bữa ăn tinh thần ấy. Phúc ta nếu chỉ có đến đấy mà đã là
và xong cái miếng cuối cùng thì, nói cho thật kể cũng chưa đáng gọi là no. Vì rằng
anh chưa biết ước lượng giá trị cái địa vị của anh, nghĩa là anh cứ bâng khuâng
không hiểu rằng mình đã giàu quá hay là còn nghèo quá, để mà được hiểu rõ thế
nào là hạnh phúc. Sách vở cùng là nghĩa lý thánh hiền, phương ngôn tục ngữ, vốn
xưa nay vẫn chỉ có mục đích là chế tạo ra một hạng người nếu không gàn dở thì
cũng là hiền giả quá ngu mà thôi, thì cố nhiên cũng phải làm cho anh Phúc, chỉ vì
văn chương chữ nghĩa bề bề mà thành ra mất trí khôn. Lúc nào thấy sách nói giàu
là nguy hiểm, anh sợ mình đã giàu mất rồi; lúc nào thấy sách dạy phải thanh bạch
mới sướng, anh lại lo rằng mình nghèo quá chưa xứng đáng gọi là thanh bần mà chỉ
đáng là: nghèo khổ, túng kiết, quẩn bách vv… May sao ở trang sách cuối cùng của
anh, xưa kia anh đã có ghi thêm câu này nữa của đức thánh Evremond 11 . "Tôi chỉ muốn được chẳng giàu chẳng
nghèo, nghĩa là ở cái địa vị mà người đời không khinh bỉ nổi, cũng như không
ghen tị được".
Phúc ta muốn reo lên: "À đây rồi! Có thế chứ" Anh rất
bằng lòng anh vì xưa kia đã dịch và chép vào làm câu cuối cùng trong những danh
ngôn triết lý về cái vấn đề hoàng kim hắc thế tâm.
Cho nên Phúc ta đã tưởng mình phát minh điều gì, khi biết rằng
hai với hai là bốn, và tưởng bắt được của khi chưa rõ rằng mình kỳ chung chỉ là
một người vô nghĩa lý chẳng ai thèm ganh tị, cũng chẳng ai thèm khinh.
- Phúc! Anh ta ngẩng nhìn lên đứng cách mươi bước trước mặt
anh là Tấn người bạn đồng sự cũ ở hãng Bảo hiểm, cái hãng xưa kia có anh giúp
việc thầy ký.
- À kìa! Chào anh.
Người bạn đứng lại, dùng dằng mất một phút nhưng sau cũng tiến
đến phía anh khiến Phúc lấy thế làm rất vui lòng. Chẳng phải Phúc không biết vì
là lịch thiệp, nhưng anh ta vốn hay khó tính một chút không biết vồ vập săn đón
ai cả, mặc dù anh chẳng khinh người cũng như chẳng hề nghĩ đến cái sợ bị người
khinh. Tấn vốn là một thiếu niên con nhà giầu, đi làm chỉ để có tiền chơi bời
mà thôi, lại thêm là một tay bán trời không văn tự, tửu, sắc, yên, đổ, món nào
cũng khá cả, tiếng tăm dưới đời thật quả cũng đã lừng lẫy lắm, cho nên Phúc lấy
làm sợ cái con người vô đạo đức ấy lắm, mặc dầu đối với anh, Tấn bao giờ cũng
cư xử rất tốt. Nhưng một người bạn hư thân mất nết mà rất tốt với mình thì đó
là điều tối nguy hiểm, vì nếu hễ gặp mặt nhau thì chẳng có gì khác nữa ngoại giả
những chuyện chơi bời. Chính là vì Tấn mà Phúc đã nếm những cái hại ghê gớm của
loài người như hát xướng, chè rượu, cờ bạc, giai gái, dẫu rằng những cái hại ấy
chỉ làm cho ta sung sướng mà thôi, Phúc cứ trờn trợn lo rằng không khéo Tấn dễ
thường chính là con quỷ Sa Tăng hiện thành người để cám dỗ mình, quyến rũ mình
phá tan mất cái thiện căn trong lòng mình làm cho cái xác thịt của lúc sống được
biết những cảnh thiên đường để mà lôi kéo cái linh hồn mình, khi chết, thẳng xuống
địa ngục. Chỉ vì lẽ ấy, tự Phúc từ khi không làm cùng sở thì anh ta không đi
tìm Tấn nữa, và bây giờ tình cờ gặp nhau thì gặp nhau.
- Thế ra từ dạo ấy đến nay, anh cũng chưa làm đâu à?
- Chưa.
- Thế sao không thấy lại chơi?
- Bận quá.
Tấn trố hai mắt:
- Cái gì? Bận à? Bận mà anh lại được ngồi vườn hoa đọc sách
như một thi nhân thế này à? Gớm!
Phúc đã cao hứng lại cụt hứng tức khắc. "Sao nó đã khen
mình là thi nhân mà rồi lại chê ngay thi nhân là gớm? Sao nó lại không đến chơi
nhà mình? Để nó bắt mình phải cầu thân với nó sao". Tuy nhiên anh ta cũng
đáp bằng một câu nói chẳng thành thực mấy, đầy những kiêu ngạo:
- Những lúc bí cũng chẳng muốn tìm ai cả.
Tấn rộ lên cười mà rằng:
- Thôi! Thế tôi xin lỗi anh! Ừ đáng lẽ thì chính tôi phải đi
tìm anh và không được phép trách anh sao không tìm tôi. Khốn một nỗi, tôi cũng
có nhiều bổn phận quá, và toàn là bổn phận phải gánh vác với những bạn thân
yêu; nếu tôi đi tìm anh, ắt các bạn khác chúng chửi tôi là đồ xỏ lá, là ba que,
là đê tiện, là Hán gian 12 , thôi thì đủ thứ, bởi cái lẽ rất dễ hiểu
rằng vắng tôi, chúng mất bạn đồng chí để đi hát, đi hút, đi uống, đi chơi,
chúng sẽ căm tôi ích kỷ, đi ăn mảnh, vì tìm anh để nói những chuyện nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín là hưởng một cái khoái lạc hoàn toàn tinh thần.
Phúc cố cười tha thứ rồi bảo:
- Khoan đã! Nói nhảm ít chứ. Thế nào, hai cụ nhà ta dạo này vẫn
được bình yên như thường đấy chứ?
Tấn sa sầm ngay nét mặt:
- Cảm ơn anh! Như thường! Nghĩa là thầy tôi đêm nào cũng vẫn
tổ tôm điếm tràn cung mây ở Khai Trí Tiến Đức 13 như một vị thượng lưu nhân vật Việt Nam xứng
đáng, và đẻ tôi cũng vẫn đồng bóng như một bậc đức phụ Việt Nạm ít có, để mà thỉnh
thoảng lại xài tôi một trận, chỉ về vấn đề ép duyên.
Theo thường lệ, Phúc cũng tìm đươc một câu triết lý.
- Thôi, anh cũng chẳng nên phàn nàn. Được thế là may! Những
cái khó chịu nhỏ tránh cho ta những cái tai hoạ lớn. Thánh nhân đã dạy:
"nhân vô thập toàn" cơ mà!
Tấn cũng hằn học đáp ngay:
- Nếu thế thì bố mẹ tôi cũng không nên phàn nàn mới phải chứ,
sao lại cứ muốn bắt tôi hoàn toàn? Tôi có là thánh nhân hay là tăng ni đâu? Mà
sư mõ bây giờ thì cũng phải ăn thịt chó, cũng phải đi săm, đi hát, nếu không
thì hợp thời trang thế đếch nào được.
- Thế dạo này, anh có gì lạ không?
Tấn trầm ngâm nghĩ ngợi rất lâu rồi mới đáp:
- Có! Kể cũng có cái gì hơi lạ một chút!. Với ai kia thì tôi
còn dấu, nhưng với anh tôi nói được. Tôi đã biết rõ bụng dạ anh lắm, cư xử với
bạn hữu tốt, đạo đức lắm, tuy hơi ương gàn một chút, nhưng không vụ lợi bao giờ.
Nhưng mà ngoài anh ra, cái điều bí mật này không còn một ai biết nữa, vậy phải
giữ kín thật kín, sống để dạ chết mang đi đấy nhé! Anh có dám hứa không?
- Cái gì thế? Cái gì mà ghê gớm thế. Vâng tôi xin hứa.
- Thật là sự bất ngờ trong đời tôi. Thật chưa bao giờ tôi lại
nghĩ đến nó, hy vọng đến nó. Chiều hôm nay hay ngày mai là cùng thôi, anh có biết
tôi sẽ làm một việc phi thường gì không? Tôi sẽ đến sở, không phải để nô lệ như
hàng ngày, nhưng mà là để đá vào đít ông xếp của tôi vài ba chiếc. Tôi chỉ còn
chờ đi mua một đôi giầy mũi rõ nhọn nữa là khởi công mà thôi.
Chưa hiểu gì cả, Phúc chỉ biết rộ lên một cái:
- Ủa!
Tấn tiếp:
- Phải phải, chính thế! Ngày kia thì các báo sẽ đua nhau đăng
ảnh tôi lên trang nhất. Rồi thì tôi sẽ trở nên một nhà giàu lòng từ thiện vô
cùng, hoặc sẽ bị gọi là một thằng đểu vô cùng!
- Cái gì lạ lùng đến thế?
- Vậy anh cũng vẫn chưa đoán ra hay sao? Thế tôi cắt nghĩa
thêm nữa nhé? Tôi cũng sắp bỏ việc như anh! Các báo, các nhà từ thiện sẽ đến
tìm tôi, sẽ xin tiền tôi. Nếu tôi không cho họ đồng nào, họ sẽ chửi tôi đến bật
mồ, bật mả! Nếu tôi cho, tôi sẽ là vĩ nhân của thời đại bây giờ.
Trước cái miệng há hốc tròn xoe của Phúc, Tấn nóng ruột quá,
đành phải nói thẳng:
- Nghĩa là tôi trúng số, anh nghe rõ ra chưa? Có mấy đâu, bốn
nghìn bạc thôi, nhưng mà cũng kể là số độc đắc kỳ này đấy, vì số mười vạn còn
những hai tháng nữa mới mở 14 .
Đến bây giờ, Phúc mới biết gật gù mà phê bình một cách rất
sâu xa, ý vị rằng:
- À… à! Thế cơ à!
Tấn lại trỏ tay vào sống mũi bạn, giao hẹn lần nữa.
- Bí mật đấy nhé! Bí mật hơn cả sự buôn đồ quốc cấm đấy nhé!
Phúc phì cười:
- Nếu nay mai thế nào thì báo giới cũng biết thì còn bí mật
quái gì nữa?
- Những cái đó là cái phòng xa thôi, chứ tôi, may ra mà tôi vẫn
giữ kín được cũng không biết chừng. Vả lại người trúng số ở xã hội này đã cũng
như một tội nhân bị án tử hình chỉ còn đợi ngày lên máy chém thì cố nhiên chậm
được ngày nào là hay ngày ấy… Cái gì nhỉ? "On arrivetoujours asseztôt pour
être pendu". 15 Có phải thế không? Tội gì hiện tôi đương
Bô Xu 16 bỗng dưng lại được bạc những bốn nghìn,
mà tôi lại không nhân cơ hội để thử lòng những bạn thân của tôi, những chủ nợ của
tôi, những nhân ngãi của tôi, có phải thế không? Dẫu rằng chỉ giấu được trong
24 tiếng đồng hồ, tôi cũng phải dùng cái thời gian ngắn ngủi ấy, làm ra bộ túng
tiền để thử cái bụng tốt của thiên hạ mới được. Chuyện này thì rồi nhiều anh để
rơi mất mặt nạ đây!
Phúc khen luôn một lúc bằng ba câu:
- Phải lắm! Khôn lắm! Xỏ đời lắm!
Tấn giơ cổ tay lên xem giờ rồi vội vã giao hẹn:
- Thôi ta tạm biệt nhau nhé. Để tôi vào lãnh tiền kẻo hết giờ
mất rồi. Họ còn tra hỏi, căn vặn căn cước và lý lịch của mình hàng giờ chứ chẳng
phải dễ như được bạc ở sòng bài đâu. Vậy thì anh hãy cứ ngồi đây để chờ cho đến
lúc tôi ra, anh hiểu chưa? Để tôi ra rồi hoặc đi đàng này một lát hoặc tôi hẹn
với anh một giờ nào gặp nhau cho đích xác.
- Ừ, thôi thế thì vào ngay đi.
- Phải, phải anh cứ ngồi chờ đây mà xem cái thời cục của xã hội
này nó sẽ thay đổi.
Tấn không bắt tay, cắm cổ đi ngay. Phúc nhìn theo người bạn để
thở dài một cái rất thành thực, vì anh cho rằng một người chơi bời hư thân mất
nết đến thế này mà nay lại còn trúng số, nhất là đến bốn nghìn nữa thì đó chính
là một cái mầm đại họa. Thốt nhiên anh nghĩ đến câu danh ngôn của Descaves:
"Chính cái nghèo mới là một điều kiện tối cần, không có không được, của sự
đạo đức và của hạnh phúc…" Nhưng anh vội xua đuổi ngay cái lời đạo đức bất
hợp thời và có hại ấy, vì anh chợt nhớ ngay ra rằng anh đương cần tiền. Thốt
nhiên, anh thấy ngay rằng cho dẫu Tấn là một kẻ hư thân mất nết đi nữa thì cũng
vẫn là một thiếu niên hư hỏng rất thông minh rất đáng yêu. "Xưa kia Tấn
thường đã rủ mình đi chơi láo mất hàng năm bảy đồng bạc không tiếc, hẳn bây giờ,
bỗng dưng phát tài có tới bốn nghìn trong tay, nên mình vay hắn đồng bạc cho
người phu kia ắt được lắm". Phúc yên tâm ngay, vui vẻ ngay, cho rằng mình
đã được cái hy vọng rất chắc chắn là cứu được cả gia đình người phu lục lộ khỏi
nạn đói rét. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân, cho hay cổ nhân đã nói, ắt phải
như đóng đinh vào cột, chẳng có sai một ly bao giờ.
Và những cảm tưởng của Phúc lúc ấy, chẳng phải chỉ dung dị đến
thế.
Tức khắc anh cất ngay vào cuốn sổ tay có những danh ngôn đả đảo
sự phú quý, và an ủi xuống cái nghèo kiết kia đi. Anh thấy rõ, hơn cả hai với
hai là bốn nữa, rằng có tiền vị tất đã là nguy hiểm, và trái hẳn lại, chỉ không
tiền như anh mới thật là tai hại. Chứ gì! Anh đang muốn làm một việc thiện to
tát mà chỉ đáng giá có một đồng bạc mà suýt nữa cũng không xong. Thật là may
quá, đương chưa biết chạy vào đâu thì lại gặp ngay bạn hiền, mà lại một ông bạn
hiền trúng số. Do thế, anh muốn hiểu rõ tại sao hai người tình cờ mà lại là bạn
thân của nhau. Thật là một sự kỳ công của tạo hóa, vì xem ra tính tình hai người
chẳng những không hợp nhau mấy tí mà lại còn trái ngược hẳn nhau là khác nữa.
Một đằng thì sơ sài, giản dị, đạo đức, nhút nhát, nói ít, tư
tưởng 17 nhiều chẳng khi nào phủ mồm với ai. Một đằng
thì làm dáng như đàn bà, hư hỏng như đồ gái nhảy, táo tợn, thấy gái thì như mèo
thấy mỡ, mồm miệng như "cái tôm cái tép" nhưng kỳ chung chẳng có cái
tư tưởng sâu xa gì trong đầu, ăn thì chỉ thích ăn toàn miếng ngon, còn nói thì
chỉ nói toàn những điều càn dở, bạo thiên nghịch địa. Hai bên như nước với lửa
đến thế, vậy mà chẳng những không phản đối nhau, không công kích nhau, lại còn
ra vẻ hợp ý nhau, tri kỷ nhau, thân yêu nhau. Sự đời trong cái éo le này, thật
quả chẳng còn hai với hai là bốn nữa. Lấy gì cắt nghĩa được. Âu hẳn cũng là
duyên nợ chi đây, bởi lẽ nhất ẩm nhất trác cũng gia cho tiền định kia mà.
Sau cùng, Phúc cho rằng hễ con người ta thiếu thốn cái gì thì
thích những người nào chẳng có cái nhược điểm ấy, và cái luật đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu ắt hẳn nó là như thế. Chứ những người tính nết giống nhau có
khi nào lại kết bạn lâu được với nhau.
"Nếu quả như vậy thì dây liên lạc này trông chừng cũng bền
chặt được, vì mình ưa nó, ắt hẳn mình thấy hơi thiếu thốn bề nào về những đức
tính trong sự trác táng của nó; cũng như nó, nếu nó ưa mình, ắt hẳn nó cũng tha
thiết muốn có, muốn rèn đúc, trau dồi cho nó được những cái thanh cao, đạo đức
của mình!…"
Nghĩ như thế rồi. Phúc ta muốn được nói lên rõ to: "Chao
ôi! Thì ra ngày hôm nay chưa ắt hẳn là một ngày hoàn toàn bỏ đi cho đời ta, vì
ngoài một việc thiện ra, ta đã khám phá ra nổi một chân lý ít người nghĩ đến…
Không, ta giao thiệp với Tấn chẳng có nguy hiểm như ta vẫn tưởng, và có khi
trái lại nữa, có khi vì ta mà Tấn sẽ được cứu vớt ra khỏi vòng hắc ám của tứ
hung chi tội 18 để rồi thẳng tiến trên con đường sán lạn,
quang đãng và bình tĩnh của những thiện nhân. Nếu quả Tấn chỉ là vì cái xấu của
thời đại mà đâm ra ô xú, chán đời, chứ chính thật trong lòng hắn cũng vẫn còn
chút ít thiện căn để tha thiết tới cái gì là đạo đức của ta, thì ta quyết sẽ
làm cách nào cho bạn cũng trở nên người có đức, có nhân và ta sẽ coi đó là một
công nghiệp 19 lớn lao nếu cả một đời ta, ta sẽ chỉ làm
được có một việc ấy là thiện. Còn như ta, nếu thật tình ta cũng khuynh hướng về
những cái phóng đãng của hắn để mà không đến nỗi sợ tội lỗi mà tuyệt giao với hắn,
thì ta đây, ta cũng sẽ đủ tư cách để kiềm chế dục vọng lại cho khỏi đến nỗi gần
mực thì đen, chứ như ta đây, ta ngại gì! Và sau cuộc suy nghĩ này, ta lại biết
thêm rằng chẳng phải ai ở đời cũng cứ sinh ra mà đã là thánh hiền ngay đâu, có
sống mới biết, có từng trải rồi mới gọi là kinh nghiệm được, mỗi ngày là một buổi
học, mỗi việc xảy ra đáng gọi là một lúc giảng bài. Như vậy thì không gì nguy
hiểm bằng những thành kiến, những quan niệm sẵn có của người khác, và muốn được
thẳng bước trên con đường vạn dặm của đời đạo lý, ít nhất ta cũng phải hoài
nghi như Montaigne 20 .
Thích trí quá, lại nhân ngọn trào tư tưởng trong óc lúc ấy
khác nào như những làn sóng bạc vẫn đập vào bờ đá mà lại được thể vì có phong
ba, nên chi Phúc ta vỗ đùi khoan khoái, lẩm bẩm thêm nữa: "Ừ may mà mình
đã hoài nghi… Nếu cũng nông nổi như thói đời chưa chi đã yên trí ngay rằng Tấn
chỉ là một kẻ chơi bời đểu cáng, vô giáo dục, thiếu nhân cách, để mà không giao
thiệp với hắn ngay từ lúc đầu, thì có phải bây giờ ta mất một người bạn hiền rồi
không? Huống chi phương ngôn đã có câu hữu tài hữu tật, và ăn chơi chẳng qua
cũng là một thông bệnh của người đời, từ cổ chí kim mà thôi. Ngoài cái thói
phóng đãng ra, tuy nhiên bạn ta cũng đã từng tỏ ra thông minh, có duyên, khinh
tài trọng nghĩa, nói tóm lại thì toàn là những đức tính mà những kẻ đạo đức
suông, nghĩa là những kẻ không ăn chơi gì thì ít khi có được. Đã thế lại thêm
khí khái vô cùng, thân danh chỉ là một anh thầy ký quèn mà tự trọng ra phết, bướng
bỉnh ra phết, cấm thấy bao giờ lòi đuôi ra làm nịnh tây, cái con người vô thập
toàn ấy, nếu là hòn ngọc có vết, thì cũng vẫn còn hòn ngọc. Còn hơn không có vết
gì mà chỉ là hòn đá kỳ".
Phúc lại nhớ rõ cả những việc vụn vặt ngày trước, mình làm nhầm
mà bạn chữa hộ, mình bận rộn được bạn giúp đỡ, mình bị đồng sự khác dèm pha thì
bạn hăng hái bênh vực… Phúc đã triết lý kỹ lắm, và chỉ thấy ở Tấn là người đáng
yêu mà thôi. Duy có điều này anh ta quên mất không triết lý đến, là bạn anh vừa
trúng số được bốn nghìn bạc.
Phúc tưởng chừng như cứ mãi như thế cũng đã được hưởng tất cả
những khoái lạc của đức Phật tổ khi thấy cõi Niết Bàn. Đương say sưa ngây ngất
đợi cái giờ quý báu là lúc bạn ở nhà kho bạc đi ra, đang tưởng tượng tới mấy
cái đá đít oanh liệt mà bạn sẽ tặng cái lão sếp khả ố cũ của mình, nghĩa là
đương chờ một sự thay đổi thời cục xã hội, thì thình lình trông thấy vợ với một
bộ mặt nhăn nhó vừa đáng sợ, vừa đáng thương, nó cấp báo rằng hẳn ở gia đình
nhà anh, thời cục cũng đã có gì thay đổi, anh ta kinh hoảng đứng lên đón vợ, và
hỏi ngay, dẫu rằng vợ vẫn còn ở đằng xa.
- Cái gì? Cái gì thế này? Sao mà mợ phải ra tận đây tìm tôi?
Khi đến nơi, vợ Phúc không đáp thẳng câu hỏi kia chỉ bỉu mồm
nói rất mỉa mai:
- Gớm, rõ cậu sung sướng đến thế thì thôi! Thật là sống chết
mặc bay, lại ngày nào cũng ra vườn hoa đọc sách thế này nữa! Rõ nhàn cư vi bất
thiện.
Tuy câu trách móc ấy, Phúc thấy là vô nghĩa lý và khả ố lắm,
nhưng mà anh cũng nhịn, bởi xưa nay vẫn coi giống đàn bà là ngu si, chẳng hiểu
cái gì, nên chỉ hỏi lại:
- Nhưng có gì phải ra đây tìm thế? Ngồi đây.
Vợ anh ngồi xuống, thừ mặt ra một lúc, nhăn nhó kể lể:
- Chết mất cậu ạ, phen này thì đến bỏ nhà mà đi, thật không
dám trông thấy mặt thày mẹ nữa. Cậu không nghĩ cách cứu lấy tôi thì nguy to, chứ
tôi, tôi sợ lắm, hóa điên hóa dại đây rồi. Nguyên là mẹ giao cho tôi hai chục bạc
để ngày mai đi xuống ô đóng họ, thì không biết đứa nào lấy mất. Tôi cũng không
biết đã để chỗ nào cũng không nhớ là mất ở nhà, đầy tớ nó lấy hay bị móc túi
lúc đi chợ Đồng Xuân… Nguy quá, hai chục bạc, lại tiền đóng họ, làm thế nào được?
Đi vay ai bây giờ, phải bù vào chứ nếu thú thật, thầy đẻ chửi chết, ắt rồi điêu
đứng khổ sở.
Phúc so vai thở dài mà rằng:
- Thế mới đẹp mặt! Ai bảo buôn quăng bỏ vại, lúc nào cũng
chúi đầu vào tiểu thuyết kiếm hiệp, lúc nào cũng u mê trí não như lên mây xanh.
Vợ anh ta nổi nóng ngay:
- Thế còn cậu, sao cũng biết bỏ nhà cửa đi cả ngày, để đọc
sách nhảm.
Phúc ta phát uất đến không thể nói gì được nữa. Thì ra đàn bà
đích thị là một giống tối nguy hiểm và nếu đức Thánh Khổng xưa kia phải bỏ vợ, ắt
hẳn vì vợ ngài cũng giống như vợ anh mà thôi. Anh lại dám chắc rằng ở đời này
chẳng phải hiếm gì những bậc hiền nhân quân tử đâu, nhưng mà vì người ta trót lấy
vợ cả cho nên cũng đâm ra tầm thường, nhất loạt như nhau, cá mè một lứa. Phải
phải, đàn bà ngày nay thì còn có gì khác nữa, nếu không là bắt chồng phải kiếm
ra tiền, rõ nhiều tiền, để có được vùng vẫy, ăn chơi? Đấy! Trông đấy mà xem như
vợ chồng anh, tưởng rằng được bố mẹ nuôi cho cả hai thì là anh thoát thân, anh
khỏi khổ phải chạy tiền như trăm nghìn người chồng khác, thì bây giờ vợ anh
đánh mất tiền đi, để cho anh phải nghĩ cách chạy tiền bằng được! Anh coi đó là
một điều cay đắng nhất mà một kẻ nam nhi có thể phải chịu, vì anh đã thường nói
rằng không chịu thua kém ai một điều gì cả, ai làm được việc gì anh cũng làm được,
ai hiểu được sự gì anh cũng hiểu được, ai nhịn được cái gì anh cũng nhịn được,
duy có cái việc làm ra tiền là anh đành chịu thua. Chán nản, nhọc mệt, anh uể oải
đáp:
- Tôi mà lại đọc sách nhảm! Có mợ là người không biết gì.
Tức thì vợ anh kéo dài ngay mồm ra:
- Phải y. Y! Tôi thì còn biết gì, chỉ có cậu là tài giỏi! Tưởng
ta cừ lắm đấy! Rõ thật cú không biết thân cú hôi có khác.
Sự đại lượng, sự nhịn nhục của con người ta cũng chỉ có giới
hạn thôi, cho nên đến đây, Phúc không thể chịu được nữa, anh cau mặt hỏi lại:
- Cái gì mà cú hôi? Ừ. Tôi làm cái gì mà mợ bảo hôi tanh?
Người đàn bà có lẽ cũng biết mình quá lời, không dám nhìn thẳng
vào mặt chồng nữa, nhưng trong khi nhìn xuống đất, chỗ mà mũi giày vô tình gí mấy
hòn sỏi, vẫn không quên cắt nghĩa một cách hằn học:
- Chả hôi tanh gì thì chẳng có gì là thơm tho! Chồng con như
cậu, thật rõ chán như cơm nếp nát!
Phúc không cần nghĩ cũng đã rõ ngay vợ anh muốn những gì rồi.
Nhưng xưa nay, vì lẽ không bao giờ hai vợ chồng được ngồi riêng nên anh ta cũng
vẫn cứ bưng tai giả điếc thôi, chẳng thèm cắt nghĩa, cho rằng việc cắt nghĩa ấy,
dẫu mai hay kia, cũng chưa sợ muộn. Hôm nay, giữa nơi công viên vắng vẻ thật là
một việc tốt, âu là anh phải nhân cơ hội để giảng giải cho cái con người ngu dốt
ấy hiểu rằng một người chồng như anh không những đã chẳng hôi tanh gì, mà trái
lại, còn là rất thơm tho nữa chứ sao lại không? Cho nên anh dàn ngay thế trận
khiêu khích:
- Sao vì lẽ gì mà chán đến thế? Ừ, tôi vẫn biết là mợ đã chán
tôi lắm, mợ còn thiết gì đến tôi! Nhưng mà hôm nay, tôi muốn mợ thổ lộ cho thật
hết cả cái tâm sự của mợ ra để tôi hiểu mợ chán tôi vì những lẽ gì. Nói đi, nói
hết đi, đừng ngại lời nữa, vì hôm nay không nói, có lẽ chẳng còn hôm nào được nữa.
Sau một hồi trù trừ, vợ anh bắt đầu, trước còn ấp úng:
- Chứ không ư? Chẳng chọn làm ăn gì cả, dở dở ương ương, khôn
chẳng ra khôn dại chẳng ra dại như thế, vợ con nào mà chịu được! Cậu thử nghĩ lại
mà xem, tôi lấy cậu chưa được một năm giời mà cậu mất việc từ độ ấy, ngồi ỳ ra
chẳng chịu xoay trở gì cả, lại ngày ngày ra vườn hoa đọc truyện như là sung sướng
lắm ấy! Tôi đây, đàn bà đã không có nghề nghiệp gì lại vớ phải ông chồng như cậu,
thật là thua chị kém em đủ trăm đường, tôi lại không chán mà được ư!
Phúc chua chát gặn hỏi:
- Sao nữa?
- Không làm gì mà vẫn phải ăn, người ta nói đã rác tai lắm! Cậu
đi cả ngày, cậu đâu có biết cái nỗi khổ tâm của tôi, những lúc tôi ngồi nhà,
trông hàng… Thỉnh thoảng đẻ lại đi ra, đi vào, mỉa mai, chì chiết những là người
ăn thì có, người làm thì không! Rồi các cô ấy nữa, lườm nguýt xỏ xiên, cho cả
tôi và cậu là đồ ăn hại, mà quả cũng có thế thật!
- Nếu đẻ như thế là đẻ trái chứng, nếu các cô ấy hỗn thế là
các cô ấy nhầm, ngu si, không biết gì, còn trẻ con, đáng thương! Còn về phần mợ,
tôi khuyên mợ nên xử sự như tôi là lờ đi không biết, để mà khinh bỉ những cái
nhỏ nhặt ấy, khinh bỉ bằng sự im lặng. Chỉ có sự yên lặng là đáng kể mà thôi.
- Cậu dở hơi thế nào ấy, khó nói lắm! Im đi thế nào được?
Mình ngồi im, nhưng người ta nói lắm mình cũng bật gốc, bật rễ lên! Theo ý tôi ấy
à? Thì không phải chỉ có sự im lặng là đáng kể, nhưng mà sự đi làm mới đáng kể.
Phúc nhăn nhó như đau đớn lắm, đáp:
- Không phải tôi không muốn đi làm. Nhưng mà chưa có việc thì
mới phải thế này chứ?
- Cậu cứ ra đây mà ngồi thì ai đem việc đến tận mồm cho cậu.
Vả lại cậu có để ý vào việc làm ăn gì đâu.
- Sao lại không! Tôi vẫn để ý lắm, hiện giờ chính là lúc đợi
thời của tôi. Nếu tôi chịu khó, ắt cũng có việc ngay, nhưng ít tiền, nhục nhã,
thì thành khoanh tay chờ có những cơ hội tốt hơn đi làm cho bõ. Một người như
tôi, chẳng chóng thì chầy, chứ khi nào lại không có chút công danh.
- Chờ cậu đến lúc sang kiếp tiểu sành.
- Việc gì mà vội? Không làm ngay thì tôi đã để mợ chết đói
đâu?
- Nhưng mà ăn hại mãi, thế đã đủ nhục lắm.
- Sao lại ăn hại, sao lại nhục? Mợ có biết cái phần gia tài
mai sau chúng ta được hưởng là bao nhiêu không. Tôi mới nghỉ việc chưa quá một
năm nay chứ gì! Nếu đẻ nói gì là đẻ trái, nếu các em nói gì là chúng nó hỗn.
- Nhưng đẻ cứ trái, và chúng nó cứ hỗn đấy, cậu về mà cãi!
- Thử nói đến tai tôi xem, nếu mợ ăn thì mợ đã trông hàng
giúp đẻ, sao lai gọi là ăn hại được! Nếu tôi có ăn, cũng chỉ là ăn vào phần gia
tài tôi được hưởng, chứ nào tôi đã ăn hại của ai! Huống chi cái thời kỳ nghỉ
này, tôi vẫn học, tôi đương là học trò.
- Học gì! Cậu học những gì mà kỳ lạ thế?
- Học sách vở, văn chương, nghĩa lý, cái gì mà không phải học?
Sự học thì còn có bờ bến nào nữa! Người ta càng học lại càng thấy mình là ngu dốt,
cần phải học thêm.
- Nếu vậy, thà tôi không học gì để được yên trí mà giỏi.
- Vả lại ai mà là thánh nhân đâu, cho nên ai cũng phải học,
cư xử sao cho phải, để tu thân, sửa chí.
Không cười, người vợ bắt đầu nói rõ to:
- Để quá ra một anh gàn bát sách! Thật thế cậu càng học càng
dốt thêm, cho nên càng tu thân sửa chí lại càng gàn!
Phúc tức giận khẽ quát:
- Tôi cấm mợ nói nhảm đấy.
Tin rằng mình không nói nhảm, người vợ làm già hơn nữa:
- Còn tôi, tôi cũng cấm cậu đọc nhảm, học nhảm nói nhảm, chơi
nhảm! Từ mai trở đi tôi muốn rằng cậu phải đi làm việc ngay, sở nào cậu cũng phải
len lỏi vào với một cái đờ-măng 21 . Tôi không thể nào đợi được nữa, cậu cứ
chờ thời thế này thì tôi hóa ra điên mất!
Phúc xua tay, thất vọng vô cùng:
- Thôi, thôi! Mợ về đi! Tôi không thể nói chuyện với mợ được!
Mợ ngu dốt không biết đến đâu mà kể! Tôi lấy làm hối hận lắm rồi, thật mợ không
xứng đáng làm vợ tôi!
- Đã thế tôi không về! Ừ, cậu đã nói thế, để tôi cũng nói một
thể. Rồng vàng tắm nước ao tù, đã hơn một năm nay tôi nặng mình như đá đeo rồi
đấy! Tôi không xứng đáng làm vợ cậu thì cậu bỏ tôi đi, ừ ,cậu bỏ tôi đi xem. Thật
là tôi sẽ ký cả bốn tay nếu tôi có đến bốn tay! Gớm chửa, kia rõ người với ngợm.
Cái áo trắng dài kìa, đôi giày cũ kia, cái mũ cũ kìa, cái mặt gàn dở, hủ lậu
kia, cậu đuổi tôi về có phải không? Thế thì cậu đứng dậy về, về ngay, tôi muốn
như thế?
Sau khi gần nhảy lên chồm chồm như thế, bây giờ vợ anh lại nắm
lấy cổ tay anh. Phúc giằng ra quát:
- Cút đi, đồ ngu, đồ khốn nạn!
- Bảo ai khốn nạn hử? Này, bảo thật: không về thì không xong
với gái này đâu! Đừng có tưởng bịt mãi mắt người ta được đâu, không ai mù! Học
gì! Học chọc bát cơm ấy à? Thảo nào cũng lấy cớ đọc sách để ra đây, nguyên trả
có mấy con hàng bưởi, mấy con hàng mía, mấy con vú đầm mà lại!
Đến cái lúc tức quá, không còn cách gì khác nữa, Phúc ta cũng
đành xử sự như một kẻ phàm phu, tục tử rất tầm thường mà rằng:
- Đứa nào có thế thì chết một đời cha, ba đời con nhé! Mà đứa
nào hàm hồ vu oan giá họa, thì chết trẻ, đẻ ngược nhé.
Vốn đã biết tính chồng không thế bao giờ, người đàn bà chột dạ,
đành dịu giọng:
- Nếu không có thế thì cậu về ngay bây giờ với tôi xem! Đi!
- Không về! Bước đi! Muốn tử tế thì về trước đi, không có thì
chẳng ra gì đâu!
Cãi vã hỗn láo lúc trước, bây giờ vợ anh đổi về du côn:
- Chẳng ra gì là thế nào! Ừ, anh định làm cái thá gì?
Trông ra xa, thấy Tấn đã từ trong nhà kho bạc bước ra, Phúc sợ
hãi lắm, vội hứa liều:
- Thôi, về đi, rồi thì có hai chục bạc… bảo không được thì mặc
đấy.
Theo tầm mắt anh, vợ anh quay lại nhìn về phía sau lưng. Khi
cũng trông thấy Tấn, người đàn bà ấy nhớ ra rằng xưa kia, Phúc đã mấy lần đi
chơi đêm, chính là vì người bạn quý hóa này cả, cho nên hầm hầm:
- À, lại thằng ông mãnh, lại hẹn hò gì với thằng ông mãnh!
Phúc vội vàng đứng phắt ngay lên, cương quyết một cách lạ:
- Im! Câm đi! Ông mãnh ấy có nhiều tiền đấy, nếu phải đi vay
thì không có ông mãnh nào khác nữa đấy!
Vừa lúc ấy, Tấn cũng đã đi đến nơi.
- Ơ kìa, lại cả bác gái lại cũng ở đây à.
Vợ Phúc quay lại, tươi cười như không, cúi đầu rất lễ phép:
- Chào bác ạ! Lâu nay không thấy bác quá bộ lại chơi.
Tấn cũng hơi ngạc nhiên về câu nói thân mật bất ngờ đáp:
- Tôi bận việc quá, bác thứ lỗi.
Thấy cái giả dối của vợ là rõ rệt quá. Phúc bảo:
- Mợ cứ về đi nhé! Việc ấy, để rồi tôi về hãy hay, thôi về đi
kẻo mẹ đợi.
Trước khi về, người vợ còn nói mấy câu mời mọc làm quà, khiến
Phúc bực mình vô cùng. Đấy là vợ anh ác cảm với bạn anh đến thế, mà mới nói đến
tiền, đã đổi ngay ngọn lưỡi như thế, nếu nói Tấn trúng số bốn nghìn, không biết
vợ anh sẽ có thái độ giả dối và hèn hạ đến bực nào! Hai nữa, anh chỉ sợ Tấn tưởng
lầm rằng anh đã nói chuyện Tấn trúng số nên vợ anh mới nịnh thần như kia. Nhưng
Tấn vốn là người tốt, hảo hiền, không thắc mắc, nên không để ý gì cả, chỉ hỏi
ngay Phúc:
- Bây giờ thì đi đâu chứ, chả nhẽ lại ngồi đây à?
- Ừ, thì đi nhưng đi đâu?
- Đi đâu để tiêu tiền cho nó sướng cái xác thịt chứ? Bây giờ
đi ăn cơm là đúng lắm rồi.
- Tuy tôi ăn cơm sáng rồi nhưng cũng sẵn lòng đi với anh.
- Phải lắm, tôi với anh, ta còn phải hỏi nhiều chuyện, bàn luận
nhiều điều lắm, vì rằng tôi đã nói, nếu không xoay lại được thời cuộc cho tôi…
- Thế anh trúng số những bốn nghìn thật đấy à?
Tấn nhìn Phúc ngạc nhiên, rồi chỉ đáp bằng cách lôi trong túi
áo ra một giấy bạc một trăm có bốn mươi tờ buộc bằng giây gai đỏ, nó khiến cho
một người thờ ơ với tiền đến như Phúc mà cũng tối tăm cả mặt mũi.
--------------------------------
Tên viên toàn quyền Pháp đầu tiên, chết ở Hà Nội năm 1886;
sau đảo chính Nhật, đổi tên là vườn hoa Chí Linh, nay đổi là công viên Indira
Gandhi. |
|
Tiếng Pháp nghĩa là: “Đáng phỉ nhổ kẻ nào nghĩ bậy về việc
đó!” lời nói của quốc vương Anh Edward III năm 1348 trong một dạ hội khi đang
khiêu vũ với bá tước phu nhân Salishbury thì một dây buộc bít tất của bà ta
rơi xuống đất, vua cúi xuống nhặt mà thấy các triều thần mỉm cười. |
|
Phủ Thống Sứ là phủ cai trị cả Xứ Bắc Kỳ; Renan (1823 -
1892) là nhà triết học, sử học, nhà văn Pháp đã nêu ra nhiều thuyết táo bạo để
giải thích lịch sử các khoa học và tôn giáo của loài người; Ngân Hàng Đông
Dương nay là Ngân hàng Nhà Nước; Toà Đốc lý là dinh của viên quan Pháp cai trị
thành phố Hà Nội. |
|
T.P viết tắt hai chữ Pháp Travanx Publics nghĩa là công sở
coi các việc cầu đường, đê điều, nhà cửa, thường gọi là Công Chính hay nôm na
là Lục lộ. |
|
Garfield là tổng thống Mỹ bị một kẻ cuồng tín ám sát năm
1881. |
|
Luclen Descaves nhà tiểu thuyết Pháp thuộc phái tự nhiên chủ
nghĩa (1761-1849). |
|
Nhà bác học Pasteur vốn sinh trong một gia đình dân nghèo. |
|
Kha Luân Bố là cách ngày trước phiên âm theo chữ Hán tên
Christopher Columbus, người tìm ra Tân Thế Giới năm 1492, cuộc phát kiến cực
kỳ vĩ đại trong lịch sử loài người. Tuy vậy nhiều người thời đó không công nhận
như thế. Trong một bữa tiệc người ta cho là việc tìm đất ấy chẳng tài giỏi
gì. Colombo liền đố ai để một quả trứng luộc đứng thẳng được thì mọi người đều
chịu. Thế là ông khẽ đập vỡ một đầu quả trứng và để nó đứng thẳng được ngay.
Người ta nhao nhao cho rằng thế thì ai cũng làm được, Colombo điềm nhiên nói:
Sao các ngài lại không làm trước đi? Ông ta muốn nói rằng các cuộc phát minh,
phát kiến thường bị người đời cho là chẳng có gì tài, nhưng có mấy ai nghĩ đến
cách phải làm thế nào để có phát minh, phát kiến, chỉ đến khi có phát minh
phát kiến rồi thì cho là dễ. |
|
Horace là phiên âm theo tiếng Pháp đồng thời Pháp hoá tên
thi hào La Tinh Horatius (66-8 tr Cn) bạn của hoàng đế Augustus và đại thi
hào Vergitius nhưng làm thơ chỉ ca tụng đời sống bình thường tìm hạnh phúc,
lý tưởng trong việc chỉ hưởng thụ vừa phải những lạc thú của cuộc đời. |
|
Sénèque là gọi theo tiếng Pháp tên triết gia la tinh
Senecus (9-66 sau CN), thầy học của hoàng đế bạo chúa La Mã Nero, là người
tiêu biểu nhất cho chủ nghĩa Khắc Kỷ, dạy người về mặt đạo đức ở đời phải rất
mực nghiêm khắc với bản thân |
|
Tác giả nhầm, đây là nhà văn Pháp Saint Evremond
(1610-1703) đã chống triều đình Pháp quá xa hoa và phải tự mình lưu vong sang
Anh. |
|
Hán gian là chỉ bọn theo Nhật phản lại tổ quốc Trung Hoa của
chúng. Thời Vũ Trọng Phụng trong cuộc chiến tranh Trung - Nhật có nhiều Hán
gian, hai chữ ấy được người Việt dùng chỉ kẻ phản bội. |
|
Hội lập ra là để mở mang trí tuệ, phát triển đạo đức cho
dân, trụ sở ở giữa Bờ hồ và Hàng trống, tên hay thế nhưng chỉ tổ chức đánh
tôm điếm để kiếm tiền. |
|
Thời ấy giá gạo ta chỉ độ năm đồng. |
|
“Để bị treo cổ bao giờ người ta cũng đến khá sớm” là một
câu ngạn ngữ Pháp. |
|
Bô Xu là nói theo tiếng Pháp, pauvre nghĩa là nghèo đọc là
Bô. |
|
Tác giả dùng chữ tư tưởng như một động từ để nói suy nghĩ. |
|
Tác giả cho bốn thói xấu tửu, sắc, yên, đổ - rượu, gái, thuốc
phiện, cờ bạc - là hung ác và tội lỗi. |
|
Tác giả dùng theo nghĩa “Sự nghiệp”. |
|
Montaine là nhà đạo đức và văn hào Pháp (1533-1592) đã đi
sâu vào việc khám phá ra bản chất của con người và vạch ra rằng cần phải yêu
đời và biết khoan dung với người đời. |
|
Cái đơn, nói theo tiếng Pháp. |
II. MỘT SỰ PHÁT MINH ĐỜI KHÔNG TỐT
Ở hiệu cao lâu ra, sau khi từ biệt Tấn và hẹn đến tối sẽ gặp
lại nhau. Phúc đem về nhà cái mặt đỏ gay những rượu. Anh rất sợ gia đình cho là
đã rượu chè be bét, thì mang tiếng to. Anh chỉ mong sao cho rượu chóng rã,
nhưng hình như đến lúc về nhà, sắc đỏ trên mặt cũng vẫn chưa phai, nên anh bần
cùng phải có những lý luận tự vệ trước, mặc dầu chưa chắc ai đã để ý đến cái điều
vụn vặt ấy. Ô hay, thì ra anh không được hưởng lấy một chút tự do rất tầm thường
của mọi người, nghĩa là uống rượu mừng một người bạn có đại hỉ hay sao? Nếu nói
gì, anh quyết sẽ cãi mới được. Từ khi cha mẹ sanh ra, nay anh mới say rượu là lần
đầu! Mà chưa đến nỗi cãi nhau, chửi nhau với ai, chưa ngã ra đường, thì có gì
là đáng thẹn?
Mới bước chân vào cửa hàng, cô Đức em gái anh, lúc ấy đương
ngồi đánh phấn với mấy người bạn gái cũng bỏ gương reo lên:
- Ô! Anh Hai đi ăn cỗ đâu về thế? Gớm chửa kìa, mặt trông như
mặt đức Thánh Quan!
Mấy cô kia nhớn nhác quay ra nhìn, khiến anh ngượng quá,
nhưng cũng mừng rằng, may mà bà mẹ không ngồi trông hàng như mọi khi. Vào đến
trong chỗ buồng khách, tức cũng là buồng ăn, anh chỉ thấy một chiếc va ly rất
to trên bàn thôi, vậy bà mẹ lúc ấy hoặc ở trên gác, hoặc đi vắng, vội vàng anh
rảo cẳng vào sân sau để rửa mặt một lần nữa cho tỉnh táo. Thì chẳng may vợ anh ở
nhà bếp chạy ngay ra đón anh một câu như thế này:
- Đi ăn uống với người ta thế rồi tiền đâu mà thết lại!
Phúc lẳng lặng gục cả mặt vào chậu nước mát, thấy như nhẹ cả
người. Câu nói tầm thường của vợ, trước anh coi khinh đến bậc không thèm đáp, dần
dần hóa ra có nghĩa lý… Thật vậy, Tấn đã thết đãi anh rất nhiều lần, anh chưa hề
trả nợ lần nào cả, nếu người bạn tốt ấy sau này sẽ cũng coi miếng ăn là trọng,
cũng tha thiết đến sự được trả lại, nghĩa là cũng sẽ tầm thường như vợ anh, thì
anh sẽ tính sao? Thật là cả một vấn đề quan trọng nó khiến anh phân vân về sự đối
đáp về sau, hối hận về những cuộc hành lạc khi trước, và nản chí về sự định vay
tiền, bất cứ ở chỗ nào, bất cứ vào lúc nào! Anh đã bắt đầu ngờ vực cái nhân
sinh quan của anh vẫn chủ trương. Không, nếu không kiếm ra được tiền, chẳng ai
có thể trở nên hiền nhân quân tử được. Vợ anh khoanh tay đứng nhìn, chờ anh ngẩng
mặt lên liền hỏi:
- Thế nào? Thế ông có để ý đến việc của tôi không đấy? Hay rượu
vào thì quên mất cả mọi sự rồi?
Bực quá, anh đáp vừa hùng hồn vừa liều lĩnh?
- Cái gì mà ồn lên thế? Chỉ có câu chuyện hai chục bạc thôi,
gì mà những "mọi sự"? Tối hôm nay hay mai là cùng, rồi sẽ có!
- Thế đã hỏi chưa?
Phúc gật đầu liều.
- Thế người ta đã nhận lời chưa?
Phúc đáp liều hơn nữa :
- Đã! Đã! Không phải nói lắm!
Anh vắt chiếc khăn mặt lên giá chậu, toan quay ra thì vợ anh
gọi giật lại:
- À này cậu! Anh cả vừa về chơi đấy! Cô Đức sắp đi mua bán gì
cho anh ấy, còn tôi, bận làm cơm, vậy cậu liệu trông hàng cho tôi.
- Thế đẻ đâu?
- Dễ thường đẻ cũng đi mua bán gì cho anh ấy rồi.
Anh gật đầu, vui mừng lên gác. Tấn đã bảo anh rằng đêm nay
thì đi hát một chầu ở Khâm Thiên cho long trời lở đất, vì ham chơi thì ít, vì
nghĩa vụ vay tiền cho vợ thì nhiều, anh đã không thể nào từ chối cái việc cũng
không hại đạo đức mấy chút ấy, tất nhiên anh phải lục hòm ra xem cái áo the
thâm có nhầu nát lắm không, cái khăn lượt cũ đã bị gián nhấm thêm nữa hay chưa…
Một tư tưởng chua chát bỗng đến với anh, phải khăn áo chỉnh tề để dấn thân vào
cái chỗ ghê gớm nó làm cho nhiều người khôn ngoan đã bỏ vợ, từ con, khuynh gia,
bại sản… Mà vì lẽ gì? Vì tiền! Ai đi hát là thừa của, vì quá no cơm ấm cật, còn
anh, vì chạy tiền, vì muốn cho vợ khỏi phải bị chửi, vì muốn cho gia đình yên
vui! Than ôi, thật là trái ngược thay mà sự hy sinh to tát ấy, thì rồi đến
chính vợ anh cũng chưa chắc hiểu rõ cho anh đâu, người nhà mà biết, ắt sẽ đay
nghiến, sỉ nhục, rầy rà anh, nhưng thôi, đã có quỷ thần hai vai chứng giám!
Rõ chẳng may, bà mẹ lại không đi vắng, giữa lúc anh lên, bà mẹ
đương lục tủ chè, và cái vẻ đầu bù tóc rối ấy cùng là rất nhiều đồ la liệt bầy
khắp sập bảo rằng bà cụ đương rất bực mình phải tìm một vật gì mãi chưa thấy.
Thấy anh, bà ngừng tay, thẳng người lên, thở dài rồi the thé hỏi:
- Gớm, quý hóa chửa, cậu đã đi chơi về. Sao hôm nay cậu về sớm
thế? Thằng cả nó vừa ở Bắc về đấy cái bằng của nó, cậu vứt vào đâu?
- Dạ bẩm con cất bằng của anh con bao giờ ạ!
Tức khắc anh là có tội, vì bà mẹ muốn anh có tội.
- Không cậu thì còn ai? Thế tủ sách của cậu đâu? Thử tìm cho
tôi xem nào! Đi cả ngày, chẳng tích sự gì cả!
- Thưa đẻ, nếu con cất, con nhớ ngay, quả thật con không ….
- Thì cậu cứ cố tìm hộ tôi xem nào! Cậu làm ơn.
- Khổ quả, đẻ bắt thì con phải tìm, nhưng chắc là không thấy
được đâu! Đấy rồi đẻ xem.
Tức khắc anh mở tủ sách, một cái tủ nhỏ đã mọt trong có rất
nhiều sách cũ, sách học khi xưa, sách tàn thư mà anh đã mua khi đi làm. Anh bầy
ra sập từng quyển một để phân bua rằng mẹ bắt mình làm một việc vô ích. Trong
khi ấy, anh không quên hỏi:
- Anh con bắt tìm bằng thi để làm gì thế không biết!
Cho câu ấy là xúc phạm lắm, bà mẹ gắt một hồi :
- Nào ai biết đâu! Nhưng nó đã bảo tìm, thì phải tìm! Chả gì
cũng cái thằng đít lôm 1 ,
đánh mất của nó thì cả nhà này chết với nó!
Phúc nhăn mặt vì câu nói của mẹ là dốt nát một cách khó chịu,
nhất là nó bao hàm cái nghĩa sợ sệt vô lý hình như anh cả là bố chứ không phải
chỉ là con. Cho dẫu người anh ấy đã có bằng thành Chung 2 ,
Phúc cũng vẫn coi là học lực tầm thường lắm, vẫn khinh để bụng, ấy là chưa kể đến
cái nhân cách thảm hại của con người anh ấy cờ bạc như ranh, nợ hơn chúa Chổm,
giai gái thì đã mắc giang mai đến bốn lần, vợ đẻ ba lần chết, một lần sẩy, làm
cho bố mẹ những chịu tiền cưu mang mấy lần mà điêu đứng, thật đã điếm nhục gia
phong. Tuy vậy mà vẫn được bố mẹ kính trọng lắm, chỉ vì đã chạy tiền đút lót mà
được làm ông Phán tòa sứ. Người anh ấy lương tháng bảy chục đồng mà cứ luôn
luôn về nã tiền nhà tiêu thêm sự thật thì chẳng những chưa giúp đỡ bố mẹ một xu
lại làm hại bố mẹ chưa biết đến đời nào mới thôi. Anh như thế thì bố mẹ sợ hãi,
mình như thế thì bố mẹ ghét bỏ. Phúc lắm khi chỉ vì sự bất công ấy mà phẫn uất,
tuy chưa bao giờ dám để lọt ý nghĩ ấy ra miệng.
Bà cụ lại chấp trách cả đến nét mặt anh lúc ấy nữa - Cứ tươi
tỉnh lên một tị, tìm cái bằng ấy chưa nhọc cái thân xác mấy đâu mà đã phải mặt
nặng, mặt nhẹ như quân thù quân hằn như thế! Cái giấy gì kia? Không phải rồi
đây kia nữa! Bằng nó đấy chứ gì! Thế mà bảo tìm chưa chi đã cãi cang cảng!
Phúc dở ra, hơi gắt:
- Bằng sơ học của con, không phải của anh ấy.
- Ừ, ấy thế! Thế là anh em xử với nhau tốt lắm! Của cậu thì cậu
giữ cẩn thận, còn của nó, cậu mặc kệ, cậu vứt đi! Ai để đâu không biết!
- Con có quá điên mà con lại dám vứt cái bằng của anh ấy đi!
Anh ấy có giao cho con đâu mà con có bổn phận phải giữ!
- Hết rồi phỏng? Thôi, thu lại! Ấy thế là mất cái bằng!
- Ngộ thầy con có cất đâu chăng…
- Ông lão ấy có thừa hơi. Cậu không săn sóc, còn ai giữ hộ.
- Ngộ anh con cất chỗ nào, hay đã đem sang Bắc thì biết đâu!
Đẻ cứ nói làm con phải cãi!
Bà mẹ đập bàn rất mạnh, cho rằng chính anh phải chịu trách
nhiệm về cái họa ấy:
- Tôi trái phỏng. Cậu bảo tôi trái chứng sắp chết phỏng. Cứ cầu
đi! Có cái bằng của nó mà cậu cũng không biết ai để đâu, thế thì cậu còn được
cái tích sự gì nữa? Nói thế mà nghe lọt tai ấy à! Để anh ấy về… Nó về thì nó đập
vào mặt cho! Ừ, ừ, thế mà cũng đòi ngậm bút vào mồm 3 ,
cắp sách đi học. Rõ thật văn chương chữ nghĩa bề bề, tối thì ôm lấy vợ, ngày
thì cặp quyển sách đi chơi!
Không thể chịu được nữa, Phúc không thu dọn nữa, nói cứng:
- Anh ấy không giao cho con, con không đánh mất, ai đập vào mặt
con được? Đẻ vô lý lắm, anh ấy chỉ là anh thôi, chứ đâu là bố con, thì anh ấy
cũng phải công bình mới được. Con rất đau lòng phải nói với đẻ chẳng được dịu
dàng như thế. Con nào cũng là con, đẻ không nên thiên tư!
Đó là lần đầu Phúc dám cãi lại mẹ, và chính cũng là vì lần đầu
cho nên bà mẹ anh coi ngay anh là quân đại bất hiếu chi tử, chứ xưa nay anh
ngoan ngoãn, có thế bao giờ. Bà cười nhạt một cách rất phụ nữ, cái đó đã cố
nhiên, và giọng bà tuy dịu lại nhưng mà cốt để cho sự kết án gay gắt hơn nữa:
- À, cậu bây giờ giỏi nhỉ, cậu có chửi tôi thì cứ chửi đi!
Đã đâm khùng rồi, Phúc không nghĩ đến hiếu nghĩa gì nữa. Anh
thấy rằng như thế mà lại cắn răng chịu vậy, ắt rồi sau này còn bị hành hạ thêm
hơn nữa, và cho dẫu có được cái tiếng hiếu thuận không dám cãi mẹ, ắt cũng chẳng
ai hơi đâu hiểu cho mình, vì rằng cái thứ hiếu ấy, chẳng qua chỉ là thứ ngu hiếu
của kẻ nô lệ mà thôi. Cho nên Phúc quả quyết khoanh tay lại, ngồi xuống sập,
nhìn thẳng vào mặt mẹ, nói một cách dịu dàng:
- Con xin đẻ hãy khoan… đánh con kể tội, việc ấy dễ lắm, con
xin nhắc lại mấy câu phương ngôn rằng: Bề trên ở chẳng chính ngôi, để cho kẻ dưới
chúng tôi hỗn hào… Con giun xéo lắm cũng quằn. Con đã bảo rằng đẻ thiên tư, bây
giờ con lại nói như thế, vì rằng đẻ thiên lắm, chứ cho dẫu chính con, con có phạm
phải cái tội tày đình là đánh mất cái bằng đi nữa, thiết tưởng đẻ cũng chưa cần
nặng lời đến thế… Mất thì đi xin cái khác, nha học chính sao lại cho ngay, chứ
có khó gì đâu. Đẻ buộc con chửi lại đẻ vậy đẻ thử nguôi đi, nghĩ lại xem nói thế
có quá đáng không? Này con tưởng đẻ chưa quên những phen anh cả cãi lại đẻ bằng
vạn thế nữa, hỗn láo bằng vạn thế nữa, bất hiếu bất mục bằng vạn thế nữa, mà đẻ
vẫn cứ nhịn được, để mà vẫn yêu quý anh ấy như thường! Lắm khi yêu quý quá, đẻ
hóa ra sợ hãi anh ấy nữa, động một tỵ là rối lên, một việc nhỏ mọn cũng coi như
một tai họa lớn, có thể cả nhà đến chết với anh ấy, thí dụ như cái việc mất bằng
này!
Ngừng lại, không thấy mẹ nói gì. Phúc lại tiếp:
- Con không muốn nói làm gì, phiền cả mẹ lẫn con nhưng mà bần
cùng lắm, và đã nói thôi thì xin nói một thể. Cái lối của đẻ như vậy chính là nối
giáo cho giặc, vì như thế tức là xui anh ấy được thể hỗn láo hơn nữa, và làm
cho con cũng đâm ra hỗn nốt, tuy con mới cãi lần này là lần đầu… Tại sao hai đứa
cùng là con đẻ, rứt ruột đẻ ra, mà đẻ lại phân biệt, đứa khinh đứa trọng, đứa
ghét đứa yêu như thế? Có phải là vì anh ấy làm ông Phán, kiếm ra tiền, còn con
đây, thì thất nghiệp, không kiếm ra được đồng nào, có phải thế không? Ô hay, thế
thì ra tình nghĩa mẹ con ở đời này chẳng qua cũng chỉ vì đồng tiền thôi à? Ô
hay, thế thì ra đứa con nào kiếm được ra tiền thì mới là cái dở cũng hay, để
cho đứa nào không kiếm được tiền thì khi hay cũng thành ra dở? Có lẽ nào? Có lẽ
nào đẻ sỉ nhục con chỉ vì con không kiếm ra tiền mà thôi!
Nói câu sau cùng, Phúc nghiến rít hai hàm răng lại, phẫn uất
cực điểm. Chừng cũng biết trái, sợ con tủi thân mà đâm liều, nói dại đổ xuống
sông xuống biển thì khốn to, bà mẹ cúi đầu xuống, co một chân đặt lên sập, tỳ cằm
vào đầu gối, nghĩ ngợi. Nhưng Phúc cũng chưa lấy thế làm hài lòng. Anh muốn
nhân cơ hội nói cả một lần cho bà già trái chứng từ nay trở đi phải mau cải tà
quy chánh, kệch anh, để cho có thể thống mẹ ra mẹ, con ra con. Anh lại hằn học
tiếp:
- Đẻ không cần chối, vì chối cũng không được. Con vẫn biết lắm,
từ độ con thất nghiệp đến nay thì con bỗng dưng hóa ra lắm tội lắm! Ăn hại, đái
nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bưng bát cơm lên mà ăn! Từ bố mẹ đến anh em
chị em, thôi thì không còn thiếu một ai nữa, ra nói, vào nói, vắng mặt thì kể tội,
có mặt thì mỉa mai, đay nghiến…
Chính anh, anh cũng không ngờ nói đến đây, anh mủi lòng, tủi
thân, thấy nao nao con tim, nước mắt cũng ứa ra lã chã. Anh nghẹn ngào, hậm hực,
không muốn nói gì chua cay nữa, vậy mà những nỗi đau đớn cũng để xuất nên lời:
- Con không ngờ! Thật thế con cũng không ngờ! Ngờ đâu chỉ vì
không kiếm được lấy miếng cơm mà ăn, phải nhờ vào bố mẹ mỗi ngày hai bữa cơm
rau, mà đến nỗi nhục nhã thế này, ai cũng coi như cái đinh trước mắt, nói phải
cũng là chửi lại mẹ, không có tội cũng bắt gắt mắng. Đây này, con sẵn lòng bỏ
cái nhà này mà đi, khỏi phải ăn hại, thì rồi cái gia đình này ai cũng vui vẻ hả
hê.
Theo luật thì con được hưởng một phần gia tài đấy, nhưng
thôi, con rất sẵn lòng nhường cho anh cả, vì con đã ăn hại mãi rồi, không đáng
hưởng nữa, và vì anh cả là một ông phán tòa sứ, làm rạng rỡ gia tiên, như thế
cho xong chuyện!
Một vị hiền mẫu có khi nào lại xin lỗi con cái chăng? Cái đó
thì không. Cho nên bà mẹ anh chẳng hề nhếch miệng, mặc dầu bà hối hận lắm. Bà
khóc, trước khóc sụt sịt, sau khóc òa… Dẫu rằng vẫn cố tu thân sửa tính để noi
theo đạo lý thánh hiền xưa nay, Phúc cũng lấy thế làm hả hê lắm. Có thế họa may
mới có sự công bình ở đời! Có thế, bà lão mới chịu, từ giờ trở đi để mình được
yên! Có thế, bà lão may ra mới giữ được là mẹ hiền để cho mình khỏi phải trở
nên đứa con bất hiếu. Anh rất sung sướng mà khám phá được thêm một chân lý nữa:
Thà bất hiếu một lần, trong một phút, để sau này có thể sẽ cứ là hiếu tử cả một
đời. Loài người ai cũng ưa nặng chứ có ưa nhẹ cho anh đâu. Anh không an ủi mẹ,
lại yên lặng xếp sách vào tủ.
Đến lúc ấy, ông bố hoảng hốt từ dưới nhà chạy lên. Cố nhiên
không biết vừa có sự gì xảy ra, ông cứ tự do sợ hãi nói:
- Chết thật! Nguy to! Quế tốt cụ lang bán hết mất cả rồi, bây
giờ biết làm thế nào.
Không dám ngửng mặt lên để lộ hai con mắt lúc ấy lẽ còn đỏ
hoe, bà cụ vẫn cúi gầm và gắt:
- Thì ông đi hỏi chỗ khác chứ sao!
Vẫn không hiểu sự gì, ông cụ há mồm ra như kẻ mất trí khôn,
phàn nàn:
- Chỗ khác thì biết tìm chỗ nào?
Rồi im lặng được một lát, lại nói:
- Nguy thật.
Thái độ sợ hãi con cả của người bố lúc ấy làm cho cả người mẹ
cũng hổ thẹn với đứa con thứ hai. Bà cụ đứng lên, lẳng lặng lê đôi dép lệt xệt
đi vào gác trong làm cho ông cụ lại càng ngạc nhiên hơn, cứ ngơ ngác nhìn theo,
rồi thẫn thờ ngồi xuống một cái ghế. Lúc ấy Phúc đã xếp xong sách vở vào tủ rồi.
Anh bèn mở cái hòm da cũ để tìm cái áo the và cái khăn. Trong khi soát lại áo,
khăn, anh bèn hỏi bố một cách tinh quái rất kín đáo :
- Thầy mua quế cho anh cả con ấy?
Một cách trịnh trọng và lo sợ nhất đời, ông bố đáp:
- Phải! Thì chính thế!
Phúc lại hỏi luôn:
- Không mua được quế tốt thì làm thế nào?
Như một cái máy ông bố đáp ngay:
- Thế mới chết chứ.
Lời lẽ ấy khiến Phúc phải quay ra nhìn mặt ông bố khổ sở ấy.
Thật thế, sự lo lắng của nhân loại, vào trường hợp này, đã hiện nên thành một
biểu tượng trên cái tinh thần ấy. Hai bên râu hầu như hơi quặp vào, cái khăn lượt
bị đẩy cao lên để lộ cái trán đầy những nếp nhăn. Cái cổ áo khuy không cài, bửa
ra rất rộng, làm cho cả hình dáng con người có vẻ một tay cờ bạc vừa đánh một
nước bài khuynh gia bại sản, không còn phương gì cứu chữa nữa.
Trông thấy cái mặt bơ phờ ấy, Phúc chẳng thấy đáng thương,
cũng chẳng thấy nó còn đáng kính trọng nữa. Anh tưởng chừng cái tình nghĩa cha
con rất thiêng liêng lúc bấy giờ đã xa chạy cao bay đi đâu, và trước mặt anh
ông bố lúc ấy chỉ là một người rất tầm thường, một viên chức tùy thuộc đã được
cái hân hạnh đặc biệt là ông xếp giao phó cho một việc tư, mà lại không lo chạy
được chu đáo, nên đương sợ mất lòng người bề trên, thế thôi. Bỗng đâu anh thấy
bố là đáng khinh bỉ vô cùng. Cho nên, rất tinh quái, anh mỉa mai một cách kín
đáo, bằng câu phàn nàn:
- Thế thì chết thật!
Vẫn ngây như đứa trẻ lên ba, ông già bèn kể lại:
- Nhà cụ lang ý là lắm quế tốt hơn cả, thế mà đến cũng chẳng
có. Sao mà dạo này lại khan quế đến thế kia chứ! Cậu cả, cậu ấy không có quế tốt
mà dùng thì rồi sẽ đau mắt nặng. Cậu ấy bảo dạo này cứ chiều chiều nó lại bốc hỏa
lên mờ cả, trông không cái gì rõ.
Nghe những câu cắt nghĩa ấy, Phúc thấy nó mới vô duyên làm
sao! Anh nghĩ thầm: "Cờ bạc, giai gái như thế, rồi thì có phen đến mù ị! Mặc
kệ ông với con ông, chứ tích sự gì đến ai…". Rồi anh lẳng lặng xuống nhà
dưới, trong óc đầy một thứ tư tưởng ghen ghét mà anh cho là chính đáng lắm.
Nhưng bỗng ông già gọi giật lại:
- A, này Hai!
- Dạ.
Anh đứng lại giữa thang quay mặt lại. Ông cụ vẫy thỏng thẹo
cái bàn tay:
- Hãy lên, hãy lên đây tao bảo cái này đã!
Phúc quay lên, đứng trước mặt bố, thấy lâu quá lại giục:
- Thế thầy bảo gì?
Ông cụ muốn gắt:
- Thì hãy đứng đấy một tí!
Anh ta đành đứng nhìn cái ông bố sợ mất hiếu với con ấy đương
chống tay lên bóp trán một cách rất trịnh trọng để tư tưởng mãi một cách rất kịch
liệt mãi mãi, chứ nhất định không sai bảo gì. Sau cùng ông già mới nói:
- Hay ra thế này …
Đến đấy rồi lại thôi. Ông lại nghĩ ngợi năm phút nữa, để mà bảo
một cách bất ngờ thế này:
- Thôi, thôi, bộ anh thì cũng chả làm nổi!
Tuy đã bực mình lắm, Phúc cũng còn sức dịu dàng làm ra bộ
đáng yêu để cứ ngửa tay xin việc:
- Thì việc gì thầy cứ bảo truyền lệnh đi, xem con có làm nổi
không!
Ông già lắc đầu thất vọng như phải có việc với một thằng ngu,
một kẻ hoàn toàn bỏ đi, nên nguây nguẩy:
- Thôi, đi đi, tôi đã biết rõ anh lắm.
- Chết nỗi! Việc gì mà khó khăn đến thế?
Ông già nổi khùng gắt thật:
- Đã bảo đi mà lại! Cái bộ anh thì còn làm được cái đếch gì!
Phúc thấy bất bình như là bất cứ một ai vào trường hợp như thế
cũng phải thấy bất bình, nếu người ta chưa đến nỗi đánh mất cái lòng tự ái, anh
ta chưa quên rằng vừa cho mẹ một bài học tốt. Bây giờ đến lượt ông bố nữa thì
đâu có phải bất hiếu cũng xin bất hiếu một thể, sao ông bố ấy lại không đáng nhận
một bài học tốt của anh? Than ôi, nếu ngày nay phong hóa suy đồi đến bậc cha
không ra cha, con không ra con, chồng chẳng ra chồng, vợ không ra vợ, há đó chẳng
vì không ai biết giữ cái địa vị của mình đến nỗi trật tự, tôn ti bị đảo lộn ngược
cả đó hay sao? Nếu ở đời này có được hạng con bất hiếu ghê gớm ấy chính là vì
có hạng bố nhu nhược và nô lệ của con, của những đứa con kiếm ra tiền, như thế
anh ta liền nói:
- Cái đó thì đã cố nhiên!
Ông bố kinh hoàng nhìn anh, vì hai mươi nhăm năm nay, bây giờ
là lần đầu, ông thấy thằng con hiền lành ngoan ngoãn dám nói đối lại ông một
câu mất dạy đến thế. Ngạc nhiên quá, đến nỗi tai tuy đã nghe rõ mồn một, ông
cũng phải hỏi lại một cách thậm vô ích:
- Cái gì? Phúc! Mày nói cái gì?
- Thưa thầy, con vừa nói rằng: Cái ấy đã cố nhiên. Thầy bảo
con là đồ vô dụng, con nhận thế là rất chí lý. Giá dụ con có việc làm kiếm được
ra tiền, dám chắc thầy sẽ chẳng nói như thế bao giờ. Dễ hiểu lắm: Ở đời này, thằng
con nào kiếm được ra tiền thì bố mẹ mới quý hóa.
Trước một cái chiến như vậy, cố nhiên là ông già đâm khùng:
- À! Cái thằng này bây giờ giỏi nhỉ? Mày chửi ông đi xem. Ừ,
mày chửi bố mẹ mày đi!
- Con chỉ đủ can đảm nói ra một điều mà con tin là đúng sự thực,
tuy nó chẳng hay lắm.
- Thôi câm đi, đồ mất dạy, đồ vô học, đồ vô giáo dục, quân đại
bất hiểu chi tử? Mày thử vấn cái lương tâm mà xem: Đã từng ngậm cái bút lông
mèo vào mồm mà dám chửi lại bố như thế nầy đấy à? Thử có hàng xóm láng giềng họ
nghe thấy thì họ có đào mồ cuốc mả nhà tao lên không. Này ông bảo thật: Khôn
cho người ta đoái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương thì người ta ghét…
Làm cái thân con giai con giếc, chả gì cũng ngót ba mươi tuổi đầu rồi, mà như
mày, thì thật nhục lắm! Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha, nhớn thì nhờ vợ, già thì nhờ
con, úi chao ôi là mặt nam nhi! Ôi chao ôi là cái mặt tài giai!
--------------------------------
Nói theo tiếng Pháp, Diplôme là bằng tốt nghiệp cao đẳng tiểu
học tương đương với tốt nghiệp phổ thông cơ sở ngày nay. |
|
Cũng là cách gọi bằng tốt nghiệp cao đẳng tiểu học. |
|
Lối nói cổ chỉ việc đi học, vì ngày xưa học chữ Hán viết bằng
bút lông, học sinh khi viết hay nhấm ngọn bút ở mồm cho ẩm dễ viết. |
III. NHỮNG TƯ TƯỞNG BÊN CẠNH MỸ NHÂN
Khi Phúc hồi tỉnh, anh rất lấy làm ngạc nhiên. Mở to hai mắt
nhìn quanh bốn phía rồi, anh cũng vẫn tin rằng mình còn đương mê ngủ… Đây là chỗ
nào mà lại sang trọng thế này? Trên trần nhà, cái bóng điện giam hãm trong một
quả quần Tàu bằng gỗ thếp vàng làm cho cả gian phòng chỗ nào cũng chi chít và đều
đặn một lược hoa gấp đẹp mắt lắm. Bốn bề tường, những hộp giồng hoa bằng gỗ
trông rất trang nhã bảo nhỏ ta rằng ở chốn này, tứ thời đều là mùa xuân. Ngay
bên cạnh anh, một khay đèn thuốc phiện, toàn là những đồ dùng quý giá, và cạnh
cái khay ấy một mỹ nhân nằm nghiêng, hai mắt lim dim ngủ làm cho anh tỉnh táo cả
tinh thần đến bậc có thể đem thực hành ngay tất cả những tư tưởng bất chính vừa
đến với trí não. Mãi đến lúc ấy, Phúc mới chợt nhớ ra: Tấn đã đưa anh đến một
nhà ả đào.
Anh hoảng hốt ngồi ngay lên, lẩm bẩm: "mình say rượu đến
thế này thì chết thật!" Nhìn ra bộ ghế tiếp khách tân thời gần đấy, thấy
những chai, những cốc để bừa bộn, anh mới lại nhớ thêm rằng lúc vào, anh đã bắt
tay với các bạn hữu, đùa bỡn với các đào nương, rồi uống luôn mấy cốc sâm banh.
Những người có mặt trong cuộc thi này đến bây giờ anh nhớ ra rõ lắm - là Tiếp,
Vân, Hựu và Kiến, toàn là những anh em cùng làm một sở cũ cả. Vậy, họ đi đâu rồi?
bỗng đâu anh thấy lo sợ một cách vô nghĩa lý, vì anh đã có đọc trong báo một
bài truyện ngắn mà anh nhớ lắm, đề tài "Người va ly". Nghĩ thế xong,
anh lại mỉm cười tự mình chế giễu mình: "Ngốc, ngốc quá, nó phát tài thế,
đời nào lại xỏ mình bằng một vố như thế được? " Chợt nhớ được một tiếng
lóng, cũng ở bài truyện ngắn ấy anh đắc chí lẩm bẩm: "Họ lại đi ăn mảnh"
với nhau chớ quái gì! Được yên trí rồi anh mới nhìn đến cô ả đương thiêm thiếp
giấc nồng bên cạnh anh. Anh dụi mắt không tin mình, bàng hoàng… Anh lại nhìn kỹ
hơn nữa… thì quả vậy, đó là một sự thực nhỡn tiền rất đáng ngạc nhiên! Người nằm
đấy, từ thân thể đến hình dung nếu đem so sánh với trang thục nữ đã làm đau
lòng anh một dạo, tức là cô Bích, thật giống nhau như hai tờ giấy bạc mới! Anh
lại dụi mắt lần nữa để nhìn cho thật kỹ nữa, thì thấy hơi thất vọng một chút,
vì cái sóng mũi dọc dừa của ả đào có phần cao hơn của cô Bích chút ít, thế
thôi. Còn từ khuôn mặt trái xoan, đôi lông mày thưa thớt, hai mái tóc loè xòe
trên hai cái tai dày dặn có giọt thùy châu, cho đến cặp môi hình trái tim, thật
giống như đúc, giống một cách kỳ lạ, giống quá đi mất. Anh chỉ còn phải chờ xem
khi đôi mắt ấy mở to ra có "như nhung" nữa không, thì anh sẽ được
sung sướng hoàn toàn. Anh bèn khèo khèo vào chân đào nương mấy cái. Ả kia vẫn
ngủ say lắm, Phúc lại đập luôn mấy cái nữa… Bất thình lình người con gái ngủ
say ấy gạt phắt hai cánh tay anh bắn đi một nơi. Anh rất hổ thẹn, không biết
nói năng sao nữa, cũng không dám nhìn cái mặt xinh đẹp ấy nữa. Rồi ả nọ ngồi
lên, nét mặt hầm hầm. Hai chân ả đã xỏ vào guốc, ra ý dọa sẽ không thèm nằm đấy
với anh nữa.
Riêng Phúc nằm đứng đắn nhất, cười ít nhất, nói hà tiện nhất.
Anh đã bắt đầu muốn nghĩ ngợi, muốn triết lý, vì anh đã bắt đầu ghen. Anh đã thấy
một cách rõ rệt rằng Bích coi Hựu hơn anh, và lại coi Tấn hơn cả Hựu nữa. Nhất
là lúc Tấn nhảy xô vào ôm chầm lấy Bích mà hôn một cách phũ phàng như thể, đã
làm cho anh thấy rõ cái địa vị "quan viến che tàn" trơ trẽn của mình
để mà phẫn uất đến bậc muốn tuyệt giao ngay với bạn, và muốn bắt đầu, từ đấy đối
với vấn đề đàn bà, thì buộc chỉ cổ tay. Vì lẽ cuộc đời của Phúc xưa nay là một
cuộc đời bình tĩnh, phẳng lặng của một thiếu niên 1 nhút
nhát kém đường giao du, không hề bao giờ có những việc gì to tát hay khác thường
nó khiến cho anh thấy được một thứ cảm giác mạnh, cho nên bất cứ một sự gì, dầu
là nhỏ mọn đến đâu, cũng bỗng trở nên hệ trọng như một cái đại sự vậy. Bởi cớ ấy,
khi gặp cô đào Bích, Phúc ta cho ngay đó là cái đại sự số một trong đời mình.
Và khi thấy bạn hôn mất của mình một người mà hình dung giống với người mà mình
mơ tưởng, anh lại vội vàng cho đó là cái đại sự số hai.
Cái đó không có gì khó hiểu. Phúc ta còn nhớ rõ ràng một sự rất
cỏn con, hầu như vô nghĩa lý mà đã ảnh hưởng to tát vô cùng đến cả cuộc đời của
anh. Cũng như buổi chiều vừa qua, một hôm người nhà bận rộn vào những việc
khác, đã nhờ anh ngồi trông hàng. Rồi một thiếu nữ mà anh không để ý vì nhan sắc
chỉ là tầm thường đã vào hàng mua vài hào sơn then, cố nhiên là anh đã không biết
bán và đã gọi bà mẹ từ nhà trong ra, sau khi yêu cầu cô mua hàng đợi cho năm
phút. Thế rồi, ba tháng sau, tình cờ một hôm thầy mẹ bắt anh phải nhớ lại hình
dung người khách mua hàng ấy để cho biết ý kiến riêng của anh ra sao. Anh ta đã
đáp: "A, thế thì con nhớ ra rồi! Cái cô đã đến mua ba hào sơn then ấy chứ
gì Người như thế kể cũng không xấu và cũng không đẹp". Thôi, thế là xong,
vì sau cùng, thầy mẹ Phúc bèn cưới ngay người thiếu nữ ấy làm vợ anh, Phúc ta
đã bằng lòng lấy vợ cũng như người ta được bằng lòng vì bố mẹ làm quà cho mình
một xâu tôm he hay một cặp cá thu vậy. Vả lại, cãi sao được? Xưa nay anh ta vẫn
hay nói: "Lấy vợ thì miễn đừng xấu quá, chứ không can phải lấy vợ đẹp. Đẹp
lắm, lại chỉ tổ đi theo giai!". Cho nên cái món ấy, bố mẹ anh tin rằng anh
phải cho đó là một "người vợ lý tưởng".
Mãi về sau anh mới biết rằng giá vụ xưa kia, không phải người
thiếu nữ ấy nhưng mà là một thiếu nữ khác đến mua vài hào sơn, thì chắc vợ anh
đã chẳng phải là cái người vợ khó chịu bây giờ. Hoặc là có thể anh chưa có vợ,
nếu gia đình nhà vợ anh xưa kia đã không sai vợ anh đi mua sơn, mà đã sai đầy tớ
chẳng hạn… Vì vậy, bất cứ việc gì, đối với Phúc cũng làm cho anh tin trước rằng
phải có tiền nhân hậu quả hẳn hoi. Anh ta trờn trợn lo không khéo cuộc gặp gỡ kỳ
ngộ đêm nay sẽ là khởi điểm cho một giăng đường đầy rẫy những chông gai cho anh
mà thôi, chứ hạnh phúc thì người ta chẳng nên hy vọng, vẫn biết trong đời có một
số rất đông những người được hưởng rất nhiều, được sống thừa thãi. Thí dụ như đêm
nay vừa được ái ân lăn lóc với một mỹ nhân nhan sắc tuyệt vời thì ngày mai có gặp
nhau ngoài đường cũng chỉ đến hất hàm một cái là xong chuyện. Hay là hôm qua đã
từng chén tạc chén thù với mọi người bạn còn sơ giao mà đã tâm đồng ý hợp nhau
lập tức, tri kỷ đến nỗi có thể đã đem chuyện gia đình, nồi rau, rế rách ra nói
toạc cho nhau nghe để mà một tháng nữa, có tái ngộ thì bắt tay qua loa, khi lờ
hẳn nhau đi như là chưa hề quen biết. Nói tóm lại, thì là những người mà, đến với
họ, cuộc đời chẳng qua cũng như chầu rượu dưới xóm, cuốn chiếu xong là hết nhân
tình, hữu thủy vô chung mà thôi.
Nhưng Phúc ta dễ thường không được liệt vào hạng ấy.
"Cái gì nhỉ? Một thiếu nữ, chỉ vì vào mua sơn nhằm lúc ta ngồi, trông hàng
thay người khác, mà rồi bây giờ đã thành ra vợ ta! Chỉ vì có tiếp thay gia đình
một thiếu nữ vào mua hàng, chỉ có nhìn qua loa đủ biết rằng ấy là một cô gái
không đẹp cũng chẳng xấu, mà ngẫu nhiên bây giờ ta đã là người bạn ăn đời ở kiếp
với cô gái ấy! Ôi, một việc cỏn con tưởng chừng như vô nghĩa lý vậy mà có thể ảnh
hưởng rất to tát, đến mực có thể xoay đổi cả cuộc đời con người ta! Một chuyến
đò, một người tình cờ ta gặp trên đường đời, một sự nhỡ giờ tàu, những điều vụn
vặt ấy chính ra là lại mà hệ trọng vô cùng, và dám chắc đó là những cái huyền
bí mà tạo hóa muốn an bài cho thế nhân.
Chứ gì? Thí dụ sáng hôm nay mẹ ta nóng đầu ta bị ngăn trở
không ra được công viên chẳng hạn… Thì sao? Một việc nhỏ nhặt, liệu có gì ảnh
hưởng đến cả cuộc đời ta chăng? Sao lại không? Thì người phu lục lộ đã chẳng gặp
nổi ân nhân là ta, sẽ mất việc. Một gia đình sẽ tan nát, thì Tấn sẽ chẳng gặp
ta, ta chẳng có hy vọng vay hắn được một số tiền, như thế thì cả đời ta sẽ bị vợ
khinh, hoặc là không có tiền đền, vợ ta bị mắng chửi, hoặc là vợ ta sẽ bị cha mẹ
ta phú về nếu bị mắng chửi mà nó sẽ dám cãi lại rất lăng loàn như đa số các bà
nàng dâu ngày nay!… Chỉ vì cớ nhỏ ấy, ta cũng có thể sẽ lấy người vợ khác nữa.
Ngay sau đấy thì ta, nếu không gặp Tấn, đã chẳng được bị lôi kéo đến cái tổ quỷ
này, để mà bây giờ gặp gỡ một cô Bích của bướm ong suồng sã, dung nhan lại hao
hao giống với cô Bích phong kín nhụy đào, nó gợi đống gio tàn của lòng ta, làm
cho ta ngơ ngẩn, vẩn vương. Thôi thôi, cái sự này hẳn cũng do tiền định chi
đây, nó phải là một cái nhân để giành riêng cho ta một cái quả. Ta những nghĩ
đã đủ rùng mình! Ôi, giả dụ mẹ ta nhức đầu, chóng mặt!… Nhưng mà… biết sao trước
được việc ngày mai? Vậy ta nên có cái thái độ thế nào? Đi sâu vào chút nữa
nghĩa là nhân cơ hội này thì vồ lấy cô Bích ả đào mà ve vãn, mà mồi chài lòng
ta, cho nó thỏa cái dục vọng của ta về cô Bích tiểu thư chăng? Hay là nhân cái
bất bình, nhân cái mối ghen mới nhóm ở trong đáy lòng, ta nên để mặc Tấn được tự
do mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng, để ta có một cớ chính đáng mà tránh trước
cái họa mai sau? Đây là khởi điểm của hạnh phúc hay là của chông gai đây? Than
ôi thế mới biết sống là mạo hiểm, là đánh xóc đĩa với tạo hóa, dễ vô cùng mà
cũng khó vô cùng vì nó chỉ có chẵn hay lẻ mà thôi một là cướp hết hạnh phúc của
kẻ khác vào tay mình, hai là mắc bẫy như vạn triệu kẻ chiến bại khác! Thế thì
ta đặt bên nào đây.
Cái chuỗi tư tưởng dài dằng dặc ấy đã làm cho Phúc cứ nằm thẳng
cẳng, không động đậy, hình như còn say rượu lắm, mặc dầu lúc ấy đầu anh đã thấy
nhẹ, chân tay anh đã thấy dễ muốn cử động, vì hơi men rượu mai quế lộ và sâm
banh đã bị khói thuốc phiện đánh tan đi từ lâu… Anh tuy băn khoăn mà rất đắc
chí, coi sự nghĩ ngợi vừa rồi là một cuộc đắc thắng của tư tưởng đắc thắng vì
khám phá ra được một chân lý quý hóa chưa ai tìm thấy. Một việc nhỏ ảnh hưởng
cho cuộc đời anh thấy chỉ một mình anh là biết, giữa một đám người ngu. Anh lại
dám vững tin rằng những bạn hữu của anh đây chẳng qua cũng là một lũ vô tri như
cây cỏ, chẳng hiểu nổi cái nghĩa sự sống, cái lý cuộc đời, và nếu có hỏi thẳng
vào mặt họ rằng họ đương làm gì, thật vậy, dễ thường họ cũng không nốt! Kết luận
thì đó là thuộc phường giá áo túi cơm, có tiền thì ăn chơi cho thỏa cái xác thịt
để bẩn cái linh hồn thêm hơn nữa, chứ có nghĩa lý gì đâu!.
- Em mời anh Phúc đi cho anh ấy được tỉnh rượu.
Đó là lời Tấn từ chối điếu thuốc khi Bích lại giơ dọc tẩu về
phía mình. Nhờ thế Phúc mới biết rằng thì ra Bích chưa hề có mời anh, dẫu rằng
qua loa. Tức thì anh mở to cặp mắt, đón:
- Xin các anh biết cho rằng tôi không say tí nào nhé?
Hựu reo:
- Ái chà!
Tấn pha trò:
- Thưa tiên sinh, khi ngu này gặp một người điên thì ngu này
nói ngay rằng: Thưa ông, ông không điên và người điên vì thế được sung sướng dẫu
chúng ta biết sao được rằng người điên chẳng rõ có còn biết gì là sướng hay khổ.
Phúc, trước khi hút còn đáp xa xôi:
- Người điên không khổ. Khổ là những đứa không điên nhưng
không hiểu nghĩa lý cái việc họ đương làm.
Hiểu nhầm, Hựu hưởng ứng ngay:
- Chính thế đó!
Nhưng Tấn cau mặt hỏi:
- Anh Phúc, ý anh muốn nói cái gì thế?
Hựu đáp hộ:
- Đi hát là vô nghĩa lý, ăn không ra ăn, uống không ra uống,
hút không ra hút, chơi không ra chơi! Thế là cái chó gì?
Tấn cau mày càu nhàu:
- À, ra cái quân này gớm thật? Được ăn, được nói lại được gói
mang về! Sao lúc tao cổ động mày hăng hái thế?
Đã hút xong, Phúc vội nói:
- Không, ý tôi không như Hựu nói đâu!
- Bây giờ tao mới nghiệm thấu rằng vì cái sự đi hát thì chỉ
vào lúc cổ động, vào lúc rủ nhau lén nhà ra đi là sướng thôi, nhất là bọn có vợ
càng sư tử, ta lại càng sướng. Loài người thích mạo hiểm, ưa nói dối, nói dối
được rồi thì coi sự thành công, và còn thành công nào đáng kiêu ngạo hơn cái
nói dối nhà để đi chơi bậy! Thế thôi chứ vào cuộc hát, ngẫm xem còn nghĩa lý
gì! Cho nên ta phải kết luận rằng nếu ở đời không có hạng bố mẹ chửi con như
hát và hạng vợ Hoạn Thư, dám chắc bạn nho lỗi lạc chúng ta chẳng thằng nào
thích đi hát nữa.
Phúc cười to hơn cả, Tấn nguôi giận, lại hỏi Phúc:
- Thế thằng kia ý mày muốn nói gì nào?
Phúc nghĩ đã. Anh không quên rằng anh đương phải chạy một số
tiền cũng như anh vẫn nhớ hiện giờ ai là người đủ tư cách cho anh vay ngay. Đã
thế, dẫu mình không thấy thi vị gì thì cũng nói sao cho bạn vui lòng mới được,
huống hồ anh còn thấy rằng đi hát không có gì là phạm đạo đức, mà người đứng đắn
nào cũng phải biết đi hát là cái gì cho rộng kiến thức, biết thêm nhiều điều tỉ
mỉ của cái cớ thất thổ gia vong. Anh bèn ngỏ cả tâm sự.
- Đây này: Chị Bích kia, mặt mũi hao hao giống với một người
mà tôi đã … thầm yêu trộm nhớ, lại cũng tên là Bích. Thật lạ quá đi mất, các
anh ạ! Sao ở đời lại có hai người không phải là chị em ruột mà lại giống nhau đến
thế nữa! Cho nên trông thấy Bích này, tôi lại tưởng nhớ đến Bích kia, tâm sự xốn
sang…
Không ngờ có thế thôi mà Hựu vỗ tay, vỗ đùi rối rít một hồi rồi
reo to:
- À ạ! Khá quá! Hay hay! Chúng mày ôi! Thì ra thằng Phúc nó
cũng mê gái cẩn thận! Ha ha ha ha!
Tấn cũng ngặt nghẽo mãi mà rằng:
- Ừ thật thế, nếu không có tâm sự cạnh khay đèn bữa nay thì
không bao giờ ta biết… cái tin sét đánh ấy đấy!
Hựu đứng thẳng như cây hương trong bát nhang và reo:
- Ha ha ha! Chúng ôi, thằng Phúc mến gái!
Đào Bích bắt đầu nhìn trộm Phúc năm bảy lần. Hai người bạn vẫn
cười rầm rĩ, gào thét inh ỏi, rất lấy thế làm khoái. Tưởng chừng xưa kia Kha
Luân Bố, lúc tìm thấy Mỹ Châu cũng vui vẻ có đến thế mà thôi.
Rồi thì ở hai phòng bên, bật ra hai chuỗi cười to:
- Hớ hớ hớ hớ!… Há há há há!
Đó là Vân và Tiếp, ai cũng tưởng đã ngủ, nhưng chính ra vẫn
thức và chỉ cười vào lúc có cái đại sự đáng cười. Họ cười xong thì họ chạy ra để
cười thêm to hơn. Mặt đỏ vì hổ thẹn, Phúc khẽ nói:
- Thì nào đã có gì lạ!… Chết chửa kìa, hai bác mà không cười
thì tôi quên khuấy đi đấy!
Tiếp xua tay nói:
- Thôi đi cu cậu! Cu cậu đừng khéo đánh trống lảng!
Hựu lại hét to hơn:
- Thằng Phúc cái đinh mê gái
Rồi thì chẳng hai bảo ai cả, bọn ấy tình cờ cùng làm một việc,
hình như họ đã đồng mưu ra lệnh cho nhau từ trước, cau mày lại để nhìn chòng chọc
vào mặt Phúc, ra điều rất lấy thế làm ngạc nhiên. Tuy không bằng lòng cách đùa
nhả ấy, Phúc cũng gượng cười, phải chữa thẹn bằng cách nằm dài xuống mà nói:
- Ông cho chúng mày tha hồ chế giễu…
Anh ta nhắm nghiền mắt lại… "Phúc cái đinh"’ cái
tên mà các bạn đồng sự đã đặt cho anh xưa kia nay lại đem về cho hồi ức của anh
một chuyện vặt nó vốn là nguyên nhân của sự đặt đề thêu dệt ấy.
Nguyên nhân có một hôm, ông chủ hãng bảo hiểm đã đưa cho anh
đánh máy một bản danh sách những nhân viên được hãng thưởng tiền tiêu Tết
Nguyên Đán, người thì chục bạc, kẻ thì năm đồng, mà trong số ấy, ác thay, lại
không có anh. Vì mới vào làm việc chưa hiểu lệ cũ, anh Phúc đã rất vui sướng hộ
người khác và chỗ mình là được hưởng một cái danh dự đặc biệt là biết trước hết
mọi người cái tin mừng cho cả sở. Cố nhiên, anh đã làm ra bộ rất bí mật để báo
tin cho trọng thể hơn. Đáng lẽ nói ngay cho ai cũng biết, anh lại bắt mọi người
phải đợi đến lúc tan sở. Nhiều người đã phải đi theo anh mấy chục bước đường,
không được nhẩy lên xe đạp, hoặc không được chễm chệ ngự ngay trên xe nhà. Như
thế để rồi đến lúc anh đọc bản danh sách ấy cho họ thì, chẳng những không ai mừng
rỡ, rất nhiều người lại còn chửi rủa hãng hoặc bình phẩm việc thưởng tiền tiêu
Tết ấy bằng những câu văng tục rất đỗi gớm ghiếc. Thì ra thiên hạ, không ai vui
vì cái tin mừng do anh loan báo là rất phải, vì ai cũng bị sụt mất một nửa tiền,
kém hơn năm trước. Nhất là khi thấy chính anh thì lại không được đồng nào, ai
cũng bỗng giận dỗi anh một cách vô lý, hình như chính anh phải chịu trách nhiệm
về cái tin buồn kia. Họ đã tặng anh những trạng từ hay ho như: "Đồ ngu, đồ
trẻ con, nhặng xị, đồ mất trí khôn, muốn làm cho mình có vẻ quan trọng, vân
vân…" Một người - người ấy là Hựu - đã kể cho anh nghe câu chuyện "Thằng
ngọng bắt được cái đinh" nữa. Đấy, thế là, trong một thời kỳ, cả sở gọi
anh là thằng Phúc cái đinh. Sự ấy khiến anh phải hổ thẹn cho mãi đến bây giờ.
- Chứ gì! Đàn ông nào chẳng thế!
Nói rồi, Bích cứ để nguyên cái áo tân thời diêm dúa, có lẽ rất
đắt tiền nữa, mà nằm một cách tạm bợ xuống cạnh Phúc, cách xa khay đèn. Cô ả
không từ chối cái cánh tay của Phúc đã lót xuống dưới gáy, và phủ một mảnh chăn
mỏng lên trên phần hạ thể của hai bên. Những ngọn đèn điện của các góc phòng đều
đã bị tắt cả bây giờ chỉ còn có một ngọn thức đêm ánh xanh xanh chỗ đầu giường.
Một đứa đầy tớ đã lặng lẽ thu gọn khay đèn, điếu, ấm, chén, và cầm chổi lông gà
khẽ hắt những mảnh vỏ cam, vỏ lê, vỏ hạt dưa. Nó làm việc bổn phận của nó êm ả
và kín đáo đến nỗi Phúc cũng thấy cứ nằm xềnh xệch với gái như thế là rất tự
nhiên. Đứa đầy tớ vào dọn dẹp từ lúc nào đi ra lúc nào, cái ấy hình như không
ai biết nữa.
Anh nhớ lại việc cũ rồi lấy làm bất mãn lắm, tưởng chừng như
một kẻ trọc phú mà bị có người mắng là đồ vô học cũng chỉ bất bình đến thế. Đột
nhiên, anh nhớ lại tất cả mọi sự ngốc nghếch, lẩm cẩm, vụng dại trong cái giăng
đường làm nghề cạo giấy của anh. Nhất là trước mắt một người đàn bà, một gái
giang hồ nữa, mà họ cũng nhắc đến việc cũ, một việc làm anh bị giảm giá trị.
Anh đã tưởng chừng như những chuỗi cười của bọn bạn hữu ông mãnh chẳng phải chỉ
để khóc chuyện "Thằng ngọng bắt được cái đinh" của anh mà thôi, nhưng
mà còn khóc cả nhiều sự ngẩn ngơ khác của anh nữa, tuy không kể nốt ra cho
xong! Anh bắt đầu hối hận vì đã nghe bạn hữu mà đi chơi bời mất nết, hư thân,
phạm tội với gia đình, nhất là lại bị đem ra làm bia chịu đạn.
Họ vẫn cười.
Anh ngạc nhiên quá, mở mắt ra xem sự thể ra sao. Thì ra họ vẫn
châu đầu vào mặt anh, như là nhìn một con vật gì lạ lùng lắm, để khi mở mắt ra,
thì họ cười rống lên to hơn nữa.
Anh đã muốn gắt to, nhưng chỉ khẽ:
- Vô lý thật! Thì có cái đếch gì mà cười!
- Ha ha ha ha!
- Ái chà! Thằng Phúc nó lại văng đểu ra nữa!
Hựu thì xua tay bắt cả bọn im hết để nói trịnh trọng:
- Ấy chết! Ngài vừa văng tục đấy!
Phúc cũng phải phì cười nốt, và nhận ra rằng kể từ lúc biết
nghĩ, đó là lần đầu trong đời, thật thế, chính là lần đầu trong đời mình đã chẳng
kiềm chế được cái phần tục tĩu của linh hồn mình, mà để thoát khỏi miệng một lời
khiếm nhã, mà lại đối với bọn anh em. Tiếp lại nói:
- Các người ơi! Ngài lại cười nữa!
Vân nói:
- Thì ra ngài cười là vì khoái chí đã văng tục!
Hựu bắt chước cái giọng đồng cốt.
- Tấn lạy ngài, vạn lạy mớ lạy, chúng con người trần mắt thịt.
Phúc hét lên:
- Thôi đi, xin các bố trẻ!
Câu kêu vang ấy y như lửa cháy lại có thêm dầu. Bọn kia cười
to đến nỗi các chị em ở những phòng khác phải bò dậy kéo nhau vào xem, như người
rủ nhau ra xem đám cưới, đám ma, đánh nhau… Phúc ngượng quá đi mất, lẳng lặng đứng
lên tìm giầy và cái khăn gián nhấm, rồi quả quyết:
- Các anh trẻ con lắm thôi, tôi về.
Nói rồi, anh đi thẳng xuống thang.
Nhưng Tấn đã ra ngay một cái lệnh:
- Các chị mỗi người phải hôn anh ấy một cái cho tôi, mời anh ấy
vui lòng ở lại, không thì chầu hát này không kể nữa! Tức thì năm ả đào chạy bổ
nhào vào đi lôi anh lại, tranh nhau hôn vào mặt anh như mưa.
Trước anh còn giằng ra, vì giận bạn lúc ấy chính là cái giận
thành thực nếu ta chưa nói đó là cái phẫn uất hẳn hoi. Nhưng chợt anh nghe thấy
"phựt phựt", biết rằng đã đứt mất hai ba cái khuyết khuy áo rồi. Sợ
rách mất áo, Phúc bắt đầu chỉ giằng co qua loa cho phải phép. Lại thêm bọn đào
nương, trong khi giằng co và hôn anh, không biết vô tình hay hữu ý, đã chịu để
những chỗ nào tròn tròn trong thân thể họ cho cọ sát vào người anh, làm cho
Phúc ta tưởng chừng như thấy mình mẩy chỗ nào cũng là giác quan của mấy đầu
ngón tay cả, và cảm động lắm. biết trước được ngay rằng nếu ở lại cả đêm nay,
có lẽ chốn này chính là Bồng lai, còn hơn mạo hiểm một mình về nhà để gặp cái mặt
thân yêu đáng sợ của bà vợ quí. Nên chi sau cùng, anh cứ để cho bọn phụ nữ mà số
phận chưa chắc đáng thương ấy, đặt anh lại nằm lên sập. Anh sung sướng cực điểm,
vì mãi lúc ấy mới chợt nhớ ra: chưa hỏi vay tiền. Tức khắc anh tự hạ chiến thư
cho mình rằng phải vay cho được tiền, nội trong đêm nay mà thôi!
Nghĩ thế, anh ôn tồn nói với cả bọn:
- Thôi, đừng đùa nữa, các anh nên biết rằng đã bốn giờ sáng rồi
đấy. Không ngủ đi, rồi ốm mất.
Bọn ả đào hưởng ứng ngay:
- Ừ! Ông ấy nói phải đấy.
Hựu cũng còn pha trò:
- Đừng láo! Thánh toàn đấy!
Tấn cũng vội ôm lấy cô tình nhân mà nói:
- Ừ! Phải! Chúng ta đi làm cái bổn phận của chúng ta! Thì
chúng ta đi làm cái sự mà loài người ai cũng thích, nhưng mà ai cũng kêu là đểu!
Muốn thưởng cho những ý kiến thâm trầm ấy, mấy người kia ôm
chầm lấy bọn gái để làm nhũng trò đẹp mắt riêng cho mình và bẩn mắt người khác.
Những cái đấm phình phịch, những cái phát đen đét, những tiếng kêu ối, kêu ái,
trong một phút vang động lên. Người ta đã nghịch ngợm theo rất đúng cái phong tục
đi hát kim thời mà Phúc đã gần như gào thét mới gọi được bạn:
- Anh Tấn! Anh Tấn! Này, tôi bảo! Hãy khoan đã Tấn! Hãy ở
đây, moa 2 có
câu chuyện riêng đã đây!
Tấn quay lại, cau mặt ngạc nhiên ít nhưng sợ hãi nhiều, biến
sắc mặt hỏi:
- Cái gì thế? Cái gì thế?
- Không, không có gì can hệ cả đâu… Nhưng mà, thì anh hãy cứ
ngồi đây đã nào!
- Thì nói ngay đi! Moa nóng ruột lắm.
Phúc nhìn đào Bích. Ả này hiểu ý ngay, tức khắc đứng lên, vừa
quấn lại tóc vừa đi ra, làm như tình cờ mà đi.
Tấn ngồi xuống hút thuốc lào, Phúc thấy họ như muốn động
phòng hoa chúc cả rồi, bây giờ mới khẽ nói:
- Tôi phiền anh lắm, xin lỗi anh nhé?
- Được được! Chỗ anh em, có gì cứ nói!
- Đây này, nói gần, nói xa chẳng qua nói thật, tôi thì hiện
đương cần một số tiền …
Tấn im không đáp:
- Một số tiền nho nhỏ thôi!… Giữa lúc chưa biết trông nom vào
đâu, may sao gặp ngay anh, mà lại nhằm Iúc anh phát tài nữa…
- Ừ, thôi nói luôn: thế cần bao nhiêu?
- Chắc đối với anh thì số tiền ấy cũng không mấy, tuy tôi thì
tôi cho đó là một món tiền rất to. Tôi cần có hai chục bạc, anh ạ.
Tấn trợn mắt hỏi:
- Nói thật hay nói đùa?
- Ô hay! Chuyện tiền nong ai lại dám nói đùa?
- Thế anh còn nhớ lần nào không? Tôi hỏi sao không đi tìm việc
làm, thì anh kêu không muốn tìm, vì không muốn đi làm… Anh lại nói đúng thế
này: "Có cần tiền mới phải đi làm, mà tôi, tôi cũng không cần tiền để làm
gì cả". Anh có nhớ không?
Phúc ấp úng:
- Bao giờ? Có thế đâu? Hay ta… à quên, chắc. Nhưng mà nếu tôi
đã có… đã có nói thế thật, thì vì lúc ấy, thật sự tôi không cần tiền, cho nên
tưởng cũng không bao giờ sẽ phải cần tiền… Nhưng mà sự đời nó phải thay đổi chứ?
Vả lại, lúc kiếm không được việc làm, thì phải nói khoác thế chứ?
Tấn cười nhạt:
- À ra thế! Vậy mà tôi cứ tưởng anh thật thà lắm! Nhưng mà…
anh cần tiền để làm gì thế?
Phúc đã hơi bất bình rồi:
- Tôi có việc riêng… cần lắm. Đây này. thực tình thì chẳng phải
vì tôi thấy anh phát tài mà tôi vay tiền, như là không vay thì cũng thiệt, không
phải thế đâu! Nếu anh không tin thì thôi, chỉ có thế thôi.
Tấn im. Phúc lại tiếp ngay, sợ bị từ chối thật:
- Cần lắm anh ạ, cần đã mấy hôm nay rồi, chẳng biết chạy vào
đâu, may sao lại gặp anh. Mà lại cần vào một việc không nói với anh được.
Tấn cũng bắt đầu cãi cho sự nghi hoặc của mình.
- Không! Nghĩa là… tôi hỏi kỹ là vì tôi ngạc nhiên lắm, thế
thôi. Anh mà lại cần tiền! Ăn chơi gì, tiêu pha gì, công nợ ai đâu! Nhà anh thế
là khá giả, nếu có việc gì quan trọng cho anh phải chạy tiền, ắt là có gia đình
biện cho chứ? Tôi hỏi là vì lấy làm lạ, chứ không phải tiếc đâu.
Phúc đã vui vui, bèn đáp liền:
- Thì vẫn thế… Nhưng việc này tôi thì phải giấu cả thầy đẻ
tôi nữa…
Tấn cười nhạt;
- Lạ nhỉ? Anh mà lại cũng có sự gì giấu bố mẹ cơ à? Không phải
là có vợ lẽ để riêng một chỗ?
- Bậy!
- Thế thì còn việc cóc gì! Hiền lành như anh, hà tiện như
anh, ngoan ngoãn như anh …
Phúc đành phải nói dối :
- Không phải giấu hẳn, nhưng mà bao giờ xong việc thì tôi sẽ
nói thật, để thầy đẻ tôi cho tiền để trả nợ anh sau.
Chắc Phúc đương cần tiền để đút lót để kiếm việc làm chi đó,
nên Tấn hả hê nói ngay:
- Được, cái việc trả nợ tôi thì không ngại lắm… Thôi được, rồi
anh sẽ có số tiền ấy, cứ yên tâm.
Phúc rất mừng, không sợ cái tội đi cả đêm để sẽ bị vợ mắng nữa.
Tấn quay đi, thì Phúc gọi giật lại:
- Thế bao giờ? Ngay bây giờ có được không?
Tấn lại trố mắt ngạc nhiên, để rồi lắc đầu:
- Bây giờ thì làm gì có? Chỉ mang đi có ba chục bạc tiêu vặt
và chi chầu hát thôi. Lạ thật cho cái anh này, làm gì mà cần tiêu cấp bách đến
thế?
- Thế anh hẹn cho bao giờ?
- Mai, kia!
Tấn đáp xong, đi thẳng về phòng. Coi thời giờ thật là vàng bạc
vì đêm sẽ gần hết, gà đã bắt đầu gáy canh năm! Phúc toan gọi lại lần nữa, nhưng
không còn đủ can đảm nữa. Vả lại anh cho thế cũng đủ mãn nguyện lắm rồi. Thì
mai hay kia, cái thời giờ ấy chẳng có là bao!
Sự mừng rỡ trong lòng Phúc bây giờ thì thật văn chương nào
cũng không tả hết được, đến nỗi nó phát sinh ra một phản động lực. Nghĩa là anh
ta vì mừng mà đâm buồn. Buồn là vì, sau khi triết lý, mới thấy rằng chỉ có thế
thôi mà cũng mừng. Hai chục bạc vay được của một người bạn thân, cái số tiền mà
bạn đương sẵn lòng ném qua cửa sổ vào một cuộc vui, mà mừng đến thế, một số tiền
nhỏ như thế mà cũng đã bị căn vặn khó khăn đến thế! Anh buồn nhất là, sau khi
nhớ lại, thấy rằng cả đoạn đời hai mươi lăm tuổi của anh, chỉ có ba lần anh được
mừng rỡ thế thôi. Đấy là lần đầu đỗ bằng sơ học, lần thứ nhì nhận được giấy gọi
đi làm việc và lần này, vay được bạn một số tiền. Thật quả chỉ có ba lần anh hiểu
gì là cái vui, cái sướng. "Than ôi! Có thể như thế được chăng? Đời mà có vậy
thôi à? Ta nhân bần khí đoản đến nỗi này à? Thôi thôi cái tôn chỉ cũ là hỏng cả,
hỏng bét? Không có tiền thì không làm gì được! Ta phải kiếm tiền, phải giàu mới
được! Ta không giàu? Không được!" Nghĩ thế anh quyết định nay mai phải mua
một vé số. Tấn trúng số, vì lẽ gì anh lại không có thể nào trúng số được? Vì lẽ
gì anh lại không dám có cả cái hy vọng - cho dẫu là cuồng vọng - rằng anh cũng
có thể trúng số được.
Đến đây, Bích đã quay vào.
Phúc vui vẻ gọi:
- Này, nằm đây với anh đi! Nằm đây.
Bích giao hẹn:
- Anh phải ngoan ngoãn mới được!
Phúc chặc lưỡi:
- Làm như người ta là ngáo ộp!
Phúc đương tìm một câu gì đó để bắt chuyện… mắt anh đủ nhìn
thấy hai con mối đương kiếm ăn trên trần nhà. Vẩn vơ anh nghĩ, nghĩ xa xôi, thấy
rằng con người ta ở đời cho dầu đứng đắn và đạo đức đến bực nào đi nữa, cũng có
thể ham mê hát xướng và say đắm ả đào được lắm. Chẳng phải lần này là lần thứ
nhất anh được dịp mon men đến chốn ca trường. Lần đầu, anh đi hát, cũng ngủ lại
cả đêm, nhưng người ta đã để anh một mình nằm xuống. Đến lần này, anh được mỹ
nhân nằm bên, sở dĩ đã đến kết quả ấy có lẽ chính vì anh đã thạo đời hơn trước.
Anh dám chắc chỉ đi dăm ba bữa nữa, anh sẽ hoàn toàn là người lão luyện, có thể
biết đủ cả mùi vị yến anh mà những kẻ đã khuynh gia bại sản mới được biết… anh
chắc mình sẽ chẳng chơi dại như ai đâu.
Và, điều cần nhất, có lẽ là phải ăn nói làm sao để tỏ rằng
mình đây ít ra cũng là kẻ có duyên, từng trải, bẻm mép nữa càng hay, để cho đời
biết rằng mình chẳng quýnh như thằng ngọng bắt được cái đinh đâu. Anh bèn vỗ
vai Bích, bảo:
- Kìa, trông xem hai con mối kia kìa!
Có lẽ lúc ấy đã ngủ được đến ba phút cô đào ậm ừ mà rằng:
- Ừ, phải, không có người đứng làm mối thì ngủ đi!
Phúc phì cười. Anh biết là không còn nên tán tỉnh ai nữa. Vậy
thì chỉ còn cách đem lợi dụng hai bàn tay được chút nào hay chút ấymà thôi.
Nhưng tay anh vừa kê trên ngực mỹ nhân thì đã bị đặt ngay tức khắc xuống gối.
Thì ra Bích không mê ngủ chút nào! Phúc khẽ nghiêng mặt giở mình để thử nhìn một
lần nữa đến cái thứ mặt giang hồ dầy dụa, chán chường ấy, té ra cũng lại
là-thành trì cuối cùng của đức hạnh nữa. À, đã thế thì xem rồi có đức hạnh nào
chẳng chuyển vì anh không nào!
Nhưng… lại Hựu.
Hựu ra phá đám.
Cái anh chàng lôi thôi này bây giờ còn đến chỗ anh tìm một
cái gối, ngả lưng xuống cạnh, và nói bô bô một cách tự do nhất thế giới:
- Ở trong ấy không chịu được, để moa nằm đây với toa cho vui.
"Cho vui!" Phúc bĩu môi nghĩ thầm. Anh muốn đuổi bạn
đi ngay đi đâu thì đi, nhưng lại sợ trái luật đi hát! Và tự nhiên thấy Bích
cũng ủng hộ:
- Phải đấy, anh nằm với chúng em cho vui.
Chua chát, Phúc nhắc lại với Hựu những lời Hựu đã nói:
- Đi hát! Thế là nghĩa lý gì? Ăn không ra ăn, uống không ra uống,
hút không ra hút, ngủ không ra ngủ.
Hựu thì khẽ cười và hỏi chuyện khác:
- Này anh, anh có biết cái gì về Tấn không?
Phúc vờ hỏi lại:
- Sao? Cái gì?
- Không biết à? Nó trúng số bốn nghìn kỳ này.
Phúc ngạc nhiên lắm lại hỏi:
- Ô, thế anh cũng biết à? Anh ấy cũng có bảo cho tôi biết,
nhưng bắt tôi phải giữ bí mật.
Hựu khẽ cười:
- Nếu thế thì nó bảo khắp thiên hạ rồi, và ai nó cũng bắt phải
giữ bí mật chắc? ý kiến anh đối với việc ấy ra sao? À, kể thì Tấn nó cũng là
người có bụng dạ khá đấy. Nhưng mà nó càng có nhiều tiền, chỉ càng tổ hại
Phúc đáp ngay:
- Anh nói đúng lắm. Có chưa đủ, phải biết cách dùng đồng tiền
cho hữu ích mới được.
Rồi Phúc đọc ngay câu danh ngôn Tây phương với cái giọng một nhà
giáo đọc bài ám tả cho học trò:
- Les épis trop chargés briseni! eur tige, la branche rompt
sous le Poids des fruits: une fé-condité excessive les empéche demurir, ainsi
suc-combe l áme sous l excès du bonheur, elle enabuse contre les autres et
surtout con-tre elle-même" 3
Hựu khen:
- Gớm, thuộc sách vở cổ kim lắm nhỉ?
Phúc khoái chí nói như đọc luôn câu khác:
- On souffre autant de l extrême abondance quedel extrême
besoin, le vrai bonheur est dans la médiocrllé, le superflu a plus tol les
chevaux bianes, mais l bonnéte nécessiFeux-vit plus long-temps. 4
Hựu lại khen:
- Khá lắm! Còn câu nào hợp thời nữa không?
Phúc lại đọc tiếp nữa:
- Un hom me trop heureux est omme un voleur de profession: il
finit toujours par être pincé. 5
Ba đoạn tư tưởng thuộc làu làu như thế đã khiến cho Phúc được
bạn phải cảm phục là người học thức.
Sự ngâm nghĩ của Hựu đủ rõ thế. Rồi Hựu khen Phúc một cách
gián tiếp như thế này:
- Dùng nghĩa lý thánh hiền vào cuộc đàm luận như thế thì tuyệt,
nhưng phải cái hại là rồi mình không nói thêm gì vào được nữa. Như Tấn mà lại
phất đến số độc đắc nhỏ nữa thì kể cũng là sướng quá đấy, nhất là gia đình hắn
cũng phong lưu xưa nay. Nhưng chưa hẳn được sướng về tinh thần. Cho nên Tấn
chơi bời, hát xướng quá đáng, càng có tiền càng hại. Như anh thế mà lại hóa
hay. Địa vị anh cũng như Tấn, gia đình phong lưu, không phải đi làm cũng có ăn,
được tha hồ học hành sách vở, trau dồi trí đức… Thế là sướng hơn, vì có cái sướng
tinh thần. Anh lại hơn Tấn cả ở chỗ có vợ con rồi nữa. Anh không chơi bời gì mà
chơi bời mà làm quái gì? Như vậy, anh chẳng cần trúng số anh cũng đã sung sướng
hơn Tấn nhiều lắm. Phúc vui lòng lắm, cho rằng Hựu đã nói nhầm chân lý. Anh
quên khuấy ngay rằng anh vừa được Tấn ban cho một cái hạnh phúc thân hữu, cái hạnh
phúc số ba trong đời anh. Và anh lại muốn tha thứ cho Hựu cả cái tội dám đặt
tên mình là "thằng Phúc cái đinh" nữa. Tuy nhiên anh cũng hỏi:
- Anh nói thế thì ra tôi không nên trúng số à?
- Chứ gì? Trúng số để làm gì? Để chơi bời cho hư thân mất nết,
rồi chết non hay sao?
Phúc xo vai bĩu mồm:
- Đời nào! Nếu tôi trúng số, tôi sẽ biết dùng đồng tiền của
tôi hơn người khác.
Hựu còn hoài nghi:
- Thôi, ông nào cũng nói thế cả. Có tiền rồi mới khác.
Phúc cáu kỉnh làm như đối với mình, việc trúng số độc đắc có
thể dễ như đút tay vào túi áo:
- Tôi xin cam đoan với anh rằng nếu tôi trúng số, tôi sẽ làm
được nhiều việc tốt đẹp hơn hết thiên hạ!
Một lát, lại cắt nghĩa thêm:
- Nhưng phải số độc đắc to, số mười vạn kia. Chứ bốn nghìn
thôi, thì vị tất đã làm nổi việc gì!
Hựu chỉ im, nằm lặng ngắm những làn khói thuốc lá thơm từ từ
tỏa trên mặt. Đồng hồ đã đánh năm tiếng, nhưng Phúc còn hăng hái nói nữa:
- Này anh ạ, đời này ai cũng chỉ khổ vì muốn kiếm tiền, muốn
làm giàu thôi. Tôi, tôi cũng muốn giàu, cũng muốn có nhiều tiền.
- Ủa! Bây giờ lại đến anh này cũng có chí làm giàu nốt?
- Chứ sao? Nhưng tôi muốn làm giàu không phải chỉ vì cái mục
đích giàu. Giàu đối với tôi, chỉ là phương tiện, để làm những việc gì vĩ đại,
là nhân đạo, là bác ái, là xã hội, nói tóm lại thì để cho người ta được nhờ.
- Nhưng anh sẽ làm giàu bằng cách gì nào?
- Nói thí dụ thế, chứ tôi có chí gì đâu! Họa chăng, nếu tôi sẽ
giàu, trừ cách trúng số cũng không còn cách khác.
- Tôi đã biết những người khi hãy còn nghèo thì thôi, có
không biết bao nhiêu là tư tưởng tốt đẹp, nhân đạo, thế rồi đến lúc giàu rồi
cũng đâm ra đểu cả.
- Cũng có lẽ, nếu phải mất mồ hôi, nước mắt mới trở nên giàu.
Nhưng nếu giàu rồi vì trúng số chắc dễ tốt với thiên hạ hơn.
- Quái cho cái anh này! Chỉ toàn chuyện trúng số mãi! ừ, thế
cái chương trình nhân đạo của anh sau khi trúng số thì nó ra làm sao?
Phúc cười:
- Trúng đâu mà có chương trình! Nghĩa là cứ biết rằng ở đời
này nếu ta có nhiều tiền, thì ta làm được nhiều việc tốt đẹp lắm. Nếu tôi giàu,
thì rồi anh xem!
- Thôi, ngủ đi, đừng chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng?
Phúc hơi ngạc nhiên sao Hựu lại không dám tin mình.
"Thôi thế, khi ta đã giàu, còn lẽ gì ngăn trở ta không thực hành những tư
tưởng cao thượng vẫn sôi nổi trong óc ta? Còn lẽ gì ngăn được ta đem tiền bạc
ra dùng cho nó phí cái chí bình sinh vào cái việc cứu chữa lấy một vài trong
muôn nghìn phần những sự bất công, ngang tai, chướng mắt, thương tâm, đáng chán
dời, mà nguyên nhân là chữ bần và chữ phú? Ôi, chỉ không tiền, vô vật bất linh
thì mới đành thúc thủ mà ngán ngẩm suông cho sự đời; nếu ta không muốn làm cái
chuyện hão là cái sự thương miệng thương môi .. Chứ nếu có tiền, thì đã là có tất
cả! Thì đã có cái thế lực vạn năng xoay chuyển cuộc đời theo ý mình thì đã có cả
cái quyền thế thiên hành đạo nữa! Ta mà trúng số mười vạn ấy à? Đối với xã hội
lầm than, ta sẽ là vị phúc tinh, cứu tinh, ta sẽ lập nhiều xưởng máy để một là
bài trừ nạn thất nghiệp, nuôi sống hàng vạn gia đình thuyền thợ, hai là chế tạo
những hóa vật cạnh tranh
Với các ngoại quốc, giữ quyền lợi cho nước mình: ta sẽ trợ cấp
rất nhiều cho các hội từ thiện, và hội các hội ấy phải chịu trách nhiệm nếu ra
ngoài đường, ta còn thấy những cảnh tượng thương tâm làm rầu lòng ta, khiến cho
về nhà ta ăn cơm chẳng thấy ngon ta phải làm thế nào để khi ta chết, cả một xã
hội phải thươmg xót và để tang ta, ấy là cái chương trình việc thiện. Vì lẽ ở đời
này không phải chỉ làm toàn những việc thiện thôi mà đã là đủ, vì lẽ những cảnh
đau lòng chẳng phải chỉ tự những bọn nghèo khổ gây ra mà thôi, nên chi ta lại
còn phải làm những việc ác nữa, ác đối với bọn trọc phú, bọn sét-ty 6. vẫn
tham lam bóc lột đồng bào, ác với bọn nhà buôn gian giảo bất lương. Người ta
còn tay trắng làm nên, huống hồ bỗng dưng có trong tay hàng mười vạn, ta phải
dùng cái vốn ấy quật lên cho thành hàng triệu vạn, giàu to, giàu nữa, phú gia địch
quốc thế nào cũng là vô cùng, giàu thế nào cho trên trời dưới sông đều là có
phi cơ, tầu thủy của ta! Để làm gì? Để có thể cười một cái thì một vạn người được
sung sướng, cau mặt một cái thì phải có đứa tự tử, và nhất là có thể nuôi một bọn
thầy kiện trong nhà để bỏ tù những thằng giàu mà đểu, cắm nhà chúng nó cho bõ
ghét mặt, hay là đè chết chúng nó bằng chiếc xe hơi khổng lồ của ta! Nói tóm lại,
đối với bọn nghèo, ta đã muốn làm thiên quan thiên phúc chi tinh, thì đối với bọn
phú ông vô lượng tâm, ta phải làm các vì sao Thiên không, Địa kiếp… Ta mà chẳng
làm nổi vài ba việc kinh thiên động địa, ta nguyện, sẽ bị tất cả mọi sự cầu
toàn trách bị của đời! Ấy đấy hỡi quân giá áo túi cơm đồ thiếu niên vô tư tưởng,
vô hy vọng, quân phàm phu tục tử không biết thẹn cho giống người, mi đã hỏi đến
chương trình, thì ấy đó là cái chương trình hành sự của ta".
Nghĩ thế, Phúc quay lại nhìn mặt Hựu, càng khinh bỉ hơn nữa
khi thấy Hựu đã ngủ thật: Hai mi mắt nhắm nghiền và thâm quầng, hai cái má hõm
lại như hai lỗ đáo, thật đủ tiêu biểu cả đời một con người có óc trâu bò chỉ biết
kéo cày trong sự trác tác vô độ mà thôi. Phúc bĩu mồm.
Bên tay phải thì thế, còn bên tay trái của Phúc, thì Bích,
cũng đã ngủ. Cũng lại một cái mặt vô tư tưởng của một chị đàn bà không biết người,
không biết của gì cả, thật đáng đọa đày làm cái đồ chơi cho bọn đàn ông, mà lại
chỉ bọn đàn ông vô học thôi. Tuy cái mặt ấy cũng vẫn giữ những nốt đáng yêu của
nó, Phúc cũng vẫn không tha, bĩu mồm. Anh tưởng tượng trước cái sự khúm núm, nịnh
hót, khiếp phục của ả đối với anh, không biết nó sẽ như thế nào, nếu nay mai
anh trúng số độc đắc hơn cả Tấn.
Chợt nghĩ đến trúng số để mà rủ bạn hữu đi một chầu hát, anh
lại mỉm cười. Phải, đối với những kẻ tầm thường thì cái chí khí hẳn chỉ đáng
giá một đêm ô trọc dưới xóm là cùng!
Bên ngoài, vừng đông đã dậy đỏ ối.
Cảnh vậy ngoại ô đã náo động vì những thợ thuyền phải đi làm
sớm, những hàng quà bánh, bán rong…
Mệt mỏi, Phúc không ngờ cũng đã ngủ thiếp bên cạnh cô Bích số
hai của anh.
Chú thích:
1 |
“Thiếu niên” ngày trước có nghĩa như thanh niên ngày nay. |
2 |
Moa là nói theo tiếng Pháp nghĩa là tôi. |
3 |
Những bông lúa sai quá thường làm gãy mất ngọn cây, cái cành phải rơi khi những quả chũi chịt là quá nặng cho nó; cây quá sai thì quả không kịp chín nữa, ấy cũng in như thế cho nên cực kỳ khoái lạc đã hại mất bao nhiêu tấm linh hồn; hại người khác và hại cả mình, nhất là hại mình. |
4 |
Người ta thiếu thốn quá đã khổ, mà thừa thãi quá lại càng khổ lắm, hạnh phúc là ở cái thường thường bậc trung; người thừa của ấy tóc bạc quá sớm, người đủ ăn thọ lâu hơn. |
5 |
Một người sung sướng quá thì cũng như một đứa kẻ cắp nhà nghề, sớm chầy rồi thế nào cũng bị tóm cổ. (V.T.P dịch). |
6 |
Set-ty là tên gọi những người Ấn Độ chuyên cho vay nặng lãi ở các nước ngoài, sau thành ra cái từ gọi chung cả bọn cho vay nặng lãi. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét