Ðầu năm 89, anh quen James trong buổi tiệc tân niên của hãng.
Hắn là dân Alaska, nhân nghỉ đông xuống miền nam thăm bạn. Hồi mới gặp anh cứ
ngờ ngợ, thằng cha trông quen mà nghĩ mãi không ra từng gặp hắn ở đâu. Hai tuần
sau, đem những tấm hình chụp chung trong buổi tiệc về. Vợ chỉ James xuýt xoa,
ông nào giống Harrison kinh khủng. Anh giật tấm hình ngó kỹ. Ánh mắt thẳng, tự
tin và thành thật, cộng thêm nụ cười nửa miệng ngượng ngập. Quả, hắn y hệt
Harrison Ford trong phim Kẻ Trốn Chạy.
Hai tháng sau, anh thất nghiệp. Hãng máy bay sa thải hàng ngàn công nhân vì hết
hợp đồng. Ðám thợ mất việc túa ra đi thử thời vận khắp nơi. Anh cũng gởi đơn
qua các hãng Lockheed, Mc Donnell Douglas, Boeing ở Florida, Texas, St. Louis,
Cali. Thư có đi mà chẳng thấy về. Vợ than, thợ ráp máy bay sao giống dân Mông Cổ,
rày đây mai đó. Anh bối rối, chỉ đáp bằng tiếng thở dài.
Cuối tháng ba, một chiếc tàu chở dầu hãng "xon trong vịnh Prince William
Sound đụng băng sơn bị bể. Mười một triệu tấn dầu tràn lan trên mặt biển. Mỗi
ngày người ta nhặt được hàng ngàn xác sinh vật trôi dạt vào bờ. Ngành đánh cá bị
thiệt hại nặng. Trong lúc ai nấy đang hướng lên Alaska để nghe ngóng thì James
trở về. Hắn rủ anh lên đó. Họ trả lương cao và đang cần rất nhiều công nhân làm
sạch bờ biển trước khi đông đến. Anh nhìn lên ti vi, chăm chú xem những người mặc
đồng phục vàng, đứng trên bãi biển chùi từng cục đá. Ngoài xa, băng sơn trôi lềnh
bềnh giống những mỏm núi ngoi đầu lên mặt nước. Bỗng dưng, anh bắt rùng mình,
co ro như người đi trên tuyết. James thuyết phục, trời sắp sang xuân không lạnh
lắm đâu, hay cứ lên đó làm để dành một thời gian lại trở về, còn hơn nằm đây
ngóng việc. Chợt hắn hạ giọng, giống như năn nỉ. "Tin tao đi, khi người ta
chịu đựng được bất cứ cái gì giỏi hơn người khác, họ sẽ thành công hơn thiên hạ."
Thấy anh ngần ngừ, hắn bồi thêm cú chót. "Bộ mày tưởng Mike Tyson trở
thành vô địch nhờ vào quả đấm ư? Không lẽ quả đấm của những thằng thua không
làm người ta chết được à?" Rồi hắn rên rỉ, "Trời đất ơi, thằng vô địch
thực chất chỉ là cái thằng chịu đòn giỏi nhất thôi." Cuối cùng vị nể anh gật,
nhưng hứa thòng một câu, "Ðể tao hỏi vợ đã."
Tối đó, lựa lúc vui anh dợm ý. Chưa nghe hết chuyện, vợ đã gào, "Có việc,
sao không nhận? Ði, cùng trời cuối đất, chỗ nào cũng đi, còn hơn ở lại có ngày
đi ra đường."
James đón anh đến Valdez, thành phố nhỏ quay mặt ra biển, sau lưng núi tuyết chập
chùng. Sinh hoạt chính của Valdez là vận chuyển dầu hỏa. Nhìn từ trên cao, những
thùng sắt khổng lồ sơn màu nổi bật nối những đường ống dẫn dầu từ miền bắc, rồi
chia ra thành nhiều nhánh trong vịnh. Ðường phố Valdez đơn giản. Giao thông
chính tập trung ở các cảng. Canoes, và các loại thủy phi cơ nhiều như trong các
bãi đậu xe. Riêng các tàu dầu lớn nằm ngoài cửa vịnh.
James là người bặt thiệp. Hắn cư xử với kẻ mới quen rất thân tình. Mấy ngày
sau, anh bắt đầu nhận việc. Chỗ làm chính là cái bãi biển anh đã từng xem trong
ti vi. Trong lúc nhiều người kéo những đường ống to tướng hút dầu loang trên biển
vào những tankers lớn, nhóm anh đi dọc bờ, nhặt xác các loài chim, cáẨ Con chết,
đánh số rồi cho vào túi nylon. Con sống dính đầy dầu, được mang đi tắm rửa cẩn
thận, xong chuyển qua trung tâm cấp cứu điều trị. Hình như chưa có con nào được
xuất viện từ cái trung tâm này.
Chỉ vài ngày, anh quen việc. Cái khó là khi tắm con vật trước mấy chục ống kính
thu hình của nhóm phóng viên. Một tay lanh lợi nhất bọn cũng đâm ra lọng cọng.
James không làm việc ở đó, nhưng thỉnh thoảng hay ghé thăm. Giờ nghỉ, thấy anh
còn đi lượm xác mấy con chim liệng vô thùng, hắn la làng, đừng xách cổ, nắm
chân và quăng xác chim. Người ta không cần anh siêng, chỉ cần anh tỏ ra biết
thương yêu loài vật. Cốt sao cho mọi người thấy hãng dầu cũng biết bảo vệ môi
sinh không thua cơ quan Greenpeace. James tiết lộ, cơ quan này, ngành đánh cá,
và thổ dân đang xúm nhau kiện "xon. Nếu hãng thua, chính hắn cũng bị thất
nghiệp.
Cuối cùng, "xon thắng kiện." James báo tin mừng lúc anh sắp mãn hợp đồng.
Hắn níu kéo, đừng về, ở đây khối việc. Alaska là chỗ vàng trôi trên sông.
Những ngày nghỉ, anh theo James đến Anchorage, thành phố lớn nhất tiểu bang.
Mùa hè, trời xanh mát. Người địa phương đua nhau mặc quần short, chạy bộ dọc vỉa
hè. Chỉ đám du khách ru rú trong chiếc áo ấm dài tay. Anh ngạc nhiên thấy, có rất
nhiều người Á Châu sống ở đây. James bảo, đừng lầm, họ là người bộ tộc Aleuts,
thuộc giống "kimos" sống rải rác ở Bắc Cực và ven biển Alaska. Giữa
thế kỷ 18, người Nga chiếm đất và giết gần hết bộ tộc Aleuts. Sau này, thấy đất
toàn băng giá, họ bán lại cho Mỹ với giá gần 2 cents một mẫu.
Anchorage nằm sâu trong vịnh Cook Inlet. Ðầu mũi cảng có tượng James Cook, một
Captain Anh tìm thấy dãy đất này vào năm 1778, trước Nga. Ven vịnh, có nhiều
hãng xưởng, nhất là hãng cá hộp. Ngoài xa, tàu bè tấp nập nối đuôi nhau vào bến.
James bảo, đó là những tàu mang cá về bán lại cho hãng. Ða số người Aleuts sống
bằng nghề chài, họ không ưa những người tạm cư từ nơi khác tới. Khi lên phía bắc
thành phố, anh thấy một nhà thờ cổ kiểu Nga. Nóc hình củ hành, vòm gác treo ba
quả chuông lớn. Ðằng sau là nghĩa địa của người Athabaskan. Những ngôi mộ vuông
vắn như chuồng bồ câu, bên ngoài sơn phết rực rỡ trông rất vui mắt. Quanh đó là
nông trại. Anh kinh ngạc nhìn những bông cải to hơn quả dưa hấu. Hình như những
hạt giống qua được mùa tuyết ủ đều lớn hơn mức bình thường.
Cuối tháng sáu, ngày rất dài. Mặt trời thoáng chốc lặn, rồi hiện ra sau ngọn
Denali. Thổ dân gọi, đó là "căn nhà của thái dương". Ðỉnh núi trắng
xóa, sáng lòe trong mây. Phía trước, tuyết vẫn còn dầy đặc. Nhiều người thích
lên đây trượt băng vào mùa hè.
Sau cùng, James ghé vào Portage Glacier xem băng sơn. Hơi ấm làm từng mảng băng
nứt kêu răng rắc, rồi sụp xuống tan tành. Khói và bụi băng tung tóe văng cả bên
này bờ. Anh ngạc nhiên, cứ đổ hết lớp này tới lớp khác, sao băng vẫn chưa hết.
James nói, mỗi lớp băng đóng theo độ lạnh khác nhau, nên khi tan cũng theo từng
lớp. Núi nhỏ nhưng băng dầy, chưa tới lớp cuối thì mùa đông lại đến. Thật ra,
những người xứ này cũng chưa thấy được cái núi thật.
Khi về, thấy hoa Forget Me Not mầu tím nhạt mọc tràn đồng, anh dừng lại trầm trồ.
"Mùa hè ở đây thật tuyệt." Nghe vậy, vợ phán, "Tuyệt cái gì? Ở
đây chỉ có hai mùa: tuyết rơi và tuyết không rơi."
Người địa phương quen gọi Prudhoe là thành phố. Thật ra, nó là cái vịnh cực bắc
Alaska nối với Bắc Băng Dương. Năm 1968, người ta khám phá dưới lớp tuyết trắng
một thứ vàng đen. Gần mười năm sau, James là một trong những nhân viên đầu tiên
dự lễ khánh thành giếng dầu số một. Sau vài năm, hắn trở thành trưởng ban điều
hành công nhân. Khi mãn hợp đồng, James kéo anh lên chỗ hắn làm việc. Prudhoe,
nơi mùa đông độ lạnh thường ở tám mươi độ âm, nửa năm không có mặt trời, vừa
nghe đã khiến anh rút chân lên ghế. Hắn gật gù nói, nhưng bù lại điều kiện làm
việc rất tốt. Lương gấp ba hiện tại, tuần làm tuần nghỉ, nhà ở, điện nước sưởi
đều do hãng đài thọ. Lát sau, thấy anh vẫn làm thinh, hắn đâm giân. "Lúc
trước, mày có biết cuộc sống xứ này ra sao đâu, mà dám lội nửa vòng trái đất tới
đây? Giờ, từ đây đến đó chỉ mấy trăm dặm, lại chịu nằm bẹp dí một chỗ?" Hắn
lắc đầu, chê, "Ðúng là đồ gà chết." Xong, phủi đít đứng dậy. Cũng
may, khi anh chạy ra gọi, xe James chưa nổ máy.
Mới tháng chín, trời mù, ẩm và thấp. Mây đục, ngậm hơi sương. Buổi sớm, tuyết
lác đác rơi, đến trưa tan chỉ vừa ướt mặt đường. James đến đón anh bằng chiếc
máy bay nhỏ, loại bốn chỗ ngồi. Hắn vui vẻ bảo, Alaska giàu có nhưng đường sá
nghèo nàn, chỉ chạy trong mấy tháng hè. Nhiều phố, huyện hoang vu nên giao
thông chính nhờ máy bay. Chưa có nơi nào nhiều phi trường như ở đây. Ðặc biệt,
có thể gọi máy bay như gọi taxi trong thành phố. Những người lái airtaxi, họ gọi
là bush pilot.
Ngược hướng bắc, máy bay lên không cao lắm. Dường như hắn thích lạng qua lại giữa
những vách đá mầu lam. Ðỉnh núi trắng xóa, mầu tuyết nhòe trong mây. Lưng chừng
giữa triền dốc, thỉnh thoảng có bầy sơn dương nằm nghỉ. James bảo, loại dê núi
khôn lắm, chúng thường ăn rêu ở những hốc đá cheo leo, nơi sói không bao giờ
theo được.
Qua khỏi Fairbanks một đỗi, bên dưới là sông Yukon. Lòng sông rộng, trắng và
thoáng. Xa xa, vài căn nhà trơ trọi ven bờ. Anh ngạc nhiên, sao có người lại chịu
sống nơi hoang dã, biệt lập với đời. James dặn, giao thiệp với họ phải cẩn thận.
Ðó là những tội phạm, sau khi mãn tù không kiếm sống được trong thành phố. Họ bắt
cá, săn thúẨ đời sống đơn giản. James bay sà xuống thấp, chỉ anh xem một cái
quay gió đặt mé sông. Và nói, với thứ lờ này họ cũng có thể kiếm năm, sáu chục
cân cá một ngày. Lên phía thượng nguồn, cứ mỗi đầu xuân, cá hồi đua nhau bơi
ngược dòng đẻ trứng, lũ gấu kéo bầy lên gềnh há miệng chờ những con cá nhảy
sóng, hệt như mấy thằng nằm chờ sung rụng. Anh chợt hiểu, thì ra hắn nói vàng
trôi trên sông là vậy.
James lên cao khi bay qua một khu rừng rậm. Khí hậu đột nhiên xuống thấp. Nhìn
bản đồ, chính là rừng taiga. Thật ra, đây là loại rừng tùng bách, lá nhỏ và
trơn như cây kim, dễ giũ tuyết. Cánh rừng dầy, băng qua nhiều nước, làm thành
vòng đai Bắc Cực. Nó ví như cánh cửa, chắn hơi lạnh tràn xuống miền nam. Ven rừng,
có vài làng nhỏ, nhà chỉ dăm căn. Mùa lạnh không người. Chủ nhân chỉ đến vào dịp
hè để bán đồ kỷ niệm cho các tay đi săn và dân thám hiểm.
Vừa qua khỏi rừng, mới xế trưa trời đã chạng vạng. Dưới đất, tuyết tráng một lớp
mỏng, ló những cọng cỏ lơ thơ cao chưa quá gối. Ðằng xa, thấp thoáng trên giàn
khoan một ngọn đuốc to cỡ đuốc thế vận cháy bập bùng trên cao. Bên dưới những
ánh đèn điện giăng đầy nhấp nháy. Prudhoe, thành phố không có đường sá, cây cối,
không có ai ngoài đám công nhân hãng dầu. Nhà ở là năm dãy lớn như năm cánh sao
ăn thông với giàn giếng chính. Những người công nhân cư ngụ và đi làm cùng
trong những dãy nhà này.
James hạ cánh. Hắn chạy quanh để hãm thắng, rồi vòng ra mé sau. Trên bãi tuyết,
rải rác vài căn nhà lưu động như loại mobilehomes cất trên những sàn gỗ. Có nhiều
sàn trống, trông như sân khấu lộ thiên. Ðây cũng là khu nhà của hãng, ưu tiên
cho những cặp vợ chồng và người muốn sống biệt lập. James mở cửa, giúp anh
khuân đồ. Xong, hắn chỉ vẻ mọi thứ tận tình, rồi kiếu về. Sắp xếp hồi lâu, anh
bắt đầu thấm mệt. Vợ từ phòng trong chạy ra la, nửa đêm sao chưa ngủ. Anh nhìn
ra cửa sổ, trời trông như mới chiều.
Ðêm qua có mưa tuyết. Vừa thức dậy, vợ ghé mắt sát cửa sổ xem trời đất. Chưa
nhìn được gì, đã kinh hoảng hét to. Bên ngoài, một con gấu trắng cũng đang dí mặt
sát khung kính để xem bên trong có gì. Anh vớ cây súng, lúng túng chỉa tứ phía
chờ đợi. Ðược một lúc, James đến. Nghe kể lại chuyện, hắn cười như không. Rồi dặn,
ra vào nhớ khóa cửa. Loại gấu trắng không phá nhà, và ít tấn công người. Chỉ bắn
trong trường hợp tự vệ. Loại này quý và hiếm nên được chính phủ bảo vệ nghiêm
ngặt.
Ngày đầu vào hãng, sau khi làm thủ tục và nhận đồng phục, James dẫn anh đi xem
khắp nơi. Trung tâm là giếng dầu. Miệng giếng được đậy kín, không ai thấy bên
dưới. Dầu được hút lên bằng những ống bơm sắt to và dầy, thông tận đáy, trên có
giàn đồng hồ đo nhiệt kế, áp suất và dung lượng. Chung quanh là một hệ thống ống
dẫn chằng chịt, bắt từ khu trung tâm để dẫn ra ngoài. Ðây là loại dầu thô, sau
khi chuyển xuống Valdez được chở bằng tầu để đưa về nhà máy lọc dầu trong nội địa.
Ngoài những văn phòng hành chánh ở khu trung tâm, James đưa anh đi xem năm đãy
nhà lớn ăn thông với khu chính bằng những hành lang dài. Giếng Một có bốn ca, mỗi
ca một dãy gồm nhiều phòng nhỏ.
James dẫn anh tới dãy năm đúng vào giờ ăn. Nơi này giống một câu lạc bộ, có
phòng thể dục, hồ bơi, khu giải trí, thư viện, nhà ăn. Giờ nghỉ, phòng đông người.
James lựa chỗ và chọn thức ăn. Anh liếc quanh, bối rối nhận ra nhiều người nhìn
mình với vẻ tinh nghịch. Anh đưa mắt kiếm James, gặp ai hắn cũng vỗ vai chào. Họ
thân mật đến độ gần như suồng sả. Một người có râu mép hất hàm về phía anh hỏi.
"Tay mơ nào vậy?" Chưa kịp nói gì, một ông già kéo James rỉ tai,
"Khai thật đi, mày làm thế nào dụ nó lên đây?" Nghe vậy, cả bọn phá
ra cười. Một tên ốm nhom, ngồi trong góc phòng mai mỉa. "Cần gì hỏi, hắn
chỉ giỏi rù quến kẻ thất nghiệp thôi." James đỏ mặt, đưa hai tay lên trời,
cười gượng. Xong, hắn kéo anh tới, giới thiệu từng người. "Ðây là! Bill,
Bob, John, Tom, Tommỵ" Một người bưng đĩa tới gần, làm quen. "Ðêm qua
ngủ ngon không?" Anh gật. Hắn kể, hồi mới lên, mấy đêm đầu chỉ nằm nghe
sói tru. Anh nhìn ra ngoài khung kính than, "Ở đây vắng tanh." Hắn trỏ
hướng đông bắc nói, cách đây mấy chục dặm có làng "kimos". Khi buồn,
tới đó chơi. Nhưng nhớ, đừng chăm chăm nhìn đàn bà của họ. Tụi đó ghen kinh khủng.
Anh ngạc nhiên. Một người phía sau cười cợt. "Cứ ở lâu rồi biết, một đàn
bà quý hơn mười lò sưởi." Cả bọn nhao nhao, "Luật xứ này, tội cướp vợ
nặng hơn tội giết người." Cả đám xúm cười hô hố. Ông già bước tới vỗ vai,
"Anh mang vợ, là mang cả gia tài theo đó, biết không?" Sau này mới thấy,
đa số để gia đình ở miền nam, phần còn lại đều độc thân. Riêng James, từ ngày vợ
bỏ đi, hắn vẫn ở chờ trong căn nhà cũ.
Buổi chiều trên đường về, James dặn. Ðừng để ý những lời đùa, coi họ vậy nhưng
tốt lắm. Mỗi lần bão, thường kéo tới giúp mình xúc tuyết. Thấy anh rùng mình, hắt
hơi liên tiếp mấy cái, hắn an ủi. Ráng chịu khó, dành dụm ít lâu, sau này lại
trở về. Ðột nhiên giọng hắn chắc nịch. "Ðàn ông cần phải có tiền. Khi có
tiền, đàn bà dù không yêu, họ cũng không nỡ xa mày." Hắn bật cười khan,
" Chân tụi nó cứ như đạp trúng kẹo cao su, dứt không đành." Anh làm
thinh, tâm trí lan man nghĩ tới vợ James và căn nhà trống không của hắn.
Tối về, vợ ngồi trước lò sưởi chờ cơm. Anh hỏi, "Suốt ngày ở nhà làm
gì?" Chằm chặp nhìn ngọn lửa hồi lâu, vợ nói, " Ngồi xem sao rụng."
Ngó vào trong , củi nổ tí tách, những hạt bụi lửa, bắn vọt lên cao rồi rớt xuống.
Anh quay sang, nhìn sâu vào đôi mắt to, ngời bóng lửa. Ðưa tay quẹt má, vợ ngạc
nhiên hỏi. "Gì vậy? Mặt dính lọ à?" Anh đưa tay giữ chặt mặt vợ, vờ
la, "Khéo, ngồi im. Sao đang rụng kia kìa." Quá khuya, ngọn lửa tàn.
Anh vùi đầu vào ngực vợ ngủ quên. Mãi gần sáng, chiêm bao thấy toàn những dấu
giày cao gót. Dưới đế sạch trơn, không dính một miếng kẹo cao su nào.
Sáng sớm, James gỏ cửa. Hồi lâu, anh mới mở rồi xin lỗi. Vợ bắt xem kỹ, sợ mở lầm
cho gấu. James cười, tặng một cái gối kê tay, có thêu hình người và thú. Hắn
nói, "Đây là Okpik, bùa may mắn của người 'kimos'." Vợ chồng chuyền
tay xem. Mũi thêu vụng về. Nhìn mãi mới ra là con chim cú, bộ cánh và đuôi tua
tủa giống mấy nhánh xương rồng. James giải thích, đây là loại chim báo động khi
thấy gấu. Xưa, được thổ dân thờ như một vị thần. Thấy vợ cứ cầm gối xăm soi,
anh định trỏ tay chỉ, nhưng vợ cản, "Thôi, cứ để nhìn thành cây xương rồng
cho nó ấm." Cuối tháng mười, mặt trời thấp, to và nhạt. Ánh sáng yếu,
không đủ sức xuyên mây. Qua giữa tháng mười một, trời tối sầm. Ngày và đêm lẫn
lộn. Nhiệt độ xuống gần trăm độ âm. Tối, nằm nghe gió rớt ngọn trên mái nhà.
Sáng dậy, thấy đất thở ra hơi khói. Ngoài trời, tuyết rơi lả tả. Tứ bề trắng
xóa. Cảnh vật tiêu sơ. Sự sống chỉ còn cô đọng quanh lò sưởi. Vợ chồng hết nhìn
nhau, lại ngắm trời. Cách mấy tuần, bão ập tới. Những cơn lốc như khởi từ nơi
nào trong vũ trụ, phăng phăng muốn xoay ngược địa cầu. Vợ lo, cứ liên tưởng cảnh
bị thổi tốc ra không gian như con kiến văng khỏi quả cam. Anh ôm vợ trấn an,
nhưng trong lòng nghĩ tới James. Ðứt liên lạc. Rất có thể cái máy gọi và hắn đã
bị vùi trong tuyết.
Mấy hôm sau bão dứt. Vợ chồng dùng búa phá băng tung cửa ra ngoài. Bên nhà
James, tuyết ùn thành đống. Trên mái, ngọn khói lảng đãng không bay. Anh bắt
tay thành loa gọi. Không có ai trả lời. Ðược một lúc, bọn thằng Bill, thằng Bob
lái xe cần trục tới. Sau cả buổi vật vã, căn nhà được kéo ra khỏi đống tuyết để
đặt vào một sàn trống kế. Ðâu đó xong, mới thấy James đục cửa bước ra.
Căn nhà hắn thấp và nhỏ. Mới bị kéo nên bên trong đồ đạc lộn xộn. Hai người bắt
tay giúp James thu dọn. Chỗ ăn và ngủ đặt ngay lò sưởi. Cuối phòng có kệ sách.
Anh lượm dưới đất khung hình bán thân một người đàn bà rất đẹp, chừng là vợ
James. Hèn chi, hắn chung tình vậy. Sách rất nhiều. Anh ngạc nhiên thấy toàn loại
chiến tranh và cao bồi. Hắn cười phân trần, đâu có ai ưa cảnh bắn giết. Hắn
thích loại này chỉ vì truyện nào cũng đông người, đọc bớt lẻ loi. Anh kêu vợ lựa
mượn mấy quyển, xem cho vui.
Sau cơn bão, khí hậu đột nhiên ấm lại. Vài ngọn gió Chinooks mang hơi nóng từ
miền nam tới thổi tan bớt tuyết. James mừng rỡ, ngồi trước nhà ngắm trăng.
Trăng mọc thấp và to, ánh sáng lạnh, vừa nhô lên đã chực rơi xuống chân trời.
James ngửa cổ, bắt chước sói tru. Awhoo whoo.. whoo. Âm thanh khàn đục, là đà
lan trên tuyết. Anh cười rộ, hắn tru không giống sói. Nhưng cười chưa dứt, đã
nghe từ xa, những con sói ở đâu tru lại từng hồi. Bóng trăng nhạt, tiếng sói
thê lương, nghe như rót tận đỉnh trời. Vợ anh rùng mình, hình như chúng ở rất gần.
James trấn an, sói chỉ đáng sợ trong truyện cổ thôi. Thật ra, chúng là giống
chó hoang, thường đói nên hung hãn, ban ngày lang thang tìm mồi. Tiếng tru chỉ
là tiếng bầy gọi nhau.
Những ngày nghỉ, James rủ đi săn. Ðây là mùa lý tưởng. Sau cơn bão, những con
thú đói bắt đầu ra kiếm mồi. Hắn lấy máy bay nhỏ, đưa đi thám trước. Mặt đất
hoang và lạnh lắm. Chân trời là một đường cong nằm ngay dưới đất. James bay thẳng
lên cao, nhưng anh cứ cảm tưởng hắn đang nhào xuống đất. Theo hướng đông một đỗi,
đã thấy vịnh Hudson, băng trôi trắng như bọt xà phòng. Dọc bờ, bãi đá đen lổm
chổm. Anh ngạc nhiên dụi mắt, những cục đá hình như biết di động. Máy bay sà xuống
thấp, hóa ra là bầy hải cẩu đông cả ngàn con. Trên cạn, chúng lê lết như người
tàn phế xin ăn. James chỉ anh phân biệt, loại hải cẩu vùng này có lổ mũi tròn
như hai nút khoén. Giống hải sư có hai tai và chiếc mào nhỏ xíu trên đầu. Còn hải
mã có nanh, mồm như ngậm dao găm. Giữa đông, tháng chạp và tháng giêng, chúng rủ
nhau vào vịnh Hudson trú gió và sanh nở trên các tảng băng trôi. Hải cẩu con rất
đẹp, lông ngà, trông như một nùi bông sữa. Thợ săn và lũ gấu trắng cũng tranh
nhau tới kiếm loại này.
Xế chiều, James hạ cánh thăm làng "kimos". Chưa xuống, hắn đã dặn, phải
gọi họ là người Inuit. "kimos" là danh từ cổ, có nghĩa giống dân man
di, ăn thịt sống. Làng nghèo và thưa. Ða số nhà bằng gỗ mỏng manh. Anh nhìn
quanh tìm, nghe nói giống người này ở trong nhà igloo bằng nước đá. James đập
vai anh, cười rộ. Ðó là thời xưa. Và họ cũng chỉ dùng tạm trong khi săn hay chờ
lúc cất nhà chính. Bây giờ, để cho các tay thám hiểm dùng chụp hình. Khi về anh
bảo, đi hết làng không có một người nào coi đẹp. Hắn cười sằng sặc, đàn ông xứ
đó chỉ ưa con gái đảm đang, nhan sắc là đồ xa xỉ.
James mở một cuộc thám thính xa vậy, nhưng lại đi săn gần nhà. Hắn vác nùi chỉ,
lưỡi câu, một lều xếp, cái búa, chiếc đèn bão, tấm mền, và lon thịt gà làm mồi.
Từ cửa, đi thẳng hướng bắc được trăm thước rồi dựng lều. Hắn câu cá bằng cách đục
lổ trên băng, mắc mồi rồi thả câu. Chỉ chốc sau thấy giây không động đậy, hắn lại
đục lổ khác. Chưa đầy nửa buổi, chiếc lều bị dời cả chục lần. Thấy hắn nóng
tính, anh phát bực la. "Câu cá giống như chờ vợ, phải kiên nhẫn mới được."
Nghe vậy, hắn quay phắt lại, trợn mắt. "Ai chờ vợ?" Rồi phân bua,
"Nó đang chờ tao, đâu phải tao chờ nó." Thấy anh kinh ngạc, hắn kể. Hồi
mới lên, ở đây vắng tanh. Hãng mới lập, chưa hoạt động đều trong năm đầu nên ít
nhân công. Buồn tới nỗi thấy kẻ thù cũng phát mừng. Vào lúc đó, hai vợ chồng
tình cờ quen với một nhóm thám hiểm thuộc Nha Ðịa Dư. Tình bạn giữa họ rất đậm.
Mấy tháng sau hết công tác, họ ra về. Ðược vài tuần, thằng Bryan trong bọn lấy
trực thăng trở lại, đổ trước nhà. Anh cướp lời, "Bộ hắn muốn cứu vợ mày
à?" James thở dài, "Không. Nó lại kêu vợ tao cứu nó." Hắn nhún
vai, cười khẩy, "Thằng độc thật!" Rồi châm thuốc, rít một hơi dài.
"Ðàn bà, thảy đều thích nghe những lời nhảm nhí." Anh thắc mắc,
"Sau này họ hạnh phúc không?". Hắn cười khì, "Ừ, cũng được mấy
tháng." Xong, trở giọng vui vẻ, "Giờ, con vợ tao cũng đang chờ người
ta cứu nó." Anh thở dài, khuyên. "Vậy, mày cưới vợ khác đi. Sống một
mình buồn lắm." Hắn cười nửa miệng, "Ðàn bà xấu, tao không muốn nhìn.
Còn đứa dẹp, lại không muốn chỉ mình tao nhìn nó." Anh nghe vậy, khoe.
"Ðàn bà xứ tao tốt hơn nhiều." Rồi hứng chí kể một hơi truyện Nàng Tô
Thị, Thiếu Phụ Nam Xương. Hắn lắùng tai nghe, mồm há hốc như con cá mắc phải lưỡi
câu.
Sáng, vợ đem cá ra xẻ để phơi, cằn nhằn, nắng đâu mà khô. James nói, ở đây người
ta phơi gió. Xong dặn, phải để ý, hể nghe tiếng cú thì đem cất, kẻo gấu ăn hết
cá. Chiều về, ngoài sân không còn một con. Vợ bảo, thấy sói tới lại không dám
đuổi. Anh tức, công câu cả ngày mất sạch. James cười lăn, chưa bao giờ hắn thấy
ai như vậy. Chuyện thế làm hắn vui. Ngày hôm sau gom mớ cây đi đóng ngay mấy
hàng sào treo cá. Vợ trông thấy khen, "Thằng cũng tốt. Trước, tôi chỉ ghét
anh hay nghe lời hắn."
Ði câu hoài đâm chán. Có hôm mới vác về, vợ cự. "Ngày nào cũng ăn cá, riết
rồi tôi cũng biết bơi." Nghe vậy, James rủ đi xa săn cáo. Hắn tán, lông
cáo đẹp, ấm và quý nhất. Da cáo có hai lớp: lớp ngoài phủ lông trắng dài, xốp
và đẹp, không thấm nước; lớp trong dầy và chặt như loại áo lót, đắt hơn loại hải
cẩu và gấu. Hắn đem ra mớ bẫy sắt cũ. Bẫy cáo giống cái kẻng, trên có hàn hai nẹp
sắt có răng cưa và một vòng tròn. Móc thịt gà, rồi treo đâu đó, nơi cáo thường
đến. Cách mỗi tuần thăm, chỉ việc gỡ xác cáo chết cứng ngoài trời. Anh lấy xe
trượt tuyết, theo hắn đi khắp nơi. Cáo dáng thon, đầu nhỏ. Mũi và tai nhọn, mắt
xéo, đuôi xù. Lông trắng lẫn trên tuyết, rất khó thấy. Xem việc dễ, nhưng không
đơn giản. Cáo tinh lắm, muốn bắt, phải ngụy trang mồi thật tự nhiên. Bẫy cáo,
nhưng bắt được sói, chim chóc như ptarmigan là sự thường. Dần dà, anh hứng thú,
xem trò dụ cáo vào bẫy như cuộc đấu trí. Thật ra, đi săn chỉ sợ bị lạc đường. Ở
nơi không trời trăng cây cỏ, con người mất điểm tựa, đi càng xa mà cứ tưởng về
gần.
Cuối đông, lạnh dưới trăm độ âm. Trời trắng nhạt, mây xuống thấp như tan vào đất.
Bên ngoài, tuyết lắc rắc rơi. Mặt đất trơ, đông cứng thành loại nham thạch trắng
ngần. Xa xa, tiếng gió gào thê thiết trên không. Tới gần, nghe như tiếng kêu
rên cùng đất. Quanh nhà, tuyết ùn thành đống, giống cảnh núi non hiểm trở. Mấy
tháng cuối, bão tới tấp. Những ngọn gió Williwaws trên cao phà xuống từng hơi lạnh
cóng.
Tuần nghỉ, gặp thời tiết xấu, anh nằm nhàxem phim. Những câu truyện hài khiến
anh cười bò, quay sang thấy mặt vợ dàu dàu. Hỏi, bị vợ gắt. "Cười gì nữa?
Tôi đã xem cả trăm lần rồi." Anh ngưng bặt hứa, đợi ngớt bão sẽ đi
Fairbanks chơi. James rủ, nên xem hội Yukon Quest. Ðó là cuộc thi chó kéo xe từ
Fairbanks dọc theo sông Yukon đến thành phố Whitehorse. Ðoạn đường dài một ngàn
dặm. Giải thưởng là năm mươi ngàn dollars. Chính quyền địa phương và giới chủ
nhân cũng tổ chức nhiều trò vui để giữ chân mọi người.
Khi tới Fairbanks, cuộc thi đã bắt đầu từ sớm. Ðám đông tản dần, chỉ còn tiếng
nhạc om sòm, rời rạc. James chạy dọc theo sông Yukon. Lòng sông nhiều khúc đóng
băng, liền như mặt đất. Cách sông không xa, thấy có làng North Pole. Giữa làng
là tượng ông già Noel mặt mày tróc sơn, lưng dài chân ngắn, vác cái túi rỗng bị
gió đánh phần phật sau lưng. Vợ ngắm nghía hồi lâu thở dài, "Hồi nhỏ tôi cứ
trông Santa Clause tốt bụng đem quà tới tặng. Giờ mới thấy, ông còn tội hơn mấy
trẻ nghèo." Tháng tư dứt bão. Sang tháng năm mặt trời mới mọc nhưng trông
như sắp lặn. Nắng vàng nhạt, héo úa, nhẹ và loãng trong mây. Ðêm ngắn dần. Nhiều
nơi tuyết bắt đầu tan. Ðất loáng nước nhìn xa như mặt hồ cạn. Vài nơi đất xốp,
nhão như lớp bùn, bên dưới vẫn chưa tan hết đá. Tới tháng sáu, mặt trời rực rỡ
chiếu xiên. Nắng có mầu hoàng hỏa, buồn như buổi chiều tà. Nhiều loại cây cỏ bắt
đầu mọc. Nhanh nhất là loại rêu Caribou, trắng ngà, xốp và nhẹ như miếng xà
phòng. Xen giữa là loại cỏ tai hùm, lá tròn như tai gấu. Tháng bảy là mùa hoa nở.
Toàn loại hoa thân lùn, nhiều nhất là Tundra, cánh mỏng và nhăn, mầu đỏ chóe.
Có loại vàng tươi như Poppy, hồng tím như Dwarf Rhododendron.
Mùa xuân, mùa đi săn. Những đàn bò rừng, hươu, nai, nhím, thỏ từ rừng taiga kéo
ra kiếm mồi. Trên trời, từng đàn ngỗng, le le, chim biển cũng kéo về xây tổ, đẻ
con. Anh chợt nhớ, phải săn thêm cáo để đủ may áo ấm cho vợ. Rủ James, hắn cười
ngạo. Muộn rồi, mùa xuân tuyết tan. Cáo rụng lông, thay bằng lớp mầu xám. Hắn lấy
xe truck chở anh đi khắp cánh đồng. Có những miệng hang phủ cỏ, trên dính nhiều
sợi lông trắng như bông. James an ủi, hãy đợi mùa tới. Vả, giờ đang mùa sanh sản.
Ðám cáo mới đẻ vừa mù vừa điếc, nên cáo lớn cũng ít ra ngoài.
Xe dừng trên ngọn đồi cao. Bên dưới, một đàn bò rừng đông cả ngàn con thản
nhiên gặm rêu. Thân nâu sẫm, đầu to đít teo, lưng rậm lông như khoác một chiếc
áo tời, chúng đứng lẫn trong mầu của đất. James nói, ăn cá hoài ngán, chừng về
sẽ hạ một con. Vừa dứt lời, đột nhiên cả đàn rùng rùng bỏ chạy. Anh đứng dậy,
che mắt nhìn. Một lũ sói dăm bảy con, đang hung hăng xông xáo giữa bầy bò.
Chúng kéo đến đâu, lũ bò giạt ra đến đấy. Mắt bò rừng mờ, mới chạy vài bước
không thấy bóng sói thì đã đứng lại. Chừng chút sau, chúng dí một con chậm chân
tách khỏi bầy. Một con sói đầu đàn hung hãn phóng thật nhanh, vừa vượt qua đầu,
nhanh như cắt, chồm lên ngoạm cứng mũi bò. Con bò rống lên, giọng khản đục thảm
thiết. Nó vừa chạy, vừa lắc mạnh đầu để vất sói ra. Nhưng sói bấu chặt lắm.
Phút chốc, mũi bò tứa máu, đuối sức chạy chậm lại. Một con khác phóng theo, nhe
răng nhọn hoắc táp phập vào cẳng sau. Con bò lết thêm vài bước rồi quỵ hẳn, đàn
sói xông vào cắn xé. Sức bò chống trả yếu dần. Anh bất nhẫn, giơ súng nhắm ngay
lũ sói. Tức thì, James đưa tay đè mũi súng. Hắn nói, "Con người chết vì bệnh,
con bò chết vì sói. Ðó là số phận của mỗi loài. Cứu ngày nay, không cứu được
ngày mai, phải không?" Anh hạ súng, không bắn. Nhưng suốt buổi cũng không
cho hắn nổ một phát súng nào.
Chiều về, bắt gặp trên vạt cỏ non, một con reindeer, sừng bị sơn đỏ hoét. James
giải thích, đó là thú hoang đã bị thuộc đàn, có người chăn giữ. Hắn cười nhạo,
"Mày muốn cứu bò, thì đi chăn bò là tốt nhất." Ngưng một chút, hắn
nheo mắt, "Thật ra, chính thằng chăn ăn thịt nhiều hơn số sói và thợ săn cộng
lại." Anh làm thinh, trong lòng bỗng đâm ghét nụ cười của hắn.
Tối về, kể mọi chuyện. Vợ nghe xong bảo, anh chỉ ghét những gì trái ý thôi,
không phải hắn. Rồi xoay sang chuyện khác. "Ðốt sưởi quanh năm, đến nỗi giờ
thấy ngọn lửa là tôi nổi nóng." Xong lại hỏi, "Bao giờ mình về
nhà?" Anh ngạc nhiên, "Ðây không phải nhà mình sao?" Vợ tức tối,
đấm thùm thụp vào lưng anh, khóc. "Thì ra, anh không tính trở về."
Anh kéo vợ vào lòng, dỗ. "Ráng một thời gian. Ai chịu đựng giỏi một thứ
gì, thì sẽ khá hơn người khác." Nghe vậy, vợ im bặt, rồi lôi anh chạy băng
ra sân, chỉ về hướng làng "kimos". "Coi, tới đó coi. Họ chịu đựng
cả mấy ngàn năm, mà có ai khá đâu." Anh chưng hửng, đi một hơi qua nhà
James.
Sáng dậy, thấy còn buồn, anh khoác áo lửng thững dạo đồng. Dải đất mênh mông, cỏ
lưa thưa, trông xa chân trời vắt cong và nghiêng một mé. Anh bỏ chỗ bằng nhảy
lên mỏm đất. Tiếng chuột bọ, thỏ rừng kêu sột soạt dưới chân. Rồi ngồi xổm,
ngóng mình vào vũng nước, suy nghĩ. Tới xế, trời trở lạnh, anh đứng dậy. Băng
ngõ tắt, thấy xác một con sói cứng đơ giữa đồng, bụng lép kẹp. Lật lên xem,
không thấy thương tích. Anh chột dạ, không lẽ sói Bắc Cực cũng chết vì lạnh.
Mãi vẩn vơ, về tới nhà cũng chưa nghĩ ra một câu nào nghe ngọt.
Thấy anh về, vợ vất cuốn sách, vụt ôm chầm rồi rơi nước mắt. Vợ nói, hỏi James,
hắn bảo anh ra ngoài cả ngày lại không mang súng, đâm sốt ruột. Cảm động, nhưng
lúng túng không nói được gì, anh ngượng ngịu vuốt từng lọn tóc mềm của vợ. Hồi
lâu, chợt thấy cuốn sách bị quăng góc nhà, anh hỏi cầu hòa. "Ðang xem cuốn
gì vậy?" Vợ đáp, "Normandy, ngày dài nhất." Rồi lượm sách cất,
"Mượn bên James lâu rồi. Mở ra, nhưng có đọc được chữ nào đâu." Anh
cười, "Ðọc đi, truyện này hay lắm." Vợ nhăn mũi, vờ chê. "Chỉ
cái tựa, cũng biết tác giả nói xàm." Xong, đùa như thật. "Ngày hôm
nay mới là ngày dài nhất đó." Anh cụng trán vợ, gương mặt trắng mịn chợt tối
sầm. Nhìn trong mắt, hình như trăng sao cũng tắt.
Thoáng đó, mùa xuân qua rất mau. Mới hôm trước cỏ còn xanh, hôm sau đã ngả mầu
đồng lục. Có những nụ hoa chưa nở đã tàn vì sương giá. Buổi chiều, trời không một
vẩn mây, xanh và cao vòi vọi. Ba người ngồi ngắm từng đàn chim vỗ cánh xuôi
nam. Thấy một loại lông trắng, mỏ dài, mình thon như hạc, duỗi bay rất đẹp.
James chỉ, đó là chim Arctic terns, loài bay xa nhất. Chúng di chuyển giữa hai
đầu quả đất. Mùa xuân lên bắc, đông về lại xuôi nam. Anh ngạc nhiên, "Bay
xa vậy chẳng lẽ chúng không tìm ra nơi nào khác để sống ư?" James lắc đầu.
Vợ ngắm chim bùi ngùi, "Chúng tôi cũng giống loài di điểu, đi khắp nơi vẫn
chưa thấy đâu là nhà."
Suốt ngày James cứ chậc lưỡi than, sao đông năm nay đến sớm. Nhưng tuyết mới
vài bữa, đã thấy hắn huýt sáo ngoài sân đắp hình người tuyết. Vợ anh ra xem,
nhìn hoài cũng không thấy giống snowman. Hắn đắc chí khoe, đây chính là người
đàn bà chờ chồng trong truyện cổ Việt Nam. Thì ra, hắn thích Nàng Tô Thị. Chị
cười, phụ hắn cào thêm tuyết. Lúc gần xong, như sực nhớ ra, hắn ngẩng đầu.
"Ừ, tôi quên hỏi, sau đó người chồng ra sao?" Chị ngớ người hồi lâu,
"Không biết nữa. Có thể người chồng lại lấy vợ sinh con. Chuyện thường
tình, nên không ai nhắc tới." Nghe vậy, tự nhiên James đứng lên, lượm xẻng
bỏ vào nhà.
Một tuần sau, có máy bay bỏ thư. Cả hãng mừng như ong vỡ tổ. Thư mấy tháng dồn
đọc một ngày. Anh cũng chui một góc, cẩn thận gỡ những bì thư bốn cạnh có những
dấu gạch xiên mầu xanh đỏ. Những lá thư kêu cứu từ bên nhà giờ mới tới. Nhìn
nét chữ nguệch ngoạc, anh thấy ra cả chốn quê xưa. Thư viết, mùa lũ về ngập trắng
cánh đồng. Bao ruộng vườn nhà cửa đều trôi theo dòng nước. Gấp giấy lại, anh
nghe như có tiếng người lạc giọng gọi nhau. Anh bỏ việc ra về. Ðôi chân nặng
như ai chôn vào đất.
Vừa về tới liền kêu vợ ra bàn. Chưa nghe hết vợ đã giật mình giẫy nẩy. Ðem tiền
cho nhiều như vậy, biết bao giờ mình trở về được. Lại phải đợi năm sau. Mà chắc
gì năm sau yên ổn? Cả đêm vợ trùm mền, vừa khóc, vừa kể. "Bão lụt xứ nào
cũng ập vào tôi."
Một buổi trưa, vợ anh ngồi ngắm mấy dãy sào treo cá trống trơn, vẻ buồn xo.
James đi ngang, thấy vậy dừng lại hỏi. Không biết giải thích sao cho hắn hiểu,
hồi lâu mới than. "Bắc Băng Dương không có nước, vậy mà tôi cứ thấy tròng
trành như người đi biển." Nói xong, lại ngó lên trời. "Bây giờ, chỉ ước
được thấy mặt trời ở ngay đỉnh đầu, và thèm nhìn mầu xanh cây cỏ?" James
thở dài. Lần đầu tiên nghe hắn than, "Còn tôi ngược lại, bị mất thăng bằng
đã quen. Giống như người đi biển lâu ngày, giờ lên bờ chỉ e say đất ." Và,
cười rất hiền, "Có thể khi thấy mọi người đứng vững thì tôi lại té."
Rồi ngập ngừng hỏi, "Nếu trở về, không biết bà chịu giúp tôi không?"
Sau mấy tuần tuyết rơi, mặt đất trắng mầu băng giá. Anh gom mớ bẫy cũ ra ngoài.
Theo kinh nghiệm, giờ là lúc lũ cáo xông ra kiếm mồi. Chợt nhớ lại lần đầu theo
James đi săn, trong bụng hồi hộp lạ. Cứ tưởng sau mỗi ụ tuyết, những con thú
đang ghìm mắt rình mình. Cái khó bây giờ không phải việc săn bắt mà là thuyết
phục sao cho vợ chịu ở xứ này. Anh nhíu mày, thở ra. Ðàn bà thích ngọt, lại dễ
xiêu lòng. Gắng ít lâu, anh sẽ may cho vợ một bộ áo quý, đẹp, và ấm nhất. Chắc
vợ cảm động lắm.
Tuần sau, anh ngạc nhiên khi thăm bẫy. Hầu như cái nào cũng có cáo. Lông chúng
óng ánh, đẹp hơn mầu của tuyết. Anh mừng rơn, chất xác cáo lên sled rồi vội về
nhà. Không may, xe trượt qua lớp băng mỏng, một càng sled bị sụp xuống cái hố đất.
Anh bỏ chiếc skimobiles, xuống khiêng chiếc sled lên. Khi đẩy xe qua, anh trông
rõ bên dưới. Ðó là một cái hang nhỏ. Anh lom lom nhìn vào. Một đám cáo con cũng
đang lăng xăng muốn xông ra cửa. Có con vừa thấy anh đã vụt trở vào. Hình như
không có cáo lớn trong hang.
Trên đường về, anh cố gắng xua hình ảnh bầy cáo nhỏ đang chờ đợi. Và tự trấn
an, chắc chắn cha mẹ chúng không có trong đám ở trên xe. Cái hang cáo hơi xa chỗ
anh đặt bẫy. Về tới nhà, không thấy vợ. Chạy qua bên James, cửa đóng kín. Trên
có gắn một miếng giấy đề tên anh. Ngạc nhiên, mở ra xem, trong vỏn vẹn có mấy
chữ. "Chúng tôi chân thành xin lỗi." Phía dưới đề: "James
Barrett và Di Nguyen."
Khi anh trở về, cái nhà hôm nay lạ hoắc. Trong lò, củi vẫn còn âm ĩ. Ðầu choáng
váng như bị va vào đá, anh ngồi bệt xuống thảm, chân tay rã rời. Lát sau, mới
vói dậy cời tro. Ngọn lửa bùng sáng. Anh nhìn củi cháy, tâm trí hoang mang. Những
hình ảnh rời rạc của quá khứ chợt quay về. Nhiều đoạn chập vào nhau, có đoạn vừa
thoáng qua đã tắt ngúm. Tim nhói từng cơn, mắt cay sè. Anh vói tay lấy chai rượu,
nốc từng ngụm. Có rượu, mọi ý nghĩ bắt đầu trơn tuột. Những kỷ niệm nằm sâu
trong tiềm thức vụt sống dậy. Trong đó Di vui tươi, hoạt bát và sống động giữa
đám bạn bè. Chỉ khi lên đây Di thụ động và ưa bẳn gắt.
Quá nửa khuya, rượu cạn, lửa cũng tàn. Anh ném bừa chiếc vỏ chai, rồi nhoài người
xuống thảm. Trong cơn say, anh thấy mình nhẹ hẫng, bồng bềnh lơ lửng trên mây.
Khi nhìn xuống, mọi vật bên dưới đã chìm trong tuyết. Ðang chăm chú tìm, thình
lình tuyết bỗng tan. Rồi nước dâng, nhà cửa, người vật đều trôi theo cơn lũ. Chợt
nghe văng vẳng có tiếng người ơi ới gọi nhau. Anh ngoái đầu nhìn lại. Một con hải
âu dính đầy dầu đang lốp ngốp lội theo, đôi mắt nó buồn thiu, như thể không bao
giờ còn quay về biển. Nguyễn Thị Thảo An Nguồn: Tập truyện "Bức Phù Ðiêu Khắc Cạn" Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét