Anh phụ lái vỗ đùng đùng vào hông xe, và cái xe than dừng lại
một cách khó nhọc, đít xe mở ra xọc xạch, thả xuống hai đứa con gái rũ rượi như
hai con bụi đời. Hai bên bờ là rừng cao su đều thẳng tắp, quy củ mà hoang sơ
trong trời xám đất đỏ; trước, sau, đường nhựa uốn dốc, tôi và Hà nhìn nhau bối
rối: "Sao mới đến mà buồn thế này?"
Hai đứa đi giữa lô cao su, vắng lặng và trơn trợt, Hà chỉ lên cao: "Móng rồng
kìa!", rồi chỉ vào gốc cây: "Chén đựng mủ kìa!" xong nhìn tôi
thăm dò, xem thử may ra mấy cái vặt vãnh lạ lùng ấy có thể làm tôi vui lên
chăng. Tôi chưa từng có một mùa hè vui, hè nào cũng đau ốm, hoặc không thì nhân
tình nhân ngãi bỏ, mà chủ yếu là nhân tinh nhân ngãi bỏ. Để đỡ buồn, tôi là vài
việc, khi thì học cắt giấy, tỉa tót những nét tranh bằng cái kéo to cộ; khi thì
cùng một đám bạn đi sưu tầm các quán cafe và ngồi quán nào cũng thấy buồn...Hè
năm nay, một chuyện hiểu lầm vặt vãnh, và Tuyển biến mất, tôi hiểu rằng đó chỉ
là một cái cớ và người ta đi chỉ vì người ta chán, vậy nên tôi nằm nhà, lôi một
chồng tạp chí cũ ra xem, vừa xem vừa ngủ vật vờ, chán nản. Hà bảo: "Mày thảm
quá, xem tao này, tao có buồn đâu nên tao mập!". Tôi cười, nó mập thật, mặt
không một nếp nhăn, mắt không một quầng thâm mất ngủ... Rồi nó cười: "Ở Suối
Tre, nhà cậu tao, mùa này chôm chôm còn nhiều lắm!..."
Có vườn chôm chôm nào đâu, nhà cậu Hà nằm cô độc trên một khu đất không biết
nên gọi là đồi hay u. Một ngôi nhà kiểu Tây đỏ quạch đất bùn, quanh nhà, cỏ mọc
ẩm ướt, buồn thảm. Vài đứa trẻ con trông cũng uể oải như cảnh vật, ngồi trên
thành xi măng bể nước, dùng mấy cành cây ngó ngoáy xuống mặt đất... Thấy Hà, bọn
nó nhảy xuống, rồi nắm níu, rồi hỏi han: "Mẹ đâu, bố đâu?"... ầm ĩ;
còn tôi, hoàn toàn dửng dưng, tôi chỉ muốn có ngay một cái giường để ngủ!
Trong nhà đầy trẻ con. Đứa nào cũng lem nhem, tưởng chừng như đất đỏ ngấm vào cả
da thịt chúng. Cơm chiều, cả nhà quây quần lại nghiêm túc, mấy đứa bé lâu lâu
kêu lên: "Nhặt con đậu đen kìa, cạnh bát canh kìa!"... Hà trấn an
tôi: "Đừng sợ, con này không bẩn, không cắn". Cả nhà nhìn tôi có vẻ
hơi ngộ nghĩnh rồi lại tiếp tục ăn, chỉ một người, một chị tóc dài, thưa thớt,
vàng hoe, mặt thuột ra; chị buông bát đũa, nhìn tôi chăm chú và cười, cười mãi.
Mợ Hai đút bát vào tay chị, và chị ăn, chậm rãi, có vẻ ăn cho mợ vui lòng, vậy
thôi, còn công việc chính lúc này là phải nhìn tôi, nhìn cái đứa sợ giống đậu
đen hiền lành kia, và cười. Hà thầm thì: "Chị Hai đó, ăn đi!", rồi
nó ngạc nhiên hỏi: "Hoài đâu?". Cậu mợ thản nhiên: "Nó đi chơi
rồi!".
Bọn trẻ con vác bộ cờ cá ngựa ra, giảng giải: "Ở đây tối chẳng có chỗ nào
để đi, mưa nữa, bẩn lắm...Sáng mai em dẫn xuống vườn mua sầu riêng... Mấy chị
chơi cá ngựa không?" Và cứ hai người một màu ngựa mà đấm mà đá lẫn nhau.
Hà trầm ngâm trước bàn cờ: "Bọn này hiếu chiến lắm, mình muốn về chuồng
cũng không được. Tao với mày đi thế này nhé, đá là chủ yếu, đừng cho đứa nào
qua!". Rồi rình rập nhau, trẻ con cay cú hờn dỗi, người lớn mưu mô, rồi
la hét ầm ĩ, giường chiếu run bần bật... Tôi dựa lưng vào cái bàn máy may kê đầu
giường, thấy chị Hai đứng đó từ lúc nào, tóc xõa, miệng vẫn cười cười, mắt ngây
ngô vô hồn. Tôi bảo: "Ngồi xuống giường này, chị Hai, đứng chi cho mỏi
!". Không nói tiếng nào, chị vuốt ve cạnh bàn, ngơ ngẩn... Hà lại hét lên:
"Con Thảo sắp về chuồng rồi, bỏ mẹ rồi !", thế là hùynh hụych đuổi
theo con ngựa của Thảo, những cục xí ngầu vội vàng tung lên, rơi xuống, bọn trẻ
con lại rên rỉ...
Cứ vậy đến đêm, mưa ngoài kia rả rích, đậu đen rớt xuống bàn cờ, tôi quay lại,
vô tình tìm thấy chị Hai, và hoảng sợ. Trong ánh đèn nê-ông xanh xao khuất
bóng, một khuôn mặt biến dạng, nó dài ra kì lạ, u uẩn như chìm trong một cơn
đau dai dẳng. Tôi bấm tay Hà: "Chị Hai kìa !". Hà ngước lên nhìn rồi
bình thản bảo tôi: "Tại tụi mình vui quá đó !", quay lại, chị đã biến
mất, như ma, và tôi không còn tâm trí đâu mà chặn đường đấm đá với mấy con ngựa
nữa.
án cờ kết thúc trong những cái ngáp dài, những bóng dáng trẻ con, người lớn
nghiêng ngả dựa nhaụ Hà bảo: "Không có tiền là không thắng nổi"... Bọn
trẻ hỏi: "Hai chị ngủ đâu ?". "Cho tao cái giường cạnh cửa sổ,
không cần gối, với một ly nước để nửa chừng tỉnh dậy tao uống". Rồi hai đứa
tựa thành cửa nhìn xuống khoảng đất dông dốc mờ ảo ngoài kia. Mưa đã tạnh và trời
lạnh lẽo, cây lá thả nước lộp độp theo mỗi trận gió, tôi chợt thắt lòng mà nghĩ
đến Tuyển, giờ này hẳn đang ngủ, mắt xếch mày dài khép lại, cái mặt luôn hờn dỗi
ngoẹo qua một bên gối, và tôi thấy buồn cườị.. Chợt Hà lẩm bẩm: "Vì tình!". Tôi hỏi: "Cái gì?". Nó chỉ về một gốc cây gần bể nước:
"Chị Hai!". Chi Hai ngồi đấy, một cái bóng thẳng đuột như một khúc
cây trông có vẻ ngây ngô, biếm họa hơn là u uẩn hay mơ mộng. Tôi hỏi Hà:
"Lâu chưa? Vì ai vậy?". Nó cười ruồi: "Mấy năm! Thằng cha nào
làm bên bệnh viện, không biết. Mà cũng không hẳn vì tình hoàn toàn, xưa kia bả
cũng tàng tàng rồi, cái ông quỷ kia chỉ là cái cớ thôi..." Tôi cười:
"Tàng tàng mà cũng có người yêu sao?" Hà phì cười: "Yêu hồi nào
Bả lên khám bệnh, mê ổng, còn ổng có biết chị Hai tao là ai đâu!"...À thế
là điên thật, điên có sẵn! Tôi thấy buồn cười, trước đây tôi vẫn quen với hình
ảnh những thiếu nữ thất tình xinh đẹp của tiểu thuyết, đầu đội hoa chẳng hạn,
quần áo vẫn sạch sẽ, đi lang thang vơ vẩn giữa những hàng cây, để lại sau lưng
những chuyện tình đẹp như truyền thuyết. Còn chị Hai của Hà, một mối tình
"độc mã", một gương mặt dài ngây dại, một dáng ngồi thẳng đơ giữa một
đêm miền Đông, trong tiếng côn trùng rỉ rả chán đời!
...Hà khép hai cánh cửa sổ ẩm ướt lại: "Ngủ đi, mai còn ra rẫy!".
"Có gọi chị Hai vào không?". "Không, hồi nữa tự chị vào, mày ngủ
đi!". Tôi chui vào màn, chăn chiếu nồng mùi nước đái, nước rãi trẻ con mê
sảng nhả ra trong đêm, thật khó ngủ. Hà cũng vậy, nó xoay xở như con mậy lộn,
gãi lưng, gãi cổ: "Có kiến". Cửa lớn vẫn mở hé, gió lùa vào lạnh
toát, tôi lay Hà: "Sao không ai gọi chị vào, cảm lạnh chết?".
"Gọi thì không vào, mà không ai muốn nhắc đến chị Hai". "Cậu mợ
mày không thương chị sao?". Hà thì thào: "Dĩ nhiên cậu tao không
thương, mợ tao thương nhưng ngượng, mà chán nữa. Chị Hai là "kỷ vật"
của mối tình đầu đó, cậu tao lấy về sau này mới vỡ lở, mà quê thật, tưởng cái kỷ
vật ấy nó lãng mạn ra làm sao, cuối cùng lại tòi ra cái của này!" Rồi Hà
cười, khịt khịt mũi có vẻ rất vênh váo, bề trên...
Tôi không thích cái lối kể về những ngóc ngách tối tăm của gia đình một cách lạnh
lùng như Hà. Tự nhiên tôi sợ, tôi quay mặt vào tường, nghe bên ngoài rào rạt
lá, biết đâu sẽ có lúc Hà kể lại chuyện không hay của tôi cho một người bạn
thân khác nghe, rồi cũng khịt khịt mũi diễu cợt như đêm nay?
Chúng tôi tỉnh giấc vì qua cửa sổ, nắng chiếu vào thẳng mặt. Ngoài kia, một giống
chim gì đó loé choé, kêu chứ không phải là hót. Giường bên kia, một đứa con gái
lạ, đầu mới gội, mặt đẹp và ngang tàng nhổ tóc ngứa cho chị Hai. Hà hỏi:
"Mày đi đâu bây giờ mới về vậy Hoài?", nó đùa: "Đi ngựa!"
rồi hỏi lại: "Hai chị ăn xôi nha! Ăn đi rồi đi vườn chơi!" Hà rỉ
tai tôi: "Hoài, em tao, quậy lắm!". "Nó học lớp mấy rồi?
", tôi hỏi, "Đang đợi kết quả rớt đại học! Nó mà học gì! Bồ không
hà!". Tôi lại liếc nhìn Hoài, nó cũng nhìn tôi, cười vui vẻ, ý như muốn
nói: "Thôi tôi biết tỏng các chị đang thầm thì cái gì rồi! Mà đâu có sao,
phải không?". Chị Hai ngồi dưới chân giường, mắt vẫn lờ đờ, miệng cười cười,
thỉnh thoảng kêu lên: "Ôi, đau! Nhổ đau quá!". Hoài ấn vai chị
"Im để tôi tết lại nào!", rồi nó bảo: "chừng nào em có tóc bạc tới
phiên chị Hai nhổ cho em nha!". Tôi nằm, nhìn tóc Hoài đen nhánh che nửa
mặt, nửa mặt còn lại trắng như ngọc với mắt rợp, miệng ngang, đẹp như những
hình quảng cáo trang họa báo nước ngoàị.. mà nghĩ: "Đẹp thế này làm sao
già nổi!"
...Cả lũ kéo nhau vào rẫỵ Trời chợt âm u, đường đi lúc lên dốc, lúc xuống dốc...
đến mệt. Hoài khoác tay chị Hai đi cạnh Hà và tôi, mấy đứa em ríu rít sau lưng,
bọn nó gọi: "Xuống rẫy ông Cụt nha chị Hoài!". Hoài giải thích cho
chúng tôi: "Vào rẫy ông Cụt là thoải mái nhất, vừa bán vừa chọ..", rồi
nó dựa vào người chị Hai, cười: "Mốt em có rẫy, cho chị Hai coi việc bán
trái cây, nha! Bán được không?" Chị Hai cười, ngơ ngẩn: "Được".
Mấy đứa trẻ con kêu lên: "Trời! Ai dám cho bà ở chung, thấy bả, ai dám
mua mà bán!". Tôi giật mình, thầm trách sao bọn trẻ con mà độc miệng.
Hoài cũng vừa quay lại, nó hất tóc ra sau, không có vẻ gì là giận dữ:
"Không ở với tụi mày thì ở với tao!", rồi lại ngả vào chị Hai, cặp chặt
tay chị hơn, nó hỏi: "Bà chịu về với tôi không?", chị Hai lại đờ đẫn
cười: "Chịu".
Vào đến rẫy thì trời đổ mưa. Cả lũ chạy vào một căn nhà lụp xụp, trong nhà ngào
ngạt mùi sầu riêng, một ông già cụt tay đang hút thuốc lào lọc xọc, nhìn tụi
tôi, nói: "Mới sáng mà đã mưa há tụi bây!". Trên cái võng mắc chéo ở
góc nhà một anh chàng mắt một mí, có vẻ như mới tập để ria, đang nằm. Thấy Hoài
vào, anh ta ngồi bật dậy, lúng túng nhường võng. Hoài "Ứ" một cái rồi
liếc anh: "Chủ nhật mà không đi chơi sao ông?". "Có ai đâu mà
đi". Hoài giới thiệu với tụi tôi: "Anh Lương, bác sĩ bệnh viện công
ty". Bọn trẻ con lại nhao nhao với tôi: "Công ty cao su gần nhà đó!"... Mưa tạnh, ông Cụt vô ý dục anh bác sĩ: "Tạnh rồi kìa! Đi lẹ
không lại mưa !", anh chàng đến góc nhà, xách một cái túi to đầy chôm chôm,
giải thích: "Người nhà anh dưới Saigon lên! Anh về nha!". Hoài lại
"Ứ", liếc anh: "Về sao, vậy thôi sao?". Anh bác sĩ hiểu
ra, cười: "Em thích gì, lựa đi!". Hoài bảo: "Cho chị Hai lựa sầu
riêng đó!", và chi Hai tình ngay vào góc nhà lựa trái, anh bác sĩ sung sướng
trả tiền cho người đẹp, lũ trẻ con lem nhem đứng cười rạng rỡ, nghĩ rằng phe ta
kì này thế là đã thắng to.
Loanh quanh trong vườn một chút, trời lại mưa, lần này mưa dai dẳng, trời sũng
nước, mấy đứa bé sau khi đã ăn chôm chôm mỏi miệng, đòi: "Về luôn đi chị
Hoài, không tạnh đâu!". Hà cũng nhìn tôi: "Về luôn nha!". Hoài
nhìn trời, ước lượng, rồi "Ừ". Nó bảo ông Cụt: "Bác cho con mượn
cái áo mưa, con đưa chị con về, lát hồi con đem qua." Ông Cụt chỉ lên
vách: "Có tấm ni-lông với cái nón thôi, tao không có áo!" Hoài cười:
"Tốt rồi!", xong gọi: "Chị Hai lại đây!". Nó đội nón cho
chị, choàng tấm ni-lông qua vai rồi buộc lại bằng cái nút to tướng ở cổ, nó ra
lệnh: "Đưa chân ra đây tôi sắn quần cho không té!", rồi dặn:
"Đi từ từ thôi nhe chị Hai!". Chị Hai cười, ngu ngơ, lũ em, tay xách
giỏ, tay nắm quần, cùng cười. Cả bọn lại dò dẫm trên con đường về nhà, đất đỏ
giờ nhão ra, trơn như sáp. Những lô cao su bên đường vắng lặng, gây cảm giác sờ
sợ... Tôi thì thầm vào tai Hà: "Hoài nó thương chị Hai quá ha !". Hà
gật đầu, cười: "Ờ, cả nhà được mình nó, hên mà có nó, không có nó, sau này
chị Hai biết sống với ai !". Tôi thấy điều này hơi ngây ngô, tin sao được
tình cảm một đứa bé mười tám, mười chín, nhất lại là một đứa lang bạt như Hoài
! Vậy nên, tôi chỉ cười nghi hoặc, Hà trợn mắt nhìn tôi: "Thật đó! Nó đi
suốt, nhưng nó mà ở nhà đừng có ai hó hé gì với chị Hai", rồi cũng như
nghĩ lại, Hà buông một câu: "Mà bây giờ thì thế, sau này còn biết bao
nhiêu chuyện, phải không?".
Về thành phố, nghỉ được một tháng, đi học lại được khoảng hai tuần nữa thì tôi
nhận được tin Hoài mất. Một cái chết đuối như mọi trường hợp chết đuối khác, rủi
ro xảy ra trong một cuộc picnic nào đó trên hồ. Người ta phải đau lòng chờ chực
để vớt được xác Hoài, đã căng đầy nước và hồn phách có lẽ đang lang thang ở một
góc trời nào đó. Đưa Hoài về, chị Hai hỏi mợ: "Em đâu?", mọi người lại
oà khóc, khóc nhiều hơn là khi nghe các câu kể lể, than thở khác. Tôi muốn biết
chị Hai có khóc không, Hà bảo: "Tao không hỏi!". Có lẽ cũng không ai
để ý đến điều này.
Lại mưa, mùa mưa. Tôi nghĩ rừng cao su, với những chiếc chén đựng mủ đeo bên
hông cây, giờ này hẳn buồn lắm. Và trong cái nhà ẩm ướt đỏ quạch màu đất ba
gian ấy, chị Hai chắc đang ngơ ngẩn nhìn mưa trong đồi cỏ, tóc dài không ai tết
hộ, lại xõa ra, vô hồn. Phan Thị Vàng Anh Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét