Người dưng khác xứ
Quê Nội tôi ở nơi khỉ ho cò gáy của thung lũng
Tháp Mười. Cái xứ quanh năm con người chỉ biết làm bạn với cây lúa, con cá con
cua, với những nghề thủ công đương đát từ những loại cỏ trời cho như bàng,
đưng, lác…
Ngoài những tháng mùa mưa, nước ngập trắng trời trắng đất, đường
xá lầy lội nhếch nhác, còn lại những tháng nắng phong cảnh quê Nội cũng nên
thơ, trữ tình lắm. Con đường làng thẳng tắp với hai hàng tre xanh xạc xào trong
gió, rặng dừa ven sông đón những hạt phù sa từ chi nhánh sông Tiền đổ vào, cành
lá mượt mà, trái ôm lúc lĩu trên ngọn khiến cho bờ sông mát rười rượi. Giữa
trưa nắng chang chang, bơi xuồng dưới sông vẫn không thấy nóng nhờ bóng dừa che
chở, đở nâng.
Vùng quê hẻo lánh như vậy mà không hiểu sao người tứ xứ trôi
dạt về đây, làm ăn sinh sống hòa thuận với nhau như con một nhà mới lạ. Ở cuối
con lộ làng có tiệm thuốc Bắc của ông Hai Chệt người Phúc Kiến. Ông nói tiếng
Việt lờ lợ buồn cười chết được. Bọn trẻ con tụi tôi đứa nào hay đái dầm, khóc
đêm là bị hù đem cho ông Chệt nấu cao, vò viên làm cao đơn hườn tán. Mỗi lần
ông tôi sai ra tiệm mua thuốc, tôi vừa đi vừa khóc vì sợ gương mặt bậm trợn và
giọng nói rang rảng của ông.
Ở đầu lộ làng có Vàm cống tẻ vô nhà Nội tôi gọi là cống Huế.
Nghe Nội nói ngày xưa, có nhiều người Huế đến đây sinh sống, lập nghiệp nên đặt
tên cống Huế. Không biết số người đó phiêu bạt giang hồ đi đâu nữa trên bước đường
lập nghiệp nhưng lúc tôi lớn lên, học tới lớp Nhất ( lớp Năm bây giờ) thì còn lại
ở đây một người, người đó cha mẹ chết hết chỉ còn một mình ông bám trụ lại
làng, học hành cũng kha khá, làm nghề y tá mà
sau nầy duyên trời dung rủi đã trở thành chồng của cô Út tôi.
Năm đó, mới thi Tiểu học mà tuổi tôi đã mười ba, mười bốn.Tuy
lớn xác nhưng tánh nết còn khờ khạo lắm. Mỗi lần đi học về tới đầu Vàm cống, ngang
qua trạm y tế của dượng Ut thì bị dượng ngoắc lại nhờ đưa thơ cho cô
tôi. Giọng nói của dượng nhẹ nhàng, ngọt lịm như đường phèn nhưng từ
ngữ phát ra phần lớn mang âm nặng khiến tôi nghe không rõ:
- Trâm gợi lạ thư cho cô Ut dùm chụ Trâm hỉ?
Tôi cười như nắc nẻ, sau khi cười đã đời rồi hỏi lại:
- Cô Ut là cô nào hỉ chụ?
Dượng cười xòa, cốc lên đầu tôi, doạ:
- Mi ạc lắm. Khi mô tau làm dượng mi, mi chệt với tau. Nì!
Cầm cại nì ăn đi, tau biệt mi thịch nọ .
Dượng nhét vào tay tôi trái ô môi đen tuyền và mấy trái me dốt
mới nhìn đã chãy nước miếng, tôi hồ hởi ra giá:
- Mỗi lần đưa thơ hai trái ô môi, mười trái ổi hoặc mười trái
me thì cháu đưa liền.
Dượng vui vẻ gật đầu , hứa lần sau sẽ tăng phần thưởng lên.
Tôi chạy bay về nhà, cất cặp lên nóc tủ, lấy lá thơ lận vào lưng quần rồi u qua
nhà Nội , kiếm côÚt. Cô đi ruộng chưa về, tôi quày quả ra ruộng
tìm để hoàn thành sứ mạng thiêng liêng, giao lại cho cô một vật quan
trọng mà đối với ông bà tôi là phải hoàn toàn giữ bí mật.
Giữa đường ra ruộng, tôi chợt bị đau bụng dữ dội do tiêu thụ
mấy trái me dốt cùng ca nước mưa ở nhà Nội. Tôi quýnh quáng bước vào cây cầu cá
bắc gần đó để “giải quyết” sự cố. Xong xuôi, bước ra khỏi cầu, tôi chạy u về hướng
cô Ut đang nhổ cỏ mạ. Đến nơi, tôi hớt hải gọi:
- Cô Út! Có việc quan trọng!
Cô ôm đám cỏ lúa đi tới, lo lắng hỏi:
- Chuyện gì ?
Tôi cười cười:
- Thơ dượng Út..
- Tiên tổ bây! Chưa gì hết kêu dượng nầy dượng nọ không sợ
ông Nội biết được là chết chùm cả đám.
Cô Ut mắng mà miệng cười tủm tỉm, đôi má ưng ửng,
hai mắt long lanh. Tôi biết cô đang nóng lòng đọc thư nên
càng rề rà :
- Ut ơi ! Bữa nào đi chợ Ut mua cho con cây kẹp tóc có gắn
bông như kẹp của con Bé Hai nha Ut.
- Ờ. Còn gì nữa hôn? Con muốn gì Ut cũng mua hết nhưng mà con
phải kín miệng không thôi ông Nội cạo đầu khô tô dầu hắc tao đó. Thư đâu, đưa
cho cô?
Tôi mằn lưng quần lấy lá thư nhưng nó không còn ở
đó nữa. Tôi nhảy tung lên hai bận vẫn không thấy, hốt hoảng kêu:
- Cô ơi! Con … làm rớt.. rồi..ồi..
- Ở đâu?
- Đằng.. cây cầu.. ca..á..
Cô tốc chạy về phía cầu, tôi cũng lúp xúp chạy theo. Cô bẻ
nhánh trâm bầu quơ bầy cá đói đang xâu xé mảnh thư tình . Vớt được lá thơ lên,
cô vội chùi vào ống quần cho khô nước rồi lấy cái khăn trùm đầu
chùi lần nữa những mãnh giấy bèo nhèo. Cô trãi nó ra nắng để
hong khô , cúi xuống chăm chú đọc mấy dòng chữ chi chít không hàng, không lối,
rồi chúm chím cười một mình.
Tôi đứng trơ dưới gốc trâm bầu, nắng chang chang trên đầu mà
không thấy nóng. Tội nghiệp cô, không hề quát mắng đứa cháu một lời. Cô tôi tội
lắm, thương dượng Ut mà không biết có kết duyên được không bởi vì quê quán dượng
xa lắc xa lơ, dượng lại mồ côi mồ cút, ông bà Nội có một đứa con gái
rượu dễ gì gả cho người xa xứ. Làm nhiệm vụ đưa thư hơn một năm trời, càng hiểu
rõ hoàn cảnh , tôi càng thương hai người nhưng biết cách gì giúp họ đây. Tôi chỉ
là đứa cháu nhỏ nhít, hay mau nước mắt, vô ý vô tứ, ham ăn ham chơi,
có được tích sự gì.
Cô đọc đi đọc lại lá thư đến lúc mấy mãnh giấy khô queo, cẩn
thận xếp bỏ vô túi, hớn hở tâm sự:
- Dượng mầy nói tới đây sẽ nhờ ông Hai Chệt làm mai mối cho
cô với dượng. Mà tao sợ quá, cái kiểu ăn nói ba trớt ba hút của ông Hai chắc
tiêu. Dượng mầy cha mẹ không còn, gặp mai mối trời trợt như vậy nữa là tiêu
luôn. Ngày mai đi học con đưa dùm cô lá thư, hẹn gặp dượng bàn bạc
cho kỹ mới được.
Tôi thắc mắc:
- Đã dượng Ut nói tiếng khó
nghe còn đi mượn ông già tiếng Việt không rành
làm sao ông Nội chịu?
- Chuyện đời biết đâu mà lần. Coi vậy chớ biết đâu ông Nội chịu
cũng không chừng, bị vì kỳ đó có lần ông Nội đau nặng tưởng chết, ông Hai hốt
thuốc trị hết nên ông Nội mang ơn ông Hai dử lắm, mà ông Hai thì thương dượng mầy,
thầy thuốc Tây với thầy thuốc Bắc mà không kỵ nhau, kỳ cục vậy đó.
Tôi cắc cớ :
- Rũi ông Hai làm mai không được cô tính sao?
- Thì ở giá luôn tới già. Thương lỡ rồi, dễ gì
thương được người khác nữa. Hổng ấy tao đi tu, y như cái tuồng” Ao cưới trước
sân chùa” vậy đó.
Tôi le lưỡi, lắc đầu. Không ngờ con trai, con gái lớn lên, gặp
được nhau, thương được nhau rắc rối, cực khổ quá cở. Vậy mà tôi cứ
mong cho mau lớn, trở thành thiếu nữ để được yêu thương chàng hoàng
tử của lòng mình. Bây giờ nhìn cảnh cô Ut đâm ngao ngán hết biết. Cách nhau có
mấy trăm mét đường sông mà có khi nữa tháng hay cả tháng, cô tôi lợi dụng những
lúc đi chợ huyện bán đồ vườn hay mua sắm những thứ cần thiết trong nhà mới tạt
ngang qua trạm y tế của dượng một chút để mua thuốc đỏ , bông băng hay thuốc trị
hen cho ông tôi. Hoặc chờ khi nào ông bà đi đám giỗ, đám cưới đâu đó
thì dượng mới dám đến nhà. Những khi đó, tôi được cử ra đứng dưới gốc ô môi
ngoài bờ cái canh chừng . Có lần, vì mải mê hái mấy trái ô môi chín, ông bà Nội
về hồi nào không hay khiến cô, dượng tôi bị một trận xấc bấc xang
bang.
Ông tôi giỏi chữ Nho nhưng lại có bằng Sơ học chữ quốc ngữ,
biết chút ít tiếng Pháp, nghe nói ngày xưa ông Cố là địa chủ, tới thời
ông tôi thì ông theo Vệ quốc quân đánh Pháp nên nhà cửa ruộng nương dần dà do
chiến tranh mất lần. Theo cách mạng nhưng máu nhà Nho với máu địa chủ
vẫn còn âm ỉ trong huyết quản nên tánh khí ông khó khăn, kiểu cách khiến trong
gia đình và làng xóm ai cũng nể sợ. Tuy vậy, nhờ có chút ít học thức, nên đôi
lúc ông xử sự cũng “ thoáng” chớ không đến nổi nào. Tỉ như, tôi là cháu nội
gái( ba tôi thứ ba, đang tập kết ngoài Bắc) nhưng ông quyết định nuôi tôi ăn học
cho đến nơi đến chốn. Đó là một quyết tâm mới lạ mà người làng lúc ấy chưa ai
nghĩ tới.
Bà tôi nông dân, sinh ra và lớn lên trên những
cánh đồng. Từ khi lấy ông, chuyện ruộng nương, bếp núc một tay bà
cai quản vì ông tôi hết đi buôn bán làm ăn đến làm chính trị, bị Pháp bắt cầm
tù ở nhà lao Khám Đường (Mỹ Tho),sau khi ra tù mắc bệnh hen nặng, hết thuốc Tây
đến thuốc Bắc trị hoài không khỏi.
Bà không biết chữ nhưng mê cải lương với hát bội. Nhiều tuồng
tích xưa bà thuộc làu làu. Nghe nói ngày trước, lúc làm ăn khấm khá, ông tôi
thường bao nguyên dàn cải lương cho xóm làng và bà tôi xem. Những ngày ấy là
ngày hội của làng. Bà tôi mặc áo the, quần lãnh Tân Châu, tóc mượt
đen bới gọn sau gáy, trông bà lạ lẫm và xinh đẹp hẳn lên. Bà ngồi hàng
ghế đầu, chăm chú xem. Tới đoạn nào thương tâm, bà sụt sịt khóc trước , kế đến
cô Út tôi, rồi mấy bà hàng xóm cũng lã chã theo. Không biết họ khóc vì vở diễn,
hay vì thấy bà khóc mà cảm động lây, vì người ở làng rất quí mến bà. Bà hiền thảo,
chân chất như củ khoai, củ sắn, hay động lòng và hay giúp đở mọi người. Một đời
bà lam lũ làm lụng, nuôi ba tôi với chú, bác tôi ăn học, sau nầy những người ấy
noi chí hướng của ông, theo kháng chiến đánh Mỹ, có người đã hy sinh (ba
tôi và chú Sáu).
***
Chuyện của cô tôi làm sao giấu được lâu trong ngôi làng nhỏ
bé đó. Ông bà hay được, gọi cô Ut hỏi chuyện. Ông hỏi:
- Thằng đó có tính chuyện gì với bây chưa?
Cô Ut ngồi lặng thinh trong góc bộ ngựa gõ, đầu cúi gầm, nước
mắt giọt ngắn, giọt dài rớt trên mấy ngón chân đang miết miết khoảng nền đất phẳng
lì. Bà tôi đở lời:
- Thằng đó tướng tá coi được, trị bịnh cũng mát
tay lắm. Hôm đó ba mầy không nhờ nó là theo ông theo bà rồi. Cái gì cũng được,
có cái cha mẹ không còn , khi bây ốm đau, chữa đẻ biết cậy dựa ai, với
lại nó nói tiếng nước nào chớ không phải nước Việt mình, tao nghe tiếng đặng tiếng
được không biết đường đâu mà lần .
Ông tôi nạt:
- Nó người miền ngoài , cũng là người Việt chớ người
nước nào mà bà nói trật đường rầy hết vậy?
Ông tiếp tục cuộc tra vấn:
- Nó có tính chuyện cưới hỏi với bây chưa mà sao hỏi làm
thinh vậy Ut?
Cô tôi không ngẩng đầu lên, tằng hắng cho giọng bớt khàn, rồi
nói:
- Thưa ba.. Anh định nhờ ông Hai..tới nói chuyện với ba…má…
- Hai nào?
- Thì ông Hai thuốc Bắc chớ Hai nào? Nó với ổng se nhau
lắm. Phải ông Hai đó không Ut?
- Dạ.
Ông lại hỏi:
- Chừng nào nó bước tới?
Cô Ut lặng thinh hồi lâu, rồi ngập ngừng:
- Dạ..con không biết…
- Bây liệu coi có kham nổi cực khổ với nó không? Tánh ý nó hợp
với bây không? Chuyện vợ chồng là chuyện gắn bó lâu dài, so hơn tính thiệt cho
kỹ lưỡng mới được, không phải chuyện mèo mã gà đồng mà quơ ngang hốt bứa. Ông
Tư Thiệt bên kinh Cộng Hòa muốn kết sui với tao mà ai dè bây để bụng thương nó
hồi nào không hay. Bởi vậy có con gái trong nhà như hủ mắm treo đầu giàn , cha
mẹ chưa biết , lối xóm hay hết rồi. Từ nay tao cấm, không được hẹn hò qua lại,
để tao điều tra kỹ gốc tích thằng nầy coi ra sao. Còn bà nữa, phải theo dõi sát
nó đó, có con gái lớn khổ lắm, không khéo thì.. thì… Ông tôi dọng dọng cây ba
toong trên nền đất cứng rồi đứng dậy, đi ra vườn, kết thúc buổi sát hạch đầu
tiên.
Cuộc hạch hỏi tuy không có kết quả nhưng xem chừng cô tôi yên
tâm được phần nào, vì chuyện tày trời của cô đã được ông bà biết đến, mừng nhất
là ông không tỏ thái độ quyết liệt cản ngăn. Ý kiến ông đưa ra tuy
mơ hồ nhưng vẫn có tia hy vọng. Cô Ut hỏi tôi như người bạn trang tuổi:
- Mầy nhắm ông Nội điều tra ai được Trâm?
- Con đâu có biết. Dượng Ut ở đây từ nhỏ mà còn hỏi han gì nữa.
Ở đây còn ai người Huế mà hỏi, không lẻ ông Nội ra Huế được sao?
Giọng cô tôi bổng mơ màng:
- Ờ. Phải có dịp hai cô cháu mình ra đó chơi một chuyến, nghe
nói cảnh ngòai đó đẹp lắm, có cầu Trường Tiền, sông Hương đẹp hơn con sông mình
nhiều, núi Ngự nên thơ nữa, nghe nói chỗ đó hồi xưa vua chúa ở nhiều vô
số kể.
Thấy cô vui, tôi cũng hùa theo:
- Con học Sử, Địa biết rành chỗ đó mà . Con còn biết mấy câu
hát ru nữa. Ờ! Để coi:” Anh về ngoài Huế lâu vô. Thắt rế tay bèo gởi lại cho em
“. Không biết thắt rế để lại đặng bán hay làm kỷ niệm cô Ut há?
Cô cười giòn:
- Cô đâu có biết ý tứ của người xưa ra sao. Chắc là thắt để kỷ
niệm tình yêu của họ chớ bán chác gì ba cái thứ rẻ rề đó. Ông bà mình hồi đó
cũng văn chương thâm trầm dễ sợ. Dượng Ut mầy viết thư cho tao chữ nghĩa, thơ
phú dữ lắm mà tao không nhớ nổi câu nào. Chắc cũng nhờ ba cái chữ nghĩa đó mà
xiêu lòng tao. Tao thiệt tình, thương chi người xứ khác cho khổ thân… Cô tôi
nhìn xa xăm rồi thở dài.
Tôi cám cảnh , an ủi:
- Bộ cô ngán ngẫm rồi hả? Có con cô đừng lo, khó gì khó con
cũng phụ với cô được mà. Nhưng con nghi ông Nội giả bộ
làm khó cho cô dượng đừng có lừng lên, chớ không chịu gả là ông nẹt
ra lửa liền.
Không ngờ câu lý sự đó làm cho cô tươi lên, cô cốc đầu tôi giọng
âu yếm:
- Mầy đúng là con của anh Ba. Ai dạy mà biết
rành rọt vậy con?
- Cô nhớ kỹ nha ! Nhỏ nầy cũng lớn xộn rồi, sắp lên cấp hai rồi
đó. Tính gì thì tính mau lên, không thôi con ra trường huyện học là cô mất cánh
tay mặt đó.
- Ờ. Để tao bàn mưu tính kế với bà Nội mầy coi.
Cô Ut ôm tôi vào lòng, hôn lấy hôn để trên mặt tôi như để cám
ơn đứa cháu trung thành.
***
Không biết cô Ut bàn với bà Nội chuyện gì mà mấy hôm sau, tôi
nghe bà nói với ông phải mời ông Hai vào kê toa hốt thuốc vì mưa lũ sắp tới.
Mùa lũ là mùa cả nhà sợ nhất. Ông lên cơn hen suốt đêm. Có đêm đang ngủ ngon,
tôi giật mình vì tiếng thở rền rền, nặng nhọc của ông. Ông ngồi dựa vào vách
mùng, gương mặt tím tái, đôi tròng mắt lờ đờ, trắng dã như người chết. Bà tôi
vuốt lấy vuốt để bộ ngực còm cỏi của ông, cô Ut thì soạn sành đống
thuốc Tây của dượng Ut đưa mà chỉ có cô mới biết thuốc nào uống với thuốc nào.
Những lúc ấy, nhìn ông uống thuốc tôi chợt ứa nước mắt, tôi sợ ông chết thì nhà
nầy không còn người đàn ông thân thuộc nào để lo lắng, rầy la và thương yêu
chúng tôi nữa.
Thầy thuốc được mời đến. Bắt mạch, kê toa xong, ông tôi đuổi
bà cháu ra ngoài rồi thì thầm to nhỏ gì với ông Hai mà tôi với cô Ut cố rình
nghe cũng không được. Cô Út lấy củi ra bữa còn tôi xuống
sông tắm. Nước mát làm tôi phấn chấn hẳn lên, tự nhiên tôi tin tưởng ông Hai sẽ
đem điều lành đến cho cô tôi.
Quả nhiên, hồi lâu sau tôi nghe ông Hai nói oang oang trên bờ
với cô Ut:
- Êm xuôi hết dồi! Ông già khó chịu một chút mà liều xong dồi.
Thằng ló tốt quá mà. Không lấy ló thì lấy ai chớ? Chúc mừng
hai lứa bây nhá, chừng nào lám cưới nhớ mời ngộ lớ.
Ông quày quả bước đi, cái dáng cao lớn lòng khòng. Cô tôi chạy
bươn theo để dẫn ông qua cầu nhưng ông lắc đầu, xua tay. Ông nói ông quen cây cầu
khỉ nầy rồi, dẫn dắt làm chi. Thấy ông qua được cầu rồi, cô tôi chạy ra sông,
nhảy ùm xuống nước, thách tôi lội đua có thưởng. Tôi vừa lội vừa tát nước vào mặt
cô, la lên:
- Bữa nay cô thắng lớn rồi! Nhớ mua kẹp với dép cho con đó.
Cô tôi cười, tiếng cười trong trẻo vang lên trên bến sông dưới
nắng ban mai khiến cho đám dừa nước vui lây, cũng xì xào trong gió.
***
Ông tôi ngày càng kiệt sức, chỉ ăn cháo qua bữa. Từ ngày đồng
ý gả cô , dượng Ut mới được tự do ra vào chăm sóc ông.Thuốc mới nào đặc trị bệnh
hen dượng đều mua cho ông , dượng còn tìm mua cả mật gấu trên rừng
cho ông uống. Có dượng, nhà tôi ấm áp hơn. Ông bà tôi giờ đây đã thật
sự thương dượng Ut như con đẻ. Còn tôi yên lòng cắp sách ra trường huyện, tiếp
tục học cho đến nơi đến chốn như ý ông tôi muốn.
Đám cưới cô Út diễn ra nhanh gọn vì không biết ông tôi đi lúc
nào. Đám cưới mà cô không được vui , nụ cười không tươi, đôi mắt to đen lúc đứng
trước bàn thờ làm lể gia tiên ngân ngấn nước, cô len lén chùi vào dạt áo rồi lầm
rầm khấn vái, còn tôi đi ra bờ cái dựa lưng vào gốc ô môi , tức tưởi một mình.
Bây giờ tôi mới biết mình đã mất cô Ut rồi. Từ nay, cô không còn là
của riêng tôi nữa, cô sẽ có con, sẽ nâng niu hôn hít con cô, có món ngon vật lạ
cô sẽ dành cho nó hết. Tôi mồ côi mẹ, ba không có nhà biết nương tựa vào ai
đây. Đã vậy, ông tôi còn đau bệnh triền miên, bà tôi già rồi, trăm sự
chỉ nhờ cô Ut, làm sao cô cáng đáng công việc và chia sẻ tình thương cho đều được.
Tôi khóc như mưa như gió và nghe tiếng khóc của mình hòa trong tiếng reo của
cánh đồng lúa đang trổ đòng.
Ông tôi mất sau ngày cưới của cô tôi một tháng. Ông được nằm
trong khu mộ gia đình. Ông mất, đêm không còn nghe tiếng ho liên hồi, tiếng thở
nặng nhọc rền rền, tiếng gọi lấy nước và tiếng chân bà tôi vội vã trên nền nhà.
Căn nhà trở nên yên ắng, lạnh lùng. Có khi đang ngủ, tôi
nghe tiếng ông gọi” Kim Hương! Sao không dậy học bài con!” Tôi nhớn nhác ngồi dậy,
nhìn qua chỗ ông , chỉ thấy có bà tôi nằm đó, tôi hõang hốt trùm kín mền lại,
ngón cái bấm ngón út để ma đừng nhập. Phải chi giờ nầy có cô Ut tôi đở khổ biết
bao nhiêu, nước mắt tôi tràn ra ràn rụa…
Nỗi buồn ông mất và nổi buồn cô Út có chồng cũng nguôi ngoay
theo niềm vui có bạn mới. Tôi ra trường huyện học đã ba tháng, quen được mấy bạn
mới ngoài thị trấn Cai Lậy, thêm con Bé Hai là bạn cũ , chúng tôi kết thành nhóm
học tập rất vui. Chiều thứ bảy nào tôi với nó cũng về nhà, có khi rủ thêm đám bạn
về chơi cho vui cửa vui nhà.
Nhà cửa, ruộng nương, từ ngày có dượng Ut được sắp xếp ngăn nắp
gọn gàng hơn. Những ngày rảnh việc, dượng tôi gom mấy đứa trẻ bị ghẻ lỡ trong
làng rữa ráy,băng bó cho chúng. Mặc chúng kêu gào, chửi bới vì đau đớn ông cũng
kiên trì làm cho xong việc mới thôi. Cô tôi cười, cô nói ông hay làm chuyện tào
lao, có ngày tụi nó đón đường đánh ông không còn cái răng ăn trầu. Dượng tôi ít
nói, hay cười. Từ lúc lấy vợ, dượng học nói giọng miền Tây, âm sắc nghe dễ hơn,
câu nói có pha trộn nhiều từ Nam bộ khiến bà tôi khen, bà tôi nói thằng đó chịu
thương, chịu khó mà lại sáng dạ.
***
Năm 1961, hòa với cuộc Đồng khởi ở Bến Tre, quê tôi nổi dậy
diệt ác phá kềm, xã rào ấp chiến đấu, đấp mô, đặt trái, gài chông. Thanh niên
làng, tốp theo du kích, tốp theo bộ đội chủ lực. Phụ nữ gánh vác chuyện nhà
thay cho đàn ông. Cơ sở trị bệnh của dượng tôi thành trạm y tế , dượng
phụ trách Dân y xã lo sức khỏe cho dân làng và cứu chữa thương binh
khi hữu sự.
Ngôi nhà lá đơn sơ ở đầu Vàm cống là nơi mang lại sức khoẻ ,
niềm tin yêu cho dân làng và du kích. Dượng tôi với cậu phụ việc làm
không ngơi tay. Từ mụt ghẻ hờm, ghẻ ngứa cho đến những bệnh trầm trọng nguy
nan, thậm chí đau đẻ đều do một tay dượng. Bệnh nào nặng, ngoài tầm tay thì dượng
sơ cứu rồi chuyễn ra huyện. Từ lúc bom đạn triệt phá thôn xóm, công việc của dượng
càng ngập đầu, chuyện nhà phó mặc một mình cô tôi. Tôi xin nghỉ học để phụ cô
nhưng bà không cho, bà bảo phải học cho giỏi sau nầy đỡ khổ tấm thân.
Năm 1964, làng tôi biến thành khu oanh kích tự do vì nơi đó
đã trở thành hậu phương vững chắc cho bộ đội chủ lực và các ban ngành khác. Các
trận càn quét của sư đòan 7, sư đòan 9 liên miên. Dượng tôi bị bọn Trâu Điên bắt
trong trận càn mùa lũ, do dượng phải điều hai thương binh đi sơ tán.
Chúng kéo dượng ra bờ gò trâm bầu ( chổ cô Ut đọc lá thư đẩm
nước trước đây), cột dượng vào gốc cây ô môi tra tấn. Những báng súng nện thình
thịch lên đầu lên lưng, tiếng hự hự đau đớn vang lên, máu thắm đỏ lưng dượng.
Tôi nghe tiếng thằng sĩ quan la lên:
- Giọng thằng nầy trọ trẹ chớ không phải dân ở đây. Gặp đầu đảng
rồi bây ơi! Tra nó coi mùa Thu hay mùa Đông vậy?
Tiếng đấm đá ịch đụi lại vang lên. Cô Ut đẩy thằng con hai tuổi
cho tôi, bươn vội xuống chiếc xuồng cột ngoài mé vách bơi ra giữa sông, la
làng:
- Làng xóm ơi! Chị Tư ,chị Năm ơi! Ra coi lính đánh chồng tôi
gần chết rồi bà con ơi! Chị Tư, chị Năm ơ…ơ…
Từ phía bên kia sông, ba bốn chiếc xuồng bơi ra rồi những chiếc
khác tiếp theo làm thành một dãy, tiếng la khóc, tiếng hét phẫn nộ vang lên:
- Đề nghị mấy ông thả thằng đó ra, nó là thầy thuốc của xóm nầy,
nó cứu người đó, tại sao giết nó?
- Tại sao giết thầy thuốc? Tại sao? Quân dã man! Quân giết
người..ười…
Một loạt súng nổ vang, tiếng quát :
Mấy bà tính làm loạn hả? Việt Cộng nói tiếng Bắc kỳ rõ ràng
không thấy sao còn binh vực? Nó còn ngang ngược chửi tụi tui nữa
kìa!
- Chồng của tôi mà mấy ông nói Việt Cộng nào? Tiếng cô
Ut rổn rảng nghe lạ lẩm và dử tợn. Mấy ông không tin, tôi trình giấy
cho coi. Bằng cấp Cán sự y tá của mấy ông còn ràng ràng đây ! Ảnh làm thầy thuốc
bao nhiêu năm nay, cứu dân ở đây ai mà không biết.
- Bắt người phải có chứng cớ, đụng ai bắt nấy, không ai là
thường dân hết hả?
- Mấy ông bắt nó, mấy ông giết tụi tui đi!
- Đả đảo bắt thầy thuốc, đánh đập thường dân vô tội! Đả đảo!
- Cả một vùng sông nước vang vang tiếng kêu la. Loạt súng nữa
tiếp theo, đạn rơi lủm bủm quanh khu vực xuồng của đám biểu tình. Thằng chỉ huy
chỉ cây gậy về phía mấy bà:
- Tôi hứa sẽ thả thằng nầy ngay sau khi thẩm định rõ nó là thầy
thuốc chính hiệu. Các bà giải tán đi! Tôi lấy danh dự hứa với dân Mỹ Đông đó.
Không tin thì thôi.Chị gì đó, đưa bằng cấp của chồng cho tôi làm cớ.
- Đừng đưa! Đừng tin họ!
- Không đưa thì ở tù, các bà đừng đổ thừa tôi không giữ lời hứa
nhen.
Bầy trực thăng đáp xuống ngoài cánh đồng, tên sĩ quan và đám
lính vội lôi dượng tôi đi, vừa đi chúng vừa bắn lại phía sau khiến cho đám xuồng
ghe và cô tôi đang bươn theo phải ngừng lại, lóng ngóng
giây lâu rồi phải quay mũi xuồng, ai về nhà nấy vì đám pháo ở bót kinh Mười Hai
đã bắt đầu đề-pa.
***
Dượng tôi bị giam ở khám Đường ( Mỹ Tho) , nơi ngày xưa ông Nội
đã từng ở đó. Không có dượng Ut, trạm y tế chưa chấn chỉnh được, xuống cấp
nghiêm trọng. Mỗi khi hữu sự, người làng thường nhắc dượng với bao luyến tiếc
ngậm ngùi. Cô tôi ngày một gầy héo bởi những gánh nặng chồng lên vai.Cô với tôi
thay phiên nhau đi thăm nuôi dượng, tôi tích cực viết nhiều lá đơn để
cô xin giảm án . Đôi lúc nhìn cô, tôi xót xa tự hỏi không biết sức vả đâu mà cô
kiên gan bền chí đến như vậy.
Tội nghiệp dượng tôi! Cũng vì thương cô, mến xứ sở quê làng của
cô mà lận đận lao đao đủ thứ chuyện. Người dưng, khác xứ mà sao sâu nặng với
nhau quá vậy, tôi cũng không hiểu. Chắc nhờ sự mặn nồng đó mà dượng tôi sớm được
ra tù, trở về bên Vàm cống thân yêu và nhận một trọng trách lớn hơn: Trưởng trạm
Dân y Huyện.
3/1/2005 Kim Quyên
3/1/2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét