Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Thuở mơ làm văn sĩ 2

Thuở mơ làm văn sĩ 2

Khi tôi không chờ đợi nữa thì chuyện lại xảy ra. Tôi nộp đơn gia nhập Không Quân từ ba tháng trước, nay Không Quân gọi nhập ngũ. Tôi tưởng rằng đơn tôi đã bị bác, như ngành Không Quân từng bác cả ngàn đơn khác. Con số được chọn có trăm mạng. Theo người ta nói lính Không Quân phải có học lực khá. Có thể hôm nay anh chỉ là lính trơn, ngày mai anh trở thành sĩ quan trong mọi ngành nghề. Thời Pháp, một hạ sĩ thôi cũng có thể là phi công. không thuần chỉ sĩ quan. nhưng nay quân đội VNCH nâng lên cho bảnh. Điều đó được tuyên truyền rộng rãi trong giới sinh viên học sinh. Không Quân thu hút người gia nhập rất đông đảo.
Tôi mang chuyện này hỏi ý kiến Hoài Nam. Hoài Nam góp ý liền:
- Vào đi, ít ra cũng đỡ cho một thằng.
- Mày nói sao?
Không nói đến chuyện lý tưởng mà cái thân mày đỡ, biết chắc chắn rằng mày có cơm ăn, không bị đói như những ngày qua nữa.
Thực tế là chúng tôi bị đói thường xuyên, thường gây ra những bữa no dồn đói góp. Nghề văn nghề thơ chưa tên nào sống nổi. Chính Dương Nghiễm mậu nhờ vả bà chị. Anh kiếm được bằng nghề văn nghề báo chỉ là tiền còm.
Hoài Nam đã được làm công tác viên cho báo Cách Mạng Quốc Gia, hắn làm thơ và viết lung tung đủ thứ. Anh tổng thư ký tờ báo là anh Tế Xuyên rất nể Hoài Nam, anh cũng thường xuyên xuống thăm anh em tôi tại Bình Thới. Thỉnh thoảng anh mời chúng tôi ăn những bữa ăn, anh khá hào sảng.....Anh nói tôi cần phải cố gắng hơn nữa trong nghiệp văn, khai thác những đề tài nào đó phải khác những đề tài mà người ta nhai đi nhai lại quá nhiều lần.
Tôi biết anh Tế Xuyên còn là một nhà phê bình văn học, tầm cỡ học giả. Anh là tác giả nhiều cuốn sách "học làm người" do nhà Khai Trí xuất bản. Anh Tế Xuyên đang bước vào tuổi già, nhưng bắt anh em chúng tôi phải gọi anh là anh, danh từ chú với bác không được dùng với anh.
Hoài Nam nói như trong cơn mê sảng:
- Mày ra đi cũng phải có một bữa tiệc với anh em chứ!
- Mày có điên không, tao lấy gì để mời?
Hoài Nam thủng thẳng trả lời:
- Tao tính cả rồi.
- mày tính thế nào?
- Mạnh thường Quân chúng mình chỉ có anh Tế Xương chứ còn ai nữa.
- Phiền anh ấy quá!
- mày định ra đi không từ giã anh Tế Xuyên hả?
- Có chứ, nhưng mình từ giã xuông cũng được rồi.
- Anh Tế Xuyên nhất định sẽ không bằng lòng như thế đâu, anh sẽ bỏ tiền ra, một bữa thường thôi mà. Mày ngồi nhà để tao đi, còn tí tiền còm đây mày có thể ra cà phê Con Nhạn của mày ngồi nhìn trời nhìn đất.
Tôi ra quán cà phê Con Nhạn ngồi một mình. Trời đất sau bão rớt trời thật đẹp, nắng chỉ ửng vàng trên ruộng hoa lài bát ngát. con bé của bà chủ chơi thơ thẩn dưới ruộng hoa, nó sâu những đoá hoa thành vòng tròn, đội lên đầu con búp bê. Cái đầu con búp bê bây giờ bằng trái cam. Ai đó khoét giùm mắt mũi miệng cho cái đầu, cái miệng vểnh lên hình vòng cung thành nụ cười.
Tôi lan man nghĩ tới tương lai của mình, những ngày s8áp tới trong quân đội. Mình sẽ ra sao nhỉ.
Điều này không thể biết được, dù tôi đã có ngày sống đời sống quân ngũ hồi học thiếu sinh quân. Nhưng đó chỉ là nghiệp binh lỡ.
Tôi đi chơi lang thang một mình ở khu Phú Thọ. Mình ra đi rồi đây mình sẽ nhớ mãi nơi này. Nhớ căn gác thuê, bà cụ Chắt và những bát cơm của cụ. Tiếng ru hời của bà con dâu mỗi đêm, ru con bé con, em thằng Phan Tri nghịch như quỷ sứ, suốt ngày ngồi trên cây trứng cá trước nhà, nhìn vào căn gác thuê chúng tôi. Có những lần đói, tôi nhận từ thằng bé nắm trái cây trứng cá, nhưng chỉ là những bữa ăn giả, đánh lứa cái miệng. Ruột tôi càng cồn cào hơn. Còn đâu nữa những bữa cơm canh cua rau đay, cà pháo chấm mắm tôm. Tất cả đều đã xa, thật xa. Dĩ vãng chẳng bao giờ trở lại.
Buổi trưa tôi tới nhà Trần Cang, người bạn học Cao Đẳng Mỹ Thuật với tôi, anh đeo bám hội hoạ, anh đang học năm thứ nhất. Bá bằng cũng học ở đó, nghe đâu Bằng đang xin chuyển ra Huế theo bà chi lấy chồng ngoài đó. Ông anh ruột của Bằng là anh Bảng, đang làm giáo sư, chẳng nhìn nhõ gì đến bầy em mồ côi. Ngày hai bác Hài tử nạn thê thảm, anh Bảng cũng chẳng về nhìn bố mẹ, việc ma chay anh Kỳ và con rể và chị Tuyết đứng lên lo. đám ma đó phải cưới chạy tang. Bằng tỏ ra đau khổ thường tâm sự với tôi. Tôi không rõ Bằng mang bệnh gì mà bị từ chối gia nhập Không Quân cùng với tôi.
Trần Cang phải sống nhờ ông anh ruột là sĩ quan cấp tá, sống ngay trong trại lính ở cạnh trường đua Phú Thọ. Tôi quý Trần Cang bởi tại anh có máu văn nghệ, là cháu ruột của nhà văn Khái Hưng bị dìm sông chết ở bến đò Cựa Gà, Hải Dương, ngày ông bị tù ở trại Lý bá Sơ.
Trần Cang ngừng tay, anh đang làm một bài tập một bức tranh lụa:
- Cậu ăn cơm chưa?
- Chưa, nhưng tớ đến để giã từ cậu, mai tớ đi lính rồi, lính Không Quân.
- Tốt, vậy thì tớ phải mời cậu một bữa, cậu biết tớ không có nhiều tiền, một bữa bánh cuốn đủ chứ hả?
- Thế nào cũng được, mai tớ đi rồi, tiếc là không đi chung với thằng Bằng. tớ với thằng Bằng thân nhau lắm, từ hồi nhỏ xíu ở Hà Nội.
Hàng bánh cuốn ngay ở đầu trường đua, dưới hàng cây cao bóng mát. Suốt buổi trưa hai đứa tôi ngồi ở đó, nói chuyện đến Bằng, người bạn vắng mặt. Cang nói:
- Thằng Bằng không biết bệnh gì, người nó cứ xanh lướt đi thôi. Nó hay chảy máu cam....Nó đeo đuổi nghề vẽ như bố. Thân bệnh hoạn đó rồi đây không biết sẽ ra sao?
- Hình như người nghệ sĩ nào cũng khổ, có người khổ thảm khốc.
- Như ông bác Trần Khánh Gzư của tớ, phải chết dưới bàn tay bạo tàn. Ngày nghe tin ông bác bị dìm chết, tớ còn nhỏ lắm, đang ở quê nhà. Bố tớ quyết định phải ra đi thôi và bây giờ tớ mới ở miền Nam này. Chúc cậu lên đường may mắn bình an...Được, tớ sẽ liên lạc với thằng Bằng. Đi nhớ liên lạc về với anh em.
Tôi nắm chặt bàn tay Cang, từ biệt nhau ngay đầu Bình Thới. Sao lại buồn nhỉ? Sao lại muốn khóc?
Về đến căn gác thuê tôi đã thấy Hoài nam và anh Tề Xuyên. Anh Tế Xuyên đùa tôi, anh chào theo kiểu nhà binh:
- Chào chú lính mới tò te.
- Chào anh!
- Anh em mình làm một bữa tiệc chia tay chứ?
- Dạ...em có nghĩ đến...nhưng.
- không nhưng nhị gì hết, anh đã lo cả rồi. Cậu cứ đi với bọn này, cậu là nhân vật chính mà. Tiếc rằng hôm nay không đông anh em của cậu, chỉ có ba anh em mình, mình phải uống rượu say một bữa. Mình uống chén rượu tràng đình, tiễn chân tráng sĩ lên đường.....
- Em không biết uống rượu, vì chưa uống bao giờ....
- vậy thì sẽ biết. đừng lo ngại, vạy mới là người lính....
Quán cà phê Thuỷ ở khoảng giữa đường Phạm Ngũ Lão, một trong những quán cà phê ngon có tiếng ở SG hồi đó. Nhưng tối nay có lẽ anh Tế Xuyên đã đặt trước nên quán làm thêm những món nhạu và bia. Chúng tôi có một bàn tròn riêng. Đã từ lâu rồi tôi mới dự một bữa ăn đàng hoàng.
Mấy chị em nhà Thuỷ thay phiên nhau phục vụ, bà chị lớn đẹp nhất trong mấy chị em ngồi cạnh một cái nôi, trong đó có một bé gái rất xinh, y như mẹ. nghe đâu cô chị lớn bị lỡ làng trong một mối tình nên mang con về nuôi. Bé Kim. Bây giờ Thuỷ thay chị đứng ra quán cùng với bố mẹ.
Bữa nhậu chóng tàn, lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là rượu bia, tôi say là đà. Anh Tế Xuyên đưa chúng tôi về tận nhà ở Bình Thới và anh ngủ lại đêm hôm đó, nói chuyện đời, anh như một người anh thực sự đối với những đứa em. Buổi sáng anh nhét vào túi tôi một mớ tiền: mớ tiền khá lớn đối với tôi khi đó, vì lương lính quân dịch chỉ có 120$ một tháng. Tôi hỏi anh:
- Sao nhiều thế anh?
- Cậu còn phải ra quân trường, phải tiêu pha, không phải chia cho ai cả.
Sáng hôm ấy là ngày mùng 1 tháng 7 năm 1957. Tôi từ giã vườn hoa Bình Thới khi bãi tập bắn Bình Thới vang tiếng súng.
Tôi trình diện nhập ngũ tại cổng Phi Long của phi trường TSNhất. Tôi ngạc nhiên vì gặp nhiều bạn bè từng là bạn học với tôi. Buổi trưa ăn cơm lính đầu tiên rồi đi lãnh quân trang quân dụng.
Những bộ quần áo từ thời Tây để lại rộng thùng thình. Chúng tôi nhận số quân và số chỉ tạm, chưa có thằng nào có chỉ số chính thức. nhưng chúng tôi vẫn bàn tán đến nghề nghiệp mà mình sẽ theo đuổi, hầu hết thằng nào cũng mơ ước mình lái phi cơ. Mắt tôi kém, tôi hy vọng sẽ được sang chiến tranh tâm lý để làm báo Lý tưởng. nhưng điều đó tôi không nói ra với ai. Tôi vẫn mơ làm văn sĩ. Không Quân hồi đó có mấy nhà văn nhà thơ nổi tiếng, thứ nhất là toàn Phong, Cung Trầm Tưởng, và Dương Hùng Cường. Dương Hùng Cường mới chỉ là trung sĩ. Sau khi đi học ở bên Tây về....
Tôi thằng lính mới tò te....chưa là cái gì cả.
Một tuần lễ sau chúng tôi được đưa lên quân trường học quân sự. Chúng tôi học chung với bộ binh ở trung tâm 3. Tại đây tôi gặp nhạc sĩ Lam Phương, anh đi quân dịch. Bài hát anh sáng tác hồi đó được hát vang trại tôi nhớ những câu lõm bõm Xuyên lá cành trăng soi lều vải.... Gặp anh, anh nói với tôi:
- Hy vọng tớ sẽ được chciến tranh tâm lý.
Đời lính quân trường gian khổ, với thể hình trâu nước như tôi nhiều khi tưởng không chịu đựng nổi, kỷ luật kinh khủng. Tôi nhớ những câu khẩu hiệu sơn trên tường: Thi hành trước, khiếu nại sau. Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu...v.v......
Cơm ăn no, tuy rằng chẳng ngon lành gì. Tôi viết thư cho Hoài Nam. Tôi nhận được thư hồi âm của bạn: Dù sao thì mày còn được bữa cơm, không như tao mỗi ngày vẫn phải chạy ăn từng bữa. Có lẽ tao sẽ ra Huế với Thu, muốn ra sao thì ra...
Mỗi chủ nhật chúng tôi được ra nhà thăm nuôi để gặp thân nhân lên thăm. nhưng nào tôi có ai. Thơ thẩn chơi một mình. Có tiền thì vào câu lạc bộ uống cà phê, nhìn thân nhân người khác. Lương tân binh của chúng tôi hồi đó chỉ có 516$50, trừ tiền cơm. Số tiền này không thấm tháp gì, nhưng cũng còn hơn lương lính quân dịch.
Sau ba tháng học quân sự, chúng tôi mãn khoá. Cái gì có thể quên được chứ cái số quân không bao giờ quên, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Tôi về SG và được ở lại TSNhất. Việc đầu tiên là đi tìm bạn bè. Hoài Nam đã đi Huế, anh ta ở lì ngoài đó. Bãn bè ở SG giúp đỡ anh tiền bạc để anh sống. Vẫn là cái lãng mạn thơ mộng của tuổi trẻ.....
Tôi đi tìm thằng em ruột, bây giờ nó không ở với chú tôi, mà về với một ông chú khác có bà thím kinh khủng hồi tôi đã sống với bà ở Vũng Tàu. Em tôi ốm, nó mắc bệnh ho lao. Thằng bé mới có 10 tuổi, học những năm đầu bậc trung học. nhưng học rất kém. Vẫn luận điệu xưa, bây giờ tôi là quyền huynh thế phụ. bà thím mách mỗi lần tôi ra thăm em.
- Thằng em mày hư lắm, nó chẳng chịu học hành gì hết, lười chẩy thây ra, lại cứng đầu, tao đến khổ phải nuôi con lại thêm cháu bệnh hoạn. Mày phải dạy bảo nó.....
Tôi nghị ngờ lòng tốt của bà thím. Tôi mang chuyện này nói với Lê Đình Điểu. Điểu nói với tôi:
- Cậu phải giải quyết thôi, không thể để tình trạng này được
- Tớ làm sao đây, nhà cửa thì không có, còn sống ở trong trại.
- Được, rồi cậu phải giải quyết khi tình trạng cấp bách quá.
Lê Đình Điểu đã đậu tú tài I, năm nay học đệ nhất, anh nói:
- Tớ sẽ kèm cho thằng em cậu, nó phải học khá, còn thằng Đỗ Quý Toàn nữa, nó cũng thương em cậu lắm.
Gia đình ông chú bà thím tôi đã về SG ở Tân Định. Bà thím buôn bán ở chợ Tân Định. Tôi không thể nào quên được những chiếc xe " bò ệt " toôi phải đẩy hàng ra chợ mỗi sáng và mỗi chiều, đến ngày chủ nhật cũng không được nghỉ ngơi hồi ở VTàu. Tôi nghi ngờ lời của bà thím cũng đúng thôi. Tôi nghĩ đến những tập truyện của Nguyễn công Hoan, tôi đã đọc về thân phận những đưa cháu mồ côi phải sống nhờ họ hàng. Tội nghiệp lắm, em tôi là ruột thịt của tôi, tôi có thưa kinh nghiệm trong hoàn cảnh này.
Tôi được điều về phi đoàn trực thăng với chỉ số tạm, làm mọi việc linh tinh trong phi đoàn. Buổi tối tôi đóng tiền đi học thêm, như truyền thống của lính không quân chịu khó học hành. nhiều tay khi còn trong quân ngũ đã trở thành luật sư hoặc tốt nghiệp văn khoa. Tôi mua thật nhiều sách về đọc, vẫn mơ ước trở thành văn sĩ...Báo chí cũng đọc nhiều, nắm vững thời thế và biết rằng ông ngô Đình Diệm theo chủ trương gia đình trị.
Lòng dân bất mãn trăm bề. Chiến tranh bắt đầu nổ ra ở Miền Nam. Mặt trận giải phóng miền nam của CS bắc việt dựng nên. Một vài trận đánh, phục kích rai lai của du kích giải phóng quân bằng những vũ khí thô sơ. Chính phủ ông NĐDiệm càng ngày càng trở nên khắc nghiệt. bà Trần Lệ Xuân, vợ của cố vấn ngô Đình Nhu lộng quyền. Tham nhũng ở khắp nơi. Ngay ở trong quân đội. nguời ta hò hét chống cộng và Bắc tiến. Thành phố SG vẫn êm ả, nhưng tôi biết đó chỉ là bề mặt. những chuyến xe lửa bị cắt, rồi cắt hẳn. những chuyến máy bay trực thăng bí mạt đi ban đêm, có chuyến lại trở về và có chuyến không về....Tôi thường thấy có bà mẹ già, người vợ trẻ, có khi là người yêu vào phòng chỉ huy trưởng phi đoàn ngồi khóc cho những đứa con, người chồng hoặc người yêu. Cuối cùng nhận tin mất tích hoặc rõ ràng hơn là " hy sinh vì tổ quốc. Tôi là anh " lính ghẻ " sống lang thang trong phi trường, cố gắng tìm cho mình tương lai trong cái bát nháo của đời sống. Tôi thấy mình chẳng thể tin được điều gì qua những lời tuyên truyền tốt lành. nhưng cứ an phận mà sống torng kho nhiên liệu. Cung cấp " xăng chùa " cho các sỉ quan đàn anh. những thùng sơn máy bay, cả những bao xi măng không một ai chịu ký nhạn phiếu. người ta biến tôi thành một thằng ăn cắp. Bắt buộc toôi phải chấp hành, như câu khẩu hiệu tôi được học trong quân trường" thi hành trước, khiếu nại sau. "
Những buổi chiều tan sở, tôi lấy xe đạp ra khỏi trại, hoặc đi học thêm, hoặc gặp bạn bè. Những người bạn văn nghệ thuở nào, có người đã vào hẳn nghề, có người còn đi học. Hoài Nam từ Huế trở về SG. Có lẽ chuyến xe lửa cuối cùng trước khi đường xe lửa Huế - SG bị cắt đứt. Tiếng súng từ rất xa vọng về SG. và ngày tháng thì buồn hơn. Hoài Nam đổi but hiệu là Trần Dạ Từ, Thu vân có bút hiệu mới là trần Thy Nhã Ca. bài vở, thơ đăng nhiều trên các báo, tôi vẫn còn nao nức về nghiệp viết. Tôi yêu thích những bài thơ của Cung Trầm Tưởng, cuốn phóng sự " buồn vui phi trường " của Dương Hùng Cường và vẫn hy vọng được tiếp xúc với anh, góp phần vào tờ báo Lý Tưởng của đơn vị.
Trong phi đoàn trực thăng có nhiều anh mơ mộng lắm, hy vọng thơ văn mình sẽ được đóng góp vào tập san Lý Tưởng. Anh hạ sĩ làm việc dưới sân bay Lưu Văn Giỏi, làm thơ ca tụng nghiệp bay " nghiêng đôi cánh sắt " đăng trên báo Lý Tưởng, anh trang trọng cắt bài thơ dán vào tập vở, trình bày hoa lá cành thật đẹp, dĩ nhiên có cả hình chiếc máy bay. Anh hy vọng sẽ thu góp thành một tập thơ rồi ấn hành.
Anh ngồi trên thùng đồ nghề sửa chửa máy bay ở ngay phi đạo huýt gió một bài rất hay. Anh có tài huýt gió tuyệt vời mà ai cũng biết. Tôi biết những bài thơ đó không thật, chỉ là điều mơ mộng. Thực tế không phải như vậy. nhưng buổi tối mùa mưa, những con cá cuống từ khu lau sậy của phi trường bay đầy ra đường. Đám lính chúng tôi chụp bắt bỏ vào thùng sắt tây, buổi sáng sớm mang ra Lăng Cha cả bán cho mấy người Bắc di cư để nhổ lấy dầu cà cuống. mặc dầu cà cuống thơm chỉ cần chấm bằng cái tăm nhúng vào chén nước mắm ăn bắt mùi đáo để. Nếu ăn với một đĩa bánh cuốn, hoặc tô bún thang cao cấp thì tuyệt diệu vô cùng. Dầu cà cuống đắt như vàng. những chú lính nghèo, không chỉ số như tôi gia nhập nghề bắt cà cuống mỗi ngày một đông. Mới đầu còn bắt bằng tay rồi bằng vợt. Ban đêm cả đám lính nhảy choi choi vồ bắt cà cuống ở dọc đường có ánh đèn sáng. Việc này bôi bác quân đội quá. An ninh phi trường ra lệnh cấm tuyệt, thằng nào vi phạm bị bắt nhốt liền vào cải hối thất. Một số lính khác thì quay ra cờ bạc, ăn chơi. Để được tiếng là lính không quân hào hoa. Ăn chơi, chắc chắn phải cần đến tiền bạc. Nay vay nợ " xanh xít đít đui " ở ngay trong trại, đồ cầm thế là ngay tấm thẻ lương lính. người trừ nợ chính là ông đại uý, trưởng ban quân lương. Anh phải ký rồi mới được vay tiếp. ít khi có tình trạng được vay quá số lượng ấn định trong sổ lương. Lính trở thành con nợ kinh niên. Chủ nợ thu lời lãi đủ.
Thật tình mà nói, tôi mất cả tin tưởng vào quân đội, lý tưởng cũng chỉ là con số không. Tôi chán ngán khi nhìn những tốp lính mới nhập ngũ. Tôi không còn ham thích gì qua những tác phẩm của nhà văn Toàn Phong. Vì bây giờ tôi nhận ra những chuyẹn ấy không có thật....chuyện có thật phải như " Buồn vui phi trường " của Dương Hùng Cường kia. tôi vẫn mơ ước một ngày nào đó cầm bút tôi viết nên được những sự thật. Dù là sự thật nhiều đụng chạm, tôi sẽ chấp nhận....
Một buổi chiều tôi từ trong doanh trại đạp xe ra ngoài. Tôi nhìn thấy một xe đạp đi trước mắt, porte bagagge sau của chiếc xe đạp ấy chở một thùng guốc cao nghệu.
Không thấy người đạp xe phía trước, vì thùng guốc quá cao che khuất, chỉ thấy đôi chân nhỏ bé khẳng khiu nhấn trên bàn đạp. Nơi đó tôi nhớ con đường từ TSNhất về ngã tư Phú Nhuận. Tôi vượt lên và nhận ra người chở hàng đó đúng là thằng em trai bé nhỏ của tôi. Dáng đạp xe của nó xiêu vẹo giữa giòng xe cộ đông đảo. Anh em tôi trao đổi được với nhau vài câu, nó cho biết nó phải làm việc cho nhà chú thím từ 5 giờ sáng, thì giờ để học hành rất ít, tuy vẫn được đến trường. Ốm đau thuốc thang không có. bà thím áp dụng lại đúng sách bà đã đối xử với tôi 10 năm trước.
Khi đó tuổi tôi còn trẻ, uất ức mà chẳng làm gì được. không một người lớn nào thuộc bậc bề trên tin lời tôi nói và cho tôi là kẻ xảo trá. Không lẽ bây giờ tôi cũng lại dẫm bước chân của họ. Tôi quyết không lầm lẫn như họ. Tôi xin thề là nói sự thât, dù là độc ác hay tàn nhẫn. Tôi không phải mang ơn những bậc bề trên như thế. Dù tôi có phải mang tiếng, nhưng không nhằm nhò gì. Nhưng tôi phải bình tĩnh. Tôi nói nhỏ với thằng em:
- Chủ nhật này anh ra rồi tính

Ngáy thứ bảy là ngày tôi lãnh lương lính, số tiền ít ỏi chẳng đáng bao nhiêu. Tôi đến nhà họ hàng nơi em tôi ăn nhờ ở đậu vào lúc 6 giờ chiều. Cả nhà đang ăn cơm, tôi không thấy mặt thằng em trai tôi. Bà thím chỉ tôi xuống bếp. Tôi thấy thằng em tôi một mình ăn dưới đất, bên cạnh một rãnh nước đang chảy róc rách. Nó ăn cơm bằng cái bát đếch, đồ ăn chẳng có gì, hình như một con cá khô nướng với tí rau chấm nước tương. Còn khổ hơn cơm lính tôi ăn mỗi ngày.
Tôi nghẹn lại ở cổ họng, bao nhiêu năm rồi tôi không quên bữa ăn được bố thí của em tôi. Tôi nói với nó:
- Sao lại ngồi đây ăn?
- Thím bảo em có bệnh truyền nhiễm nên phải ăn riêng.
- Bệnh gì mà truyền nhiễm?
- Ho lao
- Nứt mắt ra mà đã ho lao rồi sao, thời kỳ thứ mấy? Thôi bỏ đi, đi ăn với anh.
- Anh có tiền?
Tôi gật đầu, quay mặt giấu đi nước mắt lăn dài trên má. Buổi chiểu chủ nhật ấy mưa, mưa như mưa xuân ngoài miền Bắc. Anh em tôi đi ăn uống, xem hát ở khu tân Định. Tôi nhớ hôm ấy xem phim " cuộc đời bão táp " của hạo sị van Gogh do Kirk Douglas đóng vai chính, ở rạp Moderne.
Về khuya tan hát và nghe em tôi kể về nỗi khổ của nó. Tôi xúc động, nhưng cũng không đưa tay vuốt được mái tóc em hay ôm em vào lòng. Như là một người chị gái thương em, mà tôi chỉ là người anh, đầu óc thì dễ xúc động, nhưng thái độ làm ra cứng rắn của môt thanh niên đã vào đời. Tôi nói với em:
- Thôi, em thu xếp dời nhà này ngay bây giờ.
- Đi ngay bây giờ? Mình về đâu đêm nay?
- Nơi anh có thể nhờ cạy được, không phải ở trong trại lính nơi anh đang ở.
Dù muốn dù không, tôi cũng phải ngỏ lời cám ơn và xin phép người bà con cho toôi mang em đi. Không qi giữ lại hết, họ bằng lòng ngay vì đã trút được môt gánh nặng. Tôi nghe một tiếng nói: " Để đó đi, nó lăn đùng ra chết ở đây, nhà mình mang tiếng, chiều như chiều vong vậy mà cũng không vừa lòng, nhà này luôn luôn làm ơn mắc oán " Gián tiếp tôi bị chửi là kẻ vong ân bội nghĩa. Cũng chẳng sao, tôi phủ nhận thứ công ơn ấy. Hình như tôi đã bướng bỉnh ngay từ những cú đánh đạp đầu tiên của cuộc đời.
12 giờ đêm, chiếc xe xích lô máy đưa em tôi và chiếc vali nhỏ bé về nhà Lê Đình Điểu. Điểu đón em tôi, hai bác bố mẹ Điểu cũng vui lòng đón đứa em trẻ tội nghiệp vào gia đình. Chẳng phải gia đình ấy neo ngưòi nên mới có lòng thương người. tôi khẳng định một điều rằng gia đình ấy có lòng nhân đạo, có tình người. Điểu kèm em tôi học hành, hai bác chăm sóc cho đứa trẻ bệnh hoạn ốm đau như con cái ruột thịt. Tôi yên tâm phần nào và viết thư cho mẹ ở bên Lào. Đương nhiên mẹ tôi có thư cám ơn lòng tốt của hai bác. Gia đình tôi, gia đình Lê Đình Điểu trở nên thân thiết nhiều năm. Tôi quý mến bạn tưởng chừng như không quý mến ai bằng. Sự nghiệp chúng tôi, niềm mơ ước của chúng tôi, nửa đường đút gánh, tưởng như không tiếp nối lại được vì thời thế có nhiều thay đổi. Mỗi người bận xây dựng sự nghiệp của mình theo cách riêng, mà nói chung đều tốt cả. Thuở đầu đời có nhiều gian nan vất vả, có lẽ tôi là người vất vả nhất trong số anh em cùng theo đuổi sự nghiệp cầm bút. Tôi trở thành người cầm bút muộn màng nhất trong đám anh em.
CHƯƠNG 10
Theo tôi nhận xét, thuở đó lính không quân có mấy dạng người khác nhau, tôi nói là trái ngược nhau. Có loại người hãnh tiến với binh chủng mình mang sắc áo và có loại ngưòi, ăn chơi hết mình để được tiếng là hào hoa. Đồng thời có người không thất vọng mà nghĩ đến một tương lai khác ngoài binh nghiệp. những người này cắm đầu học hành. Tôi đã nhìn thấy sự thành công ở nhiều người sau này.
Lính không quân thuở đó có quyền xin lãnh đủ số lương để tự mình lo đời sống. Cấp binh nhì lương 916$50 một tháng. Năm hào cắc lẻ không bao giờ được lãnh. Tôi không biết nó đi đâu, nhưng vì ăn tiêu nhiều nên chẳng một ai đặt vấn đề. Lính trong phi đoàn tôi hầu hết lãnh trọn số lưong, không ăn cơm quân đội. Họ đi làm như công chức, sáng đi, chiều về. Có người thì hẳn pở trong trại tự nấu nướng lấy ăn, chắt bóp dành dụm số lương ít ỏi.
Không hẳn là trại gia binh, nhưng lính độc thân đều có nơi riêng ở. Tôi có nhà một bà dì ở ngoài cổng trại một khúc đường, con đường Chi Lăng thuở ấy; xom Cống Bà Xếp, nên góp gạo nấu cơm chung cũng tiện. Buổi tối tôi đi học tư, hy vọng mình giật lấy mảnh bằng cấp sau những năm bỏ dở dang. Tôi không còn hy vọng vào binh nghiệp. Tôi vẫn mang chỉ số tạm 4 số 9. Nghĩa là muốn đưa đến đâu cũng được. Tôi bị điều về kho nhiên liệu ở phi đoàn, hằng tháng lái xe tracteur đi lãnh đồ bên kho nhiên liệu bên bộ tư lệnh. Chủ yếu là xăng, dầu, nhớt, cả xi măng, sơn, mọi thứ văn phòng dành cho phòng hành chánh, cho các ban ngành khác. Công việc chán ngấy trong những bản báo cáo dài dằng dặc mỗi tháng, sự hao hụt hơi quá đáng, vì xăng dùng cho máy bay thì ít mà phục vụ cấp trên thì nhiều. Lệnh của cấp trên cứ " thi hành trước, khiếu nại sau ". Cấp trên của tôi tìm cách vẽ ra những bản báo cáo hợp tình hợp lý. Vô tình tôi tiếp tay cho kẻ ăn cắp, hàng vài chục tấm tôn, hàng tấn xi măng, hàng trăm lít xăng bay đi, nếu chuyện đổ bể tôi là người chịu trách nhiệm. Tôi trở thành con chốt thí.
Tội tham những không phải là nhẹ, điêù đó có ghi trong quân luật.
Điều này tôi mang than phiền với trung sĩ Hạnh, trưởng phòng phi trang. Trung sĩ Hạnh là em của đại uý Hân mà tôi quen biết từ hồi tản cư lên vùng Vĩnh Phúc yên ở miền bắc. Tôi là học trò của thầy giáo bố của anh Hân anh Hạnh. Anh Hân hơn tôi chừng gần chục tuổi, trai Hà Nội, đàn giỏi hát hay. Anh dậy tôi những nốt nhạc đầu tiên, anh Hạnh còn chạy dong chơi với tôi những đồi sim cạnh cổng đồn huyện Đa Phúc. Khi tôi gia nhập không quân, về phi đoàn này tôi gặp lại anh Hạnh. Anh hạnh đùa tôi:
Nhà binh không có chuyện thân tình, ê thằng lính ghẻ kia nghiêm chỉnh chào thầy đội đi, hà cớ gì mày được hỏi đến bố của quan ba Hân. Quân này hỗn quá, làm thân với tao để móc nối làm chuyện bậy bạ phải không? Khai thật đi, đọc số quân đàng hoàng thầy đội tha cho. Có tiền không, xuống câu lạc bộ mua cho thầy đội mấy điếu thuốc Ruby hút cho đỡ vã. Được, cái giống anh quyền chú bếp ( binh nhất ) như mày còn biết đến tình nghĩa thì thầy đội sẽ cất nhắc cho. Có gì thì cứ lên đây thầy sẽ chỉ vẽ đường đi nước bước.
Anh Hạnh nói hệt giọng điệu của loại lính khố xanh khố đỏ hồi xưa. Nhưng rồi anh cười ngay, vỗ vai tôi thân mật:
- Chiều nay tớ chở cậu về thăm thầy, anh Hân không ở SG, anh ấy làm huấn luyện viên ở Nha Trang, chừng nào có dịp, có chuyến máy bay tớ sẽ đưa cậu ra thăm anh Hân. Anh ấy cứ nhắc đến thằng Long thuở nào ở phố Nỉ, thời tản cư, cũng mười mâý năm rồi đó, chóng thật....Bao nhiêu là thay đổi.
- Sao anh không đi học sĩ quan như anh Hân?
- Tao ấy hả? Không đâu, sức khoẻ tao không bình thường.
- Em thấy anh có gì đâu....
- Vậy mà tao có bệnh đó, bệnh điên, không nặng lắm nhưng man mát. Cái này thì mày thấy rõ rồi....
Tôi cười với anh:
- Thôi đúng rồi, bởi vậy người ta không cho anh đụng vào cái máy bay.
- Không cho tao cooi kho bom đạn mà đưa tao về phòng phi trang này. nhớ nhé mày phục vụ quân đội có điều gì bất mãn cứ lên tao, tao giải quyết cho. Một chai bia thôi, tao giải quyết bằng cách ngồi nghe mày nói điều bất mãn thoải mái. Tao như cái thùng rác, muốn đổ bao nhiêu rác cũng được.
Ngày hôm nay tôi lại mang những điểu bực bội đó lên nói với trung sĩ Hạnh. Anh ngồi nghe tôi nói, dáng người lười biếng trên cái ghế của phi công, tháo ra từ máy bay hỏng của chiếc trực thăng H 19, từ thời Tây để lại. Trước mặt anh là cái bàn rộng cực dài để xếp dù. Xung quanh chỗ anh ngồi lỉnh kỉnh đồ phi trang, những áo phao, những pháo cứu sinh cho phi cống, những bộ combinaison de vol, mũ phi công. Chỉ mình anh trong phòng rộng rãi ấy, không có một phụ tá nào khác. Anh có vẻ cô đơn trong phòng phi trang dài bằng một dẫy nhà.
Anh nói:
- Tao xin một thằng lính phụ tá, sai vặt mãi không được. Tao có lần xin đích tên mày, thằng lính không số, mà họ không cho. Ở phòng này không có gì bán được hết, xuất kho phải có lênh đàng hoàng chứ không phải " thi hành trước, khiếu nại sau " như kho nhiên liệu của mày. Đâu vào đấy hết, không có nhập nhèm. Tao hiểu mày, ở đây chẳng có gì xái được, như xăng dầu, xi măng, tôn....Thôi đừng than phiền nữa. Một là mày đồng loã ăn cắp, hai là mày câm họng, cứ thi hành lệnh cấp trên cho được việc. Ba là mày tạo ra một giấc mơ thấy mày là đại tướng ký giấy giải ngũ cho mình, từ bỏ lý tưởng nếu mày có. Hồi trước tao cũng mang một đầu lý tưởng như mày, chả ra làm sao hết.
Trung sĩ Hạnh cười ruồi:
- Tao chỉ là cái thùng rác, tao chứa hết, tao không thể có lời khuyên nào được coi là chính đáng cho mày. Tao khuyên mày không nên ăn cơm lính nữa, cứ xin lãnh trọn lương ra ngoài thuê nhà và ăn cơm tiệm, chịu khó mà học hành nếu mày coi là đời mày chưa hết. Còn mày cờ bạc hoặc ăn chơi tự tàn phá đời mình là chuyêncụa mày. Lính không quân là lính hào hoa, cứ việc đánh bạc, nhẩy đầm, cầm cạc lương như nhiều đứa đã làm, có chỗ để mày cầm cạc lương đấy, chắc mày biết rồi, tao khỏi phải chỉ.
Tôi nghe trung sĩ Hạnh nói mà thấy lạnh cả người. Thì ra lời tuyên truyền tốt đẹp nào cũng giả đối, có che đậy sự xáo trá và âm mưu. như thế này thì tôi chung thân bất mãn mất thôi, mà đời thì còn dài dài...Nếu tôi còn một gia đình để trở về? tôi không có gì cả. cả ăn cả ở trọ tôi mới hết phân nửa số lương. Nơi ấy lại gần nhà các bạn tôi ở trên đường Chi Lăng có thể tôi gần gũi với những người bạn văn nghệ.
Căn nhà của các bạn tôi thuê ở góc đường nguyễn Huệ giáp với đường Chi Lăng. Trần Dạ Từ ( hoài nam ) và Nhã Ca ở nhà đó chung với Viên Linh, nguyễn Khắc Giảng, Phạm Hoán em ruột của họa sĩ Phạm Tăng cũng lui tới đó thường ngày. Tất cả số anh em đó đều là những người chưa có công việc làm chính thức, mà chỉ cầm chừng trong nghiệp văn nghiệp báo. Sự thiếu thốn theo đưởi họ ngày đêm, tôi cũng chẳng hơn gì. Đời sống của vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca trong sự thiếu thốn đó rất là can đảm, thỉnh thoảng có sự gấu ó nhau vì htiếu thốn. Nhất là Nhã Ca, những cơn nổi điên của cô ta đang từ đời sống bình thường của một nữ sinh thành một người thiếu thốn trăm bề. Phía trước nhà có một bụi tre gai, nhưng cơn điên của Nhã ca, cô ta nhẩy lao đầu vào bụi tre, Viên Linh là người phải gỡ bụi tre lôi Nhã Ca ra.
Tôi phải nói thật rằng đời sống chúng tôi hồi đó thê thảm. Tôi không thể quên được suốt mấy chục năm trời. Trước căn riêng của vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã ca, một người bạn nào đó nghịch ngợm viết một hàng chữ " Porte de l'enfer ". Tôi không rõ người bạn có ác ý hay vì htời thượng thuở đó SG đang chiếu phim nổi tiếng của Nhật là " địa ngục môn ". Nếu là sự đùa cợt thì là sự đùa cợt hơi quá đáng trong hoàn cảnh thê lương, chẳng ai có thể cười được.
Hằng ngày tôi vẫn đi làm đều đặn ở phi đoàn. bên kia hàng rào dây thép gai của phi đoàn giáp với trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám. Có một con đường mở để lính dù có thể sang bên phi đoàn trực thăng rất gần. Mặt trạn giải phóng miền Nam lúc này hoạt động hơi mạnh, đã có vài ba trận đánh lớn, lính Dù và bộ binh thường mở những cuộc hành quân. những nhà tù mà hồi đó gọi là trung Tâm cải Huấn, chật cứng tù VC và tù chính trị đối lập với chính sách gia đình trị của ông NĐD. Miệng bà Trần Lệ Xuân vợ của cố vấn Ngô Đình Nhu quang quác ở quốc hội và cái gọi là Phụ Nữ Liên Đới của bà. Tham nhũng, mua quan bán tước khắp mọi nơi, cơ quan mật vụ là nỗi kinh hoàng với mọi người dân. Bắt bớ giam cầm con người vô tội vạ, thật có tội và không có tội cũng có. Lính đào ngũ nhiều, và nhiều thanh niên tự huỷ hoại thân thể mình để trốn lính. Trong khi chính phủ đang cần đến quân đội. người dân miền nam chán ngán chính quyền. Kẻ có tham vọng cướp chính quyền để thay đổi chính thể, nhưng đã bị bắt ở tù hoặc đầy ra côn đảo. ông NĐD lại có tham vọng nếu không là tổng thống trọn đời thì cũng nhiều nhiệm kỳ. Tập đoàn cầm quyền coi dân như loài hạ đẳng, lính tráng coi như tôi tớ, kẻ nịnh bợ nhiều hơn có liêm sĩ trong cái triều đình thối nát, sau khi hạ được một cái triều đình khác tồn tại hàng trăm năm.
Miền Bắc chắc cũng không khá gì hơn, một vụ Nhân Văn Giai Phẩm đã nói lên tất cả. Vả lại thỉnh thoảng tại miền Bắc vẫn có người vượt biển hoặc qua sông Bến hải trốn vào miền nam. Miền Bắc lại phát động chiến tranh. Miền Bắc thỉ hô hào giải phóng miền nam. miền Nam kêu gọi Bắc tiến để nhân loại thoát khỏi gông cùm CS, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Chuyện chính trị của cả hai miền Bắc nam chẳng hơi sức đâu phân tích hoặc tìm hiểu chính nghĩa. Chiến tranh ở miền nam ngày càng trở nên ác liệt hơn, quân đội quốc gia non trẻ tăng quân số, trang bị chiến tranh được viện trợ. không quân được viện trợ những chiếc oanh tạc cơ Skyraider, phi đoàn trực thăng sửa soạn nhận lãnh những chiếc H-34 thay thế cho mấy chiếcH-19 cũ rích từ thời Tây còn sót lại. Lớp lớp sĩ quan, lính không quân được đưa ra nước ngoài học lái máy bay, hoặc chuyên viên. Tôi vẫn là anh lính ghẻ, chỉ số tạm dưới đất, suốt ngày buồn thiu ở kho nhiên liệu đằng sau hangar.
Sáng ngày thứ hai, theo như thông lệ sau khi tập họp chào cờ xong, tôi phải tới trình diện sĩ quan trưởng phòng tiếp liệu. Ngồi sau bàn giấy, ông có vẻ tử tế với tôi, ông hỏi tôi:
- Anh đã ăn sáng ở câu lạc bộ rồi chứ hả?
- Tôi trả lời rồ ạ, ông tiếp luôn:
- Vạy thì tốt, anh sẽ nhân cộng tác.
Ông không nói là công tác gì, ông có vẻ quan tâm với tôi, ông hỏi chuyẹn gia đình tôi, nhất là mẹ tôi có thường guỉu thư về không, tôi cảm động vì cấp trên có vẻ quan tâm nhiều về mình; ngoài chuyện gia đìnhông lại nói về binh nghiệp của tôi:
- Tôi giúp anh, anh sẽ có chỉ số ngành tiếp liệu, anh sẽ được đi học tiếp liêu ở Mỹ. Trước hết tôi sẽ cho anh học một khoá Anh ngữ bên bộ tư lệnh. Đầu năm nay anh sẽ học một khoá ba tháng, khoảng giữa năm anh sẽ được đi du học. Tôi là cấp trên của anh, tôi quan tâm đến tương lại binh nghiệp của anh. Những hạ sĩ quan ngành tiếp liệu đã học ở Pháp đều phải tu nghiệp theo ngành tiếp liêu của Mỹ. Anh chịu khó cố gắng để rồi vươn lên. không lẽ mãi làm lính ghẻ sao?
- Cám ơn trung uý!
- Khỏi phải cám ơn, đó là bổn phận của tôi, cấp trên anh, bây giờ anh nhận công tác nhé!
Tôi đứng nghiêm:
- Chấp hành!
- Tốt, anh biết nhà tôi rồi chứ?
- Báo cáo, biết!
- Anh xuất kho mười bao xi măng, năm chục tấm tôn, bốn galons sơn màu xanh, thứ thượng hạng chở về đó cho tôi.
- Xin trung uý cho tôi một bông lệnh xuất kho.
- Anh cứ mang đi, lấy xe tractuer mà chở, bông tôi sẽ ghi sau.
- Báo cáo trung uý, tôi biết điều đó, nhưng tính tôi hay quên, trung uý cứ ghi cho tôi vào một mảnh giấy nào cũng được để tôi làm cho đúng.
Ông trung uý hừ một tiếng:
- Có thế mà cũng quên, thôi được, mày nhớ đi phải trông chừng, đừng la cà ở đâu rồi bọn an ninh hỏi lôi thôi.
Tôi gấp mảnh giấy đút túi:
- Báo cáo rõ.
Ông trung uý nói cvho tôi yên lòng:
- Sẽ có người ký nhận ở nhà tôi, anh an tâm, thằng trưởng toán sửa nhà cho tôi ấy mà. Khi về anh cứ ký vào sổ rồi tôi ký nhận là xong.
Nhà ông trung uý ở gần ngoài hàng rào trại, có cửa mở ra đường, cũng gần gũi với nhà dân ngoài Lăng Cha Cả.
Tôi chuyển hàng lên xe, chở đi, yên tâm sẽ không có chuyện gì xảy ra rắc rối cho mình. nhưng sao tôi nghi quá, nhà ông trung uý do quân đội cấp phát, làm sao mà phải sửa chữa. Mà lần này là lần thứ mấy rồi ông ta xin đồ về sữa chữa. Tôi lại nghĩ đến phía ngoài đường cạnh nhà ông trung uý, nơi ấy buôn bán sầm uất. Tôi thấy những thùng sơn, những bao xi măng, tôn của quân đội bầy bán ở khắp cửa hàng. Kể cả các bộ quân phục của các binh chủng mới tinh.
Buổi sáng trời nắng hanh, tôi lái chiếc xe tractuer ra khỏi cổng phi đoàn an toàn, chiếc xe tôi đi một khúc đường dài ghẹo trái sang bộ tư lệnh cải hối thất nhốt lính phạm kỷ luật ngay trên lối đi. Trước khi đến bộ tư lệnh. Hàng toán lính kỷ luật đang phải làm " cỏ vê " bên rìa đường. Anh hạ sị " cai ngục ' la hét om sòm, tay cầm cái cây sẵn sàng quất bất cứ anh nào ra vẻ chây lười.
Một anh, cooi có vẻ lớn tuổi hơn cả bọn tù quân quăng cái xẻng xuống đường hét lên:
- Này cái thằng cai ngục kia, mày dám đánh trung sĩ không thì đến đây. Tao trung sĩ Dương Hùng Cường, ba gai số một đây, giỏi thì đụng ông.
Anh cai ngục không vừa, xách cây hầm hầm đi đến:
- Ở tù rồi thì thằng nào cũng như thằng nào, bất kể quan quyền. Ở đây tao là người có quyền, cấp bậc trung dĩ của mày không phải là to đâu, anh đánh hết.....
Trung sĩ Dương Hùng Cường đứng chống nạnh:
- Giỏi thì cứ việc
Đám tù đứng xổng người lên, một tay coi có vẻ ngang bướng:
- Mày mà đụng vào trung sĩ Cường hay bất cứ thằng nào ở đây nữa, chúng tao làm thịt mày liền.
Trung sĩ Ngự từ trong văn phòng cải hối thất đi ra, ô hay sao bây giờ ông ta lại ở đây, ông ta là xếp xòng ở cổng Phi Long kia mà, hắc búa số một, chuyên bắt ne bắt nét những thằng lính khi ra cổng trại, tôi từng bị ông ta phạt kỷ luật vài lần vì quân phục không nghiêm chỉnh. những bộ quân phục nhà kho phát ra thế nào thì tôi mặc thế, không sửa chữa cho vừa vặn. Đôi giầy "săng đá" của Tây để lại tôi không thể đánh bóng soi gương được, hay con kiến bò lên phải trượt ngã. Khoá thắt lưng rỉ sét tôi cũng không đánh bóng nổi. cái mũ tiêu đội trên đầu rúm ró, không đội "kêpi" mũ không quân. Tôi luôn luôn là hiện của chú lính ghẻ.
Trung sĩ Ngự hôm nay tù đến cải hối thất. Ông ta can thiệp liền:
- Thằng hạ sĩ còi kia, dù sao anh Cường cũng là hạ sĩ quan, mày không nên quá đáng. Thôi được, làm việc đi, anh Cường, tôi với anh là bạn, anh cứ cho nó thi hành nhiệm vụ, riêng với anh hưởng quy chế đặt biêt.
- Mày cói chừng, ông tướng kia tao cìn không sợ, " mó dái ngựa " đều đều nên mới vô đây, chúng mày chưa là giống gì.....
- Thôi mà đừng nóng!
Trung sĩ Ngự nói bằng nụ cười. Chiếc xe tôi cũng vừa tới, đám tù quân nhao nhao xin thuốc lá tôi. Tôi quăng cho chúng cả bao thuốc lá Boston đang hút giở:
- Chia nhau mà hút, lát trở về tôi mua một bao nữa cho các anh.
Trung sĩ ngự thốt nhiên quay nhìn chiếc xe tôi đang lái, ông ra oai liền:
- Ê, thằng lính ghẻ kia, mày lái xe chở hàng đi đâu?
Tôi vẫn ngồi trên xe, đưa tay chào:
- Báo cáo trung sĩ, tôi sang phía bộ tư lệnh
- Báo cáo chính xác mày chở đến đơn vị nào bên bộ tư lệnh. Xuống khỏi xe.
Tôi nhảy xuống xe, đứng nghiêm trước mặt trung sĩ Ngự:
- Báo cáo, tôi chở những thứ này theo lệnh của trung uý Hiền, trưởng phòng tiếp liệu.
- Đi đâu?
- Dạ về nhà ổng, cũng ở trong phi trường thôi.
- Giấy tờ xuất kho.
- Dạ chỉ khẩu lệnh.
Trung sĩ Ngự hừ một tiếng:
- Lái xe vào bên đường rồi vào văn phòng khai cho thật.
Bỏ mẹ tôi rồi, an ninh bộ tư lệnh mó đến tôi. nhưng tôi vẫn phải theo chân trung sĩ Ngự vào văn phòng. Một ông thiếu ngồi lầm lì sau cái bàn rộng nghe trung sĩ Ngự báo cáo. ông nắm nắt vấn đề rất nhanh, nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Xuất kho mà không có giấy tờ hả?
- Dạ khẩu lênh cấp trên.
Ông thiếu uý ra lệnh cho trung sĩ Ngự:
- Nhốt thằng này vào cải hối thất, để tôi điều tra sau, tôi sẽ gọi điện thoại hỏi trung sĩ Hiền.
Tôi ăn liền một cái bạt tai của trung sĩ Ngự, tống cổ vào cải hối thất, cửa khoá tách. Tôi nghe tiếng nói chuyện qua điện thoại của ông thiếu uý ở phòng ngoài, những câu nói ngắt quãng nên tôi không rõ nội dung, tiếng nói của ông thiếu uý mỗi lúc một nhỏ. Một lát sau, một gã binh nhất tới cửa cải hối thất ra lệnh cho tôi:
- Đưa chìa khoá xe.
Tôi trao lại chìa khoá xe. rồi tôi nghe tiếng tractuer đi về phía bộ tư lệnh.
Tiếng động cơ xe máy chạy ngoài đường, tôi biết giờ tan sở đã đến. Bọn tù quân phạm đã vào cải hối thất, mỗi thằng có một ga men cơm với miếng cá mối nấu nát rưới trên cơm. Trung sĩ Dương Hùng Cường cũng vậy, anh nói với tôi:
- Mày tù mới nên chưa có cơm, may ăn chung với tao.
Tô uể oải ăn từng miếng cơm. Trung sĩ Cường nói:
- Mày to gan thật, dám ăn cắp cả một xe đồ, tội nặng đấy, có thể ra toà án binh, rồi tống vào khám chí hoà, ở đó có mấy phòng dành cho quân phạm, tao nghe nói vẫn còn rộng.
Tôi la lên:
- Tôi có ăn cắp bao giờ, tôi làm theo lệnh cấp trên.
- Không tin được, đã xuất kho ít ra phải có giấy tờ gì, nếu không thì mày sẽ kẹt như hôm nay, mày sẽ là thằng ăn cắp, tao nghe ông thiếu uý nói chuyện với xếp mày. Xếp mày không biết chuyện này, cho là thật đi mày vẫn là con chốt thí. Mày chẳng ra gì cả trong quân đội, một hạt bụi, không được bằng hạt cát, thân phận tối đen, tao đã trải qua rồi, tao nổi khùng, tao nói tao chửi toáng lên, sức mạnh của tao là ngòi bút, tao là văn sĩ mày biết không? Tao chống bất công ở bất cứ đâu.
- Tôi có đọc " buồn vui phi trường " của trung sĩ. Và cũng đọc cả những sách của ông Toàn Phong.
- Trái ngược hẳn nhau đấy mày ạ! Giữa sách tao với sách ông toàn Phong! Nhưng tại sao mày lại đọc.
- Tôi yêu vă nghệ, trước đây tôi cũng có vài ba bài được đăng báo
Trung sĩ Dương Hùng Cường cười, đưa tay bắt tôi:
- Thì ra mày là thằng " mơ làm văn sĩ ", không biết giấc mơ của mày có bền không. riêng tao có lẽ suốt đời.
Tô nắm chặt bàn tay Dương Hùng Cường:
- Tôi cũng muốn như vậy trung sị ạ!
Dương Hùng Cường lắc tay tôi:
- Cú gọi tôi là Dương Hùng Cường hay Dê Húc càn cũng được, d8ừng gọi tao là trung sĩ, khi nào " ra khỏi tù " tao với mày sẽ gặp nhau, liên lạc với nhau qua báo Lý Tưởng. Mà cũng không biết được, có thể người ta sẽ tống tao đi nơi khác, ngồi như khỉ ở đài kiểm soát, như hồi nào tao ở Pleiku. Mày phải tìm cách thoát khỏi cái tội ăn cắp này đi, có bằng chưng gì không, rằng mày không ăn cắp.
Tôi chợt nhớ ra có một mảnh giấy viết tay của trung uý trưởng phòng. Rất may là tôi không vo viên vất đi, nó vẫn còn ở trong túi áo tôi. Tôi lấy ra đưa cho Cường coi:
- Thôi cũng được, đáng lẽ là cái phiếu xuất kho. nhưng đồ ăn cắp mà, đúng chữ của xếp mày chứ!
- cam đoan!
- Tao sẽ làm chứng cho mày rằng mày đã đưa trình tài liệu này cho ban an ninh phi trường. Mình phải làm ngay.
Trung sĩ Dương Hùng Cường đứng dậy đập cửa tù, một thằng lính an ninh thò cổ trước song sắt hỏi:
- Chuyện gì đó?
- Tao cần gặp thiếu uý trưởng phòng.
- Ổng đi nghỉ rồi, ổng nằm võng ngoài hành lang.
- Kêu ổng dậy, nói có Dê Húc Càn cần nói chuyện.

Tôi không biết cái uy của trung sĩ Dương Hùng Cường to đến đâu. Ông thiếu uý đi vào, ông nhận mảnh giấy của Dương Hùng Cường đưa, quay sang nói với tôi:
- Sao không đưa ngay mảnh giấy này, thôi được, không cần điều tra nữa, mai anh sẽ ra về nhớ trình diện xếp của anh. Xếp anh còn nói giam anh vài ba ngày, nhưng nể tình anh Cường, mai tôi thả. Nhưng dù sao tôi vẫn phải ghi tội anh vào quân bạ, đó là nguyên tắc.....
Trung sĩ Dương Hùng Cường hăng hái:
- Tôi làm chứng cho binh nhì Long, rằng đã đưa mảnh giấy này cho thiếu uý.
Ông thiếu uý cười:
- Tôi không thủ tiêu đâu, nếu có thủ tiêu thì Dê Húc càn có đưa lên báo đơn vị không?
- Có chứ sao không, còn những bao bến ngoài đơn vị nữa kìa, tôi chống đối tất cả mọi chuyên hiếp đáp con người. Thiếu uý thấy tôi đã sợ ai chưa?
- Bởi vậy anh mới vô đây.
Tuy nói vậy, nhưng ông thiếu uý vẫn đưa ra điếu thuốc mời DHCường. nhưng Cường túm lấy cả gói:
- Cám ơn thiếu uý, thiếu uý có thể đi mua gói thuốc khác, bọn này ở đây vả thuốc lắm.
Ông thiếu uý lắc đầu đi ra. Tôi nghe tiếng ông thiếu uý loáng thoáng nói chuyện trong điện thoại, sao lại sơ xuất thế....mai tớ phải thả nó ra thôi. không hkép tội được...cậu thông cảm cho tớ...tớ đã lo cho cậu cả rồi. Được rồi, tớ không bắt nó đi làm cỏ vê đâu, để nó không lộ mặt.....
DHCường kéo tôi về chỗ nằm, anh chia đều những điếu thuốc cho tất cả các bạn. Trong khói thuốc mù mịt ở cải hối thất, DHCường nói với tôi:
Chúng nó âm mưu với nhau ăn cắp đấy, chuyện này chưa bị lộ nên chúng nuốt trôi cả rồi. Mày là lính mấy năm rồ, có chỉ số chưa?
- Chưa gì cả, chưa lên nổi cái binh nhất, vẫn lính ghẻ!
Vậy thì đường binh nghiệp của mày coi như tắc nghẽn, đen như miệng cống vì mày đã phạm kỷ luật, mày ở tù, dù là chỉ một ngày tù oan uổng. Sẽ không đi học ở bất cứ đâu, nói chi đi Mỹ. Tao gia nhập không quân từ thời Tây, ở ngoài Bắc, rồi đi học Marakech. sang chính phủ quốc gia tao lên được trung sĩ rồi đứng nhuyên ở đó đến bây giờ. Bạn bè tao lên quan cả rồi. Tao ngành không lưu khí tượng, nhưng tao lại làm nghề viết văn làm báo, thỉnh thoảng tao nóng máu làm thịt bậy một ông xếp của tao, tao được vào cải hối thất nằm nghỉ ngơi. Trong quân bạ của tao ghi đầy tội danh, nhưng cần quái gì, binh nghiệp của tao, coi như plafond rồi....Chúng nó vẫn ngán tao vì tao có sách có báo in ngoài quân đội. Kỷ luật quân đội không bịt được miệng tao. Mọi chuyện bất công ở bất cứ đâu là đề tài cho mình viết dài dài, không sợ cạn nguồn.
Tôi cũng kể cho DHCường nghe về những người bạn làm văn nghệ của mình còn ở ngoài quân đội, họ đến tuổi nhập ngũ cả rồi nhưng không ai chịu đi quân dịch, có lẽ họ trốn llính.
DHCường phang luôn một câu:
- Chính nghĩa quốc gia hay giải phóng miền Nam chỉ là chuyện bố láo. Chiến tranh dân mình khổ thôi.
Tôi không ngờ lần gặp DHCường ấy, sau đó chúng tôi trở nên thân tình trong tình đồng nghiệp kéo dài mấy chục năm trời, đến khi nghe tin anh chết trong trại tù, lúc tôi đang là anh thợ sửa xe đạp ngồi ngoài lề đường. Tôi nhớ mãi hình ảnh nghênh ngang của anh, chẳng biết sợ chi ai. Cái sĩ khí của anh ở đó trong giấc mơ làm văn sĩ lỡ làng và ngắn ngủi. Ly rượu " nước mắt quê hương " tràn đầy cụng nhau ở quán 12 bến nước đường Trương Minh Giảng khi chúng tôi là kẻ ngã ngựa.
Tôi trở về phi đoàn ngay sáng hôm sau. Tôi trình diện trung uý trưởng phòng, ông nói:
- Lần sau thì cậu phải cẩn thận, đừng có la cà để an ninh nó ótm được, may mà lần này dàn xếp cũng xong.
- Báo cáo trung uý, sẽ không có lần sau với tôi, xuất kho phải có chứng từ, nếu không tôi lại thằng ăn cắp.
Ông trung uý nhìn sững tôi. Mâý ngày sau tôi đi khỏi kho nhiên liệu để làm thứ lính tạp dịch trong phi đoàn. Tay hạ sĩ thay thế chỗ tôi có vẻ ăn nên làm ra, hắn cvó tiền cho vay lời " xanh xít đít đui ". Kho nhiên liệu trở thành một cây xăng, giá một lít có hai đồng bạc, rẻ hơn xăng ngoài cổng trại. Hắn biết kinh doanh và và biết điều với những xếp cấp trên. Trông cái mặt gà mái của nó tôi không ưa. Tôi đập một trận với nó bằng cây bù loong, khi nó gọi tôi là thằng lính ghẻ. Tôi ba lô lên vai vào cải hối thất đi làm cỏ vê, còn thằng hạ sĩ sang bệnh xá vá da đầu. Ký thi năm đó tôi không đi thi được vì tôi bận làm cỏ vê do cái hối thất giao phó. Tôi nổi tiếng với biệt hiệu " Long bù loong. Quân bạ của tôi ghi đầy những ngày tù quân, vi phạm quân phong quân kỷ, ưa đập sảng vì đầu óc không bình thường. Lý tưởng tôi về quân đội bị tiêu diệt thảm hại. Tôi chỉ là một thằng lính hạng bét, thừa thãi trong quân đội. Tôi nổi khùng nhiều khi đến độ liều lĩnh. Tôi thuần tuý là một thằng lính ba gai.....
Phải chăng tôi đã làm hỏng đường binh nghiệp của mình? Tôi biết uống rượu, nổi nóng dễ đập lộn. nhưng chưa, tôi chưa mất hẳn, tôi vẫn thường gặp những người bạn văn nghệ của tôi, các anh đủ tuổi lớn để vào nghiệp cầm bút, tuy rằng có ngưòi vẫn còn sống với nghiệp văn thơ nhưng tạm bợ.
Tôi vẫn còn long đong và thấy rằng mình vẫn chưa sống thật, sống hẳn để có đầy đủ tư liệu khi cầm bút.
Một ngày kia, tô nhận được thư của Trần Cang, mấy chữ vắn tắt báo tin Nguyễn Bá Bằng bạn của chúng tôi hồi học ở Mỹ Thuật, bị bệnh nặng từ ngoài Huế vào nằm bệnh viện Chợ Rẫy chờ chết. Sao lại thế? Có lẽ đúng, vì Bẳng khi nộp đơn vào lính không quân với tôi đã bị loại vì lý do không đủ sức khoẻ. Ngày chủ nhật tuần đó tôi và Trần Cang vào bệnh viện thăm Bá bằng anh nằm trên giường bệnh không nói được nữa, anh nhìn chúng tôi khóc, anh viết nguệch ngoạc trên một mảnh giấy: tao chết mất, chúc chúng mày ở lại tốt lành. Tao bị bệnh hoại huyết, ung thư máu, tao loại máu O nên không có máu tiếp. Tao cũng chả có ai thăm non, chết vô thừa nhận
Tôi bật khóc, không hiểu tại sao nữa. Tôi ôm lấy bạn, người bạn từ hồi còn ấu thơ. Hơi thở của bạn bây giờ tanh tưởi mùi máu, vì máu của bạn chảy ri rỉ không ngừng từ mủi, tai, kẽ răng, có thể cả lỗ chân lông:
- Không Bằng ơi! Mày không thể chết được còn tao, tao loại máu O như mày, tao sẽ tiếp máu cho mày. Nhìn tấm thẻ bài đeo ở cổ tay này, có phải loại máu O không?
Tôi theo cô ý tá đến ngân hàng máu của bệnh viện. Ở đây rút máu tôi ra, tôi thấy trên kệ xếp nhiều loại máu, có cả loại máu O trong bao ni lông ướp lạnh. Tôi hỏi:
- Tại sao có máu O đó không tiếp cho bạn tôi?
- Máu nào cũng có hết, nhưng không thể cho không những bệnh nhân thí. Máu phải mua, mà anh cũng không thể cho mãi được, anh sẽ kiệt sức mà chết.
Đúng vậy, tôi không được hưởng bưẵ ăn cho lại sức. khi người ta tiếp máu cho Bá Bằng, tôi với Trần Cang yên tâm rủ nhau ra về. Trần Cang nói với tôi:
- Tớ còn đủ tiền cho cậu ăn miếng bí tết, húp quả trứng gà và uống ly sữa cho lại sức.
Tôi cay đắng nghĩ đến thân phận bạn, nếu anh phải chết thì anh chế trẻ quá. Tôi tiếp máu cho Bằng được ba lần rồi nghe tin anh chết. ngưòi tôi suy nhược trông thấy. người anh ruột của Bằng là giáo sư dậy học ở Long Xuyên không một lần về thăm em.
Có lẽ thân xác Bằng bị đưa xuống nhà xác, nằm trong chiếc áo quan đóng đơn sơ bằng 6 tấm ván mỏng vênh hở mà tôi đã thấy. không một nén nhang cho kẻ chết vô thừa nhận. Tôi cũng không biết anh được chôn ở đâu.....Lần đầu tiên tôi mất một người bạn. Nếu có linh hồn thì nhiều năm liền anh là cô hồn vất vưởng. Cuộc đời sao mà bạc bẽo thế? Tôi ghi nhận vào trong đầu.
Tôi chán đời, bao nhiêu là chuyện bất hạnh ở đời. Tôi thầm nguyện một ngày nào đó tôi cầm lại cây bút, tôi phải viết lên những điều đó, như một tên có máu du đảng, thề một ngày náo đó cầm nổi con dao nó sẽ làm gì với con dao ấy. Trả thù đời không? Không đúng, tôi làm khác, cách của tôi. Thì giờ rảnh rang tôi vùi đầu vào đọc sách, sách đủ loại. Tôi chán ngấy chủ nghĩa Nhân Vị của ông NĐDiệm, thuyết cần lao...Toàn chuyện bố láo, đất nước này đâu thiếu gì những kẽ hoạt đầu. Những buổi chiều, sau giờ tan sở, nếu tôi không đi thăm thằng em ở nhà LĐĐiểu thì cũng đi tìm bạn bè. Thằng bé mới ngày nào nhỏ xíu, nay đã là một thanh niên, học những năm cuối bậc trung học. Mẹ tôi sợ phiền gia đình Điểu nên có dự tính mang em tôi về ở trọ bên ngoại, bà dì bà mợ nào đó, hoặc ông chú ruột tôi từng nuôi tôi ngáy nào. Bệnh tật em tôi cũng đã hết, bây giờ nó trở thành một thanh niên cường tráng. Mẹ tôi cũng mấp mé viết thư về nà nói bà sẽ trở về, nhưng chuyện đó chưa biết bao giờ mới thực hiện được.
Tôi vũng không ở trọ nhà bà dì nữa, tôi trở vào trại ở một căn phòng chung với một thằng bạn, trước kia hắn là học sinh Chu Văn An. Thằng Phúc, tướng tá nó trông có vẻ hào hoa phong nhã, oai phong như một sĩ quan cấp tá, không có vẻ gì một anh " lính ghẻ ". Đàn giỏi, hát hay, nhẩy đầm giỏi, lắm đào, nên mọi ngưòi đạt cho hắn một cái tên là " thiếu tá bình dân " tức ( commandant popolaire ) Hắn có một cô nhân tình bán hàng thịt ở chợ Trương Minh Giảng, hắn lôi thôi là ăn dao mổ heo. Hắn đành trốn vào trại ở chung với tôi, khi ra ngoài trại hắn thường nhờ tôi ra dò đường, xem có bóng " nàng " thấp thoáng không rồi mới dám ra. vậy mà cũng có lần không thoát, hắn lãnh một nhát dao vào trán, mang thẹo suốt đời. Dù sau này hắn làm tài tử " xi la ma ".
Trong đơn vị tôi, xung quanh tôi biết bao nhiêu chuyện bồn cười. Tôi không hiểu vì sao DHCường viết được " buồn vui phi trường " bối cảnh là phi trường Biên Hoà và xóm chơi bời dốc Sỏi ở đó. những tiếng cười dậy lên trong nỗi buồn. Tôi đọc nhiều hồi ký, phóng sự, truyện ngắn, truyện dài của những người không quân viết mà tôi thấy không bằng bút pháp của DHCường, cái được, cái thực ở đó.
Tôi vẫn sống, vẫn rong chơi và vẫn suy nghĩ đến sống xã hội diễn ra xung quanh mình. Tôi hy vọng tìm riêng cho mình môt lối viết. Những buổi chiều tôi đạp xe đi chơi lang thang, hang cùng ngõ hẻm nào cũng nên vào. Đời sống có nhiều điều lạ lẫm quá. Tôi giống như một con nai đã có sừng và ngứa sừng húc vong mạng. Trong trại tôi tự nấu cơm lấy ăn, nhưng vẫn thích cảnh cơm hàng cháo chợ. khi dủng dỉnh tí tiền thế nào tôi cũng xà vào hàng cơm bình dân ở bất cứ con đường nào tôi đi qua.
Tôi gặp lại Hoàng Bình Sơn, nhà thơ trữ tình thuở nào, là người bạn ở trại học sinh Phú Thọ. Anh ta gầy yếu hom hem, mặc dù chưa lớn tuổi lắm. Trước đây tôi đã từng đến căn gác gỗ anh ta thuê ở đường Bắc Hải trông sang nghĩa địa Đô Thành, nhấp nhô mồ mả. Anh ta thích thơ Quang Dũng và thường đọc thơ Quang Dũng cho tôi nghe, người xứ Sơn Tây cùng quê hương với anh. Anh luôn sống một mình, bằng nghề dạy học tư gia. Hình như anh cũng có anh chị ở SG, người anh ruột anh theo đảng phái nào đó nên đã bị chính quyền NĐDiệm bắt bỏ tù nhiều năm, đến nay vẫn chưa thả.
Tôi bưng dĩa cơm sang ngồi chung với bàn Hoàng Bình Sơn. Tôi hỏi:
- Hồi này cậu ra sao?
- Vẫn sống bằng nghề dạy học....
- Có làm thơ không?
- Vẫn làm, nhưng thấy chẳng ra gì, tớ phải chuyển hướng thôi, tớ thấy mình hợp với loại htơ trào phúng như Tú Xương, Tú Mỡ. Mà thôi, mình sẽ về nhà nói chuyện văn nghệ, chuyện thơ....
HBSơn gầy mà ăn rất khoẻ, anh gọi thêm chén cơm không để ăn nốt phần thức ăn còn dư. Tôi hỏi:
- Cạu thuê nhà gần đây à?
- Bên kia đường, vào trong hẻm, con hẻm trông sang đường tàu hoả nguyễn Thông, ngay cạnh ga Hoà Hưng.
Tôi không lạ gì xóm này, nơi đây là một xóm đĩ điếm trước mặt quân khu thủ đô, bên cạnh là quân vụ thị trấn. Trước hàng chục con hẻm dẫn vào xóm có cắm bảng " cấm hành quân " mà như lời mời gọi. Trong đó dẫy đầy quân nhân chơi bời hoặc bảo kê cho các ổ điếm.
HBSơn nhìn tôi bằng đôi mắt tinh quái:
- Cậu cũng là lính phải không, nếu sống ở đó cậu có nhiều đồng đội, có thể sống được đấy.
- Nhưng sao cậu lại thuê nhà ở trong đó?
- Gần trường học, nơi tớ phải dậy học mỗi ngày. Lương lậu có báo nhiêu, thuê nhà bên ấy rẻ....
Chúng tôi đã ăn xong, vào đầu xóm ngồi uống cà phê túi, gái và khách làng chơi lượn đầy như đèn cù trước mặt. Trường học nơi HBSơn dậy gồm hai giáo viên, một làm hiệu trưởng, một làm hiệu phó. HBSơn làm hiệu phó. Hiệu trưởng là ông giáo già chủ nhà. Học trò nhiều khi lắm có được vài ba chục mạng, đủ mọi trình độ, hiệu trưởng hiệu phó thầu hết. Chú yếu là trẻ biết chữ, sau này lớn lên có thể đọc thông được cái căn cước ccủa mình.
Cái lầu gỗ HBSơn thuê ở khoảng đầu hẻm. Căn gác gỗ đó đã hẹp lại còn chia ra làm hai phần, lối cầu thang gỗ phía ngoài hẻm đi lên và phòng ngoài dành cho mấy cô gái làng chơi thuê làm chỗ ngủ. Phần trong là chỗ ngủ của HBSơn, kê được một cái bàn nhìn ra cửa sổ, một chỗ nằm ngay trên sàn gỗ. Gia đình chủ nhà ở tầng fưới, anh chủ nhà có lẽ là một tay đạo đức giả, nuôi điếm hành nghề ở điểm khác. Trên lầu nhà anh ta chỉ là điểm tập kết. Buổi tối anh ngồi trước bàn thờ Phật tụng kinh gõ mõ. Mở miệng nói ra toàn lời đạo đức, nhưng trì triết từng đồng với những tay em đi khứa, nghe nói anh còn là chủ nợ cho vay tiền lãi cắt cổ.
Tôi đến với HBSơn khi anh ta đang ê a tụng niệm, trên mình khoát một cái áo đạo màu xám tro.
HBSơn nói với tôi:
- Đấy cậu xem, tớ sống giữa cái cảnh như thế này thì làm thơ trữ tình thế chó nào được. Đời sống chúng ta cứ lộn tùng phèo, không có gì là thật. Một đời sống ảo.....
Tôi cười:
- Như những tấm bảng đề " khu cấm quân nhân " ngoài đầu hẻm.
Ngồi trên căn gác HBSơn, tôi còn ngửi thấy mùi son phấn và những tiếng chửi thề vang rân. Tiếng tay ma cô nào đó giới thiệu "món hàng "
- Ngon hết xẩy thầy ơi, bảo đảm hàng " olidin " nữ sinh nhẩy dù.
Tiếng mời chào co kéo khách tìm hoa. Rồi tiếng hô báo động:
- Lính, lính tụi bay ơi! Chạy đi.
Tiếng chạy rần rần dưới hẻm. Có mấy cô gái chạy rầm rầm lên gác:
- Thầy giáo ơi, cho em trốn với.
Một cô xà luôn vào lòng tôi:
- Ủa, có một anh lính nè, nếu lính vô đây hỏi, anh nói em là vợ anh nhé, em tên là Nguyễn Thị Lan, 19 tuổi. Vợ chồng anh mới tới thăm thầy giáo....
Hai cô gái khác nói với HBSơn:
- Kìa thầy, bầy sách ra cho em học, em xin đền ơn đáp nghĩa
HBSơn gắt lên:
- Thôi đừng nói nữa, lấy phấn bảng ra đây.
Đang lúc đó dưới hẻm báo hiệu cho biết tình hình đã yên:
- Ai về chỗ nấy tiếp tục " lao động "
ba có gái ùa vào phòng HBS đứng dậy:
- May quá anh Ba đã dàn xếp xong với lính kiểm tục, số dách.
- Tao đang kẹt, thằng hkứa mới vô phòng, không biết thằng chả có chạy mất tiêu không, tao phải xuống coi.....
Phút chốc, cả ba cô gái biến mất. Tôi nhìn HBSơn cười:
- Vui nhỉ! bộ thế này hoài sao?
- Ngày nào cũng như ngày nấy, vui mà cũng thê thảm lắm, người ta phải bật ra tiếng cười thôi...
- Cậu còn dạy học cho cả mấy em này?
- Dạy chứ để họ biết chữ ghi số " dù " mỗi ngày đi được. chép hoặc học hát mấy bài ca cải lương nghêu ngao cho đỡ sầu đời.
- Họ có trả công cậu không?
- Trả hay không không thành vấn đề, tao cứ dạy. Mày đừng hỏi tới nữa, mày đừng hỏi trả bằng cách nào.....Tao không lạ gì lối hỏi móc họng của bọn lính tráng chúng mày.
Hai chúng tôi cười rũ. Bưổi tối trở nên vui vẻ dưới nhà lại vang lên tiếng tụng kinh gõ mõ của ông chủ nhà, HBSơn than phiền:
- Tội nghiệp thằng cha đó, vê hoài mà vẫn chưa tròn được chữ phúc. Mẹ, sao mà đạo đức giả thế.
QWua câu nói của HBSơn, tôi thấy anh có giọng chửi đời.
Trời đã muộn, tôi từ giã HBSơn. Anh tiễn tôi ra tận cầu thang:
- Tưởng cậu rảnh rang thì ở lại đây với tớ. rảnh thì ra đây chơi, bất cứ lúc nào.....Tớ ở một mình cũng buồn lắm, giữa cái cảnh thế này. mình vẫn là anh giáo xóm giáo làng chán bỏ mẹ, vậy mà cũng còn nặng nợ văn chương. Lại sắp hết một năm nữa rồi.
- Ừ nhỉ, chỉ còn vài tháng nữa là tết.
- Nhớ nhé, rảnh thỉ ra đây chơi, tết này mày có thể ăn tết với tao, chỉ có hai đứa mình.
Cũng sắp đến giờ gác phi đạo của tôi. Tôi về đến trại đi lãng súng là vừa. Tôi nghĩ đến cảnh cô đơn ban đêm ngồi một mình ở phi đạo lộng gió. Tôi sẽ nhớ nhung nhiều lắm, những kỷ niệm xưa reo lên trong đầu như tiếng lau sậy rậm rạp mọc quanh phi trường reo cùng với gió vi vu.
Tội gặp lại HBSơn sau hai năm, anh không mang bút hiệu là HBSơn hay Trần Đức Uyển nữa, mà là nhà thơ trào phúng Tú Kếu.
CHƯƠNG 11
Thế là đã ba năm rồi mẹ vẫn chưa về. Có lẽ rằng đờisống của bà không khá mấy, chua đủ diều kiện để vê SG gây dựng lại gia đình ly tán. Tôi kiểm điểm lại từng giai đoạn, tôi thấy đúng như thế. Tôi chấp nhạn đã đành, nhưng còn hai đứa em tội nghiệp của tôi, chúng còn coi như nhỏ bé. nhưng làm sao được, tôi chưa là cái gì hết.
Vào quân đội, tôi chán ngấy quân đội. Sao hồi ấy tôi không đi quân dịch, nếu đi quân dịch thì tôi đã giải ngũ rồi, bây giờ thì tha hồ bay nhẩy, không như những người bạn tôi cứ phải trốn chui trốn nhủi. Có thằng đã bị tóm cổ đưa vào trại nhập ngũ, thằng thì tự huỷ hoại thân mình để trở thành vô dụng với quân đội, như chặt ngón tay bóp có súng, lấy ống nước chì đập bể xương tay để được giấy tờ miễn dịch vĩnh viễn. Dù quân đoội đang lớn mạnh để đáp ứng với nhu cầu chiến tranh đang lan rộng, như chính nghĩa quốc gia đã mất, không còn bầu nhiệt huyết của thanh niên như thuở nào. Quân đội thoát thai từ lính khố xanh khố đỏ thời phong kiến hoặc tư cách của loại lính " ba ti găng " thời thực dân Pháp được gọi là quân đội liên hiệp Pháp, rồi quân đội quốc gia VN. Vẫn là bình mới mà rượu cũ do một bầy đoàn tham nhũng thối nát pha chế đóng nút vô chai, mang ra kinh doanh.
Tôi vẫn là thằng lính tạp dịch làm tất cả việc lăng nhăng trong phi đoàn, gác phi đạo phi đoàn, hoặc leo lên trực thăng H19 bay ra chiến trường làm công việc tải thương hay tiếp tế. Không phải lính chiến đấu mà giống như lính chiến đấu.
Lễ Giáng Sinh năm ngoái, phi đoàn mất một chiếc H19 khi bay đi công tác. Tôi mất một thằng bạn, hạ sĩ Bạch Xuân Định, thằng bạn từ hồi nhỏ xíu ở phố hàng Đồng hà Nội. Mẹ hắn vào phi đoàn, ngồi trên phòng chỉ huy trưởng khóc khản cả cổ, nghe tiếng bà gào:
- Các ông nói thật đi, có phải con tôi đã chết rồi không, tôi nghe nói nó đi chở biệt kích ra ngoài Bắc, chứ không phải tặng quà Noel cho vùng cao nguyên.....Hôm nó đi nó còn ôm lấy tôi từ giã và các em nó, tôi biết là điềm gỡ rồi....
Có thể bà cụ nói đúng. Tôi từng thấy những toán lính áo đen, mặt mũi lầm lì, võ trang gọn hẹ ban đêm bí mật vào phi đoàn lên trực thăng rồi bay đi. Dáng thằng Định cao lêu ngêu ở phi đạo. leo lên máy bay sau cùng. Rồi máy bay cất cánh không biết đi đâu. bạch Xuân Định cùng một chuẩn uý hoa tiêu ra đi buổi tối hôm ấy rồi đi mãi không về...Chiến tranh là thế đó, tôi đang đối mặt, không quân tuyển quân ào ạt, những phi đoội Skyraider, C130 vận tải được thành lập, phi đoàn trực thăng bỏ luôn tên " đệ nhất phi đoàn trực thăng " mà đổi thành phi đoàn I, trên đất nước này sẽ có thêm bao nhiêu phi đoàn nữa ở 4 vùng chiến thuật. Phi đoàn tôi sẽ nhânthệm loại trực thăng H34. Loại lính tạm như tôi nhận chỉ số và sửa soạn đi học chuyên môn, nhưng riêng tôi vẫn là anh lính ghẻ " thâm niên quân vụ ". Ngàng chiến tranh tâm lý đẩy mạnh. Có một số nhà văn nhà thơ ở bên ngoài gia nhập không quân và được mang cấp bực, mèng mèng cũng từ hạ sĩ quan trở lên. Phi đoàn tôi có chuẩn uý Đặng Trần Dưỡng sang báo Lý Tưởng làm, ông nói với tôi:
- Thế nào tôi cũng lấy cậu sang, chỉ số hay không cũng đếch cần, bây giờ cậu cứ gởi bài cho tớ dọn đường đi trước.
- nhưng tôi không thể viết nổi những bài quảng cáo tuyên truyền như " Đi quân dịch là thương nói giống ". Hay tác phẩm kiểu của ông Toàn Phong.
- Ôi, không cần, thoải mái thôi, như thằng DHCường, hiện giờ nó ngồi bên đó, thoải mái viết báo, xuất bản tiểu thuyết bên ngoài. Thơ của Cung trầm Tưởng Phạm Duy phổ nhạc đấy. Quân đội mình nhiều văn nghệ sĩ lắm, đừng nói chuyện cấp bậc.
Lòng tôi lại dấy lên đốm lửa đam mê, hằng đêm tôi lại ngồi dưới ánh đèn điện ở hangar viết lách, những nhận xét của xung quanh phi đoàn, của binh nghiệp. Đứng bên này hàng rào dây théo gai ngăn cách trại nhẩy dù, quan sát những chuyến bay trực thằng dòng dây thả những chiiếc áo quan lính tử trận xuống bãi cỏ trại nhẩy dù. Những tiếng khóc, những vành khăn tang của con cái vợ lính từ trại gia binh túa ra. Nhiều lần tôi phải quay mặt đi không dám nhìn cảnh đó. Nhưng tiếng gào thét thê lương vẫn lọt vào tai tôi. Còn nhiều...nhiều nữa....những trận đánh lớn bắt đầu xảy ra ở miền Đông miền Tây....Đêm ngồi gác ở phi đạo trực thăng tôi đã nghe rõ tiếng đại bác từ xa vọng về.....Xung quanh SG và các tỉng lỵ là chiến tranh. Một vài vụ phá hoại khủng bố cũng đã xày ra ngay trong SG. Lựu đạn nổ trong vũ trường, trong rạp hát, cả trong cuộc trưng bày máy bay ở Toà Đô Chánh để gây tiếng vang.

Tôi nghe tin mặt trận GPMNam phát động đồng khởi ở Củ Chi, Bến Tre, Hóc Môn, một chiến khu D nào đó. Ở miền Trung có nhiều thanh niên cùng đường phải " nhảy núi ". Tôi đã thấy những toán ngươòi bị bắt, xâu từng chuỗi giải đi, mà người ta gọi là VC. VC bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cái máy chém tha đi khắp nơi. Ông đội Phước, đao phủ thủ chuyên nghiệp nổi tiếng khắp nước, từ khi hạ tay đao chém Ba Cụt, của giáo pphái Hoà Hảo ở miền Tây. Những huyền thoại về cái máy chém và ông đội Phước xoay trong báo chí như cơn lốc, như nỗi kinh hoàng răn đe tất cả mọi ngưòi.
Buổi tối hôm nay, tôi ngồi gác ở trong hangar nhìn ra phi đạo mà buồn hiu hắt. Tôi nghĩ đến thân phận mình lại càng buồn. Phi trường quạnh quẽ, ngoài kia là lau sậy mọc đầy, đằng sau lưng là hangar với mấy chiếc trực thăng cũ rích.
Tôi cám cảnh cho thân phận mình, tôi muốn làm thơ, nhưng tôi biết mình không có tâm hồn thơ, như một số anh em bạn bè chọn nghiệp cầm bút.
Một buổi chiều mưa, khi còn ở đường Chi Lăng, tôi gặp Viên Linh, chúng tôi rủ nhau vào cà phê bằng ngồi nhâm nhi ly cà phê đen đậm. Viên Linh cho tôi biết anh mới đăng một bài thơ " được lắm " trên báo văn nghệ tiền phong. Tên bài thơ tôi òcn nhớ là " bài ca của người giang hồ ". Bài thơ sao giống cảnh sống của chúng tôi đến thế.
Bây giờ ngồi một mình ở sân bay quạnh hiu, tôi chợt nhớ đến bài thơ ấy, nhưng chỉ nhớ được có mấy câu đầu, giống hoàn cảnh chúng tôi nhất. Tôi đọc trong hangar quạnh vắng
Sáng ở đầu sông nhớ núi
Đêm về trong núi nhớ sông
Có tin về hôm giáp tết
Số nó bây giờ long đong
Rồi tôi lan man đọc những bài thơ, đúng ra bất cứ câu thơ nào tôi nhớ được. Tâm hồn tôi cũng đỡ trống vắng. Tôi quên cả buồn ngủ. Sao tối nay tôi nhớ mẹ da diết. những cái tết gia đình sum vầy, những nồi bánh chưng bốc khói nếp thơm. Tôi mất thật rồi chăng đến bao giờ mới thấy lại.
Cửa tiệm tạp hoá ở sở rác Nguyễn Tấn Nghiêm, căn gác gỗ đứng nhìn thấy cây thập tự giá ở nhà thờ Huyện Sĩ. Vòi máy nước công cộng ồn ào suốt ngày đêm. Tiếng luyện ca cải lương mùi rệu của kép Hùng Cường. Tất cả đã mất rồi chăng? Tất cả đã đi qua như một giấc chiêm bao. Tôi không biết mình nên quên hay nhớ mãi.
Phiên gác qua mau, tôi không biết " thiếu tá bình dân " đến thay gác, nó mắt nhắm mắt mở, tay che miệng ngáp:
- Biết thế này tao ngủ thêm một tiếng đồng hồ nữa đến còn kịp.
Tôi nhìn đồng hồ la lên:
- Cũng muộn cả 45 phút rồi.
- Thôi đừng cằn nhằn nữa, đưa súng đây rồi lên phòng mà ngủ.
Tôi mau mắn đưa súng cho thiếu tá bình dân, trở lên phòng. Chưa chắc tôi đã ngủ, tôi sẽ ngồi vào bàn, bên cạnh cái giường sắt nhà binh. Tôi viết, không biết mình viết gì đây? Bên kia góc phòng là giường của thiếu tá Bình Dân. Hắn ít khi ngủ trong trại, nên chỉ có mình tôi ngủ trong căn phòng trống vắng.
Tôi đi loanh quanh trong phòng mãi rồi ra nằm xuống giường, tôi ngủ thiếp đi lúc náo không biết. Nửa đêm tôi thức giấc vì tiếng thằng Phúc gọi thảng thốt:
- Dậy mày, dậy Long!
Tôi ngồi dậy, ngơ ngác:
- Cái gì vậy, phiên gác kế tiếp không phải tao, sau phiên của mày là phiên thằng Hoan. Tại sao mày bỏ gác lên đây?
- Tao không bỏ gác, nhưng phi đoàn bị chiếm rồi, có lẽ cả phi trường. mày nghe tiếng súng nổ ngoài SG không. Có lẽ họ đang đánh Dinh Tổng Thống.
- Ai, VC hả?
- Không, nhảy dù, cách mạng mà! Tao gặp thằng chuẩn uý Dù quen tụi mình, nó nói tao lên gặp mày ra tập họp cùng anh em ngoài sân cờ. Thôi làm theo lời chúng nó đi không toi mạng cả lũ đấy, mày biết tụi Dù chứ, chúng là lính chiến chuyên nghiệp, không xìu xìu ểnh ểnh như lính không quân mình đâu.
Tôi rợn tóc gáy, chổm dậy, tôi biết không phải chuyẹn đùa. Tôi vớ bộ quần áo, " thiếu tá Bình Dân " hối:
- Đi mày, không cần mặc quần áo, cứ ra tập họp đã. Này đừng mang theo cây bù loong của mày, chúng tưởng là vũ khí mày bị xử bắn đấy.
- mẹ mày, lúc này mà vẫn còn giỡ được.
Ở sân cột cờ đủ mặt những thằng ở trong đơn vị, không nhiều, đông lắm chỉ khoảng 10 thằng. Một ông sĩ quan Dù đứng lên bậc thềm, giọng giõng dạc:
- Tất cả anh em đây, ai là sĩ quan thì giơ tay lên, đứng sang một bên.
Trong hàng quân chẳng có ai giơ tay. Ông sĩ quan nhìn chòng chọc vào toán lính lôi thôi hỏi:
- À không có thằng nào là sĩ quan hả, nếu phát hiện ra thì chết nghe chưa, tao sẽ bắn ngay ở cột cờ này......
Tự nhiên có tiếng cườì khinh khích. ông sĩ quan nhìn như xoáy vào một thằng ốm o:
- Thằng kia, cười cái gì?
Thằng hạ sĩ Vân, thằng có tiếng là vui nhộn nhất sư đoàn:
- Báo cáo trung uý, trung uý cần sĩ quan cấp uý hay cấp tá!
- Cứ sĩ quan là được, để tâp trung sang bên bộ tư lệnh. Cho tụi bay biết cả trung tá tư lệnh của tụi bay cũng bị bắt rồi......
- Dạ ở đây không có sĩ quan cấp uý mà có một sĩ quan cấp tá!
Thằng vân liền chỉ vào mặt thiếu tá Bình Dân:
- Dạ thằng này, thiếu tá bình dân.
Hai anh lính nhẩy dù xô ngay lên, súng chĩa vào ngực thằng Phúc:
- Đi, ra khỏi hàng.
Phúc thiếu tá bình dân kêu lên:
- Ấy không phải, tôi là binh nhì Hoàng Phúc, chúng nó đùa tôi như vậy thôi, thằng Vân đểu giả xỏ lá.
Cả đám lính không nhịn cười được, anh chuẩn uý dù mà chúng tôi quen mặt ở bên kia hành rào dây thép gai phải giải thích mãi với ông trung uý. Một sĩ quan dữ dằn, kỷ luật từ đầu đến chân. Hình như một người sinh ra để làm nghề nhà binh. Xách tai thằng Vân ra:
- Thụt dầu luôn một trăm cái, kéo hai tai tự cầm tai mình. Còn cả bọn này lên ngồi ở hàng hiên kia.
Ông trung uý ra nói chuyện ở máy bộ đàm. Trời sáng rõ dần. Thằng hạ sĩ Vân cũng thi hành xong hình phạt trở vào với anh em. Thiếu tá bình dân chửi nhoi:
- Sư mày đồ hèn, tí nữa thì mày làm ông chết oan. Đùa kiểu gì mà lạ vậy?
Thằng Vân nhăn nhở:
- Tao mong cho mày chết, để mày khỏi giành đào của tao. Tụi bay biết không, tuần trước tao tán được một con bán nước mía, thằng này ra thả lời ong bướm cuỗm tay trên của tao. Nó xưng là htiếu tá, anh bình dân lắm, thượng vàng hạ cám gì cũng vô hết. Mẹ, nợ tình nặng lắm đó mày. Mày coi chừng tao, tao còn thù lắm. Con Cúc đào của tao mày cũng cướp, bây giờ nó muốn trở lại với tao, tao cho nó đái công chuuộc tội bằng cách lấy dao mổ heo thọc tiết mày.
Không khí trở nên vui vẻ mặc dầu tất cả chúng tôi đều là tù binh.
Trời đã sáng hẳn. Tiếng đại tá dù Nguyễn Chánh Thi nói eo éo trên đài phát thanh, bao nhiêu là nhân sĩ cũng lên tiếng ủng hô, có lẽ Cách mạng đã thành công. Dinh độc Lập đang bị bao vây. Giọng tổng thống Diệm cũng đã dịu xuống. Hôm ấy là ngày 11 tháng 11.
Tất cả các sĩ quan không quân ở trong phi trường TSNhất bị bắt tập trung tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, nghe đâu cả trung tá quyền tư lệnh Không Quân cũng bị bắt sau đó. nhưng trong cùng ngày có tin trung tá đã trốn thoát lên phi trường Biên Hoà. Trong nhóm người đảo chánh cũng có thiệt hại, trung tá Dù Dương Văn Đông bị tử trận ở vườn Tao Đàn, ngay cạnh phủ tổng thống. những cánh quân ở các tỉnh trung thành với tổng thống sửa soạn phản công. Phi trường biên Hoà rục rịch cho các máy bay cất cánh. Có thể có một cộc phản công kinh khủng, nhưng chúng tôi vẫn còn ở trong tay phe cách mạng. Không biết cuộc đàm phán giữa phe cách mạng và tổng thống diễn ra như thế nào, nhưng tất cả binh sĩ nhảy dù chiếm sân bay đều đói, không bữa ăn sáng, không bữa trưa và không bữa cơm chiều.
Đến tối thì các binh sĩ ấy phá cửa câu lạc bộ đóng cửa để kiếm lương thực. Các nhà trong trại cũng bị lục lạo tìm đồ ăn. Lính phi công trong phi trường cũng đói lây, không đâu bán đồ ăn, mà ai phải ở chỗ nấy.
Sang đến ngày thứ hai, tình trạng trở nên tồi tệ, những nút chặn, gác của lính nhảy dù trở nên lỏng lẻo, lính không quân bỏ đi lung tung kiếm ăn, riêng các sĩ quan vẫn phải giam trong câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc.
Tôi và thằng thiếu tá bình dân bỏ đi lang thang sang bộ tư lệnh. Hai thằng đoói meo, như những người lính nhảy dù. Ra tới cổng phi đoàn chúng tôi gặp anh chành chuẩn uý quen, anh ta ở bên kia hàng rào dây thép gai ngay đầu phòng của tôi. Thỉnh thoảng anh ta ôm cái máy hát cũ mèm, quay tay hát dĩa, leo hàng rào sang phòng hai đứa tôi học nhảy đầm. Phúc " thiếu tá " hướng dẫn anh ta từng bước nhảy. Đôi khi hẹn nhau ngoài cổng trại đi dancing. nên trở nên thân thiết nhau. Phúc " thiếu tá " hỏi:
- Tại sao cậu lại mang quân sang đánh chúng tớ?
- Đánh hồi nào, nhảy dù chúng tớ được tin VC xâm nhập thành phố, nên nhảy dù tới thanh lọc đấy chứ.
Tôi hỏi:
- Đã tìm ra tên VC nào chưa?
- Làm gì có, khi hành quân tớ nghe nói khác bây giờ người chỉ huy lại nói khác, bọn tớ trở thành đám loạn quân, đói bỏ mẹ, đói hết một ngày hai đêm rồi. Các cậu đi đâu thì cứ đi, nếu có thể kiếm gì mang về cho tớ ăn với. Mẹ bị lừa hết rồi.....
- Không hứa trước, có thì tớ mang về cho. Cả thành phố đóng cửa hai ngày rồi, có ai sản xuất gì đâu.
Hai đứa chúng tôi đi lại thoải mái, những người lính nhảy dù không buồn ngăn chặn. Chính họ cũng tự phải đi tìm lấy đồ ăn.
Bên bộ tu lệnh cũng không hơn gì bên phi đoàn chúng tôi. Riêng một số lính dù làm việc tại phi trường vận tải còn có vẻ hoạt động. Một chiếc máy bay C130 đậu ngoài phi đạo.
Phúc " thiếu tá " chán nản:
- Thôi tao ra ngoài đường đây, tao về nhà con Cúc
- Ở tận Trương Minh Giảng ấy à?
Phúc gật đầu:
- Mày có đi cùng ta không?
- Không, tao ớn can dao cuamẻ, hôm trước tao đã đánh tháo mày, chắc mẹ còn thù tao lắm.....
Tôi chia tay thằng thiếu tá bình dân đi lang thang khắp nơi. các sĩ quan vẫn bị nhốt trong câu lạc bô Huỳnh Hữu Bạc. Các vị ấy không dám ra ngoài vòng rào, vì nếu ai ra sẽ bị bắn ngay tại chỗ. Chỉ khi nào lính dù cần đến mới gọi một hai người ra.
Trung uý Phan Phụng Tiên, hoa tiêu vận tải bị gọi ra, đưa ra phi đạo. Ông lên máy bay, rồi xăng được tiếp, một chiếc xe nạp điện chạy đến cạnh máy bay mở máy nạp điện. Hình như sửa soạn cho một chuyến bay. Lính dù vòng trong vòng ngoaì bảo vệ chiếc máy bay.
Tôi ngồi ở câu lạc bộ trống lỗng ngay cạnh phi đạo. Nghe nhiều người nòi chuyện, những tin tức chính xác và cả những tin vịt. Một người nào đó nói:
- Bọn dù làm đảo chánh sắp thành công rồi, chiếc máy bay này sắp cất cánh, tống khứ gia đình tổng thống cho đi chơi chỗ khác. Ngày hôm qua họ đàm phán với nhau để đặt điều kiện.
- Điều kiện gì?
- Tổng thống đi chơi để lại đại tá Nguyễn Chánh Thi lên làm tổng thống. Mỹ hỗ trợ cho ông ta, ông ta mới chống cộng kỹ.
Một người khác chen nói:
- Trong vụ này có nhiều đoàn thể đảng phái khác tham gia. Tao nghe nói đại uý Phan Lạc Tuyên bên biệt động quân cũng tham gia đảo chánh, rồi đây ông ta sẽ là bộ trưởng thông tin vì ông ta còn là thi sĩ. Chúng mày nhớ bài thơ nổi tiếng của ông ta khi tiếp thu Bình Định. Đan Thọ phổ nhạc không?
- Nhớ chứ, tao thuộc lòng.....
Có tiếng ồn ao phía bên ngoài. Tiếng người nói:
- Ra xme giải gia đình họ Ngô ra phi trường, lần này thế nào cũng có mụ Trần Lệ Xuân. Máy bay bay ra biển, ném chúng xuống hết thôi. Ở đây mình thấy máy bay về không là xong chuyện rồi đó. Ngày mai mình th hồ ăn tiệc, nhân dân khắp thành phố biểu tình hoan hô tân tổng thống.
Tôi chán ngấy chuyện đấu láo. Tôi ra ngoài đường đứng xem. Một dẫy xe hơi citroen chạy vào phi trường, qua bộ tu lệnh sang phi đoàn vạn tải. Tôi cố nhòm qua cửa xe nhưng chẳng thấy ai là người thân thuộc của gia đình tổng thống. Tôi nhìn thấy những người đội mũ be rê đỏ trong xe.
Một anh lính dù cho biết có cả đại tá Nguyễn Chánh Thi. Cái mặt gầy guộc và bộ ria mép đen nhánh. Tất cả đều xuống xe cạnh sân bay. Có người mang quân hàm cấp tướng bộ binh, mặt bị đánh sưng vù. Có người nói đó là thiếu tướng Thái Quang Hoàng.
Đại tá Nguyễn Chánh Thi lên máy bay đầu tiên, cùng với những sĩ quan tâm phúc của ông. Kế đến là những người khác, lính dù thúc họng súng vào lưng các con tin bắt lên cầu thang. cửa máy bay đóng, thang rút ra, vá máy bay nổ máy. Chỉ một bên cánh quạt quay tít, cánh quạt phía bên kia như bị liệt chỉ quay lờ đờ. Nhung chiếc máy bay cũng lết ra được đường băng, rồi cất cánh phía cuối sân. Máy bay hướng về phía tây.
Chờ cho chiếc máy bay khuất dạng ở chân trời, người sĩ quan dù ở sân bay ra lệnh cho lính:
- các chiến sĩ nghe lệnh tôi hạ khí giới, giao lại cho các bạn an ninh phi trường. Chúng ta đầu hàng vô điều kiện khi đã làm tròn nhiệm vụ. không một binh sĩ nào được manh động, như truyền thống binh chủng dù, tuyệt đối nghe lệnh cấp trên.
Lính an ninh phi trường lúc ấy mới túa ra, an ninh thật cũng có mà an ninh cũng có, toôi bị túm tay lôi ra. Nhưng tôi vùng ra:
- Xin lỗi, tôi không là lính an ninh.
Thượng sĩ nhất Phạm Phú Ngự ra lệnh như một người thắng trận:
- Tước khí giới, mang ngya một khẩu hiệu đại liên bố trí ở con đường dẫn sang trại tù Hoàng Hoa Thám.
Người sĩ quan dù cười, nhìn vào mặt trung sĩ nhất Ngự:
- Không còn đánh đấm gì nhau đâu trung sĩ à, đưa chúng tôi về cải hối thất rồi nấu một bữa cơm tù cho lính tôi. Chuyện được làm vua thua làm giặc là thường mà.....
Tôi chán nản, đi bộ ra ngoài cổng phi long, xóm Lăng Cha Cả. Tôi nghe tiếng tổng thống kêu gọi dân chúng bình tĩnh vì quân đội đã dẹp yên được một số sĩ quan trung cấp cầm đầu cuộc phản loạn. Nhưng tổng thống cũng tuyên bố tình trạng giới nghiêm buổi tối.
Sinh hoạt bên ngoài trại lính bình thường, những quán cơm bình dân, quán cà phê. Tôi nghĩ mình cũng nên đi thăm một số bạn bè, thăm thằng em. bây giờ không biết nó ở nhà bà dì bà mợ hay ông chú nào. Đầu tiên tôi đến xóm Lê Văn Duyệt để thăm Hoàng Bình Sơn. HBSơn ở nhà trọ. Chúng tôi ra quán ăn cơm bình dân rồi uống cà phê. HBSơn chán nản:
- Chẳng nước non mẹ giù hết, nếu bọn dù kéo dài thêm được vài ngày nữa thì ông Thu anh tớ sẽ ra khỏi tù, ông ấy bị nhốt tù quá lâu rồi.
- Chắc thế nào cũng có một đợt ân xá.
- Còm lâu, rồi nó sẽ bắt thêm, mày coi. Chúng nó cần củng cố quyền lực, khủng bố dữ dội không riêng gì đối lập mà tất cả mọi người, nhà tù chật cứng người cho coi....
Ừ sao tôi không có một ý niệm gì về chuyện đó. Trời đã muộn, tôi băng qua đường xe lửa Nguyễn Thông sang trương Minh Giảng thăm vợ chồng Trần dạ Từ. HBSơn cho biết Trần Dạ Từ đã có việc lám ở một tờ báo, hai vợ chồng thuê một căn nhà ngay ở dưới dốc cầu.
Bữa cơm đón bạn vui vẻ, tuy là bữa cơm đơn sơ nhưng Nhã Ca khéo léo làm những món ăn đặc sản Huế. Tôm cháy và mắm cà.....Trời sụp tối lúc nào không biết. Tôi toan về trại lại nghĩ đến lệnh giới nghiêm của tổng thống mới ban hành nên đành ở lại nhà Tứ- Nhã. Tô chưa đi thăm được thằng em. Sáng ngày mai tôi đi tìm nó cũng không muộn..
Tôi tìm nó mấy ba ngày mới biết nó ở nhà bà dì trên Gò Vấp. Rồi tôi tính ra rằng mình đã bỏ trại đi được gần một tuần lễ. Ngày ngày tôi về nhà Từ Nhã. Nhà Từ-Nhã thường xuyên cho những người bạn tá túc, đôi khi có những người bạn mang cả nhân tình về....
Một buổi tối, Từ đưa tôi ra đầ đường nói chuyện:
- Mày không thể ở nhà tao hoài được, chỗ mày nằm ngủ thằng Trung và con nhân tình nó đã xí trước rồi, mày ở đây thì kẹt cho chúng nó, tao đưa mày mấy chục đồng mày có thể tìm một chỗ khác....
Tôi từ chối 35 đồng bạc của Từ và đi ngay, mà không biết sẽ đi đâu. giờ giới nghiêm sắp tới. Tôi lang thang trong thành phố vắng dần bóng người, thay vào đó là những xe hiến binh mũ kê pi chạy đi chạy lại trên khắp ngã đường.
Không còn cách nào khác tôi đành tạt vào mái hiên, ở đó nhiều người nằm ngổn ngang. Có lẽ đó là những người không nhà cửa, ăn mày hành khất chi đó. Tôi dựa lưng vào tường, gục đầu trên hai cánh tay khoanh tựa trên đầ gối. Tôi nghĩ ngợi lan man, nghĩ đến những đồng tiền Trần Dạ Từ đưa cho tôi hồi tối mà tôi không nhận. Tôi không hiểu được thái độ TDTừ. mà tôi chẳng cần phải hiểu, cứ cho đó là chuyện đời vẫn xảy ra. mà tôi là người ít may mắn. Nếu tôi kể lể điều gì đó thì tôi tầm thường quá. Tôi nghĩ đến căn gác của mẹ tôi ở sở rác Nguyễn Tất nghiệm, nơi ấy đã tụ tập biết bao bạn bè tôi, lòng mẹ tôi thật bao la. Nay thì tan đàn xảy nghé hết rồi. Thôi thì nhận nơi đây là một mái nhà. Tôi đã dời đơn vị gần một tuần, tôi là kẻ đào ngũ. Mơ thấy mình là đại tướng tự ký giấy giải ngũ cho mình.
Tôi lo mơ những kỷ niệm và buồn ngủ, mấy lần tôi ngủ gục ngã xiêu cả người. những người ở quanh tôi hình như chẳng ai thèm để ý đến tôi, hành lang thì rộng và dài. Một ngôi nhà rộng thenh thang chẳng của ai cả.
Có tiếng động cơ xe hơi dừng ở ngoài đường, một cái xe jeep của hiến binh. Tiếng léo nhéo ngoài đó:
- Thằng điên, mày bắt chúng tao đưa mày đi khắp nơi. Chỗ nào mày cũng nói không phải nhà mày, vậy đây không phải nữa thì vào ngủ ở đồn hiến binh.
Một giọng nói miền Quảng Nam.
- Vậy thì cho tôi xuống đây, nhà tui đó, rộng không, mát mẻ không. Trời cảnh thơ mộng làm sao, nhà cao cửa rộng.....
Tôi đứng hẳn lên, khi gã thanh niên bị lẳng xuống đường. những người nằm trong hành lang khe khẽ:
- Thằng ngu, nằm xuống đi, lính bắt bây giờ, cái thân ngủ đường ngủ chợ mà không biết gì hết, mày cũng điên rồi.
Thằng thanh niên ngoài đường la lên với tụi lính khi hắn nhìn thấy tôi:
- Bọn lính tráng tụi mi, tau nói nhà tau mà, thấy người hầu ra đón cậu không? Ê, ném trả tau cái túi trên xe.
Một cái cặp liệng xuống đường. Chiếc xe rồ ga phóng vút đi. Gã thanh niên khùng điên lượm cái cặp, cắp nách đi vội lên dốc hành lang. Tôi vẫn đứng đó nhìn gã, dưới ánh đèn đường tôi thấy gã còm nhom. Cái đầu nham nhở không hẳn là đầu trọc mà cũng không phải để tóc. Hắn ngẩng lên nhìn tôi, cái mặt coi quen quá. À phải rồi, tôi đã nhận ra hắn và hắn cũng nhận ra tôi. Hắn la lên:
- Có phải mày là thằng Long không., tao Sơn đây. Nguyễn Đức Sơn, Sao Trên Rừng đây.
Đúng hắn rồi, tôi có quen biết hắn, thằng người Quảng điên điên khùng khùng thường hay đăng thơ trên báo Sáng Tạo, Văn Nghệ, Quan Điểm. Hắn cũng hay nói chuyện triết học. Đã lâu lắm rồi tôi không gặp hắn. Hình như hắn không để ý đến cái hành lang:
- Ờ chỗ này cũng được đấy, hành lang này rộng, nhìn ra vườn hoa, dưới kia là sông, phong cảnh hữu tình đó. Phía dưới có cột đèn sáng, có vòi nước công cộng, ban đêm tha hồ tắm nữa. Tao hỏi mày sao tìm được chốn thiên đàng này?
- Vô tình thôi, hôm nay lần đầu tiên tao tới đây.
- vậy sao? Tau nghe nói mày đi lính mà.
- Đúng rồi, nhưng tao đã đào ngũ một tuần nay.
- Cũng tốt, mày đưa tau vào chỗ nằm, mình sẽ tâm sự với nhau.
Tôi kể hoàn cảnh của tôi cho Sơn nghe, hắn lắng nghe chăm chú, sau rồi lại nói:
- Chẳng cần quan tâm, nhưng tau ghi chuyện này vào sổ đen của tau. Từ ngày mai mày có thể rong chơi với tau.
Hắn nằm ngay xuống thềm, gối cái cặp và ngủ thiếp đi.
Chỉ một lát tôi hắn ngáy như cưa gỗ. Có lẽ giấc ngủ của hắn bình thản và không quan tâm đến một chuyện gì.
Tôi thao thức mãi mới ngủ được, gió sông thổi lên lồng lộng. Trời cuối năm lành lạnh, lại sắp hết một năm nữa rồi. Gần sáng tôi mới chợp mắt được một lúc.
Tôi tỉnh dậy thấy hành lang vắng hoe và NĐSơn ngồi xổm nhìn vào mặt tôi. Sơn hỏi tôi:
- Bây giờ mày đi đâu hay đi chơi với tau?
- Tao đến chỗ thằng em trọ học, xme nó học hành ra sao?
- Học với hành, tau có quan niệm khác.
- Sao?
- Có học chỉ khổ cái thân thôi, tau sau này có vợ con, tau cho lên rừng hết, không học hành chi cả.
- Vậy tại sao mi lại học?
- Bởi vậy, ném lao phải theo lao, không ra gì hết, chẳng thà không biết gì như cây cỏ, như con thú ở trên rừng. Sống theo bản năng.
Cơn gàn của anh chành lại lên rồi chăng. Tôi từng nghe bệnh gàn dở của hắn, đôi khi trở thành giai thoại. Khi cần chửi là hắn chửi, nếu không chửi được tận mặt là hắn gửi thư đến tận nhà chửi. nhiều anh em từng là " nạn nhân " của anh, của cái tính ngông cuồng dễ thương mà trởi ban cho anh. những cơn điên tiết của anh như trời mưa nắng.
Còn chút tiền, tôi rủ NĐSơn đi ăn hủ tíu và cà phê thuốc lá. trước khi chia tay bạn, Sơn nhắc nhở tôi:
- mày bây giờ không làn gì nữa rồi, xong công việc đời thường mày lại đến đây tìm tau, mình rong chơi, rong chơi mà no đủ kía, tiền tiêu có thể là không có, nhưng no đấy, ngày hai bữa được không?
- Được qúa rồi, nhưng mày " định cư " nơi này chưa?
- Chắc phải vậy thôi, chẳng nơi nào hữu tình hơn nơi này. Gầm cầu kia không thể bằng nơi này được.
Trước khi chia tay, tôi đứng ngắm nhìn lại chỗ mình ngả lưng đêm qua. Đó là hàng hiên của tổng ngân khố, nhìn ra sông SG. Cái cầu Mống cao và cong cong đổ qua sông, bên kia là Khánh Hội. Nhà Lê Đình Điểu ở bên đó, nhưng thằng em tôi không còn ở đó nữa. Mẹ tôi viết thư về nói nó ở Gò Vấp học trường Hồ Ngọc cẩn gần hơn. Vả lại nó ở nhà dì, cũng là chỗ ruột thịt với mẹ tôi. Có họ hàng mà không nhờ vả, nhờ vả người ngoài mang tiếng. Tôi không rõ điều suy nghĩ của mẹ tôi có đúng không?
Tôi tới thăm em trai tôi, nơi này nó ở không tệ, nhưng chưa phải là tốt. Tôi muốn nó ở nơi nào đó tốt hơn, nhiều thì giờ để học hành hơn, vì nó đã thi xong trung học, những năm cuối trung học của nó cần yên tĩnh. Tôi không nói cho em tôi biết rằng tôi đào ngũ. Tôi nghĩ đến cái hẹn của NĐSơn, tôi phải về với hắn. Những bạn bè khác tôi không muốn đến nữa. Biết đâu mình chẳng là gánh nặng với họ, không phải là sự phiền nhiễu.
Buổi tối tôi đem bụng đói về với NĐSơn. Hắn ngồi dựa cột đèn đọc sách, bên cạnh có một cuốn vở để ghi ghi chép chép gì đó. Hắn ngẩng lên hỏi:
- Mày về đó à?
Hắn thu dọn mớ sách vở xếp vào cái cặp vải kaki vàng may lại. Trời cuối năm lành lạnh, quần áo của hai đứa lại phong phanh, gió sông lồng lộng, bụng tôi đói càng lạnh hơn. Sơn hỏi tôi:
- Mày ăn uống gì chưa?
- Có gì đâu mà ăn, tao đói từ hồi trưa.
Tao thì no căng một bụng, uống nước phông ten vào nở ra càng no dữ.
Cái thằng này ăn nói quái thật. Tôi nửa tin nửa ngờ. Vào đến chỗ nằm. NĐSơn mở cặp ra, lấy cho tôi một miếng cơm cháy gói giấy cẩn thận.
- Ăn đi, tao có rắc sẵn muối tiêu, phần ăn sáng của tau đó. Tau nhường mày, ăn xong ra uống nước phong ten, tức khắc là no thôi.
Đói quá không còn khách sáo, tôi ăn ngay. Miếng cơm cháy rắc muối tiêu sao bùi ngậy thơm đến thế. Tôi cũng vừa đủ no bụng. NĐSơn giải tấm nilon ra, hai thằng nằm chung. Hắn có vẻ chuyên nghiệp nằm đường nằm chợ:
- Mày nên có một cái túi, đựng quần áo sách vở, đi đâu mình tha theo.
- Tao chẳng có gì hết.
Hai đứa nằm gác chân lên nhau nói chuyện tào lao một hồi rồi Sơn ngủ thiếp đi, tôi còn thao thức mãi quan sát xung quanh. Một số người còn thức, một số khác đã ngủ say.

Trong một góc khuất ánh đèn, có một đôi trai gái nằm đắp chiếu, làm tình với nhau tự do kêu oeng oéc. Cái miệng thằng đàn ông, hay thanh niên ông ổng:
- Tao sẽ cho mày một đứa con tha hồ mà bồng đi ăn mày. Khi đó phải nhớ đến công ơn tao. Nói cho bay hay, nhiều đứa vô ơn bội nghĩa với tao rồi.
- nầy Bảy Nọc, đừng có lối, trên đời này không phải chỉ mình mày mới có cái con..... Tao cũng bị mòn vậy...
Thật kinh khủng, tôi đang sống giữa bầy đoàn nào đây?
Ở ngoài khoảng trống, vẫn trong phạm vi mái hiên có hai lão già gầy lên một đám lửa nhỏ, đủ nấu một lon nước, có lẽ hai lão đang uống trà, nói chuyện tào lao:
- Này anh thấy không, hai ngày nay thằng Tèo của tôi không về.
- Nó trúng mánh rồi, đâu còn nghĩ đến sư phụ của nó.
Lão già cười:
- Rồi nó phải về, nó đâu đã học hết nghề của tôi được, Lão Mõi này ngu dại gì mà dạy hết, thầy võ cũng từng phải giữ lại ngón nghề tủ phòng thân. Sư phụ dậy hết nghề cho đệ tử nó phản thầy thì sao " sông sâu còn có người dò, lòng người nham hiểm biết dò đến đâu " Nghề móc túi trộm cắp của tôi cũng thất truyền nhiều rồi, sư phụ tôi dậy cho tôi cũng không dậy hết. Vậy mà tôi cũng tung hoành một thời từ Nam chí Bắc. Thằng Tèo, đệ từ ruột của tôi, chưa học hết nghề của tôi được, dù nó thông thạo mánh móc túi, rạch bóp nhưng chưa phải là hay. thập bát ban võ nghệ còn nhiều rắc rối lắm.
- Ờ nghề nấu " xì ke " của tôi cũng lắm công phu, không phải ai muốn nấu là nấu được đâu. Tôi chỉ cần tí sái, mấy miếng giẻ lót dọc tẩu, lau bàn đèn thôi, cũng đã nổi danh trong thiên hạ. Chích choát là mấy công việc của mấy tay em, không đứa nào dám thiếu chịu của hít tô phe đại đế này được, cũng chẳng dám tố cáo.....
Lại một buổi sáng, NĐSơn đánh thức tôi dậy, hắn cũng có tí tiền uống cà phê, hắn rủ tôi đến tiệm giặt ủi, hắn vào bên trong thay bộ quần áo giặt ủi láng coóng. Hắn lại còn thắt ca vát, ra vẻ lắm:
- Tao phải ăn mặc ra vẻ như vậy để còn đi dạy học, học trò của tao toàn học sinh trung học...mày cũng cần có bộ quần áo thay đổi để đi làm ăn. Tao sẽ tìm cho mày một bộ to rộng.
- Tao thì không cần những bộ quần áo đẹp, vì tao sẽ làm nghề lao động tay chân.
- Tuỳ mày thôi.
Tôi hiểu NĐSơn nhiều năm trời sống một mình ở SG ra sao. Anh làm thơ, thơ anh hay, nhưng ít tiếp xúc với bạn bè cùng giới. Tâm hồn anh nhậy cảm, sự nhậy cảm quá độ, nhiều khi tưởng người khác xúc phạm đến mình, anh tự vệ. Sự tự vệ khủng khiếp bằng những bức thư gửi qua bưu điện. Một số bạn bè nói anh có máu điên, thây kệ. Thằng nào xúc phạ đến ta một, ta trả lại cho nó gấp 10 lần sự cay độc. Nhưng bức thư gửi đi ấy đều có bản lưu, lâu lâu giở ra đọc lại....như đọc lại một tác phẩm của mình.
Tôi chờ NĐSơn ở đầu đường Bùi Viện, gần trường Thăng Long. 12 giờ trưa, Sơn bảnh choẹ đi tới gặp tôi.
- Mi chờ tau lâu hỉ?
- Mình có htì giờ mà.
- Đi ăn!
Chắc chắn hắn có tiền. Chỉ cần một bữa ăn xoàng. Sơn rủ tôi 9dến quán cơm Anh Vũ cũng ở trên ocn đường ấy, quán cơm có tính cách nậng đỡ các sinh viên học sinh. Cơm ăn thả cửa, ba món ăn, giá chỉ có 3 đồng đến 5 đồng cho một người. Tôi từng nghe nói về quán cơm này, nhưng đây mới là lần đầu tiên đến với Sơn. Tôi htú thật với Sơn điều ấy. Sơn ra người sành sỏi ăn cơm Anh Vũ.
- Vậy thì mi cứ nghe tau, tao làm gì mày làm cách đó.
- Tao đủ thông minh, miễn là không ăn giựt ăn chạy.
- Không có đâu.
Khi bước chân vào quán Anh Vũ, quán cơm đông khách, hầu hết là những học sinh. Chúng tôi ngồi xuống một bàn trống. Những người khác ra quầy mua phiếu rồi đi ra một bàn khác tự do chọn thức ăn, giỏ cần xé cơm gần đó, ai muốn xúc bao nhiêu thì xúc. Tôi không thấy NĐSơn làm điều đó, anh cắm một cây tăm lên miệng. Tôi ngơ ngác vì chúng tôi chua ăn gì mà đã xỉa răng. NĐSơn hối tôi:
- Xỉa răng đi
Tôi làm theo lệnh Sơn như cái máy. Hắn lại ra lệnh:
- Đứng dậy đi theo tau.
Tôi đi theo Sơn vào bếp. Những cái chảo lớn nấu cơm. Cơm thì rỡ ra những giỏ cần xé khiêng ra ngoài nhà ăn. Những người nấu cơm dùng cái xẻng lớn cạy những tảng cháy to hất ra những cái thùng to. Có những người chạy đến bẻ một miếng. Sơn cũng tới bẻ một miếng, hối tôi:
- Mi bẻ lấy một miếng đi, mình ăn cơm rồi, bây giờ đét se miếng cơm cháy cho thơm miệng....
Tôi làm theo Sơn, và bây giờ thì tôi hiểu được việc làm của bạn. Tôi bẻ miếng cơm cháy hơi to, theo Sơn lên nhà ăn. Hai thằng ngồi ăn đàng hoàng vào bàn ăn, rắc muối tiêu và xịt nước tương vào miếng cháy. tôi ăn đến loáng hết miếng cháy mà vẫn còn thòm thèm. Sơn nhìn tôi cười:
- Lần sau thì rút kinh nghiệm nhé, nhưng không sao, chiều mình lại đến. bây giờ mày ra uống trà đang hoàng cho nó nở ra là vừa bụng.
Tôi uống một ca trà, người thấy dễ chịu. Hình như trong quán Anh Vũ không phải chỉ có hai đứa chúng tôi ăn uống theo kiểu này, mà nhiều. Tôi nghe tiếng la ở nhà bếp:
- Thôi chứ các cha nội, lấy hết cơm cháy rồi nhà thâucờm dư tới lại la tụi tôi không để cơm cho heo.....
Chúng tôi ra khỏi quán cơm Anh Vũ. Sơn nói:
- Bần cùng lắm tau mới dùng đến chiêu thức này. Gị là chiêu thức cứu đói. No bụng đàng hoàng. Mình vô tài kiếm không ra miếng ăn, đói, than trời trách đất thì tội cho trời đất. Từ nhiều năm nay tao chưa bao giờ đói, nghe thấy tụi bay than đói hoài tao lấy làm lạ. Miền Nam đầy lúa gạo này quyết không xó một kẻ nào phải chết vì đói.
Lý luận của Sơn thật hùng hồn. Tôi có cảm tưởng như anh ta là một nhà hùng biện lỗi lạc. Tôi nói:
- Tớ cứ tưởng hôm nay cậu có tiền đãi tớ bữa cơm chứ.
- Thì đó, cậu cũng vừa ăn môt bữa cơm, đồ ăn cho mặn miệng là muối và nước tương, ta ăn để mà sống. tớ đangnghiên cứu về lối ăn gạo lức muối mè. Bữa cơm này không phải tớ đãi cậu do tiền bạc mà do rút kinh nghiệm phương pháp chống đói. Con heo mất một miếng cơm cháy cũng chẳng thể đói hơn được, nó đói thì nó la, chủ nó phải lo cám cho nó. người dưng nước lã không bỗng dưng phải lo cho nhau, con heo gầy bán mất giá, chủ nó phải vỗ cho béo để bán được nhiều tiền hơn. Mi, tao béo gầy thì đời cũng mặc mẹ, chết mặc xác....Nhưng tau hôm nay, tao đến lớp đòi tiền, nó không trả cho tau. Nó còn bắt tau chờ đến hết tháng, không có cái vụ dậy học xong đòi tiền, cái nguyên tắc làm chết con người đấy.
Tôi không dám để cho Sơn nói nhiều hơn nữa, nhất là lý luận:
- Chịu thầy rồi, còn bây giờ đi đâu?
- Đi chơi, nơi nào đó để thư giãn đầu óc một chút, tau căng thẳng rồi.....
Tôi và Sơn tới vườn Tao Đàn, tôi cứ nghĩ rằng chúng tôi sẽ nằm ngủ dưới một gốc cây mát mẻ nào đó. Nhưng Sơn rủ tôi ra ngồi một đầu cái bập bênh, ngồi đầu bên kia, đồ chơi của con nít. Hai thằng dập dình cả tiếng đồng hồ, chán rồi lăn ra ngủ dưới gốc cây.
Chiều đến, Sơn đánh thức tôi:
- Dậy, đi ăn cơm chiều mày.....
- À, đúng rồi ta quyết không chịu chết đói giữa vực lúa gạo miền Nam. Trời đất bao la đâu cũng là nhà.
Tôi nói lên như hát, như vừa sáng tác một bài ca.
Chiều rồi đó, thành phố chưa lên đèn, nhưng cũng sắp lên đèn.
Tôi vào quán cắm một chiếc tăm lên miệng và đi xuống bếp. Tôi không quên bữa sớm mai.
Nhất quyết phải no bụng, nếu để bụng đói mà chết là là làm nhục miền Nam no ấm tự do.
Dưới sự lãnh đạo anh minh của chí sĩ NĐDiệm. người ta từng nói thế nhiều rồi. tôi bực bội. Toàn một lũ kinh doanh khẩu hiệu tuyên truyền. Chính nghĩa và tà thuyết là vàng thau lẫn lộn, ở cả miền Nam lẫn miền Bắc. Một số người có quyền lực sống bằng mấy thứ lặt vặt đó.
CHƯƠNG 12
Con người của NĐSơn bất thường qua những cơn điên dại, đôi khi hoảng loạn. Bất thường như trời mưa trời nắng, thời tiết của miền Nam. Có đêm đang ngủ say, Sơn vùng dậy, ngồi chồm lên ngực tôi, đánh đấm túi bụi, đánh tôi và chửi bới rủa xả ai đó, rủa xả đời, cả ông trời. Hắn nổi điên, tôi biết điều đó, nắm lấy tay hắn, xách cổ hắn ra vòi nước máy ngoài đường tưới cho ướt đầu rồi xách hắn trở vào:
- Mày lại điên rồi!
- Đúng tao điên, taui không đục mày thì chẳng biết đục ai, tau đục người khác thì họ đánh tau chết mẹ.....Mày biết tau yếu mà, tau đâu có đánh được ai. nhưng bây chừ thì hết rồi.
Lần nào cũng vậy NĐSơn vừa vuốt nước trên mặt vừa giải thích với tôi như thế. tôi cảnh giác hắn:
- Mày đánh tao có ăn thua gì, nhưng khi thấy cục đá thì đừng dùng nó đập vào đầu tao là được rồi.
- Tao sẽ cố gắng, tốt hơn hết quanh chỗ mình nằm không nên để vật gì cứng, sắc nhọn bên cạnh. Mày cứ việc xách cổ tau ví vào vòi nước máy. như mình chơi bập bênh con ngựa gỗ ở vườn Tao Đàn. Trẻ thơ chứ hỉ?

Tôi phì cười và cả hai đứa chúng tôi lại vui vẻ với nhau như không có chuyện gì xảy ra.
Buổi tối trời trở lạnh, chắc chắn Sơn sẽ không nổi cơn điên, hắn có vẻ rất bình thường. Chúng tôi ngồi chơi với nhau ở bờ sông, bên cạnh Cầu Mống. Bên kia sông là Khánh Hội. Cuối công viên là chợ Cầu Muối có quan Biên Thùy, một quán nhậu bình dân, có món cá lóc nướng trui rất nổi tiếng. Một lần toôi đã từng được những tay giang hồ ở chợ Cầu Muối rủ nhau qua đó nhậu.
Ngồi buồn chẳng có chuyện gì nói với nhau. NĐSơn lặng lẽ nghe, hắn chậm rãi nói với tôi:
- Mày cũng có sắp có một món tiền rồi đó, tha hồ mà đi nhậu.
- Tao mà có được? Mày có xem bói không?
- Tao không xem bói, mà có thật đấy, chẳng nhiều nhặn gì, trăm đồng bạc mà. Mày có gửi một truyện ngắn cho tờ Ngôn Luận phải không, đăng mỗi ngày một truyện.
- Đúng, đúng, tao gửi lâu rồi, nghĩ họ đã quẳng vào sọt rác. Mà sao mày biết?
- Tau quen với một thằng, tao chẳng nhớ nó tên gì, nó nói với tau như vậy.
- Tao chỉ gửi cầu may thôi, tao tưởng mục đó dành riêng cho Chàng Phi viết.
- Cũng có thể, thằng đó đau ốm hay bận hút thuốc phiện nên lấy bài của mày thế vào, văn thơ họ đăng chẳng phải chuyện gì trang trọng mà chỉ để thay thế hoặc lấp lỗ trống. Văn còn có tiền, thơ chán bỏ mẹ, đòi được tiền của chủ báo là chuyện xuẩn động. Vào cái nghiệp ấy là bị coi là làm văn nghệ, không có tiền. người ta lạm dụng cái văn sĩ thi sĩ là phải nghèo, dù anh tài năng đến mấy, chúng nó tha hồ bóc lột, như truyền thống một ông sư thì phải trọc đầu, nếu không trọc đầu thì không thể là ông sư, không là chú tiểu hoặc ni cô. Vậy thì làm nghề văn nghệ phải nghèo, phải được tận tình bóc lôt. khi nào có tiền thì phải tiêu hoang cho đến hết. Ngày mai ra sao rồi hẵng hay. Tất cả anh em chúng ta đều như thế, chẳng riêng gì thằng nào. Đó là cái nghiệp, nên tau nghĩ khác, dù vẫn viết văn làm thơ đó. Tau mang cái triết lý của tau vào văn thơ, ít có người hiểu được tau.
Gió sông mỗi lúc một lạnh. Tôi nói chỉ còn vài ngày nữa là Noel thôi. Mày đi chơi Noel với tao nhé.NĐSơn nói, chẳng biết được, tao không mấy quan tâm đến ngày Chúa sinh ra đời. Ngày nào mà mình không là rong chơi. Chán thì tau lên rừng, tau nhắm một nơi rồi.....
Ban đêm hai thằng ôm nhau ngủ, truyền hơi ấm cho nhau. Tôi chỉ nghĩ đến một nơi nào đó có đệm ấm chăn êm để mà ao ước, tiếc nuối rồi ngủ thiếp đi. Chuyện ấy chỉ xảy ra trong giấc mơ. Tô chẳng hề có một mái nhà.....
Tôi nhận được tiền nhuânbụt truyện ngắn vào ngày Noel năm đó. Một truyện ngắn tôi cho là tầm thường vào giỏ rác, một câu chuyện tình rẻ tiền, chạy theo thị hiếu vậy mà lại được đăng báo, có nhuận bút. Khi viết truyện ngắn ấy tôi chỉ mong 9dược đăng báo để có tiền. Nhưng khi gửi đi rồi tôi lại ân hận, hơi chút xấu hổ. nhưng rồi tôi quên đi.
Vậy mà bây giờ nó nằm chình ình trên mặt báo dù nằm ở chỗ khiêm nhường nhất, nhưng tôi vẫn thấy làm sao ấy. một câu chuyện tình hoàn toàn tưởng tuợng, không một chút thực tế. Một con điếm vô học mà nói lên được với một chàng tay chơi dạc dài những lời ong bướm thối không chịu được, mà là tâm hồn thât của nàng. Nhất định không phải như thế rồi, tôi gò ép nhân vật đến tội nghiệp. Tôi là người viết có cái mặt trâng tráo, lãnh đồng tiền đó lại càng trâng tráo hơn nữa. Cũng may người quản lý nhà báo phát tiền nhuận bút của tôi chỉ để ý đến chữ ký nhận tiền, anh ta chỉ làm công việc hành chánh, chẳng mảy may quan tâm đến những bài viết. Thành ra tôi biết thêm một điều mình chẳng là cái thá gì hết. Điều đó khiến tôi đỡ ngượng...
Mới buổi chiều Lễ Giáng Sinh mà đường phố đã đông đảo. Tôi phải tìm NĐSơn, chúng tôi phải ăn một bữa " no căng phao câu ". Tìm Sơn tôi phải tìm ở quán cơm Anh Vũ. Tôi ngồi chờ Sơn mãi mà không thấy. Tôi đành ăn một mình. Phiếu bán cơm có hai hạng: ba đồng và năm đồng. Tôi lấy phiếu 5 đồng. Ăn xong còn uống một ly nước mía ngay ngoài cửa hàng năm cắc mà vẫn không thấy Sơn. Trời vẫn còn sớm quá, bây giờ về chỗ ngủ chắc gì đã gặp Sơn. Theo đi theo giòng người dạt trôi tới rạp Đại Đồng ở đường Cao Thắng. Rạp đang chiếu phim Les Misérables, phỏng theo tiểu thuyết của Victor Hugo. Tôi lấy vé chui vào rạp ngồi xem một mình. Cuốn phim làm gần đúng với nguyên tắc ccủa nhà văn. Cuộc cách mạng pháp. Nhân dân Pháp nổi dậy chống bạo quyền. Anh tù khổ sai vượt ngục để trở thành một kẻ thàng công, vứt bỏ mọi xấu xa của mình để biến thành một người khác tốt lành đấy lòng nhân hậu, một con người tốt, nhưng nghiệp chướng vẫn mãi đeo đuổi anh...
Tôi ra khỏi rạp, lan man nghĩ hoài về chuyện phim viết. Đạo diễn tài ba khi làm một cuốn phim dựa trên một tác phẩm lớn. VN mình biết bao giờ mới có được một tác phẩm lớn như vậy. Khi đất nước ta nhiều chất liệu vô cùng? Điều suy nghĩ lan man của tôi bám trong đầu như rong rêu. Đoàn người đi lễ và đi chơi đêm Giáng Sinh đông đảo, đẩy mãi tôi đi. Tôi thấy một nhà thờ, đèn ngôi sao và hang đá Bê Lem lộng lẫy ngay ngoài lề đường. Tôi đứng lại giữa đám người đông đảo đó, nhìn lên gác chuông nhà thờ. Tôi nhận ra nơi mình đang đứng, nhà thờ Bắc hà trên đường Lý thái Tổ nhìn sang chợ cá Trần Quốc Toản. Tôi là người ngoại đạo, nhưng cũng thấy xúc đông về ngày chúa giáng sinh. Những bài thánh ca vang khắp phố phường, ngay trong đầu tôi. Tôi thấy mình cô đơn và muốn quỳ xuống như những con chiên kia ngước nhìn lên tượng Chúa chịu nạn trên thập tự gía. Trong nhà thờ rực sáng ánh đèn. người đông, nhưng cũng chưa phải là giờ Chúa Giáng Sinh, nên chuông nhà thờ chưa reo vang. Cà phê Nhân ở gần đó, tại sao tôi không vào uống một ly cà phê đen đậm đà. Không biết cà phê Nhân này có phải là cà phê Nhân ở phố Cầu Bồ Hà Nội không, chủ nhân là người Bắc di cư, cà phê cũng ngon, tôi không biết rõ vì khi ở Hà Nội tôi còn là môt chú nhóc tì, chưa có dịp thưởng thức cà phê ngon Hà Nội. Tôi tìm môt lối vào quán cà phê Nhân trong đám người đông đảo đứng tràn ra ngoài đường. Một tiếng kêu:
Móc tui, móc tui, nó đó, thằng đang đi kìa, coi chừng nó chạy, túm lấy nó.
Tôi choáng váng vì bị một cú đấm vào mặt, chưa hết hoang mang, bị lliền những cú đạp tới tấp. Rồi một cái khoá tay rất nhà nghề vặn chéo tay tôi. Một tiếng quát vào mặt tôi:
- Bỏ cái bóp của người ta ra.
Tôi la lên trong hoảng hốt:
- Cái gì vậy, tôi biết gì đâu, các người lầm rồi.
- Tao không lầm, rõ ràng mày móc túi người ta. A, mày chuyền đồ ăn cắp cho đồng bọn rồi phải không?
Thêm một cái tát vào mặt tôi cướp tinh thần, người tôi bị lục sóat, không có gì cả.
Vẫn tiếng quát ấy:
- Về bót, người nào mất bóp đi theo tôi, công an chìm đây, nó phải khai....chúng tôi sẽ túm cổ cả bọn. Chỗ chợ cá này kẻ cắp như rươi.
Bỗng dưng, chỉ trong chớp mắt tôi bị khép một cái tội vô cùng bẩn thỉu. Thằng móc túi bị bắt tại trận. Khi ấy chuông nhà thờ đổ hồi, giờ Chúa giáng sinh. Tại sao thế này, tô không biết nữa?
Tôi bị ấn ngồi xuống chiếc ghế, trước một ông cảnh sát phì nộn:
- Khai đi, đồng bọn của tụi bay?
- Tôi không biết gì, cũng chẳng móc túi ai hết.
- Vậy mày len lõi vào đó làm gì, trong đám đông, mày không đi lễ như mày đã khai mày là kẻ ngoại đạo. Lợi dụng đám đông, mày len qua người ta, người ta mất liền cái bóp. Không tìm thấy tang vật trong người mày vậy thì mày đã chuyển tay cho thằng nào, biết điều thì khai ra đi, mày sẽ nhẹ tội.
Tôi không biết gì để nhận tội một cách bừa bãi, dầu bị ăn bạt tai, túm tóc dập đầu xuống bàn, tôi không chịu ký biên bản khẩu cung. Đầu tôi vừa nhức vừa buốt. Chịu đựng thôi, tôi không nào nhận bừa một tội bẩn thỉu đến thế, dầu thân phận tôi bây giờ không đáng một xu.
Người cảnh sát lấy khẩu cung thở hồng hộc, anh cầm ly cà phê đá lên uống một hơi, anh nhìn tôi bằng đôi mắt nẩy lửa:
- Nhất định lì hả mày? mày vã lắm cần hút một điếu thuốc không?
- Không, không, sao tôi lại nhục thế này.
Một người cảnh sát khác mang một mớ giấy tờ ra, trong đó có cái thẻ quân nhân của tôi, còn sót lại trong bóp. Anh cảnh sát mập nghe anh cảnh sát kia trình bày một hồi, anh ta nhìn tôi cười hà hà:

- Tao đoán không sai mà, mày là thằng lưu manh chuyên nghiệp. đi lính thì đào ngũ ngày 13/11, đúng vào ngày bọn Nhảy dù bị thua Ngô Tổng Thống. Mày lang thang nên đói rách sinh ra ăn trộm móc túi. Tao phải đưa mày về an ninh quân đội điều tra, thôi hồ sơ móc túi của mày chấm dứt tại đây, tao chuyển về bên an ninh, nó đánh vãi cứt mày ra, không có tôicụng thành có tội, xme mày lì đến độ nào....
Năm giờ sáng ngày hôm sau tôi bị đưa về tiểu đội hiến binh Chợ Lớn, phía cuối đường nguyễn Trãi. Người thượng sĩ hiến binh không hỏi gì tôi nhiều ngoài tội đào ngũ. Còn hồ sơ móc tí bên cảnh sát coi như đã làm rồi, ông ta không có nhiệm vụ gì về những vụ án dân sự.
- Vào trong phòng tạm giam kia, đủ số người chúng mày sẽ lên khám Chí Hòa. Bọn lính đào ngũ chúng mày hồi này đông quá.....
Từng đợt lính phạm kỷ luật bị giải đi, chúng được coi là quân phạm. Quâm phạm sẽ có phòng giam riêng ở Chí Hoà. Hôm đi là ngày giáp tết.
Đường thành phố vắng vẻ, đì đẹt tiếng pháo và tôi thấy nhiều nhà bầy bàn thờ ra lề đường.
Chiếc xe chở tù chao lắc.....
CHƯƠNG 13
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một khám đường, phía bên trong nơi đó là khám Chí Hoà nổi tiếng. Khu khám đường ba tầng, kể cả tầng trệt. Khám đường xây theo hình bát quái, tám khu riêng biệt. người ta nói khám này do người Nhật xây sau khám lớn SG do Tây, theo yểm triệt kiểu bùa chú Đông Phương, vào khám là cửa sinh, ra là cửa tử. Ngay giữa khám là một bồn nước lớn, hình dáng của cái chuôi kiếm cắm ngược. Hình dạng khám đường chính là một lá bùa huyền bí ghim bằng một mũi kiếm ngạp đến chuôi.
Tám khu khám đường ồn ào, vo ve như một tổ ong vĩ đại, tiếng mở cửa sắt âm vang ghê rợn cướp hồn những phạm nhân yếu bóng vía. Những đoàn xe tù vào khám chạy quanh đến ba vòng tường cao rồi mới vào phòng can nhơn, từ phòng can nhơn nhận hồ sơ, điểm danh từng tên tù, giam ở phòng tạm giam tầng trệt trước khi phi phân phối di các phòng giam theo tội trạng. Tôi bỗng nhiên bị lãnh đến hai số thẻ bài, một thẻ bài thường phạm và một thẻ bài quân phạm. Cũng có người lãnh đến ba thẻ bài đeo trước ngực áo như đeo huy chương. Tôi hai thẻ bài cũng được sự kêng nể trong đám tù nhân.
Ngoài những giám thị trại giam. các tù công vụ mặc quần áo trắng, tù lao dịch quần áo xanh làm việc tất bật ngoài song cửa. Có những tù nhân hầu như đã quá quen thuộc với nơi chốn tù tội này hỏi thăm nhau, gọi tên nhau:
- Đức ơi, mày được đi làm theo dịch rồi hả, cho tao tán đường coi?
Những tán đường đen to bằng nửa bàn tay từ ngoài song sắt ném vào rơi lộp bộp trong phòng tạm giam. Một thằng ngồi cạnh tôi nhặt một tán, bẻ chia tôi một nửa:
- Ăn đi buồn quái gì, mà mày tới hai số thẻ bài lận, mày băng nhóm nào?
Tôi cầm nửa tán đướng nhấm nháp:
- Tao không hiểu, quân phạm thì đúng đấy, tao lính phạm kỷ luật.
- Còn tội thường phạm của mày, đừng nói tội, tao chỉ hỏi mày bị bắt ở đâu?
- A, phải rồi, nếu mày không giựt dọc ở bến xe Nguyễn Hoàng thì cũng dân môi ở chợ cá Trần Quốc Toản. Tao quen hết những tay đầu nậu ở hai nơi đó...mà mày mang thẻ bài quân phạm nữa, chắc chắn là cướp rồi, chứ mày " già " thế này đâu còn đi môi. Tao biết mấy thằng môi, toàn nhóc tì không hà, chúng thuộc loại tù nhi đồng. Tao tù nhi đồng bây giờ mới lên thường phạm đấy chứ.
- Bộ mày vào nơi này thường sao?
- Hoài, có năm vô đến ba lần lận.
- Tội gì?
- Đừng hỏi, tao có hỏi tội mày đâu, nhưng ở đây kiêng. Mày mà hỏi, bà chúa tám cửa ngục bả ghét bả ban cho mày cái án lưu thì thấy con đĩ mụ nội. Mày tù " con so " phải không?
- Tù con so là sao?
- Đồ ngu, tù con so là lần đầu tiên vào tù, vậy mà mày dám mang đến hai thẻ bài, hai thẻ bài là hai tội, sẽ phải ra toà hai lần, mang hai bản án chồng lên nhau. Mày mà phải ra toà áo đỏ thì ở tù mọt gông ra đảo hoặc làm tù tử hình.
- Tao không ăn cắp cũng không ăn trộm, móc túi ai hết.
- Vạy thì mày ra tòa áo đỏ rồi, mày phải phòng dự thẩm chứ không biện lý như tao. Đại hình, đại hình đó mày ơi. lại còn ra toà án quân sự nữa. Mèng đéc ơi, mới là tù con so mà mày đã "dện" đến hai thẻ bài tổ bố thế này thì có bỏ mẹ không, mày bắn hay liệng lựu đạn?
Tôi phắt bực mình:
- Đừng hỏi nữa.
- Ừ thì không hỏi, tao mà thanh toán ai thì có chém có lụi nhát dao con chó chứ bọn lính tụi bay là chơi súng, lưu đạn...Tao có quen mấy thằng. thôi chào đaị ca.
Thằng tù mới quen bèn phong tôi làm đại ca. Theo suy luận của nó chắc tôi phải là một tay giang hồ ghê gớm lắm, liều tận mạng
Hôm đó ngày 29 tết. Tôi bị phân phối sang phòng giam C2, nhốt thường phạm.
Buổi thăm nuôi cuối năm của những người tù chắc chắn là hậu hĩnh do những người thân. Tôi ngồi buồn xo, tôi có một người bạn thân nào đâu, có thể không kịp thông báo, cũng có thể họ khinh miệt tôi là hạng cặn bã của xã hội. Có chết đi cũng chẳng ai thương tiếc, nói chi đến món quà thăm nuôi.
Ở giữa phòng giam để một cái giỏ cần xé không để hai chữ HẢO TÂM. Mỗi người được thăm nuôi từ phòng can nhơn lên đều bỏ vào đó một món đồ, cái bánh chưng, cái bánh tét, kẹo bánh hoặc hoa quả. Chuyện đó hoàn toàn mới mẻ với tôi vì tôi mới thấy lần đầu. Giỏ cần xé gần như đầy đủ cả hương vị xuân đón tết năm mới, buổi tối sau giờ vào phòng giam những tên tù mồ côi (như tôi chẳng hạn) không có người thân thăm nuôi được gọi ra chia phần, hảo tâm của anh em.
Tôi chán đời không nhận gì cả, chuyện đó cũng xong thôi. Anh em để trong giỏ ăn chung, những thằng tù mồ côi cũng ấm lòng những ngày tết. Ít ra cũng không bị bỏ rơi, như ngoài xã hội bỏ rơi: Sống chết mặc bay.
Một anh tù già, tôi coi bộ anh ta cũng là người trí thức, nói với tôi một câu:
- Nhiều năm rồi tôi đi tìm tình người, vào đến đây tôi mới thấy tình người ở những thành phần cặn bã nhất trong xã hôi sống.
Đúng thế, ở đây tôi mới thấy con ngưòi chia sẻ cho nhau từ nỗi bất hạnh đến miếng ăn uống của cuộc đời thường. Biết xót xa cho hoàn cảnh của nhau, những con người.
Một chốn bình sản và sòng phẳng. Sự bạo tàn để trừng phạt, để đền ơn đáp nghĩa hay thù oán cũng có vậy, nhưng nó không phức tạp như đời sống ngoài kia. những điều đó không ai dạy mà tự nó có, anh là con người anh phải có, đơn giản thế thôi.
Tôi không được giam vào phòng quân phạm, mà tôi gặp họ hoài. Đủ thứ tội phạm của quân phạm. Tôi gặp thiếu dù Phan Trọng Trinh, tội phạm của cuộc chính biến 11/11. Ông nhỏ con, đeo kính trắng như một thư sinh. nhưng tính nết của ông thật can trường như một quan nhân chuyên nghiệp. ông sang khu thường phạm để cắt tóc. Tôi nghe ông chửi thẳng cánh một ông trung tá tên Dung can tội ăn cắp, tham nhũng:
- Xin lỗi, tao không đồng đội với mày vì tao không là thằng ăn cắp như mày. Đừng đền gần tao....
Khi đó tôi thầm nghĩ sao tôi không được dưới quyền của những sĩ quan có tư cách như thế......
Tôi gặp cả đại tá Hiếu, trưởng ban quân lương của đơn vị tôi, một người tận tình bóc lột lương lính đến tận xương tuỷ. Trung sĩ Phan Thành Thiệt. người gây án ở quán kem Kim Điệp vì bênh cấp trên. Rất nhiều bộ mặt, tốt co, xấu có, vô liêm sĩ cũng có.....
Tầm mắt tôi mở rộng, không hạn hẹp và không theo một chiều được chỉ định. tôi nằm chung với ba thằng tù đại hình, đều can tôi giết người. Thằng hùng mặt mụn can tội đâm chết tay cao bồi nổi tiếng hồi đó Lâm thợ điện. Thằng Năm Lửa, tính nóng như Trương Phi, động gì cũng dám động thủ giết người, xếp xòng xóm chơi bời, thằng Ẩn trọc, thằng có tính điên nên rất dễ gây án.
Tôi ốm dề dề, bạn trong khám nói rằng tôi bị hồn oan của những kẻ gây án ám tôi.
sau này trong bọn chúng tôi thêm môt thằng nữa mang tội đại hình, thằng Đỗ Quý Kiệt, bất nhân đại ác giết cả nhà người chủ nhân của hắn. Sau này hắn bị tuyên án tử hình. Bị xử bắn tại chợ Bến Thành, khi tôi đã là phóng viên nhà báo, buổi sáng đô thành trời chưa sáng rõ mặt người, tôi gặp hắn khi hắn thọ hình. Hắn nói với tôi, khi ở phòng giam cứu.
- Mày viết làm sao cho tao được một tờ biện minh trạng để ra tòa áo đỏ giảm án cho tao, bị đày ra đảo một vài chục năm cũng được, thời gian ấy tao lại lại cuộc đời cho hữu ích. Mày thấy không, tao đã học, tao thuộc được cả mấy cuốn English for today. Có muộn lắm không hả mày?
Tôi biết làm sao trả lời cho được. tội ác hắn trót gây ra nặng quá, vả lại tôi đâu có là toà áo đỏ. Số là thời gian đó ở trong khám tôi cũng làm một vài chuyện giúp anh em bạn tù. Tôi viết dùm những tờ biện minh trạng cho một số người, hoặc oan ức, hoặc biết tội mà xin khoan hồng. Chính điều này cũng giúp cho tôi, tôi thoát được tội nhục nhã mà người ta khép cho tôi. Tôi trần xì là anh lính đào ngũ, lãnh 12 tháng tù. Buổi tuyên án đến mấy chục quân phạm, tội đào ngũ. Đồng loạt 12 tháng tù. Tấm lịch trên tường thay đổi từng ngày, tôi thành án rồi vẫn ở phòng thường phạm, vì còn ít ngày quá, tôi đếm từng ngày.
Rằm tháng 7, cúng cô hồn các đảng. nhưng khám Chí Hoà cúng bà Chúa Tám cửa ngục. Vì những người ở khám tin rằng tám cửa ngục ở cái lò bát quái này có một bà chúa cai quản tất cả các cô hồn uổng tử, những đêm mưa dầm ảm đạm trong không khí bí ẩn. Đèn nhang thắp đầy trên những thềm các cửa phòng giam của cả 8 khu. Sau đó bà chúa phù hộ, có người được giảm tội, có người được tha tội chết. Tin hay không tin nhưng đó là tín ngưỡng của những người cùng khổ.
Tôi may mắn, bỗng dưng được nể vì, được nhiều anh em bạn tù nhờ vả làm " biện minh trạng ", kể cả các anh em bạn tù ở phòng giam khác. Vì tôi viết biện minh trạng " mát tay ". Chuyện đó có trời mà hiểu được.
Cùng năm đó trong khám chí Hoà, mà nhà nước họi là Trung Tâm Cải Huấn Chí Hoà mở khoa thi trung học đệ I cấp. Tôi thi một cú đậu liền. Đến năm tới, khám chí Hoà mở thi tú tài, nhưng tôi không còn ở đó nữa. người giám thị nói với tôi:
- Bằng câp ở Chí Hoà hay ở ngoài cũng giá trị ngang nhau thôi. Của bộ quốc gia giáo dục cấp hết.
Tôi được điều xuống khu làm việc giấy tờ và được coi là tù công vụ tha hồ lục lọi sách vở ở thư viện khám đường, đêm về đọc vùi. Tôi xin ở lại phòng giam cứu, vì thời gian còn quá ngắn. 28 tết tôi mới mãn án. Coi như đúng một năm tù. Buổi tối hôm ấy tôi liên hoan với mấy người bạn tù thân thiết. Hùng mặn mụn có giọng hát hay, hắn hát tặng tôi bài Thiên Thai của Văn cao.
Năm Lửa hỏi tôi câu thực tế hơn:
- Ra khỏi tù mày về đâu? Tao biết mày không nhà cửa cũng không người thân.
- Ngưòi thân thì có đó, nhưng ngưòi ta có chưa tao hay không thì không biết.
Năm Lửa khẳng định:
- Được, nếu mày kẹt, tao giúp mày....cơm no bò cưỡi được chứ?
Năm Lửa loay hoay viết một bức thư rồi dán kín trao cho tôi:
- Không còn nơi nào để về thì mày về địa chỉ đề ở trong thu. Tao bảo đảm mày sẽ sống cả mùa xuân này, nếu muốn cứ việc sống.
Tôi không để ý đến điều đó, tôi cũng không nghĩ rằng đó là nghĩa giang hồ Đơn Hùng Tín kiểu Nam kỳ
Đỗ Quý Điệt nắm chặt tay tôi:
- Mình có thể gặp lại nhau, khi mày là nhà báo hay nhà văn gì đó. Có thể ở ngoài đảo.....
Nhưng thực tế sau này tôi không gặp ĐQĐiệt ở ngoài đảo mà gặp ở sân...bắn bao cát ngày Điệt thọ hình. Hắn mặc cái áo len cụt tay của tôi để lại cho hắn hôm tôi dời khám đường. Đôi mắt đẹp của tên tử tội đẹp trai bị bịt lại bằng miếng băng đen.
Tôi không viết nổi một biện minh trạng cho ĐQĐiệt khi còn sống, vì tôihắn quá nặng mà chỉ viết được một truyện ngắn nhan đề " Chỗ gối đầu ". Tôi lấy ra từ câu kinh thánh " Chồn cáo có hang, chim chóc có tổ mà loài người thì không có chỗ gối đầu "
Buổi sáng tinh mơ ngày 29 tết, tôi được gọi trả tự do. Tôi phải xuống phòng can nhơn làm thủ tục. Tôi lãnh lại những đồ bị giữ khi bị bắt. Còn mấy đồng bạc lẻ, tấm vé xem hát bóng ở rạp Đại Đồng đường cao Thắng. Tự nhiên tôi thấy buồn. Sáng 29 tết, như năm ngoái, người ta đi thăm nuôi nhộn nhịp. Mới hôm nào đây mà đã một năm qua rồi. Tôi mới là thằng tù " con so ". nay là thằng tù được tha. Hôm qua còn lãnh bữa cơm tù, hôm nay không gì cả. người giám thị phòng can nhơn nói với tôi:
- Chúng tôi không thể giữ anh lại một ngày, rán chờ đi, đơn vị anh sẽ cho người đến đón. Phần ăn của anh đã bị cắt.
Buổi trưa người bạn tù công vụ mang cho tôi một tô cơm thịt kho:
- Ăn đi, của anh em trên phòng giam xớt cho anh đó, trên ấy họ biết anh chưa về.....
Ôi tình nghĩa...Tôi chẳng biết nói gì đây với những người bạn bị coi là cặn bã của xã hội. Tôi cũng là cặn bã vậy của những ngày qua và những ngày sắp tới....Một tương lai mù mịt đang đợi chờ tôi. Mãi 4 giờ chiều, anh thượng sĩ không quân, ban an ninh mới đến nhận tôi. Anh lái một chiếc xe Dodge 4X4 quá rộng đối với tôi:
- Mẹ, ra ngày nào không ra, đúng vào ngày 29 tết, mày có biết năm nay tết chỉ có 29 ngày không?
- Tôi không biết gì hết!
Ký kết bàn giao người xong, tôi leo lên xe ngồi. Ngưòi thượng sĩ qua khỏi cửa khám đường đề nghị tôi:
- Này, thế này nhé, hay là mày xuống đây rồi về nhà ăn tết, đến mồng 4 tết mày vào trại lấy giấy tha. Hoặc là mày xin ở lại không quân hoặc mày xin giải ngũ luôn cũng được.
- Tô không đi lính nữa đâu.
- Chuyện đó tuỳ mày.
- Ông không sợ tôi trốn nữa sao?
- Trốn đi đâu được, mày điên à, mày có trốn đàng trời.
Tôi đi lêu bêu trên con đường Hoà Hưng nghĩ ngợi vẩn vơ, mình về đâu nhỉ, ôi trời đất bao la! Tôi biết mình không có một mái nhà, người thân họ hàng đầy dẫy nhưng cũng như không. À, nhớ ra rồi, may rathì được, tôi phải nhà một bà mợ, mà thằng em ruột tôi đang trọ học. Từ Khám Chí Hoà đến cư xá Công Lý có quán phở bà Dậu không xa. nhưng nếu gặp một dịp may khác cũng tốt thôi. những dịp may tôi cũng có gặp chứ không phải không bao giờ gặp.
Ngày cuối năm, đường xá vắng vẻ dần, những hàng quán đã dẹp để ăn tết. Xe cộ chạy vội vã về nhà. Đi ra đường Lê Văn Duyệt, tôi gặp Hoàng Bình Sơn, vì HBSơn có ông anh ruột cũng ở tù trong khám Chí Hoà, nhưng ông ta ở bên tù chính trị, tôi không gặp ông lần nào mà chỉ nghe nói đến thôi.
Những quán cơm bình dân đóng cửa. Tôi cũng không quẹo vào ngõ hẻm mà HBSơn trước đây đã thuê nhà cư ngụ tạm thời. Chắc anh ta về nhà bà chị dâu ăn tết với mấy đứa cháu. Bà chị dâu nghèo, gánh hai thúng trái cây khi là những trái cam, khi trái soài nuôi môt ông chồng ở tù lâu năm, những đứa con còn nhỏ dại. Thằng Thấu mới tuổi lên 10 thường hay lẵng nhẵng the ông chú, sống giang hồ ở những nơi chú ngồi dây học. người đầu tiên tôi gặp khi ra khám là Viên Linh, anh cưỡi chiếc Vélo Solex chạy vội vã từ hướng SG về, nhà mẹ anh ở Tô Hiến Thành, có lẽ cuối năm anh về nhà ăn tết. Viên Linh không dừng xe chỉ hếch đầu ra hiệu cho tôi rồi chạy thẳng, tết nhất đến nơi ai cũng bận rộn và vội vã. Tôi băng qua con hẻm sang đường Nguyễn Thông, qua một khúc đường Yên Đỗ sang cư xá Công Lý đến nhà bà mợ, thằng em ruột tôi ở đó. bà mợ tôi từ chối không chứa tôi, dù chỉ qua mấy ngày tết - Một sự quay lưng lại - Thằng em ruột tôi tiễn tôi ra cửa, nó đưa tôi mấy đồng bạc mà nó có:
- Anh giữ lấy ăn tết
- Không đâu, tết nhất ai mua bán gì đâu? mà anh cũng không cần tiêu, thôi giữ lấy.....
Tôi quay lưng đi và tự hiểu lấy thân phận mình. Có thể tối nay tôi nằm dưới mái hiên nào đó, nghe tiếng pháo nổ đón xuân rộn ràng. Cùng mấy người bạn giang hồ không quen biết, đầu đường xó chợ. Thân phận tôi như thế sao, tôi nhớ không hkí tết trong khám Chí Hoà. Mùa xuân ở ngoài kia phía ngoài song sắt. linh hồn bà chúa tám cửa ngục đi lang thang trên hành lang dài, sâu hun hút, âm vang tiếng xích sắt. Tất cả những hình ảnh đó dậy lên trong đầu tôi, tan như làn khói thuốc lào.
Tôi xách cái giỏ thăm nuôi đựng ít bộ quần áo đi lẵng nhẵng buổi chiều cuối năm, thưa thớt dần người qua lại. Tôi chợt nhớ đến thư của Năm Lửa nhờ tôi đưa về địa chỉ nhà hắn ở bến xe Nguyễn Hoàng.
Tôi đi bộ một quãng đường dài ra Ngã bẩy tới bến xe nguyễn Hoàng. những chiếc xe đò nằm im lìm quay mũi ra đường, những mâm cúng trước mũi xe khói nhang nghi ngút. Tất cả các tài xế, xe lơ đã nghỉ ngơi, ngồi nhạu nhẹt ngay trên lề đường hoặc chúi mũi vào sòng bầu cua sát phạt nhau tận tình. những cô gái điếm son phấn loè loẹt cũng đã nghỉ ngơi ngồi đánh bài cào với nhau.
May quá còn một quán cà phê mở cửa, mà cũng đang thu dọn bàn ghế. Có lẽ tôi là người khách cuối cùng bước chân vào quán. Anh chủ quán nhìn bộ dạng tôi từ đầu tới chân, quan sát tôi hút thuốc lào. Tô gọi một ly cà phê đen nhỏ.
- Này anh, tôi kêu cà phê đen nhỏ mà, anh bán lộn cho tôi rồi.
Anh nhoẻn cười với tôi:
- Không, tôi không tính lộn đâu, đây là tôi mời không tính tiền.
- Sao lạ vậy?
Nhìn anh tôi biết anh mới ở trong khám Chí Hoà ra có phải vậy không?
- Đúng vậy, sao anh biết?
Da anh trắng nõn, nếu không nói là xanh lượt. Cái điếu thuốc lào của anh, cái lò nấu đèn cầy và cái giỏ thăm nuôi. Anh không về nhà mà tới đây thì nhất định là dân giang hồ, bụi đời rồi. Quán tôi có nhiệm vụ đón khách như quán của Chu Quí dưới chân núi Lương Sơn Bạc ở truyẹn Thuỷ Hử. Miễn phí, tất cả đều miễn phí nhất là buổi chiều cuối năm quán đón một khách giang hồ phiêu bạt...Cửa giang hồ rộng mở cho tất cả mọi người thất cơ lỡ vân.
Tôi cảm động quá, tôi không thể nói nên lời, nhưng cũng phải cám ơn.
- Có phiền gì anh không?
- Không phiền gì hết, anh ghé đây tất nhiên anh có quen anh em nào đó đang ở tù Chí Hoà mà đã ở đây.
- Năm Lửa, tôi có cầm một bức thư về để đưa cho vợ anh ta.
- Đại ca Năm Lửa?
Anh chủ quán kêu lên thảng thốt:
- Đâu, thư anh ấy đâu đưa tôi mang tới cho chị ấy, chị ấy cũng là xếp xòng xóm chơi bời trong hẻm này. Anh ngồi uống cà phê đi hoặc uống thêm gì nữa cũng được, có thể thêm chai 33 đĩa dồ mồi trong khi chờ đợi.
- Không tôi không ăn uống gì nữa đâu.
Chờ đợi không lâu, chỉ một loáng vợ Năm Lửa xuất hiện. Chị ta còn trẻ, khoảng trên hai mươi, một thiếu nữ khá coi là có nhan sắc, nhưng nhìn cũng thấy là một gái làng chơi chuyên nghiệp. Những lân la đi theo chị ta là những tay đầu trâu mặt ngựa, những tay sống có lẽ không phải đâm thuê chém mướn thì cũng lưu manh côn đồ.
Vợ Năm lửa nhìn tôi với cái nhìn " bắt giò bắt cẳng ". những đàn em của chị ta cũng vậy, cả anh chủ quán cà phê. Sau này tôi biết có tên là Năm căn, quê anh ta ở tít xứ Năm Căn ở Cà Mâu. Vợ Năm Lửa lên tiếng:
- Tôi là Tuyết, vợ của đại ca Năm Lửa, không may anh Năm vướng vào vòng lao lý. Anh khỏi giới thiệu, anh là bạn thân với chồng tôi, tô biết anh là ai rồi. Chồng tôi có viết trong thư. Anh về đây với chúng tôi vào ngày 92 tết là tốt rồi. Đời ruồng bỏ với ai kia chớ với chúng ta thì không đâu, chúng ta sống có nghĩa giang hồ. Anh hùng chỉ có sa cơ chứ không mạt vận, chúng ta có anh em, rồi đây gây dựng lại cho anh mấy hồi. Anh Năm Lửa đã viết thư cho tôi nói vậy....nơi này như của anh rồi....
Chị ta giới thiệu từng người, tất cả đều là những tay chơi có máu mặt trong giới giang hồ. Những kẻ có thành tích, không từng tù tội thì cũng đi ra từ trại Tế Bần.
- Sáu nhỏ, mày sang quán Bảy Lươn Um biểu khoan nghỉ tết làm tao ít đồ mồi, kéo mấy két bia 33 về đây, cả rượu đế nữa nghe. Nhớ làm tô canh chua có đầu cá lóc cho đại ca nhé.
Tôi chưa được giới thiệu một đại ca nào trong đây hết. Nhưng khi ăn nhậu thì tôi biết chính tôi đã trở thành đại ca, đại ca "ăn theo " đại ca Năm Lửa. Tôi cải chính, không ai tin, có lẽ cái mặt của tôi có nét cô hồn chăng? Thây kệ, tôi tự nhủ như vậy. Hiện giờ tôi là kẻ vô gia cư không có lấy một người thân, tôi nói với những người ở đây như vậy. Bữa rượu xôm trò, tô say tít mù, và không biết mình đã phát ngôn những gì. Có lẽ lại phéc lác gì đây về chuyện giang hồ, những chuyẹn tôi từng được nghe lại trong phòng giam thường phạm. Tôi nói về bà chúa 8 của ngục. Tôi như bị ma nhập...Tôi được chiêu đãi nhồi ăn nhồi uống đến ói mửa tùm lum.
Tôi loáng thoáng nghe tiếng ai đó nói:
- Tội cho đại ca, có lẽ lâu lắm rồi không được ăn nhậu. Đợt ở tù trước đại ca Năm Lửa cũng một lần như vậy, chớ các tay này mà uống rượu bình thường thì tỉnh như ruồi, cao thủ như Bảy Lươn Um cũng thua.
Tôi không còn biết gì, thật tình tôi không biết thật. Tôi tỉnh dậy vào buổi sáng, trời còn tối nhưng tôi biết đã sáng rồi. Tôi không phải nằm gục trên bàn nhậu và nằm ngủ đàng hoàng, hình như ở một căn phòng gác cây.

Căn phòng vắng vẻ, hình như chỉ có mình tôi, tôi toan tìm cái công tắc bật đèn, nhưng nhìn ra cửa đã thấy trời sáng. Tôi mở rộng cửa, trước mặt tôi là cái bao lơn gỗ nhìn xuống đường, những hàng xe đò đậu san sát. những xác pháo hồng rải rác trên lối đi, như xác những cánh hoa đào. tôi đã ngủ qua một đêm, đêm giao thừa trong một tết nguyên đán cổ truyền. Tôi thêm một tuổi, 25 tuổi, tròn hai con giáp. Hình như tôi chẳng có ưu tư gì cho tương lai của mình. Trong một khoảng khắc tôi đã quên tất cả, vô tư như một sinh vật.
Dưới đường loáng thóng người qua lại, những đứa trẻ mặc quần áo mới, cũng có chút son phấn loè loẹt cho những đứa con gái còn quá bé, tôi hiểu điều đó là hợm hĩnh trong một xóm phường của người bình dân.
Tôi hiện sống ở nơi ấy, không phải ở một nơi đầu đường xó chợ. Đáng lẽ tôi sống đón giao thừa ở một nơi như thế, khi quanh tôi không còn có gì. Vòng tay nào đón nhạn tôi trong hoàn cảnh cay nghiệt vậy?
Anh Năm Căn lên căn gác ọp ẹp, một cái bắt tay chặt chẽ:
- Chúc mừng năm mới, em xin chúc mừng anh môt năm mới tốt lành, đại ca Năm Lửa đã có lời gởi gấm, chúng em phải có bổn phận.
Tôi xửng sốt:
- Anh Năm nói gì lạ vậy, tôi nhờ vả các anh các chị ở đây một đêm đã là quá lắm rồi.
- Chính anh mới nói lạ, anh không phải đi đâu hết, anh ở đây, có thể anh giúp cho nhiều người đấy. Anh Năm Lửa nói anh là người giang hồ trí thức. Anh biết rành luật pháp, anh từng giúp cho nhiều anh em làm biện trạng. " Dzăng " anh hay lắm, từng làm cảm động những ông toà, những dự thẩm, biện lý....chúng tôi cần anh, anh cũng thừa biết nơi này là nơi tội lỗi mà, bao nhiêu là kẻ phạm pháp cần được cứu giúp.
Tôi sững sờ, anh Năm Căn ấn vào tay tôi một bộ áo pi da ma trắng viền nẹp đỏ đến tận cổ áo cao giặt ủi hồ cứng thẳng nếp:
- Anh thay bộ quần áo này đi rồi xuống nhà ăn bánh tét, lì xì cho các tay em....Anh rửa mặt, chải đầu có " bi ăng tin " ba số 5 kìa.
Tôi thảng thốt:
- Tôi lì xì cho các tay em?
Anh Năm Căn cười, cái cười lộ những chiếc răng vàng lấp lánh:
- Dạ chị Năm Tuyết lo cả rồi......
Anh Năm Căn nhét vào túi áo pi da ma vừa đưa cho tôi một xấp bao lì xì đỏ. Anh quay đi và dặn tôi:
- Em chờ anh ở dưới nhà, hôm nay không mở cửa hàng cũng như mở cửa hàng vậy.
Tôi thay xong bộ quần áo, chải đầu bi ăng tin bóng lưỡng. tóc vắt gọng kiếng. Tôi đứng ngắm mình trong gương. Tôi thấy mình chẳng giống ai, chẳng giống một con gáip nào. Thế mà rồi đây mỗi ngày tôi phải ngồi ở cà phê Năm Căn, hai chân co lên ghế ngồi chồm hổm, húp cà phê sữa đổ ra đĩa suỵt soạt đúng điệu một tay anh chị lưu manh mở miệng ra là chửi thề thì tôi sẽ ra sao đây?
Không giống ai, thật vậy chẳng giống ai hết. Tôi phải sống thế này sao? Tôi không thể sống trong cái luân lý kiểu giang hồ này được. Không thể làm những tờ biện minh trạng, một tờ biện minh trạng cho chính tôi cũng không còn được nữa là cho ai khác. Cuộc đời kinh khủng quá. Nếu tôi có một cây bút trong tay tôi sẽ viết nên chứ không phải để bào chữa, để thăng hoa, để thần tượng hoá, một tay lưu manh nào đó. Không, ngòi bút của tôi không thể dùng vào việc đó được. Chỉ tình người là cần thiết thôi. hình như điều đó tôi đã mơ ước đến từ lâu rồi, từ thuở đầu đời, thuở mơ làm văn sĩ. Vậy sao tôi lại sống như thế này?
Điều suy nghĩ ấy lẩn quẩn trong đầu tôi. Bên kia đường, ngay khu bến xe hỗn tạp, tôi thấy một nóc nhà thờ mọc cao, ở đó có các con chiên ngoan đạo đi lễ, cầu nguyện dưới quyền cai quản của một cha xứ còn rất trẻ. Nhà thờ cứu rỗi được gì trong cái khu hỗn tạp này, cờ bạc rượu chè, đĩ điếm trộm cắp? lại một câu hỏi khác hiện ra trong đầu.
Đám anh chị lưu manh ở khu bến xe Nguyễn Hoàng từ đầu Ngã Bẩy đến cuối, ráp với đường Nguyễn Trãi có vẻ nể vì tôi, những nhà cho thuê ghế bố quen mặt tôi. những cô gái làng cũng biết mặt tôi, nhưng không một cô nào dám xáp gần.
Tôi loáng thoáng nghe họ nói:
- Đại ca là người có " dzăng học " sắp làm chồng nhỏ của chi Năm Tuyết đó, đại ca là anh em kết nghĩa với đại ca Năm Lửa, chuyện ấy thường thôi mà, không lẽ để chị Năm Lửa hoài tuổi xuân đi, ở đây đâu có ai xứng....
Bỏ mẹ tôi rồi, tôi phải tìm cách nào chứ, tôi không thể là một cục bột trong tay người khác uốn nặn thành hình dạng gì cũng được. Cục bột tôi vào tay những người này chắc chắn hình dạng tôi trở thành một ác nhân. Một mặt quỷ, một kẻ lòng lang dạ thú.
Tôi được gọi là một đại ca, nhưng không hpải những công việc tàn bạo của những tay anh chị chuyên gác sòng bài hay trấn lột ai, những kẻ say rượu hay những ta ychơi lạc vào xóm chơi bời. Công việc của tôi là làm đơn từ cho những kẻ phạm pháp, đưa hối lộ cho cảnh sát bóp Nguyễn Tri Phương.
Anh cảnh sát mâp cạch nay hơn một năm bắt bỏ tù tôi, giờ thành bạn:
- Tao biết mày là thằng lưu manh mà, nhưng giờ chúng ta là bạn, tình bạn cũng phải bánh sáp đi bánh quy lại mới bền vững. Việc này là công việc làm ăn, biết thông cảm nhau, nương nhau để mà sống thì tốt cả thôi. Tất cả những điều bầy đặt ra chỉ là chuyên giạ vờ. Toàn đồ lưu manh cả, sự thật đó mày ạ. mày tính coi cái lương cảnh sát của tao có là bao, vậy mà tao phải bám lấy....hì hì...
Anh ta bỏ lửng câu nói, nhưng tôi hiểu anh ta muốn nói gì. Một sự thực trong hàng triệu sự thực khác ở bên trong một xã hội băng hoại. Tô đang sống ở đó. Từ một cái xấu này tìm đến một cái xấu khác cũng thế thôi....Tôi hận đời, bất mãn đời vậy thì tôi đang hận gì đây, bất mãn gì đây? Suy nghhĩ của tôi đúng hay sai? tôi thường tự hỏi điều đó.
Tôi ngồi cà phê Năm Căn, nhìn sang bên kia đường. Nhìn nóc chuông nhà thờ, nhìn tượng vị thánh nào đó tay chống thánh gươm, tay cầm cuốn sách. Tại sao ngôi nhà thờ tượng trưng cho một tôn giáo cao quý lại mọc lên giữa nơi này, không sợ bị ô nhễm sao? Vị linh mục tuổi trẻ kia có trụ vững ở nơi này không? Những buổi thánh lễ ngày chúa nhật ông đứng rao giảng trên bục trước tượng thanh giá Chúa sao mà vững vàng vậy? Những con chiên đủ mọi hạng ngưòi già trẻ lớn bé nghe ông và hình như họ nuốt từng lời...
Buổi chiều nay ngồi ở cà phê năm căn, tôi lại thấy một ông già, có lẽ chưa phải già lắm, chỉ khoảng năm mươi, hoặc trên 50 tuổi một chút ngồi ở lề đường, mặt hướng vào nhà thờ lần chuỗi hạt mân côi, miệng lâm râm cầu kinh. Hình ảnh này hình như tôi thấy hàng ngày, trước khi trời sụp tối. Ông già cũng là người xóm này, hình như đi làm đâu đó suốt ngày, gần tối ông ta mới trở về, cái xe đạp dựng ngay bên cạnh và ông ngồi cầu kinh. Chiếc xe đạp hôm nay ông ta khóa cẩn thận. Ông ta là một con chiên ngoan đạo, hình như lễ ngày chủ nhật ông mặc quần áo tươm tất mới bước chân vào nhà thờ....
Ông già đã đọc kinh xong, ra mở khoá xe đạp, tô tới làm quen:
- Xe đạp bác để ngay cạnh, khoá làm chi cho mất công?
Ông già ngước lên nhìn tôi, đôi mắt lờ đờ, ông cười khẽ nói với tôi vì nhận ra tôi cũng que mặt:
- Cẩn thận vẫn hơn, ăn cắp nó vồ được đẩy chạy, mình mắc công đưổi bắt, cò bóp làm lôi thôi, kẻ ăn cắp cũng tôi.....Không kể mình sơ xẩy còn bị ốm đòn hôi chợ.
- bác đã lần nào bị mất chưa?
- Ông già lắc đầu:
- Chưa, nhà thờ bên kia thì bị mất hoài đó.
- Có chuyện đó sao?
Giê Su ma, tôi đâu có dám nói dối, tội chết. Mới ngày hôm qua thôi, thùng tiền trong nhà thờ do các con hiên đóng góp bị quân gian bê đi mất.
- Có thưa gởi gì không?
Ông già lắc đầu:
- Không, cha không cho thưa gởi gì hết, cầu Chúa tha tội cho họ....
Tôi mời ông già vào quán uống cà phê, nhưng ông ta từ chối. Thú thật rằng đã lâu rồi tôi chưa được nói chuyện với một người tử tế, tôi thèm nói chuyện với một người như bác này. Tôi cố hỏi:
- Vậy muốn gặp bác thì phải làm sao?
- Dễ thôi mà, nhà tôi ở con hẻm bên kia đường, cứ hỏi nhà Nhưng cu li bến tàu ai cũng biết. Tô đi làm sớm lắm, mãi tối mới về...Nhà tôi cũng dễ tìm, có cây trứng cá ngay trước cửa.
Tôi nhìn theo ông già nhảy lên xe đạp, chỉ một loáng ông già biến vào con hẻm. Trong con hẻm đó không nhiều nhà mà lại là hẻm cụt, nhà ông Nhưng cu li có thể tìm thấy không khó, đặc điểm có cây trứng cá trước cửa nhà như ông đã nói. Có dịp tôi sẽ đến ông tađể nói chuyện tử tế. Tôi đang sống trong một xã hội mà không hoà đồng cũng không hoà nhập được. Tôi nghĩ đến một chuyến ra đi khác nhưng vẫn còn nấn ná không biết bây giờ Nguyễn Đức Sơn ở đâu? Coi như hơn một năm nay tôi không gặp anh ta. Có lẽ có thay đổi, tôi đọc được một bài thơ " điên điên " của anh in trong tạp chí Văn Nghệ, nơi đó ở Di Linh, anh đi thăm một bà bạn đẻ...Ôi rừng núi, niềm mơ ước lánh đời, xa chốn bon chen của Sơn, tôi vẫn phải sống, mục đích chỉ vì miếng cơm manh áo. Đồ hèn! Một dịp nào đó tôi lại vô tình gặp Sơn. Tôi sẽ theo anh ngay lên miền rừng núi xa xôi nào đó, để chỉ xa chốn bụi hồng.
Tôi vào quán Năm Căn, nơi đó mỗi chiều tụ tập những tay bụi đời, lưu manh, cướp giật, móc túi. Tính tiền " dù " của gái điếm. Năm Tuyết ngồi ở đó như một bà Hoàng, một đàn chị tối cao.
Những tay em đang ba hoa qua thành tích cướp giật, những chiếc đồng hồ đứt dây, những chiếc dây chuyền bị giựt đứt thảm hại, những xấp tiền bán đồ ăn cắp được cũng xếp trên bàn mộ cách lương thiện không sơ sót. Chia tứ lục, sòng phẳng hay không sòng phẳng còn tuỳ. Một tay đàn anh mặt ngầu, nhìn thẳng mặt một thằng nhóc:
- không phải chỉ có chừng này, hồi chiều mày còn làm ăn được cả một chiếc dây chuyền ở bến xe, chính thằng Tảo cản địa cho mày....
- Dạ dạ có nhưng em nuốt rồi.
- Sao không lấy ra đi.
- Em bón quá nên chưa lấy ra được.
- Hạn cho mày một tiếng nữa, không lấy ra được tao đá lòi phèo ra. muốn sống làm nghề lưu manh ở đây phải biết điều. ĐM tụi bay không biết sợ đầu nậu này là gì mà.
Đàn chị Năm Tuyết đang èo xèo với đám em gái làng chơi.
- Con Thu, mày có bẩy dù thôi, sao ghi mười dù.
- Dạ 10 dù thiêt mà, ba dù chị chưa kịp ký tên vì lúc ấy chị bạn tiếp " khứa " đặc biệt.....
- Tao không cần biết, cái nào tao ký nhận thì tao chi, tứ lục còn đòi chi nữa, tao lỗ sở hụi ai đền cho tao đây?
- Vậy thì em chịu lỗ, mấy lần trước cũng vậy.
- Mày vốn là lỗ rồi, đừng nói nữa. Không muốn làm thì đi....chẳng ai cản mày đâu....
- Bởi tại em còn thiếu tiền mấy cha noội ở khu này đó thôi.

- Đừng nói láo, lần trước mày bị bắt, không hpải tình chị em tao đứng lên lãnh ra thì mày còn tù mọt gông. Bộ tao không mất tiền cho kiểm tục hả, hay vì lòng nhân đạo mà người ta thả mày? Công sức của đại ca Hai Bù Loong đây, phải giao thiệp, phải cứu mày, mày đã được một lời cám ơn nào chưa hả con đĩ thúi kia, bây giờ mà còn tính dù nọ dù kia với tao.....
Mụ Năm Tuyết chỉ tay tôi. Biệt hiệu của tôi là Hai Bù Loong, bởi tại có lần tôi vui miệng, cũng có thể là phét lác để cho bọn giang hồ này nghe, tôi đập một thằng bằng cây bù loong nó không chết nhưng cũng ngất ngư. Rồi người ta đồn rằng lúc nào tôi cũng thủ một cây bù loong trong người, kẻ nào lôi thôi tôi đập thấy mẹ. Sự thật là tiếng mà không có miếng. Như suốt cuộc đời tôi sau này. Tôi là du đãng mà không phải là du đãng. Nhà văn du đãng vì tôi hay viết truyệngiang hồ du đãng, những kẻ du thủ du thực...
Tôi chán ngán quá chừng, chẳng qua là do vạ miệng.
Đám giang hồ lần lượt tản hàng, chỉ còn tôi với Năm Tuyết. Anh Năm Căn thì lui cui trong bếp lửa để lo bữa nhậu đêm cho đám " anh hùng " bến xe. Anh ta cũng là một tay giang hồ, nhưng bây giờ anh ta yên phận với cửa hàng miếng ăn, tương đối là lương thiện. đối với người thân, Anh Năm Căn cho biết tên anh ta thạt ra không phải là Năm Căn, mà chính là tên quê hương anh ở vùng Cà Mâu, anh lưu lạc giang hồ từ nhỏ, qua nhiều bến xe, cuồi cùng thì đứng bến ở bến xe này, rồi thành anh chủ quán. đến bây giờ không còn phải sử dụng đến thanh " đoản " thanh " mã " nữa. Anh được nể vì. Anh chỉ căn nhà của anh:
Đầu tiên nơi này là một túp lều, tôi mua lại của một tay " kỹ bẽo ". Bây giờ thì nó thành một cửa hàng rồi đó đú nuôi sống vợ con, có đồng ra đồng vào, vợ tôi không bao giờ còn phải đi " dù " nữa, thành một hiền phụ chồng con đàng hoàng.
Lời tâm sự của anh thành thật và có hướng đi lên, đi lần đến con đường lương thiện. Xứ sở Nam Kỳ này từng sản sinh ra nhiều anh hùng, có người xuất thân từ chốn giang hồ, chọc trời khuấy nước. Như tướng Bảy Viễn của Bình Xuyên, như Năm Lửa ở Cái Vồn của Hoà Hảo. Nhưng Năm Càn chỉ mang mộng ước bình thường.
Anh Năm Căn chiều đãi tôi, dành riêng một căn gác cho tôi cư ngụ. tôi thường mang về căn gác ấy những tờ báo, những cốn sách để nghiền ngẫm và để suy nghhĩ, để biết tình hình xã hội. Thì ra tôi vẫn còn mê thứ nghề nghiệp mà tôi mơ ước từ thuở nhỏ. Mơ làm văn sĩ. Nhưng bây giờ tôi viết gì đây? Chắc chắn không phải là những bài viết hoa mộng. Đây đã đích thực là đường hướng để tôi đeo đuổi hay chưa? Còn nhiều năm, nhiều thời gian để tôi luyện. Những đời sống quanh tôi, những tình huống, thân phận và những con ngưòi. Điều trước hết là mình lưong thiện, tôi muốn nói là cầm cây bút
Vậy mà tôi đang sống ở nơi này, giữa những chiếc răng nanh cắn xé con người và đời sống. Anh Năm Căn thấy tôi ham đọc sách báo, anh bèn thuê cho tôi cả bộ truyện Tàu về đọc chơi, sợ tôi không đủ kiến thức để nói đến những nhân vạt giang hồ anh hùng Tàu với anh. những buổi đam bàn như thế anh gọi là " luận anh hùng ". Anh có chiều hướng tốt để xây dựng đời sống cho mình và cho gia đình, những đứa con của anh. Tôi chỉ bên nhà thờ kia có lớp học miễn phí cho trẻ nhỏ. Anh ngưỡng mộ bức tượng của vị thánh nào đó, đúng ra là thánh Phao lồ, dựng trên nóc nhà thờ.
- Đúng vậy, nhà thờ dựng ở nơi bến xe này, ông thánh gì đó bảo vệ nhà thờ phải cầm " mã " và tay thì cầm sách. Tốt lắm, ý nghĩa lắm. Không chê vào đâu được. Cái nhà này, đại ca biết đó, tôi mua với giá rẻ mạt của một tay kỹ bẽo ( cờ bạc ) như đồ ăn cướp. Nay vẫn chưa có bằng khóan, dù rằng nhà tôi có sổ gia đình đàng hoàng, vì mình dốt quá không biết làm giấy tờ nên coi như nhà không có chủ quyền.
Tôi hỏi lại:
- Khi mua có giấy của người bán không?
- Tôi dốt, nhưng cũng khôn chớ, tôi bắt hắn ta phải làm cái giấy tay, có cả số thẻ căn cước nữa. Hắn còn sống, ở quanh đây thôi...
- Vậy thì được, tôi sẽ làm đơn cho anh ra hội đồng xã. Hai bên ký tên, anh sẽ có bằng khoán của căn nhà. Vĩnh viễn căn nhà đó của anh sẽ truyền lại cho con cháu.
- Vậy hả? Đại ca giúp tôi, ít ra mình phải có mảnh giấy tờ hợp pháp gì để ăn noói chứ, có điều mình cũng phải mất cho cha kia tí tiền, còn người nhà nước nữa cũng phải có cái gì, sống ở đây tôi biết mà....
- Trà nước, chế độ nào cũng vậy!
Cả hai chúng tôi cùng cười xoà. không đầy một tuần lễ, căn nhà của năm Căn thành căn nhà hợp pháp hoàn toàn. Anh ta trở nên rất quí mến tôi. Tôi có thể nói với Năm Căn những điều giấu kín ở trong lòng mà không chút ngại ngùng.
Năm Tuyết đã đếm xong tiền và số vàng bạc, những thứ lỉnh kỉnh mà các tay em cướp giât được. Cô ta cười với tôi:
- Em thấy vẫn còn thiếu chưa mua nổi chiếc Vespa Italic mới toanh để đi chơi, lâu lâu đi coi cải lương, ăn tiệm ở chợ Lớn.
- Xe thì thiếu gì, đám vồ xế của cô ngày nào không đưa về vài ba chiếc.
Tôi nói vậy, Năm Tuyết xua tay:
- Ậy không được, mình đúng là lưu manh đó, nhưng không xài đồ lưu manh, mình phải là người hợp pháp từ đầu đến chân. Mình mua xe ở tiêm, giấy tờ đàng hoàng, cà vẹc hợp pháp.
Mụ nhìn tôi đĩ thoã:
- Mua xe để tên anh, anh chở em đi chơi chịu không?
Bỏ mẹ tôi rồi, điều này tôi nhất định không thể nhận được, tôi đang muốn rút chân ra khỏi nơi này, tôi không thể lún sâu thêm nữa. Đầu tiên thì mụ Năm Tuyết nhìn tôi kiểu mắt nai rất cải lương: " Sao vậy anh? " sau khi nghe tôi giải thích một hồi, mụ nổi giận, đáo để kiểu đáo để của loại người đíêm đàng:

- Nói cho anh biết anh đừng lên mặt, 29 tết anh về đây, không ai cứu vớt anh, tôi vì bức thư của đại ca nên cứu anh. Nuôi anh, quý mến anh bấy lâu nay, cung phụng anh đủ thứ mà anh lại giở quẻ, có phải anh khinh bọn này không, chưa hết đâu, tôi biết hôm trước tôi dụ mãi mới được môt con bé vào đây làm gái, anh xúi nó trốn đi, tô bỏ qua không nói vậy mà anh còn làm tới....Bỏ cái tính quân tử Tầu đó đi thì sống được ở đây, còn không thì kệ anh. Cơm no bò cưỡi, quần áo anh mặc, cà phê anh uống, bia để anh nhậu nhẹt anh biết là tiền ở đâu không, những đồng tiền anh khi rẻ đó. Anh điếm còn hơn những thằng điếm tổ sư ở đây. Năm Lửa không biết nhìn người thế nào mà giới thiệu anh, lại muốn nhường vợ nó cho bạn chớ, ngu ơi là ngu, không biết ăn phải bùa mê thuốc lú gì. Anh lại còn lên giọng khuyên nhủ không nên sang bên nhà thờ kia ăn cắp ăn trộm, đểu giả như thế là cùng. Ăn cắp ăn trộm không chừa một ai, không tránh nơi nào hết, thánh thần cũng không tha. Nghề mà, hở ra là ăn cắp thôi, cũng cực cái thân, không may bị bỏ tù rồi tù tôi ai ở đây thay cho đây.....Đám thuê chém mướn, tạt át xít cũng ở đây. không làm vây lấy gì mà sống. người ta khi rẻ thì đã khi rẻ rồi, vậy thì anh đừng có đạo đức giả....nếu muốn anh đi đi, đừng ở lại đây. Rõ thật tôi là con đĩ mà còn thua anh, một thằng điếm, thằng tổ sư lưu manh.
Tôi như bị dội cả thùng nước lạnh từ đầu tới chân. Tô tức run người, mà tôi làm gì đây, đánh nhau với một con mụ đàn bà à? Tôi câm họng, tại sao thế kia nhỉ! Có những d0iều đúng chứ không sai. Đời sống của riêng tôi không thể hợp với bước giang hồ này được. Nó chỉ có giá trị ở chất liệu tôi ném thêm vào trong đầu, một lúc nào đó tôi sẽ bung ra.
Mụ Năm Tuyết nói xong bỏ đi, tôi nói với:
- Tôi sẽ đi, có thể ngay bây giờ, tôi trả lại tất cả những gì của các người.
Nhưng mụ Năm Tuyết vẫn không quay lại. Anh Năm Căn lên tiếng khuyên tôi:
Tính chị Năm nóng nảy vậy đó, anh đi theo nói với chị ấy một câu là xong ngay.
- không, tôi không thể như thế được.....
Tôi cởi nút áo ngay giữa nhà, chạy lên cầu thang đổi bộ quần áo trước khi tôi đến đây. Xách cái giỏ 29 tết rakhỏi tù. Bộ quần áo đang mặc tôi xếp lại gọn ghẽ trả lại cho Năm Căn:
- Cám ơn anh tôi phải đi ngay bây giờ, chuyện này ở đây thường mà, thiệt ra tôi và những người ở đây mang ơn anh nhiều. Ở lại đây đêm nay đi, mai anh đi tôi không cản nữa. Chúng ta thân với nhau ly rượu " quan hà ", rồi tôi tiễn anh tới chốn " tràng đình " cho trọn tình.
- Cám ơn anh Năm, nhưng không tiện cho anh đâu....
Tóc tai Năm Căn dựng đứng:
- Đứa nào dám đụng vào tôi, anh là bạn tôi. Tôi bảo vệ anh, đứa nào đụng vào anh, tôi còn cầm nổi cây " mã ", tôi đã hết thời đâu.
Tôi cười, không biết có phải cười gượng không, đẩy Năm Căn sang một bên, từ chối món tiền Năm Căn dúi vào tay tôi:
- Cám ơn anh Năm, tôi không cần gì cả, không sợ ai cả. Tôi đã từng sống những tháng ngày rài rạc. Hẹn gặp lại anh sau, một ngày nào đó.....
Tôi nghe anh năm Căn nói như nói một mình:
- Cha này cũng chì thật, xứng đáng làm một tay giang hồ, ra đi không cần một xu dính túi....
Vẫn còn là tháng đầu xuân. Bến xe lam đêm vẫn tấp nập. Tôi đi loanh quanh một lúc rồi quay trở lại nhà ông Nhưng cu li. Tôi nghe tiếng cầu kinh của ông ta và gia đình từ trong con hẻm hẹp. Đúng là căn nhà có cây trứng cá. Tôi có thể gặp ông tamột lần để nói câu chuyện tử tế. Rồi tôi đi vào chốn mù sương của đời sống.
CHƯƠNG 14
Trời nóng như đổ lửa, công trường mênh mông, chói chang nắng. Hình như không khí chuyển động làm cho hơi nóng cũng lung linh. Mồ hôi trên đầu, trên tóc, trên từng phân vuông cơ thể tôi vẫn tươm ra ướt đẫm người cay xè mắt mũi. Cái mũ nan chỉ che được nắng gay gắt trên đầu, không phải là một bóng râm thật cần thiết.
Hai cánh tay tôi mỏi rã rời, vì từ sáng đến giờ phải trộn bao nhiêu là mẻ hồ với cát đá sạn xanh. Những cái ki xúc hồ đến ngay lượt khác nườm nượp hốt hết. Cả công trường không chỉ mình tôi trộn hồ mà hàng chục người làm công việc ấy không xuể, những mẻ cốt pha đổ khuôn xi măng cột hàng rào ấp chiến lược nuốt chửng như những con vật khổng lồ tham lam. Những rừng cột xi măng chỉ kịp se mặt đã có xe tải tới chở đi liền. Họ chở đi đâu? không cần biết. Nhưng ai cũng biết rằng họ chở đi làm ấp chiến lược, hoặc đồn bóp nào đó, cung cấp trong tình trạng chiến tranh. Từ ngoài xa vọng về ầm ì tiếng súng, đã nhiều trận đánh lớn xảy ra trên khắp bốn vùng chến thuật, giữa hai khối chủ thuyết đối nghịch nhau. Mỹ lăm le đổ quân vào cứu tiền đồn chống cộng sản của gia đình ông tổng thống NĐDiệm. mà ông Diệm đang muốn giữ thể diện quốc gia nên chưa ngã ngũ điều kiện. Phong tráo Phật Giáo đấu tranh cũng đã bắt đầu nổ ra ở Huế và đang lan rộng. Chính quyền ra tay. Phật Giáo nói là đàn áp tôn giáo. Cơ quan mật vụ làm việc cật lực, nhà tù lại chật cứng người.
Tôi nghĩ mình chẳng nên quan tâm đến chuyện đó, tôi hiền lành an tâm làm thân cu li như mọi thân phận cu li khác. Tôi thấy mình lương thiện và thoải mái trong công việc đổ mồ hôi này. Miếng cơm tuy đạm bạc mà ngon miệng, buổi chiều ra bờ sông uống một chai bia mát lòng mát dạ. Tối ngủ khì ở căn nhà trọ, không nghĩ ngợi gì hết.
Tôi làm việc ở đây hơn một tháng do con trai bác nhưng cu li giới thiệu. Buổi tối hôm ấy tôi đến nhà bác. bác đồng ý tìm một lối thoát danh dự cho tôi. Có nhiều nơi cần người làm việc điều kiện phải xa dời ngay chốn chôi bời giang hồ này, những con ngưòi lòng tốt và nết xấu có cơn. Tôi nói với bác tôi không có gì để luyến tiếc. Làm bất cứ nghề gì miễn là nghề lương thiện. Vậy thì tốt, bác nói thế. Mờ sáng hôm sau bác sai anh con trai đưa tôi đi ngay.
Điều không ngờ nhất, một trong những chủ thầu công trường là họ hàng xa lắc xa lơ với mẹ tôi. Ông chú tốt bụng, có lẽ cũng thương xót hoàn cảnh tôi, ông nói:
- Được rồi, chú sẽ thu xếp cho cháu làm công việc bàn giấy, lám cu li với mấy người này chú e cháu làm không nổ đâu.
- Cám ơn chú, cháu lao động được như anh bạn cháu và như mọi người khác. Rồi cũng qune cả thôi.
- Thôi được, tuỳ cháu, cháu muốn thử thách là do cháu.
Rồi cái gì cũng quen, bây giờ tôi như một người lao động chân chính. Da đen nhẻm, người gân guốc, ăn khoẻ như trâu và có lẽ mặt mũi cũng bậm trợn ra.
Biết ăn to noi lớn dù chẳng là cái thá gì. Tôi thấy mình tự tin. Mỗi tuần tôi đến thăm em ở nơi trọ học, có chút tiền vặt giúp đỡ nó dù chẳng đáng vào đâu, bõ những khi xách giỏ quà nghèo nàn thăm nuôi tôi, khi tôi còn ở trong tù. Tôi nhận được những bức thư củ mẹ, bà buôn bán, không phải còn làm vú em u già cho một gia đình ông quan năm lào nào đó. Cũng là môt tin vui báo hiệu cho ngày sum họp gia đình. Mẹ tôi viết trong thư khuyên tôi sống cho đôn hậu có trước có sau. Vì bà vẫn nghi ngờ tôi sống đầy ắp những thù hận do những gian truân tôi đã phải trải qua trong suốt tuổi trẻ. Nhưng tôi nghĩ khác, đó là chất liệu quý giá cho tôi mà ít người có được. Để làm gì nhỉ! Chỉ biết tôi phải làm gì, giấc mơ " thuở làm văn sĩ " vẫn ở trong lòng tôi đang ngún ngói và tôi muốn gầy cho ngọn lửa cháy bùng...Trong hoàn cảnh này nói ra tôi thấy ngường ngượng, nhưng tôi vẫn theo dõi văn nghệ, những đêm ở nhà trọ chong đèn nằm đọc, gối đầu trên những cuốn sách, những tờ báo xếp chồng rồi ngủ thiếp đi trong mộng lành.
Thời gian này tôi sống yên ổn, hiền lành bên những nguờì bạn lao động lương thiện, nhưng tôi cô đơn. Tôi thấy thiếu một cái gì? Chất văn nghệ, như ly nước chanh mát lạnh được uống trong trời nóng đang khát.
Tôi chẳng gặp qi cả, không bí mật mà như kẻ bí mật theo dõi hoạt động văn nghệ tôi ngưỡng mộ nhà văn Nhất Linh lấy cái chết ra để phản đối chế độ Ngô Đình Diêm toan mang ông ra tòa xét xử. Sĩ khí tuyệt vời. Tôi làm gì? chẳng làm gì, chỉ chơi, chỉ thăng hoa cho mình.
Đang nghĩ ngợi lẩn thẩn thì tiếng kẻng tan rung lên. Tất cả các công nhân, mà họ quen gọi là cu li giạt vào bóng râm nghỉ ngơi, uống nước như trâu, kẻ lấy lon cơm hộp ra ăn, người ra hàng cơm gánh rong ngồi. Tôi không có gia đình làm cơm theo nên ra hàng cơm bán rong:
- Cho tôi một đĩa cơm trứng kho, rưới tí nước sốt.
Bà hàng cơm xúc cho tôi một cái dĩa nhôm to:

- Ối dào ngày nào cũng trứng kho, cậu không ăn sườn nướng đổi bữa hả, chưa vợ chưa con mà kẹo thế, hay dễ nuôi đây?
- Không dễ nuôi đâu bà, vậy thì hôm nay tôi đổi món, cho tôi miếng trứng chiên rưới nước mắn chanh ớt vậy?
Bà hàng cơm làm một cách dằn dỗi:
- Chán bỏ mẹ, cả tháng không dám ăn lấy một miếng thịt, cục xương.
Con trai ông già Nhưng, chú Nhớ nói:
- Không phải anh kẹp đâu bà ơi, anh ấy là thầy tu phá giới nên không biết ăn thịt. Ăn nước mắm với nước sốt là qúa lắm rồi.....
Bữa cơm trong tiếng cười hồn nhiên, bà quán cơm gắp vào dĩa tôi một gắp rau muống xào:
- Thêm không tính tiền, nhà chùa không chê chứ, cũng đồ chay đây. Ăn đi lấy sức còn đi đấu tranh.
Bên ngoài cuộc đấu tranh trở nên dữ dội, dù tôi không mấy quan tâm, nhưng vẫn lót vào tai, vào mắt và vào cả lương tâm, ngấm vào đó lúc nào không biết.
Tôi uống cạn một ly trà đá và đổ thêm nước lạnh. Nước đổ vào trong miệng biến thành mồ hôi tươm ra khắp mình. Cái nóng trên công trường mới kinh khủng làm sao. Tôi chui vào một cái ống cống to nằm ngủ cho lại sức. Tôi lại mơ thấy mẹ, thấy một gia đình. Tôi đón bà ở phi trường. Con em gái út nhẩy cẫng lên ôm lấy cổ anh. Khi tỉnh dậy, trong hồi kẻng báo giờ làm việc, tôi biết đó chỉ là giấc mơ. Mà giấc mơ nào chẳng đẹp, tiếc nuối làm chi.
Có tiếc nuối chăng, tôi mang đi vào những buổi chiều đạp xe đi lang thang ở thành phố, hoặc tạt vào sạp sách báo, nhà sách tàng tàng nào đó, coi cọp báo hoặc có tiền thì mua một tờ báo bị đẽo đục lem nhem của bộ thông tin.
Tôi dừng mắt lại ở một cuốn sách in. Sách mà in ronéo trên những trang đánh máy. Đóng thành tập bằng dây kẽm. Tên tác giả Thế Phong. Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến. những cuốn sách viết về những vấn đề văn nghệ, từ lớn đến nhỏ. Đôi khi là tiểu thuyết hay truyện gắn, truyện dài. những cuốn sách " không giống ai " và lạ. Nhưng tôi thấy người chủ trương nhà xuất bản này chính là một tay ngông và kiêu. Việc in ấn như một " con thuyền tải đạo ". Trong một lúc tôi nghĩ là hay, là can đảm lắm.
Thế Phong tôi biết, tôi đã đọc anh từ những bài báo thể phóng sự từ báo Giang Sơn ở Hà Nội. Thế có nghĩa là anh vào nghề, nỗi đam mê rất sớm, cùng thời gian với nhà báo Phan Nghị chuyên viết phóng sự " Bờ Lờ " ở những tờ báo Hà Nội. Các anh ấy chắn chắn là lớn tuổi hơn tôi rồi. Họ đã là nhà văn chưa? Nhưng họ vẫn đeo đuổi nghề đã chọn. Thế nào họ không có một " thuở mơ làm văn sĩ ".
Tôi quen biết Thế Phong thuở mới lớn, thuở tôi mơ làm văn sĩ, tại nhà anh nhà văn Văn Nhân ở hẻm đường Công Lý, ở Đàm Trường Viễn Kiến của cụ Nguyễn Đức Quỳnh, ở căn nhà thuê nào đó của Thế Phong ở xóm chùa Tân Định. Những lúc xem anh cử tạ, người anh to lớn và dắn dõi như một lực sĩ thể hình. Khi đó những nhà văn nhà thơ thường ẻo lả gầy ốm, có thể vì thiếu ăn hoặc ghiền thuốc phiện. Thế Phong đặc biệt ghét người nghiện hút, dù là bất cứ ai. tôi đã đọc một bài viết của anh về một kỷ niẹm nghiệm hút, gây tai hại và mất niềm tin nơi anh. Anh phải từ bỏ quê hương Nghĩa Lộ của anh lên đường đi giang hồ, khi tuổi anh còn rất nhỏ.
Tôi gặp lại Thế Phong 20 năm sau, cũng là thời gian thân tình nhất, khi hai thằng đã tạm thời buông bút, l;àm nghề cu li ở tít tận Cà Mau để kiếm cơm nuôi mình và vợ con, thuở chúng tôi là kẻ ngã ngựa. Hai thằng đứng ở mõm tạn cùng của đất nước nhìn hau cười ngu ngơ:
- Thân cu li lại hoàn cu li.
Nhưng đó là chuyện sau này, khi tôi, bạn bè tôi 9dã được gọi là nhà văn nhà thơ. Một đoạn đời thê thảm cho một đời người có thấm tháp gì. Ta biết cúi mặt thì cũng biết ngẩng đầu vậy.
Tôi trở về văn nghệ, với mớ hành lý kềnh kàng, hình như không còn chút gì mơ mộng nữa, đó là những kinh nghiệm sống của tôi suốt những năm qua. Từ khi bỏ học đi bụi đời, kiếm sống bằng đủ mị thứ nghề, một lần mắc vòng tù tội lãng hách. Cuối cùng là nghề phu phen cu li. Bây giờ tôi đã vào lứa tuổi trưởng thành nhưng chưa thể gọi là " tam thập nhị lập ". Tôi có dịp hiểu biết nhiều thêm những gì tôi chưa biết về đời sống trong giới lao động, những lớp người ở tận cùng ngoài xã hội. Tôi từng bị sĩ nhục, bị hạ thấp nhân phẩm. Tôi nghĩ mình chẳng cần gì phải che đậy. Tôi cứ bóc mình ra như cái bánh. Một thời gian tôi tự lánh xa tất cả mọi người, bạn bè, bà con. Chẳng phải tôi mặc cảm, tôi chỉ ích kỷ ôm lấy những đau thương một mình để gậm nhấm thi vị hoá nó. tôi ra đời không làm ông nọ ông kia, cũng chẳng đậu đạt được gì cho ra hồn, mớ kiến thức còn nông cạn, ngoại ngữ dốt nát. những đưa em họ, bạn bè cùng học với tôi thuở nào thì bây giờ bằng cấp đầy mình. có kẻ đã làm quan nhà binh. Ngoại trừ thằng em ruột tôi. còn đi học, tôi vẫn thường xuyên tới nó và viết thư cho mẹ. Nếu bây giờ mẹ tôi về đây, tôi có thể góp sức với mẹ, làm lại một gia đình của chúng tôi. Bây giờ tôi là một công nhân bình thườngnhư mọi công nhân khác biết ăn no vác nặng. Chẳng rắc động não gì cả. Tô có động não chỉ coi như là giải trí. Đọc một bài viết bài thơ hay thì thấy thú vị.
Tôi trở về văn nghệ như chuyện tình cờ.
Như thường lệ, anh Bảy già, anh thợ hồ có tay nghề cao nhất rủ tôi sau buổi làm việc:
- Sao, chiều nay mình có ra ngoài bến tàu làm vài chai bia nhậu tôm hùm nướng chớ?
- Dạ, hôm nay tôi có việc. tôi phải về bên nhà cho tiền thằng em đóng tiền gạo và tiền học.
Anh Bảy già dễ dãi, gật đầu:
- Phải đó, chú lo cho thằng em đến nơi đến chốn.
Tôi đạp xe đạp về nhà trọ của em tôi, thằng em bây giờ đã lớn như một thanh niên cường tráng. Nó đang ngồi học môt mình ngoài đầu hè. Tôi trao số tiền dành riêng cho nó, rồi rủ nó đi chơi với tôi. Nhưng chú em tôi từ chới:
- Năm nay em thi, chỉ còn ít ngày nữa nên phải học ôn gấp rút, thôi anh đi chơi một mình co khuây khoả.
Chú em không quên mang cho tôi một số sách văn học, báo chí mà nó tìm mua ở tiệm bán sách cũ. Ở những trang sách báo đó, tôi thấy nhiều tên tuổi bạn bè tôi lúc đó nào Nguyễn Nhật Duật vừa là một giáo sư triết vừ là một tay phê bình văn học, Dương Nghễm Mậu một nhà văn đíich thực, có sách xuất bản. Lê Đình Điểu một giáo sưvăn chương, triết, theo ngành báo chí. Vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca theo đuổi nghề nghiệp văn thơ và đã có tiếng. Trần Dạ Từ làm chủ bút tờ tuần báo Ngàn Khơi. Tú Kếu Trần Đức Uyển là một nhà thơ trào phúng có tiếng là tổng thơ ký với tờ báo ấy, tôi còn thấy rất nhiều tên tuổi khác. Toàn anh em cả tụ nhau trên một tờ báo. Đằng Giao, người bạn học thuở nào nhưng khác trường có khiếu hội hoạ, nay đã là hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh biếm hoạ trên báo và trình bày báo như những hoạ sĩ nhà nghề khác. Tôi biết anh ta không xuất thân ở một trường hội hoạ nào ra. Tờ báo Ngàn Khơi rất đẹp, đúng như mộng ước chúng tôi thuở nào....nhìn vào tờ báo, đọc những bài viết thơ văn của anh em, tự nhiên tôi lại có ao ước, tôi nghĩ đến những bài viết của tôi thuở nào, có lẽ đã xa rồi. nhưng vẫn có gì đó vẫy gọi.....
Tô dời chú em, khi thấy nó ôm cây đàn guitar, nay cây đàn đã vừa tầm tay của nó không còn quá to như thuở nào, tiếng đàn thư giãn sau những lúc miệt mài.
Tôi đạp xe đi vòng vòng trong thành phố, ghé nhìn vào những tờ báo bán đầy ở sạp. những tờ báo bị đục đẽo nham nhở, cả những bài bị bỏ trắng. Tệ hại và giả dối hơn, có những chữ ghi " toà soạn tự ý đục bỏ ". Độc giả phải hiểu ngầm rằng bài bị bộ thông tin duyệt có viết mà không cho đăng tải.
Hiểu theo rất VN thì đó chính là câu có hơi gướm xỏ lá cả anh nhà báo, như một câu bỏ lửng, không kết luận của chuyện tiếu lâm, rồi xặc lên một tràng cườì thay cho câu chửi thề. Chuyện tiếu lâm VN có cái thâm thuý của nó. Trong đời tôi nghe nhiều chuện tiếu lâm từ thời thơ ấu cho đến tuổi già. Nó phản ảnh thâm thuý và vẹn toàn đó. Cái cười làm cho con người ta sống lâu mà không chết được vì đau buồn....
20 năm sau tôi còn thấy nhà văn Vũ bằng, bậc đàn anh trên văn đàn, lọm khọn đi thu gom những mẩu chuyện tiếu lâm ở chợ trời trong thành phố được tái chiếm. Những mẩu chuyện tiếi lâm ở khắp VN, phản ảnh đời sống con người VN trong một cuộc chiến dài đau thương mà con người phải bật ra thành tiếng cười thay vì tiếng khóc qua những mẫ chuyện tiếu lâm, những câu vè...Tôi hỏi ông làm gì vậy? Ông trả lời đồ ngu, tao làm việc này như tao viết " miếng ngon Hà Nội " thuở nào, cứ gom lại đã không cần xuất bản. Cho đến nay hơn 20 năm sau nữa tôi vẫn chưa thấy tạp truyện tiếu lâm của Vũ Bằng gom góp xuất bản. Mất rồi chăng? Vũ Bằng đã ra người thiên cổ. Tôi tiếc!
Trở lại với hồi ức chiều hôm ấy, tôi gặp lại Tú Kếu, Trần Đức Uyển. Chiều hôm thứ bảy đó khi tôi đang đạp xe đi lang thang trong thành phố quen thuộc. Vẫn dáng gầy cồm ốm yếu như thuở nào, vẫn cặp kính trắng dầy cộm luôn luôn trên mắt. Anh ngồi cắm cuí bên bàn rộng đặt trê hàng hiên nhà in Tương Lai ở đường Võ Tánh, bản in thử rải trước mặt anh, anh đang làm công việc sửa bài cho báo. Anh ngẩng lên nhìn tôi khi nghe tôi gọi tên, phía trong nhà tiếng máy in chạy rầm rập. Thái độ không mấy vồn vã vì quá bận, anh hỏ tôi:
- Sao lâu quá bây giờ mới thấy mày xuất hiện, chờ tao chút, sắp xong rồi, sang quán bên kia đường chờ tao.
Chỉ một lát sau, tôi chưa hút hết một điếu thuốc lá, Tú Kếu đã sang quán với tôi, anh ngồi xuống có vẻ mệt mỏi:
- Đáng nhẽ xong trang này tao về, nhưng gặp mày tao ngồi lại uống cà phê hỏi mày đã biến đi đâu mà lâu quá vậy, nhiều khi anh em nghĩ mày đi lính " ngỏm cù đèo " rồi.
Tôi cười với Tú Kếu, nhìn anh ta, đôi máy anh ta sau cặp kính trắng hấp háy, trông đáng yêu như thuở nào.

- Táo còn đây, chưa tử trận được, bom đạn vô tình nhưng vẫn tránh tao. khám Chí Hoà đã bao bọc che chở cho tao suốt một thời gian, nhưng thôi chuyện còn dài lắm, bây giờ mày cùng tao ra bờ sông SG nhậu một chầu cho đời lên hương.
Tú Kếu cười hì hì:
- Mày có tiền?
- Dĩ nhiên rồi, tao mời, tiền lương làm cu li của tao đó, chuyên viên đổ bê tông, sản xuất ống cống và cọc hàng rào ấp chiến lược.
- bảnh nhỉ, thôi được, đã lâu tao không có chất thịt. Mẹ, thiếu cả ăn mới khốn nạn chứ, làm báo thời buổi này chán quá, chúng nó đục đẽo nham nhở không còn ra sao nữa, báo bán đếch được, tiền đâu mà chủ báo trả mình. Mày có biết Phật Giáo đang đấu tranh không?
- Biết!
Tôi trả lời cộc lốc và chở Tú Kếu ra bờ sông, ngồi quán lộ thiên để Phá Kếu mặc sức phá mồi, hai cha ibia đưa cay. Câu chuyện của chúng tôi càng lúc càng trở nên rôm rả. Tô kể cho Tú Kếu những ngày tôi sống lưu lạc, những nghề nghiệp tôi đã làm kiếm sống, những ngày tù tội và đời sống của những người tù, đời sống hạ lưu ở tận cùng xã hội, ở những xóm chơi bời. Tú Kếu trở nên sảng khoái khi anh ta uống hết một chai bia, tôi gọ thêm chai nữa. Tú Kếu uống bia ít mà phá mồi nhiều, khoái chí tử trong câu chuyện
- Chất liệu, chất liệu của mày phong phú thật, tao chán ngấy những truyện bây giờ, toàn là thứ tình yêu lẩm cẩm, chẳng ra đâu hết, nghèo nàn, dốt nát, rẻ tiền. Còn không thì bắt chước Tây Phưong với mớ triết lý vụn, làm mè làm dáng, chẳng giống một con giáp nào.
Câu chuyện của chúng tôi sau mấy năm không gặp nhau, có men bia tự sức xoay quanh chuyện văn nghệ. Tôi không ngờ sau những năm không dính dáng gì đến chuyện văn nghệ, mà nay nói tới tôi lại đam mê. Chúng tôi ngồi nhắc đến những kỷ niệm, như đã lâu lắm rồi. Tú Kếu nói về hoàn cảnh hiện tại, anh đã thôi day học về làm báo, đúng ra làm văn nghệ với bạn bè, vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca.
Giọng anh buồn bã:
- Tờ tuần báo văn nghệ này nghèo lắm, vợ chồng Bạch Ngọc bỏ tiền làm, nhưng họ cũng nghèo quá, nội cái chạy tiền in giấy đã thấy mệt rồi, báo đôi khi bị tịch thu, kiểm duyệt cấm phát hành, nói chi đến chuyện lương lậu cho mình. Chẳng qua vì mình yêu văn nghệ và đam mê nghề nghiêp nên phải hy sihh, bọn này cực khổ lắm. Một mình Trần Dạ Từ làm việc ở nhật báo Dân Việt còn có tiền, nhưng cũng eo hẹp và chậm trễ lắm, hắn còn phải lo cho vợ con hắn chứ, hắn mới có một đứa con gái, bé Sớm Mai, cái tên đẹp chứ nhỉ, như tên con gái Hoàng Anh Tuấn đặt là Hoàng Tôn thắm.
Tú Kếu xoay ra ca tụng những cái tên đẹp mà quên mất chuyện đang nói. Một lát trở lại:
- Nói đúng ra là mình làm báo người ta chỉ nuôi cơm, mình cũng chẳng còn thì giờ để đi học thêm, nên đời sống rất là thiếu thốn.
Tú Kếu chẳng cần thanh minh, cứ nhìn cách hắn ăn uống phá mồi cật lực cũng đủ biết rồi. Tôi nhìn Tú Kếu cười:
- Nghĩa là hy sinh vì sự nghiệp văn nghệ.
- Hiểu sao cũng được, cứ cho là như vậy đi, làm văn nghệ kiểu này như kẻ vác ngà voi vậy, cái ngà voi quí thì càng nặng, càng dài. Thằng làm cái công việc ấy mất nhiều công sức lắm, chưa chắc đã đi đến đâu, có khi nửa đường đứt gánh.
Buổi tối hôm đó tôi và Tú Kếu uống hơi nhiều bia, Tú Kếu vẫn không quên bổn phận, anh than phiền làm báo vào đúng thời gian Phật Giáo đấu tranh chống NĐD nên bài vở bị bộ thông tin kiểm duyệt nhiều quá, chiều nay bị bỏ trắng môt truyện ngắn, anh phải viết trám, nhưng bây giờ thì chưa có chữ nào, anh hứa liều:
- Thôi được, mình về ngủ một giấc, đêm dậy viết, sáng mai mang đi kiểm duyệt sớm mang về sắp chữ còn kịp.
Tôi chở Tú Kếu về căn gác thuê trong một xóm lao động nghèo nàn, cửa sổ nhìn xuống con hẻm nhỏ, có lẽ xóm này còn có những ổ chơi bời nữa, như xóm cũ Tú Kếu đã ở. Tôi thấy khách chơi ra vào tấp nập, mùi son phấn và những tiếng gọi nhau ơi ới, những câu chửi thề, những lời trao đổi tục tĩu. Tú Kếu nói:
- Ít hôm nữa mình về nhà Bạch Ngọc, ăn cơm với vợ chồng Trần Dạ Từ mình sẽ đỡ lo hơn, nếu thấy còn ham vác ngà voi thì về với tao, một mình tao gánh mêt quá. Căn nhà đó ở đường Bùi Viên, một gian của trường Thăng Long cũ. Một căn nhỏ bên cạnh cầu thang làm tòa soạn.
Tú Kếu nói thế rồi lăn ra sàn ngủ liền, trong cơn mơ anh vẫn lèm bèm nói anh phải viết bài điền vào khoảng trống. Chỉ còn mình tôi thức trên căn gác. Tự nhiên, như có gì vô hinh thồi thúc tôi ngồi vào bàn. Giống như bị ma nhập, tôi cầm bút lên, như thuở nào, những ngày bắt đầu có nỗi đam mê, tôi suy nghĩ, sắp xếp bố cục và nắn nót ghi cái tựa đề: " Bà Chúa Tám cửa Ngục ". Tôi viết, hình như chẳng khó khăn gì, đến gần sáng nhiều trang giấy đã đặc kín chữ.
Tôi đọc lại những gì đã viết, hình như không đến nỗi tồi. Tôi viết về đời sống những người tù, những điều dị đoan mê tín của họ trong hoàn cảnh cùng khổ, như những điều tôi đã sống và đã kể cho Tú Kếu nghe chiều nay. Vẫn có một quyền lực gì đó siêu linh che chở cho những linh hồn cô đơn giữa chợ đời.
Trời gần sáng, dưới con hẻm bớt lao xao. Tú Kếu vẫn ngủ say dưới sàn gác. Tôi ngồi chống tay lên bàn nhìn ra cửa sổ, phía dưới là những mái nhà cao thấp, những mái tôn chen mái lá. Tôi chợt nhớ đến căn xép nhà tôi thuở nào, bao nhiêu là những người anh em nằm ngủ qua đêm, chẳng biết đến bao giờ tôi mới gây dựng lại được. Hình ảnh một gia đình với tất cả tình yêu thương trong trí nhớ làm tôi thấy buồn.
Tô sửa chữa xấp bản thảo rồi dằn dưới cái gạt tàn thuốc lá. Tú Kếu vẫn ngủ say. Để anh ngủ, tôi viết lại mấy chữ, tôi ra khỏi căn gác. Xuống hẻm và đi ra đường. Một quán cà phê mở cửa sớm, giờ giới nghiêm đã hết, một quán cà phê Tầu, bán hủ tíu và bánh mì xíu mại, với tiếng gị hàng lảnh lót của phô ki, như những quán cà phê bán sớm ở khắp SG Chợ Lớn thuở đó. Xung quanh tôi những lhuôn mặt mệt mỏi, những tiếng nói chuyện lao xao, họ đang nói chuyện Phật Giáo đấu tranh đòi lật đổ chính quyền NĐDiệm.
Không phải riêng một gia đìng ông ta mới biết chống cộng, một lời phản bác nào đó. Họ nói đến những cô cbiểu tùnh bão táp xảy ra trên toàn quấc
Tôi chờ Tú Kếu ở quán cà phê khá lâu, anh không ra hay đã đi lối khác, những ngõ hẻm trong những xóm như thế này chằng chịt, khô mà gặp được nhau nếu không hẹn trước. Tôi đạp xe lên ngã sáu SG và kẹt vào một đám biểu tình xuống đường. Sư sãi, sinh viên học sinh, nhiều thành phần xã hội. Dây thép gai giăng ra khắp ngã đường, cảnh sát, công an, cảnh sát chiến đấu đàn áo thẳng tay. Tiếng tụng kinh, tiếng đả đảo, tiếng gào khóc, lời rủa sả chế độ độc tài. Từ xa phía ngã tư đường Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt lửa bốc lên. Chuyện gì đó, tôi không biết, người ta chạy rần rần, tôi bị xô đẩy theo hướng đó, tôi bị lãnh không biết một cái dùi cui hay cây gậy, tôi gục xuống. Có cánh tay ai đỡ tôi dậy dìu chạy, không, đây là một vòng tay thân ái, không phải vòng tay thù địch. Tôi hiểu như thế trước khi không biết gì nữa.
Nắng SG vẫn rực rỡ.
CHƯƠNG 15
Tôi gặp lại hầu hết anh em bạn thời niên thiếu, những người bạn như tôi thuở đam mê văn nghệ. Một số khác đã có danh, công tác ở những tờ báo khác như Chu Tử, Hoàng Hải Thuỷ, Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn. Lê Xuyên. Các anh viết cho tờ báo trong đó có tôi hợp tác, vì tình cảm chứ không vì tiền nhuận bút. những người làm việc cật lực để hoàn tất số báo là vợ chồng TDTừ, Nhã Ca, Tú Kếu và tôi.
Tờ tuần báo Ngàn Khơi nghèo nàn đến thảm hại. Toàn là do sự góp công góp sức của các anh em văn nghệ sĩ nghèo. Riêng tôi chưa dám xài danh từ ấy, dẫu là có mơ ước. Tú Kếu và tôi được nôi cơm ngày hai bữa, buổi sáng có gói xôi đồng bạc, ly cà phê đen nhỏ, điếu thuốc. Nhưng chúng tôi làm việc từ A đến Z, không nề hà bất cứ một công việc gì. Tuy thiếu thốn, nhưng tôi lại có một thể hình trâu nước, không ốm đau bệnh tật, nên anh em goọi tôi là thằng trâu nước, những công việc náo nặng nhọc quá tôi gánh thay cho Tú Kếu. Như chạy lên chạy xống bộ thông tin, đi lấy bài vở anh em, có khi chở xe đạp theo Tú Kếu, để nâng cao uy tín lấy bài được chóng vánh, vì khi đó tôi chưa là gì cả, một anh loong toong, tuỳ phái, sai vặt...Đôi khi đi đường đánh lộn để bênh vực Tú Kếu vì hắn ta có tính láo ưa chửi bậy, cà khịa lung tung, bởi cái tính hắc xì xằng kiểu lý tưởng nhà quê. Phần phải về Tú Kếu đôi khi chỉ có 30%, nhưng không lẽ vì vậy mà bỏ bạn sao. Anh em vì vậy cũng gọi tôi là " nhà văn du đãng ". Cũng được, chẳng sao. Tú Kếu chỉ nặng hơn 30 ký lô, có phải chở đi từ đầu SG đến Vò Gấp nhà Đằng Giao để lấy hình vẽ đi làm cliché cũng chẳng nhằm nhò gì.
Công việc mà tôi coi là mệt nhọc nhất là đi xin bài cho báo, các ông nhà văn vốn tính lười biếng, hứa hẹn cho đã miệng rồi khi nước đến chân mới nhảy. Có hôm hai giờ sáng tôi còn phải ngồi chờ bài ở nhà người viết cuối thành phố. Cà phê thuốc lá cho đàn anh viết bài, ban cho những câu văn thơ quí như châu ngọc. Nhà văn đặt bút xuống bàn, ngáp dài, nói trong nụ cười mệt mỏi:
- Cậu thông cảm nhé, không phải vì viết không tiền tôi lười biếng đâu, có tiền cũng vậy thôi, tính tôi thế, anh em mình mà...Mà này, đừng coi này tầm thường, tác phẩm lớn đấy. Nếu thấy còn thiếu thì thêm cái " vi nhét " chậu bông chạu hoa gì vào cũng được.
Thuở đó in báo còn dùng kỹ thuât ti pô, chưa có vi tính như bây giờ nên cực vô cùng, mà tôi với những anh em đam mê. Làm thế nào cho có chữ nghĩa thì thôi.
Tôi giao bài cho Tú Kếu đưa sắp chữ, tôi lăn ra ngủ trên những ram giấy in. Tiếng máy in chạy không làm rộn giấc ngủ của tôi, nói thật tình tôi coi cái âm thanh đó êm ái như tiếng ru của mẹ thuở ấu thơ. Lại mơ mộng rồi thăng hoa tầm bậy. Thực tế không phải như thế, vì thói quen bạ đâu ngủ đó thôi.
Tôi bắt buộc phải thôi nghề cu li đổ bê tông, ống cống, cọc hàng rào ấp chiến lược. Vì chủ thầu lỗ lã quá nặng, nhà nước không thanh toán tiền bạc lấy cớ là thời cuộc đang rối ren. Chủ thầu và các cu li uống với nhau những chén rượu tạm chia tay, hẹn ngay tái ngộ rồi đường ai nấy đi.
Mãi 20 năm sau, khi tôi ngã ngựa, phải buông cây bút, hết thời, tôi và một vài anh em bạn đồng nghiệp trở lai làm nghề cu li nay không còn gọi là cu li nữa mà là công nhân. Danh từ nghe cũng hay hay, dân chủ lắm.
Sau bỏ nghề cu li, tôi đi một lèo sang Tú Kếu, TDTừ. Anh em đón tiếp tôi nói rõ điều kiện hợp tác và hoàn cảnh tờ báo hiện tại, kể cả sự nguy hiểm. Tôi chấp nhận. Nụ cười của Tú Kếu thoải mái dễ thương....
- vậy là thêm một thằng nhập bọn " vác ngà voi ".
Tú Kếu vẫn thường có giọng điệu khôi hài như vậy, từ khi anh chuyển sang làm thơ tráo phúng, thơ anh mang bút hiệu Tú Kếu, nghe tếu, châm chọc đủ thứ, đủ mọi loại người không ra gì trong xã hội, bất chấp quan quyền đương thời, bọn đạo đức giả.
Chúng tôi cần cù chăm lo tờ báo. Nhưng báo đã đuối sức quá rồ, bị ngăn chặn phát hành, bị bộ tông tin đục đẽo nham nhở, tờ báo có cơ chết non. Vợ chồng Bạch Ngọc chỉ có nhiệm vụ chạy giấy in và lo khất nợ tiền in với ông nguyễn Đình Vượng.
Thi sĩ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt, một nhà thơ tài năng người miền Nam, dĩ nhiên thi sĩ thì nghèo rồi. Anh thỉnh thoảng đăng thơ trên báo Ngàn Khơi, anh em thấy không trả nhuận bút thì tội anh quá, bèn giao anh mỗi tuần mười số báo để anh tự bán lấy tiền tiêu, giúp đỡ cho vợ con anh phần nào. Nhà anh trong ngõ hẻm lấy lội đường Nguyễn Cư Trinh, cũng gần toà soạn.
Một hôm thấy anh chạy sang rủ tôi đi uống cà phê, tôi hỏi:
- Mày không bán báo à?
- Bán rồi!
- Sao nhanh thế?
- Tao bán mão!
- Bán mão là sao?
- Bán lần một!
- Mày để lại cho người khác?
- Bán cho con mẹ ve chai về làm bao gói đồ.
- Trời, còn độc giả thì sao đây!
- Độc giả cái con mẹ gì, còn chữ nghĩa đâu mà đọc. Bộ thông tin làm láng rồi......
- Theo đúng ra báo bán ve chai thì phải nhúng mực xanh mới bán vì đó là báo ế, báo tồn kho.
- Không sao, chẳng luật lệ mẹ gì hết, chuyện " chẳng đặng đừng " tao bán được tiền mua ký gạo cho mẹ con nó, còn tiền dư rủ máy đi uống cà phê đne nhỏ, hít điếu thuốc cho đời lên hương, mày lại viết văn còn tao thì mần thơ.....
Tiền bạc chẳng có bao nhiêu, nhưng Trần Tuấn Kiệt cũng đòi sang nhà in Nguyễn Đình Vượng rủ Tú Kếu đi uống cà phê. Nhà in NĐVượng là một nhà in nhỏ, nhưng tay nghề cao, ở đường Phạm Ngũ Lão chợ Thái Bình. Ông chủ nhà in là người yêu văn nghệ nên chịu đựng được bọn Ngàn Khơi. Con đường qui tụ nhiều tờ báo lớn nhỏ, cả những nhà xuất bản loại " bỏ túi " nhưng sẵn sàng " ăn to nói lớn ". Những anh nhà báo, nhà thơ, nhà văn qui tụ dài dài cả ở đấy, cả những tay đầu nậu xuất bản. Lần đầu tiên tôi đích thực tiếp xúc với các nhà văn, nhà báo, hoà nhập với họ. Biết cả những cái tốt và cái xấu mà nghề nghiệp mình theo đuổi hay đam mê, biết nổi giận khi nghề nghiệp của mình bị đàn áp, những bất công trong xã hội bị quyền lực giấu nhẹm hoặc bị bắt nói khác. Biết phẫn nộ khi quyền thứ tư bị chà đạp Giấy bút tôi ai lấy mất đi, tôi sẽ dùng dao khắc trên đá....Câu thơ ấy như châm ngôn dùng cho người viết văn làm báo thuở ấy. Ngược lại cũng có câu: Nhà báo nói láo ăn tiền. Cho những kẻ lợi dụng ngòi bút để làm mất phẩm chất cao quý của nghề nghiêp. Một chốn vàng thau lẫn lộn. Và biết thế vàng có đãi mới thấy, chất ngọc đích thực ở trong đá, phải tìm mới ra. Chuyện đó không phải không gian nan vất vả. Còn chuyên nọi thì dễ thôi, ai nói không được.
Những việc làm quá quắc của nhà nước với báo chí gây thành phong trào chống đối mỡi lúc một rộng lớn, đánh thức lương tâm của mọi hạng người. Những bắt bớ, những đàn áp, những thiệt hại cho dân được nhà nước nhân danh thượng tôn pháp luật, chính trị bị dân coi thường và coi là những biện minh xảo quyệt.
Những bài thơ trào phúng của Tú Kếu bây giờ trở thành món ăn tinh thần của độc giả, cả ông chủ nhà in NĐVượng, ông thường đòi thợ in phải " vỗ phông " ra một bản riêng cho ông đọc, trước khi đem đi kiểm duyệt để chịu sự đục đẽo. Vì sự thông cảm đó mà ông Vượng cho thiếu tiền in chồng chất.
Ông còn đề nghị:
- kệ nó, cứ in nguyên bản một vài chục số, sau này còn phải giữ lấy nó làm tài liệu chứ.....
Với lòng háo thắng của đám anh em chúng tôi, những tờ báo nửa nọ nửa kia đó trở thành báo lậu. Tờ báo được sự bí mật trợ giúp của một số độc giả nên vẫn ngắc ngoải sống được. Mật vụ đánh hơi thấy, dĩ nhiên cũng cho người len lỏi vào để nhận diện, từng tên một, được đánh giá, rồi sẽ giăng môt mẻ lưới....Chúng tôi là một đám người điếc không sợ súng. Sợ đã sợ quá mất rồi nên không còn biết sợ là gì nữa. Và chẳng còn biết an phận là gì, dù thân phận thường xuyên đói rách. Những bài thơ củ Tú Kếu, nay gọi là thơ đen ngày càng kinh khủng hơn, như những phát đạn bắn vào thành trì độc tài, bất công. Nhã Ca làm một bài thơ tha thiết cho xứ Huế. Bài " tiếng chuông thiên mụ ". Đỗ Quý Toàn với bài thơ " Lửa ", bừng bừng khí thế đấu tranh, ngày ngọn lửa thiêu của hoà thượng Thích Quảng Đức ngút cao, đánh thức lương tâm loài ngưòi. Lilêm sĩ của con người được thể hiên trung thực qua ngòi bút, ngòi bút mảng mai và nền bỉ. Tất cả những xấu xa lừa gạt từ bất cứ đâu đến cũng sẽ được phơi bầy. Cái công tâm của người cầm cây bút có liêm sỉ phải đúng như vậy. Tôi mơ ước được mang nó đến trọn đời...Tôi yêu quí nghề nghiệp tôi đeo đuổi. Mộng thành văn sĩ đã đến chưa? Với tôi là muộn màng rồi đấy.
Chúng tôoi sống với nhau thường xuyên đói rách, thiếu thốn đủ mọi thứ nhưng vui. Lúc nào cũng vang tiếng cười, những chuyện vui dí dỏm thường xuyên giữa chúng tôi.
Chị vợ anh chủ nhiệm mặt méo sẹo, buổi sáng khi phải phát tiền ăn xôi, uống cà phê cho chúng tôi, mắt chị cận thị cứ nặng lên phải soi mãi đồng tiền nhôm lên xem có đưalộn đồng một đồng thành đồng hai đồng không. Có hôm tôi phải la lên:
- Đúng đồng một tì rồi, bà ơi, soi hoài thủng mẹ nó mất tôi làm sao mua sôi được nữa.
Chị Bạch Ngọc phì cười, chữa thẹn:
- Thì đây, các ông cầm lấy, nếu lộn thì trả lại cho tôi, tôi còn chia cho người khác, hai thằng con tôi còn chưa có kìa.....
Những ly cà phê đen nhỏ, điếu thuốc Bastos và nắm xôi làm chúng tôi tỉnh táo cả người sau những đêm thức trắng vàng cả mắt, nhìn gì cũng thấy màu vàng. Tú Kếu còn yếu hơn nữa, có những lúc anh gục đầu vì kiệt sức. Niềm đam mê làm việc bùng lên trong chúng tôi như những con bạc đến hồi khát nước. Làm việc và sáng tác như điên, bất kể thì giờ và sức khoẻ. Tay nghề viết của tôi cũng bắt đầu đi vào nhuần nhuyễn. Tôi không còn làm thơ được dù rất yêu thơ, tôi biết mình không có khiếu trong lãnh vực đó. Tôi thu gom một mớ truyện ngắn của mình cũng kha khá, những đề tài xã hội, đất nước, cuộc chiến....nhưng tôi vẫn chưa lấy làm hài lòng, vẫn còn những nét vụng về khi nhìn lại tác phẩm của mình. Như người hoạ sĩ nhìn lại những bức tranh mình sáng tác.....
Thời gian này tôi quen và thích đọc những truyện ngắn của Duyên Anh, nhất là những truyện viết về tuổi thơ, không biết có phải phản ảnh chính tuổi thơ của Duyên Anh hay không? Sao nó bất hạnh và gian truân và mộng mơ đến thế: " Dưới giàn hoa thiên lý ; Con sáo của em tôi " Duyên Anh đã có vợ và con, vợ anh là con nhà đại dịa chủ ở Long Xuyên. Anh là Bắc Kỳ di cư, người xứ Thái Bình. Tô thấy trong truyện của anh nhắc đến cầu Bo ở Thái Bình hơi nhiều và trận chết đói năm Ất Dậu 1945, người xứ anh là nạn nhân chính trong vụ chết đói ấy. Anh tuổi hợi, nghĩa là hơn tôi ba tuổi, nhưng cũng dễ thông cảm nhau. Khi ấy Duyên Anh làm công chức, cán bộ gì đó ở Thanh Niên Cộng Hoà. Anh hay đến nhà in Nguyễn Đình Vượng in sách báo gì đó trong bộ quần áo xanh cán bộ TNCH trên chiếc vespa Italic. Con người lúc náo cũng bảnh bao, mặt trắng và chải tóc mướt. Chúng tôi dễ thân nhau và cũng dễ mày tao chi tớ loan cào cào những lúc ngồi với nhau uống ly cà phê. Khi anh mua cho tôi khúc bánh mì thât dài thật to:
- Mày phải ăn thế này mới đủ được, cái thằng du đãng Trâu Nước.
- Nhưng....
- Không nhưng nhị gì hết, mày biết tao có vợ giầu mà, ở nhà vợ tao xào cho tao nguyên một chảo tim gan phèo phổi, ngày nào cũng vậy, tao ngán lên tận cổ, trong khi chúng mày lại thiếu thốn cả miếng ăn no bụng....
Con người Duyên Anh Vũ Mộng Long như vậy, pha chất kiêu, tếu khi nói chuyện, nên rất bị ngộ nhận. Điều đó tồn tại mãi trong anh cho đến khi anh qua đời. Cái tính huênh hoang không thay đổi và bất cần cải chính có lẽ vì thế đã hại anh. tìm môt con người đích thực ở Duyên Anh là chuyện khó chứ không phải dễ. Nhưng mấy ai có thân tình và thì giờ để ngồi phân tích một con người. Tôi còn nhớ hai mươi mấy năm sau, sau khi đi học tập cải tạo về. Vợ con anh sau đó được bảo lãnh ra nước ngoài đi trước. Duyên Anh gặp tôi ngồi ăn với nhau một bữa ban đêm ở chợ Thái Bình, trước nhà in Nguyễn Đình Vượng xưa. Anh đưa tôi xem moị thứ giấy tờ ra đi theo diện ODP, nhưng rồi anh gấp lại:
- Tao đầy đủ giấy tờ ra đi hợp pháp, nhưng tao không làm chuyện này. tao vượt biên, đi vậy mới đáng mặt, tao lo chuyện này rồi, tao mới bán căn nhà ở Công Lý được mấy chục cây, tao sẵn sàng chi cho mày ba cây để ra đi....
Tôi chần chờ vì còn nhiều lý do. Duyên Anh nói thẳng vào mặt tôi:
- Tao ít khi tốt với ai lắm, sau này mày đừng hối hận tao đã nói với mày như thế đêm nay.

Lần đó là lần cuối cùng tôi gặp Duyên Anh, cho đến lúc anh qua đời, qua tin trên đài phát thanh ngoại quốc. Thế là tôi lại mất thêm một người bạn nữa ở nơi xa xôi...Tôi thắp cho anh một nén nhang sau khi nghe tin, hôm đó là một ngày giáp tết nguyên đán.
Không biết có phải là tình yêu? Hình như là tình yêu, sau những ngáy tháng tôi có một đời sống dạc dài, trôi nổi. Con ngưòi tôi không còn gì là thơ mộng nữa và không thể có cái lãng mạn sướt mướt của một người viết văn tình cảm. Tuổi trẻ, tuổi yêu đương của tôi đã ném vào sọt rác rồi. Tôi làm sao có được các vuốt ve trữ tình, tôi ném vào tình yêu toàn chuyện kinh khủng, tàn bạo qua lối viết văn cộc cằn, đôi khi thô lỗ. Mà tôi cho đó là sự thât cần được nói lên. Có thể tôi đã sai, nhưng đó là lối của tôi. Tôi có thể cười hộc lên một cách bất lịch sự khi nghe lời tỏ tình êm dịu của một cặp tình nhân nào đó ở công viên hay một nơi phong cảnh hữu tình đẹp như thơ.....
Nói tóm lại tôi vụng về trong chuyện ấy. Nếu tôi không thể là một nhà văn có khiếu viết truyện tình yêu. Ngoài bìa sách không thể in được dòng chữ tâm lý ái tình tiểu thuyết. Chưa bao giờ tôi viết được một cuốn tiểu thuyết như thế suốt mấy chục năm cầm bút. Tôi không thể làm đệ tử hoặc theo bén gót được những bậc trưởng thượng Song An Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm, hoặc Tuyết Hồng Lệ Sử của Tầu.
Nhưng bây giờ viết ký ức, tôi nghĩ mình cũng có tí quyền viết về mình một chút chứ. Một chút hình như là tình yêu. nhưng mơ ước, những lãng mạn còm của tôi, một thời đã xa xôi. Xin ai đó thứ lỗi. Nàng, bà lão ở nơi xa xôi cách tôi nữa vòng trái đất...Chính vì đã đọc bài thơ Tình Già của Phan Khôi nên tôi cũng có chút ngậm ngùi và lòng cũng rung lên, không phải cơn sốt rét, mà thật đấy, văn nghệ đấy. 40 năm trước, một hôm tôi ngồi một mình ở toà soạn tuần báo Ngàn Khơi. Tôi cắm cúi viết truyện ngắn có tựa đề là Vác Ngà Voi. Trong khi phật Giáo đang đấu tranh tưng bừng. Chính chúng tôi cũng không biết bị vồ bắt lúc nào.
Tôi vừa viết, vừa gom góp một số truyện ngắn đã đăng báo để làm thành một tập. phải là một tuyển tập truyện ngắn, như điều toôi mơ ước. những truyện này tôi chọn lựa và sẽ sửa chữa liên tục rồi gửi thằng em. Một ngày nào đó tôi sẽ mang ra trình làng những mẩu chuyện có đề tài quái gở. Không biết tôi có được chấp nhận hay không, chuyện ấy hạ hồi phân giải. Anh em thì nói tôi viết được, có những cái lạ mà nhà văn có đôi tay sạch sẽ không rớ tới. Vatồi cũng tin mình có chút tài năng để được làm nhà văn, điều mà tôi mơ ước từ tuổi hoa niên.
Tú Kếu thì hăng hái hơn, hắn động viên tôi:
- Cứ sáng tác đi, chẳng có gì đáng nản, cả tao cũng vậy, thơ của tao đâu có giống thơ " Lỡ bước sang ngang " của Nguyễn Bính, mình sẽ lập nên một nhà xuất bản, nghề in ở tay mình. Mày biết không mình sẽ lập nhà xuất bản lấy tên là Tiếng Nói.
Thế là tôi quên béng đi mọi chuyện thực tế vây quanh. tôi say sưa với Tú Kếu về nhà xuất bản Tiếng Nói chưa thành hình. Cứ nói cho sướng miệng rồi hạ hồi phân giải. tôi hùng hục viết, sáng tác. Nhà thường cúp điện, tôi tìm được cây đèn dầu cũ, đốt lên vửa đập mũi vừa sáng tác suốt đêm. tôi trở thành anh cận thị hơi nặng.....
Lúc rảnh rang tôi lại lấy giấy bút ra, viết những điều mình từng suy nghĩ...Không biết nên gọi là nguồn văn lai láng hay lênh láng đây. Tôi không nghiêm chỉnh ở được một việc gì. Tôi biết mình cà chớn trong đời sống, vì vậy tôi thưòng hay thất bại. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng...như câu xưng tội.
Nàng hiện ra lúc đó, khi tôi không chờ không đợi. Mái tóc dài bỏ xoã, mặt hiền lành trắng hơi chút xanh xao, chiếc áo dài lụa nâu, quần đen và một đôi quốc sơn đen, quai nỉ lông trắng, một người con gái giản dị, không một chút xe xua kiểu cách ở tuổi mới lớn. Nàng như một nữ tu, có lẽ một ni cô là hợp thời nhất. Tiếng nói nàng thât nhỏ nhẹ:
- Xin cậu cho cháu hỏi cậu Nhiên.
Tôi ngẩng lên khỏi đống giấy tờ bừa bộn:
- Cậu Nhiên nào, ở đây không có ai là cậu Nhiên hết.
- Cậu Nhiên cháu làm thơ, viết báo ở tờ Ngàn Khơi này mà.
- Vậy thì càng không thể có được. Tôi biết tất cả mọi thằng nhà văn, nhà thơ, nhà báo ở đây., có nhiều nhặn gì đâu, đếm trên đầu ngón tay, chỉ có mấy mạng thôi. Tôi kể ra cho nghe này.....
Cô bé rối rít:
- Dạ đúng rồi, cậu Tú Kếu chính là cậu Nhiên, cậu của cháu. Ở nhà thường hay gọi tên ấy, từ khi ở nhà quê xứ Sơn Tây kia. Cậu cháu đi viết báo, làm cách mạng nên nhiêu tên lắm, ngoài tên nguyễn Huy Nhiên ra còn tên Hoàng Bình Sơn, Trần Đức Uyển và bây giờ thì Tú Kếu.....
Tôi cười thoải mái:
- À ra thế, tôi không biết cái tên cúng cơm của nó, chắc cái tên này hồi còn ở nàh quê Tây Sơn nó đã dùng mua chức lý trưởng để gọi là quan lý, nên nó giấu tôi.
Không chừng nó đã cưới vợ tảo hôn rồi, nên bây giờ nó mới biết làm thơ.
- Không phải đâu cậu ơi. Cậu Nhiên cháu chưa bao giờ lấy vợ và cũng chưa mua lý trưởng.
Tôi cười vui vẻ, ngay lần gặp đầu tiên, trêu chọc thêm:
- Hoặc là chức trương tuần, tôi gọi nó là thằng trương tuần Nhiên, tôi cho nó vào tiểu thuyết. Thôi được rồi, ngồi chờ cậu Nhiên đi, nó ở bên nhà in cũng sắp về bây giờ.
Trong khi chờ đợi Tú Kếu, tôi hỏi cô bé:
- Tôi quen Tú Kếu lâu rồi, từng ăn một mâm nằm một chiếu với nó. Sao không nghe nói đến cô và cũng không thấy cô đến thăm?
Cô bé bẽn lẽn:
- Cậu ấy chỉ đến thăm ở nhà cháu thôi, cậu ấy hay thuê nhà ở những nơi ghê quá à, ai mà dám đến. Cả tháng nay không thấy cậu ấy đến, mẹ cháu sai cháu đi chợ, cháu tạt qua xme cậu ấy làm ăn làm sao mà biền biệt.....
- Đơn giản thế thôi hả?
Cô bé gật đầu thật thà:
- Dạ thế thôi, và xem cậu ây thiếu thốn gì....
- Thiếu thốn thì nhiều lắm kể không ra hết. Nhưng Tú Kếu còn có người nghĩ đến, chứ tôi thì bạc phước.
- Cậu...cậu...?
- Chính vậy, tôi mồ côi, không nguyên vẹn hai đấng song thân, mẹ ở xa, không ngưòi thân thích, nói ra mủi lòng lắm.
- Thế hả, cậu nói thật đấy chứ...nàng nhìn vào mặt tôi:
- Ấy, cậu đừng thề, cháu tin rồi, coi như cháu của cậu, cháu là Mai Kha, còn cậu là cậu Long phải không. Nhìn người là biết ngay, cháu có đọc mà.
Tôi xuýt nữa thì phì cười vì sự ngây ngô vô tội của cô bé. Tú Kếu lửng thững đi về. Mặt hắn ta lạnh như băng khi nhìn thấy cô cháu ngồi đó:
- Sao cháu lại đến đây?
- Cháu tới thăm cậu mà, sao lâu quá cậu không đến thăm nhà cháu, cháu nghe nói mật vụ nó bắt mấy nhà báo nên lo quá.
- À chuyện đó có, nhưng cậu thì chưa, cháu thấy đó, chẳng biết lúc nào đâu mà nói trước....
- Dạ không nên nói trước, nó vận vào người thì khổ. Cậu Thu ở tù lâu rồi mà vẫn chưa ra.
- Ông ấy ra sao được nếu chế độ này chưa sụp đổ. Nó dụ ông ấy vào đảng Cần Lao Nhân Vị thì nó thả liền, nhưng có đồi nào.....
Tôi biết hai cậu cháu nói chuyện đến ai. Cái mặt anh chàng Tú Kếu có vẻ cau có, không biết có phải cau có vì tôi có mặt hay không. Nhưng thây kệ hắn, việc tôi tôi cứ làm. Hai người nói một tí chuyện gia đình, họ hàng bà con, Tú Kếu nhắc nhở cô cháu:
- Này cậu bảo cho mà biết, mày không đi biểu tình xuống đường nghe chưa, bọn chúng dã man lắm, chúng đáng cho bỏ mẹ....Mày cũng về bảo mẹ mày như vậy, bà ấy là tín đồ Phật Giáo cũng hăng tiết vịt lắm. Bọn cảnh sát dẹp biểu tình không chừa một ai đâu, ni cô phật tử nó đánh ráo đấy, bất kể già nua hay còn trẻ.
- Còn cậu thì sao, chửi chúng nó vừa thôi, cạu chửi cả bà Trần Lệ Xuân nữa.
- Con mẹ, không bà nào ở đây cả, nó sang Tây giải độc mà nói ngu như bò.
- Cậu nên giữ gìn sức khoẻ.
- Có sức khoẻ chó đâu mà phải giữ gìn, đói rách thường xuyên, làm việc như trâu mà vẫn thiếu ăn. Ngoài việc hỏi thăm cậu thì đã xong rồi đấy, cậu cám ơn, cháu có thể về, ở khúc đường đằng kia nó mới dẹp xuống đường đấy......
- Cháu không sợ, cháu phải mời cậu đi ăn uống gì chứ.
- Việc đó tốt thôi.
- Tú Kếu nhìn tôi. Cả Mai Kha cũng nhìn tôi cười cười. Tú Kếu hỏi:
- Hai đứa mày quen nhau chưa? Hay phải để tao giới thiệu?
Tôi trả lời liền:
- Mới quen nhau tức thì.
Tú Kếu lẩm bẩm:
- Mẹ sao mà nhanh thế, trông mặt thằng này tao thấy gian gian. Thôi được dù sao nó cũng là bạn tao, chúng tao hạt gao cắn đôi, nếu mày mời tao cũng phải mời nó.
Quả thật chúng tôi có chỗ thân tình như thế thật, như sáng nay hai đứa chúng tôi phải ăn chung một gói xôi, chia ra mỗi thằng được một véo, chẳng thấm tháp vào đâu. Được mời như cởi tấm lòng, dĩ nhiên tôi bằng lòng ngay. Ba cậu cháu cùng đi sang chợ Thái Bình. Cô cháu Mai Kha:
- Được rồi hai cậu ngồi ăn gì, cháu ngồi coi không, cháu chỉ uống môt ly chanh nóng thôi vì cháu ăn sáng rồi, lát cháu còn đi chợ rồi mới về....
Tú Kếu hình như quen với chuyện này, anh ta vào ngay hàng hủ tíu, chắc ăn hỏi:
- Thoải mái chứ?
- Dạ ăn thì phải thoải mái rồi.
Có lẽ cô cháu Mai Kha vì thực thà không hiểu nổi câu hỏi của ông cậu, nên mới trả lời như thế. Tú Kếu nói với tôi:
- Mày thấy không, gọi luôn cà phê đi cho tiện việc sổ sách, hôm nay mình uống cà phê sữa một phen, đừng có khách sáo mà làm mất tinh thần đi. Sao cái mặt mày coi khó ưa quá vậy, chẳng thấy mày phát ngôn được một câu nào.
- Tôi có tính xâu, chưa ăn thì chưa nói.
- Thì ăn đi, như tao, đừng khách sáo nữa coi rởm lắm, mất chỗ thân tình đi, cháu tao cũng như cháu mày. Cuộc ăn uống " bấu xấu " diễn ra ác liệt và rất tận tình. Mỗi thằng ăn tới ba tô hủ tíu vị chi là sáu tô, hai ly cà phê sữa, một ấm trà, hút hết một gói thuuốc lá Ruby. Cô cháu chỉ uống một ly trà chanh nóng mà còn bỏ giở. Cô bé khi trả tiền thì mặt biến sắc, nàng hết nhẵn cả tiền đi chợ. Đúng là gặp ngay hai thằng cậu " ma đói ". Chắc là cạch tới già...Tôi tự trách mình sao mà tôi vô tình đến vậy? nàng có thể oà khóc như trẻ thơ khi bị ăn dỗ. Lại là tiền chợ mẹ giao cho mới mệt.
Tú Kếu vẫn vô tâm vô tính:
- Chợ đây, mày đi chợ đi, hai cậu xách giỏ cho.
Giọng Mai Kha hơi run:
- Thôi mà cậu, cháu hết cả tiền đi chợ rồi, để cháu về chợ Nancy gần nhà, có hàng quen.
- Mẹ mày thì đánh chết, mày cứ nói đi chợ bị móc túi hết tiền rồi.
Cô bé bây giờ mới rơm rớm nước mắt, có thể oà khóc:
- Không, cháu không nío dối, nói dối là có tội.
- Thôi thì kệ mày....
Tự nhiên tôi ân hận, thấy khó xử trong hoàn cảnh này và có ấn tuơng tốt về một cô bé, mặc cảm xấu xa về chính mình cũng dậy lên trong lòng tôi. Sao tôi lạ thế nhỉ, mới lần đầu tiên gặp cô bé, chẳng biết giới hạn mình. Nhiều năm trời trôi qua, Mai Kha có thể quên, nhưng tôi thì nhớ mãi....Khi nhìn cô cháu từ giã hai ông cậu ôn dịch, tôi đứng nhìn theo chiếc áo dài màu nâu non của nàng, tôi nói một mình, nhưng Tú Kếu cũng nghe thấy:
- Một nàng tiên nâu.
- Con bé đó là một nàng tiên nâu, mày nghiện thì bỏ mẹ.
Hai đứa đành cười xoà, vì biết làm gì hơn được. Tôi nói cho đỡ ngượng: " Lần sau thì cạch mặt hai ông cậu! " Tú Kếu nói: " Không đâu, nó rất tốt và thông cảm, nó biết cậu nó là con ma đói thì bạn của nó cũng vậy, một tuồng như nhau ".
Hình như là tình yêu, tôi chỉ dám lãng mạn ngầm. Nói ra thằng bạn tôi cười chết. tô thầm mong Mai Kha không cạch mặt tôi. Tôi cứ dính lấy Tú Kếu thì có cớ ăn theo.
Nắng SG vẫn rực rỡ.
CHƯƠNG 16
Chủ nhà in Nguyễn Đình Vượng nhìn hai thằng chúng tôi:
- Tôi cho chạy máy rồi, đã in xong, không có đục đẽo mẹ gì cả. Tôi chủ nhà in còn không sợ, các cậu sợ cái gì. Các cậu sợ báo bị tịch thu hả, không đâu, cảnh sát thi hành lệnh tịch thu cũng chẳng còn hơi sức đâu. Biểu tình khắp nơi còn không đủ người đi dẹp. In được bao nhiêu tờ báo cho các em học sinh đến lấy đi bán ráo, người ta thích đọc những bài báo nguyên vẹn hơn là đục đẽo. Tiền bạc các em mang về đàng hoàng không thiếu một tờ để các cậu có vốn mà tiếp tục. Bây giờ báo mình là báo lậu hiểu không, nhà in của tôi hãnh diện lây. Nợ nần thì cứ để đó...Thơ Tú Kếu mà đục trắng ra thì ai xem nữa. độc giả người ta khát thơ, khát những bài văn nẩy lửa như khát nước....
Tú Kếu nói:
- Mình phải có một kế hoạch.
- Đúng, tôi không nghĩ đến, báo có bán được thì mới có tiền trả nợ nhà in chứ. Tôi có làm môt bữa tiệc lòng lơn tiết canh và ít rượu ngon chờ các cậu trên lầu kìa, chúng ta vừa đánh chén vừa bàn kế hoạch.
Ông chủ nhà in, Tú Kếu, tôi kéo nhau lên lầu, ngồi ngay sác gát đánh chén và bàn kế hoạch phát hành báo. làm thế nào tờ báo nguyên vẹn đến tay độc giả và tờ bị kiểm duyệt nộp lưu chiểu cho bộ thông tin vẫn hợp pháp, tuân hành lệnh kiểm duyệt.
Rượu vào, lời ra, chúng tôi tìm ra giải pháp. Nghĩa là in hai ấn bản, số it thôi có kiểm duyệt tại nhà in Nguyễn Đình Vượng, mang về toà soạn phát hành và nộp lưu chiểu. Ấn bản không đục đoẽ được mang bản in qua nhà in khác in bí mật và cũng nộp bí mật qua các em học sinh có tâm huyết. phát hành trong những cuộc biểu tình đấu tranh như phổ biến truyền đơn, nhưng cũng thu được sự giúp đỡ lẫn nhau bằng tiền bạc để nuôi sống người làm báo, đôi khi còn hậu hĩnh. nhưng cũng nguy hiểm cho những ngưòi chủ trương. Chúng tôi liều thây kệ luôn lời cản ngăn của ông " lãnh tụ " văn nghệ NgĐQ. Chưa bao giờ tôi thấy say mê làm báo như lúc ấy.
Một đêm, sau một ngày làm việc mệt nhọc, chúng tôi ngủ vùi dưới nhà chủ nhiệm. Trời còn tối, có tiếng đập cửa gấp rút. Tiếng Nhã Ca bên ngoài nói vọng vào:
- Hai anh trốn đi ngay, anh Từ bị mật vụ bắt rồi, chúng nó đang lùng tìm hai anh đó.
Tôi và Tú Kếu bàng hoàng, vậy là tên chúng tôi đã có trong sổ đen, dù sao chúng tôi phải hỏi rõ Nhã việc này. Chị chủ nhiệm xụt xùi khóc, trao cho chúng tôi những đồng tiền ít ỏi, tôi nhìn chị nhắc nhở:
- Chị soi kỹ đi coi chừng lộn tiền.
Đang lúc buồn chị Bạch Ngọc phải phì cười:
- Các cậu lúc nào cũng đùa được, người ta đang lo cho các cậu, không biết sợ là gì.
Theo lời Nhã kể lại, TDTừ phải mấy cái bạt tai, dùi cui của bọn mật vụ ngay trước mặt vợ con khi bị bắt, anh không khai chúng tôi nằm ngủ dưới nhà. Sau đó chúng tôi biến đi cùng với những người đi chợ sớm. Buổi trưa, tôi và Tú Kếu toan mò về toà soạn, nhưng Nhã đã bế cháu Sớm Mai đứng đón ở đầu đường. Giọng Nhã xúc động:
- Anh Từ khi bị bắt nhắn lại rằng dù thế nào hai anh cũng cố gắng cho ra bằng được số báo tuần này. Sau đó tuỳ các anh.
Chúng tôi hăng hái hứa:
- Không phải chỉ mỗi số báo này, mà còn các số tới nữa, giấy in còn. Ông Vượng chủ nhà in sẵn sàng cho in thiếu.
Chúng tôi biến khỏi toà soạn và làm việc lưu động, có thêm sự góp sức của sinh viên học sinh đấu tranh, chia nhau với các sư nắm cơm chấm muối xả, củ khoai. Báo vẫn ra, những bài viết đấu tranh ngày một hung hãn dữ tợn hơn, những em học sinh giúp báo phát hành. Chúng tôi bị truy nã ráo riết, nhưng vẫn chưa bị tóm cổ, nhà tù chật cứng người bị bắt. Người ta phải nhốt lên cả trung tâm 3, những trại lính.
Để tránh liên luỵ cho bạn bè, buổi tối đưa Tú Kếu đến những xóm giang hồ trên kinh rạch hoặc bến xe để ẩn thân. Nhưng vẫn chưa phải là nơi kín đáo, mập mờ đánh lận con đen. Chúng tôi gặp nhà văm Lưu Kiếm báo Tự Do ở một nhà cho thuê ghế bố ở bến xe An Đông.
Tôi hỏi anh:
- Bộ về quê sao mà ra ngủ đây. sáng mai đi chuyến xe mấy giờ về tỉnh nào.
Anh lúng túng trả lời vớ vẩn, cuối cùng đành thú thật, anh đang lẩn trốn sự truy tìm của chế độ. Chúng tô cười với nhau vì chúng tôi cùng một giuộc.
20 năm sau tôi gặp lại Lưu Kiếm chống gậy đi dặt dẹo ở trước bệnh vịên Nguyễn Văn Học mà khi ấy đã đổi tên bệnh viện nhân Gia Định, một thời gian sau đó tôi nghe tin anh chết ở một túp lều nào đó của người bà con. Sự kết thúc của một đời nhà văn người nghệ sĩ thế sao và tôi chứng kiến những cái chết của anh em đồng nghiệp, những kẻ hết thời, những cái chết mang một ý niệm như của một danh họa Van Gogh bên Tây Phương, nhưng Van Gogh còn có gì để lại cho đời sau, những giá trị vĩnh cữu. Còn ở đây ẫn có những con người nghệ sĩ như thế, bất kể, và kết quả thì cũng như lọt sàng xuống nia. Có sao đâu, tôi cũng thường nghĩ đến những đôi mắt nào mở trừng nhìn vào cõi hư không. bàn tay nào vuốt mắt để cho linh hồn nằm xuống khỏi cô đơn như ngôi sao hôm mai mọc cuối trời. Tiếng câù kinh siêu thoát ở ngôi chùa Huê Nghiêm sau nhà tôi ở ấp Đông ba Gia Định xưa sao mà buồn thế. Ai chết đó?
Nhưng là chuyện mai sau của một tâm hồn người nghệ sĩ đa cảm, hãy để mai sau....Bây giờ tôi phải làm chuyện hiện tại, đang xảy ra trước mắt một buổi sáng trời u ám, tôi làm công việc của một người phóng viên săn tin, những cuộc xuống đường của sinh viên học sinh. Tôi làm việc thay thế cho mấy ký giả bàn bè đã bị bắt, cũng là cách thực tập cho nghề nghiệp, mà sau này đi song song với nghiệp viết văn của tôi.
Những cuộc biểu tình của Phật Giáo đang độ cao điểm, thu hút mọi tầng lớp nhân dân. những cuộc tự htiêu của các sư có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nữ sinh Mai Tuyết An tự chặt tay mình ở bậc thang chùa Xá Lợi. học sinh sinh viên không ngồi yên, họ xuống đường trong bầu máu nóng của tuổi trẻ.
Tôi có mặt trước chợ Bến Thành, đi lòng vòng, gặp lại đông đảo bạn bè: Lê Đình Điểu, Dương Kiền chủ bút tuần báo Văn Học, Đằng giao hoạ sĩ với những tranh biếm họa đăng rải rác trên các báo. Nguyễn Nhật Duật giáo sư Triết. Chúng tôi không vồn vã với nhau, mà chỉ nhìn qua ánh mắt, cái gật đầu. Cũng không thiếu những khuôn mặt lính kín, mật vụ và những tên chỉ điểm. Tôi nhìn thấy mặt thằng Tố, thằng gài bắt anh em chúng tôi. Tôi đến bên nó:
- Mày nên trốn khỏi đây, coi chừng chính tao giết mày đó. Đừng có nhân danh nhà báo ở đây, quân chó săn tao tha xcho mày làm phúc, mày cũng đi tố cáo tao.
Tôi nghĩ thằng Tố cũng có suy nghĩ về lời nói của tôi và nó lủi đi đâu mất. Tôi cũng chẳng bị tóm cổ. Xung quanh tôi đông anh em quá, cả những người chưa từng quen biết. Tôi thấy những cái đầu xanh lô nhô trong biển ngưòi. Một cuộc mít tinh, có đọc diễn văn trước bùng binh chợ Bến Thành, biểu ngữ trưng lên, rồi truyền đơn, lời kêu gọi đấu tranh dũng cảm, tiếng reo hò, rồi đàn áp, súng nổ.
Hàng chục ngàn cái miệng thanh niên la dữ dội: nó bắn chế nữ sinh Quách Thị Trang rồi, đồng bào ơ, chính thằng Lê văn Ken ở bót Lê Văn Ken bắn, đả đảo, đả đảo, giết chúng trả thù cho Trang đi anh em ơi.
Đám học sinh sinh viên rùng rùng quay đầu lại, sự hỗn loạn kinh khủng. lớp lớp người không tan ra mà kết lại như thác lũ cuồn cuộn xô giạt lực lượng đàn áp. xác của nữ sinh QTTrang được đưa lên khỏi đầu, chiếc áo dài nữ sinh nhuốm máu. Cũng chính nơi đó mười mấy năm trước học sinh Trần Văn Ơn ngã xuống khi còn thanh niên SG đứng dậy chống thực dân Pháp.
Tôi nói là người tuổi trẻ VN yêu nước VN bằng cả tâm hồn trong trắng. Không phải phe phái, đảng phái nào giật dây, chỉ đạo. Nỗi phẫn uất ứa thành nước mắt trên những khuôn mặt trẻ. Tôi nắm chặt cây bút ghi những chi tiết trên cuốn sổ tay.
Tôi chạy về nhà in viết bài tường thuật đưa tin. Tú Kếu kê mảnh giấy lên gối đầu làm thơ, tôi nhìn thấy nét xúc động trên mặt anh. hoàn cảnh như thế này thì không cần phải ai động viên hay học tập, đường lối mà trong thơ đã có lửa, có thép. Nó được phát xuất ra tự cõi lòng, chân thật đáng quý. Tôi biết thêm rằng sự tự do tư tưởng cần thiết như thế nào. Điều này rồi đây suốt một đời cầm bút phải trả giá đắt, đắt mà rẻ. Tâm hồn tôi cứ ấm ớ như thế.
Tôi nhớ hình ảnh của Nhã mỗi chiều bế cháu Sớm Mai ra đầu đường ngóng bố về. Trời sụp tối, bé Sớm Mai đành quay trở về với mẹ, đoôi mắt trẻ thơ buồn buồn trong căn nhà nhá nhem bóng tối, quạnh hiu. Chiều mai cháu lại đi đón bố nữa, chưa biết ngày nào bố mới về, nhưng chắc chắn bố sẽ về thôi.
Bố sẽ bế cháu đứng ở cửa sổ ngắm nhìn nóc nhà thờ Huyện Sĩ, chỉ cho cháu thấy cây thập tự giá vươn cao lên trời xanh. Bác bế cháu dạo chơi dưới đường Bùi Viện, vào quán cà phê quen thuộc xem con cá tai tượng bơi tung tăng trong bể nước có rong rêu mà cháu thường thích thú nhoẻn cười.
Cà nhà ta xum họp trong tiếng cười.....
Tôi lắc đầu, vò rối tóc cho tỉnh táo, mình mơ hay thực đây. Tôi cúi xuống những trang viết......
Thực tế tình hình nghiêm trọng lắm rồi,báo Ngàn Khơi có ra được nữa hay không cũng đổi địa chỉ.
Đằng Giao nhiều công việc hơn ở bên báo Văn Học, anh không thể kham nổi quá nhiều công việc. Hoạ sĩ Trịnh Cung cũng anh em chúng tôi nhảy vào cuộc. Trịnh Cung còn trẻ như chúng tôi nhưng để râu, có bộ râu quai nón vàng như râu ngô. Gia đình cha mẹ anh có vẻ khá giả, nên anh không khổ như chúng tôi, anh em làm nghệ thuật, đúng điệu nghệ thuật tài tử. Như vây cũng ổn cho tờ báo. Tôi với Tú Kếu vẫn kiếm cơm quanh tờ báo như gà què ăn quẩn cối xay. Nhưng vui, chúng tôi vẫn có lúc bàn với nhau về nhà xuất bản Tiếng Nói. Khi tiền không có một xu, cái gọi lãng mạn hay mơ mộng được không? Điều đó có, mà không thể gọi mơ mộng hão huyền được.
Buổi sáng hôm nay trời đẹp trong xanh, nắng chỉ hơi hoe trên những mái ngói ở hướng nam thành phố. Con đường Nguyễn Trãi ra hướng Cộng Hoà, nơi này hở mà kín, gần Tổng Nha Cảnh Sát. Nhà in nhỏ bé nằm nép mình dưới một cây sao già cỗi. Một dạng nhà in tầm thường, xếp chữ, đổ chì vỗ phông cũng được. In ấn chỉ có loại máy pédale tầm thường in danh thiếp và thiêp cưới. Chúng tôi phải nghĩ cách xé lẻ những trang báo ra, xếp chữ vỗ phông mỗi nơi một trang. Rồi gom lại in một thể, ra những tờ báo nguyên vẹn, đến tay độc giả như những tờ báo lậu....Chúng tôi còn cầm cự bao lâu nữa? Tình trạng đang chín mùi. Máu đã đổ ra và lửa đã bốc cao ở khắp thành phố. Rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra để mọi chuyên ngã ngũ. Không phải chỉ ở thành phố SG mà trên khắp các thành phố toàn quốc chính quyền của ông NĐD bị lung lay mạnh, nhưng cũng nói cứng, miệng mẹ Ngô Đình Nhu giữ nhiệm vụ giải độc ở nước ngoài vẫn quang quác hỗn hào, xúc phạm đến cuộc tranh đấu. Cả nước như muốn nổi điên, chuyện không thể tha thứ được nữa.....Người dân hiền lành không muốn làm chính trị, chẳng biết chính trị là gì, vô hình chung trở thành thành viên. Tiếng gào khóc của những bà mẹ, những bà già chính là những vũ khí sắc bén chống lại bạo quyền, những cái dùi cui đàn áp cũng phải chùng tay trước tình cảm dân tộc.
Sáng nay, khi từ nhà cho thuê ghế bố ở từ bến xe An Đông về, Lưu Kiếm giao cho Tú Kếu và tôi một bài tham luận:
- Tớ góp phần với các cậu, tớ không muốn cầm đến bút nữa, nhưng lại phải cầm lên. Đêm hôm qua tớ không ngủ, nằm trong ghế bố viết bài này....
Anh nói bằng giọng tự tin của người cầm bút vững tay nghề. Và tin tưởng nơi hai đứa chúng tôi. Tú Kếu nói với tôi:
- Mày sửa lại " ma két " một chút, cho sắp chữ vô phông ngay bài này để ra trong số báo này cho tiện. Tao phải về chị Thu xem các cháu ra sao. Bà chị dâu tôi tội quá, có gánh trái cây mấy quả cam đi bán lẻ nuôi thế nào được bầy đoàn chúng nó, ông anh tao ở tù lâu quá rồi. Tao đi làm báo không nuôi đỡ được đứa cháu nào....Từ đây tao đi bộ tà tà cũng đến Phú Thọ vậy, mày cứ đi xe đạp lo công việc, chiều tối ta lại gặp nhau ở đây. Nhớ mang một bản in cho Lưu Kiếm xem. Tờ báo ta nay trở thành tờ báo có giá trị rồi đó, bao nhiêu người cộng tác bất vụ lợi.
Tôi mỉm cười:
- Những chuyện đó cũng có giai đoạn nào thôi, người nghệ sĩ sẵn sàng xả thân không tính tóan gì. Tao vẫn mơ ước có ngày nào đó người viết báo viết văn không còn mang tiếng nghèo đói nữa....Có thực mới vực được đạo.
- Đúng như vậy!
Công viêc coi như xong, tôi vẫn ngồi trên bàn làm việc nhìn vơ vẩn ra đường. Nắng vàng lung linh trên đường, khách bộ hành qua lại bình thản như trong một thành phố yên bình. Thật ra những con đường phố chính vẫn diễn ra những cuộc xuống đường, đấu tranh và đàn áp quyết liệt diễn ra hàng ngày. Có lẽ con đường này là con đường thanh bình còn sót lại? Tôi cứ ngồi như vậy với ý nghĩ vẩn vơ. Bóng áo nâu bên kia đường, mái tóc dài bỏ xoã trên đôi vai mảnh khảnh. Có phải Mai Kha không? Đúng rồi, nàng đang ngơ ngác tìm số nhà và nàng đang sang đường, nàng đã nhìn thấy tôi ở bàn làm việc.
Tôi cũng đón Mai Kha bằng nụ cười:
- Ai chỉ Mai Kha tới đây?
- Cô Nhã, cháu hỏi mãi cô ấy mới chỉ tới đây, các cậu làm việc khổ ghê và cũng nguy hiểm ghê. Cháu có đọc các bài các cậu viết trên báo, những bài báo không bị kiểm duyệt " tự ý đục bỏ ". Cậu Nhiên?
- Hôm nay cậu Nhiên về Phú Thọ thăm mợ Thu.
- Ra vậy!
- Chỉ còn mình tôi ở lại đây làm cho xong những công việc vặt này.
Tôi nhìn Mai Kha cười:
- Tưởng Mai Kha cạch tới già rồi chứ, không còn dám đến thăm hai cậu nữa.....
Giọng Mai kha dịu dàng:
- Cậu nghĩ thế thật sao? Kha không nghĩ thế đâu. Tại lần trước ở chợ Thái Bình Kha không nghĩ trước thôi.
- Bởi tại kẹt có tôi, một ông cậu hờ, ở đâu nhào tới, nhận vờ thành ra kẹt tùm lum phải không, nghĩ mà ân hận mãi, nửa thì mong gặp lại Mai kha, nửa thì nghĩ không bao giờ gặp lại nữa.
- Tại cậu nghĩ thế, tội cho Kha quá, cậu chân thật như cậu Nhiên của Kha, chính cháu mới là người ân hận, cháu quyết phải tìm ra hai cậu.
- Nhưng hôm nay lại không gặp được cậu Nhiên.
- Có sao đâu, cậu cũng vậy mà....
- Mình mới một lần quen biết.
- Cũng không sao, gặp một cậu cũng như là gặp cả hai cậu. Hai cậu giống nhau từ một lối sống, cháu quý cả hai. Có cậu Nhiên, cháu lời thêm một ông cậu nữa......
- Cám ơn, cám ơn....
Tôi nói trong tiếng cười. Mai Kha cũng bạo dạn hơn mời tôi sang quán cà phê vắng khách bên kia đường.
- Câu không đi cháu giận cho mà xem, cháu khóc đấy.
Tôi vui vẻ:
- Thôi được, cậu đi để cháu chuộc lại lỗi lầm một lần cháu suýt khóc và hai thằng cậu ôn dịch, được chứ?
- Cháu căn hết rồi, nhưng thôi nhé, cậu đừng nhắc lại chuyẹn ấy nữa....cháu có làm bánh cho hai cậu đây này, cháu còn mua cả bánh bao nữa, hai cậu ăn tới mai cũng không hết...

Ngồi ở quán cà phê nhìn ra đường tôi để ý Mai Kha có đôi bàn tay đẹp, xinh xắn, những đường gân xanh mảnh mai trên mu bàn tay, những ngón tay thuôn dài móng tay trắng hồng tự nhiên, không trang điểm, giũa mài sơn phết, giọng nói của nàng trong trẻo nhưng hơi yếu. Đôi khi tôi nghe như tiếng gió thoảng.
Tôi giải thích cho Mai Kha nghe việc làm của chúng tôi hiện tại.
- Công việc làm báo, viết văn làm thơ của bọn này trong hiện tại như công việc vác ngà voi. Hy sinh tận tuỵ cho một việc làm cao đẹp, chẳng phải vì háo danh hay vì lý do nào khác, những lời phỉnh phờ chẳng hạn. Thằng cu li vác ngà voi không có tội, chỉ kẻ phỉnh phờ mới có tội....cậu, cậu Nhiên cũng như những bạn bè khác, kể cả những người đang đấu tranh ngoài đường kia cũng đang vác ngá voi. cái ngà voi đẹp, như lý tưởng của mình thôi, cứ vác đi, được đến quãng đường nào còn tuỳ, có thể đứt gánh nửa đường không chừng, có thể bị tước đoạt.....
Buổi sáng hôm ấy tôi nói thật nhiều hình như có điều lẩn thẩn, nói chút ít về tương lai, về lý tưởng thuở mơ làm văn sĩ từ tuổi hoa niên, bến bờ thì vô định, không biết đâu là bến bờ, có lẽ tới già cũng chưa hết mơ mộng. Mai Kha ngồi lặng yên nghe cho đến lúc phải về nhà. Tôi tiễn Mai Kha một khúc đường.
- Cháu sẽ còn đến thăm cậu, cháu rất ít bạn bè, hoặc không có bạn. Ở nhà quanh quẩn không biết nói chuyện với ai.
Trong một lúc, tôi ao ước. Phải chi tôi có một mái nhà, có mẹ, có em đoàn tụ tôi mời Mai Kha tới chơi. Với tôi hiện tại không biết có phải là chuyện xa vời không? Nhưng tôi có quyền mơ mộng.
Buổi tối ngồi với Tú Kếu ở vườn hoa đường Hùng Vương ăn những chiếc bánh của Mai Kha, tôi nói với Tú Kếu điều mơ mộng ấy. Anh ta trở nên hào sảng:
- Trong chúng ta thằng nào cũng có quyền mơ mộng hết. Nhất là mơ mộng cho tương lai sự nghiệp của mình. Không phải hai thằng đang mơ mộng đó sao? Cả dân tộc này ai cũng mơ mộng hết, bình thường thôi, cơm no, áo ấm tự do dân chủ không bị tước đoạt vô lý. kẻ gây tội ác là kẻ tước đoạt những thứ ấy, những kẻ phỉnh phờ lường gạt.
Đã đến giờ giới nghiêm, chúng tôi về bến xe An Đông. Đêm nay chúng tôi không gặp Lưu Kiếm, không biết anh ta ra sao rồi.
Giấc ngủ chập chờn cho đến lúc xe hàng nổ máy ngoài bến xe.
CHƯƠNG 17
Tại sao 40 năm sau, một buổi chiều tôi lại chẩy nước mắt, khi tôi ngồi đọc lại cuốn tiểu thuyết Kinh Nước Đen của tôi, xuất bản gần 40 năm về trước? Đúng là cuốn tiểu thuyết tôi lại được bằng tiền sau ngần ấy năm xa cách, một trong những đứa con của tôi bị thất lạc. Thuở đó kỹ thuật in còn thô sơ nên bản in còn để lại nhiều lỗi chính tả. Cuốn sách tìm lại được, nằm ở một nhà cho thuê truyện, bìa đóng bằng giấy dầu màu nâu xỉn, đã trốn thoát trong trận hoả tai năm 1976, 25 năm qua tôi không rõ nó lưu lạc và ẩn náu ở đâu, bây giờ nó trở về trong chính vòng tay của cha nó. Đứa con được chuộc lại, một đứa con bị kết án là tội lỗi trong suốt bao nhiêu năm trời. Tôi chỉ được nghe bằng hữu nhắc đến nó, chia buồn với cha nó rằng sao thằng bé cũng kháu khỉnh lại mang số phận hẩm hiiu nghiệt ngã như vậy, như những anh em nó. Tô lì ra vì sợ nó bị tội lần nữa và vẫn bí mật đi tìm chuộc nó để làm của riêng, để xếp nó vào ngăn " tủ sách gia đình " mà tôi chợt nẩy ra ý định lập lại. Sau trận hoả tai thảm khốc hồi nào. Những đứa con của tôi còn nhiều, chúng lưu lạc ở khắp nơi mà tôi chưa tìm lại được hoặc nó đã bị biến thể mang một tên khác, hoặc gần giống như thế, tôi có dịp xem lại, tôi nhận ra chúng mang chứng bệnh " chất độc màu da cam ", nó thành dị dạng hay quái thai, chỉ còn có giá trị đi hát xiết rong ở nơi kẻ chợ. Riêng tâm hồn tôi bị tổn thương thì kệ tôi, tôi vẫn tiếp tục đi tìm những đứa con bị thất lạc, tôi đã thấy một vài đứa như thằng bé tội nghiệp này. Cha con tôi ngồi với nhau ở khu vườn sau, căn nhà ở ấp Đông Ba, Gia Định xưa, cũng do chính những đồng tiền của chúng nó kiếm ra cho cha nó lập nên căn nhà xiêu vẹo này, khi ấy là lúc đương thời của tôi, một người " mơ làm văn sĩ " và đã thành sự thật. Đã có một thuở người tagọi tôi là văn sĩ hay nhà văn có tác phẩm bán chạy và cũng đủ ăn đủ tiêu. Thuở đó xa rồi, chỉ còn lại tôi già cỗi và căn nhà xưa xiêu vẹo này, nếu tôi không biết ăn vạ biết lăn đùng ngã ngữa ra thì cũng mất lâu rồi.
Biết đâu bây giờ trên mảnh đất này nó lại không biến thể để trở thành một vi la hiện đại sau buổi giao thời bước sang thuở kinh tế thị trường. Thời buổi mà các ông bà cụ non cùng hô lên khẩu hiệu: " phải biết cấu xé nhau mà sống nếu không sẽ bị tiêu diệt ". Trong khi ấy tôi chỉ là một ông già xưa, hết thời, hết tất cả. Tài năng thì " cà là mèng ", nói năng chẳng được một câu cho chính xác, nên bị coi là nói bậy.
Tôi đọc lại đứa con của mình trong tâm trạng mừng mừng tủi tủi, nên chảy nước mắt. Thì ra ở đó tôi có ghi lại một chút sự kiện lịch sử ở miền Nam, mà bây giờ phải gọi là hồi ức. Ngày lật đổ chính quyền NĐD mà người miền Nam hồi đó gọi là cách mạng. Tôi là một người viết ở miền nam thuở ấy, cũng chịu cái vui buồn chung của nhân dân nên cũng " khóc cười theo mệnh nước nổi trôi " chẳng có chi lạ, cái nhiệt tình của tuổi trẻ ắt phải có, tôi phải ghi lại thôi, ngay chính trong tác phẩm của mình. Đọc lại, tôi thấy những gì đã mất nay bỗng tìm thấy. Dù ngày đó tôi chỉ là một nhà báo tập sự, nhưng tôi có nhiệt tình, những gì tôi ghi lại trong sổ phóng viên là sự thật, sau này tôi biến nó thành một đoạn trong tiểu thuyết, cho nhân vật mình xoay vần nhưng vẫn ở trong sự kiện lịch sử thật. Bây giờ tôi không tìm ra, hặc đã bị xuyên tạc, chẳng còn mất giá trị tinh thần nào. Nản bỏ mẹ, tôi bèn chảy nước mắt.
Tôi có một căn nhà sao hỡi trời! Chuyện đó có thật đấy, một căn nhà bình thường, ở một xóm yên tĩnh trong ấp Đông Ba thuộc tỉnh Gia Định. Đi qua một xóm cù lao, qua cây cầu gỗ đường Trần Khánh Dư, qua cầu cá và những ao rau muống là sang đến địa phận thành phố SG Tân Định. Nhà tôi ở một xóm ven đô, cảnh tượng còn nhà quê lắm. nhưng muốn đi đâu cũng dễ. Một khung cảnh quê mùa sát ngay nách đô thị. Xóm chưa có nước máy, chưa có đèn điện, nhưng cũng tốt thôi, những thứ đó có mấy hồi, đó là chuyện tuơng lai.
Tâm hồn tôi vốn dĩ lãng mạn, tôi lại thích ánh đèn dầu loe loét trong những khu nhà vườn, khói lam chiều lãng đãng toả ra từ những mái tranh nghèo trong khu vườn cây lá lúc ráng chiều đỏ rực trên con kinh chẩy qua cầu Bông cầu Kiệu. Tiếng chuông thu không ở chùa Huê Nghiêm ngay sau nhà tôi. Cái mả đá to tường rêu phong, mùa mưa ốc ma bám đầy dẫy gây huyền thoại cho người có máu mộng mơ.
Tôi quyết định mua căn nhà giá bèo này ở ven đô, mà tôi đang nằm lăn trên phần gạch bông, nhìn qua cưasô3 thấy trờ xanh và bóng lá cây la đà. Trong căn nhà của tôi xây dựng khúc khuỷu vì tránh mồ mả. Ngưòi chủ nhà nói chẳng sao, nếu cậu chịu khó cắm nhang khấn vái cho những oan hồn uổn tử này, tự khắc người ta phù họ cho cậu. Tôi an tâm nếu tôi làm theo lời nhắc nhở ấy.
Tôi có quyền mơ mộng trong căn nhà nhỏ này. Mẹ con anh em tôi sẽ xum họp sau những năm xa cách, rồi tôi có vợ có con, có bónh dáng những bạn bè đáng yêu như thuở nào. Căn nhà vang tiếng cười. Một hạnh phúc mơ ước được thành hình? Người vợ hiền thục nào đó mà tôi hằng mơ ước. Bây giờ tôi không mơ thành văn sị nữa mà tôi đúng là văn sĩ. Mộng ước đã thành chăng? Mộng ước đó không biết có nghèo nàn hay giầu sang, có thể con người tôi nghèo nàn nhưng tâm hồn tôi thì giầu sang, theo như cảm nghĩ riêng tư của tôi.
Tôi tâm sự điều đó với ngưòi bạn ba phải là nhà thơ Tú Kếu, hắn trả lời xỗ sàng:
- Ừ, cũng được, cũng đến lúc phải dừng lại cơm hàng cháo chợ, vợ nhà thổ....nhưng mày có đối tượng nào chưa mà dám nghĩ đến chuyện ấy.
Tôi lặng im, tôi không muốn nói ra điều bí mật ấy, nhưng hắn ta cũng biết.
Giọng hắn nhỏ xuống:
- Tao e rằng khó với những thằng có thân phận như tao như mày, nếu không có quyết tâm. Ngòi bút của chúng ta phóng khoáng quá, như một vết chàm trên thân phận của chính mình. Không ai nghhĩ mình đang làm văn nghệ mà có một sự ngộ nhận tai hại.....
Tú Kếu chỉ nói có thế rồi bỏ đi. Hắn nói để tôi ở nhà một mình tha hồ mà mơ mộng. Tôi lang thang trong căn nhà, tôi tính đến việc phá bung bức vách đằng sau để lấy một khoảng vườn. Đang mơ mộng thì tôi nghe có tiếng gõ cửa se sẽ và tiếng gọi nho nhỏ nghe như một hơi gió. Mai Kha hiện ra ở cửa sổ trấn song. Tôi nhận ra mình nằm trên sàn gạch bông. Tôi ra mở cửa cho Mai Kha vào nhà, vẫn chiếc áo dài màu nâu non, đôi quốc sơn quang dầu, quai ni lông ôm lấy những ngón chân xinh xắn, nhưng hôm nay nàng không đội nón, mái tóc dài như tơ xoã trên bờ vai mảnh dẻ. Câu hỏi của Mai Kha thật nhẹ:
- Hôm nay cậu ở nhà một mình hả?
- Đúng vậy, có gì ngại không?
- Không, cháu đi tìm nhà cậu mệt quá, đi quanh quanh queo queo mãi, như đi vào làng nào đó. Cháu xuống xe từ chợ Bà Chiểu.
Mai Kha ngồi trên chiếc ghế đẩu kê cạnh bàn làm việc của tôi. Tôi nhận ra một điều từ khi quen biết với Mai Kha, chưa bao giờ tôi thấy nàng đi xe đạp, nàng toàn di chuyển bằng xe buýt. nàng ngắm nghía căn nhà của tôi:
- Cậu tìm nhà cũng khéo đấy chứ, nơi này cũng tĩng mịch, phong cảnh lại đẹp, như một miền quê.....
- Còn thếu thốn nhiều lắm. Kha coi đó vẫn chưa thể thành một căn nhà cho một gia đình được.
Tôi say sưa với niềm mơ ước của tôi, tôi kể cho Mai Kha nghe, như trẻ nhỏ kể ra niềm mơ ước của mình với bạn bè cùng trang lứa. những mộng ước bình thường, rất bình thường của một con người khao khát sống có hạnh phúc. hay tôi ngồi trước mặt Mai Kha tôi mới nói lên được điều khao khát ấy. Này nhé, trước hết là một gia đình có vợ có chồng, con cái bà cháu, cô chú. Một tiểu gia đình có những con ngưòi thương yêu nhau, chia bùi xẻ ngọt với nhau, con chó con mèo, cái bàn cái ghế, tất cả đều thân thương. Tôi chỉ ra phía đằng sau.
- Cậu sẽ mở một cái cửa đằng sau ra khu vườn, lối đi này tiếp giáp với vườn chùa và sân chùa.
Tôi say sưa với mộng ước của mình. Mai Kha vẫn nghe tôi nói, nụ cười trên môi nàng, hai bàn tay xinh xinh có những đườnf gân xanh úp trên mặt bàn. Đột nhiên Mai Kha hỏi tôi:
- Cậu không còn thích chuyện giang hồ như cậu đã từng viết nữa hả?
- Đến lúc phải dừng cơn gió loạn lại, mà không phải chuyện giang hồ, mà đời sống xã hội, những con người với những con người.
Tôi không biết nói với Mai Kha những gì, nhưng nội dung chính buổi chiều hôm ấy chỉ có thế. Một chút lãng mạn của một kẻ ra đời phải nhận chịu những roi vọt của cuộc đời ban cho, tuy rằng chưa thấm tháp vào đâu đối với một cuộc đời dài, nói tóm lại chỉ là một mộng mơ bình thường mà ai cũng có quyền mơ ước.
Mai Kha nói thật nhỏ:
- Chỉ thế thôi hả cậu?
Tôi nhìn vào mắt Mai Kha:
- Chỉ thế thôi!
Tôi thấy Mai Kha ngước lên,nhìn qua cửa sổ, nhìn một bóng mây nào đó đang lãng đãng trôi. Giọng Mai Kha không mấy bình tĩnh, nàng như sắp khóc:
- Chiều rồi đấy cậu, cậu nói cho Kha tập truyện ngắn cậu mới in.
Tôi dụi tay lại, với bàn tay ấy với lên kệ sách, lấy ra quyển sách còn thơm mùi mực in, ký tặng. Sao quyển sách đầu tay nay tôi ký tặng cho Mai Kha không bình thường như những quyển sách tôi ký tặng cho những ngưòi khác. Tôi cảm thấy như thế. tôi biết một vài truyện ngắn trong tập truyện này có hình bóng nàng. Một tình yêu lóang thoáng có thể coi là vô vọng của gã đàn ông bất hạnh trong một xã hội nhiễu nhương. Tôi chỉ làm được chừng đó thôi, tôi thăng hoa tình yêu ấy.....
Tôi nhìn Mai Kha, nhìn theo đám mây mỏng manh đang trôi ngoài cửa sổ
- Ừ, chiều rồi đấy, cậu Nhiên phải đi đến tối mới về.
- Kha về đây, đi bộ từ đây ra Bà Chiểu cũng xa quá, đường xá thì loanh quanh
- Có một lối khác đi ra Tân Định, ở đó có xe buýt cũng tiện.
- Thế hả, cậu chỉ lối cho Kha nhá!
- không chỉ đâu, chờ cậu đóng cửa rồi sẽ đưa Kha đi, Kha đi một mình nhất định là lạc đường rồi....
Tôi đưa Kha xuống cù lao Rạch Miễu, đường trong xóm quanh co với những luỹ tre, những ao cá, những mái nhà tranh toả khói lam chiều. những ao rau muống nở hoa màu tím, những giếng nước trong rải rác trong xóm.
Tiếng Mai Kha nhẹ như tiếng gió thoảng:
- Cảnh đẹp quá hả cậu?
Tôi không nói thêm một câu nào. Đến chiếc cầu cheo leo, tôi vẫy tay từ giã nàng. Hình ảnh này còn mãi trong tôi. Tôi nhìn theo Kha đến khi nàng lẫn vào dòng người đông đảo lên thành phố.
Nắng chiều rực rỡ trên sông mà không gay gắt, một cảm giác nhẹ và êm.
Đó là hình ảnh một buổi chiều của 37 năm về trước. thuở đó tóc tôi còn xanh. Bây giờ thì khác rồi, cảnh tượng của buổi chiều hôm đó chỉ còn lại trong dĩ vãng, chợt nhớ chợt quên. Thời gian vẫn trôi, ấp Đông Ba còn đó nhưng đã đổi tên. Phong cảnh đã thay đổi. những ao rau muống hoa tím nở đầy không còn nữa, đã bị lấp bằng, những mái tranh toả khói lam chiều trên bờ kinh ngày xưa đã biến mất, và nhiều thứ đã biến mất.
Người đưa thư già trao cho tôi một bức thư của Mai Kha, bức thư đề tên tôi, nhưng không địa chỉ mà chỉ đề địa chỉ ấp Đông Ba Gia Định. người đưa thư già noío:
- Nếu không phải tôi đi tìm địa chỉ của " cụ " thì không ai tìm được. Tên này xưa quá rồi.
- Xin cám ơn, tôi biết điều đó.
Trong thư Mai Kha chỉ nhớ mang máng nơi tôi ở cách nay đã lâu, nên viết thư về xem sự "còn mất" của tôi. Tôi vẫn còn đây. Tôi trả lời nàng như thế.
Trời thật đẹp với nắng quái chiều hôm, tôi dời căn gác bút xuống nhà dưới đi theo con đường đất xưa, nay đã trải nhựa xuống khu cù lao bên sông. Không còn gì cả, không còn khung cảnh xưa, cả những bông hoa rau muống màu tím. Nắng quái chiều hôm vẫn còn đó không thay đổi.
Hôm rồi, những ngày mưa gió, tôi đi đón hài cốt của Lê Đình Điểu hồi cố hương, lời nhắn nhủ của anh với gia đình. Nắm xương tàn của anh về an táng ở quê hương xứ Hà Đông xa xôi....Tôi ngồi ở chua An lạcnghe kinh siêu thoát cho Điểu. Trong mấy chục năm qua nhiều ngưòi bạn đã ra đi. LĐDiểu là bạn tôi, từ những ngày đầu "thưở mơ làm văn sĩ" Nay anh đã nằm xuống rồi. Những roi vọt của cuộc đời liên tiếp phủ lên thân phận tôi, còn đau hơn những cái roi đầu đời thuở tôi mơ làm văn sĩ.
Nắng tắt và đèn đường hai bờ sông bật sáng. Hình như thứ ánh sáng nhân tạo này làm át cả ngôi sao hôm mọc ở cuối trời.
Tôi lững thững trở về căn gác bút suy nghĩ ngổn ngang trong đầu.
Sao tôi không nghe tiếng chuông thu không ở ngôi chùa nào đó. Bao nhiêu là ngôi chùa ở trong ấp Đông Ba này.
Ấp Đông Ba năm 2000.
Nguyễn Thụy Long
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

5555555 hai mươi hai Út thấy người mình bải hoải, mệt mỏi và đầu váng vất khó chịu. Nàng trở dậy, nhưng không xuống khỏi giường. Út nhìn đồn...