Thứ Năm, 11 tháng 7, 2024

Thành phố đen 2

Thành phố đen 2

Chương 5
Năm Thứ Hai
Vì ngủ suốt ba ngày liền nên Alanna né tránh được những câu hỏi về vai trò của cô trong việc chữa bệnh cho thái tử Jonathan. Sau này khi được hỏi, cô đẩy đa phần công trạng về phía Sir Myles, và mỗi lần hiệp sĩ hướng câu chuyện về đêm hôm đó thì Alanna lại đổi đề tài ngay. Cô biết Myles đang quan sát cô, nhưng cô không hé nửa lời, bởi cô biết có nói ra chuyện này với ông thì thể nào họ cũng sẽ khêu dậy tất cả những cuộc bàn luận xưa.
Cả hoàng tử Jonathan cũng quan sát cô, nhưng anh không bao giờ đề cập tới đêm đó. Câu chuyện càng ít được bàn tán thì Alanna càng yên tâm và hạnh phúc. Thỉnh thoảng cô cũng tự hỏi liệu Jonathan có lúc nào nhớ tới cái địa điểm kỳ ảo đó, mảnh đất nằm chênh vênh giữa cái sống và cái chết. Rất có thể anh ấy không nhớ được, anh không bao giờ nói đến đề tài này.
Cuối cùng thì mùa đông lạnh giá cũng nhường chỗ cho mùa xuân và Alanna lại mở ra những bộ phục trang nhẹ nhàng hơn. Một sáng nọ, cô mặc quần áo trong sự bồn chồn không tả xiết. Hôm nay các tiểu đồng sẽ được phép thực hiện cú phi ngựa về bến cảng Caynn mà người ta hứa hẹn với họ đã từ rất lâu rồi, và Alanna hầu như không ngồi yên được lấy một chút. Thế rồi đột ngột, cô cứng đờ ra trước khuôn gương dài. Cô nhìn thật chăm chú hình ảnh của mình rồi nhảy lên nhảy xuống.
Chưa thấy gì nhiều, nhưng đã rất rõ ràng: có cái gì động đậy. Qua mùa đông vừa rồi, ngực cô đã bắt đầu lớn lên. “Chú Coram!” cô thét lớn. Những giọt nước mắt thịnh nộ cháy buốt lên trong mắt.
Người hầu lảo đảo với hai con mắt lờ đờ vào phòng cô. “Đã có chuyện gì rồi hả?” Ông vừa hỏi vừa ngáp.
Alanna bước ra từ tấm bình phong và giật áo sơ mi khỏi người. “Chú đến chỗ những người thầy thuốc ngay lập tức và mang về đây cho cháu vài cuộn vải băng, nhưng mà phải thật dài. Chú cứ bịa ra chuyện gì với họ cũng được, nhưng mà đi lấy ngay cho cháu!” Coram bối rối chạy đi, nhưng chỉ vài phút sau đã quay trở lại và ném một cuốn vải trắng lên phía trên bình phong. Alanna tóm lấy chúng và quấn chặt ngang ngực.
“Cháu đang lớn lên thành phụ nữ, chú nói có đúng không?” Người hầu hỏi từ phía bên kia bình phong.
“Không!” cô thét lên.
“Đó là chuyện không thay đổi được đâu, bé con! Cháu sinh ra đã như thế...”
Alanna bước ra từ phía sau tấm bình phong, hai con mắt đỏ và sưng. Cô vừa mới khóc, nhưng Coram biết rằng tốt hơn cả là ông đừng nói tới chuyện này. “Có thể cháu được sinh ra như thế, nhưng cháu không cần phải chấp nhận!”
Người lính già hoảng sợ nhìn cô. “Bé con, cháu phải chấp nhận bản thân mình chứ”, ông phản đối. “Cháu vẫn có thể vừa là đàn bà vừa là một chiến binh!”
“Cháu căm thù cái việc làm đàn bà!” cô thét lên. “Người ta sẽ cho cháu là một thứ yếu ớt và ngớ ngẩn!”
“Này, không ai nói cháu là đồ yếu ớt”, người hầu cứng giọng đáp, “mà cháu cũng chỉ là đứa ngớ ngẩn vào những lúc giở chứng lên như bây giờ.”
Alanna lấy hơi thật sâu. “Những gì cháu đã bắt đầu, cháu quyết làm cho tới cùng”, cô bình tĩnh tuyên bố.
Người lính già đặt một bàn tay trên vai cô. “Alanna, bé con, cháu chỉ trở thành người hạnh phúc nếu biết chấp nhận bản thân mình.”
Cho chuyện này thì cô chưa biết câu trả lời. Mà ông cũng không mong chờ điều đó. “Nếu hôm nay xuống được thành phố, chú sẽ xoay thêm cho cháu ít vải băng nữa”, ông nói, “nhưng tốt hơn là giờ hãy lên đường đi. Nếu không cháu sẽ đến trễ.”
Sống với một cuộn băng trên ngực quả thật chẳng dễ dàng. Hai vùng ngực đang mọc cứ đau nhói lên, mặc dù cũng may cho cô là chúng tương đối nhỏ. Giờ thì mỗi lần cởi sơ mi ra là Alanna lại phải thận trọng gấp đôi, mà trong mùa hè này các cậu học trò cứ đua nhau ép cô phải cởi bỏ hết quần áo. Thời gian tốt nhất cho chuyện này là lúc các cậu đi bơi. Suốt một mùa hè, Alanna khăng khăng không chịu xuống nước, mặc kệ cho người khác có sử dụng những nghệ thuật thuyết phục nào chăng nữa. Và những cố gắng ép buộc của họ cũng không bao giờ đi quá những lời thuyết phục. Không một ai trong số họ quên được chuyện Ralon von Malven.
Một ngày đầu tháng tám. Raoul thử vận may của mình. “Nào, xuống đây đi, Alan”, chàng thanh niên châm chọc. “Chỉ vẫy nước một chút cho vui thôi. Hay em sợ em rửa trôi mất lớp áo giáp bằng bụi hả?”
Alanna chán ngán đến tận cổ. Mặt đỏ bừng, cô nhảy chồm dậy. “Em căm thù cái chuyện bơi với vẫy”, cô thét lên, “mà em cũng không thấy nóng gì hết - để cho em được yên!”
Có ai đó cười khúc khích. Raoul lớn hơn cậu tiểu đồng đang long mắt lên trước mặt anh cả một cái đầu.
“Alan, cậu ta chỉ muốn trêu em thôi!” Alex kêu lên.
“Em quá ngán cái trò suốt ngày bị trêu với chọc!” cô sỗ sàng đáp. “Suốt cả mùa hè này em đã phải chịu đựng chuyện đó. Tại sao em lại không được phép sống theo ý mình mà không bị trêu chọc suốt ngày?”
Raoul nhún vai, ngược hẳn lại với Alanna, hầu như chẳng có gì khiến cho chàng thanh niên này mất bình tĩnh. “Thôi được, nếu em nhạy cảm đến thế thì anh không làm phiền em nữa.”
“Tốt!” Cô long mắt nhìn những người khác trong vẻ giận dữ. “Chừng nào em chưa bốc mùi thối thì em không bao giờ còn muốn nghe một câu nào về chuyện này!”
Tất cả ngượng ngùng im lặng. Cuối cùng Jonathan lên tiếng: “Quay xuống nước đi, Raoul. Người ta không cãi nhau với Alan được đâu, cậu này điên rồi.”
Vẫn còn hơi run, Alanna quay lại với bóng râm của mình. Cô hơi ngượng và đây không phải là lần đầu tiên cứ mong ước có thể kiềm chế tốt hơn tính tình nóng nảy của mình.
Suốt phần còn lại của buổi chiều hôm đó, những người khác để cho cô được yên. Khi cưỡi ngựa về nhà, Alan thúc Pummel lên phía trước, đuổi kịp Raoul. “Raoul?” cô nói khẽ. “Em có thể nói chuyện với anh một chút không?”
Họ đi chậm lại cho tới khi những người khác đã vượt lên trên. “Em lại muốn la anh một trận nữa sao?” Raoul hỏi thẳng.
Alanna đỏ mặt lên và nhìn xuống yên cương. “Không. Em muốn xin lỗi. Lẽ ra em không nên mất bình tĩnh như thế.”
Raoul cười. “Mà anh cũng muốn chọc em thật”, anh thú nhận. “Dĩ nhiên là em phải bực thôi. Thật sự là em có quyền sống theo ý mình.”
Cô ngạc nhiên nhìn anh. “Em có quyền sao?”
Raoul nhăn trán. “Thật ra anh không muốn nói về chuyện này, nhưng giờ có cơ hội thì anh nói luôn. Alan, có vẻ như em nghĩ rằng bọn anh sẽ không ưa em nữa, nếu em không làm tất cả mọi chuyện y hệt như bọn anh. Chẳng lẽ chưa bao giờ em nảy ra ý nghĩ, rằng có thể bọn anh quý em chính vì em khác với mọi người?”
Alanna nhìn anh trân trân. Có phải anh lại chọc cô?
Raoul mỉm cười. “Tụi anh là của em, Alan. Đừng nghĩ rằng tụi anh dễ dàng nổi giận với em vì một chuyện vặt vãnh.”
“Này, Raoul!” có ai đó gọi từ phía trên. “Lại đây, giúp chúng tôi phân xử một trận cá cuộc!”
Chàng cận vệ to khỏe gật đầu với Alanna rồi thúc ngựa phi lên phía những người đi đầu nhóm.
“Em giảng hòa với cậu ta rồi hả?”
Alanna xoay đầu lại. Gary, chàng cận vệ lực lưỡng thứ hai, đi ngựa ngay sát phía sau cô.
“Anh không biết trò nghe trộm là mất lịch sự ư?” cô bực dọc.
Chàng ta cười. “Làm sao mà anh có thể biết được chuyện gì nếu không nghe trộm? Nghe này, cái trò cãi cọ mãi không thôi này làm anh ngán tới đỉnh não rồi. Anh sẽ lo lắng sao cho không ai ép em đi bơi nữa.”
Alanna cúi đầu xuống. “Em không muốn gây chuyện phiền toái”, cô lẩm bẩm.
Gary cười vui vẻ. “Dĩ nhiên là em sẽ gây chuyện phiền toái thôi. Đó mới chính là điều khiến em thành thú vị thế. Đi nào. Ta phải đuổi kịp những người kia.”
Cô thúc ngựa bám theo khi Gary tiến qua một trong những cánh cổng cung điện. Gary và Raoul vừa khiến cô phải suy nghĩ. Cái ý tưởng rằng người ta có thể quý mến cô chính bởi cô khác những người khác dĩ nhiên là chuyện vớ vẩn. Gary và Raoul chuyên nói những chuyện kỳ quặc, nhất là từ khi họ trở thành cận vệ.
Sau khi đã đưa ngựa vào chuồng, Gary và Alanna bước dấn lên cho kịp Jonathan. Ở khoảng sân phía trước chuồng ngựa có rất nhiều ngựa thồ và lừa thồ đang đứng, chờ được cho ăn và được chăm sóc.
“Nhìn như thể có một vị khách quan trọng vừa tới”, Jonathan nói. “Đi thôi! Ta đến phòng tiếp khách xem đó là ai.”
Ba cậu con trai vội vã chạy dọc những khoảng hành lang trong cung điện, cuối cùng họ đến được phòng đón khách, ở đó có để một đống hành lý khổng lồ, cái quả núi hành lý đó mỗi lúc một vơi xuống dưới sức chuyên chở của cả một đội quân gia nhân. Một người đàn ông cao lớn, vẫn còn khoác tà áo choàng đi đường đầy bụi, đang đứng ra lệnh cho gia nhân cung điện cũng như gia nhân của ông ta.
Jonathan kêu lên một tiếng sung sướng. “Roger!” Hoàng tử chạy thẳng về phía người mới tới và ôm choàng lấy ông, trong khi Alanna và Gary dừng chân lại gần đó.
Ra đó là anh họ của Jon, Alanna nghĩ thầm và quan sát người nọ. Công tước Roger von Conté cao trên một mét tám và có mái tóc màu nâu đen, gương mặt điển trai được viền quanh bởi một bộ râu tỉa tót rất kỹ lưỡng. Mắt ông mang một màu xanh nhạt tinh anh. Chiếc mũi thẳng cân đối, đôi môi đỏ đầy đặn. Nụ cười rạng rỡ của ông đầy nét duyên dáng và tự tin. Ông có bờ vai rộng và thân hình cuồn cuộn cơ bắp với hai bàn tay trông rất mạnh mẽ. Rất điển trai, Alanna tổng kết. Thế tại sao mình không thích ông ta? Nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ thì mình vẫn hoàn toàn không ưa người này chút nào!
“Vậy là cuối cùng ông ta đã đến nơi”, cô lẩm bẩm về phía Gary. Cô quyết định để chút nữa mới tiếp tục cân nhắc xem tại sao cô không ưa người anh họ của Jonathan.
“Anh, e hèm, anh có tình cờ nghe được rằng...”
“Anh lại nghe lỏm phải không”, Alanna nghiêm nghị nói.
“Như đã nói, anh hoàn toàn tình cờ nghe thấy rằng ông ấy sẽ dạy pháp thuật cho tất cả những người nào có năng khiếu”, Gary nói tiếp. “Mà ngoài ra nhà vua còn muốn ông ấy tìm cho ra kẻ nào đã gửi căn bệnh đổ mồ hôi đến chỗ chúng ta, mặc dù những kẻ đó chắc không dám giở lại một trò như thế, khi công tước Roger đã có mặt ở đây. Mọi tay pháp sư của mảnh đất miền đông giờ đây chắc phải cân nhắc hai lần trước khi dám ra mặt chống lại ông ấy.”
“Ông ấy giỏi thế sao?”, Alanna trầm ngâm hỏi.
“Đúng, ông ấy rất giỏi.”
Công tước Roger bước về phía họ. Một cánh tay của ông choàng qua vai Jonathan. “Vậy là em sẽ tiếp tục phát triển năng khiếu của mình nhé? Ta sẽ rất vui khi được dạy cho em, cậu em họ thân yêu!” Người đàn ông chìa một bàn tay về phía Gary. “Cậu là chàng Gareth von Naxen trẻ tuổi, đúng không? Cậu lớn lên rất nhiều kể từ lần cuối tôi gặp cậu.”
Gary nồng ấm bắt tay người lớn tuổi hơn. “Ai cũng nói thế, thưa ngài. Thậm chí cha tôi cũng nói thế, mặc dù người nhìn thấy tôi mỗi ngày.”
Roger cười nhẹ. “Chắc chắn là cha cậu có lý.”
Ông ta nói bằng giọng tương đối trầm, cái giọng du dương nhất mà Alanna từng nghe thấy. Cô sỗ sàng nhìn trân trân vào mặt ngài công tước khi ông ta quay sang phía cô. “Còn cậu nhỏ? Những cặp mắt và mái tóc như của cậu chắc là tôi sẽ nhớ rất lâu, tôi tin chắc như vậy.”
“Công tước Roger von Conté, cho phép tôi được giới thiệu: Alan von Trebond”, hoàng tử Jonathan trịnh trọng nói.
“Trebond?” Ngài công tước mỉm cười khi Alanna cúi chào. “Ta có nghe nói đến cha cậu. Ông ấy là một học giả nổi danh, đúng không?”
Toàn thân Alanna run bắn - mi giống hệt một con ngựa nổi cơn sợ hãi, cô mắng mỏ mình. Cô vòng tay sau lưng rồi mới trả lời: “Tôi cũng tin như vậy, bẩm tướng công!”
“Ô, thôi nào!” người đàn ông phản đối. “Huân tước Roger là đủ rồi, mà kể cả chữ huân tước thì ta cũng sẽ sẵn sàng bỏ qua nếu ta không biết rõ là công tước Gareth sẽ kinh hoàng tới mức nào. Ta có cảm giác già nua khi bị người khác đối đáp bằng câu “bẩm tướng công”.”
Jonathan cứ chờ Alan sẽ buông ra một trong những câu trả lời láo lếu thường trực của cậu, và khấp khởi nhìn anh bạn trẻ của mình, nhưng hoàng tử ngạc nhiên thấy Alan không hề lộ vẻ yêu thích công tước Roger. Cậu ta trông lại có vẻ trầm ngâm.
“Anh sẽ ở đây bao lâu?” Để mọi người đừng chú ý đến sự im lặng kỳ quặc của Alan, Jonathan lên tiếng hỏi.
“Chú tôi có nói, ông muốn tôi ở lại đây một thời gian”, Roger đáp rồi nhìn xuống mặt hoàng tử. “Hãy sắp xếp chốn ở nơi đây sao cho thoải mái như ở nhà, ông đã nói như vậy.” Ngài công tước nhún bờ vai đồ sộ. “Tôi cho rằng những ngày lang thang của tôi đã chấm dứt.”
Jonathan cười. “Đằng nào thì em cũng không hiểu tại sao anh cứ luôn né mặt bọn em như thế.”
“Tôi đâu có né mặt mọi người”, Roger sửa lại. “Tôi học hỏi. Đó là một sự khác biệt lớn lao. Bây giờ em có rủ lòng thương mà đưa tôi đến gặp cha mẹ của em không? Tôi tin rằng đã tới lúc tôi phải ra mắt Chúa Thượng.”
Alanna nhăn trán đứng nhìn hoàng tử bước đi cùng người anh họ. Cô rùng mình xua cảm giác khó chịu đang bám quanh cô như một lần vải phủ.
Gary nhìn sâu vào mắt cô. “Em sắp sửa đổ bệnh phải không, bé con?”
Alanna nôn nóng so vai. “Cả đời em chưa bao giờ ốm cả.”
“Thế thì có chuyện gì xảy ra với em thế? Ông ấy nói năng rất vui vẻ với em, còn nếu mà em là một con chó thì chắc em đã dựng hết lông gáy lên rồi.”
“Nhưng em không phải một con chó”, cô bực bội nói. “Ông ấy có lý do gì để thân thiện với em kia chứ? Ông ấy vừa mới gặp em thôi mà.”
“Nhưng chắc chắn ông ấy đã nghe kể về em, vì em đã giúp Jon khỏi bệnh. Lại có chuyện gì nữa hả?” Đôi mắt Alanna đang ánh lên một vẻ kỳ quặc. Nếu Gary không hiểu rõ người bạn nhỏ của mình, chắc là chàng thanh niên đã quả quyết đó là ánh mắt sợ hãi.
“Em không thích người lớn quan tâm đến em”, Alanna đáp. Cô quả thật đang sợ. “Em không thích những người khác thò mũi vào chuyện của em. Và em lại càng không thích nếu họ là pháp sư. Đi thôi, nếu không mình chậm bữa tối mất.”
Gary bước theo. Phản ứng của Alan khiến chàng thanh niên bối rối cùng cực. Có phải cậu nhỏ đang che giấu điều gì? Đó là chuyện mà mình cần phải suy nghĩ cho thật kỹ, chừng nào không có việc gì hay hơn.
Ngay sau ngày Roger về đến cung điện, tất cả các tiểu đồng và các cận vệ được gọi đến cho ông gặp mặt. Ông muốn hỏi từng người để xác định xem ai có năng khiếu, ai không. Người ta thì thầm với nhau rằng ngài công tước cũng sẽ biết được điều đó ngay khi có người muốn tìm cách che giấu. Mãi gần cuối mới tới lượt Alanna được gọi. Cô siết hai bàn tay đẫm mồ hôi thành nắm đấm khi bước vào phòng làm việc của công tước Roger. Ngài von Conté đang ngồi thoải mái trong chiếc ghế có lưng tựa rất cao và xoay xoay cây đũa phép dát ngọc quý giữa những ngón tay. Ông ta mặc một tà áo óng ánh sặc sỡ và quần ngang đầu gối màu tím. Nếu có điểm gì ở người đàn ông này khiến cho Alanna khâm phục, thì đó là khiếu thẩm mỹ trong chuyện trang phục.
Ông mỉm cười. “Alan von Trebond.” Ông ta chỉ về phía một chiếc ghế đứng trước bàn làm việc. “Xin mời ngồi.”
Alanna cẩn thận ngồi xuống và đặt hai bàn tay vào lòng. Mọi dây thần kinh trong cơ thể cô căng lên, cảnh giác. Cô đâu có cố gắng hết sức mình để rồi giờ đây bị lật tẩy.
“Ta có nghe nói là em đã sử dụng pháp lực để cứu em họ ta khỏi bệnh sốt đổ mồ hôi.”
“Sir Myles đã dẫn dắt em, thưa ngài.”
“Những chuyện như thế đòi hỏi rất nhiều sức lực. Em đã chấp nhận một mạo hiểm lớn.”

“Bà lang ở làng em đã dạy chúng em chữa bệnh. Và sau đó thì em quả thật đã kiệt sức mấy ngày liền.” Alanna quan sát ngài công tước. Có vẻ như ông tin rằng Sir Myles đã thực hiện những công việc tinh thần, trong khi cô chỉ cung cấp sức lực mà thôi. Myles vậy là không hé nửa lời về đêm ấy. Cái đó hay.
“Giờ ít nhất thì ta cũng không cần phải đặt ra những câu hỏi vô ích đối với em. Tất cả chúng ta đều biết là em có pháp lực. Mà rất nhiều là đằng khác. Bà thầy lang ở làng em đã dạy cho em?”
“Vâng, bẩm ngài. Cha em không biết chuyện này. Ông không muốn chúng em học pháp thuật, ông sẽ nổi cơn thịnh nộ nếu biết là em được học pháp thuật ở đây.”
“Thế thì chúng ta sẽ không lộ cho ông ấy biết. Em có nói từ chúng em. Hãy kể cho ta nghe về anh trai của em. Theo những gì ta được biết thì các em là một cặp song sinh.”
Hai con mắt sáng màu của Roger nhìn chằm chằm vào mắt cô. Alanna nhướn lông mày lên, đưa tay dụi trán. Thật đột ngột, đầu cô đau như búa bổ.
“Anh ấy đang ở Thành Phố Thánh Thần, bẩm ngài. Cha em gửi anh ấy tới đó để học làm cha đạo, nhưng em tin rằng anh ấy định theo đuổi nghề pháp thuật.”
Roger mỉm cười. “Một mục đích rất đáng nể. Cậu ta tên gì?”
“Thom, bẩm ngài.” Tại sao ông ta lại nhìn cô chăm chăm như thế?
Ngài công tước giờ mới nhìn xuống cây đũa phép dát ngọc trong hai bàn tay mình. “Cứ nói đến em là người em họ của tôi lại khen ngợi hết lời, Alan von Trebond.”
“Bọn em là bạn bè, bẩm tướng công.” Cô phát hiện thấy cô không thể rời ánh mắt khỏi ông ta.
“Ngài công tước Gareth cũng rất khen ngợi em. Sau những gì mà ta nghe được thì em là một chàng trai trẻ được tôn trọng hết mực.”
Alanna ngượng ngùng đỏ mặt. Nếu họ biết được sự thật, chắc họ sẽ không nói tốt về cô đến thế. “Tướng công rất nhân từ.” Cô cứ thầm mong ông ta sẽ để cho cô được đi. Cô chưa bao giờ đau đầu dữ dội như bây giờ.
Roger thở dài. Thật đột ngột, Alanna thấy mình lại có thể dứt ánh mắt đi chỗ khác và những hồi búa thúc trong đầu cô dịu hẳn xuống.
“Còn ta thì hiếm khi nhân từ, Alan.” Người đàn ông gõ gõ cây đũa phép một lúc vào lòng bàn tay mình. Cuối cùng ông ta nói: “Ta tin rằng. Ta đã biết được những gì ta cần phải biết. Sáng thứ hai, sau giờ điểm tâm, hãy đến Phòng Mặt Trời của ta. Giờ em có thể đi.”
Vẻ hàm ơn, Alanna cúi chào rồi đi ra ngoài. Vẫn còn tiếng búa gõ trong đầu. Cô thấy mình kiệt lực và hơi chòng chành chóng mặt nữa. Chú Coram bất chợt hiện ngay bên cạnh cô. Người lính già lo âu nhăn trán. “Sao?” chú hỏi.
Alanna không hỏi tại sao chú lại biết chuyện. Người ta hầu như không thể giấu được gia nhân trong cung bất cứ việc gì.
Cô đưa tay dụi hai bên thái dương. “Có thể cháu bị điên rồi. Tại sao cháu lại có cảm giác như trong kia vừa xảy ra nhiều chuyện hơn chứ không phải chỉ là vài câu hỏi?”
“Bởi vì có lẽ nó như thế thật.” Chú Coram kéo cô vào một phòng còn trống. “Ta có nghe nói, ngài công tước von Conté có thể bẻ gãy ý chí con người ta và bắt nó tuân lệnh ông ấy”, chú thầm thì. “Họ nói rằng, ông ấy có thể thò tay vào đầu cháu rồi thúc cho cháu nói ra những gì mà ông ấy muốn biết. Ngoại trừ trường hợp cháu đủ khả năng tự vệ, và trong đầu cháu có một bức tường che chắn mà ông ta không vượt qua được.”
“Cha, cháu đâu có biết mấy cái ngón pháp thuật đó”, cô cộc cằn đáp, cơn đau đầu khiến cô cáu kỉnh, “nhưng ông ấy sẽ không bao giờ biết được điều gì mà cháu không muốn nói ra. Cháu tin chắc như thế.”
“Vậy thì pháp lực của cháu mạnh hơn của ông ta”, chú Coram nói. “Hay là cháu được thần linh che chở.”
Đến đây thì Alanna thấy quá sức chịu đựng. Cô bật cười lên và thúc khuỷu tay vào sườn chú Coram. “Chắc là chú uống trộm rượu vang của bà đầu bếp nên mới nói năng như thế? Chả lẽ các vị thần linh lại che chở cho một đứa như cháu? Còn ông ấy thì thúc được cháu nói ra những điều cháu không muốn nói ư? Thôi, chú thôi đi nào!”
Chú Coram mở cửa. “Thích thì cứ cười đi.” Chú nhún vai. “Ta chỉ là một gã đàn ông già nua không hiểu biết, thích nghe kể chuyện cổ tích bên bếp lửa. Nhưng nếu tất cả những gì họ nói chỉ là trò nhố nhăng, thì hãy giải thích cho ta biết: tại sao trông cháu như vừa bị dần một trận đòn nhừ tử.”
Không có câu trả lời, và Alanna thậm chí không gắng sức đi tìm câu trả lời.
Vào một buổi tối mùa thu, cậu chăn ngựa Stefan trao cho Alanna một tờ giấy.
“Em đang muốn tìm một con ngựa”, tờ giấy viết như vậy. “Anh có một con, xuống phố nhanh như có thể. Georg.”
Một con ngựa! Một con ngựa thật sự, một con ngựa như ngựa của một chiến binh! Alanna liến thoắng viết những con số lên giấy. Sau khi tính toán cẩn thận, cuối cùng cô kết luận là mình có đủ tiền để mua, nếu đó là con ngựa thích hợp với cô. Thoáng chút buồn rầu, cô tự nhủ sẽ giã từ tất cả các món kẹo bánh trên đời trong một khoảng thời gian thật dài. Nó cũng đáng cho cô hy sinh thật, thay vào đó cô nhận được một con ngựa tử tế. Cô đã quá ngán cái trò cưỡi ngựa của cung điện, con Pummel thì đã già nua và đến lúc cần được nghỉ ngơi. Cô biết rất ít về chuyện mua ngựa, và ở số tiền khổng lồ để làm chuyện đó thì cô rất muốn nghe ý kiến của một người hiểu biết. Liệu có thể hỏi ai đây? Vì môn vật vào các buổi chiều là môn tồi tệ nhất của cô, nên Alanna chỉ có thể đi xuống thành phố vào buổi sáng. Chú Coram vậy là không đi được, vì sáng sáng chú phải gác. Mà ngoài ra Coram cũng không hề biết chuyện anh Georg, và Alanna không muốn chú biết. Vì một lý do nào đó, cô ngại rằng người lính già Coram có thể không tán thành mối quan hệ của cô với Georg. Gary càng không thể đi cùng, anh ấy vừa thêm một lần bị cấm ra ngoài vì một trò nghịch ngợm.
Cô cắn cắn móng tay cái. Cô có thể rủ ai cùng đến chỗ Georg?
Hễ Jonathan bước một bước là Alanna phải bước hai bước. Qua đó, cuộc đi bộ xuống phố trở nên vội vàng, nhưng nó lại rất thích hợp với một ngày thu se lạnh. Alanna nhìn người bạn mình và cân nhắc. Hoàng tử, người vừa tròn mười lăm tuổi trong tháng tám vừa qua, đang lớn lên rất nhanh. Giờ đây anh đã cao một mét bảy. Cả giọng nói cũng trầm hơn và thỉnh thoảng lại đổi khàn khàn, giống y hệt như giọng của Gary và Raoul trong năm trước. Chẳng bao lâu rồi sẽ tới lúc cô phải bắt đầu đóng kịch như thể cô cũng đang đổi giọng. Tất cả chúng ta đang dần thành người lớn, cô nghĩ và thở dài.
Jonathan nghe thấy tiếng thở dài đó và nhìn xuống mặt cô. “Anh rất thích giúp em chọn ngựa”, cậu thiếu niên nói, “nhưng tại sao lại có vẻ bí mật thế này? Em chưa bao giờ nói cho anh biết rằng em có người thân ở thành phố.”
Alanna xị mặt xuống. “Thì em cũng phải nghĩ ra một chuyện gì đó để kể cho ngài công tước Gareth nghe chứ. Anh biết không, người mà chúng ta đang tìm gặp không phải là bà con của em. Anh ấy là một người bạn. Em rất cảm ơn vì anh đi cùng, Jonathan.”
Cậu thiếu niên đưa tay vò tóc cô. “Nếu qua đó mà trốn được đoạn phải ngồi nghe lời trình trong buổi họp hội đồng tư vấn thì anh sẵn sàng làm. Hôm nay người ta bàn chuyện gieo hạt đầu năm, nghe những chuyện như thế thường anh chỉ ngủ gật.”
Alanna dẫn cậu bạn đến quán Bồ Câu Nhảy Múa. Ông già Solom đang ngồi gà gật bên bàn. Alanna vỗ nhẹ lên vai, đánh thức ông.
“Dậy thôi, ma men ơi. Georg có ở đây không ông?”
Solom nhìn cô bằng hai con mắt nheo nhỏ. “Ai cha, ra là cậu chủ Alan. Thế cậu chủ Gary đâu?”
“Ông sẽ không nhìn thấy Gary cho tới Hội Giữa Đông”, cô giải thích.
“Chắc cậu chàng lại phạm lỗi gì đó chứ gì?” Solom ngưỡng mộ lắc lắc mái tóc trắng như tuyết. “Đúng là một chàng hiếu động. Tôi đi tìm Chúa Thượng đây.” Ông leo theo cầu thang lên cao.
Jonathan nhìn quanh. “Chúa Thượng?” cậu thì thầm. “Mà làm sao người này lại quen được Gary?”
“Ô, Gary thường đi với em đến đây.” Alanna lờ đi câu hỏi thứ nhất bằng cách bước theo Solom. Jonathan không còn cách nào khác là bước theo cùng.
Georg vừa dùng xong bữa điểm tâm thì ông chủ quán dẫn hai người vào phòng anh. Vua Kẻ Trộm nhìn Jonathan trân trân rồi đứng dậy. Cuối cùng, anh cúi chào trong một nụ cười hài hước. “Solom, đi ngủ tiếp đi!” anh ra lệnh. Khi người đàn ông già nua đã rời khỏi tầm nghe, tay kẻ trộm lẩm bẩm: “Thưa điện hạ, tôi cảm thấy rất vinh hạnh.” Anh liếc xéo về phía Alanna. “Có vẻ như thêm một lần nữa anh đánh giá em quá thấp, cậu nhỏ. Chuyện này không xảy ra lần thứ ba đâu, cứ tin chắc là như thế.”
Mặt Alanna hồng lên. “Em chỉ dẫn anh ấy đến đây cho vui thôi”, cô nói.
“Thế này là thế nào?” Jonathan hỏi và nhìn Alanna bằng ánh mắt sắc sói.
“Em không nói cho cậu ta biết chút gì sao?” Georg hỏi.
Alanna lắc đầu. “Hoàng tử Jonathan, đây là anh bạn Georg của em.”
“Alan quên nói với thái tử rằng công việc của tôi không phải bao giờ cũng thuận hoà với pháp luật”, Georg giải thích, “nhưng mà đi thôi, hai bạn trẻ. Chắc các cậu muốn nhìn con ngựa rồi.”
Georg dẫn hai người theo một cầu thang khác đi ra cửa phía sau của quán rượu. Khi thấy ánh mắt tò mò của Alanna, anh thẳng thắn giải thích: “Bao giờ người ta cũng nên có ít nhất hai lối ra, hoặc thậm chí ba,” anh trỏ lên trần nhà. Hai cửa sổ có cửa chớp bằng gỗ nằm trên phần mái của khuôn bếp một tầng, và bên tường bếp có dựng sẵn một cái thang, để người ta có thể theo đường đó mà lên phòng Georg.
“Chả lẽ anh không sợ kẻ trộm”, Jonathan hỏi. Và khi hai người đi cùng cậu bật cười thành tràng, thì hoàng tử trầm ngâm nhăn trán.
“Gary vậy là đã hôn công nương Roxanne?” Georg hỏi. “Tôi mà ở vào vị trí của cậu ta thì tôi sẽ tìm một cô trẻ hơn.”
“Đó là một trò cá cược”, Alanna giải thích.
“Dù có là cược mười đồng tiền vàng thì tôi vẫn cứ hôn một người xinh hơn”, Georg đáp lại.
“Tại sao anh lại biết về trò cá cược đó?” Jonathan hỏi. “Nó là bí mật mà.”
“Tôi có bạn bè trong cung “, Georg nói. “Người ta chẳng mấy khi giấu được gia nhân chuyện gì đâu, thưa điện hạ.”
Jonathan định hé miệng đặt tiếp một câu hỏi khác, nhưng Alanna đã cuốn phăng Georg đi với hàng loạt những câu hỏi về những người mà cô quen biết trong quán Bồ Câu Nhảy Múa. Vậy là hoàng tử im lặng và dành thời gian để suy nghĩ mọi chuyện cho tới đầu tới cuối.
Họ rẽ vào một con ngõ hẹp. Georg đứng lại rồi kéo thanh chắn của cánh cổng cao. Họ bước vào khoảng sân trong và Georg đóng cổng lại.
Alanna bật thở ra thành tiếng. Một con ngựa cái trẻ đẹp tuyệt vời vừa lọt vào tầm mắt cô. Trên bộ lông óng ánh vàng của con thú nổi rõ một cái bờm trắng muốt dài mượt và một cái đuôi trắng muốt dài mượt. Thật dịu dàng, Alanna vuốt ve hai cánh mũi nó. Con vật hí lên khe khẽ và dụi dụi vào bàn tay cô.
“Georg, em chưa bao giờ thấy một con ngựa đẹp như thế.” Đột ngột Alanna nhớ ra rằng, có thể đây hoàn toàn chẳng phải con ngựa mà Georg định dành cho cô. “Georg, phải đây là con ngựa mà anh định chỉ cho em xem, đúng không?”
Georg cố nén cười khi nhìn thấy đôi mắt tím của Alanna nặng trĩu âu lo. “Dĩ nhiên, nhóc ạ, chính nó đấy.”
“Nó tuyệt quá.” Alanna và con ngựa cái quan sát lẫn nhau như bị hút hồn.
Jonathan bước vào ô chuồng. Cậu thiếu niên đưa bàn tay thành thạo vuốt chân ngựa, rồi vai ngựa, rồi tiếp tục sờ mó nó một cách lơ đãng. Cuối cùng, cậu thiếu niên nhìn kỹ vào mặt Georg.
“Đây là đồ ăn cắp”, cậu buộc tội anh.
Georg thọc sâu hai bàn tay vào túi chiếc quần cưỡi ngựa của anh và cười. “Liệu tôi có làm một chuyện như thế không, thưa điện hạ?”
“Em mong là anh không ăn cắp nó!” Alanna thốt lên.
“Tôi có hợp đồng mua ngựa. Bản thân tôi sẽ không hề ngại ngần xoáy cho mình một con ngựa tử tế, anh bạn nhỏ, nhưng anh biết rõ là em không thích như thế.” Georg đưa cho Jonathan một mảnh giấy và cậu thiếu niên xăm soi thật kỹ.
“Hợp đồng này đúng luật”, cuối cùng hoàng tử nói và trả nó lại cho Georg.
“Bao nhiêu vậy, Georg?” Alanna hỏi.
Vua Kẻ Trộm nhìn xuống tờ giấy. Hai con mắt màu nâu hạt dẻ không để lộ anh đang nghĩ gì. “Tám cho con ngựa, hai cho bộ yên cương. Mười đồng tiền vàng, và nó là của em.” Giọng nghe như thể anh đang khiêu khích chàng hoàng tử nghi ngờ cái giá này. Hoàng tử bỏ qua lời khiêu khích.
Alanna không chần chừ lấy nửa giây đồng hồ, mặc dù đây là món tiền lớn nhất mà cô từng trả ra. Cô đếm vào tay bạn mình mười đồng tiền vàng, rồi quay sang ngưỡng mộ con ngựa - con ngựa của cô. “Ta còn phải làm với nhau một số việc đấy, mày và tao”, cô thì thầm với con ngựa cái. Con vật khẽ dúi mõm vào người cô, đồng tình.
Georg gỡ xuống một bộ yên cương bằng da trông bình dị.
“Thế, vậy là xong.”
“Georg, nếu có lúc nào anh muốn có mạng em, thì anh sẽ có nó”, Alanna nói bình tĩnh, và cô thật sự nghĩ như thế. “Tên nó là gì?”
“Nó chưa có tên. Gã Bazhir đã bán nó cho anh không dám đặt tên cho một quý bà sang trọng đến thế.”
“Em gọi nó là Ánh Trăng. Em có thích không, em bé?”
Con ngựa cái gục gặc cái đầu, Alanna cười và bắt tay vào việc thắng yên cương cho con ngựa.
Jonathan kéo Georg ra khỏi ô chuồng. “Chỗ đó chưa đủ một phần ba cái giá mà anh đã trả cho con ngựa cái.”
Giọng Georg thấp hẳn xuống. “Chẳng lẽ quý công tử muốn tôi từ chối nguyên vọng tha thiết nhất của thằng bé? Suốt một năm nay nó đã phải cưỡi con Pummel, trong khi lẽ ra phải để cho con ngựa tội nghiệp kia đi gặm cỏ còn Alan thì ngồi trên một con ngựa tử tế hơn. Cái gã chẳng hề quan tâm đến chuyện gì, cái thứ mà thằng bé gọi là cha ấy, chắc sẽ không bao giờ mua cho nó được một con ngựa tử tế. Cứ gọi đó là quà sinh nhật, nếu quý ngài thích. Tôi sẵn lòng tặng không con ngựa cho thằng bé, nếu nó chịu nhận.”
Jonathan cười vẻ hối hận. Bản thân cậu cũng đã có lần va phải niềm kiêu hãnh của anh bạn nhỏ. “Nhưng tôi không thể để cho anh bị thiệt ít nhất là hai chục đồng tiền vàng. Ngoài ra, Alan có công cứu mạng tôi.” Cậu thiếu niên nhìn chăm chăm vào mặt Georg. “Tôi đoán rằng cả chuyện này anh cũng biết.”
“Có thể”, tay ăn trộm thú nhận.
Jonathan rút từ ngón tay ra một chiếc nhẫn đính ngọc bích. “Cái này chắc là thừa đủ tiền cho con ngựa cái?”
Georg xoay xoay món đồ nữ trang giữa những ngón tay rất dài của anh. “Chắc chắn rồi.” Anh trầm ngâm nói rồi nhanh chóng đưa ra quyết định. “Theo như tôi được nghe, thì cả hoàng tử cũng chưa có một con ngựa tử tế. Chưa có một con ngựa xuất sắc mà hoàng tử coi trọng hơn những con khác. Hãy thử nhìn một chút vào đây.” Anh mở một ô chuồng khác. Bên trong là một con ngựa đồ sộ, đen nhánh như mái tóc của Jonathan.
“Cái nhẫn cũng đủ trả thêm cả cho con này, thưa điện hạ. Tôi không muốn nhận của bố thí.”
Jonathan chần chừ. Cậu thiếu niên cắn cắn môi. “Anh định mua tôi chăng, Vua Kẻ Trộm.”
Georg mỉm cười. “Làm sao thái tử biết, nếu cậu nhóc không nói ra.”
“Đừng quên là tôi có tham dự những cuộc họp của cha tôi. Tôi có nghe nói đến anh.”
Georg đưa bàn tay vuốt ve cánh mũi con ngựa ô. “Tôi không mong tới chuyện mua được sự im lặng của thái tử. Đây là một vụ buôn bán thẳng thắn và trung thực. Khi mua con ngựa cái, tôi không thể để lọt mất con này. “
Gã bán ngựa là một thằng Bazhir già nua bẩn thỉu. Trong đám lừa mà gã có ở đó, hai con này trông như hai hòn ngọc bị rơi xuống giữa đống phân. Tôi nghĩ, Alan chắc sẽ lấy con ngựa cái, mà cho con ngựa đực này thì lúc nào tôi cũng tìm được người mua.”
Jonathan xem xét kỹ con ngựa ô, nó nóng nảy hơn con Ánh Trăng, nhưng bên dưới bàn tay chắc chắn của hoàng tử, con vật dần trở nên bình tĩnh.
“Anh là người thành thạo về ngựa đấy, Georg.”
“Tôi yêu ngựa”, Vua Kẻ Trộm thú nhận. “Bản thân tôi cũng có một con ngựa cái màu nâu hạt dẻ, đẹp không thể tả. Tôi sẽ rất lấy làm vinh hạnh nếu thái tử có một lúc nào đó muốn ngắm nhìn nó.”
“Rất sẵn lòng.” Jonathan trầm ngâm nhìn Georg. Thế rồi đột ngột, cậu thiếu niên mỉm cười và chìa tay ra. “Tôi cảm ơn anh. Một con ngựa tốt có thể cứu mạng một người đàn ông.”
Georg cầm lấy bàn tay đang mời mình và tìm trong nét mặt của Jon, liệu xem cậu thiếu niên có che giấu anh điều gì. “Hoàng tử ban vinh hạnh cho con mắt nhìn của tôi, thưa điện hạ.”
“Bạn bè của tôi gọi tôi là Jonathan. Các vị vua và các hoàng tử cần phải cư xử thân thiện với nhau, anh nghĩ thế không?  
Georg cười, nhưng ánh mắt vẫn lộ vẻ kính cẩn. “Tôi cũng thấy thế, Jonathan. Và cậu không cần phải sợ rằng tôi sẽ lợi dụng tình bạn này. Trò chơi trốn tìm của tôi, tôi chỉ thực hiện với ngài chánh án, không với một ai khác.”
“Hy vọng thế”, Jon cười. “Nếu không thì Alan, Gary lẫn tôi sẽ gặp khó khăn lớn đấy.”
“Georg”, Alanna nói. Cả hai người nhìn cô. Trông cô bối rối làm sao. “Em, em không hiểu chuyện này”, cô lắp bắp. “Tại sao anh lại làm thế cho em? Vì em mà anh phải làm biết bao nhiêu chuyện. Tại sao?”
Georg nhìn cô một hồi thật lâu. Cuối cùng anh đáp: “Tại sao em lại không tin là một người có thể yêu quý em thì cũng có thể làm điều gì đó cho em? Đó là chuyện tình bạn, bé con.”
Alanna lắc đầu. “Nhưng em vẫn chưa làm gì cho anh cả.”
“Tình bạn không là trò qua lại thế đâu”, tay ăn trộm khô khan đáp.
Alanna thấy chuyện này rối rắm quá, và cô cũng thú nhận như vậy. Georg cười thành tiếng rồi mời hai người cùng ăn trưa.
Sau đó một thời gian ngắn, cả bốn tiểu đồng nhỏ tuổi nhất là Alanna, một cậu mới tới có tên là Geoffrey von Meron, Douglass von Veldine và Sacherell von Wella được gọi tới một phòng tập nằm sát cạnh cung điện chứ không phải là ra ngoài những sân tập nơi họ đã học chiến đấu bằng thương. Công tước Gareth, chú Coram và đại úy Aram Sklaw, người cầm đầu đội lính gác cung điện đang đứng chờ sẵn. Ngài đại úy, một người lính chột mắt già nua gan lì, xăm soi bốn cậu từ đầu đến chân.
“Puhùu...!” ông ta thở phì ra. “Không có lấy một đứa duy nhất có khả năng học được cái gì.” Ông chỉ ngón tay to xù về phía Geoffrey. “Trông cậu như thể một thằng ngủ mơ giữa ban ngày. Chắc là mỗi lúc nhìn thấy máu là cậu nhợt mặt ra, đúng không? Cậu thích đọc sách hơn chiến đấu, tôi nói có lý không?” Ông ta nhìn sang Douglass. “Còn cậu thì chỉ thích ăn với uống, đúng không? Tôi nghĩ thứ cậu thích làm nhất là loay hoay trong bếp và xin đồ ăn của bà đầu bếp.” Ông ta nheo mắt nhìn Alanna. “Còn cậu? Cậu thậm chí còn chưa đủ to để làm thức ăn cho chim. Cậu không đủ sức nâng cây kiếm lên, đừng nói là vung nó lấy đà.”
Alanna muốn phản kháng, nhưng cô nhớ ra là công tước Gareth đang có mặt. Cô để dành lời nhận xét muốn phun ra. Rồi cô sẽ cho cái ông Sklaw này biết tay! Người lính xoay sang Sacherell. “Ta đã nhìn thấy cậu trên sân tập. Cậu là tay lười biếng mà lại chậm rì rì.” Sklaw đứng thẳng lại trước mặt ngài công tước. “Nếu tướng công cho phép, tôi xin được tha cho vụ này.”
Nụ cười của công tước Gareth chẳng được giấu kín hoàn toàn bởi bàn tay mà ông che phía trước. “Lần nào anh cũng đòi được người ta tha cho chuyện này, Aram. Và rồi lần nào anh cũng biến họ thành những tay kiếm cừ.” Khi quay lại với bốn cậu học trò, mặt ngài công tước nghiêm trang trở lại. “Từ giờ trở đi các con sẽ học nghệ thuật đấu kiếm.” Alanna hoảng hốt nuốt khan. Ngài công tước Gareth rất hay khiến cô mất bình tĩnh. “Đừng, đừng có nhìn ta như thế, Alan. Ta không phí thời gian với những tân binh đâu. Đằng nào ta cũng không đủ thời gian cho đám học trò hứa hẹn hơn nhiều. Đại úy Sklaw và lính canh Smythesson sẽ đảm trách việc này. Các con sẽ học cách rèn ra một thanh gươm, học cách rút gươm và nắm nó trong tay. Trong mấy tháng tới, các con sẽ đeo kiếm bên mình mà ăn, ngủ và học hỏi. Nếu có lần nào các con bỏ kiếm ra, các con sẽ bị phạt phải canh một đêm trong đền thờ Mặt Trời. Nghệ thuật đấu kiếm là một thứ hoàn toàn khác so với môn vật hoặc nghệ thuật đấu thương. Khi đã thành hiệp sĩ, có thể cả đời các con sẽ chẳng bao giờ vật nhau với ai, nhưng bất kỳ lúc nào các con cũng có thể cá cược rằng chính bản thân các con, hoặc một người khác, ít nhất cũng sẽ sử dụng kiếm để tự vệ một lần trước khi chết. Ngay khi một trong số các con khiến cho lính canh Smythesson hoặc ngài đại úy có lý do để mà than phiền, người đó sẽ phải trả lời trước mặt ta. Ta biết, các con thích những cuộc gặp mặt nho nhỏ đó như thế nào.” Ngài công tước gật đầu với hai người đàn ông. “Các quý ngài, họ nằm trong tay các quý ngài.” Và thế là ông rời phòng.

Sklaw nhìn bốn cậu học trò và thở phì ra trong khinh thị. “Trước khi đám con trai đầy hứa hẹn nhà các cậu chạm tay được vào một cây kiếm, các cậu phải tạo ra nó. Tội nghiệp cho lính canh Smythesson, anh ta sẽ phải dạy vụ này. Tôi trao các cậu này lại cho anh đây”, ông giải thích với Coram rồi bước ra ngoài theo công tước.
Chú Coram thở dài, nét mặt bực bội. “Thôi được, các chàng trai, ta đến lò rèn.”
Đó là buổi bắt đầu của một mùa đông dài cực nhọc. Sau khi họ đã tạo ra được những cây kiếm khiến chú Coram hài lòng, đại úy Sklaw bắt đầu giảng dạy. Ông ta chỉ họ những thế đứng và những động tác đâm thẳng khuỵu chân trước, nó đóng vai trò hết sức quan trọng trong trận đấu kiếm. Ông ta dạy họ cách rút kiếm thật nhanh ra khỏi bao. Đây là một việc trông có vẻ đơn giản, nhưng sự thật không dễ chút nào. Sklaw luôn kè sát bên họ, chê, làu bàu và càu nhàu. Các cậu học trò quen với cách thực hiện mọi việc với một cây kiếm đeo ngang người, bởi họ không thể biết Sklaw sẽ xuất hiện lúc nào. Chỉ khi đã vào phòng riêng hoặc khi đi tắm, họ mới cởi kiếm ra mà không ngại bị tai họa đổ lên đầu, và ngay cả trong những tình huống đó thì cũng phải luôn nhớ cài cửa cho thật kỹ. Alanna không bao giờ quên chuyện này.
Có lẽ bởi vì cô nhỏ con nhất trong nhóm, nên Sklaw cho cô được hưởng một sự đối xử đặc biệt. Cô không bao giờ làm điều gì đúng, thậm chí không nhỉnh hơn so với lần trước chút nào. Cô là người vụng về. Cô lười biếng. Cô không luyện tập, mà làm gì có cơ bắp để mà luyện tập? Cô là một thằng lùn; lúc cô ra đời chắc bà mụ đã đánh rơi cô đập đầu xuống đất. Sẽ không đời nào cô trở thành một hiệp sĩ tử tế, cùng lắm chỉ trở thành một thứ “quý ông” có duy nhất khả năng ngồi lì ở nhà mà viết thơ. Alanna để cho người ta chửi bới mình, cay cú luyện tập và cố gắng không nghe những lời lảm nhảm của lão già độc ác.
“Làm sao mà ông có thể đòi hỏi tôi tự tin, nếu lúc nào cũng luôn mồm chê trách tôi thậm tệ?” có lần cô gầm vào mặt ông ta như thế.
Sklaw khô khan cười khẩy. “Này, cậu nhóc, nếu cậu để cho một lão già bẳn tính như ta lấy mất sự tự tin thì chắc là ngay từ đầu cậu cũng chẳng có mấy dũng khí đâu.”
Từ đó trở đi, Alanna thà cắn xuống môi còn hơn đối đáp với ông ta. Mùa xuân đến và một ngày kia, công tước Gareth xuất hiện trong giờ học.
“Hôm nay ta thử học một thứ mới, mấy cậu nhóc”, tay đại úy gầm gừ sau khi ngài công tước xứ Naxen đã yên vị. Ông ta ném hai bộ đồ luyện tập được độn rất dày về phía Geoffrey và Douglass. “Meron. Veldine. Thử xem các cậu có sử dụng được nó với những chuyển động mà các cậu đã học không.”
Hai cậu học trò mặc bộ đồ đánh trận bằng vải và đứng trước mặt nhau trong tư thế phòng thủ. “Bắt đầu!” Sklaw sủa lên.
Chỉ xem vài giây đồng hồ, Alanna đã nhắm mắt lại. Cô đã có lần xem công tước Gareth đấu kiếm với Alex, một cây kiếm tốt nhất trong hàng ngũ cận vệ. Những gì đang diễn ra ở đây là một lời nhục mạ đối với những gì cô đã quan sát thấy bữa đó. Geoffrey lảo đảo tiến tới và huơ kiếm về phía Douglass. Douglass vội vã đỡ ngọn đòn, lảo đảo lùi về, rồi lại chòng chành tiến tới và thử đâm trả lại một đòn. Sau một hồi, công tước Gareth ra lệnh ngừng lại. Ông cùng Sklaw cầm kiếm nhắc lại từng chuyển động và chỉ cho hai cậu học trò biết họ cần phải cải thiện thế đứng ra sao, làm thế nào để chuyển động nhanh hơn mà không bị lảo đảo, và làm cách nào để giữ thăng bằng tốt hơn. Cuối cùng, hai cậu cũng được phép cởi ra hai bộ quần áo đã đẫm nhẹp mồ hôi.
“Wellam. Trebond. “Sklaw đẩy về phía họ hai bộ quần áo mới. “Ta sẽ rất ngạc nhiên nếu hai cậu làm được bằng hai đứa kia.”
Alanna đứng trong tư thế tự vệ với hai đầu gối run rẩy. Nó là một cuộc thi như mọi cuộc thi khác, chỉ có điều mười lần trầm trọng hơn. Đối với một hiệp sĩ, sự khéo léo trong đấu kiếm là câu hỏi quyết định sống chết. Nếu cô không làm chủ được môn đấu kiếm, cô sẽ không thành hiệp sĩ và không bao giờ được trải qua những cuộc phiêu lưu lớn lao. Đột ngột, cậu bạn Sacherell của cô trông như một con quái vật. Đúng thế, một con quái vật to cao và nguy hiểm.
“Bắt đầu!” Sklaw ra lệnh. Alanna vấp ngược về phía sau khi cô gắng né tránh một đường kiếm đâm thẳng của Sacherell. Đúng lúc lấy lại được thăng bằng thì cô chỉ còn kịp đỡ cú chặt từ trên xuống. Cô lảo đảo và kịp đứng lại trong tích tắc cuối cùng để đỡ được một đòn nữa. Rồi lại thêm một đòn nữa và một đòn tiếp. Cô cứ lảo đảo và đỡ và gạt, không có một cơ hội duy nhất để đâm tới, và không lúc nào được đứng vững trên hai chân.
Đột ngột Sacherell bước một chân lên trước, khuỵu thật nhanh và đâm thẳng kiếm tới, mũi kiếm của cậu chĩa đúng vào cổ họng Alanna. Cô vấp, ngã và buông rơi kiếm. Khi cô ngẩng lên, Sacherell đang đứng phía trên. Mũi kiếm của cậu chạm vào yết hầu cô. Alanna nhắm mắt lại khi Sklaw phun ra một tràng cười sằng sặc.
Đêm hôm đó, cô cứ nằm trên giường và nhìn trân trân lên trần phòng. Không biết bao nhiêu lần, cô diễn lại trận chiến với Sacherell trong suy tưởng. Thất bại nằm ở đâu?
Cô nghe tiếng chú Coram đi đi lại lại trong phòng và mặc quần áo để bắt đầu phiên gác sớm mai. Khi người lính già bước ra ngoài, cô bám theo như một cái bóng nhỏ câm nín. Không một lời, cô đi theo ông xuống bếp và ngồi bên ông khi ông pha trò với cô gái phụ bếp còn ngái ngủ và ăn bữa điểm tâm. Vẫn không nói nửa lời, cô theo ông đến phòng gác bên tường thành. Họ cùng nhìn khoảng trời phía trên cánh rừng hoàng gia chuyển từ xám sang đỏ cam khi ban mai thức dậy.
Cuối cùng, Coram lên tiếng: “Cháu có ngủ được chút nào không?”
Alanna lắc đầu.
“Ta đã từng nhìn thấy những chuyện còn tệ hơn.”
“Chú có mặt ở đấy ư?”
“Có chứ.”
Alanna nhắm mắt lại, rùng mình. Sự nhục nhã này chắc là quá nặng nề đối với chú Coram, và nó khiến cho cảm giác nhục nhã của cô còn nặng hơn nữa. Chuyện cô biến mình thành thằng ngốc trước mặt bạn bè và trước công tước Gareth đã là đủ trầm trọng rồi, nhưng chú Coram chính là người dạy cô cách sử dụng dao găm, cách bắn cung tên, cách cưỡi con ngựa Pummel. Chú Coram cho tới nay luôn khích lệ và che chắn cô trước những người có khả năng tìm ra cô thật sự là ai. Giờ thì cô đã làm chú thất vọng và chú phải tận mắt nhìn cú thất bại thảm hại của cô.
“Cháu không hiểu”, cô thì thào. “Sao... sao mà, như cơ thể cháu không làm những gì cháu ra lệnh cho nó. Trong suy nghĩ cháu cứ nói: Làm cái này! Làm cái kia! Làm một cái gì đi! Nhưng cơ thể cháu chỉ tự làm theo ý nó. Sacherell...”
“Sacherell không tệ đâu”, Coram ngáp dài. “Cậu ta là một năng khiếu bẩm sinh. Hoàn toàn ngược lại với cháu. Có những người, ví dụ như chú đây, được sinh ra để mà đấu kiếm. Chú không biết làm một chuyện gì khác và cũng không bao giờ nghĩ đến một chuyện nào khác. Cha, có những người không bao giờ học được cách đấu kiếm. Họ thậm chí không sống sót nổi qua trận đấu thật sự đầu tiên. Và còn có những người khác...”
“Sao kia ạ?” Alanna hỏi và bám chắc vào sợi rơm này. Đã rõ là cô không phải được sinh ra để thành một tay kiếm; nhưng mặt khác cô cũng hoàn toàn không có ý định chết ngay trong trận chiến đầu tiên.
“Có những người học được cách sử dụng kiếm. Họ luyện tập trong mỗi phút rảnh rỗi. Họ không chịu khuất phục trước một khúc sắt. Hay trước một đại úy Aram Sklaw.”
Alanna nhìn trân trân về phía cánh rừng và suy nghĩ. “Người ta có thể học để sử dụng kiếm thật thành thục sao?”
“Giống y hệt như người ta có thể học để chiến thắng một thằng con trai lớn tuổi hơn và to cao hơn trong một trận chiến công bằng, hay ít nhất thì bản thân cháu cũng đã chiến đấu một cách trung thực.”
Alanna đã phải luyện tập ngấm ngầm nhiều tuần lễ liền để thắng được Ralon. Biết bao nhiêu thời gian dành cho chuyện đó, những vết xước sát, những vệt bầm dập và trạng thái kiệt lực thường xuyên vẫn còn tươi rói trong trí nhớ cô. Nhưng rõ ràng là đáng giá, Alanna nghĩ. Rất đáng giá là đằng khác.
Cô vươn vai và ngáp đến sái quai hàm. “Cho cháu mượn cây kiếm của chú được không?”
Chú Coram nhìn xuống món vũ khí đang treo bên thắt lưng mình. “Cái này hả? Nó còn cao hơn cả cháu!”
“Chính thế.”
Coram nhìn cô trân trân một lúc, thế rồi ông chầm chậm cởi thắt lưng và đưa cây kiếm sang cho Alanna với nét mặt lãnh đạm.
Alanna nhấc nhấc món vũ khí trong tay. Nó là cây kiếm to nhất, nặng nhất mà cô từng cầm tới. Sẽ rất khó dùng một tay và nâng nổi nó lên. “Cảm ơn. Chút nữa cháu trả lại chú.”
Cô chạy đi, tìm một phòng tập trống có nhiều gương treo.
Chú Coram nói đúng. Cô không thể đầu hàng trước một thanh kiếm - lại càng không thể đầu hàng trước một Aram Sklaw.
Chương 6
Alanna Thành Phụ Nữ
Đó là một buổi sáng thứ năm. Sẵn sàng để tiếp tục luyện tập với cây kiếm to nặng của chú Coram, Alanna thức dậy trước khi trời mờ sáng. Cô trèo ra khỏi giường. Và kinh hoàng há mồm lấy hơi. Hai đùi cô và vải trải giường đỏ đầy những máu. Hoảng sợ cùng cực, cô rửa ráy rồi đút vải trải giường vào phòng vệ sinh. Chuyện gì đã xảy ra với cô thế? Cô đang chảy máu và cô phải gặp một thầy lang ngay lập tức, nhưng mà gặp ai mới được? Cô không thể tin tưởng những thầy thuốc trong cung điện. Họ là đàn ông mà máu thì chảy ra từ vị trí kín đáo giữa hai đùi. Cô tuyệt vọng tìm tòi cho tới khi thấy được một chiếc khăn dày, có thể dùng để ngăn dòng chảy màu đỏ đó. Hai bàn tay cô run bắn. Toàn cơ thể cô giá lạnh vì sợ hãi. Các gia nhân sẽ tới ngay lập tức để đánh thức các tiểu đồng. Cô phải làm một cái gì đó, thật nhanh!
Cô cắn chặt vào ngón tay cái của mình cho tới khi nó chảy máu. Chú Coram đang phải trực, mà hơn nữa, cô không thể kể chuyện này cho chú ấy nghe. Lần này là một chuyện mà cô không thể thổ lộ với người lính già. Chỉ có một người mà cô tin tưởng là anh sẽ giúp cô và giữ im lặng. Chắc chắn sẽ có những người nghi ngờ mức độ đáng tin cậy của Vua Kẻ Trộm, nhưng Alanna không nằm trong số đó.
Cô không còn thời gian. Cô cũng không thể rón rén rời cung điện rồi cuốc bộ con đường thật xa xuống thành phố. Cô phải cưỡi ngựa và phải chấp nhận hậu quả. Chỉ một lời vội vàng với Stefan là Ánh Trăng đã được thắng yên cương. Cậu chăn ngựa thậm chí còn rủ rê người lính canh đi khỏi một trong những cánh cổng nhỏ. Alanna phi nước đại lao ra ngoài rồi lao xuống thành phố. Chỉ vài phút sau, cô đã buộc con ngựa cái của cô bên một cây cọc đằng sau quán Bồ Câu Nhảy Múa.
Thật nhanh lẹ, cô trèo lên mái khuôn bếp rồi đẩy một trong những cánh cửa gỗ bao bên ngoài cửa sổ phòng Georg. Chính anh đã chỉ cho cô cách lên đây theo đường này. Thế nhưng khi Alanna chuồn vào phòng Georg, cô bị tóm chặt lấy từ phía sau và một lưỡi dao rất sắc gí sát vào cổ họng.
“Mẹ mày không dạy cho mày cách vào phòng qua cửa hả?” một giọng nói khẽ khàng chậm rãi hỏi cô.
Alanna không động đậy. Lưỡi dao được kề vào cổ không phải để đùa. “Georg, em đây! Alan!”
Chàng thanh niên buông cô ra rồi xoay mặt cô lại phía mình. Anh không mặc quần áo. Bao giờ anh cũng ngủ khỏa thân. “Đúng thế.” Anh đặt dao lên bàn. Một nụ cười làm sáng hai con mắt anh. “Làm sao lại có chuyện một công tử quý tộc đột nhập vào phòng ngủ của một tay lưu manh.”
“Em cần anh giúp.” Cô bối rối đan hai bàn tay vào nhau. “Em cần phải có một bà lang ngay lập tức.”
“Cái gì? Một bà lang? Hãy giải thích cho anh nghe rõ hơn đi, cậu nhỏ.” Georg khoanh tay ra trước ngực, và chờ. Ngay từ ngày đầu anh đã biết có một tấm màn bí mật bao phủ quanh Alan. “Tại sao em lại muốn gặp một người đàn bà? Và tại sao lại là một bà thầy thuốc dưới thành phố này? Trong cung có những thầy thuốc giỏi nhất vương quốc.”
Alanna vất vả nuốt khan. “Em không phải con trai.” Nói lên câu này mới khó khăn làm sao. “Em là con gái.”
“Em... em là cái gì?” Georg thét lên.
“Suỵt! Chẳng lẽ anh muốn tất cả mọi người nghe thấy?” cô cọ quậy chà ủng xuống nền phòng. “Em cứ tưởng anh đã đoán ra rồi. Anh cũng có pháp thuật.”
“Nhưng pháp thuật của em che chắn cho em như một lần khiên. Alan, nếu đây không phải chuyện đùa, thì em đã chọn một thời điểm tồi tệ để nói lên sự thật.”
Cô giận dữ long mắt lên. “Có cần em phải cởi đồ ra không?”
“Lạy thần Mithros! Đừng. Xoay người đi. Để anh mặc quần áo vào cái đã.” Cô vâng lời và nói nhỏ: “Đúng là chuyện ngớ ngẩn. Em đã bao nhiêu lần nhìn anh không mặc quần áo.”
Georg tìm quần của mình. “Bây giờ chuyện đã khác. Thôi được, xoay mặt về đây. Tại sao em phải gặp một bà thầy lang?”
Alanna nhìn anh nài xin. “Làm ơn đừng hỏi em. Làm ơn đi!”
Tay ăn trộm nhăn mặt. “Thôi được, vậy thì đi.” Anh vội vàng kéo cô đi theo cầu thang phía sau. Rồi đi vòng ra trước phố. “Anh biết một phụ nữ rất thích hợp cho em. Trước khi lấy chồng, bà ấy là nữ thầy tế trong đền thờ Đức Mẹ Tối Cao của thành phố này. Ở đó bà ấy được dạy thuật chữa bệnh. Bà là mẹ đẻ của anh và bà không bao giờ hé lộ nửa lời, ngay cả khi người ta bẻ gãy quai hàm bà.” Anh phát hiện thấy con ngựa cái của Alanna đang nhẫn nại chờ đợi. “Em nhẹ bỗng à, Ánh Trăng sẽ chở được cả hai chúng ta.” Anh trèo lên yên cương, ngồi sát sau lưng Alanna. “Ta phi ngựa ra phía ngoại ô.”
Alanna gật đầu và thúc con ngựa chạy. Hơi ấm của Georg bên lưng cô sao có sức an ủi rất lạ.
“Có chuyện gì thế?” có lần anh hỏi.
“Nếu biết thì em đã không sợ đến thế”, cô phun ra.
“Đúng thật, chưa bao giờ anh thấy em hốt hoảng như thế này”, chàng thanh niên trầm ngâm nói. “Chúng ta phải nói chuyện với nhau. Hai đứa chúng mình.” Họ rẽ vào một con phố nhỏ được bao quanh bởi tường của những ngôi nhà quanh đó. Georg xuống ngựa và mở ra một cánh cổng, bên cổng có khắc dấu hiệu của thầy thuổc - một chiếc bát bằng gỗ bao quanh bởi một vòng tròn màu đỏ và một vòng tròn màu nâu. “Thật ra em tên là gì?”
Cô chần chừ. “Nếu em nói cho anh nghe, có khi anh không để ý và lỡ miệng nói ra trước mặt người khác.”
“Anh không lỡ miệng bao giờ, cô bé.” Anh ra hiệu cho Alanna cưỡi ngựa vào trong sân rồi đóng cổng lại. “Không bao giờ anh lỡ miệng.”
Cô xuống ngựa. Ánh Trăng dịu dàng thúc nhẹ đầu vào lưng cô. “Em tên Alanna”, cô thì thầm.
Mẹ của Georg hiện ra bên khung cửa. Đó là một phụ nữ cao lớn. Bà có đôi mắt sáng rỡ màu nâu hạt dẻ như của con trai, trong dáng điệu của bà có điều gì đó khiến người đối diện phải nể nang, kính trọng. Chỉ duy nhất một lọn màu trắng trong mái tóc nâu hạt dẻ cho biết bà vừa bước qua tuổi năm mươi.
“Một bệnh nhân cho mẹ, thưa mẹ”, tay ăn trộm thông báo. “Để con đưa ngựa vào chuồng.”
Bà Cooper dẫn Alanna vào một căn phòng nhỏ, ngăn nắp. Không biết bao nhiêu loại cỏ cây chữa bệnh được treo từ trên xà nhà xuống và tỏa hương thơm ngập căn phòng. Ở giữa kê một chiếc bàn nhỏ bằng gỗ, phủ khăn sạch sẽ.
“Con ngồi lại đây”, bà Cooper ra lệnh. “Thế được rồi. Con đau chỗ nào?”
Thật nhanh, Alanna giải thích rằng cô không phải con trai, mà là con gái và hiện đang là một tiểu đồng trong cung. Bà Cooper nhướn lông mày, nhưng không nói nửa lời. Alanna lấy hơi thật sâu rồi thêm vào: “Con... con chảy máu.”
“Con chảy máu ư?” câu trả lời vang lên rất bình tĩnh, “ở đâu?”
Đỏ bừng lên vì ngượng ngùng, Alanna ra hiệu. Mẹ Georg bắt đầu mỉm cười. “Đã lần nào xảy ra chuyện này chưa?”
Alanna lắc đầu.
“Con có bị thương chỗ đó không?”
Alanna lại lắc đầu.
“Thế nó bắt đầu lúc nào? Sáng hôm nay hả? Con có đau không?”
Alanna quá ngượng ngùng, không nói được nên lời, cô chỉ biết lắc hay gật đầu tùy theo câu hỏi. Rồi theo sau đó là những câu hỏi khác, thân mật và riêng tư đến mức cô chỉ muốn chui đầu vào hang chuột. Khi bà Cooper bắt đầu cười lớn thì cô còn ngượng ngùng hơn nữa.
“Tội nghiệp con bé”, người phụ nữ cười sặc sụa. “Chẳng lẽ chưa có ai đó nói cho con biết về tuần kinh nguyệt hàng tháng của phụ nữ? Về chu kỳ thụ thai?”
Alanna đờ người ra. Quả thật cô Maude đã một lần nào đó nói đến một thứ tương tự như thế.
“Ra là nó? Vậy là chuyện bình thường sao?”
Người đàn bà gật đầu. “Tất cả phụ nữ đều có. Chúng ta chỉ có thể sinh con khi nó bắt đầu.”
“Con phải chịu đựng cái này bao lâu nữa?” Alanna hỏi và nghiến răng.
“Cho tới khi con quá tuổi sinh con. Chuyện này bình thường như trăng khuyết lại tròn và nó cũng sẽ xảy ra theo chu kỳ như vậy. Tốt hơn cả là con quen với nói đi.”
“Không!” Alanna kêu lên và nhảy chửng dậy. “Con không cho phép!”
Bà Cooper một lần nữa nhướn lông mày. “Con là một cô bé, con gái ta, dù con ăn mặc thế nào đi chăng nữa. Con phải quen với chuyện đó.”
“Tại sao?” Alanna thúc bách. “Con có phép thuật, con sẽ lo sao cho nó biến đi. Con sẽ...”
“Ngớ ngẩn!” bà thầy thuốc xẵng giọng. “Con không được phép dùng pháp thuật của mình để thay đổi những gì mà các thần linh đã trao cho con, và cả gan làm chuyện đó là chuyện điên khùng! Các thần linh muốn con là con gái, nhỏ bé, tóc đỏ và rõ ràng là có phần nhõng nhẽo.”
“Nhưng con không nhõng nhẽo!” Alanna phản đối. “Con chỉ muốn...” cô đưa cùi tay chùi dòng nước mắt nóng rực. Cô biết là bà Cooper nói đúng. Cô đã một lần sử dụng pháp thuật để thúc cho mình cao lên nhanh hơn, và cô đã bị đau đầu khủng khiếp suốt mấy ngày trời.
“Thôi được, có thể con không nhõng nhẽo.” Một bàn tay an ủi đặt lên vai Alanna. “Nghe này. Con có thể thay đổi vị trí trong cuộc đời bất cứ lúc nào, dù là con có pháp thuật hay không, nhưng những gì mà các vị thần linh đã làm nên thì con không thể thay đổi. Con hiểu ra điều đó càng nhanh thì con càng may mắn.” Bà dẫn Alanna sang bếp và đặt lên bếp lửa một ấm đun trà. “Con không quen với việc cơ thể con làm những thứ mà con không cần. Đúng thế không?”
Alanna nhăn mặt. “Cái chuyện ngực con cứ to lên là đã quá khó chịu rồi. Bây giờ lại còn thêm thứ này nữa.” Cô giơ hai tay ôm lấy đầu và gục xuống. Mãi rồi cô mới ngẩng lên và hỏi: “Con phải biết những gì về... Về chuyện này?”
“Kỳ kinh nguyệt của con sẽ xảy ra một lần trong mỗi tháng và kéo dài khoảng chừng năm ngày. Nhớ tắm rửa hàng ngày. Dĩ nhiên con phải sử dụng băng vệ sinh. Kỳ kinh nguyệt sẽ không tới, nếu con nằm cạnh một người đàn ông và anh ta khiến con mang thai.” Người đàn bà rót trà ra tách và đưa cho cô gái. “Đây. Con uống vào sẽ thấy đỡ.”
Alanna uống trà và thấy mình bình tĩnh hơn. “Nó có làm cho con yếu ớt đi không?”
“Không, chừng nào con lánh xa những cái giường của đàn ông. Một đứa bé sơ sinh sẽ làm cho con yếu ớt đi. Cái đó là chắc chắn.”
Alanna lắc đầu. “Con không hề có ý định có con.”
“Có rất nhiều cô gái không muốn điều đó.” Bà Cooper rót trà cho mình. “Con có biết điều gì sẽ xảy ra khi con nằm cạnh một người đàn ông không?”
Alanna đỏ mặt. “Dĩ nhiên.”
Người phụ nữ mỉm cười. “Ta thấy rồi, con biết việc sẽ xảy ra đối với một người đàn ông, nhưng kể cả người phụ nữ cũng có niềm vui thú trong đó và chỉ cần một lần duy nhất thôi đã đủ để con mang thai.” Bà lo âu nhìn Alanna. “Ta sẽ cho con một lá bùa. Để con không mang thai. Nếu bao giờ nghĩ lại, con có thể ném nó đi.”
“Bao giờ bọn lợn học bay được đã.” Alanna lẩm bẩm.
Tia nhìn trong cặp mắt bà Cooper đượm vẻ nghi ngờ. “Rồi ta sẽ thấy. Thế, Georg chắc đang có một vài câu hỏi đây. Có cần ta gọi nó vào không? Tốt nhất là cho nó biết hết.” Alanna gật đầu. Người phụ nữ mở cửa và gọi lớn. “Đừng có áp tai vào lỗ khóa nữa, con trai ta.”
Georg bước vào, đứng tựa người vào bàn bếp và lo lắng nhìn Alanna. “Vậy là mọi thứ đều ổn cả sao?”
“Con bé khỏe.” Mẹ anh trả lời. “Con uống trà không?”

“Phải đó là món trà trấn an của mẹ? Có thánh thần chứng giám, con đang cần một thứ như thế đây. Thế, bé con, bây giờ kể đi.”
Alanna kể cho họ nghe tất cả. “Bây giờ em không thể đầu hàng được”, cô kết luận. “Em đâu có nài xin được đẻ ra làm con gái. Như thế là không công bằng.”
Georg sốt ruột vẩy tay. “Thôi cái chuyện vớ vẩn đó đi!” anh ra lệnh. “Cho tới nay chuyện đó không hề làm em yếu ớt. Và chắc chắn là em cũng không định làm một gã trai xinh đẹp suốt đời. Hay là có?”
“Không, dĩ nhiên là không. Em sẽ nói cho họ nghe sự thật khi em lên 18 và đã có được biển hiệp sĩ.” Cô thở dài. “Nếu lúc đó mà họ căm thù em, ừ thì, thì lúc đó em cũng đã kịp chứng minh rằng em có thể là một hiệp sĩ, đúng không? Em sẽ đi chu du ra thế giới lớn lao và sẽ đối mặt với những phiêu lưu mạo hiểm. Họ không cần phải gặp lại em nữa.”
Georg nhướn lông mày. “Cả đời anh chưa bao giờ nghe thấy một chuyên ngu ngốc đến như thế. Chả lẽ em định nói với chúng ta rằng, Jon rồi sẽ căm thù em? Gary? Raoul? Hoặc là ông bạn Sir Myles của em? Chắc anh nghe lầm?”
“Nhưng em là con gái mà!” cô kêu lên. “Em lừa dối họ. Em làm những gì mà bình thường ra chỉ có đàn ông làm...”
“Và em làm những việc đó tốt hơn đa phần những thằng con trai khác”, Georg nói bằng một giọng quả quyết. “Thôi im đi. Hãy nghĩ về chuyện liệu họ có căm thù em hay không khi việc đó xảy ra. Và đừng có lo lắng nữa. Bí mật của em sẽ được mẹ con anh giữ kín.” Anh choàng cánh tay lên vai cô và kéo cô lại sát người mình.
Alanna áp đầu lên vòng ngực anh và hai mắt cô đẫm những giọt lệ hàm ơn. Cô nhấp nháy mắt để nén chúng xuống và thì thầm: “Em cảm ơn anh, Georg.”
“Khi nào chỉ có hai đứa mình, anh sẽ gọi em là Alanna”, anh nói. “Anh thấy cần phải có người nhắc cho em biết em là ai?”
Alanna bất giác lại phải nhớ đến cái chu kỳ hàng tháng của cô và cay đắng mỉm cười. “Chắc là em không có cơ hội để quên đâu.”
Bà Cooper cười thầm, bởi bà đoán được điều gì đã khiến Alanna buông ra câu đó.
Alanna nhún vai. “Chắc là bây giờ anh khăng khăng muốn như thế...”
“Đúng, anh muốn thế”, câu trả lời vang lên rất bình tĩnh.
“Nhưng mà chú ý đấy, đừng để lỡ mồm lỡ miệng. Bây giờ em đã đi quá xa rồi.”
“Nó không bao giờ quên những chuyện như thế đâu”, bà Cooper khô khan nói. “Chắc nó được thừa kế cái đó từ bố nó, bởi ta không có cái tính này.” Bà bước sang căn phòng nơi bà đã nói chuyện với Alanna lúc mới tới. Georg đưa tay vẹo dưới cằm Alanna. “Anh sẽ rất vui quan sát em lớn lên, cô bé ạ. Nếu em cần giúp đỡ, em có thể trông cậy vào anh.”
Alanna cầm lấy tay Georg và nhìn thật sâu vào mắt anh. “Em không nghi ngờ điều đó lấy nửa giây.”
“Ngoài ta ra, chắc con là người duy nhất trong thành phố này có thể khẳng định như thế”, bà mẹ Georg nhận xét, bà vừa quay trở lại. “Nó là một thằng bé tốt bụng, ngay cả khi nó là một thằng lưu manh. Đây. Đeo vào đi.”
Alanna ngạc nhiên quan sát một kí hiệu lạ được đúc bằng vàng đang treo lúc lắc bên dưới một sợi dây mỏng. Cô chưa bao giờ nhìn thấy một kí hiệu như thế và cô cảm thấy rõ là nó đang tỏa ra một sức mạnh. Thật nhanh, cô kéo sợi dây qua đầu rồi đút nó vào bên trong sơ mi. Giờ cô không cảm nhận thấy phép lực kỳ lạ kia nữa.
“Từ giờ trở đi, người của Georg sẽ đưa ta đến gặp con nếu cần thiết”, bà Cooper ra lệnh, “nhưng ta e rằng, con sẽ chẳng mấy khi cần đến ta đâu. Đưa tay ra đây cho ta.”
Alanna vâng lời.
Người đàn bà chạm vào những ngón tay cô. Rồi rụt ngay tay về, như thể bị bỏng.
“Sao thế ạ?” Alanna ngỡ ngàng.
“Tội nghiệp con bé.” Nét mặt bà hiện rõ vẻ thương cảm. “Đức Mẹ Tối Cao đặt tay lên đầu con. Người đã chọn sẵn cho con một con đường đời thật khó khăn.” Bà gắng sức mỉm cười. “Ta chúc con may mắn, Alanna von Trebond. Con cần rất nhiều may mắn đấy.”
Đúng lúc Alanna vừa chui được vào phòng thì chú Coram tìm thấy cô.
“Cháu thử đoán xem ai muốn gặp cháu.”
Alanna nhăn mặt. “Cháu không làm khác được. Cháu có một vấn đề cấp thiết.”
“Bây giờ cháu vẫn còn một vấn đề cấp thiết”, câu trả lời vang lên. “Chắc chắn là ngài công tước đang rất giận đấy.”
Để trừng phạt tội xuống thành phố trái phép, công tước Gareth cấm cô rời cung điện trong hai tháng tới. Ngoài ra, trong thời gian rảnh sau bữa tối cô phải tới báo cáo ở chỗ ông và đưa thư cho ông. Alanna chấp nhận hình phạt không một lời than van. Cô không còn lựa chọn nào khác. Chắc chắn là cô không thể nói cho ngài công tước Gareth đang giận dữ biết cô đã phi ngựa xuống thành phố vì lý do gì.
Lần sinh nhật thứ mười ba trôi qua và mãi sang tháng tám cô mới lại được rời cung điện. Khi thời gian trừng phạt chấm dứt, Alanna vẫn tiếp tục cư xử thật đúng đắn. Ngài công tước xứ Naxen rõ ràng không hài lòng với lời biện minh mù mờ của cô cho cú cưỡi ngựa xuống phố trong buổi sớm mai đó và chắc chắn đang quan sát cô. Thế nên cô cẩn thận.
Công tước Gareth không phải là người duy nhất để ý đến cô, cả Sir Myles cũng thỉnh thoảng quan sát cô. Tình bạn của cô với hiệp sĩ ngày càng sâu sắc hơn. Có những khi cô ở bên người bạn lớn tuổi của mình suốt tối, chơi cờ với ông, thay vì tham gia nhóm bè bạn quanh hoàng tử. Lý do thứ nhất là hiệp sĩ Myles rất có tài kể chuyện, và lý do thứ hai là Myles cũng có thể giải thích cho cô biết tại sao những người trong cung phải cư xử thế này mà không cư xử thế khác. Mặc dù chiến đấu đã trở thành bản năng thứ hai của Alanna, nhưng cô ít hiểu về con người. Myles hiểu cô và cô thường tới ông tìm một lời khuyên. Một buổi tối mùa thu nọ, khi hai người đang chơi cờ, Myles hỏi: “Đã có bao giờ con nhìn thấy những thái ấp của ta chưa? Chúng nằm sát bên Đường Chính. Trong đoạn từ đây tới Trebond.”
Alanna nhăn vầng trán đang cúi xuống bên bàn cờ. “Ngoài Trebond và bến cảng Caynn, con chưa tới bất kỳ một nơi nào khác.”
Myles nhướn lồng mày. “Con cần phải thăm thú nhiều hơn vương quốc Tortall. Con có biết, trong khu Baronie Olau của ta có những tòa lâu đài mục nát, người ta đồn là do chính Người Cổ Đại xây nên?”
Ngọn lửa tò mò cháy lên trong Alanna. Cô biết một chút về những Người Cổ Đại. Họ đã chèo thuyền vượt biển và đã dựng nên một nền văn minh ở phía bắc biển hồ. Giờ nền văn minh đó chỉ còn lại một vài mẩu vụn: những cuộn giấy da còn nguyên chữ sau biết bao trăm năm, những bức tranh ghép, những thành phố mang màu trắng toát với những tháp canh thật cao, và những khu đổ nát. Chính cung điện hoàng gia đã được xây chồng lên phần còn sót lại của một trong những thành phố thuở ấy. Alanna vẫn luôn muốn biết nhiều hơn về dân tộc nọ, họ đã có mặt nơi đây trước dân tộc của cô.
“Những đống đổ nát của ngài có thú vị không?” cô hồi hộp hỏi. “Ngài có tìm ra điều gì chưa?”
Myles thích thú mỉm cười. “Nó rất rộng và ta đã tìm thấy ở đó rất nhiều thứ. Con có muốn cùng ta phi ngựa tới đó và xem chúng không? Mà này: chiếu tướng đây!”
“Con rất thích. Theo ngài thì có chuyện các vị thần linh đã ngại những Người Cổ Đại có thể thách họ thi đấu, vậy là các ngài đã trút mưa lửa xuống những đất nước miền Đông? Đây.” Cô đẩy quân vua của mình ra khỏi khu nguy hiểm rồi ngẩng đầu lên, còn kịp nhận thấy một nét trầm ngâm kỳ lạ trên gương mặt Myles.
“Ta không hề biết là con lại quan tâm nhiều đến những Người Cổ Đại, hoặc là các vị thần linh tới thế.”
Alanna nhún vai. “Con không được nói chuyện nhiều về chủ đề này. Công tước Roger không thích trả lời những câu hỏi về những Người Cổ Đại hoặc các vị thần linh. Ông ấy nói, bọn con còn quá trẻ để hiểu những chuyện như thế. Mà những người khác lại chẳng mấy quan tâm.”
“Ta tin rằng xử sự như thế là rất khôn ngoan đấy”, Myles nhận xét. “Các vị thần linh ảnh hưởng quá nhiều đến cuộc sống của chúng ta, nhiều tới mức ta không thể không để ý đến các đấng quyền uy nọ.” Ông dịch một quân cờ. “Chiếu tướng!”
Đúng lúc Alanna muốn lên giường thì Timon đến đón cô. Thật nhanh, cô mặc quần áo trở lại và đi theo anh người hầu.
“Cháu lại bày ra cái trò quỷ quái gì thế hả?” chú Coram kêu với theo. “Tại sao ngài công tước muốn gặp cháu muộn như thế này?”
“Làm sao mà cháu biết được.” Alanna đáp và xoay người, xị mặt nhìn người lính già. “Có khi ngài muốn có người hầu chuyện?”
Thay vì đưa cô đến văn phòng của công tước Gareth nằm gần dãy phòng tư vấn của nhà vua, Timon lại dẫn cô đến phòng làm việc tư trong dãy phòng riêng của ông. Alanna ngạc nhiên vô cùng khi gặp một ngài công tước Gareth trong bộ áo khoác mặc trong nhà, may bằng vải gấm sặc sỡ. Người đàn ông cao lớn nhìn cô và thở dài. “Chắc con biết Sir Myles muốn cùng con cưỡi ngựa về Baronie Olau vào ngày mai, đúng không?”
Alanna nuốt khan. “Ngài hiệp sĩ có nói là con cần phải đến đó thăm những khu đổ nát của ông một lần, nhưng liệu hôm nay hay ngày mai hay là lúc nào khác thì con không biết, nếu tướng công cho phép, thưa ngài.” Cô bối rối vặn xoắn những ngón tay vào nhau phía sau lưng.
Ngài công tước cười nhẹ. “Ta đâu có giận, con đừng lo mà phải lắp bắp. Ta chỉ hơi ngạc nhiên một chút về chuyện hai người lại thân nhau tới thế.”
Alanna chuyển trọng lượng sang chân khác. “Thỉnh thoảng chúng con chơi cờ với nhau”, cô thú nhận. “Và con hầu ngài hiệp sĩ trong các bữa ăn tối. Nhiệm vụ này là do tướng công giao cho con, bẩm ngài.”
“Đúng, chính ta đã làm điều đó.”
“Và ngài hiệp sĩ biết những chuyện mà con không hiểu. Con có thể nói chuyện với ngài ấy, bẩm tướng công.” Alanna đỏ mặt. “Ý con không muốn nói rằng...”
Ngài công tước cười. Cười thật lòng và ấm áp. “Đừng có làm cho mọi chuyện càng rõ ràng hơn, con nói như vậy là đủ rồi, cậu bé. Ta đâu có phải cô giữ trẻ của con. Và ta không hề phật lòng vì hai người là bạn bè của nhau, con và Myles. Việc con có được một người bạn thân lớn tuổi hơn, và có thể tâm sự với người ta là chuyện rất tốt. Nếu mà cha đẻ của con...” ông nín ngang, và Alanna ngạc nhiên thấy mặt công tước hơi đỏ lên. “Nói như thế là không thích hợp. Tha lỗi cho ta, Alan.”
“Con không biết phải tha lỗi cho ngài vì chuyện gì, bẩm tướng công”, cô nói thành thực.
“Thôi được. Bây giờ thì hãy đi ngủ đi. Myles muốn lên đường sớm. Ta sẽ dặn Coram đánh thức con. Con sẽ đi đường suốt một tuần. Ta chờ mong là con không trễ nải chuyện học hành, nếu không thì trong tương lai ta sẽ cân nhắc hai lần trước khi cho phép con làm những chuyện như thế này.”
“Cảm ơn, bẩm tướng công.” Alanna cúi chào thật thấp rồi vội vã rời phòng ngài công tước. Cô chạy trở lại phòng mình, gặp chú Coram đang ngồi chờ. Cô kể cho chú nghe tin mới, và xúc động không thể đứng yên được. “Ngài công tước mặc một chiếc áo khoác dài trong nhà có in màu vàng màu đỏ. Chú có tưởng tượng ra không?” cô vừa hỏi vừa biến vào phía sau bình phong.
Coram cười thầm. “Những câu như thế này lại nhắc cho ta nhớ cháu là ai. Nhiều khi thậm chí đến cả ta cũng quên rằng cháu không phải con trai.”
Alanna mặc áo ngủ rồi nhảy lên giường, trong khi chú Coram tắt nến.
“Chú Coram?” cô nói khi cả chú cũng đã nằm yên dưới chăn.
“Chuyện gì thế?”
“Có ai đoán ra cháu không phải con trai không?”
Người đàn ông ngáp dài. “Khó có chuyện đó lắm. Cháu đã gắng sức rất nhiều với trò ngụy trang. Bây giờ ngủ đi. Hay ít nhất cũng để cho ta được ngủ. Nếu không ta sẽ chết trong giờ trực sáng mai.”
Sáng hôm sau, khi chú Coram đến đón cô thì Alanna đã ăn mặc tề chỉnh và gói gém xong đồ đạc. Chú đưa cho cô ổ bánh mì trắng và một cốc sữa. “Ăn và uống đi!” chú nghiêm khắc ra lệnh. “Đêm qua cháu có ngủ không?”
Cô cười láu lỉnh. “Cháu nghĩ là không.”
“Chà chà, bình tĩnh nào, đừng có nuốt sữa ừng ực như thế. Ngài hiệp sĩ không bỏ cháu mà lên đường một mình đâu.”
Chú Coram nói đúng. Myles đang chờ cô trong bộ quần áo cưỡi ngựa ở sân cung điện. Chỉ riêng nghĩ đến cảnh Myles cưỡi ngựa đã khiến Alanna phải mở lớn mắt ra. Không hiểu sao, cô không bao giờ tưởng tượng được cảnh người đàn ông già nua đó lại ngồi lên mình ngựa, nhưng rồi cô thầm mắng mỏ mình. Myles đã trải qua chính những kỳ thi giống như tất cả bọn cô bây giờ. Nếu không thì ông sẽ không bao giờ được phong hiệp sĩ.
Chuyến cưỡi ngựa giữa ban ngày về Baronie Olau rất vui. Sir Myles không bao giờ hết chuyện để kể và thật thích thú khi người ta có lúc được quên đi những kỷ luật trong cung. Mặt trời đã bắt đầu chìm xuống phía Tây thì họ rẽ ra khỏi Đường Chính. Trái với Trebond, Baronie Olau không phải một lũy thành được xây dựng để chống chọi với những băng kẻ cướp vùng núi hay những đoàn ăn cướp người Scanra. Ngôi nhà của Myles đứng trong một thung lũng vươn dài, giữa những cánh đồng khổng lồ. Khi nhìn lên những đỉnh đồi đỉnh núi, Alanna thấy những hàng cây trồng dài tít tắp.
“Tổ tiên ta là nông dân”, Myles giải thích khi thấy hướng nhìn của cô. “Giống táo Olau là giống táo ngon nhất vương quốc Tortall. Điều đó là sự thật, ngay cả khi người nói ra câu đó là ta.”
“Thật khác với ở Trebond”, Alanna đáp. Cô vuốt ve gáy con Ánh Trăng, và trong lòng không thật hiểu rõ, liệu cô đang muốn an ủi Ánh Trăng hay an ủi chính mình.
Căn phòng mà Myles dành cho cô nhỏ nhắn và ấm áp. Nền phòng trải những tấm thảm sặc sỡ, trong lò sưởi lách tách cháy một ngọn lửa và những khuôn cửa sổ được làm rất kín, tuyệt không cho khí lạnh tràn vào. Alanna lại một lần nữa phải nghĩ đến nhà cô và thở dài. Các gia nhân ở đây lịch sự và ăn nói rất cẩn trọng. Khi Alanna giải thích với người được Myles cử đến để hầu cô rằng cô thích ở một mình và không bị quấy rầy thì anh ta cúi xuống và đáp: “Xin tùy theo ý quý ông trẻ tuổi.” Cô đâu có biết, người đàn ông đã ngay lập tức tới gặp Myles và báo cáo lại mong muốn kỳ lạ đó. Cô cũng không biết, đêm hôm đó Myles còn thức rất khuya để suy nghĩ.
Sáng hôm sau, Myles hỏi cô trong bữa điểm tâm: “Con có đủ sức đi thăm khu nhà đổ không? Chúng ta sẽ phải đi bộ, vì đoạn đường đó quá gập ghềnh, ngựa không đi nổi.”
Alanna hào hứng bừng bừng như lửa đốt. Sau khi nuốt vội nuốt vàng bữa điểm tâm, cô hối hả đi thay đồ. Alanna đi một đôi tất thật dày, mặc một chiếc quần ngang đầu gối được may bằng vải thật chắc, một áo sơ-mi ấm và áo bành tô thật dày, rồi cô xỏ chân vào đôi ủng dễ chịu nhất của mình. Trong tích tắc cuối cùng, cô còn kịp đút đôi găng tay vào túi áo bành tô. Alanna không thích lạnh, mà trời đã bắt đầu se se.
Khi đến chỗ Myles, cô thấy ngài hiệp sĩ cũng ăn mặc chắc chắn như cô. “Không, Ranulf”, ông đang bận giải thích với người quản gia, “không có gia nhân.” Ông cười. “Tôi tin rằng, anh cũng khó tìm được người nào đi cùng với chúng tôi.”
Ranulf gật đầu. “Đúng thế, thưa ông chủ. Ông chủ sẽ về trước khi trời tối chứ? Thậm chí tôi sẽ còn gặp khó khăn lớn hơn nếu phải cử một nhóm người đi tìm ông chủ sau khi mặt trời lặn.”
“Đến khi trời kịp tối thì chúng ta đã về nhà từ lâu rồi”, ngài hiệp sĩ hứa hẹn. “Thế nhỉ, ta lên đường thôi.”
Alanna chờ cho tới khi họ đã bỏ lại tòa lâu đài sau lưng mới cất tiếng hỏi: “Tại sao các gia nhân của ngài không thích khu nhà đổ?”
“Tôi tớ của ta khẳng định ở đó có ma”, ông nói, “nhưng ta nghi không phải thế. Ta đã xăm soi khu đấy nhiều năm trời, không phát hiện ra con ma nào cả.”
“Tại sao ngài lại xem xét khu đấy kỹ thế?”
“Ta đang viết một cuốn sách về chỗ đó”, câu trả lời vang lên. “Ta muốn chỉ ra ngôi nhà ấy đã được xây cất ra sao. Ai sống trong đó, họ đã sống ra sao. Ta viết đã gần xong rồi.” Ông đưa tay giật giật bộ râu. “Ta e sẽ chẳng có nhiều người đọc nó, nhưng công việc làm ta vui thích.”

Alanna lắc đầu. Cô không phải là một học giả. “Tại sao ngài lại đem con đến chỗ này?” cô hỏi để chuyển đề tài.
“Vì ta bị ép buộc”, Myles trả lời.
Cô đứng phắt lại. “Vì ngài bị làm sao?”
“Ta bị ép buộc”, ông nhẫn nại nói. “Bảy đêm liền ta có cùng một giấc mơ. Con và ta cùng nhau đi xem xét đống nhà đổ và chúng ta ăn mặc y hệt như bây giờ. Sau khi ta xin công tước Gareth cho phép con đi cùng thì giấc mơ kia không tới nữa.”
“Ô!”
“Ta chỉ là một người đàn ông bình thường. Ta yêu thích sách vở của mình, món rượu Brandy và bạn bè. Ta thích cuộc đời và mọi việc cứ tuần tự diễn theo lệ thường của nó, và ta thích rằng ngày hôm nay ta được biết ngày mai ta sẽ ở đâu. Một khi các vị thần linh chạm vào cuộc đời ta là họ khiến ta mất bình tĩnh, mà đời người nào thì cũng có lần bị họ chạm tới. Người ta không thể biết được các vị muốn gì.”
Cánh rừng mở ra và Alanna dừng chân. Trước mặt họ là một đống đổ nát. Ở một số chỗ, những mảng tường sót lại cao vượt đầu cô. Chúng được xây bằng đá Marmor và thứ đá đó óng ánh như thể nó mới được xây ngày hôm qua. Một cánh cổng được làm bằng thứ gỗ màu đen dày dặn treo nghiêng bên những bản lề đồng.
“Ta có nên vào đó không?” Myles hỏi. Ông đi qua khuôn cổng. Alanna dừng lại ngay ở lối vào, cô đưa tay gãi cái mũi đang ngứa điên lên và nhìn quanh. Trước mặt họ trải dài những mảng tường đá còn sót lại được sắp xếp thành hàng lối ngăn nắp và chỉ ra sơ đồ của khu nhà cũ cùng những căn phòng trong đó.
Myles chỉ vào một diện tích lớn còn có tường bao quanh. “Ta tin đây là ngôi nhà chính. Con có nhìn thấy cửa ra vào không?” hiệp sĩ gõ vào một tảng gỗ màu đen đang đứng tựa vào tường. “Nó đã sáu trăm năm tuổi rồi. Ít nhất là như thế.” Nói rồi ông đi tiếp. “Ta tin đây là khu bếp”, ông nói tiếp trong khi Alanna đi theo ông. “Hồi còn trẻ, ta đã tìm thấy ở đây những đồ nấu nướng. Ta sẽ chỉ cho con xem khi về nhà.”
“Chúng được làm bằng gì vậy?” cô hỏi.
Myles đưa tay cọ mũi. “Trông như đồng đỏ hoặc là đồng, nhưng khi được đánh bóng thì chúng sáng hơn kim loại mới. Ta tin đó là một lớp tráng bề mặt mà họ sử dụng cho tất cả, cho kim loại, cho gỗ, cho giấy... Cho tất cả những bề mặt mà người ta có thể phát hiện ra tuổi tác. Họ sợ tuổi già khủng khiếp.”
Alanna nhìn ông trân trân. “Sao kia ạ?”
“Không, ta không bịa ra chuyện đó đâu, cậu nhóc.” Myles mỉm cười. “Ta có thể đọc được chữ của họ. Từ những gì ta đã đọc được, có thể hiểu rằng họ sợ tuổi già hơn tất cả mọi thứ khác.”
Alanna bắt đầu những phát hiện của cô khi đưa mắt chăm chú quan sát nền đất dưới chân. Có một tia lóng lánh nho nhỏ phía rìa một tảng đá Marmor khiến cô chú ý. Đó là một mũi lao. Cô chùi mạnh cho tới khi nó sáng lóe lên. Khi nhìn quanh, cô phát hiện thấy trong những tảng đá nằm gần đó có những giá đỡ được đục vào đá, có thể để vừa nhiều ngọn mác, kiếm và rìu.
“Myles!” cô kêu lên. “Con tin rằng con vừa tìm ra kho vũ khí.”
Myles bước đến bên cô. “Ta nghĩ là con nói đúng.” Ông xăm soi mũi giáo. “Ta quan tâm đến những đồ nấu nướng, không quan tâm đến vũ khí. Chắc con sẽ còn tìm thấy nhiều thứ nữa. Con là một cậu bé thông minh, Alan.”
Trong góc của kho vũ khí, Alanna phát hiện ra một tảng đá lớn nằm trên mặt đất. Ngược lại với những khối đá được dùng để xây tường, tảng đá này đen như gỗ mun. Ở một chỗ có gắn một tay cầm bằng thép. Alanna dùng ống tay áo chùi nó.
“Tại sao ngài lại nói như thế?” cô vừa hỏi vừa nheo mắt quan sát các cạnh của phiến đá.
“Có bao nhiêu cậu thiếu niên 13 tuổi thích đến một nơi như nơi này và tìm hiểu xem chỗ nào ngày trước là kho vũ khí?”
Cô cầm vào tay nắm và kéo. Viên đá không động đậy. “Myles, có vẻ ngài coi con là một cậu bé đặc biệt. Con không phải thế đâu, thật sự không.”
Cô kéo thêm lần nữa, lần này bằng cả hai tay.
“Không chuyển động được viên đá đó đâu”, ông nói. “Có thần Mithros làm chứng, ta đã thử biết bao lần rồi. Ta tin nó chỉ là cửa vào kho vũ khí thôi.”
Alanna giậm hai chân, đứng thật chắc rồi tóm lấy tay cầm. “Nếu ngài giúp con...”, cô nói và kéo bằng tất cả sức lực. Đúng lúc Myles muốn đến giúp cô thì bộ máy đã lâu lắm không được sử dụng cất lên một tiếng rên. Alanna nhảy sang bên khi phiến đá hùng vĩ chuyển về phía cô. Bên dưới lộ ra một cầu thang dẫn xuống khoảng sâu tối om.
Alanna sung sướng quay lại, mồ hôi nhễ nhại, và nhận thấy Myles đang nhìn cô rất lạ. “Kìa, Myles, con chỉ kéo cho thật mạnh thôi mà!” cô kêu lên. “Bất kỳ cậu bé nào khác cũng làm được!”
“Lần cuối cùng ta thử kéo phiến đá này là năm ta 16 tuổi”, Myles giải thích. “Lúc đó ta có một người bạn bên cạnh. Anh ấy là người vùng này và là người hầu của ta. Giờ anh ấy là một ông thợ rèn, và ngày đó anh ấy không phải kẻ yếu ớt. Cả hai chúng ta không thể khiến được phiến đá động đậy.”
“Vâng thì... có thể có đất cát kẹt trong bộ máy và một cơn mưa đã dội nó đi, hay một cái gì tương tự”, cô cáu kỉnh nói và bước xuống cầu thang. “Ngài không đi cùng con sao?”
“Đừng có điên, Alan”, Myles cảnh báo. “Chúng ta không mang đuốc theo. Con đường hầm này có thể dẫn đến mọi nơi. Không có ánh sáng con không đi được xa đâu.”
Cô ngẩng lên nhìn ông và cười. “Ô, ngài quên một điều rồi. Con có ánh sáng.” Cô giơ một bàn tay lên, và nhìn chăm chú, tập trung sức lực vào lòng bàn tay. Mồ hôi toát ra trên bờ môi, trong khi cô cảm nhận pháp thuật trong cô đang lớn dậy. Còn một thứ khác cũng đang lớn dậy, đang lan tỏa ra trong con đường ngầm bên dưới đoạn thang này, nhưng cô không chú ý tới nó, vì cô quá tập trung vào đốm lửa đang hình thành trong lòng bàn tay. Khi cô mở mắt ra, bàn tay cô tỏa sáng một màu tím nhạt. “Đi nào!” cô kêu lên và bước dọc thang đi xuống.
“Alan. Ta ra lệnh cho con quay trở lại ngay!” Myles thét lên.
“Ngay thôi ạ!” cô kêu lên. Cô cảm nhận một không gian kỳ lạ bao quanh mình. Không! Mà là hai không gian. Một không gian khiến cô sợ hãi. Nó tối đen và ma quái và bay ngay bên ngoài quầng sáng do pháp thuật của cô tỏa ra. Không gian khác đang kêu gọi cô bằng một giọng cao vút, du dương như hát, một giọng mà cô không thể không nhận ra, ngay cả khi cô không mong muốn. Mũi cô nổi ngứa và cô phải hắt hơi nhiều lần liền liên tiếp. Giọng hát tràn vào đầu cô và đè lên giọng nói của Myles.
Anh sáng của cô chiếu vào một vật thể và bị chia thành vô vàn những tia sáng lấp lóa phản chiếu sáng rực. Cô không nhận thấy quầng tối khép lại sau lưng mình khi cô cúi xuống nâng vật thể lóng lánh tuyệt đẹp đó lên. Nó là một thanh kiếm, chuôi có gắn một viên kim cương, lưỡi kiếm dài và nhẹ được đút trong một bao kiếm màu đen cũ kỹ. Bàn tay Alanna run lên khi cô ép chặt món vũ khí vào người.
“Myles!” cô thét lên. “Ngài thử đoán xem con vừa tìm thấy cái gì!”
“Quay trở lại ngay!” hiệp sĩ thét lớn. Cô hoảng hốt ngẩng dậy. Giọng Myles lộ rõ vẻ sợ hãi. “Trời sắp nổi giông. Và nếu nó là một cơn giông tự nhiên thì ta đây là một thầy tế!”
Đột ngột, ánh sáng pháp thuật của Alanna tắt ngấm. Quầng tối ôm lấy cô bằng những cánh tay dài, quấn chặt lấy cơ thể cô. Alanna mở mồm ra để thét gọi Myles, nhưng không một âm thanh thoát ra ngoài. Cô gắng sức để thở, cô gắng sức dùng phép lực cắt qua màn tối ngột ngạt bao quanh, nhưng không một chuyện gì xảy ra. Cô dùng tay chân đẩy nó ra khỏi cơ thể mình và nhận thấy quầng tối đã trói chặt cô. Nó bóp chặt lồng ngực cô, đẩy không khí ra khỏi phổi. Alanna há mồm hớp hơi. Cái tối tràn vào mũi, tràn vào khoang miệng cô. Những tia chớp nổ òa ra trong óc não và cô giãy giụa vật lộn điên cuồng, nhưng không gì có thể chống lại cái tôi. Sự phản kháng của cô mỗi lúc một yếu hơn. Cô gắng sức hơn nữa, nhưng tình thế tuyệt vọng. Cô sắp chết và cô biết điều đó.
Lần đầu tiên trong đời, Alanna ngưng chống cự. Cô đã sử dụng toàn bộ hơi thở của mình, toàn bộ sức lực, toàn bộ pháp lực. Bây giờ cô yếu ớt, hết khả năng tự vệ. Cái tối tràn vào trong não, và cô chết. Với một tiếng thở dài câm nín, hầu như một tiếng thở dài nhẹ nhõm, cô phục tùng. Hai đầu gối khuỵu xuống, Alanna chấp nhận ý thức về cái chết của mình và biến nó thành một phần bản thân mình.
Viên kim cương gắn trên chuôi kiếm bùng sáng và ánh sáng của nó xuyên qua bóng tối trong đầu cô. Đột ngột, lực xiết hãi hùng quanh cơ thể và tinh thần cô lỏng ra. Cô hít không khí vào đầy phổi và ngạc nhiên cực độ khi thấy mình vẫn còn thở được. Cô mở mắt ra rồi nhắm lại, viên kim cương đang rực cháy khiến cô bị lóa.
Ở đâu đó ngoài kia ngài Myles đang gọi tên cô, nhưng giọng ông gần như bị nuốt chửng trong tiếng sấm gầm đang lại gần. Alanna sử dụng ánh sáng của viên kim cương để tìm về khoảng cầu thang, và cô cảm nhận rõ bóng tối xung quanh lùi lại. Vẫn còn chòng chành, cô bò lên trên. Khi cô bước ra ngoài với ánh sáng mặt trời, quầng sáng của viên kim cương tắt ngấm.
Bầu trời cuồn cuộn những tảng mây đen. Cách họ vài dặm đã có tia chớp đầu tiên rạch không gian. Myles tóm lấy cánh tay Alanna và kéo cô ra khỏi đoạn cầu thang đúng lúc phiến đá rên lên và trượt về vị trí cũ. Alanna nhìn nó trân trân và tự hỏi, thực ra thì chuyện gì vừa xảy ra. Cô đã chấp nhận cái chết. Tại sao giờ cô vẫn sống?
“Không còn thời gian nghĩ đâu!” Myles thét vào tai cô. “Đi thôi!”
Họ rảo bước quay trở lại lâu đài, và suốt cả đoạn đường hiệp sĩ Myles hầu như phải bế một cô Alanna hoang mang cùng cực. Cơn bão quật cành lá vào mặt họ và chỉ trong chớp mắt, họ ướt vào đến tận xương trong cơn mưa nước đột ngột đổ xuống như thác.
Về đến lâu đài, những người hầu sửa soạn cho họ hai bồn tắm nóng và quần áo khô. Alanna tắm và thay trang phục; cô vẫn chưa thể tin được là mình còn sống. Thế rồi cô cầm lấy thanh kiếm và đi tìm người bạn lớn tuổi.

Sir Myles chờ cô tại Phòng Buổi Sáng. Trong một lũy thành như Trebond sẽ không bao giờ tìm thấy một căn phòng như thế: một khuôn cửa sổ rộng thênh mở ra hướng thung lũng sẽ không hề mang lại sự che chở yên ổn trước những tay bắn cung, nhưng ở đây, trong xứ Olau an bình, Myles có thể ngồi trong phòng ngắm nhìn những cánh đồng rộng thênh thang của ông, ngôi làng ở xa xa và trong những ngày đẹp trời thậm chí còn nhìn thấy cả Đường Chính. Giờ ông đang ngồi co thật sâu trong ghế bành và nhìn mưa chảy từng dòng trên kính. Một cái bình bốc khói và hai chiếc cốc để bên cạnh.
“Uống một ngụm vang nóng đi”, ông nói và đưa cho cô một cốc đầy. “Trông con như thể đang rất cần thứ đó.” Alanna nhìn trân trân vào thứ chất lỏng đang bốc khói và gắng sức nhớ lại xem cô cần phải làm gì với nó. “Uống cho hết đi, cậu bé!” Myles dịu dàng giục. Ông uống cạn cốc của mình, đổ đầy rượu lần nữa và nhìn cô.
Alanna thận trọng ngồi xuống một chiếc ghế bành và nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ. Mãi rồi cô mới nâng cốc rượu lên môi và nhấm nháp. Thứ chất lỏng nóng rẫy thổi những đợt sóng lửa chạy xuyên qua cơ thể. Có lẽ cô thật sự còn sống? Cô uống thêm một ngụm, rồi một ngụm nữa.
“Con cứ nghĩ con chết rồi”, cuối cùng cô thốt lên, “nhưng chắc là con chưa chết.” Cô đưa cây kiếm cho ông. “Đây. Con tìm thấy ở dưới đường hầm.”
Myles xăm soi cây kiếm thật kỹ mà không rút nó ra khỏi bao. Ông đưa những ngón tay sờ bao kiếm, cọ ngón cái lên lần vỏ kim loại phủ ngoài và nheo mắt lại nhìn một ngọn nến qua viên kim cương.
“Chuyện gì đã xảy ra?” ông vừa hỏi vừa tiếp tục nhìn cây kiếm.
Cô kể lại mọi việc trong những lời lẽ ngắn gọn và nhìn ông không ngưng.
“Và trong viên kim cương có phép lực?” cuối cùng ông hỏi.
“Con không biết, nhưng con không thể dùng pháp lực của mình để thúc nó hoạt động. Phép lực của nó chỉ xuất hiện khi con ngưng chiến đấu bảo vệ mạng sống của mình.”
“Ta hiểu rồi”, ông lẩm bẩm. “Con chấp nhận cái chết. Và viên kim cương này cứu mạng con.”
Alanna thấy chuyện đó điên khùng quá, vậy là cô tạm gạt nó sang một bên. “Ngài không muốn rút kiếm ra sao?”
Myles trầm ngâm nhìn qua cửa sổ ra ngoài. “Cơn giông dịu rồi.” Ông nhận xét.
Alanna nôn nóng cọ quậy trong ghế bành. “Sao kia ạ?”
“Không, ta không rút nó ra đâu. Con sẽ làm điều đó.” Myles đưa cây kiếm sang cho cô.
“Con không làm thế được!” cô phản đối. “Đó là tòa nhà đổ của ngài. Nó là của ngài.”
Myles lắc đầu. “Con không để ý sao. Ta bị ép buộc phải đưa con đến chỗ này. Con đã mở ra cánh cổng dẫn xuống đường hầm sau khi ta đã thử làm điều đó nhiều năm trời mà chỉ uổng công. Đã có chuyện xảy ra bên dưới đó và cây kiếm này đã bảo vệ con. Và con đừng quên cơn giông. Nếu có ai làm dấu ra hiệu với ta, thì ta cũng đủ sức nhận ra điều đó.”
“Nó là của ngài”, cô phản đối, muốn trào nước mắt.
“Nó chưa bao giờ là của ta.” Ông đẩy nó về phía cô. “Thử xem nó trông ra sao, cậu nhỏ.”
Miễn cưỡng, Alanna đứng dậy và cầm lấy món vũ khí. Chuôi kiếm rất vừa với bàn tay cô, như thể nó được làm cho riêng cô. Alanna nhắm mắt lại rồi rút kiếm.
Chẳng có chuyện gì xảy tới. Ngượng ngùng, cô nhìn Myles. Người bạn già cười với cô.
“Con thấy con nực cười quá”, cô thú nhận.
“Sau tất cả những gì đã xảy ra vào buổi sáng hôm nay, đúng là ta cũng có phần chờ mong một thứ gay cấn hơn. Con thấy chuyện này thế nào?”
Alanna nhấc nhấc cây kiếm trong tay. Nó mỏng hơn và nhẹ hơn một cây kiếm rộng bản, nhưng cũng thuộc loại kiếm hai lưỡi. Lần thép nhẹ như lông tơ và óng ánh màu bạc. Cô khẽ chạm vào một lưỡi kiếm bằng ngón tay cái và bị đứt tay. Rạng rỡ sung sướng, cô thử một vài cú đâm. Cây kiếm sống động tuyệt vời trong tay cô.
“Con định đặt tên cho cô kiếm này ra sao?” Myles hỏi.
Cô không bực tức vì ngài Myles gọi cây kiếm của cô là một “cô kiếm”. “Dựa theo phản ứng mà nó đã gây ra đối với... đối với...”
“Đối với cái gì đó đang canh giữ khu nhà đổ?” ngài hiệp sĩ đề nghị.
“Vâng, con nghĩ, đúng là như thế đấy. Nhưng dù sao chăng nữa - dựa vào chuyện nó đã gọi một cơn giông kéo tới và tất cả mọi chuyện đó xảy ra nhanh chóng đến thế - con đặt tên nó là Tia Chớp, có được không ạ?”
Myles giơ cốc rượu của ông hướng về phía cô. “Ta uống chúc sức khỏe của Alan và Tia Chớp. Chúc không bao giờ có một lưỡi kiếm nào tốt hơn!”
Alanna uống cạn cốc của cô. “Ngài Myles”, cô nói trong khi tay đút kiếm trở lại bao.
“Sao?” hiệp sĩ không mắc lừa cái giọng hiền lành của cô, ông hỏi đầy cảnh giác.
“Con... con muốn rằng, không một ai biết chuyện này. Vâng thì, biết những chuyện đã xảy ra. Liệu chúng ta... liệu chúng ta có thể nói rằng, con đã chọn được Tia Chớp trong kho vũ khí của ngài?”
“Với Jonathan thì con sẽ nói sự thật, hay là không?”
“Dĩ nhiên là có, nhưng con không muốn một người nào khác biết chuyện. Nếu ngài đồng ý.”
“Chắc chắn rồi, cậu nhỏ. Tùy theo ý cậu.” Myles lại đổ đầy cốc của ông và thầm hỏi, Alan đang sợ cái gì, hoặc sợ ai.
Alanna cứ mong chờ người ta sẽ nhận ra Tia Chớp, nếu không chắc cô sẽ rất buồn. Thậm chí công tước Gareth cũng hỏi cô về món vũ khí, y hệt như đại úy Sklaw. “Không đủ nặng đâu”, ông đại úy lầm bầm khi mới cầm Tia Chớp lên tay, nhưng sau khi kiểm tra lưỡi kiếm thì nét mặt ông ta hiện vẻ kính trọng. “Không đến nỗi tệ”, cuối cùng ông ta kết luận. Và Alanna phải hài lòng với câu nói đó. Tất cả đều chấp nhận câu chuyện kể của cô, rằng Tia Chớp là một món quà của Sir Myles, nhưng với Jonathan thì cô kể ra sự thật khi chỉ có hai người với nhau. Hoàng tử rất háo hức với chuyến phiêu lưu của cô và hỏi liên tục câu này sang câu khác. Cậu thậm chí còn gắng dùng pháp lực của mình để kích cho viên kim cương sáng dậy, nhưng không kết quả. Cuối cùng cậu đành phải đầu hàng, với lời thú nhận rằng cậu bị đau đầu vì bài luyện tập đó.
Cả chú Coram cũng được Alanna kể cho nghe sự thật. Cô cảm giác cần phải làm như thế với người bạn thân thiết. Coram không nói một lời, nhưng chú cũng không một lần chạm tới cây kiếm.
Khi Georg đòi được xem vũ khí mới của Alanna, cô sốt sắng trao Tia Chớp sang cho anh, nhưng cô rất ngạc nhiên khi thấy Vua Kẻ Trộm thốt lên một tiếng thét và buông rơi món vũ khí. Anh yêu cầu Alanna nhặt nó lên.
“Trong cây kiếm có đầy một thứ phép lực mà anh chưa bao giờ gặp”, anh nói. “Vậy mà em định nói với anh rằng nó được treo bình thường trong kho vũ khí của Sir Myles?”
Alanna mở miệng, định nói một lời dối trá, và ngậm lại. Cuối cùng, khi cất tiếng, cô kể cho anh nghe câu chuyện thật, Georg lắng nghe và ngạc nhiên lắc đầu.
“Em mà chấp nhận một điều gì đó ư?” anh nhận xét. “Em ấy hả?”
“Em đâu có cách nào khác,” cô miễn cưỡng đáp. “Lúc đó em sắp chết rồi, dù muốn hay là không. Và khi em ngưng không chống trả nữa.”  
“Khi em chấp nhận nó...”
“Liệu anh có thôi cái trò cứ nói mãi cái từ “chấp nhận” hay không. Georg? Dù sao chăng nữa thì lúc đó viên kim cương bắt đầu hoạt động. Và cho tới nay em không thể làm cách nào đánh thức nó dậy lần nữa.”
“Thế sao. Thôi, anh rất mừng là em đã thoát khỏi vụ đó, và anh còn mừng hơn là bây giờ em đeo Tia Chớp bên người.” Georg gật đầu về phía cây kiếm. “Một cây kiếm thần. Dù là em có đánh thức được phép lực của nó hay không, chắc chắn sẽ có ngày nó giúp em nhiều việc.”
Còn một người nhận thấy bên trong Tia Chớp có ẩn náu nhiều thứ hơn là vẻ ngoài của nó. Khi Alanna đến giờ học pháp thuật đầu tiên sau chuyến đi Olau, công tước Roger mỉm cười nhìn cô. “Ta nghe nói em có một cây kiếm mới, Alan. Ta có được phép xem nó một chút không?”
Alanna chần chừ. Cô không muốn trao cây kiếm của mình cho công tước Roger, nhưng cô hoàn toàn không có lý do gì để e ngại. Miễn cưỡng, cô tháo bao kiếm ra khỏi thắt lưng. Cô cảm nhận rõ là Jonathan đang nghi ngờ nhìn cô và thắc mắc vì vẻ chậm chạp của cô.
“Cây kiếm này nằm vạ vật trong nhà Sir Myles”, cô nói. “Em không tin rằng...”
“Cả đời ta cho đến nay đã quan tâm rất nhiều đến nghệ thuật rèn kiếm”, Roger giải thích. Ông ta đưa một tay ra. “Để ta xem!”
Alanna trao cây kiếm sang. Trong giây phút đó, cô căm thù ông ta còn hơn căm thù bất cứ một người nào trước đó. Thật nhanh, cô cố đè nén cảm giác này.
Roger đờ người ra, hai mắt mở lớn. Mặt ông ta nhợt nhạt và những khớp xương trên bàn tay cầm kiếm Tia Chớp đổi màu trắng. Bầu không khí xung quanh ông ta đột ngột nhuộm màu xanh dương thẫm, óng ánh. Bản năng thúc Alanna bước về phía trước, định giật lại cây kiếm của cô, nhưng màu xanh đó biến đi cũng nhanh như lúc nó xuất hiện, khi ngài công tước thận trọng đặt kiếm lên bàn.
“Em làm thế nào mà tìm được cây kiếm này?” ông ta nghiêm nghị nhìn cô. “Nói đi! Em lấy nó ở đâu ra?”
Alanna đỏ mặt lên, đe dọa duỗi cằm về phía trước. “Em được Sir Myles tặng”, cô đáp và gắng giữ bình tĩnh. “Tuần qua em được đến thăm chỗ ông và ngài hiệp sĩ đã tặng nó cho em.”
“Ông ấy... đưa nó cho em. Đơn giản thế?”
“Nó treo trong phòng vũ khí của ông ấy, thưa ngài.” Alanna thấy rõ hai bờ vai cô đang cứng đơ ra vì thịnh nộ. “Không một ai dùng đến nó và ngài hiệp sĩ biết là em chưa có kiếm riêng.” Cô vươn tay về phía trước và cầm Tia Chớp lên. “Xin phép ngài, bẩm tướng công.”
Cô lại buộc thanh kiếm vào thắt lưng, chùng chình kéo dài thời gian để kiềm chế cơn giận dữ.
“À ha. Em có chắc chắn là mọi việc diễn ra như vậy không? Phải chăng em đang che giấu ta một chi tiết nhỏ nhặt không quan trọng nào đó? Một chi tiết mà có thể em cho rằng ta không quan tâm đến?” giọng Roger rung lên. Rung lên vì cái gì? Vì thịnh nộ? Vì nôn nóng? Vì sợ hãi? Alanna không chắc. Ngài công tước nhận ra vẻ ngạc nhiên của đám học trò khi thấy người thầy mất hết vẻ duyên dáng thường ngày, và ông ta gắng sức mỉm cười. “Ta xin lỗi, nếu ta thúc ép em, Alan. Em có biết lưỡi kiếm này có phép lực không?”
Alanna nhìn ông ta với hai con mắt mở lớn, dịu dàng vô tội. Jonathan biết rất rõ vẻ mặt đó, cái vẻ mặt mà Alan luôn dùng tới mỗi khi cậu chàng sắp đưa ra một trong những lời nói dối trắng trợn nhất. Jon hiểu rõ là cây kiếm Tia Chớp có một điều gì đó khiến ông anh họ Roger của cậu bị chắn động, đến mức ông phải buông rơi cách cư xử tươi cười nhã nhặn bình thường. Jon cũng hiểu rằng Alan không muốn nói sự thật về cây kiếm. Hãy nghĩ ra một cái gì đơn giản! đó là suy nghĩ mà hoàng tử âm thầm gửi tới cho cậu bạn Tóc Đỏ. Nếu lời nói dối của em quá dị thường, anh ấy sẽ phát hiện ra!
Nhưng Jonathan lẽ ra không cần âu lo. “Ra nó có phép lực, bẩm tướng công?” Alanna hỏi. “Em chỉ thấy thích khi cầm nó lên tay. Nó nhẹ hơn đa phần những cây kiếm khác và...”
“Trong cây kiếm của em có phép lực, Alan”, ngài công tước nôn nóng ngắt lời. Alanna cố che giấu một nụ cười hài lòng. Roger tin cô! “Nó là một phép lực cổ xưa, chắc là còn cổ hơn tất cả những gì mà em gặp cho tới nay. Điều đó giải thích tại sao em không ngay lập tức phát hiện ra đây là một cây kiếm lạ. Em có làm được cho viên kim cương sáng lên không? Không, đừng có nhìn ta như thể ta đã nổi điên. Hãy gắng sức làm cho viên kim cương sáng lên.”
Alanna làm ra vẻ gắng sức. Cô sử dụng phép lực khiến mồ hôi túa ra trên mặt và bầu không khí xung quanh cô ngả màu tím nhạt, nhưng trong sự thật thì thà cô sẵn lòng đi bộ từ đây về Trebond rồi quay trở lại, còn hơn là thực lòng thúc viên kim cương theo lệnh ngài Roger! Đằng nào thì cho tới nay cô cũng chưa làm được điều đó. Lần này chắc chắn cũng không khác.
“Thôi được”, mãi rồi Roger mới ra lệnh. “Dừng lại đi. Em chỉ phí sức mà thôi. Cái pháp thuật có thể gọi lên sức mạnh của viên kim cương, sức mạnh của cây kiếm này, đã bị mất đi mãi mãi.” Ít nhất thì nghe câu đó cũng trung thực y như nét thất vọng trong giọng nói của ngài công tước pháp sư. “Đúng là một sự nhục nhã. Sir Myles có biết cây kiếm này có độ tuổi bao nhiêu không? Ông ta có biết là có phép lực ẩn náu trong đó không?”
“Em không biết ạ”, Alanna nói. “Có thể ngài hiệp sĩ đã tìm thấy nó trong một tòa nhà đổ nát gần lâu đài Baronie Olau. Ông nói rằng, đó là khu nhà đổ nát của những Người Cổ Đại. Em được phép ngồi chưa, thưa ngài?”
Roger đứng dậy. Ông ta xoay xoay cây đũa phép dát ngọc giữa những ngón tay. “Dĩ nhiên. Đằng nào thì ta cũng đã kéo dài giờ học này quá quy định rồi. Hãy giữ gìn cây kiếm cho cẩn thận, Alan, dù rằng chỉ vì lý do là nó rất cổ và rất quý. Ta tin chắc là một học giả được tôn kính như Sir Myles chắc chắn đã biết giá trị của món vũ khí đó, khi ông ta tặng cho em. Một biểu hiện của sự quý trọng từ một người đàn ông đáng kính trọng.”
Ông ta nhìn trân trân một thoáng ra phía xa, rồi hướng ánh mắt quay lại chỗ học trò. “Hôm nay chúng ta bắt đầu với chủ đề ảo ảnh. Trước khi các em học phần thực hành - tức là việc tạo ra ảo ảnh - các em phải nắm vững lý thuyết, làm cách nào mà sự vật lại có một vẻ ngoài khác với bản chất của chúng.”
Alanna ngồi vào chỗ và thấy ngài công tước von Conté đã tự chủ trở lại. Thái độ ông ta trở nên thoải mái và không khí trong phòng học cũng thoải mái theo. Thêm một lần nữa, các cậu học trò lại say mê uống từng lời ông ta nói. Nhưng Alanna không nghe. Thay vào đó, cô thầm mân mê viên kim cương gắn trên chuôi kiếm, và nghĩ về những chuyện vừa xảy ra. Ngài công tước cảm nhận thấy một sức mạnh ẩn chứa trong cây kiếm mới của cô. Ngoài ra, rõ ràng là ông ta sợ pháp thuật của nó. Đó là thứ mà cô phải nhớ.
Và điều còn quan trọng hơn: Không phải là cô không ưa ngài công tước von Conté. Không, cô căm thù ông ta. Cô căm thù ông ta với một sức mạnh cuồng điên mà trước đó cô không bao giờ ngờ rằng mình có thể có.
Vào một buổi tối trời đổ tuyết, sau một tiếng đồng hồ luyện cùng cây kiếm nặng của chú Coram và một tiếng đồng hồ khác cùng cây kiếm Tia Chớp, đúng lúc Alanna rời phòng tập có mái che thì cô va phải Stefan.
“Tôi đi tìm cậu”, anh chăn ngựa nói khẽ. Cậu đang nôn nao vì đã vào tới phía trong cung. “Cái này là Georg gửi.” Cậu ấn một bì thư vào tay cô rồi vội vàng quay trở lại với những con ngựa thân quen.
Bọc bên ngoài một lá thư có dấu niêm phong là một tờ giấy có chữ viết tay của Georg. Alanna hối hả vào phòng và cài cửa thật kỹ. Cô ngồi lên giường, đọc tờ giấy của Georg:
“Anh thấy có vẻ như anh trai em đã nghe theo lời em, và gửi thư cho em qua anh. Đây là một lá thư. G.”
Alanna run tay bẻ dấu niêm phong. Cho tới nay, cặp song sinh rất thận trọng trong việc trao đổi thông tin, vì ngài công tước Gareth nhận toàn bộ thư từ của các tiểu đồng. Ngoài ra, Thom là một người rất lười viết thư. Nhưng bức thư lần này khác hẳn. Sau khi Georg biết Alan thật sự là ai, anh đã nhận lời đưa lén thư từ đây đến Thành Phố Thánh Thần và từ đó trở về cung điện. Kể từ gần ba năm trời, đây là cơ hội đầu tiên cho cặp song sinh trao đổi thật sự thẳng thắn.
Alanna yêu dấu, (Thom viết).
Bây giờ anh đang ở trong cắc tu viện thuộc dòng Mithran. Ít nhất thì giờ anh không còn phải chịu đựng những đứa con gái luôn cười khúc khích. Bọn anh phải cạo trọc dầu, nhưng anh tin rằng cho đến khi rời khỏi đây thì tóc anh đã mọc trở lại. Bọn anh mặc áo choàng nâu. Chỉ những người đi tu mới mặc áo màu cam.
Anh rất mừng là em đã tìm được một người đáng tin cậy làm cầu nối để chúng ta trao đổi thư từ với nhau, mặc dù em đã dành khá nhiều thời gian cho chuyện đó. Chắc chắn là người ở đó lo lắng để em luôn bận rộn. Chú Coram bây giờ ra sao? Chú ấy có thích làm lính canh trong cung điện không? Cứ khoảng sáu tháng cô Maude lại đến đây thăm anh. Cô ấy cư xử như thể cô ấy là một con gà mái, và anh là một con vịt con mà cô ấy trót ấp ra vì nhầm lẫn. Cô ấy nói rằng, cha chúng ta đang nghiên cứu dấu vết của tập sách cổ Rylkal và sẽ viết một cuốn sách về đề tài đó. Anh chúc ông may mắn. Chắc chuyện này sẽ khiến ông bận rộn suốt nửa năm tới.
Chúng ta có thể tin được anh chàng Georg này, đúng không? Anh phải hỏi, vì đây là chuyện quan trọng. Có một pháp sư quý tộc đã tìm đến tận trên này và hỏi thăm về anh. Anh nghĩ, em biết anh đang muốn nói đến ai. Đó là người đã rất quan tâm đến cây kiếm Tia Chớp của em. Hãy coi chừng ông ta! Vị pháp sư này nổi danh vì chuyện cản trở hoặc nhiều khi cắt ngang con đường danh vọng của những pháp sư trẻ tuổi, những người có khả năng trở nên tài giỏi như bản thân ông ta. Chắc là em đã khiến ông ta lo lắng đến độ phải tìm hiểu xem anh trai sinh đôi của em có tài giỏi như em không - theo một kiểu cách kỳ quặc, thì đây lại là một lời khen đối với em. Còn riêng về phần anh, chắc chắn là ông ta đã bị đánh hỏa mù. Ở đây anh vào vai kẻ ngu. Sẽ rất là hay nếu em ở dưới đó có thể tung ra cái tin rằng người anh trai song sinh của em không lấy gì làm lanh lợi. Hãy nói rằng, hồi nhỏ anh bị ngã đập đầu xuống đất, hay kể một chuyên gì tương tự. Các ông thầy ở đây tin như vậy. Anh biết nhiều hơn rất nhiều những gì họ nghĩ, và anh thầm tập ban đêm, khi người khác ngủ say.
Khoe khoang thế là đủ rồi. Anh bạn của em có nhiều bí mật và người ta đồn rằng anh ta là người nguy hiểm. Các thầy ở đây khẳng định rằng, anh ta là pháp sư tài giỏi nhất của các nước miền Đông, mà họ thì vốn biết rõ chuyện đó. Bây giờ còn thêm một lời đồn nữa từ Thành Phố Thánh Thần, một lời đồn mà em cần phải để ý: Bọn anh có nghe kể về căn bệnh sốt đổ mồ hôi. Bọn anh chỉ được nghe khi nó đã qua đi rồi. Bản thân em cứng đã viết vài chi tiết - anh cứ mong Itỉc ấy mình có mặt ở đó! Một bệnh sốt do pháp thuật gây nên, một căn bệnh rút kiệt sức lực và giết chết thầy thuốc, một thứ pháp thuật mà người ta chỉ gặp một lần trong đời. Dĩ nhiên tất cả đã ngồi túm lại và kể tên những pháp sư còn sống đủ tài đủ giỏi để tạo nên một chuyện như thế. Người ta có nhắc đến tên ba người - anh bạn luôn luôn mỉm cười của em là một trong ba người đó.
Dĩ nhiên, em nói rằng lúc đó gã ta ở Carthak, nhưng nếu một pháp sư đủ tài lực để trút bệnh xuống cho cả một thành phố, chẳng lẽ lại không đủ tài lực để làm điều đó từ xa? Còn ai đứng giữa ông ta và ngai vàng? Anh thật sự không muốn là cái chàng hoàng tử chỉ có duy nhất một người kế ngôi, mà lại là một người kế ngôi như thế.
Ừ thì, đó chỉ là lý thuyết. Hãy cho anh thêm vài năm nữa, rồi chúng ta sẽ cho anh bạn luôn mỉm cười của em một bài toán khó gặm. Cho tới thời điểm đó, hãy nói năng dịu dàng với gã ta, để gã tin rằng em ưa gã. Thỉnh thoảng đã có những người tỏ ra không yêu quý gã và rồi tự nhiên đã biến mất, hoặc chết vì những căn bệnh kỳ lạ.
Anh đã tìm cách nhìn em trong lửa, nhưng em được che chắn bởi những uy lực cho tới nay anh chưa gặp. Em không giấu anh chuyện gì, đúng không? Anh chúc em gặp thật nhiều may mắn. Anh tin rằng từ giờ trở đi chúng ta sẽ thường xuyên nhận được nhiều tin của nhau hơn. Gắng thận trọng và chứ ý đến tay quý tộc mà anh nói tới.
Người anh luôn yêu thương em,
Thom.
Alanna đọc lá thư ba lần rồi đốt, ngồi nhìn cho đến khi bức thư chỉ còn là một dúm tro xám trong lò sưởi. Thom đã nói lên một phần nỗi nghi ngờ trầm trọng nhất của cô. Alanna cứ mong mỏi có một người bạn mà cô có thể trao đổi về những tình cảm đối với ngài công tước Roger, nhưng Jonathan và các cậu học trò khác ngưỡng mộ ông ta, và để thổ lộ với Sir Myles vụ này thì cô thấy mình chưa có đủ bằng chứng chắc chắn. Alanna thở dài và đặt thêm một khúc gỗ vào lò sưởi. Có lẽ cô có thể nói chuyện với Georg. Toàn bộ chuyện này quá phức tạp, nó không thể được giải quyết bởi chỉ một cậu tiểu đồng.
Còn về chuyện cô được che chắn bởi những uy quyền bí hiểm thì đúng là Thom lại giở trò nhăng nhố. Nói như thế thì anh ấy cũng có thể khẳng định rằng các vị thần linh đang chú ý đến cô! Mà kỳ lạ thật, sao khẳng định của Thom về những quyền lực chở che cô cũng giống lời nhận xét của bà Cooper rằng Đức Mẹ Tối Cao có dự phần trong số phận của cô, hoặc như lý thuyết của chú Coram rằng các thần linh đã che chở cho cô trong cuộc hỏi cung của công tước Roger. Cha, cứ để cho anh Thom, chú Coram và bà Cooper suy nghĩ chuyện đó. Bản thân cô đã có quá nhiều chuyện để mà suy nghĩ rồi.
Mùa đông yên tĩnh trôi qua. Alanna dành toàn bộ thời gian cho việc học tập, và cô lao động cật lực trong những giờ tự do để có thể tài giỏi như những cậu học trò khác, nếu không muốn nói là tài giỏi hơn. Các giờ học pháp thuật xảy ra mỗi tuần. Ngài công tước Roger chăm chú quan sát những tiến bộ của các cậu trò, nhưng Alanna nhanh chóng nhận ra, ông ta rất coi trọng lý thuyết và thường dành nhiều tuần lễ liên tiếp để diễn giải những suy nghĩ nằm đằng sau một câu thần chú, trước khi ông ta cho phép họ thật sự thử câu thần chú đó. Vì thế mà họ tiến rất chậm. Rất nhiều câu thần chú mà Roger chọn cho Alanna thật ra cô Maude đã dạy từ lâu. Vì nhớ rõ lời cảnh báo của Thom, nên Alanna quyết không để Roger biết là cô đã nắm vững những câu thần chú nọ, thậm chí ở cấp độ cao. Thay vào đó, cô lén nhìn ra phía sau những cuộn giấy mà Roger phân cho cô đọc, và không ít lần cô thấy mình đang ngắm nghía những cuốn sách pháp thuật mà lẽ ra cô không được chạm tới. Alanna nghi rằng, cứ đêm đến là Jonathan lại khóa mình vào một thư viện biệt lập và luyện những câu thần chú trong một cuốn sách mà Roger đã cấm học trò mở ra xem. Nhưng cô không hề nói điều gì với Roger lẫn Jonathan. Những việc Jon làm suy cho cùng chỉ liên quan đến mình anh ấy. Bản thân cô cũng đâu có hé cho ai biết cô đi đâu, mỗi lần cô tập lén với cây kiếm của chú Coram.
Vào một buổi sáng được nghỉ học, khi ngồi trong phòng Georg, cô vô thức luyện câu thần chú tạo bức tường bảo vệ, câu thần chú được ghi trong một trong những cuốn sách của Georg. Đúng lúc nhìn thấy một bức tường làm bằng lửa màu tím dựng lên xung quanh mình, cô kêu lên: “Thế là tốt”, và bẻ gãy phép thuật.
“Em vừa làm cái gì thế?” cô nhăn nhó hỏi Georg.
Georg cầm lấy hai bàn tay cô trong bàn tay to bè của anh. “Em cư xử rất thông minh. Ô, em sẽ thành một hiệp sĩ giỏi giang. Sẽ cứu vớt đàn bà trẻ con, sẽ giết rồng và tất cả những gì tương tự, nhưng chẳng phải mọi quái vật mà em gặp đều mang hình rồng. Hãy nghĩ đến những gì mà anh Thom của em đã viết về người anh họ luôn mỉm cười của Jon.”
Alanna nhìn thẳng vào mắt anh. “Anh có tin công tước Roger là người nguy hiểm không?”
Georg nhún vai rồi buông tay cô. “Anh chỉ là một thằng con trai thành phố nghèo nàn, không được học hành”, anh đáp lời cô và hai con mắt màu hạt dẻ của anh lóe sáng. “Anh chỉ biết một điều: Nếu người ta trao cho anh một món vũ khí, dù là món vũ khí nào, và anh có thể sử dụng nó, thì anh cũng sẽ làm điều đó. Thử nghĩ lại mà xem, Alanna: thứ tự nối ngôi như thế nào, vì Jonathan là con một?”
Cô đếm trên đầu ngón tay. “Nhà vua. Hoàng hậu. Jonathan. Và... Và công tước Roger.” Cô bực bội búng ngón tay. “Các anh toàn nói trò bậy bạ thôi, Thom và anh. Nếu công tước Roger muốn lên ngôi cho bằng được và nếu ông ta là một pháp sư mạnh mẽ đến thế, tại sao ông ta không chiếm ngai luôn bây giờ?”
“Bởi vì ngai vàng được bao quanh bởi những người uy quyền, cô bé ạ”, Georg đáp lời. “Không, anh thật sự không muốn trở thành kẻ thù của công tước Gareth, cũng như kẻ thù của ngài chánh án. Cả với anh bạn Sir Myles yên lặng của em người ta cũng không nên đùa giỡn. Rồi em thử xem lại hàng ngũ bạn bè của Jonathan: Gary, người thậm chí còn thông minh hơn cả cha cậu ta; Alex, một tay kiếm nhanh lẹ hơn bất kỳ người nào khác; em với pháp thuật của em; rồi thêm anh trai của em trong Thành Phố Thánh Thần. Không đâu, anh ta sẽ chờ đợi, anh bạn luôn luôn mỉm cười của em.” Georg tung một quả táo lên không rồi giơ dao găm ra đón. Anh kéo nó lại gần, rút nó ra khỏi lưỡi dao rồi trầm ngâm cắn táo. “Ông ta sẽ tìm ra người đã cứu Jonathan khỏi cái chết của bệnh sốt đổ mồ hôi. Ông ta sẽ đi kiếm bạn bè và làm vừa lòng tất cả mọi người. Ông ta sẽ biến tôi tớ của nhà vua thành tôi tớ của ông ta. Còn với một số mà ông ta biết không đời nào thuyết phục được thì ông ta sẽ tìm cách trừ khử. Sau đó mới ra tay.” Anh chỉ mũi dao găm về phía Alanna. “Thế nên cô bé, hãy chăm chỉ mà học những câu thần chú của em. Em sẽ còn cần tới chúng. Nếu anh không lầm, ngài công tước von Conté cũng chẳng quý em hơn là em quý ông ta.”
Trong khi Alanna vừa luyện kiếm vừa luyện thần chú - ở những nơi không ai nhìn thấy cô - thì Jonathan lại thích gặp gỡ công dân trong thành phố của mình. Mùa đông này hoàng tử thường cùng Alanna đến quán Bồ Câu Nhảy Múa. Ở đây Jon trở thành “Johnny”, cậu con trai của một lái thương giàu có đã được Georg tin cậy. Những người đàn ông trong quán Bồ Câu Nhảy Múa không kính cẩn im lặng khi Jon nói. Họ thường gắt lên rằng. “Đồ nhóc! Cậu thì biết cái gì! Im đi mà nghe những người lớn tuổi hơn.”
Jonathan im lặng và lắng nghe. Cậu thiếu niên kết bạn với những tay ăn trộm và những kẻ sát nhân nguy hiểm nhất của vùng đất miền Đông. Cậu nhanh chóng học cách móc túi và lắc xúc sắc. Cậu bỡn cợt với những cô gái bán hoa và nhìn đám kẻ trộm phân chia chiến lợi phẩm từng đêm. Cậu quan sát cuộc sống từ một góc nhìn hoàn toàn khác so với góc nhìn từ cung điện, và cậu hào hứng học tất cả những gì có thể học được. Không một ai có thể đoán ra rằng, kẻ ngồi trong góc kia là người kế tục ngôi vàng, kẻ đang uống một vại bia và thỉnh thoảng lại chơi một ván xúc sắc.
Thường thì Gary cũng đi cùng và sau đó cả Raoul cũng được giới thiệu với Georg cùng đám người của anh. Jonathan đề nghị mang Allex theo, nhưng mùa hè này ngài công tước Roger yêu cầu Alex làm cận vệ riêng cho ông ta cho tới kỳ thi hiệp sĩ. Vậy là Alanna không cần phải nói rằng cô không muốn dắt một người gần cận với công tước Roger đến chỗ Georg. Đơn giản là Alex quá bận bịu, chẳng còn mấy thời gian cho bạn bè cũ.
Mùa đông tan thành mùa xuân, và các cậu cận vệ được đào tạo dạy dỗ ráo riết hơn trong nghệ thuật chiến tranh. Theo truyền thống, người kế tục ngai vàng sẽ phải trải qua kỳ thi hiệp sĩ vào dịp nghỉ lễ Hội Giữa Đông giữa ngày sinh nhật thứ 17 và ngày sinh nhật thứ 18 của anh, nên có vẻ như trong năm nay Jonathan sẽ cần một cận vệ. Vì Gary, Raoul và Alex đã tròn mười tám tuổi, nên cả ba cũng sẽ đồng thời tham dự kỳ thi hiệp sĩ. Vậy là nhóm ba đó quan sát hàng ngũ cận vệ và những cậu tiểu đồng lớn tuổi, gắng sức chọn người thích hợp cho mình.
Cuộc ganh đua để trở thành một trong bốn cận vệ hàng đầu diễn ra thật gay cấn. Jonathan là thái tử, ba người còn lại đều xuất thân từ những gia đình quý tộc bậc nhất của vương quốc Tortall. Tất cả đều ưa chàng Raoul vạm vỡ, mạnh mẽ nhưng tính tình hơi rụt rè. Gary với lý trí sắc sảo và cách ăn nói còn sắc sảo hơn đã bị không ít người thù ghét, nhưng cả anh cũng được tôn trọng. Alex là cận vệ của ngài công tước Roger và một phần sự yêu mến mà người ta giành cho ngài công tước cũng tự động lây sang anh.
Tất cả các cậu cận vệ lẫn các cậu tiểu đồng lớp trên, những người sẽ trở thành cận vệ trong kỳ lễ Hội Giữa Đông năm nay, đều làm việc không ngơi nghỉ, nhất là khi một trong bốn nhân vật quan trọng kia xuất hiện trong tầm nhìn.
Tất cả, chỉ trừ Alanna. Mặc dù cô cũng sẽ trở thành cận vệ trong kỳ lễ Hội Giữa Đông năm nay, nhưng cô không coi mình là người tham dự cuộc ganh đua đó, và cô cũng nói thẳng điều đó ra. Các cậu học trò khác rất muốn biết lý do.
“Rất đơn giản”, cô nhăn nhó giải thích. “Thử nhìn tôi mà xem. Tôi bé và gầy nhất cung điện. Tôi là một con số không trong môn vật, mà cũng chẳng hay ho gì trong môn đấu kiếm. Chẳng ai nhận một đứa yếu ớt như tôi làm cận vệ.”
“Nhưng cậu là người cưỡi ngựa tốt nhất kể từ khi cậu có con Ánh Trăng”, Douglass phản đối. “Và cậu là người tốt nhất trong môn bắn cung, kể cả môn đấu thương và đấu gậy, cũng như với các loại vũ khí khác. Ngoài ra, cậu còn là một học trò giỏi. Tất cả các thầy giáo đều nói như vậy khi cậu vắng mặt. Chẳng lẽ cậu cho rằng, hoàng tử Jonathan không muốn nhận cậu?”
Alanna nhăn mặt. Cô thà chấp nhận mọi thứ khác trên đời này, chứ không muốn thành cận vệ của Jonathan. “Jonathan lại càng khó chấp nhận nhất. Người kế tục ngai vàng cần cận vệ tốt nhất hoàng cung. Tôi quá yếu ớt trong môn đấu kiếm, ngoài ra lại quá bé nhỏ. Geoffrey von Meron là ứng cử viên tốt. Hoàng tử nên chọn cậu ta.”
Đó là những gì mà cô nói với bạn bè mình. Cô biết họ không tin cô, nhưng cô chẳng thèm chú ý. Sự thật cô thấy mình không xứng đáng làm cận vệ cho bất kỳ ai. Cô là một đứa con gái, ngoài ra còn là một kẻ nói dối thâm niên. Bất kỳ lúc nào, sự thật cũng có thể bị phát hiện. Bây giờ thì chỉ nguyên việc cô luôn bị thua trong môn vật và làm một học trò trung bình trong môn đấu kiếm đã là đủ rồi. Jonathan chắc phải chọn Geoffrey hoặc Douglass rồi, vụ này vậy là được giải quyết xong.
Đến tháng tư thì cung điện có một sự thay đổi. Huân tước Martin von Meron, người cha có vẻ ngoài rất nghiêm nghị của Geoffrey, phi ngựa lên phía Bắc để vừa thăm con trai vừa xin đức vua gửi quân tiếp viện cho vùng đất của ông. Khu vực của Martin von Meron được biết đến với cái tên Sa Mạc Rộng Lớn Phía Nam: một biển cát mênh mông trải dài nhiều dặm đường, từ khu Đồi Ven Biển cho đến rặng núi Tyra. Khu vực khô cằn này là quê hương của người Bazhir, một bộ lạc dân sa mạc. Chỉ một phần dân Bazhir tuân phục nhà vua và đại diện của nhà nước nhận nhiệm vụ cai trị họ chính là huân tước Martin. Vào buổi sáng sau khi đến cung điện, huân tước Martin đã bàn chuyện nhiều giờ đồng hồ liền với nhà vua và công tước Gareth. Nhà vua quyết định Jonathan và các hiệp sĩ tương lai khác phải tận dụng cơ hội này để tìm hiểu bộ lạc Bazhir. Theo những diễn tiến trong vùng sa mạc thì rất có thể hiệp sĩ nào cũng phải một lần trong đời chiến đấu chống lại người Bazhir. Dưới quyền điều khiển của Sir Myles và huân tước Martin, các cận vệ sẽ cùng nhóm quân mới phi ngựa xuống phía nam. Đến mùa hè thì các tiểu đồng cũng sẽ phải thực hiện một chuyến đi xa, nhưng là đi về hướng Đông, đến thái ấp Naxen. Sau khi quyết định đã được đưa ra và các đấng tôn quý đã dùng xong bữa trưa, công tước Gareth và huân tước Martin đi ra ngoài, đến những bãi tập kiếm. Ngày trước huân tước Martin vốn nổi danh là một tay kiếm cực kỳ khéo léo, và vào buổi tối hôm trước ông đã giao đấu một trận hữu nghị với ngài công tước. Giờ đây, cả hai người ngồi cạnh phòng tập nhìn các tiểu đồng lớn tuổi và các cận vệ nhỏ tuổi học sử dụng kiếm.
“Cho chúng ta xem khả năng của họ, đại úy Sklaw”, công tước Gareth ra lệnh.
Sklaw nhìn quanh sân tập. Con mắt duy nhất của ông ta ánh lên vẻ độc địa. “Meron.” Geoffrey duyên dáng cúi chào rồi đưa tay về phía bộ quần áo bằng vải độn bông của mình. Đại úy Sklaw cười, trỏ tay về phía khác. “Trebond. Kể từ cái lần đầu tiên đó, cậu chưa đấu thêm một trận nào. Hãy để bọn ta xem lại cái cảnh cậu tự ngáng cho mình ngã kềnh ra.”
Alanna thoắt nóng bừng rồi thoắt lạnh toát vì kinh hãi. Có ai đó ấn vào tay cô bộ đồ luyện tập độn bông, và cô mặc nó vào người, trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh. Sklaw nói đúng. Kể từ cái lần thi đầu tiên khủng khiếp với Sacherell cách đây một năm, cô chưa đấu kiếm thêm một trận nào. Bình thường ra, mỗi thế đâm và mỗi chuyển động đều do Sklaw quy định rõ từ trước. Cô chỉ luyện tập mà thôi, nhắc đi nhắc lại đến vô cùng tận chỉ một chuyển động đó, hay chỉ thực hiện những cuộc đấu theo kế hoạch, nơi một trong hai tay kiếm phải tuân thủ một thứ tự chuyển động do Sklaw đặt trước, trong khi người kia thực hiện những chuyển động ngược lại thích hợp, theo thứ tự cũng do Sklaw ấn định. Cả hai tay kiếm cứ trao đổi qua lại như thế suốt buổi chiều, và chắc chắn đấy không phải là một sự chuẩn bị cho một trận đấu tự do. Ngoài ra, cô còn luôn có những giờ tập riêng vào tờ mờ sáng và lúc đêm khuya, nhưng là luyện một mình và cũng chỉ các động tác đó mà thôi. Alanna lấy hơi thật sâu. Cô thấy mình thảm hại vô cùng. Thêm một lần nữa lại có mặt cả công tước Gareth lẫn đại úy Sklaw, và cả chú Coram cũng đang xua đám học trò ra khỏi chỗ ngồi ở đoạn giữa hàng đầu, ngay sát sân đấu. Cô đội cái mũ bằng vải lên và đón một cây kiếm từ tay Douglass. Ngạc nhiên, cô thấy đó không phải là cây kiếm luyện tập mà cô đã rèn nên, đó là cây Tia Chớp.
Cả Tia Chớp giờ cũng không giúp được mình, cô thầm nghĩ như vậy khi bước ra vạch thi và cúi chào. Cô rút kiếm, vào tư thế phòng thủ.
“Bắt đầu!” Sklaw ra lệnh.
Geoffrey khuỵu chân đâm thẳng về phía trước, tấn công. Alanna giữ nguyên tư thế, đỡ lưỡi kiếm rơi xuống của cậu ta bằng một sức lực khiến thân thể của hai tay kiếm cùng rung lên. Tuân theo bài tập “Trăng Bán Nguyệt”, cô gỡ mình ra khỏi đối phương, xoay Tia Chớp theo một nửa vòng tròn và thúc xuyên ngang mạn sườn Geoffrey. Cậu thiếu niên lớn tuổi hơn và cao to hơn vội vàng giơ kiếm gạt, lùi về một bước. Cậu ngỡ ngàng nhìn đối phương với con mắt mơ màng màu nâu hạt dẻ. Không hề suy nghĩ, Alanna tiếp tục ra ngọn đòn Trăng Bán Nguyệt thứ hai, xoay Tia Chớp ra hướng kia rồi ép Geoffrey phải kháng cự một lần nữa thay vì để cậu ta tấn công. “Tấn công bao giờ cũng tốt hơn phòng thủ”, chú Coram đã có lần giải thích, trong một lần hai chú cháu nói chuyện đấu kiếm giữa nửa đêm. “Bao giờ cũng thế. Chỉ phòng thủ thôi con không thể chiến thắng, con chỉ có thể giữ cho đối phương không làm hại được con hoặc làm cho nó mỏi. Hãy tấn công và kết thúc tấn trò.”
Alanna tấn công, và cánh tay cô như đang tách rời ra khỏi phần cơ thể còn lại, nó cứ liên tiếp thực hiện hết cú đâm thẳng này đến cú đâm thẳng khác. Ánh mắt vừa nhìn thấy một chỗ hở là bàn tay ngay lập tức tận dụng cơ hội, thúc mũi kiếm về kẽ hở đó. Cô chẳng phí thời gian để nghĩ xem cô đang làm gì. Thay vào đó, các cơ bắp trên cơ thể cô nhớ lại tiến trình chuyển động của những bài tập dài vô cùng tận, được cô nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần với cây kiếm quá nặng của chú Coram. Geoffrey vừa chuyển động để định tấn công hoặc đỡ gạt, vậy là hai cánh tay và cơ thể Alanna ngay lập tức nhớ đến những chuyển động tương thích với đòn tấn công dạng đó hay cú đỡ gạt đó. Mồ hôi chảy vào mắt Alanna. Cô lắc tung nó đi và hơi lảo đảo một chút. Geoffrey tận dụng tích tắc ngắn ngủi khi cô đứng không vững, cậu dồn toàn lực cho một cú chém kết thúc cuộc đấu. Thay vào đó, Alanna xoay một đường xoay bạo liệt với lưỡi kiếm của cô và Tia Chớp bọc lấy lưỡi kiếm của Geoffrey như một con rắn bằng thép. Kiếm bung ra khỏi tay cậu thiếu niên và Geoffrey không kịp tóm trở lại. Cũng với chuyển động đã giúp cô tước vũ khí đối thủ, Alanna chạm mũi kiếm vào lần khăn che trên sống mũi Geoffrey.
Cậu thiếu niên bước lùi về rồi khuỵu gối xuống. “Tôi đầu hàng.” Cậu nói và mỉm cười nhìn lên mặt cô. “Chiến đấu tốt lắm, Alan! Rất tốt!”
Cô há mồm lấy hơi, nhìn cậu trân trân. Cô có cảm giác như cả hai cánh phổi đang bốc lửa. Thế rồi cô nhận thấy tiếng ồn trong tai cô chính là tiếng vỗ tay. Các bạn bè cô, không, tất cả các tiểu đồng và tất cả các cận vệ đều reo hò cổ vũ.
“Tốt lắm”, công tước Gareth nói nhỏ với đại úy Sklaw. “Anh đã biến cậu ta thành một tay kiếm hạng nhất.”
“Không phải công của tôi, bẩm tướng công”, Sklaw lầm bầm và nhìn trân trân cậu tiểu đồng đang loay hoay cởi những sợi dây buộc của bộ quần áo đấu kiếm.
“Nó chính là cái thằng Trebond tồi tệ thuở trước, và cậu ta đã một mình làm nên chuyện.”
Vào buổi tối hôm đó, Jonathan đến thăm bác mình.
“Bác ạ?” hoàng tử nói. “Cháu muốn cầu xin bác một việc. Chuyện xoay quanh chuyến đi về Persopolis, tới thái ấp Meron.”
Công tước xứ Naxen mỉm cười. “Cháu biết rằng lời cầu xin của cháu đối với ta là mệnh lệnh, Jon.”
Jonathan cười thầm. “Chỉ có điều không biết liệu bác có nghe cháu nói hết không, thưa bác. Cháu muốn Alan đi cùng chúng ta. Bác có nói rằng, đến mùa hè thì các cậu tiểu đồng sẽ đi xuống Naxen. Tới lúc đó thì bác cứ cho cậu ta ở lại cung, cho công bằng.”
Công tước Gareth nhìn vào tận đáy mắt Jon. “Đó là một đề nghị khác thường, Jonathan.”
“Cháu biết”, hoàng tử điềm đạm trả lời. “Chỉ có điều - Alan chơi với Gary và Raoul và Alex cùng với cháu nhiều hơn là với các cậu tiểu đồng khác. Cháu nghĩ là đi với bọn cháu cậu ấy sẽ vui hơn. Sir Myles cũng đi cùng, mà ông ấy...” hoàng tử nín ngang, và khi nhìn thấy ánh mắt đầy cảm thông của người bác, anh mới nói tiếp: “Myles đối với Alan còn là một người cha tử tế hơn cả ông huân tước Trebond. Cháu biết, chúng ta không được nói những điều không hay về cha anh mình, và Alan cũng không bao giờ mở miệng than van, nhưng tất cả chúng ta đều có tai và có mắt.”
Ngài công tước nhón lấy một hạt dẻ và bẻ nó ra. “Alan có muốn cùng đi xuống Persopolis không?”
“Cháu không biết”, Jonathan đáp. “Cháu nghĩ là cậu ấy thích, vì tất cả chúng cháu đều đi. Nhưng nếu bác muốn hỏi rằng liệu cậu ấy có biết việc cháu đến yêu cầu bác hay không, thì câu trả lời là không. Theo những gì cháu biết về tính tình Alan, cậu nhỏ sẽ không bao giờ tưởng tượng ra chuyện cháu đi nài xin một việc như thế này cho cậu ta.”
“Hừm. Cháu đã chọn cho mình một cận vệ chưa, Jonathan? Nếu cháu đỗ kỳ thi hiệp sĩ?”
“Cháu đã nghĩ đến một người”, Jonathan bình tĩnh đáp. “Đây không phải là một quyết định dễ dàng.”
Ngài công tước cân nhắc. Cuối cùng ông gật đầu: “Chừng nào những cậu học trò khác không bực bội về chuyện này, thì không có gì ngăn cản cậu ta đi cùng với các con.”
Jon mỉm cười. “Bọn họ sẽ không bực bội đâu. Nhiều khi trông như thể Alan là một cận vệ nhỏ người, chỉ thích xem xem đám tiểu đồng làm gì.”
“Quan sát tinh đấy. Con muốn tự nói cho Alan nghe hay ta cần phải làm chuyện đó?”
“Bác nói cho cậu ta nghe thì hay hơn. Con cảm ơn bác bằng cả trái tim.” Jonathan hôn tay ngài công tước. Khi anh đã ra gần tới cửa, giọng nói của người lớn tuổi hơn giữ chân anh lại.
“Tại sao con coi trọng chuyện này đến thế, Jon?”
Hoàng tử xoay người lại. “Vì cậu ta là bạn con. Vì con luôn có thể tin chắc về tình cảm của cậu ta đối với con, cũng như tình cảm của con đối với cậu ấy. Vì con tin rằng, cậu ta sẵn sàng chết cho con, cũng như con sẵn sàng chết cho cậu ấy, con tin thế. Như vậy đủ chưa, thưa bác?”
“Con là đồ khôn lỏi, ông cháu thân mến”, Gareth nói bằng vẻ nghiêm khắc giả vờ. “Vậy thì hãy báo cho Timon, bảo cậu ta đi tìm Alan và đưa đến gặp ta.”
Alanna hết sức ngạc nhiên khi nghe công tước Gareth truyền đạt tin mới. Cô không bao giờ mong đợi là người ta có thể sẽ ưu tiên mình. Cô nghe thật chăm chú khi ngài công tước giảng giải về những nghĩa vụ trong chuyến đi. Vì là tiểu đồng duy nhất trong toàn nhóm nên cô phải hầu hạ huân tước Martin, hiệp sĩ Myles cùng Jonathan cũng như thực hiện việc đưa thư cho đại úy trưởng nhóm và các cận vệ khác. Cô sẽ tiếp tục chuyện học hành với thầy Myles.
Cả chú Coram cũng vui sướng về vinh dự này, và những mệnh lệnh của chú cũng nghiêm khắc y hệt như mệnh lệnh của ngài công tước: “Con phải cư xử cho tử tế. Không bao giờ được giở trò tinh nghịch.”
Alanna gắng sức để không bị nóng đầu vì cái tin mới mẻ đó. Mặc dù cô hầu như không kiềm chế nổi con xúc động. Cô ngạc nhiên khi thấy những tiểu đồng khác mừng vui cho cô, thay vì tỏ thái độ ghen tuông. Cô vẫn không biết rằng họ không còn coi cô là tiểu đồng nữa, mà đúng như Jonathan đã nói, cô là một cận vệ có vóc người rất nhỏ.
Vào buổi tối trước chuyến đi, các cậu học trò và Myles được công tước Roger gọi tới để bàn bạc. Ông ta đưa tất cả đến phòng thư viện lớn, chờ cho mọi người yên vị mới bắt đầu lên tiếng. Alanna co ro nép vào giữa chàng Raoul vạm vỡ và một chàng Gary cũng vạm vỡ y như thế để không bị ai chú ý. Cô nhận thấy ngài công tước trong bộ trang phục mềm mại bằng nhung đen chẳng phải chỉ điển trai, mà còn rất ấn tượng. Ông ta đeo một sợi dây chuyền có hình thù kỳ lạ với một mặt dây chuyền bằng đá Saphir, màu viên ngọc tô điểm thêm cho màu mắt ông ta.
“Chắc là các em không biết tại sao tôi muốn nói chuyện với các em.” Ông ta nói với một nụ cười vô tư, nhẹ bỗng. “Nếu tôi đoán không lầm thì khi nói đến chuyến đi mà các em sẽ bắt đầu vào ngày mai, chưa hề một ai nhắc tới Thành Phố Đen.” Ngài công tước lắc đầu. “Tôi cho việc để tất cả các em lại gần thành phố đó không phải là một sáng kiến hay, nhưng mà... thôi thì, ý kiến của tôi đã bị phủ quyết.” Alanna nhấp nháy mắt khi viên ngọc Saphir tỏa ra những tia chớp nhỏ. Những tia sáng của viên đá quý khiến cô buồn ngủ. Giận dữ bản thân, cô véo mạnh vào cánh tay mình. Động tác đó khiến cô tỉnh dậy. “Đứng ở Persopolis người ta có thể nhìn thấy Thành Phố Đen”, ngài pháp sư nói tiếp. “Những người Bazhir quả thật đã xây dựng một căn phòng đặc biệt ở mảng tường phía tây của lâu đài Persopolis dành riêng cho mục đích này. Người ta gọi nói là “Phòng Mặt Trời Lặn” và người ta đồn rằng, người Bazhir đã xây nên nó để họ có thể canh chừng Thành Phố Đen. Cứ như thể những tay chăn cừu và đám cư dân sa mạc có thể hiểu biết chút nào đó về những chuyện như thế!” Ngài pháp sư thở dài. “Dĩ nhiên người ta sẽ không cho phép các em đến gần thành phố đó. Không một ai được phép. Người ta nói rằng có một lời nguyền phủ trên thành phố và không người nào bằng xương bằng thịt có thể giữ được mạng sống mà rời thành phố đó quay trở lại, nhất là với những người còn trẻ. Chắc chắn đây cũng chỉ là những câu chuyện Bazhir mà người ta thường kể bên bếp lửa để hù dọa trẻ em.”
Người đàn ông cao lớn đi đi lại lại trong phòng. Chỉ thiếu một chút nữa là trông ông ta giống như cái bóng của một con báo gấm, và tất cả ánh mắt đổ dồn về phía ông ta. “Tôi tin chắc rằng, người dân Bazhir nghĩ ra những câu chuyện ma quái khủng khiếp để hù dọa con cái họ, nhưng đó không phải là nguyên nhân khiến tôi khuyên các em nên thận trọng. Trong Thành Phố Đen quả thật có một thế lực độc ác, một thế lực rất mạnh mẽ, có nguồn gốc từ một quá khứ thật xa xôi. Tôi không biết nó đã được tạo ra bằng cách nào. Tôi chưa bao giờ có đủ sự điên khùng và coi mình là đủ mạnh để có thể đối mặt với những thứ đang rình mò nơi đó.”
Roger đã đứng lại và hai con mắt ông ta nhìn trân trân vào mắt Jonathan. “Tôi không cần quả cầu pha lê của một phù thủy để cảm nhận làn hơi độc ác tỏa ra từ địa điểm đó ngay từ khi đứng trong thành phố Persopolis, cũng giống như một ngư dân có thể ngửi không khí mà biết là cơn bão đang lại gần. Nếu đến bản thân tôi còn không dám bước chân vào nơi mạo hiểm đó, thì không một ai trong các em, những cậu học trò chưa được đào tạo đủ độ cho chuyện này và chưa hề có kinh nghiệm trong chuyện này, không một ai có được cơ hội nhỏ nhất. Vậy là đừng có táo gan mà lại gần Thành Phố Đen, nếu không các em sẽ phải trả giá bằng tính mạng mình và rất có thể bằng linh hồn mình.” Ông ta mỉm cười, mắt vẫn nhìn trân trân vào mắt Jonathan. “Tôi biết dừng lại và nhận ra khi thấy một cây gươm quá nặng, và tôi không được phép nâng nó lên.”
Khi lên giường vào tối hôm đó, Alanna hoang mang hơn bao giờ hết. Cô có cảm giác như Roger đã khiêu khích Jonathan chứng minh rằng anh nhiều lòng dũng cảm hơn người anh họ của mình, và anh có thể giơ đầu đối đáp với Thành Phố Đen, thành phố mà người anh họ sợ hãi, nhưng chắc là cô nhầm rồi. Cả Roger chắc cũng không đủ lòng dũng cảm và sự tàn nhẫn để đẩy người em họ trẻ trung của ông ta vào một cái chết chắc chắn đến như thế. Hay là không?.
Chương 7
Thành Phố Đen
Chuyến phi ngựa xuống miền nam là chuyến đi dài nhất và khó khăn nhất mà Alanna từng biết. Họ vừa rời Corus được một ngày thì khung cảnh ven đường thay đổi. Những ngọn đồi trơ trọc hơn, cây cối nhỏ lại và cong queo cằn cỗi, đám cây nhỏ mọc sát mặt đất như đang giành giật với nhau từng giọt nước mà chúng có thể hút lên từ lòng đất. Bản thân mặt đất chuyển màu nâu khô cằn và đầy những vết nứt nẻ. Thằn lằn, rắn và thỉnh thoảng đây đó là một con thỏ, ló ra nhìn đoàn hiệp sĩ như thể họ là dân đột nhập, và mặt trời dường như nóng gấp mười lần bình thường. Cho tới cuối ngày thứ hai thì lớp đất nứt nẻ nhường chỗ cho cát và những ngọn đồi nhường chỗ cho những cồn cát chạy dài. Họ đã tới Sa Mạc Rộng Lớn Phía Nam.
Tối đến, Alanna hầu hạ huân tước Martin, hiệp sĩ Myles và ông đại úy chỉ huy nhóm lính canh. Ban ngày cô phi ngựa nhiều tiếng đồng hồ bên cạnh Myles và được ông giảng cho nghe về cuộc sống cũng như phong tục của người dân trên mảnh đất này. Myles là một thầy giáo hấp dẫn và ông biết rất nhiều về vùng sa mạc phía nam. Nhiều lần Alanna bắt gặp huân tước Martin nhìn ngài hiệp sĩ với vẻ kính trọng trong đôi mắt bình thường vốn khắc nghiệt.
Alanna không phải là người duy nhất được dạy bảo. Huân tước Martin dạy tất cả các học trò cách sống sót trong một vùng đất khô cằn.
Tới một lúc nào đó, có thể mạng sống của họ sẽ phụ thuộc vào chuyện liệu họ có biết loại thực vật nào có chứa nước, và người ta làm cách nào để tìm được một ốc đảo.
Càng đến gần Persopolis, họ càng thường xuyên gặp người Bazhir. Những người dân sa mạc đó là những kỵ sĩ dai sức và là những chiến binh hung hãn. Họ che giấu phụ nữ của họ trong những túp lều bằng da dê, nhưng Alanna cảm nhận rõ là kể cả đàn ông lẫn đàn bà đều tò mò quan sát đoàn người lạ bằng những cặp mắt đen kiêu hãnh. Vì cô linh cảm thấy huân tước Martin không mấy thích những thần dân dòng giống Bazhir của ông, nên cô quay sang hỏi Myles.
“Người Bazhir là những người kỳ lạ”, ngài hiệp sĩ công nhận. “Martin cũng có lý do thích đáng khi có ác cảm với họ.”
“Con tin rằng ông ấy không chịu đựng nổi ai trong đám họ”, Alanna lẩm bẩm.
Myles lờ đi như không nghe thấy câu nói đó. “Con biết không, người ta đồn rằng vị vua thuở trước đã xâm chiếm được toàn bộ vùng đất này, cho tới tận mãi về phía nam, tới tận Biển Hồ. Trong khi sự thật, ông chỉ chiếm được vùng đồi phía đông và dải bờ biển quanh cảng Legan cho tới sông Tyran, nhưng sa mạc này thì không. Nó quá lớn. Thay vào đó, ông đã kí hiệp ước với một số người Bazhir, và tàn sát một số người khác. Ngày nay chỉ có vài bộ lạc công nhận Roald là vua. Họ buôn bán trao đổi với phần còn lại trong vương quốc và gắng không gây khó dễ cho chúng ta. Những người khác bị coi là những kẻ ngoại đạo. Họ không công nhận Roald là vua của họ, và họ gây khó khăn cho những người sử dụng con đường phía nam. Bộ lạc hiện đang sống ở thành phố Persopolis là một bộ lạc có cảm tình với nhà vua và đó là điều rất quan trọng. Persopolis là thành phố duy nhất do người Bazhir xây dựng nên.
Alanna nghĩ một hồi về những thông tin cô vừa nghe được. “Tại sao họ chỉ xây duy nhất có một thành phố?” cô hỏi. “Và tại sao lại ở đây, giữa cái mảnh đất Chúa Trời ruồng bỏ này?”
“Tại Persopolis có tới năm nguồn nước”, huân tước Martin nói bằng giọng nghiêm khắc và hướng ngựa đi cạnh cô. “Còn về chuyện nó là thành phố duy nhất của họ, người ta đồn rằng người Bazhir xây dựng thành phố đó để canh chừng Thành Phố Đen.” Ông thở phì ra. “Nếu các người có hỏi, thì ta nói thẳng đó là chuyện điên rồ. Tại sao người ta lại phải xây một thành phố này để canh chừng một thành phố khác, một thành phố mà người ta hầu như không nhìn thấy?” Ông cho ngựa lùi xuống, bao quát đoàn người.
Alanna nheo mắt nhìn theo người cha của Geoffrey. “Cái đó con không hiểu”, cô nói. “Ông ấy không thích người Bazhir, vậy mà nhà vua vẫn trao cho ông ấy quyền cai trị sa mạc.”
“Martin không thích người Bazhir - và họ không thích ông ta - nhưng ông ấy là người công bằng”, Myles đáp. “Ông ấy công bằng ngay cả khi phải trả giá bằng mạng mình. Người Bazhir biết điều đó, vậy là họ chấp nhận. Không một người nào khác có thể chiếm được lòng tôn trọng của họ, mặc dù đó là lòng tôn trọng miễn cưỡng.” Myles gạt ra sau vành mũ trùm đầu của chiếc áo choàng dài mà ông đã mặc kể từ ngày đi ngựa thứ hai, và ném sang cô một cái nhìn sắc lẻm. “Tại sao con quan tâm đến chuyện đó như vậy, Alan?”
Cô nhún vai. “Thì con chỉ hỏi thế thôi. Cho con xin lỗi. Huân tước Martin đang gọi.”
Cô thúc Ánh Trăng xoay lại và phi về phía cuối hàng. Bản thân cô cũng không biết tại sao cô lại quan tâm đến những người dân sa mạc đến thế.
Sau một tuần thì họ tới Persopolis. Cuối cùng, họ cũng có thể nhìn thấy những tháp canh và những bức tường làm bằng đá Granit. Thành phố được xây dựng kín đáo, khó tấn công hơn cả một lũy thành dạng như lũy thành Trebond, và vũ khí của những người lính ở đây rõ ràng được chăm sóc tốt và được sử dụng nhiều.
Người dân đổ ra đứng hai bên đường để chào mừng vị huân tước trở về nhà và để nhìn trân trân cậu thiếu niên một ngày kia sẽ trở thành vua của họ. Trong khi những người Bazhir lùi ra đứng phía sau và im lặng nhìn, thì dân thành phố hồ hởi vẫy tay và reo hò chào đón các vị quý tộc trẻ tuổi. Jonathan và bạn bè anh tiếp nhận những lời chào hỏi đó một cách bình thản, như thể họ làm điều đó mỗi ngày, nhưng Alanna lại thúc cho Ánh Trăng chen vào giữa con ngựa của Myles và con ngựa của ngài đại úy, và cứ giữ mãi vị trí đó.
“Sao thế, cậu nhỏ?” người lính cất tiếng hỏi và cười khùng khục trong cổ. “Ngượng phải không?”
Alanna đỏ mặt. Ông ấy nói đúng, nhưng bên cạnh đó còn một lý do khác. “Ngài Myles?” cô hỏi khẽ. “Người Bazhir bao giờ cũng nhìn trân trân thế sao?”
Ngài hiệp sĩ trầm ngâm giơ tay giật giật râu cằm. “Bình thường ra thì họ tìm cách phớt lờ đám miền Bắc chúng ta. Có thể nguyên nhân là Jonathan.”
“Hừm.” Bên dưới bàn tay cầm dây cương bối rối của Alanna, con ngựa trở nên bồn chồn. Cô gắng sức bình tĩnh trở lại. Những người Bazhir nhìn trân trân cả cô.
Gần tối hôm đó, người ta tổ chức một bữa tiệc long trọng tại cung điện. Ai cũng mặc bộ trang phục đẹp nhất của mình. Người ta đua nhau nói những lời chúc tụng và đọc những bài diễn văn dài hơi. Myles đổ hết cốc vang này đến cốc vang khác vào cổ họng, còn Alanna thì thu mình trong một góc phòng vào những lúc cô không bị sai bảo điều gì.
“Ra là con ở đây.” Dáng đứng của Myles đã thoáng có phần liêu xiêu. “Con ghen vì Jonathan là trọng tâm hay sao? Cậu ấy là hoàng tử. Cậu ấy sẽ còn phải đứng ở trung tâm cả một thời gian dài nữa.” Ông kéo một người đàn ông có làn da thẫm màu và ăn mặc sang trọng lại gần. “Ở đây có người có thể kể cho con nghe nhiều hơn về dân Bazhir. Ali Mukhtab, đây là Alan von Trebond, chú nhóc tiểu đồng của chúng tôi. Ali Mukhtab là người cai quản tòa lâu đài Persopolis. Mà ngoài ra, anh ấy là dân Bazhir. Hai người hãy nói chuyện với nhau đi. Giờ đã tới lúc ta được ngả mình xuống một cái giường tử tế”. Myles dịu dàng đưa tay xoa bù mái tóc Alanna rồi để cô đứng lại với Ali Mukhtab.
Cậu tiểu đồng và người đàn ông nhìn nhau chăm chú. Alanna thấy trước mặt mình một người Bazhir cao lớn với làn da màu hạt dẻ, mái tóc đen nhánh và một bộ râu cũng đen nhánh được tỉa tót cẩn thận. Hai con mắt lớn màu đen của ông ta được bao quanh bởi những hàng mi đen và dài. Sau này Alanna còn nhận thấy rằng, rất hiếm khi người đàn ông đó thật sự mở lớn mắt ra. Nhưng bây giờ thì ông ta đang làm điều đó và Alanna lúng túng chuyển trọng lượng sang chân bên kia. Trong ánh mắt của Ali Mukhtab có ẩn chứa quyền lực. Thế rồi người đàn ông lại khép mắt về thế lim dim và mỉm cười vẻ buồn ngủ.
“Cậu không thấy dễ chịu ở nơi đây”, ông ta điềm đạm nhận xét. Alanna chưa bao giờ thích những lời nhận xét riêng tư. Cô đổi đề tài. “Tôi thích cái áo choàng của ông”, cô tuyên bố. Cái áo choàng đó quả thật là một món trang phục sang trọng. Nó được may bằng nhung màu đen, có đường viền mép bọc vàng. Người đàn ông mỉm cười và cô hiểu ra rằng, ông ta nhìn thấu suốt chiến thuật của cô.
“Sir Myles nói là cậu quan tâm đến người Bazhir. Tại sao? Đối với một chàng trai trẻ tuổi từ một thái ấp của miền bắc, sa mạc chắc chẳng mấy thú vị.”
“Người ta không biết cuộc đời sẽ đẩy mình về đâu”, cô nói thẳng. “Tôi hiểu những người dân miền bắc. Người Bazhir thì không.”
“Ra thế, ra thế. Vậy là cậu có tính tò mò của một con mèo, và cũng giống như một con mèo, cậu thích im lặng về bản thân mình. Thế liệu tôi có được phép hỏi, tại sao cậu là tiểu đồng duy nhất được phép đi theo đoàn?”
Alanna thấy cô ưa người đàn ông kỳ lạ này. “Điện hạ đã đích thân yêu cầu cho tôi được phép đi cùng. Chúng tôi là bạn bè, hoàng tử và tôi, và cả Gary và Raoul nữa, hai anh cận vệ to cao lực lưỡng ấy. Thêm cả Alex...”
“Có phải cái cậu chàng luôn làm ra vẻ bí bí mật mật”, Ali Mukhtab ngắt lời. “Cả cậu ta cũng giống một con mèo, nhưng là thứ mèo mà tôi không muốn làm quen. Tôi rất thích mèo. Trong nhà tôi lúc nào cũng có ít nhất ba con.”
“Alex thật ra không làm ra vẻ bí mật vậy đâu”, Alanna cãi lại. “Anh ấy xưa nay - xưa nay vốn thế rồi. Ông có thể trả lời cho tôi một câu hỏi không? Tôi biết là nó không mấy lịch sự, nhưng tôi phải hỏi.”
Người Bazhir mỉm cười và cầm lên hai chiếc cốc đựng đầy thứ nước lỏng màu xanh lục do một người đầy tớ bưng qua. Ông ta đưa một cốc cho Alanna. “Uống đi”, ông ta ra lệnh. “Rồi cậu sẽ thấy ngon. Và giờ thì hãy cho tôi nghe cái câu hỏi “không mấy lịch sự” đó.”
Alanna thận trọng nhấp nhấp một chút chất lỏng màu xanh lục. Ngon thật. “Tôi... e hèm..., tôi không thể không nhận ra là huân tước Martin... e hèm... rằng ông ấy không mấy thích người Bazhir. Người ta đồn ông ấy là người công bằng và...”
Ali Mukhtab cười không giấu giếm. “Cậu nói đúng. Ông ấy cư xử với chúng tôi rất đúng mực, và ông ấy không chịu nổi chúng tôi. Nói tiếp đi.”
“Nếu như thế, thì tại sao một người Bazhir như ông lại được giao cai quản tòa lâu đài này?”
Ali Mukhtab xoay xoay chiếc cốc giữa những ngón tay. “Anh bạn Myles của cậu nói với tôi rằng cậu là người thông minh. Ông ấy không hề nói rằng cậu cũng là người bất nhã.”
Alanna đỏ mặt. “Ngài Myles nói tôi là người thông minh ư?” cô đỏ mặt hơn. “Tôi chưa bao giờ khẳng định rằng tôi là người tế nhị”, cô thêm vào.
“Theo lý mà nói thì vị trí quản lý lâu đài Persopolis phải được trao vào tay một người Bazhir”, Ali Mukhtab giải thích. “Huân tước Martin không thể thay đổi điều đó, mặc dù tôi biết rằng, ông ấy đã tìm cách làm ngược lại. Điều đó đã được ghi trong bản hiệp ước với vị vua đời trước. Tôi tin rằng, người của chúng tôi sẽ đứng lên phản đối nếu nhà vua từ miền bắc tìm cách dẹp bỏ tục lệ này.”
“Nổi loạn chỉ vì duy nhất một chức vụ trong lâu đài ư?” Alanna hỏi. “Tôi thấy điều đó có vẻ hơi... Vâng thì, hơi một chút phóng đại.”
“Truyền thống đó có một nguyên nhân sâu xa”, người Bazhir giải thích. Ông ta nhìn qua cửa sổ, ra phía ngoài bầu trời đang tối xuống. “Nếu cậu và đám bạn bè của cậu có thể lặng lẽ rời ra ngoài được một chút, tôi sẽ chỉ cho các cậu xem một thứ thú vị.”
Vài phút sau, Alanna và các bạn đã tụ tập trong một khoảng hành lang nằm phía sau lâu đài. Jonathan là người tới cuối cùng, chuyện lẻn ra khỏi đại tiệc đối với anh khó khăn hơn cả.
“Tôi không còn sức để nghe thêm một người quý tộc thề thốt với tôi rằng anh ta muốn được nhìn thấy một thành phố màu xanh ở miền bắc trước khi qua đời...”, hoàng tử bực bội nói, rõ ràng là lòng nhẫn nại của anh đã cạn kiệt. “Có chuyện gì thế?”
Alanna vội vàng giới thiệu vài lời và nhóm thanh niên theo người quản lý lâu đài đi dọc một con đường dẫn xuống dưới.
“Buộc phải thú nhận là tôi có phần ngạc nhiên đấy”, Ali Mukhtab nói với Jonathan. “Tôi không hề nghĩ là thông điệp của Alan lại có thể gọi được điện hạ tách khỏi những người đang dốc sức chiếm lòng tin yêu của điện hạ.”
“Đó mới là lý do chính”, Jonathan đáp lời và véo mũi Alanna. “Nếu tôi là một người khác, chắc họ chẳng thèm nói với tôi nửa lời, nhưng tôi lại là hoàng tử, và tôi tin rằng, người nào trong căn phòng kia cũng muốn ở tôi một điều gì đó - chỉ trừ huân tước Martin”, anh thêm vào và gật đầu với Geoffrey. “Tôi đâu có phải tới đây để được cư xử như thể tôi được làm bằng vàng.”
Họ dừng lại trước một cánh cửa gỗ. Mukhtab rút ra một chiếc chìa khóa bằng đồng thau, vừa hợp với ổ khóa vừa hợp với lỗ cửa. “Đây là Phòng Mặt Trời Lặn”, ông giải thích trong khi mở cửa. “Chỉ người quản lý lâu đài mới có một chìa khóa cho phòng này.”
Năm chàng trai nhìn nhau. Đây chính là căn phòng mà công tước Roger đã nhắc tới, căn phòng mà người ta đã xây dựng nên để từ đó canh chừng Thành Phố Đen. Trông nó hoàn toàn khác biệt với tất cả những căn phòng khác trong lâu đài. Nền đá và những bức tường bằng đá được lót những viên gạch men nhỏ sáng, sặc sỡ muôn màu, tạo thành những bức tranh ghép. Rất nhiều trong số những bức tranh đó chỉ ra Thành Phố Đen và những thành viên của bộ lạc Bazhir. Alanna quan sát thật kỹ các bức tường và nhẹ nhàng chạm đầu ngón tay vào chúng.
“Cái này cổ lắm rồi”, cuối cùng cô nói.
“Thậm chí đến chúng tôi cũng không biết nó đã bao nhiêu tuổi”, Ali Mukhtab đáp.
Cửa mở ra. Các gia nhân xuất hiện với gối và đồ uống. Cánh thanh niên đi chầm chậm sang phía bức tường hướng về trời tây. Ở đây không có kính cửa sổ để che luồng không khí của sa mạc. Chỉ có những hàng cột chống trần xẻ dọc tầm nhìn ra phía ngoài.
Căn phòng được xây ở một vị trí cao trong bức tường bao ngoài lâu đài. Trước mặt họ là Sa Mạc Rộng Lớn Phía Nam đang trải rộng hết tầm nhìn. Đó là một bức tranh tráng lệ, ngập một màu vàng đỏ của mặt trời đang lặn.
Yếu tố duy nhất khó chịu là người ta nhìn chính hướng Tây và ánh nắng sắp chết dội thẳng vào mắt ta.
Đột ngột, Jonathan chỉ ngón tay. “Cái vệt màu đen nho nhỏ kia, chính ở kia kìa, chỗ mặt trời đang lặn đó, có phải nó là Thành Phố Đen?”
Ali Mukhtab gật đầu. “Đó là Thành Phố Đen, là tai ương của dân tộc chúng tôi từ nhiều trăm năm nay, kể từ khi chúng tôi biết nghĩ. Mà hồi ức của chúng tôi thì có thể đi ngược tới tận những ngày mà cung điện của điện hạ bây giờ, tâu điện hạ, còn là một cung điện của những Người Cổ Đại. Đã có những con người trẻ trung của bộ lạc chúng tôi bị gọi đến Thành Phố Đen. Sống ở đó là những lãnh chúa tàn bạo của chúng tôi, Những Người Vô Danh. Họ đánh cắp linh hồn của chúng tôi và trả lại cho chúng tôi các trang trại và súc vật. Chúng tôi đã thề không bao giờ còn trở lại làm nông dân. Huyền thoại nói rằng, người Bazhir đã dừng lại ở đó trong chuyến đi từ Biển Hồ phía nam lên phía bắc. Những Người Vô Danh chào đón chúng tôi và mời mọc chúng tôi dùng chung với họ đất đai, mời mọc chúng tôi trồng trọt trên những cánh đồng của họ. Huyền thoại nói rằng ngày đó những vùng này còn xanh tươi và màu mỡ.” Ali Mukhtab khoát tay chỉ cả biển cát mênh mông. “Khi chúng tôi nhận ra rằng họ đánh cắp linh hồn của chúng tôi, thì chúng tôi đã chống lại. Chúng tôi đốt họ cùng cả thành phố và toàn bộ vùng đất này cháy thành cát bụi. Sau khi đã bỏ ra đi để không bao giờ còn quay trở lại, chúng tôi xây nên thành phố Persopolis, để luôn luôn canh chừng Thành Phố Đen.”
“Làm sao mà các người đốt cháy được Những Người Vô Danh, nếu họ mạnh mẽ đến như thế?” Gary hỏi.
“Thứ họ sợ nhất là lửa”, người đàn ông đáp. “Linh hồn của họ vẫn còn lang thang trong thành phố đó, nhưng họ không thể vượt qua cái vòng lửa mà chúng tôi đã tạo nên, bao quanh các bức tường.”
“Ông kể rằng họ gọi những người trẻ tuổi của các ông”, Alex nói. “Ý ông muốn nói sao?”
Người đàn ông thở dài. “Thỉnh thoảng, vào ban đêm, có một thiếu niên hay một thiếu nữ tỉnh dậy và tìm cách phi ngựa xuống Thành Phố Đen. Nếu người ta giữ chúng lại, chúng sẽ la hét và vùng vẫy. Chúng không thèm ăn uống gì cả, chỉ còn nói đến Thành Phố Đen và nói đến những vị thần muốn chúng nạp thân. Nếu chúng tôi không để cho chúng đi, chúng sẽ chết đói.”
“Còn nếu họ đi, họ sẽ không trở về”, Jonathan bình tĩnh nói.
“Như thế thì thà để cho họ đi có hay hơn không?” Raoul hỏi.
“Có thể họ chẳng muốn xuống Thành Phố Đen. Cuộc sống của bộ lạc ông, ừ thì, nó vất vả. Có khi họ phi ngựa đến các thành phố khác để sống ở đó.”
“Nếu được thế thì đã tốt”, người cai quản lâu đài nói, “nhưng con trẻ của chúng tôi được dạy dỗ thành những người trung thực.” Khi ông ta nói điều đó, ánh mắt ông chiếu về phía Alanna và cô ngượng nghịu cọ quậy một chút. “Những thanh thiếu niên đã rời bỏ chúng tôi để chuyển đến những thành phố khác có thể lên đường với lời chúc phúc, hoặc với cả lời nguyền rủa của gia đình họ, nhưng bao giờ họ cũng cho chúng tôi biết họ đi đâu. Cả những kẻ muốn xuống Thành Phố Đen thì cũng chỉ nói tới thành phố đó, như thể bọn chúng không thể nói dối được ngay cả khi muốn.”
“Tôi thấy trói họ và giữ họ ở lại thì độc ác quá.” Raoul ngáp dài và thoải mái ngả người xuống một chiếc gối dày, rót cho mình một cốc rượu vang.
“Đối với một người Bazhir thì kể cả chết đói vẫn còn tốt hơn là số phận đang chờ chúng tôi ở đó”, Ali Mukhtab nói. “Có một huyền thoại khác, vâng, dân Bazhir của chúng tôi có rất nhiều huyền thoại, huyền thoại đó nói rằng một ngày nọ chúng tôi sẽ được giải phóng khỏi lời nguyền của Thành Phố Đen. Huyền thoại kể rằng có hai vị thần, vị thần của Ban Đêm và vị thần của Ánh Sáng, sẽ đi đến Thành Phố Đen và chiến đấu với lũ ma quỷ ở đó. Tôi không biết liệu nó có thành sự thật không.” Người đàn ông Bazhir mỉm cười. “Một số, ví dụ như ngài huân tước Martin, nói rằng chúng tôi bịa ra nhiều huyền thoại, vì chúng tôi chẳng có một thứ gì khác. Chắc là ông ấy nói đúng.”
“Ta thấy dân tộc của ông cổ xưa và thông thái”, Jonathan nói. Anh đứng bên cửa sổ và nhìn vệt nắng cuối cùng chìm xuống cát sa mạc. “Thật đáng tiếc là không có ai ghi lại lịch sử của người Bazhir.”
Ali Mukhtab mở lớn mắt và nhìn Jonathan trân trân với cái nhìn sắc sói kỳ lạ của ông. “Chẳng lẽ điện hạ quan tâm đến những chuyện như thế, tâu điện hạ?”
Jonathan bình tĩnh đáp lại cái nhìn xuyên suốt “Ta phải quan tâm chứ”, anh nói. “Một ngày kia cả người Bazhir cũng sẽ trở thành một phần thần dân của ta.”
Mukhtab cúi mình thật thấp. “Tôi sẽ tìm lại những cuốn sách cổ có ghi những câu chuyện như vậy.”
“Ta sẽ rất mừng nếu được đọc chúng”, hoàng tử đáp lời và theo chân bạn rời phòng, bước về phía đại sảnh.
“Đúng là chuyện ngớ ngẩn!” Raoul cười. “Toàn ma với quỷ. Mình tự hỏi, thật ra thì câu chuyện đó đã xảy ra như thế nào.”
“Cứ nhìn tranh đá ghép trên tường thì thấy là hiện thực tương đối đáng sợ đấy”, Alex giải thích.
“Những tranh ghép đó là do người Bazhir làm nên”, Gary nói. “Thôi, đến giờ ngủ rồi. Quá giờ là đằng khác.” Họ quay về phòng mà không nhận thấy Alan cùng Jon chùng chình nán lại.
“Em tự hỏi, không biết sự thật thì họ là ai”, Alanna trầm ngâm nói. “Những Người Vô Danh ấy.”
Giọng Jon nghe có vẻ hờ hững. “Chắc là một kẻ thù cổ xưa, người ta thổi phồng gã lên để hù dọa trẻ em. Đối với anh thì đó là một lời giải thích sáng sủa. Chắc là trong cái đống thành đổ nát đó có quá nhiều chỗ khiến một đứa trẻ có thể đi lạc. Chúc ngủ ngon, Alan.”
Cô quắc mắt nhìn anh. Đầu tiên anh tỏ ra rất quan tâm đến người Bazhir, và giờ thì anh nói những huyền thoại của họ chỉ là chuyện bịa để dọa trẻ em. Jonathan xưa nay có thế đâu. Mà cả cái ánh mắt gắng sức làm ra vẻ vô tội kia cũng rất xa lạ.
“Chúc ngủ ngon”, cô lẩm bẩm và về phòng. Không một ai còn thức để chờ cô, bởi chú Coram đã ở lại với đội lính gác cung điện. Cho dù có người đoán rằng, Alan có thể gặp nhiều rắc rối hơn bình thường khi không có người lính hầu già mang đôi mắt đại bàng trông chừng cho cậu, thì cũng không có ai nói điều đó ra thành lời.
Alanna thổi tắt đèn và cởi quần áo trong bóng tối. Cô vẫn còn suy nghĩ về thái độ bất thường của Jonathan.
Alanna đột ngột tỉnh dậy, mặc dù trời chưa tờ mờ sáng. Mỗi sợi dây thần kinh trên cơ thể cô rung động, như cô sắp trải qua một kỳ thi trên bãi tập. Thật nhanh, Alanna mặc đồ, quấn chặt vòng ngực rồi khoác qua đầu một chiếc sơ mi màu xanh dương, dài và rộng. Cô đút áo vào quần cưỡi ngựa rồi vất vả xỏ đôi chân đi tất dày vào ủng cưỡi ngựa. Với hai bàn tay run rẩy, cô buộc ngang hông cây kiếm Tia Chớp và một con dao găm. Cô không biết tại sao cô lại vội vàng như thế, và cô thậm chí không có thời gian để nghĩ về chuyện này. Khi chuẩn bị xong, cô rón rén bước ra hành lang.
Trong phòng Jonathan có ánh đèn, rồi đột ngột nó tắt ngấm và cánh cửa mở ra. Alanna đứng trong một góc tường tối và nhìn hoàng tử đã ăn mặc chỉnh tề rón rén bước ra ngoài.
“Chắc anh điên rồi”, cô rít lên khi anh đóng cửa.
Hai con mắt anh tìm kiếm cho tới khi phát hiện ra cô trong góc tối. Hàm răng sáng lóa khi anh cười. “Em đi cùng chứ? Anh đi đây, dù là có hay không có em.”
Cô bước theo. Hai đôi ủng quen thuộc của họ giẫm thật nhẹ trên nền đất như những bàn chân mèo. Dưới dãy chuồng ngựa vẫn chưa có ai tỉnh ngủ. Thật nhanh, họ thắng yên cương, một đồng tiền vàng mua được sự im lặng của người đàn ông Bazhir khổng lồ đứng gác bên cổng thành. Thế rồi họ cùng nhau phi ngựa về phía Tây.
Trong Thành Phố Đen không có cát, không có bụi, không một thứ gì cho biết đã mấy trăm năm trôi qua kể từ khi ở đây có người sinh sống. Những con phố rất cứng, đen và hoang vu, óng ánh trong nắng. Những ngôi nhà kỳ lạ đẹp tuyệt vời và được xây dựng cẩn trọng, chúng nhô lên trực tiếp từ phần đá lát đường, không một bước chuyển tiếp. Không một ngọn tháp nào không mọc trực tiếp từ vách đá đã được vạt đẽo thành đường. Cả thành phố trỗi dậy như một khối những cây kim nhọn đâm thẳng lên trời.
“Đẹp quá”, Alanna thốt lời công nhận khi họ phi ngựa qua cổng thành phố. “Và bây giờ chúng ta phi trở lại.”
Thật đột ngột, cô nhớ lại ảo ảnh của cô, ảo ảnh về một thành phố màu đen. Cô đã gặp nó không phải một lần, mà hai lần. Có phải đó là thành phố này? Và nếu đúng thế, thì bây giờ cô đang sợ.
“Em cứ về đi”, bạn cô đáp và đưa tay vuốt lên một tảng đá được đẽo nhẵn. “Anh còn muốn xem thêm một chút.”
Alanna nhún vai và đi theo anh. Bàn tay cô đặt trên chuôi kiếm. Có thể đã có người định đoạt trước rằng cô phải làm điều này. Im lặng, họ nhìn quanh và ló đầu nhìn vào những tòa nhà ném ra những tiếng vang rất lớn, trong khi mặt trời buổi trưa cháy trên cơ thể họ. Những ngọn tháp hùng vĩ tuyệt đối trống rỗng. Chẳng có đồ gỗ mà cũng không có vải vóc, không có kính. Chỉ là những tảng đá được đục gọt, như khắp nơi trong thành phố.
Alanna quan sát kỹ những tảng đá được khắc hình. Những con thú kỳ lạ, và những con người còn kỳ lạ hơn: những người đàn ông đầu sư tử, những người đàn bà có cánh như chim, những con mèo rất lớn mang mặt người. Cô chưa bao giờ nhìn thấy những thứ như thế. Và bây giờ, sau khi đã nhìn xong, cô cứ thầm mong mình chưa bao giờ tới nơi này.
“Anh không phát hiện ra cơ thể mà cũng không phát hiện thấy xương người”, Jonathan thì thầm. “Chắc là đám thanh thiếu niên Bazhir đó đã đến những thành phố khác.”
“Thế thì tại sao anh lại nói thầm?” cả giọng Alanna cũng rất nhỏ.
Hoàng tử đưa mắt nhìn quanh và quan sát với vẻ kiểm tra các khuôn cửa sổ và cửa ra vào. “Anh không biết... mà có, anh biết. Đây là một mảnh đất dữ. Dù ở đây đã xảy ra chuyện gì hay là không, thành phố này là một mảnh đất rất độc.”
“Em mừng là bọn mình đã để ngựa ở ngoài kia”, cô chỉ đưa ra câu trả lời duy nhất.
Khi họ cứ táo gan đi tiếp rồi đi tiếp nữa vào thành phố, cô chăm chú dè chừng các khuôn cửa sổ và các cửa ra vào bao quanh họ.
Họ vượt qua một khúc ngoặt. Thế rồi ngay trước mặt họ, ở giữa thành phố, là một quảng trường. Một quảng trường rộng lớn, bằng phẳng và được lát đá, thứ đá được mài rất cẩn thận, vậy mà bề mặt của nó hoàn toàn không phản chiếu ánh sáng. Alanna có cảm giác như cô đang nhìn xuống một vực thẳm khổng lồ, được phủ kính bên trên. Cô phải gom góp toàn bộ lòng dũng cảm để bước chân lên quảng trường đó. Mặc dù vậy, cô vẫn làm.
Ngôi nhà đứng ở trung tâm quảng trường đang kêu gọi cô. Những bức tường được làm bằng một thứ đá màu đen xù xì. Mái nhà nổi lên qua một đường viền gắn đầy những bức tượng thếp vàng. Phía trên một khoảng thềm rất cao là những cánh cửa hùng vĩ. Cô cùng Jonathan trèo lên và mỗi lúc họ một thấy mình nhỏ bé hơn, nhỏ hơn nữa. Các khung cửa đều mở rộng, chờ đợi. Giống như những viên đá của thành phố này, cả những cánh cửa cũng phủ đầy những hình ảnh kỳ lạ. Phần rìa của những bức tranh gỗ khắc đều được thếp vàng.
Khi họ đến bên những khuôn cửa, cây kiếm Tia Chớp bắt đầu cất tiếng hát khe khẽ và chuôi kiếm rung lên trong tay Alanna. “Jonathan! Kiếm của em”, cô lắp bắp.
“Sao?” hoàng tử quan sát cánh cửa.
“Em nghĩ là ta không nên bước vào. Cây kiếm của em... nó đang hát!”
Jonathan lắc đầu. “Anh muốn tìm cho ra ở đây có chuyện gì.” Chàng trai bước vào đền thờ.
Alanna nắm chuôi kiếm chặt hơn và bước theo. “Anh biết là em không thể để anh vào đây một mình mà”, cô bực bội nói khi đã đuổi kịp anh.
Jonathan cười. “Dĩ nhiên là anh biết. Thế em nghĩ tại sao mà anh lại phải yêu cầu bác anh cho em đi cùng?”
“Ra anh đã lên kế hoạch cho toàn chuyện này từ đầu!” cô buộc tội anh.
“Anh căm thù bí mật. Mảnh đất này đã chìm trong bí mật từ nhiều năm nay. Anh biết là em đủ can đảm để cùng anh tới đây.”
“Thế còn Gary, Alex và Raoul?” cô phản đối. “Họ sẽ...”
“Họ sẽ làu bàu suốt con đường tới đây rồi sẽ đập lên đầu anh nếu anh tìm cách bước vào thành phố. Anh biết, em sẽ đi cùng anh và sẽ cư xử tử tế.”
“Nguyên nhân nằm ở chỗ em là người duy nhất mang dòng máu điên”, cô lẩm bẩm.
Jonathan cười và những âm thanh đó bị nuốt chửng bởi bầu không khí phía đền thờ. Họ đi thật chậm vào trong, tay vẫn để trên chuôi kiếm. Đền thờ không có cửa sổ mà cũng không có đuốc, nhưng không hiểu từ một góc nào đó đang tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ quái màu xanh lục trộn vàng. Các bức tường được xây bằng những tảng đá trong suốt như kính, bề mặt đá phản chiếu ánh sáng lan rộng ra theo hình sóng. Ở cuối căn phòng có một cái bục rất lớn làm bằng thứ chất liệu nuốt chửng ánh sáng.
“Bục thờ”, Jonathan thì thầm.
Đột ngột, một làn sóng ánh sáng chói gắt tràn qua căn phòng. Khi cả hai người lại nhìn rõ được, họ thấy một nhóm đàn ông và phụ nữ đang đứng trước bệ thờ - 11 người tất cả. Người phụ nữ nhỏ bé nhất trong số họ cũng cao lớn hơn hẳn ngài công tước Gareth. Tất cả bọn họ đều tuyệt đẹp, đẹp đến mức người ta đau đớn khi phải nhìn lâu. Quyền lực của họ tỏa ra rực rỡ, lượn sóng trong một quầng sáng xanh lục bao quanh cơ thể họ.
“Đã lâu lắm rồi”, người phụ nữ mặc đồ đỏ nói trong một tiếng thở dài. “Mà chúng bé quá.”
Một phụ nữ khác duỗi một bàn tay chỉ về hướng hai con người phía trước. Những móng tay của cô ta đỏ rực và dài như móng vuốt. “Hãy xem nhựa sống trong người chúng nó, Ylira. Sức sống bốc rừng rực như lửa. Hai đứa này sẽ đủ cho tất cả chúng ta.”
Alanna nhích lại gần Jonathan hơn. Tia Chớp rung lên trong tay cô. “Đây là sáng kiến của anh”, cô lẩm bẩm.
“Các người là ai?” Jonathan hỏi những kẻ lạ. Giọng anh rõ ràng, bình tĩnh, anh hoàn toàn không biểu lộ sợ hãi.
“Ô, chúng nó nói”, một người đàn ông to cao chế nhạo. “Và thử nhìn đứa nhỏ hơn mà xem. Chắc nó sẽ dùng cái cây kiếm tí hon kia mà đâm bọn ta.”
Đám thực thể nọ - đám Người Vô Danh - đồng loạt cười lớn. Alanna run lên khi cô nghe thấy vẻ tàn độc trong điệu cười đó.
Gã đàn ông to lớn nhất trong bọn khinh thị phẩy tay. Gã có hai bờ vai rất rộng và một bộ râu màu đen. Cả khi so sánh với nhóm quái vật này thì gã vẫn là một kẻ khổng lồ. “Vũ khí của bọn ngươi không làm gì nổi chúng ta”, gã tuyên bố bằng cái giọng ầm vang như sấm. “Chúng ta là Ysandir. Chúng ta là những kẻ bất tử. Da thịt chúng ta không giống da thịt bọn ngươi.”
“Các người không thể giữ chúng ta ở lại đây”, Jonathan đáp bằng giọng quả quyết.
“Chúng ta đang đói.” Đôi mắt của ả có móng vuốt dài sáng lóe lên. “Theo cách tính thời gian của bọn mi thì đã một năm nay chúng ta không ăn gì. Cái lũ chăn cừu canh chừng con cháu của chúng quá chăm chỉ.”
Một người đàn bà khác có mái tóc trắng phơ hơn cả tuyết gầm gừ: “Nó nghĩ rằng cha nó, cái gã vua cỏn con, rồi sẽ tới đây tìm chúng nó và hủy diệt chúng ta.”
Cả bọn cười phá. Và Alanna chỉ muốn đưa tay lên bịt tai để chặn những âm thanh khủng khiếp đó. Nhưng cô ép mình phải bình tĩnh. Cô đổi thế chân đứng cho vững hơn, phòng khi đòn tấn công có tới.
Gã tóc đen mỉm cười. “Ta là Ylon, chúa tể của những người Ysandir. Ta đã ăn thịt hàng trăm những đứa cùng giống với bọn ngươi. Cứ để cho cha ngươi dẫn quân lại đây. Chúng ta sẽ hút hết linh hồn bọn chúng. Chúng ta sẽ càng mạnh mẽ hơn. Sau đó chúng ta sẽ bẻ gãy lời nguyền lửa mà bọn Bazhir đã phủ lên thành phố này.”
Jonathan lấy hơi thật sâu. “Ta không cần những đội quân của cha ta. Ta sẽ rời khỏi nơi đây và các người không thể ngăn chặn nổi ta.”
“Thử nghe cái thằng hoàng tử quắt ba hoa lên giọng kìa”, ả đàn bà vuốt đỏ chế nhạo. “Giọng gầm khá lắm, đồ sư tử lỏi con!”
“Không được nói với anh ấy như thế!” Alanna thét lên. Với một chuyển động nhanh lẹ, cô rút kiếm. Viên kim cương trên chuôi kiếm sáng bừng lên và ném một quầng sáng chói chang vào màn tối đang bao quanh họ. Đám Ysandir lùi về phía bệ thờ và gắng đưa tay che mắt.
“Thế hả? Vậy là mày đến đây với vũ khí của bọn họ?” Ylon nói, “nhưng mày có biết sử dụng nó không?”
“Ylanda”, ả đàn bà mặc đồ đỏ Ylira nói. “Tôi không nhìn được vào đầu thằng bé này. Nó đang giấu cái gì đó. Mày lấy đâu ra cây kiếm kia?” ả sừng sộ hỏi và nhìn Alanna trân trân.
“Không liên quan gì đến ngươi”, Alanna trả lời và tập trung vào thực thể mặc bộ đồ đỏ. Thoáng cảm giác như một thứ gì đó đang tràn vào dòng suy nghĩ của cô, như những móng vuốt cào qua đầu cô. Alanna thét lên. Những tia chớp lóe sáng, ả đàn bà với những móng vuốt dài ngoằng - Ylanda - há mồm hớp hơi và ngã ngửa ra, đập vào bệ thờ.
“Đừng để hở như thế nữa”, Jonathan cảnh báo. Ngay lúc này thân thể chàng thanh niên đã được bao quanh bằng một quầng sáng óng ánh màu xanh dương. Alanna xây dựng bức tường che chắn pháp thuật màu tím của cô và cầm chắc cây kiếm trong tay, đề phòng mọi trường hợp.
“Em đâu có định để hở”, cô lẩm bẩm.
Ylanda đã thở lại được bình thường. Đột ngột, ả cười thé lên. Những kẻ khác quan sát ả. “Trong bao nhiêu trăm năm trời từng sống”, cuối cùng ả hào hển nói ra. “Ta chưa bao giờ được chứng kiến một chuyện nực cười như bây giờ. Này thằng sư tử nhãi ranh, thử nhìn tay bạn đường của mày mà xem, xem con bé thật sự là ai!”
“Con bé?” Jonathan thì thào.
Trước khi Alanna kịp giơ viên kim cương trên chuôi kiếm lên, bức tường phòng thủ của cô đã gục xuống trước sức tấn công hợp sức của Ylanda và Ylon. Cô gập người về phía trước vì đau đớn. Thật nhanh như nó bắt đầu, cảm giác đau qua đi. Chỉ một thay đổi. Trang phục của cô biến mất. Trên người cô bây giờ chỉ còn đai lưng cùng bao kiếm.
Bọn Ysandir nhất loạt cười với Ylanda. “Một đứa con gái! Nó đi cùng một đứa con gái!”
Ả đàn bà được gọi là Ylira giận dữ cười lớn khi Alanna gắng lấy tay che chỗ kín. “Một đứa con gái mà lại muốn xông ra che chở cho hoàng tử của nó? Thật tếu!”
Alanna giơ viên kim cương trên chuôi kiếm lên cao, để ánh sáng của nó xuyên vào mắt bọn đối địch. Khi quầng sáng của viên kim cương giảm xuống, cô thét lên: “Tao có thể là con gái, nhưng tao có thể tự vệ và tấn công giống như bất kỳ đứa con trai nào!” rồi cô nhìn sang phía Jonathan. Anh bạn đang sững sờ.
“Tâu điện hạ”, cô thì thào và đỏ bừng lên. “Em...”
Hoàng tử cởi tấm áo khoác ngoài cổ đứng và đưa sang cho cô. “Chút nữa đã. Chỉ có điều... em là ai?”
Cô khoác tấm áo cổ đứng lên người. Jon thật cao lớn, áo dài đến ngang đùi cô. Đó là một chuyện nhỏ nhặt không quan trọng mà bây giờ khiến cô rất hàm ơn. “Alanna von Trebond, tâu điện hạ.”
Giọng nói ầm vang của Ylon khiến họ phải hướng sự quan tâm tới đám kẻ thù. “Tách chúng nó ra!”
Theo bản năng, Alanna tóm lấy tay Jonathan. Trong những ngón tay cài chặt của họ, sức mạnh của ngọc Saphir và thạch anh tím hòa với nhau.
“Bức tường quyền lực”, Jonathan rít lên. “Câu thần chú?”
Alanna bắt đầu đọc. Giọng Jon hòa vào giọng cô và từng từ từng từ vang vọng trong căn phòng rộng lớn. Chầm chậm, một bức tường ánh sáng màu xanh dương trộn tím mọc lên giữa hai người và đám Ysandir. Những kẻ bất tử phải che mắt lại. Chúng không có khả năng nhìn thứ ánh sáng này lâu, và chúng lùi về.
“Chúng mày dám kháng cự?” Ylon gầm lên. “Chúng mày phải trả giá, quân yểu mệnh!”
Một cảm giác đau cuồng nộ bắn xuyên qua hai bàn tay đan chặt của họ. “Đừng để chúng nó tách mình ra”, Jon nói. Anh xiết tay Alanna chặt đến mức xương tay cô kêu lên răng rắc. Cô gạt cảm giác đau sang bên và tập trung vào bức tường. Bọn Ysandir lại gần. Cơ thể chúng tỏa ra một thứ ánh sáng pháp thuật màu vàng trộn lục. Giận dữ, chúng ném những tia chớp pháp thuật về phía con mồi. Jon và Alanna gom góp sức lực và sử dụng toàn bộ nghị lực của họ để giữ vững bức tường phòng thủ. Bức tường đứng vững. Có hai kẻ bất tử chạm vào bức tường và bật thét lên chói chang. Một tia chớp chói lòa - chúng biến mất.
“Vậy ra bọn mày có thể chết!” Alanna chế nhạo. “Ra bọn mày cũng thấy đau!”
“Thế mày nghĩ con bé chịu đựng được bao lâu hả?” Ylira dịu dàng hỏi Jonathan. “Chỉ vài tích tắc nữa thôi? Cũng chẳng được thế đâu. Nó là một đứa con gái. Nó yếu ớt. Nó sẽ đầu hàng. Rồi thân mày sẽ ra sao?”
Đó cũng chính là cái giọng nhẹ nhàng luôn vang ra từ tâm khảm Alanna mà chế nhạo, mỗi lần cô phải đối mặt với một đối thủ to lớn hơn, mạnh mẽ hơn.
“Mày nghĩ thế hả?” cô cuồng nộ thét lên. “Nhìn đây!” Một sợi lửa tím mảnh mai ngoằn ngoèo xuyên qua bức tường, quấn quanh cổ họng Ylira và siết lại. Kẻ bất tử thậm chí không còn thời gian để buông ra một tiếng kêu trước khi ả ngã xuống đất và biến mất.
Alanna không có thời gian mà vui sướng. Có ba ả đàn bà đã cầm lấy tay nhau và tạo thành một hình tam giác trông đầy vẻ chết chóc. Tại trung điểm của hình tam giác đó, sức mạnh của chúng gom thành một quả bóng độc ác.
“Jonathan?” Alanna thì thào. Cô không đủ sức chống lại dạng pháp thuật này, nhưng cô biết là Jonathan đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các câu thần chú hơn cô.
Jonathan cất tiếng và sử dụng những câu thần chú mà cô chưa bao giờ nghe thấy trong đời. Alanna cảm nhận như pháp thuật của bản thân cô chảy sang cơ thể bạn mình. Chần chừ, hoàng tử chầm chậm thọc tay qua bức tường. Từ những đầu ngón tay của anh, phép lực phun ra và bẻ gãy hình tam giác. Alanna nháy mắt, muốn xóa cảm giác chói lóa do bộ ba Ysandir gây nên khi chúng bốc cháy và biến mất.
Chỉ còn lại năm. Ả tóc đỏ và ả tóc nâu có cặp mắt đói khát la lên rồi ném mình vào bức tường quyền lực. Chúng bốc cháy rồi biến mất. Những kẻ còn lại lùi thêm một bước.
Alanna nhớ ra một thứ.
“Jon, lửa!” cô rít lên.
“Dĩ nhiên”, anh nói nhỏ.
Câu thần chú này không phải do công tước Roger dạy cho họ, mà là công tước Gareth. Ông dạy họ vào một ngày tất cả các tiểu đồng cắm trại trong cánh rừng của nhà vua. Trước đêm hôm đó, đa phần trong số họ không hề biết là công tước Gareth có pháp lực.
“Đó là câu thần chú đầu tiên mà một người có phép lực thuộc dòng họ Naxen sẽ học “, ngài công tước giải thích. “Hãy đặt hòn đá lửa sang bên, Alex, ta sẽ dạy cho các con.”
Bây giờ Alanna cùng Jonathan đọc câu thần chú mà công tước Gareth đã dạy, họ chỉ đổi một vài từ cho phù hợp với tình huống hiện thời.
Hãy cháy lên, những ngọn lửa, hãy bốc lên thật cao.
Giúp chúng ta chống lũ quái vật.
Bùng cháy thật cao và thiêu đốt, những ngọn lửa sáng ngời,
Hãy đốt cháy bọn Ysandir, nhân danh thần Mithros.
“Ylon!” một trong hai gã Ysandir còn lại gào lên. Lửa bốc lên ngùn ngụt ở phía bên kia của bức tường quyền lực và xọc những ngón tay dài tham lam về kẻ vừa thét ra tiếng kêu. Gã gầm gào, rú rít rồi biến mất, và những tia lửa biến mất cùng với gã. Chỉ còn lại hai: Ylon và Ylanda. Alanna nuốt khan. Hai kẻ đó giờ đã cầm lấy tay nhau, và sức mạnh tụ tập lại quanh chúng.
“Ak-hoft!” sau hai câu thần chú của cặp Ysandir, bức tường quyền lực của họ biến mất như chưa bao giờ tồn tại.
“Những đứa kia yếu ớt và tham lam”, Ylon vừa nói vừa cười nham hiểm. “Bọn ta thì không.”
“Bọn ta là những kẻ đầu tiên”, Ylanda thêm vào. “Chúng ta có mặt trước tất cả những kẻ khác. Chúng ta sẽ tồn tại.”
“Các người là ai?” Jonathan hỏi. Chàng gắng sức thở chậm trở lại. Alanna chùi ống tay áo qua gương mặt phủ đẫm mồ hôi. Cô mệt mỏi đến độ tất cả những khúc xương trong người đau buốt lên.
“Bọn ta là thần linh và là con cái của các thần linh”, ả đàn bà nói. “Bọn ta đã đến đây trước cả đám Người Cổ Đại của các ngươi và chúng ta đã cười khi những thành phố của bọn chúng sụp xuống.”
Alanna cảm nhận lòng dũng cảm của cô quay trở lại. “Nghe hay đấy”, cô nói rồi khinh miệt thở phì ra. “Thần linh không chết. Bọn mày thì chết.”
“Mày tưởng mày biết tất cả, bé con yểu mệnh. Mày không biết gì hết. Kể cả những kẻ bất tử cũng chết, nếu chúng yếu ớt. Ylanda và ta là những kẻ mạnh mẽ nhất. Lũ mi không làm yếu nổi bọn ta.”
“Ngươi nói rất nhiều lời to tát”, Alanna đáp trả. “Ta tin vào hành động, không tin ngôn từ.”
Giọng Jonathan bình thản và mạnh mẽ. “Các người hết thời rồi. Các người không được phép ở đây.”
Ylon và Ylanda giơ cao hai bàn tay cài chắc vào nhau và bắt đầu hát lên trong một thứ ngôn ngữ khiến cả hai con người phải rùng mình.
Phía bên ngoài nổi tiếng sấm nổ. Cái thứ ánh sáng kỳ quặc chiếu rọi trong đền thờ giờ tắt đi. Chỉ còn lại duy nhất thứ ánh sáng tỏa ra từ pháp thuật của chúng.
“Jonathan?” Alanna nói khẽ.
Anh nhìn xuống mắt cô. “Ta chưa bại trận đâu, Alanna, em có thể trở lại thành người đó, như trong cái đêm em cứu anh khỏi con sốt? Khi em kéo anh khỏi tay Thần Chết?”
“Em không biết”, cô thì thầm và nhìn về phía hai tên Ysandir.
“Em phải làm được, và em phải kéo anh đi theo. Nếu không...”
Jonathan không cần nói thêm lời nào nữa. Ánh lửa ma thuật của hai kẻ bất tử mỗi lúc một sáng hơn, mạnh hơn.
Alanna nhìn xuống bàn tay cô, bàn tay đang nằm trong tay Jonathan. Qua hỗn hợp pháp lực của cả hai người, từ hai bàn tay đang tỏa ra một ánh sáng màu xanh tím. Trong tích tắc, linh hồn cô rời khỏi cơ thể và chìm vào thứ ánh sáng đó. Cô cảm nhận cô đang đem Jonathan đi cùng. Hai con mắt cô sáng rỡ khi phép lực của cô tạo nên một quả cầu lửa bao quanh hai người. Quả cầu lửa mỗi lúc một sáng hơn lên.
“Đức Mẹ Tối Cao”, cô thì thầm với giọng phụ nữ. “Đức Mẹ Tối Cao...”
“Nữ Thần Bóng Tối”, một giọng người đàn ông khẽ thêm vào, “xin hãy chỉ đường cho chúng con.” Có phải cô đang nghe tiếng nói của người đàn ông Jonathan? Cô không tin chắc.
Những tia chớp pháp thuật sắc như kim đâm bắn qua hai bàn tay cài chặt vào nhau. Cảm giác đau xuyên dọc cơ thể họ. Trước mặt họ là Ylon và Ylanda đang đứng trong một vòng tròn của quyền lực màu xanh lục trộn vàng. Vòng tròn đó tỏa ra những tia sáng, những tia sáng này chỉ bị bẻ gãy khi chạm phải quả cầu vừa được tạo nên bằng ánh sáng pháp thuật, quả cầu đang bao quanh cơ thể Jon và Alanna.
Lần thứ hai trong đời mình, Alanna lại nghe thấy giọng nói phụ nữ gầm gào đó, giọng nói đã có lần khiến cô phải thét lên vì đau đớn, nhưng lần này cô không thét. Cô quá tập trung vào chuyện gom góp sức lực để giữ vững quả cầu ánh sáng.
Giọng nói tràn ầm ầm qua tâm trí cô. “Hãy tin tưởng vào cây kiếm của con. Hãy chiến đấu.”
Trong đợt đụng độ bằng phép lực ban nãy, Alanna đã buông kiếm xuống. Giờ nó tự động nhảy lên bàn tay còn rảnh của cô. Viên kim cương sáng lóe lên khi cô tóm lấy chuôi kiếm, và cô nhận thấy nó đang rung lên.
“Đừng buông tay anh ra!” Jonathan cảnh báo.
“Em không buông.” Cô cầm chặt tay Jonathan và bước tới trước, với Tia Chớp rầm rì hát trong tay.
Một cây kiếm hai lưỡi màu đen đột ngột xuất hiện trong bàn tay còn rỗi của Ylon. Cũng giống như Jonathan, Ylanda không buông tay gã Ysandir. Ả bám sát bên gã và bước theo nhịp bước của gã.
Ylon bung kiếm và chém thật mạnh theo một hình vòng cung về phía Alanna, cô vội vàng gạt đỡ. Những bắp thịt của cánh tay cô lớn tiếng phản đối khi cô chặn lưỡi kiếm đang bổ xuống. Tia Chớp sáng rực lên và lưỡi kiếm vẫn còn nguyên như trong chuyện diệu kỳ. Cây kiếm màu đen nuốt chửng thứ lửa do viên kim cương tỏa ra, trong khi Ylon lùi về. Vòng ngực đồ sộ của gã đàn ông phập phồng; mặt gã đẫm mồi hôi. Alanna đi vòng quanh gã, không rời mắt khỏi lưỡi kiếm của gã lấy một tích tắc. Jonathan ấn chặt tay cô, khích lệ.
Giờ cô cảm thấy tự tin hơn. Đó là thứ mà cô vừa học được. Cô tập trung toàn lực vào hai cây kiếm và để cho Jonathan điều khiển phép lực của hai người. Gã Ylon đột ngột trở nên thận trọng, gã chém một loạt những nhát chém nhoang nhoáng về phía cô. Alanna gạt đỡ từng nhát kiếm và cảm nhận cứ sau mỗi nhát kiếm bị gạt sang bên là sự tự tin của cô lại cao thêm một chút. Ylon có thể là kẻ bất tử, nhưng gã không phải là một tay kiếm giỏi.
Jonathan không ngừng nói khẽ, nhưng cô không chú ý đến những câu anh đọc. Vầng lửa bao quanh hoàng tử và Alanna đột ngột bốc rực lên và cô buông ra một tiếng thét chiến thắng. Trong một chuỗi chuyển động phức tạp, cô quét lưỡi Tia Chớp lên trên và xoáy sang bên, cho tới khi hai đốc kiếm đập vào nhau. Cây kiếm của Ylon vỡ ra dưới sức đập, Alanna chém vào hai bàn tay đan nhau của hai kẻ bất tử. Vòng ánh sáng vàng trộn lục tan ra. Hai tên Ysandir gào lên vì sợ hãi và giận dữ. Jonathan thét lên một mệnh lệnh và trút toàn bộ phép lực còn lại lên đầu tên Ysandir. Ánh sáng xanh dương trộn tím đổ ngập xuống hai kẻ bất tử. Chúng bốc cháy như một ngọn đuốc khổng lồ, rồi tất cả ngập chìm vào bóng tối.
Alanna và Jonathan tỉnh dậy trên nền của phòng thờ rộng lớn. Bọn Ysandir đã biến mất. Chỉ một vệt cháy trên nền nhà là còn nhắc tới Ylon và Ylanda. Nằm bên cạnh Alanna là cây kiếm Tia Chớp với mũi kiếm đã ngả màu đen.
“Em khỏe chứ?” Jonathan kiệt lực hỏi và gắng sức bò dậy.
Alanna không thể nén một tiếng rên khẽ. Từng sợi cơ trong cơ thể cô đau khủng khiếp. “Em cảm giác như người vừa bị đánh”, cô thú nhận. “Còn anh?”
“Bị đánh hả? Như vậy là nói bớt đi quá nhiều. Đi thôi. Anh muốn ra khỏi đây rồi mới tìm nơi nghỉ ngơi.” Jonathan vấp phải cây kiếm của cô và nhặt nó lên. “Nó vẫn còn nóng”, anh nói bằng vẻ kính cẩn.
Không hiểu bằng cách nào, Alanna cũng nhấc được mình lên. Cô có cảm giác như cơ thể đã mềm nhũn ra vì bị dần bằng búa tạ. “Anh nghĩ sao, bọn chúng còn những đứa khác ở đây không?” cô cầm kiếm và thận trọng đút vào bao.
Hoàng tử lắc đầu. “Theo anh thì đó là lần cuối cùng chúng ta gặp mặt bọn Ysandir. Đi thôi. Ta đỡ lẫn cho nhau.”
Bằng một cách nào đó, họ lê được đến bên tường thành, nơi hai con ngựa Ánh Trăng và Bóng Đêm đang nhẫn nại đứng chờ. Jonathan đầu tiên chạm vào yên cương, sau đó sờ tay vào tấm chăn phủ. “Chúng ướt hết rồi”, anh nói. “Ở ngoài này trời mưa.”
Alanna dồn những giọt sức lực cuối cùng để nâng mình lên lưng con ngựa cái. Cô cảm thấy không cần phải trả lời anh.
Jonathan xoay ngựa về hướng Đông, nơi có một ốc đảo nhỏ nằm gần Thành Phố Đen hơn là Persopolis. Alanna không định phản đối điều gì khi thấy họ phi ngựa ngược hướng về nhà, khoảng cách tới ốc đảo gần hơn tới lâu đài, và cô bây giờ chỉ còn duy nhất một mong muốn: nằm nghỉ.
Hai con ngựa hài lòng gặm cỏ trong khi chủ nhân của chúng thả mặt và những bàn tay đau nhói vào làn nước mát lạnh.
Cuối cùng, Jonathan tựa lưng vào một cây cọ. “Giá mà anh nghĩ tới chuyện mang ít đồ ăn theo.”
Alanna nằm dài xuống cạnh anh trên cỏ. “Còn sống là em hài lòng rồi.”
Họ im lặng nghỉ một lúc lâu và hít thật sâu vào ngực thứ không khí sa mạc. Họ nhìn mặt trời chìm xuống trong một biển ánh sáng màu hồng và màu cam, chưa bao giờ họ chứng kiến một hoàng hôn đẹp như thế. Bóng tối đến cùng với hàng ngàn ngôi sao.
“Một chút nữa trăng sẽ mọc”, cuối cùng Alanna nói.
“Tới lúc đó ta có thể tìm cách về Persopolis.”
“Ta không về kịp đâu”, giọng Jonathan bình tĩnh vang lên từ bóng tối. “Đằng nào thì ta cũng phải sửa soạn tinh thần để chịu trừng phạt. Có thêm một đêm ở ngoài này hay là không cũng chẳng quan trọng.”
Họ lại im lặng một lúc lâu. Cuối cùng Alanna lên tiếng: “Em đoán là anh muốn nghe một lời giải thích.”
“Đúng.”
Cô thở dài. “Đó là một câu chuyện dài.”
“Ta có thời gian.” Anh trấn an cô. “Anh hoàn toàn không định rời khỏi chỗ này trước khi nghe hết chuyện. Em phải công nhận với anh rằng nó là một cú sốc.”
“Em xin lỗi”, cô hối hận. “Em không định dối anh.”
“Anh cũng hy vọng thế. Em là tay nói dối tồi tệ nhất mà anh từng gặp.” Chàng ngẫm nghĩ một chút rồi thêm vào: “Hay là tay nói dối tốt nhất. Giờ anh đang rối tung cả lên. Thế còn người anh trai sinh đôi của em thì sao?”
“Thom không muốn thành hiệp sĩ. Anh ấy muốn thành một pháp sư tài năng.” Cô thở dài. “Những thứ vừa xảy ra hôm nay thật ra thích hợp với Thom hơn với em. Cha muốn gửi em vào tu viện, gửi Thom vào cung điện. Mà em hoàn toàn không thích làm một quý bà.” Tiếng cười khúc khích của Jonathan khích lệ cô. “Cô Maude biết rõ. Cô ấy nói, bọn em có thể làm như vậy. Còn chú Coram, vâng thì, chú Coram đã bị em thuyết phục.”
Jonathan hiểu rất rõ tính tình Coram. “Thuyết phục bằng cách nào?” anh tò mò hỏi.
“Em dọa là sẽ bắt chú ấy nhìn thấy những vật không tồn tại. Thứ đó chú không thích.”
Jon lại cười khúc khích, tưởng tượng đến cảnh Coram nhìn thấy ảo ảnh. “Thế còn cha em?”
“Cha chẳng mấy quan tâm đến con”, cô thẳng thắn. “Em muốn thành nữ chiến binh và muốn làm những việc lớn. Thom lại thích pháp thuật mà cha em thì căm ghét pháp thuật. Khả năng duy nhất để làm được những gì bọn em muốn là nói dối. Em phải giả trai. Đằng nào thì em cũng vốn khá hơn Thom rất nhiều trong các môn thể thao chiến đấu.”
“Đổi chỗ là sáng kiến của ai?”
“Của em”, cô nói bằng giọng ai oán. “Lẽ ra Thom cũng có thể nghĩ ra, nhưng anh ấy là người cẩn thận hơn trong hai đứa. Em biết mình muốn gì, và em không ngại mạo hiểm một lần.” Cô thở dài. “Em thấy thích cuộc sống mà em vừa trải qua.”
“Người ta có thể tóm đựợc em bất cứ lúc nào. Em có thể không đủ sức. Roger có thể khám phá ra em.”
“Ngày trước cũng đã từng có nữ chiến binh. Họ đâu yếu ớt. Và em tin rằng, pháp lực của em che chắn cho em trước Roger. Ngoài ra, anh không thể nói rằng em chưa chứng minh được là em có khả năng.”
“Dĩ nhiên là em đã chứng minh rồi. Nhiều lần nữa là khác. Em làm mọi thứ tốt hơn đa phần lũ con trai chúng anh.”
Cô tẩn mẩn nhổ cỏ. “Em bắt buộc phải làm thế.”
“Alanna. Cái tên dễ thương”, chàng trầm ngâm. “Thom. Maude. Coram. Còn ai biết nữa không?”
“Georg và mẹ anh ấy.”
“Em tin tưởng Georg?”
“Người ta có thể tin anh ấy!” cô bảo vệ. “Ngoài ra, có một lần em cần phải được giúp đỡ gấp và em biết là anh ấy sẽ không phản bội em. Anh ấy là bạn em, Jon.”
“Em vừa gọi anh là Jon đấy.”
“Lúc ở trong kia anh đã cứu mạng em.”
“Và em cứu mạng anh. Nếu chỉ có một mình, không thể vượt qua được bọn chúng. Anh biết, mang em theo là một quyết định đúng.”
Cô nằm im một lúc lắng nghe âm thanh của trời đêm. Cuối cùng, gom góp toàn bộ lòng dũng cảm, cô cất tiếng: “Bây giờ anh sẽ làm gì?”
Giọng anh lộ rõ vẻ ngạc nhiên. “Anh? Chẳng làm gì cả. Theo anh thì đã từ rất lâu em xứng đáng được dự kỳ thi hiệp sĩ.” Cô nghe tiếng anh cựa quậy. “Anh sẽ không cho một ai biết bí mật của em đâu, Alanna.”
Quai hàm cô run run. Mắt ướt lên. “Cảm ơn, điện hạ.”
Anh quỳ xuống bên cô. “Anh cứ tưởng em muốn gọi anh là Jon? Alanna, em khóc kìa!”
“Ngày hôm nay khủng khiếp quá”, cô nức nở. Chần chừ một lúc, rồi chàng trai vòng tay ôm lấy cô và kéo cô lại sát bên mình. “Còn anh lại tử tế với em quá.” Cô tựa đầu vào ngực anh và khóc tiếp.
“Không phải tử tế đâu”, anh giải thích, “hàm ơn, ngưỡng mộ. Em làm ướt áo anh kìa.”
Cô cười, ngồi thẳng dậy và chùi mắt. “Em xin lỗi, Jon. Lâu lắm lắm rồi em không khóc.”
“Anh cũng tin thế. Chắc chắn là em không bao giờ thèm khóc thời Ralon liên tục hành hạ em. Mà hồi đó em còn là một cậu bé xíu - không, cô bé. Ồi, đầu anh muốn nổ tung!” Anh huýt sáo. “Lạy thần linh, vì thế mà không bao giờ em đi bơi! Mà suốt mấy năm qua em đã nhìn thấy bọn anh ở trần, nhìn thấy anh ở trần!”
Cô chạm tay anh. “Jon, nếu anh nói kiểu đó là em chết. Anh phải tiếp tục cư xử với em như với mọi cậu trai khác. Không thì chuyện của em hỏng hết!”
Anh ngồi xuống bên cô. “Đúng là chuyện điên khùng! Nhưng mà em có lý.” Cô cảm nhận rõ là anh đang nhìn cô, dù trời đang tối. “Làm sao em có thể trở thành một nữ chiến binh, khi không một ai biết em là con gái?”
“Đến sinh nhật thứ mười tám thì em sẽ nói ra”.
“Rồi sau đó em sẽ làm gì?” cô nhìn thấy anh cười. “Sáng danh thần Mithros, ông bác anh sẽ ngất.”
Cô chùng người xuống. “Em sẽ phi ngựa ra đi và sẽ làm những chuyện lớn lao.”
Anh đưa tay vò mái tóc cô. “Cái đó anh tin, nhưng đừng quên bạn bè khi em đã thành huyền thoại.”
Cô cười: “Rồi anh sẽ nổi tiếng hơn em. Một ngày nọ anh sẽ thành vua!”
“Và sẽ cần đến tất cả bạn bè. Liệu lúc đó em có phục vụ anh, khi em đã lên đường làm chuyện lớn lao?”
“Em là thần dân của anh”, cô nghiêm trang nói. “Em sẽ không bao giờ quên điều đó.”
“Tuyệt lắm.” Anh nhỏm dậy với một tiếng rên khe khẽ. “Anh muốn một trong những tay kiếm cừ khôi nhất của triều đình sẽ ở bên anh. Bây giờ anh đi tắm đây. Đừng có nhìn.”
Cô cười. “Chả bao giờ em nhìn cả.” Cô xoay lưng, mơ màng nhìn lên trời và lắng nghe tiếng Jon khẽ hú lên khi vã nước lạnh giá lên cơ thể bầm đau.
Cô giật mình khi anh hỏi. “Em chỉ im lặng khi đang lo lắng gì đó. Bây giờ em lo chuyện gì?”
“Có hai chuyện”, cô thú nhận. “Bọn Ysandir, ta không thể biết liệu chúng có biến đi mãi mãi và liệu ta đã tiêu diệt được hết hay chưa.”
“Anh biết điều đó”, Jonathan đáp. “Nhiều khi người ta phải tin vào linh cảm của mình. Bọn Ysandir đã biến mất mãi mãi.”
“Anh có thấy kỳ quặc không, một thiếu niên và một cô bé hủy diệt được lũ ma quỷ của người Bazhir?”
“Em quên rằng chúng ta được giúp đỡ”, anh dịu dàng nhắc nhở. “Lũ ma quỷ của dân tộc Bazhir không thể chống đỡ nổi các thần linh.”
“Chắc là không”, cô nói với vẻ nghi ngờ.
“Anh biết rõ như thế.” Jonathan đi từ dưới ao lên bờ và vội vàng chui vào quần áo. “Giờ đến lượt em tắm. Và đừng ngưng nói chuyện, tiếng nói làm cho bọn thú không dám lại gần ta.”
“Anh đừng có nhìn đấy!” cô trịnh trọng ra lệnh khi cởi áo ra và lao xuống nước lạnh.
Jonathan cười. “Em gầy quá, có gì đâu mà nhìn. hơn nữa, em là một tay kiếm quá hay. Em vừa nói đang lo về hai chuyện. Chuyện thứ hai là gì?”
Alanna lắc lắc cho những lọn tóc ướt rơi ra và gắng cân nhắc xem cô có thể diễn đạt sao cho tốt nhất những gì đang luẩn quẩn trong đầu. Cô biết mình sắp sửa giẫm chân vào một mảnh đất cực kỳ nguy hiểm. “Chẳng lẽ anh không thấy lạ vụ công tước Roger ra lệnh cho chúng ta không được lại gần Thành Phố Đen?” cô đi từ dưới ao lên rồi lại mặc chiếc veston cổ đứng dài rộng.
“Ý em nói anh ấy đã khiêu khích chúng ta - hay đúng hơn là khiêu khích anh - đến nơi này?”
Alanna ngồi bên cạnh anh và gắng sức nhận ra nét mặt của bạn mình trong bóng tối sa mạc. “Anh biết sao?” cô kinh hãi thì thào. “Anh biết rằng chính công tước Roger muốn đẩy anh vào cái chết hầu như chắc chắn?”
Anh tóm chặt cánh tay khiến cô đau dội lên. “Cái đó thì anh không tin”, anh nghiêm khắc nói. “Roger là anh họ duy nhất của anh và là một trong những người bạn tốt nhất của anh. Chính anh ấy đã dạy anh cưỡi ngựa. Anh ấy không thể làm những gì em nói, không đời nào. Alanna, không đời nào. Roger cử anh tới đây vì nghĩ rằng có thể anh sẽ cứu vương quốc Tortall khỏi một tai họa. Và anh đã làm điều đó với sự giúp đỡ của em. Chắc Roger phải biết rằng anh sẽ đem em theo, anh tin chắc rằng giờ thì anh ấy đã biết chuyện xảy ra trong đêm anh mắc bệnh sốt đổ mồ hôi. Roger đã làm một việc tốt cho vương quốc Tortall, và cho anh. Bọn người khác chắc sẽ phải cân nhắc kỹ trước khi chống đối một hoàng tử - hay vị vua - có đủ sức chiến thắng ma quỷ.”
“Vậy sao ông ấy không tự tay làm điều đó mà lại đùa giỡn với mạng sống của người kế tục ngai vàng duy nhất?”
“Có thể Roger không được trợ giúp từ những quyền lực đã xuất hiện và giúp đỡ chúng ta. Anh sẵn sàng tin tưởng đặt mạng sống của anh vào tay Roger, kể cả mạng sống của em nữa. Nếu có lúc nào đó Roger muốn có ngai vàng, thì trong những năm qua anh ấy đã có thể đoạt được nó một cách dễ dàng. Giờ ta nói sang chuyện khác, được chưa?”
Sao có quá nhiều từ “có thể”, Alanna bướng bỉnh nghĩ thầm, nhưng cô tuân theo. Suy cho cùng thì Jon lớn hơn và khôn ngoan, rành công tước Roger hơn. Song cô vẫn tin chắc rằng Roger không bao giờ tính đến khả năng họ có thể trở về từ Thành Phố Đen.
Hai người tìm chỗ ngủ dưới một tàn cây. Alanna nhìn ra phía xa xa, nơi Thành Phố Đen đang hiện lên lờ mờ.
“Alan. Alanna”, Jon nói. “Có thể em sẽ giúp được anh trong một lựa chọn mà anh phải thực hiện.”
Cô bất giác mỉm cười nhẹ nhõm. Ít nhất thì anh cũng không giận vì cô đã nói như thế về Roger. “Em sẽ gắng.”
“Tới đây, Gary và Alex và Raoul sẽ trở thành hiệp sĩ cùng đợt với anh, nên sự cạnh tranh trong hàng ngũ các cận vệ khá là gay gắt.”
“Em cũng đã để ý thấy rồi”, cô khô khan nói.
Anh cười thầm. “Thế ý em sao? Anh cần chọn ai?”
Alanna chống khuỷu tay nhỏm dậy. Trước đây một tuần, chắc cô đã nói là anh nên chọn Geoffrey hoặc Douglass, nhưng ngày đó cô chưa đến Thành Phố Đen. Ngày đó cô chưa chứng minh được cho bọn Ysandir biết, một cô gái cũng có thể là một đối thủ đáng gờm.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra, nếu cô không vào Thành Phố Đen? Công tước Gareth từng nói, nếu luyện tập thêm cô sẽ trở thành một trong những tay kiếm tốt nhất triều đình. Trong giờ bắn cung cô chưa một lần bắn hụt. Các thầy dạy chiến thuật và logic nói rằng, cô thường tỏ ra xuất sắc. Còn Sir Myles thì khẳng định cô thông minh hơn hẳn so với không ít người lớn. Cô đã chiến thắng Ralon và đã được trao kiếm trong một cung cách đặc biệt. Đột ngột, cô cảm nhận về bản thân mình khác hẳn.
“Em”, cuối cùng cô nói. “Anh nên chọn em.”
“Nhưng em là con gái.” Cô không thể nhận ra anh nghĩ gì qua câu nói đó.
“Thì đã sao?” cô hỏi. “Đến cả đại úy Sklaw cũng nói, em có thể trở thành một tay kiếm tốt. Trong môn bắn cung em đứng ngang với Alex, mà anh ấy là con trai, là cận vệ. Tìm vết thú rừng em còn tốt hơn cả anh Raoul. Mà đã có lần nào em bỏ rơi anh chưa? Lúc nãy? Hay hồi anh bị sốt?”
“Anh rất vui là em cũng nghĩ như anh”, anh điềm đạm ngắt lời cô. “Anh có nói với cha anh rằng chắc là em sẽ bằng lòng.”
Alanna vất vả nuốt khan.
“Trước khi ta lên đường, anh có nói với Người là anh chọn em làm cận vệ. Ông không tỏ ra quá ngạc nhiên.” Jonathan cựa quậy và tìm một khoảng đất mềm hơn để nằm.
“Nhưng... nhưng mà”, Alanna lắp bắp. “Thế mọi chuyện không thay đổi sao. Bây giờ, khi anh biết rằng...”
“Biết em là con gái hả? Không, không thay đổi theo kiểu em nghĩ đâu. Dù là gái hay trai hay là gấu làm trò, em vẫn là cậu tiểu đồng tốt nhất và là tay cận vệ tương lai tốt nhất của triều đình.” Anh cười. “Suýt chút nữa anh phải đánh lộn với Gary, cậu ta bảo, thật bất công khi anh được nhận cận vệ tốt nhất, chỉ vì anh là hoàng tử.” Anh cầm lấy tay cô. “Alanna von Trebond, ta sẽ lấy làm vinh hạnh nếu em trở thành cận vệ của ta.”
Alanna hôn tay anh và chớp chớp mi ngăn nước mắt. “Mạng sống và kiếm của tôi là của Người, tâu điện hạ.”
Anh phá bỏ sự nghiêm trang bằng cách đưa tay vò đầu cô. “Thôi ngủ đi.” Anh ngả lưng nằm xuống và nhắm mắt. “Em biết không”, anh lẩm bẩm. “Thà đối mặt lần nữa với lão Ylon già kia còn hơn là phải gặp huân tước Martin đang nổi giận.”
“Em sẽ đổ hết tội cho anh”, cô nói bằng giọng ngái ngủ. “Rồi anh sẽ thấy.”
Thật nhanh, anh ngủ thiếp đi. Alanna nhìn những ngọn tháp của Thành Phố Đen phía xa xa. Nếu quả ở đó vẫn còn bọn Ysandir khác, thì hiện cô đã quá mệt để lo tới chuyện đó. Cô cứ mong mỏi có thể chia sẻ sự tin tưởng của Jon đối với công tước Roger, nhưng trong thâm tâm cô biết, cô không làm được. Cô sẽ quan tâm đến ông ta sau. Sáng mai họ sẽ phải đối mặt với huân tước Martin. Và giờ đã tới lúc ngủ rồi.
Tamora Pierce
Dịch giả: Khanh Khanh
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chỉ chừng đó thôi

Chỉ chừng đó thôi Tôi đang chờ một lời hỏi thăm, chỉ vài dòng rất ngắn ngủi của ông bởi vì giữa tôi và ông chỉ là một sự quen biết thật nh...