Du lịch Đông Âu - Hungary
Chuyến du lịch Đông Âu (Estern Europe) gồm các quốc gia
Poland, Hungary, Austria, Czech, và Germany là một chuyến du lịch đầy hào hứng
và rất hay. Hình ảnh và kỷ niệm của từng quốc gia đi thăm nằm trong những bài
viết riêng biệt.
Bài viết này nói về Budapest, Hungary. Những địa danh được viết bằng Việt, Anh
ngữ hay từ ngữ của quốc gia thăm viếng. Trừ những ghi chú về nguồn gốc tấm
hình, những hình ảnh còn lại thuộc bộ hình riêng của người viết.Budapest- HungaryHungary hay Cộng hòa Hungary (tiếng Hungary: Magyar
Köztársaság) hay Hung Gia Lợi là một quốc gia thuộc khu vực Trung Âu. Nước
này tiếp giáp với Slovakia về phía bắc, Austria về phía tây, Slovenia về phía
tây nam, Croatia và Serbia về phía nam, Romania về phía đông và Ukraine về phía
đông bắc. Thành phố Budapest là thủ đô của Hungary. Ngôn ngữ chính thức là tiếng
Hungary, hay còn gọi là tiếng Magyar.Tiếp sau thời kỳ Celtic (sau năm 450 TCN) và thời kỳ La Mã (9
SCN - thế kỷ 4), Hungary đã được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 9 dưới sự lãnh đạo
của một thủ lĩnh người Magyar tên là Ápád. Năm 1000, người chắt trai của Arpád
là vua István I đã đăng quang với chiếc vương miện được Giáo hoàng Sylvester II
gửi đến từ La Mã. Trong suốt 946 năm sau đó, Vương quốc Hungary đã tồn tại và
phát triển qua nhiều thời kỳ và được coi là một trong những trung tâm văn hóa
quan trọng của phương Tây. Hungary có rất nhiều quyền lực cho đến cuối cuộc Đại
Chiến I thì Hung mất mát rất nhiều lãnh thổ. Quốc vương sau đó được chuyển sang
thời kỳ Cộng sản từ năm 1947. Hungary chính thức trở thành một quốc gia cộng sản
vào năm 1949, khi nền Đệ nhị Cộng hòa bị chấm dứt, Đảng Cộng sản lên cầm quyền
và đổi tên nước thành Cộng hòa Nhân dân Hungary. Cuộc Cách mạng năm 1956 chống lại chính quyền Cộng Hòa Nhân Dân từ 23 tháng 10 đến 10 tháng 11 năm 1956 thất bại và dân chúng bị cấm
nhắc đến cuộc Cách mạng này trong hơn 30 năm. Năm 1989 bước tiến mở biên giới với Áo vào năm 1989 dẫn đến sự
sụp đổ Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, và Đệ Tam Cộng hòa Hungary chính thức ra đời
ngày 23 tháng 10 năm 1989.Ghi chú. Chữ Đông Âu trong những chuyến du lịch mang tên
du lịch Đông Âu chỉ có nghĩa là những nước phía đông của Nga. Tất cả những nước
gọi chung là Đông Âu này đều thuộc Trung Âu. Bài viết này chỉ thu gọn trong những
địa danh thăm viếng ngắn ngủi.Hình sông Danube chụp từ thành Fishermen của Buda nhìn xuống Buda bên phía tây là vùng đất cao nguyên với đồi núi, thành
quách, cung điện của nhiều triều đại vua chúa ngày xưa. Nếu kể dọc theo từ Bắc
xuống nam thì bên Buda có những địa điểm thăm viếng như Fishermen's Bastion,
Thánh đường Matthias, nhà thờ St Michael, viện bảo tàng Dược Arany Sas,
Royal Palace, tượng đài thánh Gellért, đồi Gellért, Citadel, Tượng Nữ Thần Tự
do, khách sạn có nhà tắm nổi tiếng Gellert, v.v...Bên đông của Danube là vùng bình nguyên thành phố Pest với
nhiều tòa nhà cổ kính thời Trung cổ. Theo lịch sử thì những bộ lạc đầu tiên của
Hungary đã định cư tại vùng đồng bằng phía Đông sông Danube, sau đó họ di cư
và khai phá dựng nghiệp bên phía Tây do địa thế đồi núi bảo đảm sự vững bền
và an toàn hơn cho Hungary. Vào thế kỷ thứ 13, Buda trở thành nơi tọa lạc của
triều đình Hungry. Và thành phố Pest trở thành nơi của dân giả. Buda và Pest được
nối với nhau bằng nhiều cầu lưu thông và một cây cầu dành cho xe điện.Và nếu
cũng kể từ bắc đi xuôi nam dọc theo Danube bắt đầu từ cầu Margaret thì bên
thành Pest có Tòa nhà Quốc hội, quảng trường tượng đài Kossuth, tượng Imre Nagy
đứng giữa cầu trước toà nhà Quốc hội, bức đá đen Ngọn lửa Cách mạng và vô số
dinh thự huy hoàng dọc theo bờ sông, có nhà thờ Belvarosi Plebaniatemplom
ngay chân cầu Elizabeth bên phía Pest, trường Đại Học Kinh tế, v.v...Budapest là thành phố có chứa nhiều di sản văn hóa thế
giới được UNESCO công nhận. Một con đường chính có vô số cửa tiệm nổi tiếng là
đuờng Andrássy, tận cùng con đường Andrássy là Quảng trường Anh Hùng. Quảng trường
Anh Hùng nằm giữa hai tòa nhà văn hóa là Art Gallery và Museum of Fine
Arts. Tượng đài Anh Hùng gồm một đài kỷ niệm Thiên Niên Kỷ và hai
đài cong cong nửa vòng cung bao bọc phía với nhiều tượng danh nhân trong lịch sử
Hungary.Budapest, bên thành Pest có ba nhà ga xe điện, trong đó có
hai nhà ga cổ rất đẹp, nổi tiếng hơn là nhà ga phía Tây (West Station/ Nyugati
Pályaudvar), nhà ga xe lửa này do công ty Eiffel ở Paris, Pháp vẽ kiểu và xây cất
vào năm 1877. Hai thành phố Buda và Pest nối liền nhau bằng rất nhiều cầu.
Những cây cầu nổi tiếng nhất nối Buda và Pest với nhau là cầu Xích (Chain
bridge) hay còn gọi là cầu Sư tử, cầu Elizabeth (cầu trắng) và cầu Tự do
Liberty (mầu xanh lá cây đậm). Ngoài ra còn tuyến tàu chạy ngầm dưới đất (dưới
đại lộ chính Andrássy) khởi đầu hoạt động vào năm 1896, vẫn hoạt động cho đến
ngày nay.Tuyến tàu chạy ngầm này nối liền hai thành qua sông Danube từ
quảng trường Batthyány gần nhà thờ St Ann (thành Buda) sang quảng trưòng
Kossuth (tòa Quốc hội bên thành Pest).Một chút chi tiết về những địa danh và hình ảnh.1. Nhà thờ Matthias đã hiện diện từ năm 1255, nhưng trải
qua nhiều thế kỷ cho đến tận 1895-1903 mới hoàn tất như hiện tại. Nhà thờ
mang tên Vua Matthias Corvinus, nhà vua có danh lớn nhất của Hungary. Kiểu vẽ
và mái ngói có mầu sắc rực rỡ dạng hình thoi do Frigyes Schulek thực hiện. Một
tòa tháp chuông mang tên Matthias cao 60m cũng đuợc vua Matthias cho dựng lên
trên đỉnh có tượng trưng coat of arms là một con quạ mỏ ngậm một nhẫn vàng.2. Thành của Những người đánh cá (Fishermen's
Bastion/Halászbástya) chỉ bắt đầu xây và hoàn tất vào thời gian năm 1895-1902.
Thành Fishermen cũng do kiến trúc sư Frigyes Schulek thực hiện. Mang tiếng là
thành có mục đích để phòng thủ nhưng nơi này thật ra chỉ có lý do trang hoàng
mà thôi. Thành có 7 tòa tháp tượng trưng cho 7 thủ lĩnh bộ lạc đã có công lập
quốc khi họ quyết định lập nghiệp bên bờ sông Danube trong vùng Lòng chảo
Carpathian vào năm 896. Từ những tòa tháp nhỏ, sân lát và nhiều cầu thang này
nhìn xuống sông Danube và thành Pest bên kia bờ sông với nhiều tòa nhà nhất
là tòa nhà Parliament rất đẹp. Phía dưới thành là một hệ thống hang động ngầm
dài 12 cây số.Fishermen's Bastion4. Dược phòng cổ xưa Arany Sas (Golden Eagle), đây
là một trong những dược phòng cổ nhất của khu vực Castle (Castle District), mở
cửa từ năm 1745, chứa đồ đạc nguyên thủy cổ, sự tích dược phòng và những dụng cụ
bào chế ngày xưa (photo by Torok Ferenc).5. Tượng đài thánh GellértTượng đài Gellért nhìn ban đêm rất đẹp, nằm thẳng từ cầu Elizabeth nhìn lên gần
đỉnh đồi Gellért. Tượng do Gyula Jankovits kiến trúc và dựng vào năm 1904 để
vinh danh thánh Gellért, vị thánh đã có công truyền Kitô giáo cho người Magyars
từ thế kỷ thứ X. Dưới chân tượng có một thác nước nhân tạo. Chuyện kể rằng
Gellért đã bị những người không tín ngưỡng bắt nhốt vào một thùng tròn (barrel)
rồi cho đẩy lăn xuống đồi để rơi xuống sông Danube. 6. Đồi Gellért có Citadella và Tượng
đài Nữ thần Tự doTượng đài Tự Do (Szabadsag Szobor) nằm trên đỉnh đồi Gellért do Zsigmond
Kisfaludi dựng vào năm 1947 để kỷ niệm ngày bại trận của Đức Quốc Xã. Tượng cao
14 m cho thấy Nữ Thần Tự do trong thế đứng vươn hai tay cao cầm một lá cọ dài.
Và Citadel (Citadella) nằm trên đỉnh đồi hiện nay có bảo tàng viện
ngoài trời và nhà hàng cùng cả một khách sạn.
7. Nhà Quốc Hội (Parliament)The Hungarian Parliament Building (Hungarian: Országház), là một
trong những nhà Quốc hội nổi tiếng nhất và lớn thứ hai của Âu Châu Tòa nhà này,
khởi sự xây cất từ năm 1885, đuợc khánh thành kỷ niệm 1000 năm của Hungary
(1896) nhưng phải đến năm 1904 mới hoàn tất, nằm ở quảng trường Lajos Kossuth,
bên phía đông bờ sông Danube. Tòa nhà, xây cất kiểu Gothic giống như điện
Westminster của London, trải rộng 268 m chiều ngang, 123 m bề sâu và cao 96 m.
Con số 96 m kỷ niệm một ngàn năm của Hung (1896) và chiến thắng lập quốc
của triều đại Hungary vào năm 896. Tòa nhà này là một trong hai tòa nhà
cao nhất của Hung, tòa thứ hai là Đại Thánh đuờng Saint Stephen. Parliament nhìn ra sông DanubeTheo luật Hungary thì không một cao ốc nào được phép xây cất
cao hơn 96 m của hai địa điểm lịch sử này. Mặt tiền của Parliament nhìn ra sông
Danube, nhưng cửa chính vào Quốc hội nằm ở mặt trong đối diện quảng trường
Lajos Kossuth. Trước Quốc hội xế bên phải có một bức đá màu đen dựng lên vào
năm 1996 để kỷ niệm 40 năm Ngọn lửa Cách Mạng 1956 của Hungary (Flame of
Revolution). Và cũng trong quảng trường này có tượng kỷ niệm Kossuth và tượng
Francis II Rákóczi cưỡi ngựa. Bên hông Quốc hội có tượng nhà thơ nổi tiếng người
Hung Attila József đang ngồi như ông đã kể trong bài thơ By the Danube.
Không xa đó là Quảng trường Martyrs (Vértanúk tere) với tượng Imre Nagy
(1896-1958) đứng trên cầu nhìn sang Quốc hội.Tượng Imre Nagy tại Vértanúk tere (Martyrs' square) nhìn sang
tòa Quốc HộiNhững cây cầu nổi tiếng nối liền Buda với Pest. Cầu Chain (Széchenyi lánchíd). Cây cầu đầu tiên nối liền Buda
và Pest là cây cầu treo Xích Széchenyi khánh thành vào năm 1849. Cầu
bắt đầu từ thành Pest ở công trường Roosevelt cạnh trường đại học Khoa học
và đi qua sông Danube đến công trường Adam Clark gần mốc có tấm đá điêu
khắc Zero Kilometer và toa kéo máy (funicular) đưa lên đồi Castle. Cầu Xích đuợc
đặt tên theo István Széchenyi, người đã quyết chí dựng một cây cầu qua sông
Danube. Cầu do nhà kỹ sư người Anh William Tierney Clark thiết kế với sự hợp
tác của kỹ sư người Scott tên Adam Clark (trùng họ nhưng không liên hệ). Cầu
này mang những đặc tính, nhưng trên bình diện lớn hơn, của cây cầu Marlow bắc
ngang sông Thames ở Marlow, England-một cây cầu của chính W.T. Clark thiết kế.
Hai đôi sư sử ở hai chân cầu được thêm vào vào năm 1852. Trải qua nhiều thăng
trầm biến đổi, cầu được mang tên cầu Xích từ năm 1898. Cầu bị hư hại nhiều qua
hai đại chiến, nhưng sau cùng đã được tu bổ, xây dựng lại vào năm 1947 và lưu
thông trở lại vào năm 1949. Adam Clark cũng cho đào một đường hầm dưới đồi
Castle để cho tiện viện giao thông. Con đường hầm dưới đồi Castle dài bằng đúng
như chiều dài của cây cầu Xích.Đường hầm dưới Castle (photo Internet)Vì khúc sông Danube này quá rộng nên cần phải xây một cầu
treo. Hai cột vòm bắc ngang sông chịu đựng cho cây cầu sắt này nặng gần 5,200 tấn.
Cầu Xích dài 275 m, rộng 16 m. Hai cặp sư tử nằm nhìn thẳng vào hai thành phố
trấn giữ hai đầu cầu.Theo truyền thuyết thì nhà điêu khắc Marschalko János, người
dựng hai cặp sư tử này đã cho tạc tượng sư tử không nhìn thấy lưỡi. Khi bị một
người học nghề tìm tòi và chất vấn và rồi mọi người bàn tán xôn xao về sư tử
không lưỡi thì János đã phải nghiên cứu lại kỹ lưỡng và trả lời qua một cuộc
đánh cá rằng nếu ai có thể thấy lưỡi của một chú sư tử ngồi trong thế mà János
tạc thì János sẽ thua và chấp nhận là tượng có khuyết điểm, Thế rồi quả thật là
không ai có thể thấy lưỡi sư tử khi nằm và mở miệng như thế nên Járos đã thắng
cuộc. Truyền thuyết vẫn không hề tắt và có khi còn được kể như Jároz đã quá phiền
muộn nên nhảy từ trên cầu xuống sông Danube tự tử. Lẽ dĩ nhiên là sư tử có lưỡi
chứ, và họ nói rằng phải leo lên và nhìn từ trên đầu sư tử xuống!.
Cầu Chain Széchenyi |
Cầu Margaret (Margit híd) là cây cầu cổ thứ hai nối liền
Bud và Pest sau cây cầu Xích. Cầu do hãng thầu có kỹ sư người Pháp Ernest Goüin
xây dựng vào khoảng giữa 1872-1876 (hơn 20 năm sau khi khánh thành cầu Xích). Cầu
này có dạng chữ Y mở rộng 165 độ, có phần giữa nối vào đảo Margaret. Cầu dài
hơn 637 m, rộng 25 m. Trong đại chiến thứ II, cầu bị quân đội Đức phá hủy nặng
nề vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945. Cầu được xây cất lại vào năm 1948. Những
cột chân cầu có gắn hình tượng điêu khác mang từ Pháp sang.
Cầu Margaret (hình internet) |
Đảo Margaret, một đảo nhỏ nằm giữa giòng sông Danube thời xưa
là nơi săn bắn của vua chúa. Vào thế kỷ thứ 13, Hungary bị quân Mongols tấn
công nhiều và thiệt hại nặng nề, vua Béla IV bèn cho xây một tu viện cho các bà
phước trên đảo và có lời nguyện là nếu nhà vua có thể xây dựng lại được sứ sở
đã bị tàn phá bởi Mongols thì ông sẽ gửi con gái vào tu viện. Mặc dù sau đó
Mongols tự động rút lui và Béla IV đã có thể gây dựng lại đất nước, nhưng để giữ
trọn lời nguyện, Béla IV đã gửi công chúa Margaret lúc đó mới 11 tuổi vào tu viện,
và từ đó đảo mang tên vị nữ tu Margeret đã sống suốt đời trên đảo.
Cầu Elisabeth (Erzsébet híd) là cây cầu mới hơn nối liền
Buda và Pest qua sông Danube. Cầu dài 290 m, mang tên Hoàng hậu Elizabeth của
Austria-Hungary, bà là người đã bị ám sát chết năm 1898.
Cầu Liberty (Szabadság híd) hay cầu Freedom là cây cầu cổ
thứ ba nối liền Buda với Pest. Cây cầu này là cây cầu ở phía nam của Trung tâm
thành phố. Cầu xây cất vào khoảng năm 1894-1896. Cầu dài hơn 333 m, rộng 20m,
Trên đỉnh bốn trụ sắt của cầu có tượng đồng hình con chim Turul, một loại chim
ưng trong thần thoại Hungary.
Cầu Liberty
Quảng trường Anh Hùng
Hősök tere ("Heroes' Square") Quảng trường Anh
Hùng là một quảng trường quan trọng của Budapest với nhiều hàm xúc chính trị và
lịch sử. Nó nằm cuối đại lộ Andrássy cạnh Công viên đô thị (City Park).
Quảng trường Anh Hùng nằm giữa hai tòa nhà văn hóa là Hall of
Art và Museum of Fine Arts. Tượng đài Anh Hùng gồm một đài kỷ niệm Thiên Niên Kỷ
(Millennium Memorial) và hai đài cong nửa vòng cung bao bọc phía sau với nhiều
tượng danh nhân trong lịch sử Hungary.
Tượng đài Thiên Niên Kỷ bắt đầu xây từ năm 1896 kỷ niệm
1000 năm của Hungary nhưng mãi đến năm 1900 mới hoàn tất.
Phía trước cột Thiên Niên Kỷ là một tấm bia đề chữ "Để kỷ
niệm những vị anh hùng đã hy sinh cho Tự Do Dân Tộc và Độc Lập Quốc Gia".
Sau tấm bia là cột trên đỉnh cột là tượng thượng đẳng Thiên sứ (archangel)
Gabriel tay phải cầm Vương miện của vị vua đầu tiên của Hungary là Saint
Stephen (István), tay trái cầm một chữ thập hai thanh ngang Tông đồ giáo chỉ
(two barred apostolic cross), một biểu tượng do Đức Giáo Hoàng Sylvester II đã
ban cho vua Stephen để ghi nhận công ơn của vua Stephen đã nỗ lực truyền bá
Thiên chúa giáo đến người dân Hung. Chân cột là tượng của bẩy lãnh tụ của bẩy bộ
lạc Magyar đã hướng dẫn dân Hung đến lập nghiệp ở vùng Lòng chậu Carpathian.
Người đứng giữa dẫn đầu là Arpád, cha đẻ của quốc gia Hungary.
Hòa bình
Trên đỉnh vòng cung dẫy cột bên trái, phía ngoài là tượng một
người đàn ông cầm một lưỡi hái (scythe) và một người đàn bà đang reo hạt tượng
trưng cho Lao động và Thịnh vượng. Phía đối diện thì có người đàn ông cầm một bức
tượng và người đàn bà cầm một lá cọ tượng trưng cho Kiến Thức và Vinh Quang.
Trên đỉnh phía bên trong của hai dẫy tượng, bên trái có người đàn ông lái một
xe ngựa dùng con Rắn như một cái roi, tượng trưng cho Chiến tranh, và bên phải
hình tượng người đàn bà cầm lá cọ biểu hiệu cho Hòa bình.
Lao động-Thịnh Vượng-Chiến tranh---Hòa bình-Kiến
Thức-Vinh Quang
Trong số những lãnh tụ có tên trên hai dẫy cột này phải kể đến
Lajos Kossuth ở phía ngoài cùng bên dẫy bên phải. Kossuth là luật gia, chính trị
gia, Tổng thống Hungary năm 1849; ông rất nổi tiếng trong việc tranh đấu
cho Tự do của Hungary; ông có tên đường, tượng đài tại quảng trường Kossuth,
Budapest và nhiều thành phố khác của Hungary và ngay cả bên Mỹ (New York City,
NY, USA).
Heroes' Square
Budapest có ba trạm xe điện. Lớn nhất là West
Station/ Nyugati Pályaudvar). Nhà ga này cấu trúc với kính và sắt, do August de
Serres và công ty Eiffel của Pháp (công ty đã vẽ Eiffel Tower) vẽ kiểu và xây cất
từ năm 1874 đến 1877. Tại nhà ga này đặc biệt có nhà hàng McDonalds' rất rộng
chứa được 250 chỗ ngồi với trang trí Tân nghệ thuật trong một ngôi nhà kiến
trúc rất cổ giả.
Nếu nhắc đến nhà thờ thì nổi tiếng nhất ở Budapest phải kể đến Đại
Giáo đường St Stephen Đệ Nhất của Hungary với Bàn tay phải của thánh St
Stephen. Giống như tòa nhà Quốc hội, Đại Giáo đường này cũng có chiều cao
96m. Nhà thờ bắt đầy xây từ năm 1851 và hoàn tất vào năm 1905.
Phải mất hơn 50 năm và ba nhà kiến trúc sư mới hoàn tất nổi Đại
Giáo đường này. Trong thời gian xây cất đã có nhiều rủi ro gây trở ngại việc
hoàn tất. Năm 1845 József Hild bắt đầu vẽ kiểu nhưng vì cuộc chiến tranh
1848/49 nên đến năm 1851 mới khởi sự. Sau khi Hild chết thì Miklós Ybl đảm
trách việc xây cất. Năm 1868 tòa vòm sụp và Ybl phải bắt đầu lại. Ybl chết năm
1891 và József Krauser là người thứ ba đảm trách việc xây cất. Sau cùng Đại
Giáo đường cũng được hoàn tất vào năm 1905/06. Trong Đệ Nhị Thế Chiến, nhà thờ
bị hư hại nặng. Việc tu sửa được bắt đầu vào những năm 1980s và mới hoàn tất gần
đây. Nếu đứng trên lầu hai của Giáo đường thì có thể nhìn thành phố Budapest
rõ. Trên tòa tháp bên phải có cái chuông rất lớn nặng trên 9 tons.
Ngoài ngày lễ Quốc Khánh 23 tháng 10 hàng năm, ngày lễ St
Stephen 20 tháng Tám hàng năm cũng được coi như là một ngày lễ chính thức quan
trọng của Hungary kể từ năm 1771 và đuợc coi như là một ngày Quốc khánh kỷ niệm
vị vua lập quốc Hungary Thánh Stephen hay Thánh István Đệ nhất.
Thánh Stephen, khi chào đời mang tênVajk, đã được làm lễ rửa
tội khi lên mười và mang tên Latin là "Stephanus" (Hungary:
"István"). Sau khi Stephen chiến thắng và thống nhất đuợc các bộ lạc,
ông trở nên vị vua đầu tiên của Hungary. Đức Giáo Hoàng Sylvester II đã trao tặng
ông vương miện để cảm ơn ông đã truyền bá Thiên chúa giáo. Sau khi Stephen chết
và đến năm 1083, Đức Giáo Hoàng Gregory VII đã tuyên danh ông hiển thánh và từ
đó ông được gọi là Thánh Stephen của Hungary. Khi mồ ông được khai quật để
tuyên danh Thánh thì người ta thấy bàn tay phải của ông còn nguyên vẹn. Ngày
nay bàn tay phải của Thánh Stephen đuợc coi như một báu vật của Thiên chúa
giáo. Trong ngày Thánh Stephen 20 tháng Tám hàng năm, Bàn Tay Phải Thánh
Stephen được lễ rước long trọng chung quanh Đại Giáo đường St Stephen.
Central Market
Một chút âm nhạc
Nói đến Hungary mà không kể đến ngành âm nhạc của Hungary thì
là một thiếu sót lớn. Bài viết về văn hóa nghệ thuật nằm trong một đề tài
riêng biệt. Những nhà soạn nhạc danh tiếng của Hungary thì tạm thời phải có đôi
giòng về Franz Liszt và Bartók Béla.
Franz Liszt (1811-1886) quê quán ở Hungary nhưng đã sống
ở nhiều quốc gia như Pháp, Nga, Italy v.v... Franz Liszt đuợc biết
trong thời kỳ ở Paris, Pháp, là bạn của nữ văn sĩ Pháp George Sand.
Béla Viktor János Bartók (1881-1945) là một nhà soạn
nhạc nổi tiếng của thế kỷ 20. Bartók soạn nhiều nhạc dân giả
Hungary và đuợc coi như là một trong những người sáng lập ra nhạc Nhân Chủng
Học.
Và cũng không thể không viết về nhạc sĩ Rezső Seress và bài nhạc Gloomy
Sunday của ông. Rezs
ő Seress, một nhạc sĩ gốc Do Thái - Hungary đã soạn bản nhạc "Gloomy
Sunday" vào năm 1933 cho lời một bài thơ của László Jávor, nguyên tác tựa
đề là "Szomorú vasárnap" trong đó tác giả kể lể những kinh
hoàng của văn hóa đương thời. Bản nhạc rất buồn này đã tạo nên một loạt những
tin đồn về những cuộc tự tử sau khi thính giả nghe xong bản nhạc. Những tin đồn
này đã được Nữu Ước Thời Báo nhắc đến khi ông chết và cho rằng hầu hết không có
căn cứ đích xác dù sau cùng chính Seress cũng đã nhảy lầu cửa sổ tự tử nhưng
không chết mà lại chết vì ông tự thắt cổ khi nằm điều trị trong bệnh viện
vào tháng 1 năm 1968.
Cuộc đời của Rezső Seress thật buồn thảm, ông sống suốt đời trong nghèo
khó. Ngày còn nhỏ, trong Đệ Nhị Thế Chiến, ông bị Đức quốc xã giam tù vì là người
Do thái. Sống sót ra khỏi trại tập trung ông làm việc cho một gánh xiệc, và sau
khi bị thương ông tự học đàn dương cầm và viết nhạc để mưu sinh. Bản nhạc nổi
tiếng Szomorú Vasárnap (Gloomy Sunday) đã gặp nhiều khó khăn ban đầu khi phát
hành vì nội dung buồn bã ảm đạm của nó.
Vài đặc sản của Hungary
- Fish soup (Hungarian: halászlé) một loại soup nấu với
cá nước ngọt, đặc biệt cho cách nấu của người vùng đồng bằng Pannonia và Balkia
và đặc biệt ở những vùng quanh sông Danube. Món này xuất phát từ Slavic. Hiện
nay nhiều nhà hàng vẫn mang cho khách ăn soup đã nấu và đặt trong nồi nhỏ.
- Bánh Kürtőskalács hay kürtős kalács của
Hungary đuợc gọi là bánh ống lò sưởi. Bánh là một ống hình trụ rỗng làm bằng bột
cuốn quanh ống kim loại và được nướng trên lửa. Bánh khởi thủy từ vùng
Transylvania. Bánh Kürtőskalács được bán ở khắp nơi ngay cả ở các tiệm bán bánh
dạo ở góc phố.
- Rượu vang Tokaji. (Hungarian: of Tokaj) Tokaji là
tên rượu vang vùng Tokaj-Hegyalja của Hungary. Rượu có vị ngọt làm bằng nho
trong vùng đã cố tình làm cho bị nhiễm nấm xám Botrytis để tạo nên
hương vị đặc biệt của nó.
- Gan béo (foie gras) của Hungary là sản phẩm được biết
nhiều trên thế giới. Gan ngỗng béo (goose foie gras) là libamaj, gan vịt
béo (duck foie gras) là kacsamaj
Rượu vang Tokaji
Kết thúc
Sông Danube thật là thơ mộng chảy dài bắt nguồn từ Germany,
qua Austria, Slovakia, Hungary, Croatia, Serbia, Bulgaria, Romania, Moldova và
Ukraine, cuối cùng đổ ra Hắc Hải.
Không, sông Danube không phải của riêng Áo quốc với bản nhạc
bất hủ The Blue Danube của nhà soạn nhạc tài hoa người Áo Johann
Strauss II. Vâng, có rất nhiều bài hát khác ca tụng dòng sông Danube lắm chứ.
Và ở Budapest đi du thuyền trên sông Danube, nhìn nắng chiều
tỏa rộng trong không gian nâng niu chiếu sáng những tòa nhà cổ kính bên sông dội
lên một mầu vàng rực rỡ vui tươi, quấn quýt những tầng tháp cao uy nghi
diễm lệ, phản chiếu trên mặt nước lung linh như một tấm thảm kim cương kiêu sa
vương giả thật không bút nào tả xiết cảm giác tuyệt vời lâng lâng mãi mãi lưu lại
trong tâm hồn người viết.
Nghe như có âm nhạc vang vọng đâu đây...
Ghi chú:
Tài liệu và một số hình truy cập từ những trang Du lịch và trên Wikipedia, the
free encyclopedia. Tác giả xin có lời cảm ơn chủ nhân những tấm hình, những bài
viết, và nhân viên hãng du lịch AV Travel đã giúp bổ túc nhiều chi tiết trong
bài viết.
19/8/2010
Sóng Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét