Dấu chân của người lính Nguyễn Minh Châu – Cung đường cuối cùng
Giá mà nhà văn Nguyễn Minh Châu còn có thêm 20 năm sống, thì không biết, văn học chúng ta, bước khỏi không gian chiến trận, đã có thêm những trang viết mới mẻ về con người Việt Nam trên hành trình hòa hợp, hòa hiếu, khoan dung để cùng nhau xây dựng một cuộc sống xứng với những hy sinh vô lượng…
Đã 30 năm, người lính cầm bút xuất sắc Nguyễn Minh Châu đã dừng
bước trên đường đời, khi chưa bước qua chu giáp đầu tiên. Những bạn bè, đồng đội
cùng trang lứa, ngày nào còn quây quần trong trung tâm văn bút Văn nghệ
quân đội – có thời được gọi là Văn đội quân Nghệ – và tác phẩm của họ luôn
nằm ở vùng trung tâm của dư luận văn chương nước nhà, giờ cũng đã lần lượt khuất
bóng.
Vóc dáng thân hình cũng như tác phẩm lừng lững của những
Thanh Tịnh, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Xuân Thiều, Chính Hữu, Nguyễn Trọng Oánh, Thu
Bồn, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Văn Phác, Nam Hà, Xuân Sách, Hải Hồ, Mai Ngữ, Phạm
Ngọc Cảnh, Triệu Bôn, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Hồng Duệ, Nguyễn Chí Trung…,
như kết đọng tinh hoa của 30 năm chiến tranh, đang mờ phai dần trong bức tranh
văn học mới mẽ nhiều màu, lắm sắc đương đại.
Thuộc lớp hậu sinh, tôi coi là may mắn, khi đã có ít nhiều những
năm tháng được sống trong cùng một mái nhà số 4 Lý Nam Đế vào cái tuổi
sung mãn và dồi dào sức sáng tạo nhất của hầu hết các Anh, từ những năm cuối của
chiến tranh, từng đi sơ tán mấy lần lên Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Tây, từng
đi chiến trường Quảng Trị 1973, theo các cánh quân từ nhiều mũi, nhiều đơn vị lại
hội tụ ở Huế rồi Đà Nẵng tháng 3-1975,và ào ạt vào Sài Gòn ngày đầu ta làm chủ
thành phố, theo các cánh quân tình nguyện sang Campuchia, lên biên giới
phía Bắc trước và sau chiến tranh biên giới với Trung Quốc, đi họp cộng tác
viên của Tạp chí Văn nghệ quân đội nhiều tỉnh thành sau ngày đất nước
thống nhất, ở Huế, Đà Nẵng, tới tận An Giang, Cần Thơ, Cà Mau…
Nhưng, thật đau lòng, khi chứng kiến sự tàn phá của thời gian
lên mỗi con người tài hoa, tử tế, hiền lành, chân chất, khiêm nhường như là nơi
tụ hội phẩm chất tốt đẹp nhất của những người lính mà số phận biến họ thành những
người ghi chép chiến công của đồng đội. Chỉ riêng điều đó thôi, họ đã xứng đáng
với sứ mệnh của những Người lính – Nhà văn . Không phải những ai từng cùng đồng
đội chiến thắng trong cuộc chiến ác liệt, không cân sức, đều đã có cuộc sống
yên lành trong thời bình. Tuổi tác, sức khỏe, bệnh tật do những hậu quả khác
nhau của chiến tranh và chiến trường, khó ai có thể vượt qua. Lại còn hạn chế của
trình độ, tài năng, nhận thức, và cách ứng xử cùng hoàn cảnh gia đình mà
xuất hiện những số phận khác nhau.
Sau những ngày đầu cuộc chiến tranh trường kỳ kết thúc thắng
lợi, sau những trang viết tràn đầy hào khí chiến thắng, trên chặng đường mới của
hiện trạng một đất nước hậu chiến không hoàn toàn như đã từng tưởng tượng, với
bao nhiêu vấn đề mới xuất hiện, những nhà văn vẫn mặc áo lính, đã bước vào một
chặng đường nhận thức và sáng tác mới.
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu thực sự đã khởi đầu cho bước dấn
thân, từ thời kỳ sáng tác Của chúng ta làm ca ngợi chúng
ta (Thơ Chính Hữu), sang một vùng đề tài thoáng rộng hơn. Nguyễn Khải vẫn
lối viết lý sự lấn át miêu tả, đã có những vở kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn mà
hình ảnh anh bộ đội không còn là nhân vật chính: Cách mạng, Gặp gỡ cuối
năm, Thời gian của người, Điều tra về một cái chết, Vòng sóng đến vô cùng, Một
cõi nhân gian bé tí, Một người Hà Nội, Sư già chùa Thắm và Ông già về hưu, Một
thời gió bụi, Hà Nội trong mắt tôi, Chút phấn của đời, Thượng đế thì cười, Vòng
tròn trống rỗng,…
Nguyễn Minh Châu vẫn là viết về người lính nhưng khi chiến trận
đã dần đi qua: Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những
người đi từ trong rừng ra (1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành (1983), Bến quê (1985), Mãnh đất tình yêu (1987), Cỏ
lau (1989), Mùa trái cóc ở Miền Nam…
Sự chuyển dịch đề tài của Nguyễn Minh Châu chỉ thực sự được
diễn ra trên chặng đường cuối của hành trình văn học với tập truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa (1997), và truyện vừa được hoàn thành trên giường bệnh: Phiên
chợ Giát (1988). Rời khỏi thế giới nhân vật quen thuộc,với cách thể hiện,
mà nhà nghiên cứu văn học Nga khá am tường về văn học Việt Nam, Nicolai Nikulin
nhận xét: Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái
thiện đã được khúc xạ ở chỗ Anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống
như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng, nhà văn dấn bước vào những
góc khuất của đời thường, mà những năm chiến tranh ít được văn chương để mắt đến.
Cái nhìn tinh tế, lối thể hiện trực diện nhiều nghịch lý tồn tại trong đời thường
trong một loạt truyện ngắn của cây bút xuất sắc viết về người lính đã gây nên
những luồng dư luận khác nhau, đến mức cơ quan chỉ đạo đã mượn báo Văn nghệ tổ
chức một cuộc thảo luận về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Trong cuộc thảo luận
đó, người khen cũng có, nhưng âm hưởng chủ đạo vẫn là phê phán cách thể hiện hiện
thực thiếu tươi sáng, không lạc quan của Nguyễn Minh Châu.
Là người được sống gần tác giả những ngày tháng đó, chúng tôi
được chứng kiến những biểu hiện khác nhau, với tâm trạng không thật tự tin,
khác hẳn tâm thế khi hoàn thành các tác phẩm viết về người lính thuở trước. Thuộc
bộ phận sáng tác, dù ở một cơ quan bộ đội, các Anh không phải đến cơ quan hàng
ngày. Khi xong một tác phẩm mới, hồi đó, tất cả đều viết bằng bút mực, phải
mang lên cơ quan đánh máy. Có những truyện, khi đưa in, chính tác giả lại phân
vân, xin rút lại, hay sửa chi tiết này nọ. Nhà thơ Xuân Sách, tác giả tập
thơ Chân dung nhà văn, từng có câu viết về Nguyễn Minh Châu: Dấu chân
người lính in mau/ Thằng này không trước thì sau cũng… tù. Nhưng điều lạ,
là những truyện sau đó càng quyết liệt, đáo để hơn.
Những ngày chuẩn bị Đại hội Nhà văn, sau 1986, như là cái mốc
thời gian mở đầu thời kỳ Đổi mới, những suy nghĩ về văn chương được tác giả thể
hiện trong một số bài viết, mà gây chú ý nhất là Lời ai điếu cho một thời
kỳ văn học minh họa. Nằm trên giường bênh ở Viện Quân y 108, nhà văn vẫn
trực tiếp viết trả lời phỏng vấn của chị Thiếu Mai ở báo Văn nghệ. Tác giả viết
xong ngày 22-11-1988, báo đăng số ra ngày 3-12-1988, gần 2 tháng trước ngày tác
giả mất. Trả lời câu hỏi về thời điểm xuất hiện khái niệm cởi trói, nhà
văn cho rằng: Đủ hay chưa là ở nội lực cá nhân từng nhà văn chúng ta. Từng
nhà văn chúng ta mới là kẻ quyết định… Anh mang cái vòng dây trói ấy trong mọi
thói quen và quan niệm sáng tác lâu ngày đến mức trở thành một thứ thuộc tính…
Đến ngày nay chúng tôi đã có sau lưng đôi chút tác phẩm được làm nên bởi mồ
hôi, nước mắt và cả tâm huyết của một thời đầy nghiêm trọng của số phận đất nước.
Chưa nói chuyện những tác phẩm ấy bây giờ nhìn lại hay dở ra sao mà hãy nói cái
lằn dây mình tự trói mình lâu ngày nó đã ăn lún sâu vào da thịt, biến thành da
thịt, có khi cởi ra còn đau đớn hơn cái lúc trói vào.
Nói về những trăn trở của nhà văn những năm trước sau đổi mới,
Nhà văn tự nhận: Đó là những năm các nhà văn nghĩ rất nhiều và băn khoăn
day dứt rất nhiều về mối quan hệ giữa văn học và đời sống thực đang mỗi ngày một
xa nhau, cách biệt đến mức như một trò khôi hài…. Tôi là người viết trong
bộ đội, những năm chống Mỹ ác liệt,có lúc ở chiến trường sống bên cạnh cái chết
nhưng khi ngồi viết thì thanh thản, còn về sau này, nhất là vào những năm
1983,1984 ,có đôi khi mình cầm bút mà cảm giác y như đứng giữa trận tiền, viết
ra một cái gì đưa đi in, trở về nhà ngồi nghĩ lại, lại đâm sợ cái vừa được làm
ra.
PV: (Cười). Rồi lại vội vã chạy đi lấy về?
NMC : Tính tôi vốn dát mà chị! Tóm lại đó là những ngày tháng
giống như một thứ máy kiểm nghiệm từng nhà văn cả về tài năng và nhân cách: Có
những cái viết về chủ nghĩa xã hội, lúc anh viết ra được báo chí hoan nghênh
nhiệt liệt, về sau ngó nhìn lại thấy nó cứ bạc phếch như mặt vai nịnh trên sân
khấu Tuồng.
PV: Cái nghề giấy mực đôi khi nó cũng độc thật, anh Châu nhỉ?
NMC: Không phải độc, mà nó công bằng, nó sòng phẳng
PV: Bức tranh – Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Hai
con nhóc – Dấu vết nghề nghiệp – Chiếc thuyền ngoài xa – Khách ở quê ra… có phải
được in ra trong những năm ấy phải không?
NMC (Cười): Tôi đã khoác lác làm xôm trò cho tờ tuần báo của
chị một thời gian khá lâu, kể cả cái trò rất xôm: Trao đổi về truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu sau đó.
PV: Anh nghĩ gì về công việc của các nhà văn?
NMC: Tôi nghĩ rằng thời nào và ở đâu cũng vậy, các nhà văn chỉ
có một công việc chính và duy nhất là viết cho hay, ngoài ra bằng uy tín của
mình anh phải tham gia tiếng nói vào những vấn đề của con người: trước những bất
công, trước cái ác, anh không có quyền dửng dưng, thây kệ khi con người bị đầy
đọa và chà đạp, và công việc đó nó phải là phản ứng tự nhiên của các nhà văn.
Nhưng với các nhà văn nước ta, có lẽ hình như vì mang tư tưởng tự ty do tiếng
nói bé bỏng,đôi khi chúng ta y như những kẻ bàng quan trước những vấn đề cấp
bách của con người. … Là những nhà văn hiền lành, vô sự,chỉ biết ca ngợi,cả đời
chúng ta không làm hại ai,không làm điều ác với ai. Nhưng cái lỗi lớn nhất của
mỗi người chúng ta là đã khiếp hãi trước cái xấu và cái ác, nhất lá khi cái xấu
và cái ác đã nắm quyền lực. Và lâu dần,dường như không làm gì được thì chúng ta
coi như không có nó, cuộc đời không có cái xấu và cái ác đang hoành hành,đang
chi phối số phận con người,coi như cuộc đời không có oan khiên, oan khuất…
Và ao ước cuối cùng của nhà văn là : Làm sao biến Hội ta
thành Hôi của những Tài năng và Nhân cách văn học chứ không phải Hội của những
Viên chức văn học.
Tôi nhớ, cuối năm 1974, khi còn chiến tranh, nhà văn từng
nói: Con người bây giờ sống trơ tráo: Xấu một cách trơ tráo, không che dấu,
không úp mở. Đó là một điều đáng sợ. Cuộc sống hiện nay đưa con người ra thử
thách một cách toàn diện, tận cùng. Bởi nó thử thách chỗ yếu nhất của mỗi người.
Chẳng hạn như tôi, vốn lớ ngớ, thì lại thành anh không nhà, phải tự đi tìm nhà
cho một vợ ba đứa con gái. Ông Nguyễn Khải thông minh, khôn ngoan, thử thách
ngay ở chỗ viết lách, không tránh khỏi sai, để người ta nắn gân cho. (Ý
nói một loạt bài trên báo Nhân Dân của Nguyễn Khải ).
Những suy nghĩ, trăn trở về khoảng cách của văn chương với hiện
thực cuốc sống là câu chuyện diễn ra thường xuyên giữa các nhà văn vẫn mặc áo
lính, khi đất nước đã vào thời bình. Nhưng mỗi người đã có những lựa chọn
khác nhau. Trong chiến tranh, nhà văn đứng ở một binh chủng, trong một mặt trận
nhất định, tác phẩm phải góp phần cổ vũ sĩ khí chiến đấu của đồng đội. Nay, đất
nước Hòa bình, giang sơn thu về một mối, nhà văn phải nói tiếng nói của cả dân
tộc đang khát vọng vươn lên một cuộc sống Tự do và Hạnh phúc. Nguyễn Minh Châu
như đã bứt lên hàng đầu, bằng hàng loạt tác phẩm được dư luận chú ý và hy vọng.
Nhưng như một trớ trêu của định mệnh. Sức khỏe nhà văn có vấn
đề, chỉ nghĩ là do làm việc quá sức. Như nhiều bệnh nhân mắc căn bệnh này, sau
một thời gian theo dõi, khi xác định được thì đã quá muộn: Ung thư máu.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu và vợ
Mùa hè 1988, khi mà Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã bất
lực, thì rộ lên tin tức, một nhà sư ở Chùa Pháp Hoa trong Vũng Tàu có khả năng
chữa trị bách bệnh, trong đó có bệnh Nguyễn Minh Châu đang mắc phải. Có bệnh
thì vái tứ phương, nhân nhà sư ra Bắc dự một sự kiện nào đó, biết tin, đã tới tận
nhà áp tải nhà văn. Anh bạn cùng học Nguyễn Trung Thu, tác giả bài thơ Đêm
Trường Sơn nhớ Bác được Trần Chung phổ nhạc, là chuyên viên ở Ban Tuyên
Giáo TƯ, nhà ở cạnh, trong Khu Tập thể số 3 phố Ích Khiêm, thông báo, nên tôi tới
kịp trong buổi tiễn nhà văn hành phương Nam. Khi rơi vào tình trạng này, thì bất
cứ niềm hy vọng nào cũng phải gắng nắm bắt.
Ngày đó đi lại còn khó khăn, càng khó hơn với một người mang
trọng bệnh. Tháng sau, có dịp vào Nam, tôi đã cùng mấy người bạn tới tận Chùa
Pháp Hoa . Khác với không khí tĩnh lặng quen thuộc, Chùa Pháp Hoa trong một
khuôn viên rộng rãi đang là một đại công trường, nơi có mấy trăm người đang rộn
ràng, cần mẫn chặt cành, hái lá, bóc rễ, phơi phóng sàng sảy, xay giã các loại
lá cành để làm thuốc cho người thân ở giai đoạn nguy nan, giành giật với tử thần
từng khoảnh khắc sống. Trong hàng ngàn người đã lần lượt qua đây, hẳn cũng đã
có những người may mắn, rời Chùa với niềm vui và hy vọng. Trong vùng đất dạy
con người loại bỏ Tham- Sân-Si,những kiếp người còn nặng lòng trần, hình
như ở khắp mọi miền đất nước, vào đây, cầu mong một phép màu cho riêng họ,và
cho người thân, có muôn vàn cách thể hiện, hàng ngày diễn ra trước đôi mắt vốn
quen quan sát và đôi tai còn có khả năng lắng nghe của nhà văn, dù lúc này,
thân thể hầu chỉ còn da bọc xương. Ngồi bên nhau, Anh ít nói đến bệnh của mình,
mà nói nhiều đến những gì Anh quan sát và trải nghiệm trong mấy tháng ở đây,
khi hòa nhập vào giữa cộng đồng những con người quyết đi tìm lại sự sống cho những
người thân yêu, bằng mọi giá. Đó là một hành trình vừa trần thế, vừa tâm linh,
vừa hy vọng vừa tuyệt vọng, vừa tin vào thể lực ,tâm đức người thân, vừa cầu
xin những điều kỳ diệu đến từ cao xanh. Đó chẳng phải là một vùng đất mới của
văn chương?
Khi sắp ra về, Anh níu lại, nói với tôi: Cậu quen làm Tư liệu,
nên dành thời gian qua thăm Trại Cải tạo bên cạnh. Những ngày ở đây, mình có
sang bên đó, nơi giam giữ nhiều đối tượng phạm pháp, từ trộm cắp, lưu manh, vượt
biên , đĩ điếm… chưa thành án. Mấy tay phụ trách bên đó, biết mình là nhà
văn,nên có đưa cho mình xem một số bản tự khai, mình đọc mà… choáng ! Ngày đầu
giải phóng, bọn mình vào miền Nam, vào Sài Gòn với tâm thế tự hào, sung sướng,
vì cuối cùng cuộc chiến đã kết thúc thắng lợi, giang sơn đã quy về một mối,
toàn dân bắt tay xây dựng một cuộc sống mới trong hòa bình. Nhưng hơn 10 năm
qua rồi (bấy giờ là nửa cuối 1988), nhìn đám trẻ bị bắt, bị cải tạo, rồi đọc những
điều bọn nó kể về con đường dẫn chúng vào những con đường lầm lạc, bế tắc, khốn
cùng, từng đi kinh tế mới, từng trốn tránh để về thành phố vì không quen nơi rừng
xa, đất lạ, nhiều lần vượt biên có đóng tiền và không còn tiền, phải nhắm mắt
bán cái duy nhất con gái tự có, … vì là con binh lính viên chức chế độ vừa bị
đánh bại. Mà đối tượng mua dâm là ai? Không ít người là cán binh bên thắng cuộc.
Nếu ngày trước, điều đó, dù bị phê phán, vẫn diễn ra khá công khai. Với quân
nhân mà sự sống chết treo trên đầu sợi tóc, nó còn được tạo điều kiện. Thì giờ
phải làm lén lút, vụng trộm. Một cái nhìn lên, từ dưới đáy, về những người mà
bao năm ta vẫn đinh ninh là Thép đã tôi,không bao giờ bị han rỉ, như buộc
mỗi chúng ta phải sờ lên mặt. Hơn 10 năm, là dài hơn mỗi cuộc chiến, là những
người chiến thắng, chúng ta đã làm gì cho từng người dân trên đất nước này? Với
những người thuộc bên thua cuộc, ta có làm gì khác hơn cô Tấm khi đã lên làm bà
Hoàng đối xử với mẹ con nhà Cám hay không? Chỉ cần biên tập chút ít, những
trang đời tự kể ấy được công bố, sẽ có sức thức tỉnh nhiều người. Văn họ viết,
nhiều người có học hẳn hoi, có cái hay đặc biệt của những người biết mình ở vị
trí dưới đáy xã hội mà không cam phận, khác hẳn giọng tin tưởng tự hào đắc thắng
của chúng ta.
Thật tiếc, là tôi không có dịp trở lại, để thực hiện lời dặn
cuối cùng của nhà văn. Mấy năm trước, Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, khi về dạy
ở Đại học Sư phạm Huế, có chuyển cho tôi xem bức thư rất dài của một nữ sinh
viên gửi riêng cho thầy, sau khi nghe thầy giảng về văn học. Như nuốt lấy
từng lời khi thầy vẽ ra bức tranh đời sống tương lai, em thành thật kể lại, cảnh
cả gia đình em đã bỏ chạy về Nam, khi quân miền Bắc tiến vào Huế, những ngày
đêm đói rét, lo lắng lê la ở sân bay Phú Bài, vì lo sợ. Nhưng rồi đi không kịp,
phải trở về, rồi vào học, nghe những điều thầy dạy, một chân trời hy vọng đã mở…
Lá thư tới tay thầy khi cả nhà em đã tìm đường vượt biên. Một nỗi đau có địa chỉ
gửi cho người thầy mình yêu quý.
Sau đợt điều trị không có phép màu, gần cuối năm, nhà văn về
lại Viện 108. Tám tháng sau khi phát bệnh, đã có những ngày tiếp máu mà cơ thể
không tiếp nhận. Các tĩnh mạch như vỡ ra, không còn tải máu về tim. Phải mở
tĩnh mạch ở ngực để truyền trực tiếp. Đã ngỡ không thể còn nói gì với nhau.
Nhưng thật lạ lùng, là sức sống của Người lính già. Chiều đó, khi chúng tôi
vào, Anh Châu đã tỉnh táo trở lại. Mặc dầu bác sĩ bắt buộc bất động, và cấm nói
chuyện – bốn ngày qua đã tiếp hơn một lít máu tươi, Anh Châu vẫn ra hiệu cho
tôi lại gần, thì thầm: Đối với mình, viết lách đã là chuyện xa xôi, nhưng
các cậu còn sức, còn nói được, còn viết được, thì phải lên tiếng đi. Đừng cho họ
thay nhân sự lúc này… Không nên quên là chúng ta sẽ đứng trước sự phán xét của
lịch sử. Lịch sử sẽ lên án những kẻ có quyết định sai lầm, nhưng đừng nghĩ là
những người đương thời vô can. Hèn nhát trong chiến tranh rồi cũng có cách để
bào chữa, và thực tế, mười mấy năm qua, biết bao kẻ hèn nhát, trốn tránh trong
chiến tranh đã rũ sạch tội lỗi, để tranh nhau quyền chức. Nhưng ngày hôm nay,
khi đã có không khí dân chủ, khi làn gió đổi mới đã thổi mạnh, mọi sự sớm muộn
sẽ được công khai, thì hèn nhát là tự đào huyệt chôn sống mình, cả uy tín xã hội
bây giờ, và chút nào là tài năng thể hiện trong những tác phẩm đã có.
Khi nhà văn vào bệnh viện, truyện vừa Phiên chợ Giát mới
phác thảo được vài mươi trang. Những ngày trong bệnh viện, nói chung bác sĩ cấm
Anh làm việc, nhưng từ khi ở Chùa Pháp Hoa về, tập bản thảo đã được 60 trang,
và điều kỳ diệu, là Anh đã kịp hoàn thành trước khi rơi vào hôn mê, sau đó ít
lâu. Có lẽ đây là tiểu thuyết duy nhất và đầu tiên, nhà văn viết về những nhân
vật ở ngay quê hương mình, huyện Quỳnh Lưu, như một món nợ ân tình. Chống chọi
với bệnh hiểm nghèo, mà Người lính viết văn ngay trong những ngày cuối cùng vẫn
đau đáu nghĩ đến những nợ nần với bao nhiêu phát hiện mới, lúc mà sức đã tàn, lực
đã kiệt.
Tháng 1-1989, gần tết, những cành đào đã bán rong trên phố.
Buổi chiều vào thăm, thay vì mua hoa quả, tôi mang một cành đào, cắm vào chai
nước, như để báo với Anh, Tết đang về gần. Mấy cánh đào thỉnh thoảng rời cành
như đếm nhịp thời gian, báo một mùa xuân mới sắp về. Nhưng Nguyễn Minh Châu đã
không thể cố hơn được. Anh mất ngày 23-1-1989, nhằm ngày 16-12 năm Mậu
Thìn, lúc mới sang tuổi 59.
Người viết bài này đang vào tuổi 80, mới thấy tiếc biết bao.
Giá mà nhà văn Nguyễn Minh Châu còn có thêm 20 năm sống, thì không biết, văn học
chúng ta, bước khỏi không gian chiến trận, đã có thêm những trang viết mới mẻ về
con người Việt Nam trên hành trình hòa hợp, hòa hiếu, khoan dung để cùng nhau
xây dựng một cuộc sống xứng với những hy sinh vô lượng để có một đất nước Độc
lâp – Tự do – Hạnh phúc.
2/11/2019
Ngô Thảo
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét