Điều kỳ lạ của tình yêu
Sống cạnh nhà tôi là một hoạ sĩ già. Nói già là nói những năm
gần đây, chứ hồi nhà tôi vừa dọn đến khu nhà này, ông còn trẻ, chỉ trên bốn
mươi một chút. Người thấp đậm, nước da nâu sẫm và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũ
mèm đội ở trên đầu, bất kể sáng trưa chiều tối, mưa hay nắng.
Ngay buổi sáng đầu tiên, còn sớm lắm, đi ngang cửa phòng ông đã lạ vì đụng đầu
một phụ nữ trẻ, chỉ quãng hăm lăm, hăm sáu tuổi tay dắt một bé gái độ lên năm từ
trong phòng đi ra, bé gái vừa đi vừa quay mặt trở vào chào lảnh lót: “Dạ thưa
bác, con đi học, chiều con về”. Tiếng người phụ nữ lẫn trong giọng cười trẻ
trung: “Em đi nghe anh!”. Hai mẹ con đều rất đẹp, sáng sủa, quý phái. Người mẹ
nói giọng Nam bộ, nhẹ và trong veo, còn cô bé có giọng Nam pha Bắc. Người đàn
ông sống độc thân, sao lại có đàn bà trong nhà đi ra vào lúc sớm tinh mơ vậy,
cô ấy lại quá trẻ, quá đẹp. Quan hệ của họ ra sao? Tôi đem thắc mắc nói với chồng,
anh gạt đi:
- Giới nghệ sĩ mà em. Kệ họ.
Sau thì tôi biết, qua các bà hàng xóm, đã ba bốn tháng nay, Ngọc - tên người phụ
nữ - đem con đến đây ở với ông hoạ sĩ, sống như vợ chồng. Cô ta cũng có chồng,
nhưng người chồng đang đi học một trường nào đó ở nước ngoài, đã ba bốn năm
nay. Gia đình cô thuộc loại khá giả, ông bố là cán bộ cao cấp, hoạt động ở
trong Nam. Người chồng nghe nói khá cao lớn, đẹp trai, rất xứng đôi với vợ. Ai
hỏi con bé về cha nó, nó chỉ tròn hai con mắt to xanh biếc, lúc lắc đầu: “Thưa,
con không biết, con chưa thấy ba…”. Cũng đúng thôi, vì khi ba nó đi xa, tính ra
nó chỉ hơn một tuổi.
Họ sống với nhau thêm độ dăm tháng nữa. Ngọc chiều người tình hết mức, chiều
nào đi làm về cô vừa đèo con, vừa treo một làn nặng đồ ăn ở ghi đông xe đạp,
kèm thêm chai rượu trắng nút cẩn thận bằng lá chuối. Mà thực phẩm lẫn rượu hồi ấy
đâu có dễ kiếm? Có lúc ông hoạ sĩ ra mở cửa cho cô, xách hộ làn vào nhưng thường
thì chỉ nghe ông mở cửa đánh tách rồi vội vã trở vào ngay. Chắc là ông đang mải
vẽ. Một lát sau, tiếng xoong chảo va vào nhau lách cách, rồi mùi xào nấu bay ra
thơm phức. Buổi tối, căn nhà yên lặng như không có người, chỉ thỉnh thoảng lắm
mới nghe tiếng reo lên thích thú của con bé con chắc là đang tự chơi trò gì đấy
và tiếng nó lảnh lót: “Má ơi, má ơi…”. Nhưng lập tức, lại có tiếng nói nhỏ nhẹ
của người mẹ, chắc là để bảo con đừng làm ồn. Và căn nhà lại rơi vào yên lặng.
Cũng không hiểu Ngọc tìm được ở người tình điểm đặc biệt gì để cô ta si mê đến
vậy, vì nghe nói chồng cô ta đã mấy lần nhắn tin về răn đe vợ, doạ sẽ ly hôn nếu
cứ nghe những tin đồn không hay về vợ. Còn ông hoạ sĩ thì cả mấy tháng trời tôi
chưa hề thấy ông ta xuất hiện một lần nào sóng đôi với Ngọc, mặc dầu nhiều lần
qua tấm vách ngăn đôi hai phòng, tôi nghe rõ tiếng cô nũng nịu - nghe thật trẻ
trung và đáng yêu: “Bữa nay mà anh không chịu đi coi với em, là em giận liền đó
nghen!”. Đáp lại chỉ nghe tiếng ông ta lầu bầu, và tiếng xô ghế đứng dậy bỏ đi
vào nhà trong.
Hai tháng cuối cùng họ sống với nhau chỉ toàn bi kịch. Có đêm, đang ngủ say,
tôi giật mình thức giấc vì nghe tiếng va vỡ loảng xoảng ngay cạnh phòng, và tiếng
người láng giềng nghệ sĩ của tôi hét lên, giọng lạc đi vì giận dữ:
- Tôi bảo cô đi đi mà sao cô không đi, tôi chịu cô hết nổi rồi!
Tiếng con bé khóc thét lên vì sợ hãi, và tiếng khóc không còn nín nhịn được của
người đàn bà, ấm ức,tức tưởi, như tiếng khóc trẻ con. Nhưng rồi chị cũng nín,
và có một lần tôi nghe chị vừa khóc vừa nói: Em thương anh, mà sao anh nỡ đối xử
với em tàn tệ vậy?
Người đàn ông không nói gì. Một lúc, tôi nghe một tiếng cạch to, như tiếng đặt
mạnh ly rượu xuống bàn:
- Tôi không muốn cô sống ở đây nữa, có vậy thôi. Đó, đồ đạc, tiền bạc, cả toàn
bộ các bức tranh của tôi, cô muốn lấy gì thì lấy, nhưng tôi xin cô, cô đi đi.
Tôi đã nói với cô nhiều lần rồi mà, tôi muốn sống một mình.
Hôm sau, Ngọc nghỉ buổi làm, soạn sửa lịch kịch cả buổi sáng. Đến giữa trưa,
tôi thấy cô khệ nệ xách xuống thang gác một va li khá to, một cái làn đựng đầy
đồ chơi trẻ con. Đứa bé gái lủi thủi bước theo mẹ. Gặp tôi ở cổng, cô bước đến
nói nho nhỏ, hai mắt đỏ hoe:
- Chị cho em gửi lời cám ơn bà con , cô bác cả khu nhà.
Rồi cô dắt con ra xích lô. Không thấy bóng dáng ông hoạ sĩ. Chỉ lúc bác xích lô
xếp dọn chỗ ngồi xong xuôi cho cả hai mẹ con, trèo lên yên xe sắp sửa đạp đi, mới
thấy ông chạy hộc tốc xuống thang gác, kêu: “Nầy bé Châu! Nầy con!”. Rồi chạy vội
tới, ông ôm riết lấy con bé con, hôn lên tóc nó, má nó, ấn vào tay nó một món đồ
gì nho nhỏ bọc trong giấy báo. Rồi ông quay ngoắt người, lặng lẽ trở vào, lên
thang gác.
Tôi đi làm vắng cả ngày nhưng nghe các bà hàng xóm kể, mấy ngày sau liên tiếp,
sáng nào cũng thấy Ngọc trở về vào nhà độ mươi phút rồi lại đi ra, vừa đi vừa
chùi nước mắt. Sau đó không thấy cô trở lại nữa.
Chỉ trong thời gian 6-7 năm, tôi tính phải có đến gần chục cô gái đến sống
chung với ông hoạ sĩ. Mà hỏi ra, toàn người tử tế, có cô làm nghề viết báo, nghề
dịch thuật, có đến 4-5 cô là hoạ sĩ, là học sinh mỹ thuật. Có thể, do họ mê tài
của ông mà đến. Họ giúp ông chuẩn bị giá vẽ, ngồi ở máy nước công cộng kỳ cọ
các bức tranh sơn mài với ông,họ vừa ngồi mẫu cho ông vẽ và vừa làm tình nhân của
ông. Họ còn đi chợ, mua bán nấu nướng cho ông ăn, giặt giũ lau dọn nhà cửa cho
ông mà về các khoản này tôi nghĩ họ đã phải bỏ ra không ít sức lực nhất là sau
những bữa ông tụ tập bạn bè, đàm luận, nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng. Có lúc ông
cũng đưa các cô vào quán ăn. Khi vào hiệu, ông gọi cho cô một đĩa phở xào, một
bát bún thang hay một món gì đó. Sau đó cô cứ việc ngồi ngắm người qua lại, ngắm
các ngón tay của mình mà chờ ông độc ẩm kéo dài 3-4 tiếng đồng hồ. Rồi ra gọi
xích lô, dìu ông lên, đưa ông về nhà, khi ông đã say mèm. Vậy mà, cô nào cũng ở
với ông 3-4 tháng trời, tận tụy, ngoan ngoãn, tự cảm thấy hạnh phúc. Cho đến một
buổi trưa hay buổi đêm nào đó, sau một thời kỳ làm việc căng thẳng, ông bỏ ra
phố một mình. Khi trở về ông say ngật ngưỡng, ông trừng mắt nhìn cô, nổi khùng
lên và quát lác, đuổi cô đi. Hàng xóm luôn chứng kiến cảnh ông vất đồ đạc của
các cô qua cửa sổ tầng ba phòng ông ở, những chiếc quần áo lót vướng lòng thòng
ở các nhành cây trứng gà. Cô nào khi ra đi cũng khóc lóc, van nài, cũng cố tìm
cách trở lại nhưng vô hiệu.
Cho đến một ngày.
Bà hàng xóm nhà số chẵn bên kia đường - từ mười lăm năm trời giữ nguyên chức tổ
trưởng tổ phụ nữ - bảo tôi:
- Rõ là trời quả báo nhé! Cho ông ấy biết, cứ chà đạp lên phụ nữ mãi vào…
Cô gái ấy không đẹp, theo sự đánh giá của dân cư phái nữ bên khu nhà tôi thì
còn có thể gọi là xấu nữa. Tóc xoã xuống hai vai, loà xoà không trau chuốt.
Khuôn mặt xương xương, mắt một mí dài và xếch, đôi lông mày dài tô đen sẫm. Một
khuôn miệng rộng, môi trên mỏng, môi dưới lại quá mọng, tô son đỏ thẫm, lúc cười
cũng chỉ khẽ nhếch một bên mép. Người cao và gầy. Tính lặng lẽ ít nói. Nhìn kỹ
thì cô ta chưa quá hai mươi tuổi nhưng lại có nét mệt mỏi, chán chường của một
người đàn bà từng trải.
Lúc đầu không ai trong khu nhà chú ý đến cô nhưng sau đó tự nhiên để ý thấy là
cứ mỗi lần cô đến thì ông hoạ sĩ - lúc này đã trên năm mươi tuổi - lại vội vã
chạy xuống gác, đi mua vài chai bia, mấy con mực hay chục nem, ít hoa quả rồi vội
vã xách về. Điều đó thật trái với tính cách xưa nay của ông. Vài tiếng đồng hồ
trôi qua, khi cô ta ra về ông hoạ sĩ lại xuống theo, quần áo bảnh bao, cái mũ
lưỡi trai kinh niên được thay thế bằng chiếc mũ dạ màu xám nhạt, thái độ ân cần,
trân trọng. Ông không cho cô gái gọi xe mà tự lôi chiếc xe gắn máy cũ kỹ của
mình từ gầm cầu thang gỗ ra, đạp cho máy nổ giòn rồi mới mời cô lên. Ông đưa cô
về đến nhà xong mới quay trở về, cẩn thận cất xe, lặng lẽ đi lên gác. những đêm
ấy ông thường thức vẽ rất khuya, ánh đèn qua cửa sổ nhà ông có khi còn sáng cho
đến lúc chuyến tàu điện đầu tiên chạy rầm rầm qua phố.
Sau này khi cô đã bỏ đi, có lần có lẽ do quá âu sầu, cần vợi bớt tâm sự đau khổ,
ông hoạ sĩ mời tôi sang nhà chơi, kể cho tôi nghe lịch sử mối tình này của ông.
Ông kể rằng mấy tháng đầu quen biết, mỗi lần cô đến, hai người thường chỉ ngồi
lặng lẽ uống bia, hút thuốc lá, rất ít nói chuyện với nhau. Thường là ông cứ vẽ,
và cô cứ ngồi xem. Thỉnh thoảng, ông dừng tay đến ngồi đối diện với cô. Có lúc,
hai người chỉ bút đàm. Ông lôi từ trong tủ, dưới mấy tập sách dày ra một cái
phong bì to bằng bìa cứng, từ phong bì to lại lôi ra một phong bì nhỏ, trên đề
bằng chính nét viết của ông, nắn nót và trang trọng:
Kỷ niệm những ngày đầu với Thảo
Thảo là tên cô gái. Ông đưa tôi xem “lá thư thứ nhất” viết bằng bút dạ màu xanh
lá cây trên một vỏ bao thuốc lá:
- Cô đang nghĩ gì? Chữ của ông.
- Nghĩ về tôi. Nghĩ về ông. Chữ của cô.
Chỉ có thế.
“Lá thư thứ hai” có ngày tháng hẳn hoi, cũng viết bằng bút dạ màu xanh trên mặt
sau một tờ lịch ngày vừa xé. Đó là gần hai tuần lễ sau lần bút đàm thứ nhất -
ông giải thích với tôi.
- Sao bao giờ cô cũng buồn? Chữ của ông.
- Cuộc đời có gì vui đâu? chữ của cô.
- Cô có thể nói với tôi như nói với một người anh trai chăng? Chữ của ông.
- Hơi vội. Chữ của cô.
“Lá thư thứ ba” viết trên một tờ giấy học sinh có kẻ li bị vò nhầu rồi lại được
vuốt lại thẳng thớm. Có lẽ là vết tích của một trận cãi nhau dữ dội, một thời
gian sau đó, nhưng điều này ông không giải thích với tôi. Ông chỉ cầm tờ giấy,
ngắm đi ngắm lại có vẻ lưỡng lự, rồi chìa ra cho tôi, hai con mắt vẫn đỏ ngầu
vì men rượu.
Lần này cô gái viết trước, nét chữ hoàn toàn của con gái, nhỏ nhắn và mềm mại.
Bằng bút bi, nhưng vẫn là màu xanh lá cây.
- Em yêu anh. Đừng nói gì, hãy trả lời lên đây cho em.
Chữ của ông vẫn to kềnh, xộc xệch và nghệch ngoạc, giống nét vẽ nhiều hơn là chữ
viết nhưng vẫn không dấu được niềm xúc động mãnh liệt:
- Ôi! Em! Anh có thể nói gì với em! Chúng mình cưới nhau đi.
Lại nét chữ cô gái, lần này viết to hơn, ngoáy hơn, các đuôi chữ đều kéo dài một
cách cố ý. Tôi đoán lúc này cô vừa viết vừa cười tinh nghịch :
- Vẫn hơi vội, anh yêu quý.
Đuôi chữ Y sau cùng đang cong lên thì bị kéo một cách thẳng và dài rất mạnh xuống
phía dưới, ngòi bút bị gần cào rách cả mặt giấy. Chắc hẳn lúc này ông đã ôm
choàng lấy cô, hôn cô. Cô ngước mắt nhìn ông và cười với ông, nụ cười bỗng chốc
trở nên đẹp lạ lùng. Một trong những nụ cười hiếm hoi và quý giá của cô, như
sau đó có lần ông tâm sự với tôi.
Tôi không bao giờ hiểu được rằng tại sao ông lại có thể say mê Thảo một cách
nhanh chóng và đau khổ đến thế, ông, người đã ruồng bỏ bao nhiêu cô gái và người
đàn bà đẹp đã đến với ông và yêu ông. Khi Thảo nói cho ông biết cô bị đau tim nặng,
biến chứng của bệnh thấp khớp từ ngày còn bé và từ chối việc cưới xin, ông vẫn
khăng khăng không chịu. Ông bảo:
- Anh không đòi hỏi ở em một nghĩa vụ nào hết. Em chỉ việc sống cạnh anh, không
phải làm gì hết. Chúng ta sẽ mượn người giúp việc, anh sẽ vẽ, anh sẽ có nhiều
tiền. Anh sẽ không rượu chè như bây giờ nữa, anh hứa với em như vậy.
- Nhưng cả nghĩa vụ vợ chồng, em cũng sẽ không đền đáp trọn vẹn cho anh. - Cô
nói như một người đàn bà dày dạn.
- Anh tôn thờ em. Anh sẽ chịu hết.
- Anh sẽ trung thành với em chứ? - Cô nói mà không cười, hai con mắt dò hỏi sắc
sảo.
- Anh nói là anh yêu em mà! Thảo, anh yêu cầu em, anh xin em…
Thảo ngồi trên cái võng, cái võng mắc ngang gian phòng hẹp chưa đầy mười ba mét
vuông của ông, cái võng mà bao nhiêu cô gái đã đến, đã từng nằm, ngồi với ông
trên đó, và ông đều rũ bỏ họ. Còn ông thì ngồi bệt dưới đất, dưới chân Thảo, và
ôm lấy hai đầu gối cô. Như tất cả các nghệ sĩ, ông rất dễ xúc động và ông phải
giữ lắm để không khóc.
Cuối cùng thì họ lấy nhau. Sáng đầu tiên sau lễ cưới, hàng xóm thấy ông họa sĩ
xách cặp lồng ra đầu phố mua phở về cho vợ, chiều lại tay xách hai xô nước đầy
từ máy nước chung lên tận tầng ba cho vợ tắm nữa.
Suốt sáu tháng trời họ vẫn sống với nhịp điệu ấy: buổi sáng ông đi mua phở, về
một lát lại xách làn đi chợ và buổi chiều khi chiếc xe rác đi gõ leng keng trước
đường thì lại chính tay ông bê rác đi đổ. Người vợ trẻ của ông rất ít khi ra khỏi
căn phòng của hai người trừ những lúc ông đưa cô đi ăn hiệu hay về thăm gia
đình. Ban đêm, ánh đèn cửa sổ phòng ông vẫn sáng rất khuya, ông ngồi trước giá
vẽ còn cô thì ra đứng ở bao lơn lặng lẽ nhìn xuống đường. Thỉnh thoảng, khi
sương đêm xuống lạnh, ông hoạ sĩ lại rời giá vẽ, lấy áo ấm ra ân cần khoác lên
vai cho vợ…
Nhưng rồi đến một hôm, hàng xóm lại nghe tiếng bát chén chai lọ rơi loảng xoảng
trong căn phòng nhỏ của ông hoạ sĩ, lần này lại do chính Thảo gây ra. Nghe tiếng
ông dỗ dành và tiếng nức nở của cô vợ trẻ. Những cuộc đụng độ như vậy xảy ra
ngày một nhiều hơn và một lần đang đêm tôi giật mình choàng dậy vì nghe có ai đập
cửa rất mạnh và tiếng nói hoảng hốt líu ríu mà tôi chỉ nghe loáng thoáng được
tiếng “máu…máu…” lặp đi lặp lại. Tôi bủn rủn cả người bước không nổi xuống giường
vì chính đêm đó đứa con trai tôi lại xin phép đi học và ngủ lại nhà bạn. Một
tai nạn đã xảy ra cho con trai tôi chăng?
Chồng tôi là một người bình tĩnh hơn, anh ra mở cửa. Ông hoạ sĩ đứng ngay trước
cửa, hai mắt vẫn đỏ ngầu, mặt tái sạm. Ông nói không ra hơi:
- Mời chị sang giúp chút. Thảo lên cơn thần kinh sao đó, cô ấy đập đầu vào tường,
máu ra nhiều quá.
Tôi chưa kịp dập tắt cơn hoảng loạn này lại rơi vào cơn khiếp sợ khác - nhưng
tôi cũng đủ sức chạy ra:
- Phải gọi cấp cứu thôi. Sao anh lại để cô ấy một mình?
Khi tôi đâm bổ vào nhà, Thảo đã bắt đầu trấn tĩnh. Cô nằm yên, hai mắt nhắm
nghiền, máu vẫn còn rỉ ra ướt đỏ một mảng gối. Dưới ánh đèn huỳnh quang, da mặt
cô vốn xanh xao trở nên trắng bệch, như da người chết. Cô nói yếu ớt:
- Không sao đâu, để mặc em…
Nhà tôi cũng sang, anh xem xét vết thương và nói chỉ rách da đầu, không có gì hệ
trọng. Chỉ cần băng bó lại và để cho Thảo nằm nghỉ tại nhà. Dù sao, cơn chấn động
thần kinh cũng qua rồi.
Họ sống với nhau hai tháng nữa trước khi Thảo bỏ đi. Một buổi sáng rất sớm, đèn
đường chưa tắt, tàu điện leng keng qua cổng mới được vài chuyến, tôi vừa đi xuống
cầu thang vừa làm mấy động tác thể dục thì thấy ông hoạ sĩ từ dưới nhà chậm chạp
đi lên. Ông ăn mặc chỉnh tề, vẫn cái mũ lưỡi trai xám xỉn trên đầu. Trái với mọi
lần, ông không tránh cho tôi đi mà đứng lại trước mặt tôi, nói rầu rầu:
- Thảo đi rồi chị ạ. Cô ấy không cho tôi đi tiễn.
- Cô ấy về nhà bố mẹ hả anh? Tôi hỏi một câu máy móc.
- Không. Thảo làm gì có mẹ, mẹ Thảo bỏ nhà đi từ lúc Thảo mới lên bốn tuổi. Ông
bố đi vào sống với bà mẹ kế trong Quảng Ngãi… Còn mấy anh trai đã lấy vợ ngoài
này nhưng cô ấy không về đâu. Cô ấy bảo với tôi là sẽ lên ở với bà chị cả goá
chồng trên Tuyên Quang…
Và lần đầu tiên tôi nghe ở miệng con người vốn sống khép kín, luôn như ở trong
thế giới khác không giống với thế giới của tất cả những người đang cùng sống
chung với ông ta trong ngôi nhà này một câu mà tôi quả không tin ở tai mình:
- Tôi khổ quá, chị ạ.
Bẵng đi một thời gian, bận rộn với công việc, với gia đình, lại đi công tác xa
mấy tháng, tôi không còn mấy bận tâm về ông hoạ sĩ sống cạnh nhà nữa. Một lần
tôi có hỏi chồng tôi:
- Lâu nay anh ấy đi đâu mà sao em không thấy?
Thì nhà tôi bảo:
- Thỉnh thoảng anh có gặp ở cầu thang, nom buồn lắm. Nhưng anh ấy không bắt
chuyện nên mình cũng không hỏi. Hôm nọ thấy bà chị dâu của cô Thảo đến, xách một
làn nặng, đâu mang thức ăn thức uống gì tiếp tế cho anh ấy thì phải…
Tôi thở dài:
- Thế là cô ấy không trở về nhỉ?
- Ừ…
Nhưng rồi một buổi chiều, lại nghe tiếng gõ cửa. Tôi đang nấu cơm, buông đôi
đũa cả, chạy ra.
- Chào chị. Chị sang chơi bên tôi bây giờ một chút, được không?
Nhìn nét mặt rạng rỡ và nụ cười hiếm hoi của ông hoạ sĩ, tôi tin chắc là cô Thảo
đã trở về nhưng không dám hỏi. Nhưng nếu cô ấy trở về thì ông ta tìm mình sang
để làm gì nhỉ?
- Vâng, anh đợi cho một phút.
Tôi bắc vội nồi cơm trên bếp xuống, lại vội vã chạy ra. Và lùi lại sau, để ông
hoạ sĩ vào nhà trước. Ông bước vào mấy bước rồi đứng dừng lại:
- Chị xem có đẹp không? Có giống không?
Tôi đứng đối diện với bức tranh sơn dầu to choán cả một mảnh tường trước mặt và
sững sờ. Bức tranh toàn một màu thẫm: nâu thẫm, đen, đỏ thẫm… Cô gái trong
tranh ngồi uể oải, hai tay chống xuống giường, đôi mắt dài thăm thẳm, hai bên
khoé môi khẽ nhích lên như sắp thốt ra một điều gì buồn bã, chiếc áo dài màu
đen và cái vòng đỏ thẫm ở cổ tay mảnh dẻ, trắng nuột nà. Bên cạnh, trong một
chiếc lọ gốm thấp màu đất nung, mấy đoá sen trắng như đang khẽ rung rinh, tinh
khiết và buồn. Đúng là Thảo, nhưng là một cô Thảo đẹp, quá đẹp. Không thể tin ở
trên đời lại có một cô gái đẹp đến thế, một cái đẹp u buồn toát lên từ đôi mắt,
từ dáng ngồi, từ hai khoé môi, một cái đẹp đậm đà và nóng bỏng làm ta bỗng dưng
choáng váng, sượng sùng lại vừa bối rối. Cô ta như vừa đang muốn nói ra một điều
gì đó, lại vừa không muốn nói. Vừa như đang ái ngại, thương xót người đứng trước
mặt, lại vừa thương xót chính mình. Ôi có phải đây đúng là cô gái không có gì
đáng chú ý mà tôi vẫn gặp ở cầu thang, đích thực là cô ấy đây ư?
Tôi rời mắt khỏi bức tranh và quay nhìn ông hoạ sĩ. Chắc là nét mặt tôi đã nói
lên một điều gì đó rõ ràng quá khiến ông ta cũng trở nên bối rối.
- Cám ơn chị.
- Chính là tôi phải cám ơn anh… - Tôi lúng búng.
- Tôi vẽ cô ấy qua trí nhớ, chị ạ. Thật ra, tôi chưa lột tả đượcnhững gì đẹp nhất
của Thảo, chính thực là Thảo đâu…
Ông nói, và cố nâng bức tranh lên, quay úp vào tường.
Về sau, qua một vài người quen, tôi được biết đôi điều về cô gái có đời sống nội
tâm lạ lùng ấy. Người ta kể rằng lúc nhỏ, Thảo đã phải chứng kiến những tấn bi
kịch giữa cha mẹ mình, và hồi lên chín tuổi, một lần bị mẹ kế đánh đuổi, cô đã
trốn vào buồng làm việc của cha, uống cả một vị thuốc bất ngờ tìm thấy, định tự
tử.
Mười hai tuổi, cô bắt đầu bị bệnh thấp tim hành hạ. Nỗi buồn và bệnh tật cộng với
một tư chất quá thông minh, nhạy cảm đã biến cô thành một cô gái u ám, luôn day
dứt với chính mình, sống xa cách bạn bè. Cô có khá nhiều người theo đuổi nhưng
không yêu ai, cho đến ngày tình cờ gặp ông bạn hoạ sĩ của tôi trong một cuộc
triển lãm tranh. Mặc dầu tuổi tác quá cách biệt nhưng họ đã cùng tìm thấy một
điều gì đó ở nhau. Nhưng có lẽ, ngay cả ông cũng không thể bù đắp được những
khoảng trống trong tâm hồn cô, không đưa lại được những gì mà cô vẫn lặng lẽ kiếm
tìm chăng? Còn ông, với tài năng hiếm có và bản chất nghệ sĩ của ông, ông đã
phát hiện ra cô, nhưng vẫn không giữ được cô…
Bây giờ, khi tôi ngồi viết những dòng này, thì cả hai con người đó không còn nữa.
Có một lần cô gái quay lại khi ông hoạ sĩ đi vắng, cô vào nhà và nhìn thấy bức
tranh ông vẽ mình. Lúc đầu cô chỉ định về một lát lấy mấy đồ đạc riêng rồi đi,
nhưng khi thấy bức tranh cô đã khóc và nán lại chờ ông. Đêm đó, cô ở lại. Hai
người sống thêm với nhau được đúng một tuần, trong tuần lễ đó họ không một lúc
nào rời nhau. Nhưng rồi cô lại lặng lẽ ra khỏi nhà trong khi chồng cô đang ngủ
vùi. Cô để lại mấy dòng thư viết nắn nót cũng trên trang giấy học trò có kẻ ô,
y như trang giấy mà trên đó một năm trước đây cô đã ngỏ lời yêu với ông. Ông hoạ
sĩ đã buồn bã rút bức thư từ trong cái ví nhỏ cài ở túi ngực ra đưa cho tôi đọc.
Bức thư viết:
- Anh thân yêu - Em xin lỗi anh, trăm ngàn lần xin lỗi Anh. Có lẽ con người em
không thích ứng được với tình yêu, chỉ có thế thôi. Sống cạnh anh, em luôn hoảng
sợ một điều gì đó sẽ xảy ra, hoặc là Anh sẽ hết yêu em, hoặc là em sẽ căm ghét
Anh và đi yêu một người khác. Mà em thì không thể nào chịu đựng nổi cả hai khả
năng ấy. Em yêu anh. Đừng tìm em và đừng lo cho em. Em sống được và sống yên ổn.
Anh yên tâm. Hôn anh triệu lần - Em.
Mấy bà hàng xóm trong khu nhà tôi ở cuối cùng thì cũng tỏ ra thương xót cả ông
hoạ sĩ, cả Thảo và bảo tôi: “Cô ấy đúng là bị tâm thần. Hồi cô ấy mới đến đây,
chỉ nhìn qua là chúng tôi biết ngay…”. Chồng tôi thì không nói gì, nhưng có lúc
đêm đã khuya lắm, nghe những bước chân bồn chồn của ông hoạ sĩ đi đi lại lại
bên kia bức vách, tôi thấy anh khẽ thở dài rồi quay người tìm lấy bàn tay tôi,
nắm chặt. Tôi hiểu anh đang nghĩ gì… Một lần sau một chuyến đi viết trở về, tôi
thấy nhà tôi đi đón. Anh đỡ hành lý cho tôi từ trên tàu xuống, rồi cứ nhìn tôi
trân trân, như định nói một điều gì. Tôi bắt đầu lo:
- Có việc gì thế hở anh?
- Không. Em đi đường khoẻ chứ? Các con khoẻ cả, đừng lo.
Khi về đến nhà, để tôi nghỉ ngơi tắm táp xong xuôi, anh đến bên tôi đang ngồi
trước gương chải tóc, buồn rầu báo tin:
- Cô Thảo mất rồi, em ạ.
- Ai bảo anh thế? - Tôi suýt đánh rơi cả lược, hỏi một câu thảng thốt, vô
nghĩa.
Chồng tôi nói, giọng đều đều:
- Anh ấy được tin, không nói với ai, lặng lẽ ra bến xe lên Tuyên Quang, chôn cất
cho cô ấy. Được mấy hôm trở về, cũng không nói với ai. Suốt ngày đêm cứ ở lì
trong nhà, đóng cửa im ỉm, anh cứ tưởng anh ấy đi vắng. Sau mới thấy ông anh
trai cô Thảo đến, đeo băng tang đen ở tay, mọi người hỏi mới biết… Em yên tâm,
các hộ trong khu nhà đã đến chia buồn. Anh lại sang thăm mấy lần, bảo con Thuỷ
đi mua phở cho bác. Nhưng sáng nay anh ấy đi rồi, đi vào Nam… Cũng cẩn thận lắm,
gửi lời chào em.
Trời ơi! trông anh ấy thế nào hả anh? Mà cô ấy tại sao lại mất? Tôi hỏi dồn dập,
nước mắt trào ra, mà cũng không hiểu rõ rệt vì sao mình khóc.
- Bệnh tim mà em. Bệnh tim, lại thêm tính cách cô ấy như vậy…
Hai năm sau, tình cờ chúng tôi được tin ông hoạ sĩ.
Ông trở về và sống với gia đình người em trai rồi mất hai ngày sau khi bạn bè tổ
chức mừng sáu mươi năm ngày sinh của ông. Từ khi trở về quê hương, ông như người
mắc bệnh trầm uất, suốt ngày dật dờ quanh mấy quán rượu trước nhà và không vẽ vời
gì nữa. Có khi ông, tay chắp sau lưng, cái mũ lưỡi trai bẩn màu xám trên đầu, đứng
sừng sững như trời trồng trên hè phố đông đúc, đôi mắt vô hồn nhìn mà không thấy
gì, tâm trí để tận đâu đâu… Rồi không hiểu sao, một tháng trước khi mất, ông trở
lại say mê vẽ, vẽ ngày vẽ đêm. Có đêm ông thức trắng để vẽ. Nhưng ông không vẽ
tranh nữa mà chỉ vẽ ký hoạ, lúc thì độc một đôi mắt, lúc thì đôi môi, lúc thì
hai bàn tay, lúc thì cả khuôn mặt một người con gái, là Thảo. Có lần ông lên
thang gác, người em dâu nghe tiếng ngã uỵch một cái, chạy ra. Ông đi đâu về,
say quá, lần lên được mấy bậc thang thì bị ngã, ngất xỉu đi. Máu chảy lênh láng
ra sàn đá, thấm ướt cả mấy khăn mặt bông. Nhưng đưa đến bệnh viện băng bó xong,
ông nằng nặc đòi về. Và lại lần đến bàn, ngồi vẽ… Từ khi bỏ không vẽ tranh, ông
cho cất tất cả tranh và khung tranh của ông vào một căn phòng riêng, khoá kín.
Riêng bức tranh vẽ Thảo, ông để trong phòng ngủ của ông và cứ sáng dậy là thắp
thêm vào bên cạnh một nén hương. buổi sáng ông mất, người nhà vào quét dọn thấy
ông nằm như ngủ, cuốn ký hoạ có hàng chục khuôn mặt, đôi mắt, đôi môi của Thảo
và mẩu chì vẽ rơi bên cạnh…
Thanh Hương
Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét