Với một lối tự sự như lôi từ gan ruột, "Gánh xương
trâu" của Hồ Thị Hải Âu nức nở tình yêu thương quặn thắt với người cha còn
hơn cả quý yêu và một mảng quá khứ đầy trớ trêu con trẻ, trong cái Tết còn chiến
tranh, nghèo đói năm nào. Câu chuyện kết rồi, mà ánh sáng tự thân của nó cứ bừng
sáng trong lòng chúng ta giá trị vĩnh hằng của lòng nhân ái. Thì ra dù cuộc đời
có tăm tối, có khó khăn nghiệt ngã và trớ trêu và thất vọng đến đâu, chỉ cần có
lòng nhân từ yêu thương, có một bờ vai tin cậy là con người nhất định sẽ vượt
qua. 1. Thuở bé, đôi khi tôi cảm thấy oán giận cha đẻ mình những
khi bị ông mắng mỏ. Ba vẫn hay đe: "Giá mày là con trai, tao cho nhừ
đòn". Hàng năm, cứ đến ngày tát ao cá của hợp tác xã, họ lại hốt lên hàng
rổ dép guốc của tôi. Ba tôi ra xin lại. Họ nói: "Lần nào ông Ngụ cũng xin
dép". Ba phân bua: "Tại con bé này - ba chỉ tay về phía tôi- có đôi
nào nó lại lia tất xuống ao". Lúc đó, nét mặt của ba thật tội, tôi thấy
thương vô cùng. Tôi lẽo đẽo theo ông về nhà, cùng với rổ dép cũ, tạp nham, lấm
đầy bùn hôi, tanh tưởi. Ba mang đi rửa sạch, rồi bảo: "Thử xem đôi nào vừa".
Chiếc xanh, chiếc đỏ, chiếc rộng, chiếc lại chật văng... Cuối cùng, ba lắc đầu,
bảo: "Để ít nữa, ba sang Hà Nội đổi cho đôi mới". Tôi thừa biết ba sẽ
nói thế, vì cũng như mọi lần, ông chẳng thể nghĩ được cách nào hơn.
Cảm giác xỏ chân vào đôi dép còn thơm phức mùi nhựa, làm tôi sướng rơn. Nhưng
niềm vui dép mới với tôi thật chóng qua. Chỉ được ít ngày, tung tích của chúng
đã nằm gọn dưới đáy ao. Tôi nhấm nháp sự thích thú khi lia từng chiếc dép xuống
mặt nước, nhìn nó nổi lềnh phềnh, rồi từ từ chìm nghỉm.
Nhưng lần này, ba chẳng quát tháo. Ông chỉ lắc đầu, hăm doạ: "Tết này, mày
sẽ được đi chân đất". Tôi không sợ đi chân đất, nhưng ánh mắt ông nghiêm
nghị buồn buồn, khiến tôi ân hận.
Hôm ấy đã là 23 Tết, năm 1965...
2. Mẹ lo âu, nhìn xa tít ngoài vệ sông đang giăng giăng mưa phùn, nói bâng quơ:
"Tết nhất gì, lo quắn ruột". Ba vẫn gõ búa đều tay gò lại chiếc xoong
nhôm đen thui và méo mó, nói: "Giàu hay nghèo thì ai cũng có Tết, đừng
lo".
3. Ngày 24 Tết, trời bỗng hửng nắng.
Cuối đông mà có nắng. Nắng ấm áp. Độ lượng như nằm mơ. Như thể đất trời cũng
thương cho sự Tết nhà nghèo. Ba tôi đánh bùn từ ruộng lên. Ông cố tìm chỗ bùn
nào thật dẻo. Trộn với rơm khô, đạp nhuyễn. Đôi chân ông vật lộn với đống bùn
trộn rơm một cách vụng về, nhưng quyết liệt. Rồi trám. Trát. Vá lại những lỗ thủng
trên bức vách đất đã bị bong ra lở lói. Vừa làm, ba vừa giảng giải cho tôi:
"Phải miết cho kỹ, để rơm quận vào xương tre. Phải láng mịn tay để nước
bùn bóng lên mới đẹp, hiểu chưa?". Ba, bốn ngày sau, trời vẫn tưng bừng nắng.
Cùng với thứ gió hanh hao, nứt nẻ, nắng đã hong khô những tấm vách đất, rất vừa
ý ba. Với hai thùng nước vôi xin các chú bộ đội, ba đã tẩy trắng ngôi nhà như
phép màu trong cổ tích. Đôi lúc, người lớn ghét nhau, rủa nhau là đồ "bạc
như vôi". Riêng tôi tin chắc rằng, vôi làm tôi hạnh phúc. Cái mùi hắc nồng
của vôi khiến tôi sung sướng với một cảm giác mình được đổi đời.
Ngoài kia, mấy bà đi chợ qua, nói vọng vào: "Nhà ông Ngụ sửa Tết được nhiều
chưa?". Rồi họ hối hả bước, chẳng đợi ba trả lời.
4. Sáng ngày 29 Tết.
Trong bếp, con vện đang cố sức đuổi theo chú mèo mướp quanh cái chạn bát. Và
chiến tích của chúng là hất tung những chiếc nồi nhôm đen thui, trống tuếch.
Chúng thi nhau lăn lông lốc. Thi nhau kêu loong coong một cách hết mình. Cảnh ấy
làm tôi thích thú. Tôi bật cười nắc nẻ. Nhưng người lớn không giống tôi. Mẹ vác
gậy đuổi vện chạy quắn cả đuôi, bà ngó trân trân vào đáy những chiếc nồi không
một dấu mỡ và thức ăn nào. Bà thở dài. Ba đứng dậy bỏ đi. Chầm chậm trên lối
mòn ngoằn ngoèo như con rắn, chạy vào làng Nỗ. Tôi nhận thấy bước chân ba nằng
nặng ưu tư. Bất giác, một luồng gió mạnh từ sông ào tới làm ba thấm lạnh. Ông
đưa vội hai tay khép trước bụng để che gió. Và cứ thế bước đi. Đơn độc trên lối
mòn hoang vắng bóng người. Tự nhiên, tôi thấy nghèn nghẹn trong cổ, gọi với
theo: "Ba đi đâu đấy?". Ba không ngoảnh lại, chỉ nói: "Kệ
ba". Mẹ nhìn theo, lẩm bẩm: "Lại vào làng uống rượu", vẻ không bằng
lòng. Tôi bảo: "Mấy bác ấy cũng quý ba thì phải?". Mẹ nói thủng thẳng,
buồn buồn: "Quý, nhưng họ vẫn gọi ba mày là ông Ngụ".
Tôi vô tư cho rằng "Trước nay, họ vẫn gọi thế mà mẹ?". Chị gái tôi phản
đối: "Không phải, ba mình tên khác". Rồi chị hỏi mẹ: "Tại
sao?". Mẹ nói: "Vì nhà mình là dân ngụ cư". Mãi sau này, khi đã
lớn, tôi láng máng nhận ra rằng, ba mẹ tôi đều là những người xuất thân dòng
dõi. Thế rồi, chiến tranh. Loạn lạc. Những thành kiến xã hội... đưa đẩy họ và
lũ con đến sống nhờ ven cái làng khuất nẻo này. Như một hương ước bất thành
văn, dân ngụ cư không được cất nhà ở trong làng. Vì vậy, nhà tôi đứng chơ vơ
bên vệ sông, dưới một gốc gạo to đơn độc. Mặt nhà hướng vào làng Nỗ. Vô tình mà
âm thầm.
Trưa ấy, ba không về ăn cơm, càng khiến mẹ khẳng định thêm ý kiến ban đầu. Chỉ
còn vài chục tiếng đồng hồ nữa là giao thừa. Văng vẳng làng xa, thôn gần, tiếng
lợn kêu eng éc. Sao mà hấp dẫn. Thế mới biết, tập quán thật mãnh liệt. Mặc chiến
tranh. Mặc bom đạn từng phút, từng giây rình rập. Người ta vẫn kiên trì soạn sửa
Tết. Âậy là những gì tôi nghĩ được, khi đã trải qua nhiều cảnh đời. Chứ lúc ấy,
tôi chỉ thấy thèm đến nhỏ dãi. Đến quắt quay cái hương vị tết nhất phả vào mũi
tôi từ phía thôn Đoài. Anh chị tôi theo mẹ ra vườn nhổ sắn. Tôi tha thẩn ra vệ
sông, đăm đắm nhìn về làng Nỗ, với một niềm hy vọng không đâu, nhưng rất đỗi
mãnh liệt...
Kia rồi! Cái dáng xương xương của ba như oằn xuống dưới sức nặng của đôi quang
tỳ trên vai người. Tôi ào tới, hét vang bờ sông:
"B......a.......a....". Tôi sung sướng quá! Ba về, nghĩa là nhà tôi
có Tết. Dù chỉ là không khí Tết trong câu chuyện ba kể, cũng được chứ sao?
Nhưng mà ba đang gánh một gánh gì đó rất nặng. "Gì đó ba?" - tôi hỏi
đầy háo hức. "Xương trâu!"- ba nói hào hển. Ba cười với tôi. Nụ cười
đã bị gánh nặng trên vai kéo lệch đi đôi chút.
"Trời, sao nhiều vậy ba?" - tôi gào lên sung sướng, chân nhảy ríu rít
theo gánh xương trâu cùng ba về tận nhà.
5. Chiều ấy. Tối ấy. Đêm ấy.
Nhà tôi bận rộn và vui hơn Tết. Chị tôi giúp mẹ rửa từng khẩu xương ở ngoài giếng.
Anh tôi nhóm lửa trong bếp. Còn tôi ngồi xem ba sử dụng dao và thớt để chiến đấu
với những khúc xương cứng đầu. Khi mọi người đã quây quần bên bếp lửa, nồi xáo
xương trâu sôi xình xịch, reo vui, chứa chan hy vọng của cả nhà. Ba kể rằng, đấy
là một con trâu già. "Già lắm hả ba?". "Phải, nó không cày được
nữa, nên hợp tác xã cho giết thịt". Mẹ bảo: "Ông rõ dở, mình là dân
ngụ cư, lấy phần làm gì, phiền lắm". Ba nói bình thường: "Không có!
Tôi chỉ giúp họ chia ra gần một trăm phần giống nhau. Mỗi phần phải gồm có đầu,
mông, lườn, đuôi...vân vân. Nghĩa là đủ bộ. Và đấy là một việc khó, bà hiểu
chưa? Xong xuôi, tôi được trả công bằng bộ xương".
Mẹ không nói gì thêm. Anh chị và ba tôi cùng im lặng. Họ đăm đăm nhìn xuyên qua
đống lửa. Tôi thấy trong mắt mỗi người, cũng đang cháy. Bập bùng tận đáy mắt.
Những ngọn lửa không giống nhau, nhưng nóng bỏng và vô cùng mãnh liệt. Tôi
không thấy lửa trong mắt mình. Có thể, anh tôi chị tôi hoặc ba mẹ tôi sẽ thấy.
Tôi chỉ nghe tiếng lửa thét gào. Tiếng nồi xáo xương trâu réo rắt. Và tin chắc
rằng, tôi đã nghe được tiếng thời gian trôi đi ào ạt.
Đêm 29, rồi sáng ngày 30, thật yên ổn. Máy bay ném bom như đã chết dưới mười tầng
địa ngục, nên không nghe nó gầm rít trên đầu. Vì thế, những khẩu pháo cao xạ
cũng nằm yên, hiền như một đàn trâu khổng lồ đang ngủ. Và buổi sáng ấy đã trôi
vào cuộc đời tôi một vùng thời gian cổ tích, bình yên đến nao lòng.
Mùa xuân thật diệu kỳ. Không chỉ là những ngày mưa bụi bay bay, ướt mềm như môi
trẻ. Cỏ cây hút nhựa lên cành, toả mùi hăng hắc, thật dễ chịu. Những tàu lá non
nghên nghển trong gió xuân, hân hoan đón lấy làn hơi ẩm toả đầy không gian....
Mùa xuân còn có cả những ngày như hôm ấy. Nắng hanh hao đủ làm hồng chín những
nụ đào phai mới loé trong vườn. Gió thật nhẹ, mang thêm chút lạnh dây dưa, đủ để
loài người cảm nhận được hơi thở ấm áp phả vào nhau. Cây cối, chim muông và đất
trời chứa đầy xúc cảm. Đến bây giờ, tôi vẫn đinh ninh rằng, lúc ấy tôi đã nghe
được tiếng của cỏ cây. Mẹ mắng. "Vớ vẩn! toàn chuyện hoang đường". Ba
không quan tâm, lại nói lạc đề: "Chiều trừ tịch, đón tổ tiên bằng mâm cơm
với canh xáo xương cũng đủ". Lúc đó, tôi thấy ba thật trang nghiêm và đến
lạ. Hình như người lớn gọi đó là cảm giác thiêng liêng, tôi không được rõ lắm.
Rồi hai phút sau đó, bầu trời pha lê vỡ nát. Lũ quỷ trời ngoi lên từ địa ngục,
rú rít thứ âm thanh của chiến tranh và chết chóc. Bởi thế, nên những con trâu sắt
hiền lành đã trỗi dậy, phun đạn như mắc cửi vào bầu trời. Ba đẩy tôi chạy sấp
ngửa xuống hầm chữ A. Mẹ, anh chị tôi lần lượt theo sau. Cả nhà tôi đứng sát cửa
hầm, nhìn lên bầu trời rách nát. Lúc ấy, và cả bây giờ, tôi vẫn không thể phân
biệt được đâu là tiếng bom, đâu là tiếng đạn pháo. Nó trộn lẫn vào nhau, với cả
ngàn thứ âm thanh huỷ diệt và mất mát. Nó khiến cho trẻ con khiếp đảm đến rụng
rời. Đôi khi bấn loạn quá, tôi đứng khóc tỉ ti trong góc hầm và đũng quần cứ ướt
loang ra lúc nào không biết. Lần này, tôi đứng cạnh những người thân ở cửa hầm,
tuyệt nhiên không hề thấy sợ. Tôi nhận thấy lẩn quất xung quanh thứ mùi khoi
khoi béo ngậy, thật quyến rũ. Như có luồng điện giật trong tim, tôi kêu lên thất
thanh: "Nồi xương!". Rồi như một con rắn, tôi trườn lên khỏi mặt đất,
chạy thục mạng vào bếp. Người nhỏ, nồi to. Chưa lúc nào tôi lại cầu mong nồi
xáo xương nhỏ đi như lúc ấy. Hoảng hốt. Sợ hãi. Tôi luống cuống đánh đổ cả nồi
xáo xuống nền đất. Dòng nước loáng mỡ, cùng với những miếng thịt nhỏ hiếm hoi
chảy loang. Vừa lúc, cánh tay ba chộp lấy cổ áo tôi lôi xệch xuống hầm. Ông gầm
lên: "Mày muốn chết hả?". Tôi chưa hết bàng hoàng khi nhận ra rằng nồi
xáo xương đã tan thành mây khói, thì đã hứng ngay một cái tát của chị tôi:
"Đồ ăn hại... mày là đồ ăn hại!". Rồi chị bưng mặt khóc oà. Anh tôi
há hốc mồm như không tin rằng nồi xáo xương bị đổ. Mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt xót
thương. Đất dưới chân tôi chao đảo, bồng bềnh. Mỗi khắc trôi qua, dài như không
đáy. Cuối cùng thì ba cũng lên tiếng. Ông cười khùng khục, cố ra vẻ tự nhiên.
Nghe thế, chị tôi im bặt, lấy tay quệt nước mắt. Ba nhìn mấy đứa con, giọng đầy
tâm sự: "Đêm qua, ngồi canh lửa nồi xương, ba nhớ ngày xưa bà nội kể rằng:
Ông cu Cối ở trong làng bị chết sớm, đến khi sang cát lại chẳng còn tý xương
nào. Bà bảo, vì ông Cối hay ăn xương trâu nên mọt đục rỗng cả xương". Rồi
ba cười, xoa đầu tôi, an ủi.
Ba vừa ngừng lời là lúc tôi mới bắt đầu khóc. Khóc rống lên, bằng tất cả nỗi ân
hận xen lẫn niềm biết ơn ba chất chứa trong lòng. Không một thứ âm thanh nào lọt
vào tôi được nữa, kể cả tiếng bom đạn thét gào.Chỉ có tiếng khóc tôi tràn ngập
hồn tôi. Trong nhoè nhoẹt nước mắt, tôi thấy ba cười. Thấy tấm vách quét vôi lơ
lửng bay lên. Nồi nước xáo đang bốc hơi thơm phức. Cả đôi dép nhựa đỏ chót... Tất
cả đều bay lên, mờ ảo trong một vùng ánh sáng lung linh.
Khi tôi thôi khóc, thì bầu trời tả tơi đã kịp ắng lại. Dường như, từ xa xăm
vĩnh hằng của thời gian, nơi đây vẫn là bầu trời cổ tích, chưa từng có chiến
tranh.Nắng vẫn hanh hao một sắc vàng êm ái. Gió vẫn nhè nhẹ, thổi về một màu
xanh của xuân tươi. Chị tôi chạy từ bờ sông về, cười giòn thanh như miếng khế
ngọt: "An ơi, cho em con trâu lá này". Bên sông, chuông chùa Tịnh thỉnh
mấy hồi gióng giả. Hình như, đã đến giờ cầu kinh chiều.
6. Chiều nay, cũng một chiều trừ tịch. Nơi đó, chỉ tôi và dòng sông đối diện,
nhưng cả hai đã hoàn toàn đổi thay. Tôi già đi, còn sông thì bé lại. Cũng như
tôi, mẹ và các anh chị không còn ở đây nữa. Ngôi nhà tranh vách đất. Gốc gạo.
Ao bèo... cũng không còn. Chỉ có ba ở lại. Vĩnh viễn. Tôi nhận thấy dáng người
xương xương của ba oằn xuống dưới sức nặng của gánh xương trâu, đang chạy dọc bờ
đê... Chạy ngang qua chỗ tôi đứng. Và chạy mãi... Người đàn bà 47 tuổi bỗng khóc
ào như trẻ nhỏ: "Ba ơi...".
Hà Nội, ngày lạnh cuối đông 2002 Hồ Thị Hải Âu Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét