Lịch sử là gì?
Một số khái niệm lịch sử
Khi nói đến lịch sử, theo giải thích đơn giản, lịch sử là những
gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Với ý này, lịch sử bao
trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính xác
và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử được rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra.
Định nghĩa ngắn gọn của Ts. Sue Peabody[1]: lịch sử là một câu chuyện chúng ta
nói chúng ta là ai.
Nhà bác học người La Mã Cicéron[2] (106-45 TCN) đưa ra quan điểm:“historia
magistra vitae” (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới “lux
veritatis” (ánh sáng của sự thật)[3]
Và Gs Hà Văn Tấn có viết, lịch sử là khách quan. Sự kiện
lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức chúng ta. Nhưng sự
nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác
nhau[4].
Theo Ts Trần Thị Bích Ngọc[5], các định nghĩa thường cũng chỉ đúng một
phần, lịch sử được hiểu theo 3 ý chính được các nhà nghiên cứu đồng ý:
- Việc diễn ra trong quá khứ: những sự kiện
(biến cố/ event) diễn ra trong quá khứ cho đến thời điểm hiện tại, không thể
thay đổi được, cố định trong không gian và thời gian, mang tính chất tuyệt đối
và khách quan.
- Ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ:
con người muốn nắm bắt quá khứ, diễn đạt theo sự kiện theo từ ngữ và giải thích
ý nghĩa của sự kiện, mang tính chất tương đối và chủ quan của người ghi lại bằng
những câu chuyện kể.
- Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong
quá khứ: cách làm hoặc quá trình tập hợp những sự việc diễn ra trong quá khứ
thành tài liệu cũng chính là câu chuyện kể đối với hiện tại.
Để hiểu lịch sử hoặc ngành sử học phải dựa vào cách viết sử của
những sử gia từ xưa đến nay. Vì cũng theo Ts Trần Thị Bích Ngọc giải
thích, kiến thức về lịch sử thường được xem là bao gồm cả hai, kiến thức về
những biến cố của quá khứ và những kỹ năng suy nghĩ và giải thích quá khứ[6].
Những cách viết sử của sử gia từ xưa đến nay
Người được nhắc đến đầu tiên là Herodotus[7] (sống vào thế kỷ V TCN), “cha đẻ của
sử học”, tác phẩm The Histories[8], ghi nhận những lời kể, câu chuyện nào
đáng tin cậy hay kém tin cậy. Ông đi đến nhiều nơi để xác minh những ghi nhận
tìm ra được câu chuyện lịch sử trung thực của vùng Địa Trung Hải, trong sách của
ông không có một ghi chép bình luận nào về các câu chuyện được nêu ra. Theo
cách này, lịch sử là câu chuyện kể, phương pháp kể lại câu chuyện được biết như
phương pháp đầu tiên trong viết sử, được nhiều nhà nghiên cứu đề cao vì cho rằng
sự kiện lịch sử mang tính chất khách quan nhất, trung thực nhất.
Trái với cách viết của Herodotus, Thucydides được xem là nhà
sử học khoa học đầu tiên vì ông bỏ qua yếu tố thần thánh trong các sự kiện lịch
sử, tác phẩm History of the Peloponnesian War[9] - kể lại cuộc chiến tranh giữa hai
thành bang Sparta và Athens. Như thế, ông trở thành người thiết lập yếu tố giải
thích cho sự kiện lịch sử, đưa ra nguyên sâu xa và trực tiếp đối với sự kiện lịch
sử.
Về sau, các nhà sử gia châu Âu thời Trung cổ, là những người
viết sử với mục đích giáo huấn, chủ yếu viết về lịch sử nhà thờ và các nhà cai
trị tại địa phương (lãnh chúa), các vị vua của các triều đại. Các sử gia này
xem việc diễn ra trong quá khứ như một định luật và viết sử chỉ ra bài học
trong quá khứ, việc chép sử chính là công việc để nêu gương cho nhân dân và đem
lại bài học cho nhà cầm quyền , thể hiện trong các tác phẩm History of the
Church (Eusebius of Caesarea), History of the Franks (Gregory of Tours)…. Như
thế, thường thì các sử gia chọn chép những sự kiện nào có lợi cho nhà cầm quyền
hoặc Giáo hội mà thôi.
Người đã đưa cách viết sử giải thích áp dụng vào những sự kiện
lịch sử hiện đại là Leopold von Ranke[10], nhà sử gia Đức thế kỷ XIX, cha đẻ nền sử
học hiện đại. Cũng theo Trần Thị Bích Ngọc, Ranke đã thiết lập nền tảng cho
cách viết sử sau này với việc nhấn mạnh nguồn tư liệu, chú trọng tài liệu lưu
trữ, những câu chuyện lịch sử (narrative history), phát triển lịch sử chính trị.
Ranke được nhiều người nhắc đến với nguyên tắc gây nhiều tranh cãi: “wie es eigentlich
gewes” (thể hiện những gì đã thực sự diễn ra), từ nguyên tắc đó, có ý kiến cho
rằng “sử gia chỉ nên đưa ra các sự kiện lịch sử và không kèm theo bất cứ
quan điểm cá nhân nào; và một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng ý của Ranke
là sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử và tìm ra tư tưởng phổ biến của thời
đại tác động lên những sự kiện này”[11]
Tiếp sau là trường phái Biên niên sử do Marc Bloch và Lucien
Febvre sáng lập năm 1929, lịch sử được hiểu là nghiên cứu về sự thay đổi
qua thời gian của bất cứ một xã hội nào được chọn để nghiên cứu[12]. Trước đó rất lâu, sử gia Trung Quốc,
Tư Mã Thiên (Sima Qian) (145 – 90 TCN) được xem là “cha đẻ sử học Trung Quốc”,
đã dùng cách viết biên niên để soạn tác phẩm Shiji (Những ghi chép của nhà sử học
vĩ đại), được biết đến với tên khác: Sử ký[13] chép lại những câu lịch sử Trung Quốc
theo thời gian, không có lời bình luận nào trong sách.
Bên cạnh cách viết Biên niên được nhiều nhà nghiên cứu cho là
quay lại đúng với tính chất lịch sử, một số sử gia Châu Âu chịu ảnh hưởng từ
trường phái Hậu hiện đại. Trường phái Hậu hiện đại được khởi xướng trong những
năm 1960 của thế kỷ XX, do những triết gia cũng là những nhà phê bình văn học,
lý thuyết văn học và sử gia như Roland Barthes (1915 – 1980), Michel Foucault
(1926 – 1984), Jean Francois Lyotard (1924 – 1998), Jacques Derrida (1930 –
2004), Jean Baudrillas (1929 – 2007), Julia Kristeva (1941 - )… khởi xướng. Chủ
nghĩa Hậu hiện đại là phản ứng quyết liệt chống lại chủ nghĩa duy nền tảng
(anti – foundationalism) hay tinh thần duy nền tảng. Lý thuyết hậu hiện đại là lý
thuyết phá hủy những chân lý nền tảng, tấn công các phương pháp truyền thống
(trong triết học, văn học, ngôn ngữ học, sử học, hội họa, kiến trúc…) hay đúng
hơn là lý thuyết chống lại các lý thuyết của các trường phái đi trước đó[14].
Trường phái Hậu hiện đại được vận dụng trong tất cả các lĩnh
vực khoa học xã hội, trong sử học, các sử gia chịu ảnh hưởng trường phái này đã
phản bác quan niệm lịch sử phải như một con đường tuyến tính, nghĩa là một thứ
biên niên sử theo lịch đại, bao gồm các sự kiện tất yếu, nhằm thuật lại một câu
chuyện có nghĩa… Họ phản bác lịch sử theo lý thuyết lớn, không có một lý thuyết
chung áp dụng cho tất cả mọi nơi, mọi thời kỳ. Theo họ, lịch sử địa phương
(theo nghĩa một vấn đề lịch sử của địa phương) hay chuyên luận về những vấn đề
lịch sử cụ thể nào đó … là chính xác và có thể vẽ lại rõ ràng những chi
tiết của các sự kiện đã xảy ra tại một vùng nào đó, trong khoảng thời gian nào
đó của quá khứ.
Một số sử gia nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam trong những
năm gần đây theo trường phái này như Li Tana, Philip Taylor, Shawn McHale,
Christian Appy … hướng cách tìm hiểu lịch sử theo phương pháp dân tộc ký
(ethnography) bao gồm các hoạt động phỏng vấn, đi điền dã … nhằm tập trung phân
tích sâu một sự kiện lịch sử, kết nối các sự kiện lịch sử của một vùng nào đó
nhằm đưa ra giải thích mới về những sự kiện này.
Tương ứng với các trường phái của các sử gia các nước, từ các
bộ sử của các nhà viết sử Việt Nam có thể liên hệ các sử gia Việt Nam với các
trường phái cho dễ nhớ và dễ hiểu.
Với cách viết lịch sử như những câu chuyện, có thể nhắc đến
Lê Quý Đôn với Phủ Biên tạp lục[15] hoàn thành vào năm 1776. Sách được
ông viết từ những ghi nhận khi đi qua các nơi trong trấn Thuận Hóa nhằm mục
đích: “cuốn sách nhỏ này âu cũng là để ghi nhớ những sự việc của chốn biên
ải thôi. Song, các bậc quân tử ở triều đình, nếu như có người nào đó không ra
khỏi nhà mà cũng muốn tra cứu sự tích ở nam thùy, tức là muốn biết được những
việc ở ngoài muôn dặm, thì cuốn tạp lục này cũng có thể cung ứng một phần nhàn
lãm vậy”[16]
Và, theo quan điểm sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử dựa
trên nguồn tư liệu, chú trọng tài liệu lưu trữ, học giả Tạ Chí Đại Trường được
xem là tiêu biểu của cách viết sử này. Trong phần bên lề của công trình Bài
sử khác cho Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường (2005:1) viết: Lịch sử chỉ là những
tiếp diễn của sự kiện mà không có cùng đích. Với quan điểm, là người muốn tìm
hiểu sử học nghiêm túc, khi viết một điều gì thì không phải chỉ cho người cầm
bút mà còn phải quan tâm đến người đọc, viết sử không chỉ là việc sắp xếp các sự
kiện lịch sử suốt cả ngàn năm mà đưa ra giải thích của những sai lầm của các
nhà viết sử trước, những điều đưa ra được xem là cái “khác”, làm “khác”
đi, làm “khác” đi thì những điều khó khăn phái nói thật không cùng, nhưng
làm khác đi không có nghĩa là vượt qua được những điều người trước đã gặp. Cho
nên dù sao cũng phải có những thỏa hợp ở mức độ nào đó đề cho “bài sử khác” vẫn
là bài sử Việt Nam (Tạ Chí Đại Trường, 2005: 7). Bài sử khác cho Việt Nam
của Tạ Chí Đại Trường là sự đối chiếu với những công trình sử học của các sử
quan thời phong kiến.
Cách viết sử của sử quan thời phong kiến là sự kết hợp hai
trường phái biên niên và giáo huấn. Số lượng công trình nhiều nhất và được xem
là “tư liệu gốc” cho nghiên cứu thuộc về các bộ sử của Quốc sử quán nhà Nguyễn
như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ…, được xem là sự kế thừa
của các bộ sử Đại Việt sử kí, Đại Việt sử kí toàn thư…. Những dòng đầu tiên
trong Đại Việt sử ký tục biên của Phạm Công Trứ giải thích cho sự mẫu mực sử học
phong kiến: “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc.
Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời. Mà sự ghi chép của sử giữ
nghị luận rất nghiêm, tô điểm việc chính trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt
trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết
thì có thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị
không phải là ít. Cho nên mới làm ra quốc sử”[17]
Còn theo cách viết biên niên, một số công trình của các nhà
nghiên cứu gần đây đã được xuất bản như: Việt Nam – những sự kiện lịch sử[18] (Viện Sử học), Biên niên sử Việt
Nam[19] (Đỗ Đức Hùng)… được soạn thảo để hệ
thống các sự kiện lịch sử Việt Nam dù cách viết khác hơn, không phải tập hợp những
câu chuyện mà chỉ liệt kê những sự kiện lịch sử theo thời gian giúp người đọc
hoặc nghiên cứu có thể tra cứu hoặc đối chiếu các sự kiện lịch sử một cách
nhanh chóng.
Một cách viết sử nâng lên thành trường phái, được vận dụng
nhiều ở Việt Nam là trường phái Marxist dựa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Karl Marx. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx chú trọng quan hệ giữa con người
với quá trình sản xuất, tìm ra hệ thống những quan hệ sản suất tồn tại mối quan
hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Marx xem lịch sử “là bản thân hiện thực khách quan, tồn tại và phát triển
theo một logic, không phụ thuộc ý thức của con người”[20]. Do đó, phương pháp nghiên cứu theo
chủ nghĩa Marx là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, xem hai phương pháp
này là hai mặt biểu hiện biện chứng. Theo đó, sử luận Marxist được xem là cung
cấp nền tảng vững chắc cho lịch sử xã hội.
Sử gia Việt Nam theo hai phương pháp này là chủ yếu, theo hướng
phân tích biện chứng sự hình thành xã hội, phân tích vai trò của các giai cấp…
Tuy nhiên, lịch sử gắn liền với chính trị, ảnh hưởng yếu tố chính trị chi phối
cách viết sử của một số nhà sử học Việt Nam, có thể nhìn thấy rõ nhất trong
nghiên cứu của Giáo sư Trần Văn Giàu[21] và Gs Đinh Xuân Lâm[22], nguồn sử liệu lớn trong những tác phẩm
của ông là vô cùng lớn nhưng ông cũng cho thấy cách viết theo khuynh hướng
chính trị rõ nét khi đưa ra cách nhìn nhận đối với phong kiến. Cũng theo quan
điểm Marxist, Gs Đào Duy Anh được xem là người coi trọng việc giám định sử liệu.
Trong nghiên cứu sử học, đối với ông, "phải chuyên tâm nghiên cứu lịch sử
vì chỉ có hiểu biết đầy đủ lịch sử dân tộc thì mới có thể chắt lọc ra đâu là những
yếu tố truyền thống, đâu là những yếu tố ngoại lai"[23].
Một trường hợp đặc biệt trong sử học Việt Nam hiện đại, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp – người được biết đến về tài quân sự, nhà sử học đồng thời cũng
là nhân vật lịch sử. Lịch sử được ông viết lại bởi những hồi ký, ký sự, những
bài viết giá trị tái hiện thời kỳ bản thân ông trải qua. Theo Gs Phan Huy
Lê, Đại tướng vừa làm sử, vừa viết sử, một sự kết hợp hiếm có của tài năng
quân sự với tài năng sử học[24]. Qua các bài viết của Võ
Nguyên Giáp, cách viết của ông theo trường phái đưa giải thích vào sự kiện,
phân tích nguyên nhân đối với sự kiện.
Gần đây, cùng theo hướng nghiên cứu lịch sử địa phương theo
trường phái Hậu hiện đại, các nhà sử học Việt Nam hiện nay đang chú trọng đến
việc định hướng cho các công trình nghiên cứu mới, chọn một vấn đề hoặc một địa
phương nào đó để tìm hiểu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu lịch sử địa phương đã được
một số người lựa chọn cách đây rất lâu như Nguyễn Văn Hầu (viết về vùng đất An
Giang), Vương Hồng Sển (viết về Gia Định), Sơn Nam (tìm hiểu về lịch sử vùng đất
Nam Bộ, được xem là người am hiểu về vùng đất này)…
Qua việc tìm hiểu ban đầu những cách viết sử để hiểu quan niệm
lịch sử của những nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam, có thể nhận ra mỗi người
nghiên cứu có thể lựa chọn một cách viết sử riêng theo trường phái riêng, có thể
loại bỏ sự áp đặt vô hình mà tôi đã từng gặp đó là nghiên cứu lịch sử chỉ theo
phương pháp lịch sử và phương pháp logic mà thực chất đó là hai phương pháp thuộc
trường phái Marxist. Có thể thấy, những nhà nghiên cứu lịch sử có thể chọn chủ
đề lịch sử nhỏ mang tính chất địa phương để nghiên cứu không cần theo chủ đề
bao quát và chọn phương pháp điền dã, phỏng vấn, mô tả để tập trung vào những sự
kiện một vùng nào đó cũng có thể xem như thu lượm những câu chuyện của quá khứ ở
địa phương đó hoặc kể lại chính câu chuyện của người viết trong quá trình tìm
hiểu. Đó chính là khuynh hướng viết sử theo trường phái Hậu hiện đại mà những
nhà nghiên cứu sử Việt Nam đang tập trung chú ý đến.
Chú thích:
[1] Tiến sĩ Sue Peabody, Khoa Lịch
sử - Đại học Washington State Vancouver, Nguyên văn: “History is a story we tell ourselves who we
are”, theo: http://directory.vancouver.wsu.edu/
[2] Tên ông được phiên âm sang tiếng
Anh là Cicero, xem thêm trên trang: http://en.wikipedia.org/
[3] Dẫn theo Hà Văn Tấn (2007), Một
số vấn đề lý luận sử học, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr.31
[4] Hà Văn Tấn (2007), Một số vấn đề
lý luận sử học, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
[5] Trần Thị Bích Ngọc (2007), Lịch
sử và phương pháp lịch sử, Tạp chí Khoa học xã hội, (số 9-10), tr 59 - 80
[6] Trần Thị Bích Ngọc (2007), Lịch
sử và phương pháp lịch sử, Tạp chí Khoa học xã hội, (số 9-10), tr 59 - 80
[7] Xem thêm tiểu sử Herodotus trên
trang: http://en.wikipedia.org/
[8] Herodotus of
Halicarnassus, The Histories, đọc thêm trên trang:
http://books.google.com.vn/
[9] Thucydides, History of the
Peloponnesian War, đọc thêm trên trang:
http://books.google.com.vn/
[10] Leopold von Ranke, xem thêm
trên trang: http://en.wikipedia.org/
[11] Trần Thị Bích Ngọc (2007), Lịch
sử và phương pháp lịch sử, Tạp chí Khoa học xã hội, (số 9-10), tr. 65
[12] Trần Thị Bích Ngọc (2007), Lịch
sử và phương pháp lịch sử, Tạp chí Khoa học xã hội, (số 9-10), tr. 67
[13] Theo: http://en.wikipedia.org/wiki/History và http://vi.wikipedia.org/
[14] Trần Thị Bích Ngọc (2007), Lịch
sử và phương pháp lịch sử, Tạp chí Khoa học xã hội, (số 9-10), tr. 73
[15] Lê Quý Đôn, thông tin xem thêm
trên: http://vi.wikipedia.org/
Phủ biên tạp lục, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
http://vi.wikipedia.org/
[16] Lê Quý Đôn (2007), Phủ Biên Tạp
Lục (tập 2, phần 1),
Nguyễn Khắc Thuần (dịch và hiệu đính), NXB Giáo Dục, tr.15
[17] Dẫn theo Hà Văn Tấn (2007), Một
số vấn đề lý luận sử học,
NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr.31
[18] Viện Sử học, Những sự kiện lịch
sử Việt Nam, NXB Giáo Dục
[19] Đỗ Đức Hùng (2001), Biên niên sử
Việt Nam, NXB Thanh niên
Đặng Duy Phúc (2009), Việt Nam biên niên sử,
NXB Hà Nội
[20] Văn Tạo (1995), Phương pháp lịch
sử và phương pháp logic, Viện Sử học Việt Nam, tr.27
[21] Gs sử học Trần Văn Giàu, xem
thêm: http://vi.wikipedia.org/
[22] Gs sử học Đinh Xuân Lâm, xem
thêm: http://vi.wikipedia.org/
[23] Trích theo Phan Huy Lê, Gs Đào Duy Anh,
nhà sử học và văn hóa lớn, xem thêm trên trang:
http://100years.vnu.edu.vn/
[24] Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
(2010),
Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Lời nói đầu, xem trên trang:
http://www.vnmilitaryhistory.net/.
28/5/2012Kim Oanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét